Những biến động chính trị đang
diễn ra trong nội bộ các nước Cộng sản là những biến cố lịch sử đánh dấu một giai đoạn đấu tranh mới
của các dân tộc bị áp bức.
Một số học giả Tây phương quen giải thích các biến cố trên bằng những lập luận cho rằng các chế độ Cộng sản đang chuyển mình trên tiến trình dân chủ hoá khiến cho các lực lượng đối lập có cơ hội vùng lên chống đối. Lập luận trên mới chỉ là "một nửa của sự thật" (Pseudo-truth), và một nửa của sự thật ở đây là một sự sai lầm, một sự lẫn lộn nguyên nhân với hậu quả.
Đúng ra, người
ta phải nói rằng các lực lượng
bị áp bức đã vùng lên đấu tranh và đẩy tập đoàn Cộng sản thống trị tới chỗ phải
nhượng bộ từng bước một, tạm thời thoả mãn một cách hạn chế những đòi hỏi
dân chủ của nhân dân bị áp bức và mặc dầu bị bắt buộc phải nhượng bộ, tập đoàn
Cộng sản thống trị chỉ chịu lùi bước theo chiến thuật giai đoạn, trong khi đó vẫn
luôn luôn tìm cách quật lại đối phương để giành lại ưu quyền chuyên chính, bất
cứ khi nào chúng có thể làm được chuyện đó.
Một khía cạnh đặc
biệt thứ hai của các biến động chính trị nói trên làcuộc đấu tranh của các lực
lượng bị Cộng sản áp bức đều mang tính chất phi quy ước. Tuy hoàn cảnh đấu
tranh của mỗi dân tộc và trình độ ý thức của mỗi lực lượng đấu tranh có khác
nhau, nhưng bản chất chỉ là một. Một đặc điểm thứ ba của các biến động nói trên
là trong các cuộc đấu tranh phi quy ước ngày nay, các chế độ Cộng sản đang ở thế thụ
động, và các lực lượng quần chúng đấu tranh đang ở thế chủ động. Nghĩa là
các lực lượng này đang xoáy sâu vào những điểm yếu của Cộng sản để làm cho
chúng càng ngày càng suy yếu thêm và cuối cùng bị toàn dân lật đổ. Vấn đề đặt
ra ở đây là các thế lực tài phiệt Tây phương vẫn có khuynh hướng chỉ nhìn thấy
"một nửa của sự thật", quen lẫn lộn nguyên nhân với hậu quả. Và như
thế, liệu họ có nhảy xổ vào để cứu nguy và tiếp sức cho các tập đoàn Cộng sản
thống trị phục hồi sức mạnh để tiếp tục củng cố sự đàn áp hay không? Đó là điều
mà ta sẽ thảo luận trong một dịp khác.
Trong phạm vi
bài này, những biến động chính trị hiện nay nhắc nhở chúng ta nhớ lại những cuộc
khởi nghĩa tại Ponan, Budapest, vụ án Hồ Phong ở Trung Quốc, và vụ "Trăm
Hoa Đua Nở" trên đất Bắc cùng thời với cuộc khởi nghĩa của nông dân ở Quỳnh
Lưu, Nghệ An, cách đây 33 năm. Đó là những cuộc đấu tranh phi quy ước của các lực
lượng bị áp bức, nhưng, hoàn cảnh đấu tranh thời đó đã đặt các lực lượng chống
đối ở thế bị động, cô lập và bị đập tan. Mặt khác, ở Việt Nam lúc đó, Việt cộng cũng sử dụng hình thái chiến tranh
phi quy ước để đàn áp, tiêu
diệt các lực lượng chống đối vì lúc đó chúng đang nắm ưu thế chủ động.
Nội dung của
bài nghiên cứu này và loạt bài nghiên cứu sắp tới nhằm trình bày hình thái chiến
tranh phi quy ước mà Việt cộng đã sử dụng để củng cố bộ máy thống trị miền Bắc,
mở rộng địa bàn "ỷ dốc" Miên-Lào trong tiến trình xâm chiếm miền Nam.
Những chủ đề
quan trọng mà chúng ta sẽ thảo luận trong loạt bài nghiên cứu sắp tới gồm có:
- Cuộc Cải tạo
Nông nghiệp tại Bắc Việt.
- Cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.- Kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất chuẩn bị xâm chiếm miền Nam.
- Mặt trận Lào trong chiến lược xâm chiếm miền Nam.
- Đoàn hậu cần chiến lược 559 trên đường mòn Hạ Làọ
- Cuộc chiến tranh không tập tại Bắc Việt.
Vì khuôn khổ giới hạn của một bài báo, mỗi chủ đề sẽ được trình bày làm hai, ba kỳ. Ví dụ, chủ đề "Cuộc Cải tạo Nông nghiệp tại Bắc Việt" sẽ được trình bày với những tiết mục chính sau đây:
- Những vấn đề
căn bản của cuộc Cải tạo Nông nghiệp.
- Bối cảnh cuộc cuộc Cải tạo Nông nghiệp.
- Chiến lược và sách lược của Việt cộng trong cuộc cải tạo Nông nghiệp.
- Diễn tiến của cuộc Cải tạo Nông nghiệp.
- Hậu quả của cuộc Cải tạo Nông nghiệp.
- Bối cảnh cuộc cuộc Cải tạo Nông nghiệp.
- Chiến lược và sách lược của Việt cộng trong cuộc cải tạo Nông nghiệp.
- Diễn tiến của cuộc Cải tạo Nông nghiệp.
- Hậu quả của cuộc Cải tạo Nông nghiệp.
Trong bài phân
tích này chúng ta sẽ lần lượt điểm qua một cách tổng quát ba tiết mục đầu tiên
nói trên.
I. Những Vấn Đề
Căn Bản
Của Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Vào tháng Mười năm 1987, nông dân
tại một số tỉnh thuộc đồng bằng Cửu Long đã biểu tình chống đối Việt cộng vì những
hành động tham nhũng và cướp giật ruộng đất do cán bộ Việt cộng chủ xướng nhân
cuộc "cải cách ruộng đất năm 1983".
Ngày 9 tháng 11,
1987, hàng trăm nông dân từ các tỉnh miền Tây đã tổ chức biểu tình chống chính
quyền Việt cộng ngay tại Sài Gòn. Pháp Tấn Xã tại Sài Gòn mô tả một tình trạng
náo loạn chưa từng thấy kể từ năm 1975. (Thật ra, kể từ khi Việt cộng trục xuất
các phóng viên báo chí và truyền hình ra khỏi Việt Nam vào năm 1976 thì truyền
thông Tây phương hầu như mù tịt về tình hình Việt Nam. Mãi cho tới 1986, 1987,
khi Nguyễn Văn Linh cho phép báo chí, truyền hình Tây phương trở lại Việt Nam
trong mục đích ve vãn dư luận quốc tế, thì báo chí mới bắt đầu nhìn thấy một số
hiện tượng bề ngoài với một mức độ hạn chế).
Những biến cố nói
trên tương đối ôn hoà nếu ta so sánh với vụ Khởi nghĩa của Nông dân Quỳnh Lưu bị
đàn áp đẫm máu vào năm 1956, vụ thanh niên Nam Bộ tập kết đốt phá bót Cảnh sát
bờ hồ Hà Nội, vụ đảng viên Việt cộng tìm nhau để chém giết trả thù nhân vụ Cải
tạo Nông nghiệp đưa đến biện pháp "sửa sai". Lý do chính khiến có sự
khác biệt về mức độ bạo động là vì hoàn cảnh chính trị đã khác nhiều; năm 1983,
bạo quyền Việt cộng đã cực kỳ suy yếu, ruỗng nát so với năm 1956, và nhân dân
ta ở trong Nam đã được tổ chức và hướng dẫn để đề kháng một cách hữu hiệu hơn
thời gian 30 năm trước. Do đó, Việt cộng đã không dám thực hiện các biện pháp mạnh
tay trong chính sách ruộng đất. Mặc dầu hai cuộc Cải cách Ruộng đất có khác
nhau ở mức độ sắt máu; nhưng, những vấn đề căn bản của cả hai cuộc Cải cách Ruộng
đất của Việt cộng chỉ là một: Đó là các vấn đề Bản Chất, Mục Tiêu và Hậu Quả.
1. Bản Chất Của
Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Quan niệm Cải cách Ruộng đất
không phải là quan niệm mới mẻ. Montesquieu, trong tác phẩm "Espuis des
Lois" năm 1748, có viết rằng:"Trong một nền dân chủ tốt, chia đều
đất đai chưa đủ; cần phải chia nhỏ ruộng đất như người La Mã đã làm" (xem tác phẩm "Espuis des
Lois", quyển V, chương VI). Trong các chế độ dân chủ, bản chất của Cải
cách Ruộng đất là hữu sản hoá dân nghèo để giúp họ có cơ hội phát triển và xây
dựng đời sống kinh tế bắt đầu từ mảnh đất mà họ làm chủ, dù chỉ là một mảnh đất
nhỏ.
Trong các chế độ Cộng
sản, bản chất của Cải cách Ruộng đất là đảo lộn toàn bộ tổ chức xã hội bằng
cách phế bỏ quyền tư hữu đối với tất cả ruộng, đất, vườn, ao, hoa màu, trâu bò
và dụng cụ sản xuất như cày, bừa, cuốc, xẻng, cối xay lúa, cối giã gạo, v.v....
Nói theo ngôn ngữ Việt cộng, đó là tiến hành cuộcCách Mạng Quan Hệ Sản Xuất trong đó có việc thay đổi quyền làm chủ đất đai, quyền làm chủ
tư liệu sản xuất, và thay
đổi quan hệ giữa người với người (tức
là tương quan chủ - thợ). Có lẽ sự thay đổi tương quan chủ - thợ có tầm ảnh hưởng
quan trọng nhất đối với số phận của tất cả mọi nông dân từ bần nông đến chủ đất,
vì nó biến họ vĩnh viễn thành những người thợvô
sản phục vụ cho chủ nhân ông Cộng sản, trong một tương quan na
ná hoặc tệ hơn một nông nô dưới chế độ phong kiến. Một hệ luận quan trọng của
việc phế bỏ quyền tư hữu là sự tập trung đất đai vào tay nhà nước trong chế độ
Cộng sản, thay vì chia nhỏ đất đai như trong một chế độ dân chủ. Điều này không
phải là điều tình cờ phù hợp với mục tiêu của Cải cách Ruộng đất mà ta đề cập
dưới đây.
2. Mục Tiêu Của
Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Mục tiêu tối hậu của việc phế bỏ
quyền tư hữu đất đai là để giành giật khả năng và quyền lực chính trị khỏi tay
nông dân, và tập trung quyền lực chính trị đó vào tay chế độ chuyên chính vô sản.
Những người thợ và trí thức vô sản bị mất hết quyền lực chính trị vì họ bị khống
chế bởi tên chủ Việt cộng qua hệ thống hộ khẩu và chế độ bình công chấm điểm. Họ chỉ được
đủ ăn tới một mức... lúc nào cũng còn đói, nếu họ tuân theo những quy luật do
"tên chủ" Việt cộng đề ra.
Trong tay họ không có tài sản, không có tiền,
không có vũ khí; họ bị cô lập bởi hệ thống công an, bởi thế; về phương diện quyền
lực chính trị, mỗi nông dân là một con số không trong chế độ Cộng sản. Trong một
chế độ dân chủ, một nông dân dù nghèo rớt cũng còn có một chút vốn kinh tế vì họ
còn làm chủ được tấm thân của họ, nghĩa là họ còn có một chút quyền lực chính
trị. Đem gom góp hàng triệu những quyền lực chính trị nho nhỏ đó, người ta có
thể tạo nên một thế lực tương đối lớn để tự bênh vực mình.
Trong chế độ Cộng
sản, nếu đem gom góp một triệu con số không (của quyền lực chính trị của mỗi
nông dân), ta cũng vẫn chỉ được một con số không thiệt to. Hiểu được như thế,
ta hiểu được hậu quả của cuộc cải cách ruộng đất đối với việc củng cố bộ máy
đàn áp kềm kẹp của Việt cộng ở miền Bắc.
3. Hậu Quả Ngắn Hạn
Của Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Qua sự tập trung đất đai, phương
tiện sản xuất và đoàn ngũ hoá nông dân thành giai cấp nông nô sau cuộc Cải tạo
Nông nghiệp, Việt cộng hoàn toàn nắm hết tài nguyên, lương thực, khởi sự xây dựng
các nông trường quốc doanh, chuẩn bị đạo quân xâm lược Lào và miền Nam Việt Nam
(Việt cộng gọi là lấy lương thực phục vụ chiến trường "C" và
"B").
Hậu quả trước mắt của cuộc Cải tạo Nông nghiệp là giúp Việt cộng
xây dựng cơ sở vật chất để tiến hành chiến tranh. Hậu quả pháp lý của cuộc Cải
tạo Nông nghiệp là việc định chế hoá các cơ cấu quyền lực địa phương để tiến
hành đấu tranh phi quy ước trong nội bộ chống lại nhân dân miền Bắc. Nói một
cách rõ hơn, các hợp tác xã nông nghiệp tại địa phương chính thức trở thành các
cơ sở ban phát quyền lợi, thực thi chính sách và Bí thư Hợp tác xã, Bí thư Chi
bộ xã là những kẻ có toàn quyền sinh sát tại nông thôn đã biến thành các cường
hào ác bá dưới triều đại xã hội chủ nghĩa của "Rợ Hồ". Tóm lại, những
hậu quả ngắn hạn và trước mắt là những điều có lợi cho việc củng cố quyền lực
chính trị của giai cấp thống trị Cộng sản. Nhưng, hậu quả về lâu về dài là một
vấn đề khác.
4. Hậu Quả Dài Hạn
Của Cải Tạo Nông Nghiệp
Là một vấn đề mà Lênin, Stalin,
Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh và cấp đầu lãnh các Đảng Cộng sản không nhìn thấy,
hoặc vì ảo tưởng trên mây nên đã nhìn sai và tiên đoán sai. Đó là những vấn đề
liên quan đến năng suất lao động, năng suất đất đai, cơ cấu sản xuất và thị trường,
đưa đến những bế tắc trong nền kinh tế của mọi quốc gia Cộng sản.
Vì chủ quan
nghĩ rằng quyền lực chính trị có thể giải quyết và "cả vú lấp miệng
em" đối với mọi bài toán trong xã hội, các cấp đầu lãnh Cộng sản, và Việt
cộng nói riêng, đã bị vỡ mặt khi những bế tắc kinh tế vượt ra ngoài khả năng kiểm
soát của Đảng và các cơ cấu quyền lực chính trị địa phương biến thành các
"sứ quân" tự chuyên, tự quản nền kinh tế quốc gia. Nhưng, đây là những
chi tiết mà ta sẽ thảo luận khi đi sâu vào các bài nghiên cứu sắp tới.
Một câu hỏi được đặt
ra ở đây là cuộc Cải tạo Nông nghiệp tại Bắc Việt đã diễn ra trong hoàn cảnh
nào? Để trả lời câu hỏi này, loạt bài nghiên cứu sắp tới sẽ trình bày về bối cảnh
Địa lý, Kinh tế, Xã hội và Chính trị của giai đoạn 1949-1957 được tóm lược
trong Phần II dưới đây.
II. Bối Cảnh Của
Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Cuộc Cải tạo Nông nghiệp tại miền
Bắc có thể được coi như bắt đầu kể từ Sắc luật Giảm tô số 78/SL ngày 14 tháng 7
năm 1949 và chính sách thuế nông nghiệp của chính quyền kháng chiến nằm trong
toàn bộ của chính sách thuế khoá gồm cả thuế Công-Thương nghiệp, sát sinh,
Lâm-Thổ sản, xuất nhập cảng, v.v... ra đời từ ngày 1 tháng 7 năm 1951 do Sắc luật
số 42/SL của Hồ Chí Minh.
Chính sách thuế
Nông nghiệp là phát súng khởi đầu cho các chiến dịch "phân mảnh định hạng"
các loại ruộng, "bình sản lượng", "bình diện tích" mỗi mảnh
đất để làm căn bản tính thuế, sau đó tiến lên chiến dịch "chống phản động",
"đấu tranh giảm tô" kéo dài tới năm 1954 chỉ được tạm chấm dứt khi
chiến trường Điện Biên Phủ bắt đầu nghiêm trọng và đưa đến Hiệp định Genève.
Sau đó, Việt cộng miền Bắc đã tạm ngưng cuộc đấu tranh Cải cách Ruộng đất tới
cuối năm 1955, đầu năm 1956, vì ba lý do:
- Việt cộng còn phải đối phó với phong trào di cư và cuộc đàn áp dân Ba Làng v.v...
- Việt cộng còn phải che dấu thủ đoạn tàn bạo để trấn an lòng dân, che mắt các quan sát viên quốc tế, và ổn định tình hình nội bộ.
Giai đoạn thứ hai của đấu tranh Cải cách Ruộng đất bắt đầu từ cuối năm 1955 đầu 1956 trong đợt phóng tay phát động quần chúng đấu tranh Cải cách Ruộng đất và lên đến mức độ tàn bạo nhất trong đợt cải cách Điện Biên Phủ. Để cho cuộc Cải cách Ruộng đất được nhanh chóng và đồng đều, tại những vùng mới tiếp thu và đồng bằng sông Nhị Hà, Việt cộng đã tiến hành hai cuộc "đấu tranh giảm tô" và "đấu tranh Cải cách Ruộng đất" vào một lần. Thể thức đấu tranh cải cách ruộng đất cũng giống như đấu tranh giảm tô, chỉ kháng ở mức độ tàn bạo gia tăng và con số nạn nhân cũng gia tăng do sự "càn đi, quét lại" và "tích tỷ lệ" mà ta sẽ được giải thích trong những bài phân tích sắp tới.
Điều đáng chú ý là
chính sách Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc đã rập khuôn chính sách Cải cách Ruộng
đất của Trung Quốc mà không có sự chế biến cho hợp với hoàn cảnh và tình trạng
nông nghiệp ở nước ta.
Hình:Cải cách Ruộng đất của CS Trung Quốc
Hình:Cải cách Ruộng đất của CS Trung Quốc
Các cán bộ Việt cộng
có nhiệm vụ trong cuộc Cải
cách Ruộng đất đã học tập
kinh nghiệm của cán bộ Cộng sản Trung Quốc trong cuộc Cải cách Ruộng đất ở Hồ
Nam, quê hương của Mao Trạch Đông. Tại Trung Quốc, gia cấp địa chủ điển hình
còn mang nặng tính chất phong kiến lãnh chúa. Ngoài đồng ruộng thẳng cánh cò
bay, một địa chủ điển hình còn có lâu đài, dinh cơ vàquân lính riêng để bảo vệ
sản nghiệp cũng như để đàn áp, bóc lột nhân dân. Trong cuộc Cải cách Ruộng đất ở
miền Bắc, một số lớn những người bị gán là "địa chủ đại gian đại ác"
thường chỉ có mấy mẫu ruộng hoặc ít hơn, nhưng thuộc thành phần có uy tín ở nông thôn, và có thể trở thành chống đối Đảng và
Nhà nước.
Vậy, yếu tố giành
giật độc quyền chính trị là yếu tố quan trọng nhất của Cải cách Ruộng đất, và
do đó, Cải cách Ruộng đất là cơ hội ngàn năm một thuở để Việt cộng đánh quỵ cả
thế lực tinh thần của Giáo hội Công giáo. Nhiều vị Linh mục Công giáo cũng bị bắt,
bị tra khảo và bị giết, trong đó có Cha Thanh, đã từng là Linh mục giảng huấn tại
Tiểu Chủng viện Ba Làng năm 1949-1950, một vị chân tu, hiền lành và đạo đức
cũng bị sát hại một cách dã man trong tù.
Hình:Cải cách Ruộng đất của CS Vietnam
Hình:Cải cách Ruộng đất của CS Vietnam
Một cuộc cải cách
tàn bạo, dã man nhất trong lịch sử Việt Nam từ hồi lập quốc do chính người Việt
Nam để đàn áp chính người Việt Nam, tại sao có thể thành công được? Câu trả lời
nằm trong chiến lược và sách lược của Việt cộng trong Cải cách Ruộng đất.
III. Chiến Lược
Và Sách Lược Cải Cách Ruộng Đất
Những cuộc nghiên cứu qua các
nhân chứng của cuộc cải cách ruộng đất đã cho người ta một tầm nhìn sâu và rộng
đối với quan niệm chiến lược của Việt cộng. Một số cán binh Việt cộng xâm nhập
từ Bắc vào Nam và sau đó ra hồi chánh đã cung cấp những dữ kiện vừa phong phú,
vừa chi tiết và cụ thể giúp ta nhìn thấy những đường đi, nước bước có lớp lang
của Việt cộng, những chuẩn bị rất công phu, những mưu mô lừa bịp tinh vi, che mắt
ngay cả những đảng viên Việt cộng từng vào sinh ra tử trong kháng chiến.
Hồi chánh viên
Nguyễn Văn Thân, Kỹ sư Thuỷ Lợi, thuộc Bộ Thuỷ Lợi Bắc Việt, trước kia đã tham
gia cải cách ruộng đất tại Xóm Chuối tỉnh Ninh Bình, tóm tắt quan niệm chiến lược
của Việt cộng như sau:
"Theo tài liệu
của Đại hội Đảng chuẩn bị cho cải cách ruộng đất thì việc đấu tranh giai cấp giữa
địa chủ và nông dân đã được đặt ra ngay từ khi thành lập Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Họ nhận xét rằng từ 90% đến 95% dân chúng Việt Nam là nông gia chuyên nghiệp,
và trong số này thì chỉ có khoảng 5% là địa chủ phú nông, còn đa số đều là kẻ
làm thuê, làm mướn, tá canh, tá điền; do đó, nếu muốn làm cách mạng xã hội, họ
phải lôi cuốn được khối đa số đó, phải thỏa mãn khối đa số đó bằng quyền lợi để
sau này nắm chặt khối đa số đó bằng sắt máu...".
Lời tiết lộ ở
trên chẳng những tóm tắt quan niệm chiến lược mà còn phát hiện cả sách lược của
Việt cộng. Như ta đã từng định nghĩa:
Chiến lược
là toàn bộ một kế hoạch nhằm vận dụng sức mạnh căn bản để đánh trúng địch bằng
những đòn chí tử cho tới khi nó gục ngã.
Và sách lược
cũng là toàn bộ một kế hoạch như chiến lược, duy có một điểm khác là để đạt mục
tiêu, toàn bộ kế hoạch sử dụng những mưu kế để lừa địch, dụ khị địch và qua mặt địch.
Khi quan niệm rằng
đa số dân Việt Nam là nông dân và đa số nông dân là khối người nghèo và cần phải
lôi cuốn được đa số đó, Việt cộng đã nói lên được khía cạnh chiến lược của vấn
đề. Sau hết, khi chủ trương phải thỏa mãn khối đa số đó bằng quyền lợi để sau
này nắm chặt khối đa số đó bằng sắt máu, Việt cộng nói lên khía cạnh sách lược
tức là phương án lừa bịp và dụ khị, qua mặt địch. Lừa bịp, dụ khị và qua mặt địch
như thế nào thì đó là những chi tiết kế hoạch sẽ được trình bày trong nhiều bài
sắp tới....
Trong kế hoạch nắm vững toàn bộ
nông thôn miền Bắc, Cộng sản phải tiến qua nhiều giai đoạn, theo một kỹ thuật
tinh vi bắt đầu bằng cuộc Cải cách Ruộng đất được Đảng mệnh danh là "một
cuộc cải cách long trời lở đất" mà hậu quả là khiến cho người dân trở thành
một đoàn người khiếp sợ Đảng, đến độ bảo sao cắm đầu nghe vậy, không dám oán
than ngay cả với người thân trong gia đình.
Nhưng, bắt đầu
một cách rất nhẹ tay, năm 1951, Cộng sản Việt Nam lập ra một thứ thuế nông nghiệp
đánh vào tất cả những ai có ruộng, vườn trồng trọt được hoa màu. Đến năm
1952-1953 là giai đoạn áp dụng chính sách giảm tô mà thí điểm là khu Tư như
Hoàng Hoá, Phú Thiện và vùng Trung du Bắc Việt như Bắc Giang, Phú Thọ, v.v...
Chính sách giảm tô đã làm cho hàng ngũ địa chủ kinh sợ, xuống tinh thần. Các tầng
lớp phú nông, trung nông lo lắng, và sốt sắng tham gia cách mạng để cầu an vì sợ
bị xếp hạng vào thành phần địa chủ. Trái lại, các tầng lớp bần nông, cố nông
thì sung sướng, thỏa mãn. Đến năm 1954, chính sách được áp dụng ở Nghệ An và
Trung du Bắc Việt, mặc dầu ở mức tương đối tàn bạo, nhưng so với năm 1956 hãy
còn được coi là... ôn hòa.
Từ 1954 đến
1955, chính sách Cải cách Ruộng đất tạm ngưng tiến hành vì Việt cộng đặt nặng vấn
đề chống phong trào di cư, tranh thủ quần chúng để giữ dân ở lại.
Tới giữa năm
1955, cuộc di cư hoàn tất, việc phân chia lãnh thổ đã rõ ràng, chính quyền Cộng
sản bắt đầu áp dụng chính sách Cải cách Ruộng đất trên toàn lãnh thổ Bắc Việt.
Việc áp dụng được thi hành theo từng đợt, mỗi đợt từ 1 tới 3 tháng với khẩu hiệu: "dựa vào bần cố nông, đoàn kết
trung nông, liên hiệp phú nông, đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ".
Trong phạm vi
bài này, ta sẽ nghiên cứu Thời Kỳ Đấu Tranh Cải Cách Ruộng Đất trước năm 1954,
và bài kế tiếp sẽ nghiên cứu chi tiết thời kỳ sau 1954....
Dựa theo kinh nghiệm
đấu tranh tại Hoa Lục, cuộc Cải cách Ruộng đất tại Bắc Việt lần lượt trải qua
các giai đoạn căn bản sau đây:
- Giai đoạn thi
hành chính sách thuế nông nghiệp.
- Giai đoạn phóng tay phát động quần chúng đấu tranh chống phản động (đấu tranh
chính trị).- Giai đoạn phóng tay phát động quần chúng đấu tranh giảm tô giảm tức.
- Giai đoạn phóng tay phát động quần chúng đấu tranh Cải cách Ruộng đất.
Nếu hiểu như trên thì, trong Kế hoạch Cải cách Ruộng đất, hai giai đoạn đầu là phần chìm hay là phần chuẩn bị, giai đoạn đấu tranh giảm tô là phần làm thử để rút tỉa kinh nghiệm, và giai đoạn sau chót là phần nổi hay là phần thực hiện. Để nắm vững toàn bộ Kế hoạch Cải cách Ruộng đất của Cộng sản Việt Nam, ta hãy quay trở lại giai đoạn 1951, khi chính sách thuế nông nghiệp mới được ban hành.
0000000000000000000000000000000000000000000000000000000000000000000000000000000
Thời Kỳ Trước Hiệp Định Genève 1954
I. Chính sách Thuế
Nông Nghiệp
Như đã nói trong bài trước, chính
sách thuế nông nghiệp của Chính
quyền Kháng chiến nằm trong
toàn bộ chính sách thuế khoá gồm cả thuế Công nghiệp, Thương nghiệp, Sát sinh,
Lâm sản, Thổ sản, Xuất nhập cảng v.v... ra đời từ ngày 1 tháng 7 năm 1951 do sắc
lệnh số 40/SL. Nhưng, trong tất cả mọi thứ thuế thì thuế Nông nghiệp là nguồn lợi
căn bản thay thế các loại thuế có từ trước như thuế ruộng đất, đảm phụ Quốc
phòng, công phiếu Kháng chiến, ủng hộ chiến sĩ mùa Đông v.v.... Thuế Nông nghiệp
nhằm cung ứng một số lượng lương thực và tài chánh lớn lao cho Việt cộng trong
nỗ lực chiến tranh ngày càng cấp bách và nặng nề.
Hai nữa là, một phần
của chính sách Cải cách Ruộng đất, thuế Nông nghiệp là một đòn phủ đầu để đánh
quỵ những thành phần có nhiều ruộng đất, mà chưa cần dùng tới bạo lực. Một số địa
chủ không chịu nổi thuế cao quá, phải tự động hiến ruộng đất cho Đảng và Nhà nước
(lúc đó còn mệnh danh là"Chính quyền Kháng chiến"). Một số
khác, nếu không hiến đất cho Đảng và Nhà nước, dĩ nhiên sẽ không đủ sức nộp thuế
theo đúng sự đòi hỏi của Nhà nước. Như thế là chính họ đã gián tiếp kết bản án
cho mình trong giai đoạn sắp tới.
Sau hết, trong việc
thi hành chính sách thuế Nông nghiệp, Cộng sản để cho dân bình nghị lẫn nhau, nghĩa là người nọ ấn định mức
lợi tức của người kia để cán bộ dựa vào đó bổ
thuế theo tỷ lệ thuế của
chính quyền. Khi để cho dân chúng bình nghị lẫn nhau, Cộng sản đã tự đề cao là
chúng theo chính sách dân chủ,
nhưng thực ra, dụng ý của Đảng là mượn
tay người để đánh người, gây mầm đấu tranh căn bản theo chiến thuật của Cộng
sản là "lấy mâu thuẫn diệt
mâu thuẫn".
Theo tài liệu
chính thức, được phổ biến trên tờ Cứu
Quốc số 2080 ngày 6-7-1952,
thì tất cả những nông dân nào có mức lợi tức trung bình từ 71Kg gạo một năm trở
lên đều phải nộp thuế. Thuế Nông nghiệp là thứ thuế lũy tiến, lợi tức càng lớn
thì tỷ lệ thuế càng cao.
Phân Hạng Thuế Nông Nghiệp
|
||
Phân hạng
|
Phân hạng Lợi tức
trung bình
mỗi đầu người |
Tỷ lệ thuế
|
1
|
từ 71Kg tới 95Kg
|
5%
|
2
|
96Kg - 115Kg
|
6%
|
3
|
116Kg - 135Kg
|
7%
|
4
|
136Kg - 155Kg
|
8%
|
5
|
156Kg - 175Kg
|
9%
|
6
|
176Kg - 205Kg
|
10%
|
7
|
206Kg - 235Kg
|
11%
|
8
|
236Kg - 265Kg
|
12%
|
9
|
266Kg - 295Kg
|
13%
|
10
|
296Kg - 325Kg
|
14%
|
11
|
326Kg - 355Kg
|
15%
|
12
|
356Kg - 385Kg
|
16%
|
13
|
386Kg - 425Kg
|
17%
|
14
|
426Kg - 465Kg
|
18%
|
15
|
466Kg - 505Kg
|
19%
|
16
|
506Kg - 545Kg
|
20%
|
17
|
546Kg - 585Kg
|
21%
|
18
|
586Kg - 625Kg
|
22%
|
19
|
626Kg - 665Kg
|
23%
|
20
|
666Kg - 705Kg
|
24%
|
21
|
706Kg - 775Kg
|
25%
|
22
|
776Kg - 805Kg
|
26%
|
23
|
806Kg - 855Kg
|
27%
|
24
|
856Kg - 905Kg
|
28%
|
25
|
906Kg - 955Kg
|
29%
|
26
|
956Kg - 1005Kg
|
30%
|
27
|
1006Kg - 1055Kg
|
31%
|
28
|
1056Kg - 1105Kg
|
32%
|
29
|
1106Kg - 1155Kg
|
33%
|
30
|
1156Kg - 1215Kg
|
34%
|
31
|
1216Kg - 1275Kg
|
35%
|
32
|
1276Kg - 1335Kg
|
36%
|
33
|
1336Kg - 1395Kg
|
37%
|
34
|
1396Kg - 1455Kg
|
38%
|
35
|
1456Kg - 1515Kg
|
39%
|
36
|
1516Kg - 1575Kg
|
40%
|
37
|
1576Kg - 1635Kg
|
41%
|
38
|
1636Kg - 1695Kg
|
42%
|
39
|
1696Kg - 1755Kg
|
43%
|
40
|
1756Kg - 1815Kg
|
44%
|
41
|
1816Kg trở lên
|
45%
|
Theo bảng phân hạng thuế
này thì, trên lý thuyết, tỷ lệ thuế tối đa là 45% mức lợi tức trung bình, nhưng
trên thực tế, qua kỹ thuật "bình nghị", chính quyền có thể khiến một
người khá giả phải đóng thuế tới... 100% lợi tức. Ví dụ: Mức lợi tức trung bình
của nông dân A là 1800Kg, chính quyền có thể vận động để dân "bình nghị",
gán cho nông dân A mức lợi tức là... 4000Kg và khi phải đóng theo tỷ lệ 45%
thành 4000 X 45/100 = 1800Kg, thế là nông dân A bị phá sản, vì làm được bao
nhiêu phải nộp thuế hết.
Trước khi bình nghị,
cán bộ Đảng lãnh đạo việc "phân
mảnh định hạng" tức là xếp
hạng từng mảnh ruộng tùy theo đất cao, thấp, tốt, xấu theo thứ tự A, B, C
v.v....
Kỹ thuật bình nghị
gồm có "bình sản lượng" và "bình
diện tích". Khi đã "phân mảnh định hạng" xong, cán bộ thuế
triệu tập nông dân, gồm tá điền và chủ điền, để "bình sản lượng", tức
là ấn định mức năng suất của một mảnh ruộng. Điểm cốt yếu của kỹ thuật
"bình sản lượng" là Đảng dùng những phần tử cốt cán là các tá điền có
đảng tịch, hoặc có cảm tình với Đảng để "bình sản lượng".
Những người này
xác nhận mảnh ruộng do mình canh tác có một sản lượng thật cao. Dĩ nhiên, người
chủ điền hay những người có mảnh ruộng kế cận, cùng một hạng, phải chấp nhận mà
không có cách gì thanh minh; bởi vì, trên danh nghĩa, người tá điền là người trực
tiếp cày cấy trên mảnh ruộng và biết được năng suất của mảnh ruộng. Nếu người
chủ đất khai báo một năng suất thấp, mọi người dễ dàng tin rằng chủ đất đã khai
gian để trốn thuế. "Bình diện tích" nghĩa là xác định lại diện tích của từng thửa ruộng. Mặc dù trong trích lục của mỗi thửa
ruộng đều có ghi diện tích đó, nhưng cán bộ thuế không chấp nhận, viện cớ rằng
nhân viên của Chính phủ Bảo hộ thời xưa đã ăn tiền của chủ điền mà bớt diện
tích để bớt thuế.
Dĩ nhiên, khi
"bình diện tích" thì bao giờ thửa ruộng cũng bị gán cho một diện tích
lớn hơn, mặc dù không có đo lường chính xác. Sau khi đã "bình sản lượng"
và "bình diện tích" thì tổng số thu hoạch của một thửa ruộng chính là
sản lượng nhân với diện tích. Ví dụ: Một thửa ruộng có diện tích 3 mẫu và có sản
lượng 2 tấn mỗi mẫu, thì tổng số thu hoạch của thửa ruộng là 3 mẫu X 2tấn/mẫu =
6 tấn mỗi năm.
Giai đoạn áp dụng
chính sách thuế Nông nghiệp đã hoàn toàn thành công, với kết quả là chính quyền
vơ vét được một số lượng tài lực lớn lao, đồng thời gây nên được mầm mống mâu
thuẫn "bình nghị".
Tới đây, ta
cần ôn lại một số danh từ và lề lối làm ăn sinh sống của nông dân trong giai đoạn
Cải cách Ruộng đất của Việt cộng. Những danh từ như tá điền, điền tốt, bần cố nông, bần
nông, trung nông, phú nông, địa chủ là
những danh từ chỉ các loại nông dân chuyên nghiệp tùy theo mức độ tài sản mà họ
có.
Một bần nông, theo định nghĩa của
Việt cộng, là một nông dân nghèo không có đất đai để cày cấy, hoặc chỉ có mấy
sào ruộng là tối đa. Một bần cố
nônglà một người suốt đời chỉ là một nông dân nghèo (vô sản). Một trung nông, theo định nghĩa của
Việt cộng, là một người có một vài mẫu ruộng trở lại. Một phú nông là người có cả chục mẫu ruộng trở lên.
Một trung nông hay phú nông có thể là một địa
chủ nếu người đó không trực
tiếp canh tác mà thuê người khác làm cho mình. Một điền tốt là một nông dân đi làm công cho một địa
chủ và được trả công như một người thợ. Một tá
điền là một nông dân mướn đất
của địa chủ với điều kiện phải trả một mức lời nào đó cho địa chủ, theo từng
mùa canh tác. Số lời đó được gọi là địa
tô và lối làm ăn như thế gọi
là "tá canh" hay "làm
rẽ". Số lời (địa tô) chia cho chủ đất có thể dưới hình thức tiền bạc
hoặc hoa màu; ví dụ như trong giai thoại ông Trạng Quỳnh cấy rẽ đất của Bà Chúa
(có lẽ thời Vua Lê, Chúa Trịnh). Những nông dân trực tiếp canh tác đất của mình
thì gọi là "trực
canh".
Trong thời kỳ chiến
tranh Việt-Pháp, một số đông nông dân bỏ vùng mất an ninh để về Tề, và Việt Minh đã khuyến
khích những người khác chiếm hữu đất đai bỏ lại để canh tác. Tình trạng này được
gọi là "chiếm canh",
một vấn đề tế nhị về chính trị, đã được chính quyền Quốc gia dưới chế độ Bảo Đại
giải quyết bằng cách chấp nhận cho những người chiếm canh được hưởng toàn bộ
hoa lợi do họ làm ra, tuy nhiên quyền sở hữu đối với ruộng đất vẫn thuộc chủ đất
nếu họ trở về canh tác (Thông
điệp đầu Xuân Ân lịch 1951 của Quốc Trưởng Bảo Đại).
Vấn đề định nghĩa
các thành phần bần nông, trung nông, phú nông và địa chủ là vấn đề rất quan trọng
đối với Việt cộng trong việc ngầm
xác định ai là đối tượng cần liên hiệp và ai là đối tượng cần tiêu diệt trong giai đoạn đấu tranh chính trị sắp
tới. Gọi là ngầm xác định vì, trong giai đoạn "Thuế Nông
Nghiệp", Việt cộng chưa công khai hoá chủ trương tiêu diệt địa chủ mà chỉ nhắm vào một số nạn nhân có
tính cách điển hình, và "tội danh" của họ dựa trên "căn bản pháp
lý" của Thuế Nông Nghiệp, chứ không phải trên căn bản thành phần giai cấp.
II. Giai Đoạn Đấu
Tranh Chính Trị
Như đã nói trong giai đoạn thi
hành Thuế Nông Nghiệp, Việt cộng đã dùng đảng viên xúi giục một số nông dân, nhất
là bần nông làm tá điền, gán cho những thửa ruộng mà họ cày cấy có một năng suất
rất cao, khiến cho người chủ đất phải trả một số thuế nhiều khi tới 100% hoặc
trên 100% số thu hoạch.
Người chủ đất nạn
nhân chỉ có hai sự lựa chọn, hoặc chịu đầu hàng bằng cách hiến đất cho Đảng và Nhà nước (lúc đó còn mệnh
danh là "Chính quyền Kháng chiến"), hoặc ỳ ra đấy vì không đủ sức nộp
thuế theo đúng sự đòi hỏi của Chính sách Thuế Nông nghiệp. Bằng cách thứ hai, họ
đã tự kết bản án cho mình trong Giai đoạn Đấu tranh Chính trị mà Việt cộng gọi
là "phát động quần chúng
đấu tranh chống phản động".
Trong giai đoạn
"phát động quần chúng đấu tranh chống phản động", Đảng Cộng sản nhắm
vào ba mục đích chính yếu.
Mục đích thứ nhất
là Đảng dùng bạo lực của quần chúng để đánh quỵ bớt một số phần tử lừng khừng
chống đối nguy hiểm, trong đó có một số địa chủ, nhưng Đảng chưa để lộ kế hoạch
đấu tranh giai cấp hạ địa chủ. Tất cả những phần tử bất mãn với chính sách của
Đảng, nhất là chính sách Nông nghiệp đều bị quy cho tội "phản động",
"thông với giặc".
Mục đích thứ hai
là Đảng chuẩn bị kỹ thuật đấu tranh bạo lực, luyện tập cho cán bộ quen với các
kỹ thuật xâm nhập. khai thác
mâu thuẫn, đấu tranh bạo động dành
cho cuộc Cải cách Ruộng đất.
Mục đích thứ ba là
Đảng muốn vơ vét dân công và tân binh, đồng thời làm áp lực thu thuế Nông nghiệp.
Đảng đã đạt được mục đích này vì nhiều người bở vía trước cuộc đấu tranh bạo lực
đã xung phong đi dân công hoặc đi tân binh, giúp Đảng giải quyết được nhu cầu cấp
bách của chiến tranh.
Cuộc "phát động
quần chúng đấu tranh chống phản động" đã lấy đề tài Thuế Nông nghiệp và Đảng
muốn nhóm họp Đại hội Nông dân để nêu câu hỏi: "Tại sao có người chưa
thanh toán thuế?".
Anh Nguyễn Văn
Thân, một hồi chánh viên, đã kể lại một cách tóm lược nội dung một buổi Đại hội
Nông dân như sau:
"Chủ tọa của buổi họp là những phần tử nông dân cốt cán,
nghĩa là đảng viên hoặc cảm tình viên, và họ đã nắm trong tay một danh sách những
phần tử cần phải triệt hạ. Khi nêu câu hỏi về việc thiếu thuế Nông nghiệp, chủ
tọa đoàn kêu tên một người thiếu thuế và ra lệnh du kích trói nạn nhân lại,
treo lên, rồi dùng cực hình tra tấn, đánh đập, mớm cung để nạn nhân khai tội
"chủ mưu xúi giục" cho những người có tên trong danh sách có sẵn, tức
là sổ đen của Đảng. Nhờ kỹ thuật này, Đảng đã bắt đầu bằng một người thiếu thuế
Nông nghiệp mà kết tội những phần tử đối lập chính trị nằm trong sổ đen, không
nhất thiết phải là những người thiếu thuế. Và, tất cả những tội nhân, sau khi bị
đánh đập tra tấn theo kỹ thuật mớm cung, lần lượt từ người này chuyền lan tội lỗi
sang người khác, họ bị giam giữ để chờ ngày ra Tòa án Quân sự Tỉnh".
Tóm lại, một nông
dân thiếu thuế Nông nghiệp được dùng làm đầu nối để triệt hạ những kẻ đối lập bị
Việt cộng mệnh danh là "việt gian", "phản động" hay
"theo Tây". Đó là điểm mấu chốt của phong trào "phát động quần
chúng đấu tranh chống phản động".
Cuộc "đấu
tranh chống phản động" được phát động vào khoảng cuối năm 1952, đầu năm
1953, đã làm nông thôn kinh hoàng nghẹt thở. Và kế tiếp theo đó, Đảng cho phát
động "đấu tranh giảm
tô" vào khoảng tháng 4
năm 1953.
III. Đấu Tranh Giảm
Tô
Cuộc "phóng tay phát động quần
chúng đấu tranh giảm tô giảm tức" là
cuộc thí nghiệm thực sự của kỹ thuật Cải cách Ruộng đất theo phương pháp Cộng sản.
Để phát động đấu
tranh, Đảng tổ chức những "Đội
đấu tố", gồm những cán bộ đã được Trung Cộng huấn luyện, và gửi họ xâm nhập vào làng. Những "Đội đấu tố",
này về sau trở thành các "Đội
Cải cách Ruộng đất", đã giả dạng làm nông dân và được các Uỷ ban Hành
chánh làng, xã giới thiệu tới cư ngụ tại những gia đình nghèo nhất trong xã.
Các Đội này áp dụng
một kỹ thuật tâm lý chiến rất tinh vi để mua chuộc cảm tình những gia đình nông
dân nghèo nơi họ cư ngụ, đó là kỹ thuật tam
cùng:cùng ăn (góp phần
ăn chung), cùng ở (cùng ở chung một nhà) và cùng làm(mà không lấy công).
Đây là giai đoạn chuẩn bị đấu tranh, một giai đoạn quan trọng nhất, gồm ba mục
tiêu:
- Mua chuộc tình cảm
nông dân nghèo.
- Gây căm thù giữa các nông dân nghèo đối với địa chủ và xúi giục họ đấu tranh.- Điều tra tỉ mỉ các gia đình khác trong làng, xã.
Kỹ thuật "tam
cùng" này rất thành công. Sau khi đã chịu sống cực khổ với bần nông, giúp
đỡ tận tình trong mọi công việc, mua chuộc được cảm tình của bần nông,
"cán bộ tam cùng" bắt đầu rỉ rả nhồi sọ, tuyên truyền cho bần nông
căm thù địa chủ là chính địa chủ đã gây nên cảnh cùng khổ cho họ. Sau khi gây
được căm thù, cán bộ tam cùng phải thuyết phục bần nông đứng lên đấu tranh tiêu
diệt địa chủ.
Khi đã thuyết phục
được một bần nông chịu đứng lên đấu tranh với địa chủ, cán bộ gọi là đã "xây dựng được một rễ".
Một "rễ" phải ưu tiên là một thân nhân gần nhất của địa chủ có tội, chẳng hạn như là vợ
bé, con gái, con nuôi, hoặc gia nhân,... vì trong trường hợp như vậy, những lời
tố cáo (vu oan giá họa) của "rễ" đối với địa chủ sẽ gây được xúc động
tâm lý mạnh mẽ hơn.. Nếu không tìm được người có liên hệ gần với địa chủ thì phải
tìm người có liên hệ xa, và nếu cùng quá không tìm được người có liên hệ xa gần
thì mới phải tìm người ngoài để "xây dựng rễ".
Khi đã xây dựng được
một rễ, lại có thể móc nối thêm các rễ khác làm thành một "chuỗi rễ". Trong trường
hợp cán bộ không thuyết phục được một "rễ" thuận ý đấu tranh với địa
chủ, cán bộ nói là "gặp
phải rễ thối". Sau bao nhiêu công lao "tam cùng", họ lại phải
đi tìm một "rễ" khác.
Anh Nguyễn Văn
Thân, và một số nhân chứng hồi chánh viên khác, đã kể lại những mẩu giai thoại
bi hài về "Đấu tranh Giảm tô" như:
".... Cảnh sống tam cùng đã đưa đến
nhiều bi-hài kịch: Có khi đội viên là một chàng trai mà gia đình bần cố lại có
con gái lớn nên chuyện hủ hóa đã xảy ra; hoặc giả khi người nghèo khổ nhất làng
lại là một bà cụ già bị bệnh thần kinh, ăn nói bất nhất, hoặc một người có
lương tâm tốt nên dù đội viên Cải cách Ruộng đất có cố gắng đến mấy, họ cũng
không thể hoặc không chịu đứng ra tố người địa chủ, nhất là khi họ đã từng chịu
ơn của người địa chủ đó. Vì vậy mới có danh từ "rễ thối" để chỉ các
loại này...".
Sau khi đã chuẩn bị
xong các nhân vật chính trong cuộc đấu giảm tô, các Đội Cải cách Ruộng đất mới
ra mắt công khai tại làng, xã, và lập tức, các cơ cấu tổ chức cũ như Uỷ ban
Hành chánh Xã v.v... đều bị giải tán để giao quyền hành lại cho Đội và những phần
tử cốt cán đảm nhiệm. Làng xã lúc đó lập tức bị phong tỏa, chỉ riêng Đội Cải
cách có thể liên lạc bằng đường dây điện thoại với trung ương hoặc cấp trên của
họ là Đoàn Cải cách Ruộng đất. Các địa chủ liền bị cô lập, giam lỏng hoặc bị quản
chế thực sự, tài sản của họ bị niêm phong.
Tất cả gia đình của
địa chủ cũng bị cô lập, bị khủng bố tinh thần, bị nhục mạ, trẻ con được xúi giục
ném đá, đánh đập gia đình địa chủ mà họ không có quyền phản ứng lại, người lớn
được quyền chửi bới gia đình địa chủ mỗi khi gặp mặt. Chẳng những gia đình địa
chủ lâm vào cảnh cùng đường, mà thân nhân, bạn bè cũng bị đẩy vào tuyệt lộ. Những
người này, nếu còn giữ cảm tình với gia đình địa chủ, tìm cách ngấm ngầm giúp đỡ
hoặc bênh vực địa chủ mà bị Đội Cải cách phát giác là sẽ bị ghép vào tội "Liên quan phản động".
Phần chính của tấn
kịch Đấu Giảm tô là phần "Thoái
Tô", "Đấu Địa Chủ" và"Xử
án Địa chủ".
Ta biết rằng việc
giảm tô đã được "Chính quyền Kháng chiến" quy định bằng một sắc lệnh
số 78/SL ngày 14 tháng 7 năm 1949 ấn định một mức chung là giảm đi 25%. Điều
này có nghĩa là ưu đãi các tá điền và theo luật mới, địa chủ phải giảm bớt số lời
("địa tô") đánh trên tá điền.
Vì lề lối làm việc
luộm thuộm ở nông thôn, khi địa chủ giảm tô cho tá điền chẳng hề có việc ghi
biên lai làm bằng chứng. Vì thế, 4 năm sau, khi có phong trào Đấu Giảm tô, địa
chủ bị coi như không hề giảm tô cho tá điền theo như sắc lệnh, và Đội Cải cách
hướng dẫn tá điền "khai nợ" để đòi địa chủ phải "Thoái tô"
cho tá điền, nghĩa là hoàn trả cho tá điền số địa tô thặng dư mà địa chủ đã lấy
một cách trái phép (theo sự "mớm cung" của cán bộ Cải cách và sự khai
gian của tá điền). Số nợ "thoái tô" này nhiều hay ít là do Đội ấn định
trước, tùy theo số tài sản, nữ trang của địa chủ mà "Đội" đã điều tra
biết được.
Sau khi "xây
dựng" xong "chuỗi rễ" và trước khi địa chủ bị đem ra tố khổ, đội
viên Cải cách phải nhồi sọ "chuỗi rễ" qua một khóa học về "Tội
ác của địa chủ", dạy họ cách nói, cách kể tội... với những bằng chứng ngụy
tạo, như lời anh Nguyễn Văn Thân thuật lại dưới đây:
".... Chủ yếu là dạy họ tả chân với
những chứng tích cụ thể (nhưng gian trá) để làm xúc động quần chúng. Thí dụ
như một cái sẹo cũ bị ngã từ hồi còn bé sẽ được trình bày là vết dao chém của địa
chủ ác ôn, hoặc cặp mắt bị kèm nhèm, mù lòa vì bệnh đau mắt hột hay lông quặm(trichiasis) sẽ dùng để tố là địa chủ ác ôn bắt
thức khuya, dậy sớm chăn heo, nuôi gà, không cho ngủ.... Hoặc nếu một bà lão rụng
tóc hết vì già hay vì bệnh hoạn thì sẽ dùng chứng tích này để tố địa chủ nắm
tóc giựt, đánh đập.... Nếu là phụ nữ thì sẽ tố rằng bị địa chủ hiếp dâm hàng
trăm lần v.v...".
Sau khi lập xong
"bản tội ác" của từng địa chủ, các đội viên Cải cách bắt đầu tập dượt
các "chuỗi rễ" cho thuần thục về "Cách tố khổ địa chủ trước quần
chúng", y như như công việc của Đạo diễn và Diễn viên trước khi trình diễn.
Họ phải học tập từ cách ăn nói, tới điệu bộ... trước một hình nộm địa chủ. Tiếp
đó, Đội Cải cách mới công bố "Ngày đấu tố".
".... Trong thời gian này, dân làng rất sợ sệt và ngoan ngoãn,
nhất là các thành phần trung nông và phú nông, bảo họp là họ đi họp, bảo khóc
là họ khóc, bởi ai cũng sợ bị "nâng" lên thành phần địa chủ. Đại hội họp mấy
đêm liền, mỗi đêm sẽ có một "rễ" chính lên tố khổ kể tội địa chủ với
sự phụ họa của một vài "rễ" phụ. Đại hội này được gọi là"ôn nghèo kể khổ". Trước
khi lập báo cáo, Đại hội được xem trình chiếu phim "Bạch Mao Nữ" (một nhân vật với cốt truyện của Trung
Quốc). Truyện phim nói về một cô gái đi ở cho địa chủ, sau bị tên này hiếp
dâm, áp bức, hành hạ, nên cô ta phải trốn lên núi theo "Cách Mạng"
cho đến khi Đội Cải cách Ruộng đất về làng, cô mới trở lại thì tóc cô đã bạc trắng.
"Ảnh
hưởng của cuốn phim đã tác động sâu đậm trong tâm lý quần chúng nông thôn chất
phác. Họ đã xúc động, khóc thật sự trước cảnh dã man, tàn ác của tên địa chủ
trong phim ảnh vừa chiếu thì, ngay sau đó, Đội Cải cách liền đưa các "rễ"
ra trình diện nông dân và kể khổ. Thế là khí thế sắt máu của giai cấp bần cố
nông nổi dậy theo tiếng khóc, tiếng kể lể của các "rễ", đã được Đội
cho học tập từ trước. Khí thế ghê rợn đó đi từ việc hô các khẩu hiệu "đả đảo địa chủ cường hào" đến việc ký tên vào quyết nghị xin xử tử
hoặc kết án tù tên địa chủ cường hào đó. Thư ký Đội Cải cách sẽ lập biên bản
phiên Đại hội, lập báo cáo điển hình và trình lên Đoàn Uỷ duyệt lại để xin quyết
định của Trung ương. Mấy hôm sau, Đoàn gửi công văn xuống chỉ thị rằng Trung
ương đồng ý với bản án của... toàn dân đưa ra.
"Sau
đó là việc tổ chức "Pháp trường đấu". Các đội viên Đội Cải cách Ruộng
đất sẽ không tham dự nữa mà phải xây dựng (huấn luyện, nhồi sọ) cho các gia đình bần cố "chuỗi
rễ" làm việc đấu tố, và lập Tòa án nhân dân, gồm có: Chủ tịch đoàn và các
Uỷ viên Hội đồng Tòa án là các thành phần "chuỗi rễ" đã được các đội
viên "xây dựng", không có Luật sư bào chữa cho bị can, có Đoàn Uỷ và
chính quyền địa phương tham dự. Bị can là các địa chủ cường hào đã bị giam từ
trước và đến khi đó, bị giải ra "đấu trường" tại sân đình hay sân trường
làng, toàn thể dân làng đều phải có mặt và tập trung theo thành phần để tham dự.
Trong phiên đấu này, các "chuỗi rễ" đã được huấn luyện cũng lại đứng
ra kể tội, tố một cách tóm tắt hơn, và sau đó, vì không có Luật sư nên
"Tòa" cho phép "bị can" tự bào chữa; tuy có hình thức
"dân chủ" như thế, nhưng thực ra, bị can chỉ còn cách cúi đầu nhận tội,
nếu người nào ngoan cố không nhận, hoặc nói sai ý của Chủ tịch đoàn thì lập tức
Chủ tịch đoàn hô khẩu hiệu đả đảo và nông dân tham dự ở dưới hô theo để áp đảo
tinh thần bị can và cấm không cho bị can nói tiếp. Sau đó, Chủ tịch đoàn chỉ việc
tuyên án bị can theo một bản án đã do Trung ương định sẵn".
Đoạn dưới đây thuật
lại một cuộc đấu tố với những tội nhân điển hình tại Xóm Chuối, tỉnh Ninh Bình,
khi Đội Cải cách về làng và anh Nguyễn Văn Thân được cử làm Thư ký Đội:
".... Đoàn tôi về thi hành chính sách tại Ninh Bình. Đoàn trưởng
là anh Thu, đã từng là Chính uỷ Trung đoàn và lúc đó đang làm Tỉnh uỷ viên. Tôi
thuộc Đội 6. Đội trưởng là chị Văn, lúc đó mới 20 tuổi, mồ côi, đi ở đợ cho địa
chủ từ nhỏ và đã tham gia Cải cách Ruộng đất các đợt 1, 2, 3 và 4 với tư cách
"rễ". Đợt này là đợt thứ 5 chị được đề cử làm Đội trưởng. Về văn hoá,
chị chỉ biết ký tên mà thôi, nhờ chúng tôi dạy cho chị. Đội chúng tôi được cử về
Xóm Chuối, tỉnh Ninh Bình. Xóm này rất nghèo, số gia đình có khoảng trên 100,
và thực tế thì chúng tôi chỉ thấy có 3 gia đình tạm gọi là khá giả, nghĩa là có
từ 10 đến 15 mẫu ruộng, có ao, có vườn. Thứ nhất là gia đình ông Quản Năm, có
con là Thiếu tá Trung đoàn phó 3/14, có 15 mẫu ruộng, con cháu đông nên chỉ mướn
3 anh tá điền làm công. Chúng tôi về "xây dựng" 3 anh này để đứng ra
tố ông Quản Năm, nhưng 3 anh không chịu, nên sau phải vận động cô cháu họ của
ông cụ tên là Min đứng ra đấu. Gia đình thứ hai có 10 mẫu ruộng, nhưng lại giao
cho người cháu quản lý, còn chính gia chủ lại đi buôn bán ở thị xã Hà Nam, có
con đi bộ đội chết (tử sĩ);sau, người cháu sợ bị ghép tội
"Liên quan phản động" nên đứng ra đấu tố gia đình ông này. Gia đình
thứ ba là gia đình bà Quản Hảo, một thành phần địa chủ mới giàu do công khó làm
ăn vì ruộng đất toàn do con cái tự canh tác, không mượn người. Đội tôi đưa cháu
gái đứng ra tố bà cô.
"Sau
khi tìm được ba địa chủ, xây dựng được "chuỗi rễ", Đội tôi làm báo
cáo điển hình về Đoàn xin duyệt y, nhưng Đoàn không chấp nhận vì chưa đạt tiêu
chuẩn tỷ lệ là 5% và Đội tôi phải "cố" làm sao để nâng số gia đình địa
chủ lên 5 người. Làm đi làm lại, Đội tôi đành chịu thua nên Đoàn phải cử một
anh cố vấn tên Thanh về để giúp giải quyết. Anh Thanh này có thành tích chuyên môn phát hiện địa chủ;nên sau khi có sự giúp đỡ của anh ta,
chúng tôi có thêm hai gia đình địa chủ nữa để đấu tố. Hai gia đình này chỉ có một
hai mẫu ruộng, nhưng có xe đạp, có con đi học ở Hà Nội, và nhất là một trong
hai gia đình địa chủ có lần đi lính cho Pháp trước rồi sau về làm Phó lý tên gọi
là Phó Hội Kha.
"Khi
đã xây dựng đủ số 5 gia đình cường hào địa chủ, chúng tôi lập báo cáo và khi đó
Đoàn mới duyệt phương án và đòi phải có ít ra là 2 cường hào ác bá phải bị xử tử.
Chúng tôi định đưa bà Phó Hội Kha ra làm vật hy sinh vì ông chồng bà trước kia
đi lính cho Pháp và làm Phó lý, tuy nay đã chết, nhưng nợ máu vẫn còn và bà vợ
phải trả. Nhưng, bà Phó Hội Kha nghe được tin này đã thắt cổ tự tử trước khi bị
chúng tôi đưa ra đấu trường. Tuy vậy, khi lập Tòa án Nhân dân, bà Phó Hội Kha vẫn
bị xử khuyết tịch và bị tịch biên gia sản để trả lại cho nông dân.
"Riêng
tôi được phân công "bắt rễ" với một bà 55 tuổi, không con, có họ với
ông Quản Năm. Bà này bị bệnh thần kinh nhẹ. Tôi đã phải áp dụng kỹ thuật
"tam cùng" thật là khổ sở: ăn đói, ngủ thiếu, làm khổ, nên trong thời
gian này, tôi bị sút năm, sáu Kí-lô, và điều nản nữa là bà này lại là một
"rễ thối", nghĩa là bà ta chẳng nói, chẳng hiểu và chẳng làm gì cả.
Sau, tôi phải bỏ lờ bà ta để tìm một "rễ" khác để xây dựng, đó là anh
Thà, một thanh niên tá điền, cờ bạc, rượu chè nên rất căm thù ông Quản Năm. Rồi
cô cháu họ của ông Năm, tức chị Min, tố bị ông hiếp tất cả 17 lần.... Mặc dù
các gia đình này có con là bộ đội cũng vẫn bị tố như thường, mà khi con về còn
bị Đội Cải cách bắt vì nghi là về liên lạc với địa chủ...".
Tóm lại, "Đấu
giảm tô" chính là một giai đoạn thực tập thí nghiệm cho chiến dịch "Đấu
tranh Cải cách Ruộng đất". Phong trào Đấu giảm tô đã thực sự sử dụng đến bạo
lực của nông dân, đã thực sự gây chém giết, đổ máu và tỏ ra thành công hơn giai
đoạn "Đấu tranh chống phản động" nhờ đã rút tỉa được nhiều kinh nghiệm
hơn. Trong giai đoạn đấu tranh chống phản động, qua kỹ thuật "mớm
cung" theo dây chuyền, nhiều nạn nhân đã khai lung tung ra ngoài sự dự liệu
của cán bộ Đảng khiến cho Đảng không nắm vững được phong trào. Trong giai đoạn
đấu tranh giảm tô, những người đứng ra tố cáo đã được cán bộ huấn luyện, giáo dục,
nhồi sọ và chuẩn bị rất kỹ lưỡng tới mức hoàn hảo.
Một điểm rất quan
trọng đáng lưu ý ở đây là quy
tắc kích tỷ lệ. Đảng đã nhắm đến trong giai đoạn đấu tranh giảm tô là không
phải chỉ riêng địa chủ mới bị xử tử mà cà những người có một, hai mẫu ruộng
cũng phải lãnh những phát đạn kết liễu cuộc đời, vì bị kết vào những tội phản động,
phản quốc, thông đồng với giặc Pháp v.v.... Làm như vậy, Đảng đã gián tiếp cảnh
cáo những phần tử phú nông và trung nông khác phải coi chừng, đừng có nho nhoe
chống đối.
Cuộc Đấu tranh Giảm
Tô đã kéo dài tới đầu năm 1954 thì tạm thời được ngưng lại khi Chiến trường Điện
Biên Phủ đi vào giai đoạn nghiêm trọng và quyết định.
Nói tóm lại, cuộc
Cải tạo Nông nghiệp tại miền Bắc bắt đầu vào năm 1951 với chính sách Thuế Nông
Nghiệp, trùng hợp với giai đoạn Tổng Phản Công trên phương diện quân sự với các
trận đánh lớn như Trận Vĩnh Yên (khai diễn ngày 13 tháng 1, 1951), Trận Mao Khê
(khai diễn đêm 23 rạng ngày 24 tháng 3) và Trận Sông Đáy (khai diễn ngày 29
tháng 5).
Sự trùng hợp này giải thích nhu cầu cấp bách trên ba phương diện:
- Động viên nhân lực
và tài lực cho chiến tranh.- Đánh gục các thành phần Quốc gia yêu nước nhưng không ủng hộ Việt cộng dưới danh hiệu Việt Minh.
- Chuẩn bị đánh gục các thành phần Quốc gia yêu nước đang tham gia cuộc Kháng Chiến Chống Pháp, nhưng có thể trở thành chống lại Việt cộng khi Kháng Chiến thành công.
Sự chuẩn bị này
dành cho giai đoạn sắt máu sắp tới, mà ta sẽ nghiên cứu trong bài báo kế tiếp;
trong đó, các câu hỏi sau đây sẽ được giải đáp:
- Việt cộng làm
cách nào tiêu diệt các thành phần Quốc gia yêu nước tham gia Kháng Chiến?- Nhân dân có thái độ như thế nào để chống lại các hành động gian ác của Việt cộng?
- Việt cộng dùng thủ đoạn gì để đối phó với phản ứng của nhân dân?
Trận Điện Biên Phủ và Hiệp Định
Geneve 1954 là hai biến cố chính khiến cho chiến dịch Đấu Tranh Giảm Tô được tạm
ngưng. Mặc dầu sau Hiệp Định Genève, Việt cộng hoàn toàn làm chủ miền Bắc trong
một khí thế đầy phấn khởi, bộ đội Việt cộng về thủ đô với một vinh dự chiến thắng,
nhưng Hồ Chí Minh và giới đầu lãnh Hà Nội phải đối phó với nhiều vấn đề cấp
bách: Phong trào di cư của gần một triệu đồng bào miền Bắc bỏ trốn cộng sản vào
Nam, việc tập kết khoảng 50 ngàn bộ đội và cán bộ cộng sản từ Nam ra Bắc tạo
nên nhu cầu ổn định tâm lý quần chúng cũng như củng cố an ninh. Do đó, Việt cộng
đã dành một thời gian khoảng một năm để chấn chỉnh tình hình nội bộ và chuẩn bị
làm nốt phần tối quan trọng của Cải Cách Ruộng Đất để bắt đầu công việc xây dựng
cơ sở vật chất cho công cuộc xâm lược miền Nam.
Trong phạm vi
bài này ta sẽ đi vào các phần chính sau đây:
- Giai đọan đấu
tranh đẫm máu
- Phản ứng của nhân dân đưa đến quyết định sửa sai- Cuộc đấu tranh tiếp theo của nhân dân miền Bắc
- Những đặc điểm điển hình của giai đoạn Cải Cách Ruộng Đất 1951-1956 đưa đến chiến dịch sửa sai.
I. Giai Đoạn Đấu
Tranh Đẫm Máu
Giai đoạn này bắt đầu vào khoảng
giữa năm 1955 trên toàn thể miền Bắc với những trường hợp sau đây:
- Khu rừng núi
không có cải cách ruộng đất (xem bản đồ đính kèm)
- Vùng đồng bằng sông Nhị Hà trước kia chưa có đấu giảm tô, thì trong giai đoạn
này cả hai cuộc "đấu
tranh giảm tô" và "đấu tranh Cải Cách Ruộng Đất" được xúc tiến cùng một lượt (xem bản đồ).
Như đã trình bày
trước đây, thể thức đấu tranh cải cách ruộng đất cũng giống như đấu tranh giảm
tô, chỉ khác ở mức độ tàn bạo gia tăng và con số nạn nhân cũng gia tăng do sự "càn đi quét lại" và "kích
tỷ lệ".
Điểm căn bản là
sau cuộc cải tạo nông nghiệp ruộng đất cũng như gia tài sản nghiệp của địa chủ
bị tịch thu và được chia cho nông dân nghèo. Đây chính là cái mồi ngon cuối
cùng mà đảng dành cho nông dân suốt trong những giai đoạn đấu tranh đã qua.
Cuộc đấu tranh cải
cách ruộng đất được Trung Ương Đảng giao cho Trường Chinh lãnh đạo qua một
Trung Ương ủy viên phụ trách là Hồ Viết Thắng; dưới trung ương có các đoàn cải
cách ruộng đất cho mỗi tỉnh và dưới đoàn có các đội cải cách ruộng đất cho mỗi
xã.
Các đội và đoàn đều trực tiếp nhận lệnh của trung ương mà không cần qua ủy ban hành chánh địa phương. Nguyên tắc chọn lựa các đội viên của đội cải cách ruộng đất phải là những thành phần cốt cán, bần cố nông, là đảng viên trung kiên đã chiến đấu trong bộ đội. Đấy là các đội viên của đợt đầu tiên cải cách ruộng đất. Sau mỗi đợt, lại có một số thành phần cốt cán bần cố nông khác được bồi dưỡng để trở thành đội viên các đợt sau. Do đó càng về sau, chính sách cải cách ruộng đất càng khốc liệt bởi phần đông đội viên toàn là những người trẻ tuổi, cuồng tín được bồi dưỡng tư tưởng đấu tranh giai cấp để căm thù thật sự; và cũng do đó mà vào năm 1956, đợt Cải Cách Ruộng Đất được phát động lấy tên là đợt Tổng tấn công Điện Biên Phủ đưa số người bị tàn sát lên đến 10 ngàn người, riêng trong đợt này; đội cải cách ruộng đất trở thành một công cụ khủng bố ghê gớm khiến nhân dân đồng thanh coi là "nhất đội nhì trời" mỗi khi đội về làng. Sở dĩ có sự tàn sát ghê gớm như vậy, vì chiến thuật kích tỷ lệ (nâng tỷ lệ) của Việt cộng. Thí dụ: cứ mỗi xã có 100 gia đình thì dù đủ hay không đủ, có hay không có, đội cải cách ruộng đất của xã đó phải tìm cho ra ít nhất là 5 gia đình địa chủ (tỷ lệ 5%) nếu hơn càng tốt, và trong số 5 gia đình này phải quy cho được 2 gia đình là cường hào ác bá để xử tử. Nếu đội không làm đủ tiêu chuẩn tỷ lệ sẽ bị phê bình là thiếu ý thức đấu tranh giai cấp, công tác kém, v.v....
Các đội và đoàn đều trực tiếp nhận lệnh của trung ương mà không cần qua ủy ban hành chánh địa phương. Nguyên tắc chọn lựa các đội viên của đội cải cách ruộng đất phải là những thành phần cốt cán, bần cố nông, là đảng viên trung kiên đã chiến đấu trong bộ đội. Đấy là các đội viên của đợt đầu tiên cải cách ruộng đất. Sau mỗi đợt, lại có một số thành phần cốt cán bần cố nông khác được bồi dưỡng để trở thành đội viên các đợt sau. Do đó càng về sau, chính sách cải cách ruộng đất càng khốc liệt bởi phần đông đội viên toàn là những người trẻ tuổi, cuồng tín được bồi dưỡng tư tưởng đấu tranh giai cấp để căm thù thật sự; và cũng do đó mà vào năm 1956, đợt Cải Cách Ruộng Đất được phát động lấy tên là đợt Tổng tấn công Điện Biên Phủ đưa số người bị tàn sát lên đến 10 ngàn người, riêng trong đợt này; đội cải cách ruộng đất trở thành một công cụ khủng bố ghê gớm khiến nhân dân đồng thanh coi là "nhất đội nhì trời" mỗi khi đội về làng. Sở dĩ có sự tàn sát ghê gớm như vậy, vì chiến thuật kích tỷ lệ (nâng tỷ lệ) của Việt cộng. Thí dụ: cứ mỗi xã có 100 gia đình thì dù đủ hay không đủ, có hay không có, đội cải cách ruộng đất của xã đó phải tìm cho ra ít nhất là 5 gia đình địa chủ (tỷ lệ 5%) nếu hơn càng tốt, và trong số 5 gia đình này phải quy cho được 2 gia đình là cường hào ác bá để xử tử. Nếu đội không làm đủ tiêu chuẩn tỷ lệ sẽ bị phê bình là thiếu ý thức đấu tranh giai cấp, công tác kém, v.v....
Cuộc "phóng tay phát động quần
chúng đấu tranh cải cách ruộng đất" còn
là cơ hội để đảng thực hiện một cuộc thanh trừng quy mô nội bộ Đảng cũng như
hàng ngũ kháng chiến, sau khi thực dân Pháp đã bị đánh bại. Và theo chính sự
thú nhận của Việt cộng khi có chính sách sửa sai, trong cuộc thanh trừng này có
tới 23 ngàn đảng viên trung kiên bị "chết
oan" , ngoài ra còn bao
nhiêu ngàn đảng viên "không
trung kiên" bị chết "một cách đích đáng"thì
không thấy có tài liệu chính thức nào của đảng ghi chép cả.
Khi cuộc cải cách
ruộng đất lên tới mức độ tàn bạo nhất, tức là đợt cải cách Điện Biên Phủ, rất
nhiều người thuộc thành phần trung nông, tiểu thương bị"kích" lên thành địa chủ phản động và bị đem
đấu tố. Thê thảm hơn nữa là những cán bộ cao cấp có công với kháng chiến mà
cũng bị kết tội là cường hào ác bá và có chân trong tổ chức Quốc Dân Đảng. Nhân
chứng Nguyễn Văn Thân mô tả một cuộc đấu tố chụp mũ như sau:
...."Cuộc
đấu tố điển hình nhất mà tôi được dự là lần đấu ông Nguyễn Văn Đô, bí thư huyện
ủy tại Ô Cầu Giấy ngoại thành Hà Nội..." ...."Nạn nhân Nguyễn Văn Đô
là bí thư huyện ủy, rất có công với kháng chiến nhưng lại bị kết tội là cường
hào ác bá và có chân trong tổ chức Quốc Dân Đảng. Chủ tịch đoàn nói rằng ông lợi
dụng chức vụ của Đảng hoạt động cho Quốc Dân Đảng. Người đứng kể tội là một
nông dân trước kia đi chăn ngựa cho ông Đô. Một cụ già khác lên tố về việc cướp
đất ruộng nương và cô con gái của ông lên đấu tố là đã bị ông cưỡng hiếp tất cả
là 117 lần, v.v.... Đến khi ông Đô được phép lên phát biểu ý kiến nhận tội, ông
đã cứng cỏi trả lời: Ông không phải là Quốc Dân Đảng, ông chỉ làm việc cho Bác
cho kháng chiến mà thôi. Ông trả lời cô con gái là: "Thưa bà, bà còn quên
đấy, tôi đã hiếp cả mẹ bà để đẻ ra bà nữa". Câu trả lời này làm mọi người
phải bật cười và làm đấu trường mất vẻ tôn nghiêm, chủ tịch đoàn vội vàng hô khẩu
hiệu "đả đảo tên Đô ngoan cố" để đàn áp và che lấp tiếng nói của ông
này. Sau đó họ không cho ông nói tiếp. Họ nghị án và quyết định xử tử ông ngay
tại chỗ. Cuộc đấu này kéo dài từ 5 giờ sáng tới 13 giờ, tức 1 giờ trưa mới
xong".(Nguyễn Văn
Thân)
Rất nhiều cựu cán
bộ cộng sản có tham dự cuộc cải cách ruộng đất đều thắc mắc không hiểu ẩn ý của
Đảng khi thẳng tay triệt hạ chính những cán bộ Đảng cao cấp và trung kiên, và
triệt hạ luôn cả cơ cấu tổ chức Đảng ở nông thôn, thay vào đấy bằng những thanh
thiếu niên bần cố nông từ 15 tới 18 tuổi. Rất nhiều người thắc mắc không hiểu Đảng
vô tình hay cố ý giết oan người của Đảng.
Nhưng nếu người ta
có cơ hội nghiên cứu kỹ cuộc cách mạng văn hóa của Mao Trạch Đông, thì ẩn ý của
Đảng trở thành rõ rệt. Đó là chủ trương đấu tranh liên tục trong nội bộ cộng sản
bằng những cuộc thanh trừng đẫm máu. Đảng phải luôn luôn đào thải những cán bộ
đảng viên cũ không thuộc thành phần vô sản, những người đã lỗi thời, có thể trở
thành nguy hiểm cho đảng vì đã trau dồi những kinh nghiệm đấu tranh, đã có khả
năng lãnh đạo, có uy tín, nắm vững tình hình Đảng, quy tụ được thế lực mạnh, và
có thể phản Đảng. Thay vì dùng nghị đình, thông tư, sự vụ lệnh để thải hồi những
phần tử này, Đảng đã mượn tay quần chúng nông dân để tiêu diệt cho hết hậu họa.
Kết quả là chính nạn nhân của cải cách ruộng đất cũng không biết được thâm ý của
"Hồ chủ tịch" và của "Đảng", mà tưởng rằng cấp dưới làm
sai, nên có người khi chết còn tung hô "Hồ chủ tịch".
II. Phản Ứng Của
Nhân Dân Đưa Đến Quyết Định Sửa Sai
Mức độ sắt máu của Cải Cách Ruộng
Đất đã được chính những tên thợ thơ nô dịch của Việt cộng cổ võ để nịnh Đảng và
nạt dân.
"Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít ta lin... bất diệt."
Còn
Xuân Diệu cũng cuồng say với cuộc đấu tố bằng những vần thơ như sau:
Địa hào đối lập ra tro
Lưng chừng phản động đến giờ tan xươngThắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đưốc cho sáng đình làng đêm nay.
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôi.
(trích
Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, trang 22 và 23)
Nhưng những vụ tàn
sát của Cuộc Cải Cách Ruộng Đất đã gây xúc động công phẫn mãnh liệt ở khắp mọi
nơi. Mặc dầu dân chúng chưa võ trang nổi dậy quy mô, nhưng những vụ phục kích
giết cán bộ đấu tố và những vụ chém giết giữa bần cố nông và thân nhân của người
bị đấu tố đã xảy ra thường xuyên. Những người bị đẩy đến bước đường cùng đã liều
mạng một sống một còn với kẻ thù của mình, bất chấp những đe dọa của Đoàn Cải
Cách Ruộng Đất.
Hình :Cải Cách Ruộng Đất CS Liên Xô
Đúng vào lúc đó, Đại Hội Đảng Liên Xô lần thứ 20 đã đem lại một biến cố làm chấn động dư luận thế giới và có ảnh hưởng đến tình hình Việt cộng miền Bắc. Ngày 20 tháng 2 năm 1956, Krushchev đọc bài diễn văn trong Đại Hội Cộng Đảng, công khai lên án bản chất khát máu của Satalin qua những vụ thủ tiêu hàng vạn đảng viên đối lập đồng thời tiết lộ nhiều tội lỗi khác của Stalin, kể cả tội bắt dân Nga sùng bái cá nhân của Stalin như một vị thánh sống.
Hình :Cải Cách Ruộng Đất CS Liên Xô
Đúng vào lúc đó, Đại Hội Đảng Liên Xô lần thứ 20 đã đem lại một biến cố làm chấn động dư luận thế giới và có ảnh hưởng đến tình hình Việt cộng miền Bắc. Ngày 20 tháng 2 năm 1956, Krushchev đọc bài diễn văn trong Đại Hội Cộng Đảng, công khai lên án bản chất khát máu của Satalin qua những vụ thủ tiêu hàng vạn đảng viên đối lập đồng thời tiết lộ nhiều tội lỗi khác của Stalin, kể cả tội bắt dân Nga sùng bái cá nhân của Stalin như một vị thánh sống.
Cũng trong Hội Nghị
lần thứ 20, Cộng Đảng Liên Xô đã sửa đổi "chủ
thuyết Stalin" bác bỏ chủ
trương quá khích của Stalin đòi hỏi "Cách
mạng phải bạo động và càng tiến tới xã hội chủ nghĩa thì đấu tranh giai cấp
càng quyết liệt".
Việc hạ bệ Stalin
và việc thay đổi đường lối chính sách tại Liên Xô chỉ là một sách lược lừa địch
và dụ khị địch. Trên phương diện đối nội, sau khi lật đổ Beria và Malenkov, phe
của Krushchev có nhu cầu đánh gục "bọn
tàn dư"của khuynh hướng Stalin để củng cố quyền lực cho phe phái của
mình, chứ không hề có ý định thực hiện những cải cách dân chủ.
Trên phương diện đối
ngoại, sách lược dụ khị của Krushchev nhằm quảng cáo cho món hàng "sống chung hòa bình",
lôi kéo một số quốc gia Á Phi vào một khối trung lập thân cộng gọi là "Phi Liên Kết", đồng
thời mở đầu cho giai đoạn "Hòa
Dịu" nhằm ru ngủ các cường
quốc Tây phương nhất là Hoa Kỳ, với mục đích chính: Mượn tiền và kỹ thuật Tây
phương để phát triển kinh tế và kỹ thuật Liên Xô, tạo nên phong trào đòi giảm
vũ trang tại các nước Tây phương, trong khi Liên Xô ngấm ngầm sản xuất vũ khí hạch
tâm chiến lược nhằm đánh thắng trong một cuộc chiến tranh hạch tâm.
Với thâm ý như
trên, Krushchev phái Nikoyan sang Hà Nội để giải thích cho Hồ Chí Minh và Việt
cộng miền Bắc, về nhu cầu sách lược "xét
lại". Vào lúc đó, Hồ Chí Minh tâm sự với đàn em rằng "Khí thế của cuộc đấu tranh cải
cách ruộng đất đang phừng phừng bốc cháy, không lẽ lại dội một gáo nước lạnh
vào đầu cán bộ và anh em nông dân". Vì thế Việt cộng miền Bắc vẫn bít
kín không phổ biến "chính
sách mới" của Liên Xô.
Tuy nhiên đứng trước những phản ứng bạo động của nhân dân, cũng như những bất
mãn của tầng lớp trí thức đã từng tham gia tích cực ủng hộ Việt Minh trong cuộc
kháng chiến chống Pháp, vào tháng 3 năm 1956, Hồ Chí Minh đã phải chuẩn bị kế
hoạch dừng tay.
Những biến cố trên
thế giới và phong trào chống đối trong nước liên tiếp đánh mạnh vào uy tín của
Hồ Chí Minh và giới đầu lãnh Việt cộng. Ngày 26 tháng 5 năm 1956, Mao Trạch
Đông công bố chính sách "Bách
Gia Tranh Minh, Bách Hoa Tề Phóng" nghĩa
là các môn phái tư tưởng được mặc sức phát biểu ý nghĩ của mình như trăm thứ
hoa đua nở. Với chính sách mới, giới trí thức Trung Quốc được "mở mồm nói trong phạm vi có sự
kiểm soát của Đảng".
Ngày 28-6-1956
công nhân Ba Lan sát cánh với sinh viên bviểu tình ở Poznan chống lại chế độ độc
tài và đòi Tự Do, cơm áo. Ngày 23-10-1956 công nhân Hung Gia Lợi nổi dậy làm
cách mạng ở Budapest khiến Krushchev phải dùng vũ lực đàn áp một cách tàn bạo.
Tại Bắc Việt, Hồ Chí Minh cố chờ cho cuộc cải cách ruộng đất kết thúc với đợt
Điện Biên Phủ, mới ra lệnh đình chỉ mọi vụ hành quyết địa chủ, và tháng 10-1956
Trung Ương Đảng Việt Cộng ra nghị quyết "sửa
sai".
Chiến dịch sửa sai
được bắt đầu bằng các đợt học tập dành cho Đảng viên về nghị quyết của Hội Nghị
lần thứ 20 của Cộng Đảng Liên Xô, đồng thời, báo chí của nhà nước giải thích
cho quần chúng về sự thay đổi bên Liên xô. Tiếp theo đó Hồ Chí Minh chọn Trường
Chinh và Hồ Viết Thắng làm con vật tế thần (Trường Chinh mất chức Tổng Bí Thư Đảng,
và Hồ Viết Thắng mất chức Thứ Trưởng phụ trách cải cách ruộng đất). Mười hai
ngàn đảng viên còn sống sót trong tù vì bị kết tội là địa chủ đã được thả ra.
Trong số này có nhiều người đã bị kết án tử hình. Hồ Chí Minh đã khóc lóc và đổ
tội cho cấp dưới phạm phải sai lầm. Khả năng trình diễn của họ hồ rất cao khiến
nhiều người dân miền Bắc tưởng Hồ khóc thật, và ít nhiều tin vào sự vô trách
nhiệm của Hồ.
Trong Hội Nghị thứ
10 của Trung Ương Đảng, Võ Nguyên Giáp thay mặt Đảng đọc một bản thú nhận những
sai lầm trong cuộc cải cách ruộng đất. Hội nghị Mặt Trận Trung Ương họp để
nghiên cứu các sai lầm trong cuộc cải cách ruộng đất và chính sách sửa sai. Sự
sửa sai đưa ra để xoa dịu lòng dân không có nghĩa là chính sách cải cách ruộng
đất của Đảng sai lầm, và theo như Võ Nguyên Giáp nhận định trong bản báo cáo
lên Trung Ương Đảng thì thắng lợi cơ bản của cuộc cải cách ruộng đất là đã đạt
được mục tiêu cốt yếu đề ra, đó là đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ. Những sự
sai lầm, theo Đảng nhận định, là do sự "quá tay" của cán bộ, ví dụ
như:
- Phủ nhận thành
tích kháng chiến của những người bị đấu tố.
- Không đoàn kết trung nông, liên hiệp phú nông như đã hứa mà lại đẩy họ vào
hàng ngũ kẻ thù.- Xử tử oan người ngay, đả kích bừa bãi, tra tấn đàn áp người vô tội.
- Xúc phạm tới tôn giáo.
- Không nhẹ tay với vùng dân thiểu số.
Hành động "sửa sai" của Việt cộng chỉ là một "sách lược" để đối phó với tâm trạng công phẫn bất mãn của nhân dân, tạo một cơ hội để cho sự công phẫn xẹp xuống, và tránh nguy cơ một cuộc nổi loạn trên toàn miền Bắc. Căn bản của cuộc sửa sai là xác nhận chính sách Cải Cách Ruộng Đất vẫn là đường lối lâu dài của Đảng và Nhà Nước Việt cộng. Nếu có những "sai lầm" trong việc thi hành chính sách, thì đó là lỗi của một vài cá nhân đã "quá tay" làm nhiều người chết oan, và những cá nhân phạm lỗi khiến hàng trăm ngàn người bị chết oan chỉ bị khiển trách một cách tượng trưng, không có ai bị truy tố ra trước tòa án, không có ai phải đền tội một cách đích đáng. Hồ Chí Minh và giới đầu lãnh Việt cộng ngang nhiên coi việc tàn sát giết người là quyền tự nhiên của Đảng, không cần phải thắc mắc, và nếu có giết oan vài chục ngàn người thì chỉ cần đổ tội cho cấp dưới "lỡ tay", và phủi tay xin lỗi với một thái độ hoan toàn vô trách nhiệm.
Nhưng quần chúng
nhân dân miền Bắc không chấp nhận thái độ đó, và họ đã nắm lấy cơ hội "sửa
sai" để vùng lên.
III. Cuộc Đấu
Tranh Tiếp Của Nhân Dân Miền Bắc
Lợi dụng hành động phủi tay của Hồ
Chí Minh khi đổ tội cho cấp dưới đi quá trớn, các nạn nhân còn sống sót sau đợt
đấu tranh Cải Cách Ruộng Đất đã tìm những cán bộ cải cách để trả thù.
Tình trạng
rối loạn được mô tả trong cuốn "Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc" như dưới
đây:
"Sau khi các
đảng viên trung kiên được tha từ nhà tù về, được khôi phục công quyền, khôi phục
đảng tịch và chức vụ thì họ tìm ngay đến các "đồng chí" đã "tố
sai" để trả thù. Do đó tình trạng xung đột, giết chóc giữa đảng viên cũ và
đảng viên mới lan rộng khắp mọi nơi. Uy tín của Đảng bị xụp đổ, cán bộ đâm ra
hoang mang. Trong dịp này nhà văn Nguyễn Sáng có nói một cách hài hước: "Lạc quan sai; bi
quan cũng sai; chỉ có hoang mang mới đúng". Nhân dân được dịp đòi
lại ruộng nương nhà cửa bị tịch thu.
Ở nông thôn các
đảng viên đi họp phải mang búa theo để "thảo luận" với nhau. Những địa
chủ được tha về, thấy tình trạng làng xóm như vậy, vội vàng chạy ra thành phố ở
nhờ các gia đình "tiểu tư sản" hồi kháng chiến đã trú ngụ tại nhà
mình. Các bần cố nông, chót nghe lời Đảng "tố điêu" nay sợ bị rạch mồm,
cắt lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp xích-lô và đi ở thuê. Vì vậy
nên dân số ở Hà Nội, Nam Định đột nhiên tăng gấp bội và không khí căm thù ở
nông thôn lan ra thành phố, lây cho công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức.
Đáp lại vụ nổi loạn của nông dân ở Quỳnh Lưu, thanh niên và công nhân "Nam
bộ tập kết" đập phá bót cảnh sát Bờ hồ Hà Nội (bên cạnh ga tầu điện, đầu
phố Cầu gỗ)".
Tại khắp các vùng
nông thôn miền Bắc, đâu đâu người ta cũng thấy những vành khăn tang của thân
nhân những người bị giết trong cải cách ruộng đất. Cho tới nay, không ai biết
được con số chính xác những nạn nhân bị Việt cộng tàn sát. Chỉ có một yếu tố
then chốt để giúp người ta ước lượng số nạn nhân đó là yếu tố "kích tỷ lệ" được đề cập ở phần đầu. Với dân số miền
Bắc vào giai đoạn 1956 khoảng chừng 20 triệu người tức là vào khoảng 4 triệu gia
đình nông dân, ta hãy giả sử 2% gia đình nông dân bị liệt vào giai cấp cường
hào địa chủ nằm trong sổ đen của Việt cộng. Qua kỹ thuật "kích tỷ lệ", những
tên cán bộ trung kiên trong các đội cải cách đã thực hiện đúng chỉ tiêu bằng
cách phát hiện và đem ra giết đủ tỷ lệ tối thiểu là 2% mỗi xã. Như vậy trên
toàn miền Bắc, những gia đình nông dân có thể bị giết ít nhất là 80.000 người
trong cuộc cải cách ruộng đất nếu các đội cải cách "kích tỷ lệ" theo đúng chỉ tiêu của Đảng đề ra.
Trong lịch sử Việt
Nam, chưa ai nghe thấy có thời kỳ nào lực lượng ngoại bang thống trị đã tàn sát
nhân dân một cách lạnh lùng máy móc như vậy. Nỗi căm hờn uất hận của nạn nhân cải
cách ruộng đất cùng thân nhân của họ đã lên tới mức cùng cực, nhưng sau khi Hồ
Chí Minh đưa ra chính sách sửa sai, thì chế độ Việt cộng đã thoát khỏi một cuộc
nổi loạn bạo động lan rộng vì một số nguyên nhân chính:
a) Đa số những người
mà tính mệnh bị đe dọa đồng thời là những người có tiềm năng lãnh đạo nổi loạn
thì đã chết rồi, còn lại một số nhỏ được tha về và được khôi phục lại công quyền,
tự coi là mình đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc và cần được yên thân. Mặc dù
có một số người liều mạng đi tìm đội cải cách để trả thù, nhưng hầu hết không
dám có ý định chống lại kẻ chủ mưu đại gian đại ác là Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động,
hoặc là vì họ tưởng cấp dưới làm sai chính sách Đảng, hoặc vì họ nhìn ra Hồ Chí
Minh và Đảng của họ Hồ quá nguy hiểm và quá mạnh. Nguy hiểm vì chúng ném đá dấu
tay, xúi giai cấp nọ giết giai cấp kia để chúng bảo toàn lực lượng. Mặt khác,
chúng quá mạnh vì có súng đạn trong tay, còn họ thì thân cô thế cô.
b) Phần đại đa số
nông dân còn lại là phú nông, trung nông và bần nông thì như cá nằm trốc thớt.
Tuy tính mạng của họ chưa bị đe dọa vì chưa bị liệt vào hàng cường hào địa chủ
nhưng trông gương những vụ đấu tố chụp mũ, họ biết rằng bất cứ ai cũng có thể bị
kết tội là "liên
quan" hoặc "phản động"("liên
quan" là nói tắt của "liên quan với địa chủ cường
hào").
Vậy, cho dù có nhiều
người trong lòng còn căm hận, nhưng ngoài mặt không dám ngo ngoe. Duy có một
thành phần trí thức văn nghệ sĩ dám hiên ngang đứng lên chống Đảng và kể tội Đảng.
Thành phần này gồm có những nhân vật đã tham gia kháng chiến từ những ngay đầu
cho tới khi kháng chiến chống Pháp thành công. Đó là những người đã nằm trong
lòng của cuộc kháng chiến chống Pháp và đã nhìn ra bản chất cộng sản của bọn Hồ
Chí Minh. Là những người có tinh thần Quốc Gia, một số những người này đã ngây
thơ lựa chọn con đường chống thực dân trước, cho tới khi thành công rồi sẽ
thanh toán cộng sản sau (!!!). Một số còn lại đã tìm cớ nọ cớ kia để từ từ
ngưng hợp tác với Đảng ngay từ trước khi kháng chiến chống Pháp thành công, mặc
dầu họ vẫn được mọi người mến chuộng và được coi là giới trí thức và văn nghệ
sĩ kháng chiến.
Là những người nặng
lòng với đất nước, giới trí thức và văn nghệ sĩ kháng chiến về thủ đô đã rất
đau lòng và căm hận chính sách tương tàn của bọn Hồ Chí Minh, và lợi dụng hoàn
cảnh thuận lợi khi họ Hồ đề ra chính sách sửa sai, giới trí thức văn nghệ sĩ đã
vùng lên đấu tranh, tạo nên một chấn động trong dư luận thế giới sau khi có cuộc
nổi dậy của nông dân Quỳnh lưu, Nghệ An.
Cuộc nổi dậy của
nông dân Quỳnh Lưu gây một chấn động lớn vì nó xảy ra ngay tại tỉnh Nghệ An,
quê quán của Hồ Chí Minh, và nó cho thấy ngay đối với nhân dân tỉnh nhà, Hồ Chí
Minh là một đứa con vô liêm sỉ bị từ bỏ. Hồ Chí Minh rất căm hận hành động nổi
dậy, nên đã dùng các sư đoàn Nam Bộ Tập Kết để đàn áp, giết và đày ải hơn 6.000
nông dân, đồng thời cố tình bít kín mọi tin tức liên quan đến cuộc nổi dậy này
không lọt ra thế giới bên ngoài.
Trong khi nông dân
Nghệ An nổi dậy dùng gậy gộc, dáo mác đánh Việt cộng thì văn nghệ sĩ miền Bắc
dùng ngòi bút, đánh Việt cộng bằng những bài văn, những lời thơ sắc như thép:
Tôi muốn làm nhà văn chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôiSét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi, ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá
(Phùng Quán trong bài "Lời mẹ dặn")
Trong khi thế giới biết rất ít về những chi tiết của cuộc nổi loạn của nông dân Quỳnh Lưu, thì trái lại những tài liệu của cuộc nổi dậy của văn nghệ sĩ miền Bắc đã được bí mật gởi ra ngoài, bằng giấy trắng mực đen, khiến cho lịch sử văn học đã ghi được đầy đủ chi tiết về nội dung cuộc nổi dậy, những văn nghệ sĩ tham gia và đường lối đấu tranh của giới văn nghệ sĩ miền Bắc, v.v.... Nhờ đó, những văn thi họa phẩm của giai đoạn "Trăm Hoa Đua Nở" trên đất Bắc đã không bị mai một, dù cộng sản tìm cách thủ tiêu, và những tài liệu trên đã đóng góp vào kho tàng văn hóa dân tộc, tiêu biểu cho một trong những giai đoạn văn học phản ảnh trung thực sức đấu tranh dũng mãnh của dân tộc.
Nội Dung Cuộc Nổi Dậy
Của Văn Nghệ Sĩ Và Trí Thức Miền Bắc
Diễn đàn của giới
trí thức văn nghệ sĩ đấu tranh khởi đầu là cuốn sách Giai Phẩm 1956 còn gọi là Giai Phẩm Mùa Xuân được xuất bản vào khoảng tháng 3-1956,
trước khi có chiến dịch sửa sai . Sau khi Nikoyan sang Hà Nội giải thích chính
sách của Liên Xô, đưa đến vụ sửa sai, thì phong trào nổi dậy đã bùng lên với Giai Phẩm Mùa Thu (29-8-1956) Giai Phẩm Mùa Đông(1956), tờ
báo Nhân Văn (liên tiếp trong nhiều số), tờ Đất Mới, tuần báoTrăm Hoa,
tờ nhật báo Thời Mới, và
ngay cả báo Văn của Đảng. Tuy nhiên, tiêu biểu nhất
trong những tài liệu trên là báo Nhân
Văn và các quyểnGiai Phẩm,
cho nên người ta quen gọi phong trào nổi dậy của văn nghệ sĩ làPhong Trào
Nhân Văn - Giai Phẩm
Nội dung của Phong
Trào Nhân Văn - Giai Phẩm là đấu
tranh chống chế độ Việt cộng trên
hai lãnh vực chính:
- Đường lối chính
sách của Đảng
- Hệ thống lãnh đạo của ĐảngPhong trào Nhân Văn - Giai Phẩm đánh vào đường lối chính sách tức là đánh tận gốc Chủ Nghĩa Cộng Sản, chĩa mũi dùi vào chủ trương giai cấp đấu tranh người bóc lột người, chính sách cải cách ruộng đất, chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tại thành thị, đồng thời tấn công vào liên minh giai cấp đấu tranh giữa Việt cộng và Trung Quốc. Một trong những tài liệu quan trọng nhất thuộc loại này là cuốn "Nắng Chiều" của cụ Phan Khôi, gồm nhiều bài bút ký, tạp văn, bị Việt cộng cấm xuất bản, may nhờ có Đoàn Giỏi, một cán bộ Đảng đem ra mổ xẻ phê bình trên báo Văn Nghệ của Đảng số 15, xuất bản tháng 8-1958, người ta mới biết về nó. Sau đó, Đoàn Giỏi đã bị phê bình kiểm thảo là cố tình mổ xẻ chửi bới cụ Phan Khôi nhằm mục đích phổ biến tài liệu chống Đảng. Tội nặng nhất của cụ Phan khôi được phát hiện trong cuốn Nắng Chiều nằm trong các chuyện Nuôi vịt ở miền Nam, "Tiếng Chim", "Thái Văn Thu" và chuyện Ba Ông Vua Càn Long, Quang Trung và Chiêu Thống.
Trong chuyện "Tiếng Chim", cụ Phan
Khôi đã thuật chuyện hai con quạ không dành nhau miếng ăn để ngụ ý mỉa mai vấn
đề đấu tranh giai cấp là vấn đề căn bản của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Trong chuyện Nuôi vịt ở miền Nam, cụ Phan
Khôi thuật lại cách làm việc và cách sống của chủ và người làm thuê đều cực khổ
như nhau, đồng thời chủ chẳng những trả công cho thợ mà còn chia hoa hồng cho
thợ mỗi khi được mùa, vừa có ý ám chỉ rằng cảnh người bóc lột người theo quan
niệm đấu tranh giai cấp là không hoàn toàn có thực mà còn có ý ám chỉ Đảng bóc
lột người hơn những người chủ nuôi vịt. Trong chuyện "Ba Ông Vua", Đoàn Giỏi
giải thích rằng cụ Phan có ý ám chỉ "quan
hệ ngoại giao giữa Quang Trung và Càn Long ngày xưa không khác gì quan hệ hữu
nghị giữa ta và Trung Quốc ngày nay, một
con cáo và một con sói đồng tình vật chết một con dê".(Xem Trăm Hoa
Đua Nở Trên Đất Bắc, trang 94)
Ngoài việc đả kích
tư tưởng đấu tranh giai cấp, căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Phong Trào Nhân
Văn - Giai Phẩm còn kêu gọi mọi người đứng lên chống lại chủ nghĩa đó. Trong
bài "Tiếng Hát",
một vở kịch thơ ngắn, Hoàng Cầm đã cất tiếng kêu gọi qua tiếng hát của Trương
Chi:
Nào người quả phụ trắng khăn tang
Nào đứa em mồ côi khát sữa
Nào ai sống nhục chết oan
Nào ai tan lìa đôi lứa
Nghe tiếng hát này...
để ám chỉ những nạn nhân của cải cách ruộng đất, và tiếp theo đó kêu gọi mọi người hãy theo "Tiếng gọi của trời cao, của đất rộng" quyết "Vượt qua tường đá" của hệ thống kềm kẹp áp bức của Việt cộng.
Nào đứa em mồ côi khát sữa
Nào ai sống nhục chết oan
Nào ai tan lìa đôi lứa
Nghe tiếng hát này...
để ám chỉ những nạn nhân của cải cách ruộng đất, và tiếp theo đó kêu gọi mọi người hãy theo "Tiếng gọi của trời cao, của đất rộng" quyết "Vượt qua tường đá" của hệ thống kềm kẹp áp bức của Việt cộng.
Một mặt chống đường
lối chủ trương Đấu Tranh Giai Cấp của Đảng, một mặt khác Phong Trào Nhân Văn -
Giai Phẩm đánh thẳng vào hệ thống lãnh đạo Đảng gồm có con người và tổ chức. Về
con người lãnh đạo, các văn nghệ sĩ đánh từ Hồ Chí Minh trở xuống cho tới các
cán bộ cao cấp Trung Ương như Trường Chinh, các cán bộ lãnh đạo văn nghệ như Tố
Hữu, Hoài thanh, Xuân Diệu mà mọi người gọi là những tên "cai văn nghệ".
Một nhà thơ trẻ là
Lê Đạt đã dám ví Hồ Chí Minh như cái bình vôi:
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại
Cụ Phan Khôi còn
viết bài "Ông Bình
Vôi" trong Giai Phẩm Mùa
Thu tập I, với một câu giải thích rằng cái bình vôi sống lâu "cũng như pho tượng đất hoặc gỗ
không nói năng, không nhúc nhích, thì người ta tôn thờ sùng bái mà gọi bằng
"Ông". Chẳng những cụ đánh thẳng vào Hồ Chí Minh mà còn đánh luôn
những bọn văn nô đã tôn thờ sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh nữa. Cụ Phan Khôi còn
chọc quê Hồ Chí Minh là Ông Bình Vôi vì Hồ Chí Minh đã phạm tội tầy đình trong
cuộc cải cách ruộng đất, mà còn giả đò ù lỳ vô trách nhiệm, phủi tay chối tội
và bắt Trường Chinh chịu tội thay cho mình.
Bài thơ "Nhất định thắng" của Trần Dần đã khiến nhà thơ này bị
ngồi tù, bị đấu tố và đã dùng lưỡi dao cạo cứa cổ tự tử mà không chết. Trần Dần
là nhà văn Đảng viên thuộc giới trẻ trong Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm, đã
tham dự trận Điện Biên Phủ, sau đó vì chống Đảng mà bị đi tù ở Việt Bắc. Tới
khi dư luận chống đối của giới trí thức kháng chiến trở nên quá sôi nổi, Trần Dần
mới được Việt cộng đưa về miền đồng bằng và bắt đi theo chiến dịch cải cách ruộng
đất. Tiếp theo đó xảy ra Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm, Hoàng Cầm là bạn của
Trần Dần đã đem in một bài thơ của Trần Dần vốn được viết từ năm 1954 với nội
dung đấu tranh chống đối, đồng thời đề nghị Trần Dần viết thêm một đoạn cho có
"lập trường tốt" như thế mới được phép xuất bản và đặt tên bài thơ là "Nhất định thắng".
Ngay trong phần đầu có tính chất đấu tranh, Trần Dần cũng đánh bằng những đòn rất
kín khiến Việt cộng dù đem ông ra đấu tố, cũng chỉ bắt bẻ bâng quơ về cách dùng
chữ không ổn, "phạm húy".
Đọc bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần, người ta phải đặt mình vào khung cảnh 1954 với không khí bàng hoàng của Hiệp Định Genève cắt đôi đất nước, hàng triệu người nông dân miền Bắc hốt hoảng bỏ trốn cộng sản, trong tâm tư họ còn hằn vết thương đỏ lòm của đấu tranh Giảm Tô trước 1954, rồi cảnh gia đình xé đôi vì người đi Nam kẻ ở lại Bắc (người vợ trẻ của Trần Dần lạc lõng giữa Hà Nội vì cha mẹ đã di cư), rồi cảnh bộ đội Nam bộ tập kết được sử dụng để đàn áp cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưu.
Có đặt mình vào hoàn cảnh 1954 người ta mới mường tượng đọc ra được những ẩn ý lên án Hồ Chí Minh chia đôi đất nước bằng cách ký Hiệp Định Genève:
Tôi
đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùnBỗng nhói ngang lưng, máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
A! Cái lưỡi dao cùn
Không giết được, mà đau
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ôi cả nước! Nếu mà lưng tôi lạnh
Hãy nhìn xem có phải vết dao?
Không đứt được mà đau!
Lưng Tổ Quốc hôm nay rướm máu.
Và kế đến là cảnh đát nước miền Bắc ngập trong điêu linh dưới chế độ mới:
Tôi
bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ....
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ....
Rồi
bằng những câu hỏi "buộc tội" đối với trách nhiệm về phong trào di
cư, Trần Dần cầm bút chỉ vào Hồ Chí Minh:
"Họ
vẫn ra đi
Nhưng sao bước rã rời?
Sao họ khóc? Họ có gì thất vọng?"
Và:
"Ai dẫn họ đi?
Ai?
Dẫn đi đâu? Mà họ khóc mãi thôi"
Và cũng vẫn bằng những câu hỏi làm Việt cộng không trả lời được:
Ai có lý và ai có lực?
Ai người tin? Ai kẻ ngã lòng tin?
Cuối cùng, Trần Dần phang bốn câu làm cán bộ lãnh đạo văn hóa của Việt cộng hết nhịn nổi:
Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước tương lai
Người quên mất Mỹ là sư tử giấy
Người vẫn vội -
Người chưa kiên nhẫn mấy.
Trần Dần bị hạch tội đã dùng danh từ "Người" viết bằng chữ lớn xưa nay được cán bộ Việt cộng dùng để chỉ Hồ Chí Minh với sự tôn sùng tột độ. Tuy Trần Dần bị bỏ tù nhưng cán bộ Việt cộng không dám nói đích danh tội phỉ báng Hồ Chí Minh của Trần Dần cũng như của cụ Phan Khôi. Giống như dưới thời đại "cực kỳ phong kiến", riêng việc nhắc tới những lời "khi quân"phỉ báng của người khác cũng đủ là một sự phạm thượng đại nghịch, và không một tên Việt cộng nào dám làm.
Nhưng sao bước rã rời?
Sao họ khóc? Họ có gì thất vọng?"
Và:
"Ai dẫn họ đi?
Ai?
Dẫn đi đâu? Mà họ khóc mãi thôi"
Và cũng vẫn bằng những câu hỏi làm Việt cộng không trả lời được:
Ai có lý và ai có lực?
Ai người tin? Ai kẻ ngã lòng tin?
Cuối cùng, Trần Dần phang bốn câu làm cán bộ lãnh đạo văn hóa của Việt cộng hết nhịn nổi:
Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước tương lai
Người quên mất Mỹ là sư tử giấy
Người vẫn vội -
Người chưa kiên nhẫn mấy.
Trần Dần bị hạch tội đã dùng danh từ "Người" viết bằng chữ lớn xưa nay được cán bộ Việt cộng dùng để chỉ Hồ Chí Minh với sự tôn sùng tột độ. Tuy Trần Dần bị bỏ tù nhưng cán bộ Việt cộng không dám nói đích danh tội phỉ báng Hồ Chí Minh của Trần Dần cũng như của cụ Phan Khôi. Giống như dưới thời đại "cực kỳ phong kiến", riêng việc nhắc tới những lời "khi quân"phỉ báng của người khác cũng đủ là một sự phạm thượng đại nghịch, và không một tên Việt cộng nào dám làm.
Ngoài việc tấn công tên đầu sỏ của Việt cộng, các văn nghệ sĩ và trí thức
miền Bắc còn đả kích hệ thống lãnh đạo Việt cộng qua tổ chức "Hội các nhà văn", tổ
chức Mậu Dịch Quốc Doanh,
đồng thời đả kích tính chất phi pháp của cải cách ruộng đất qua bài tham luận của
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường mà ta sẽ có dịp đề cập tới trong một đoạn khác.
Trên đây ta đã tóm lược cuộc đấu tranh tiếp theo của Nhân Dân miền Bắc để
chống lại sự phản bội kháng chiến của Hồ Chí Minh và cuộc tàn sát dã man qua Cải
Cách Ruộng Đất. Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm tượng trưng cho một cuộc nổi dậy
có tổ chức và tư tưởng chỉ đạo quy mô hơn cả. Tuy nhiênnó cũng có nhược điểm
quan trọng và đã bị dập tắt sau khi Hồ Chí Minh ký một sắc lệnh ngày 15-12-1956 chính thức hủy bỏ quyền tự do ngôn
luận, cấm lưu hành tất cả các nhật báo, tạp chí, sách vở văn nghệ phẩm chống đối.
Trước khi ký sắc lệnh bịt miệng văn nghệ sĩ, Hồ Chí Minh
đã phóng ra một chiến dịch dùng báo chí Đảng chụp mũ tội "gián điệp" của Pháp và của
Mỹ lên đầu nhóm Nhân Văn -
Giai Phẩm, tổ chức học tập khắp nơi, và cán bộ Đảng thúc đẩy các đoàn thể
công nông binh, học sinh và dân Nam bộ tập kết ký kiến nghị tự xưng là "mọi từng lớp nhân dân" đòi nhà
nước trừng trị nhóm Nhân Văn. Sau khi bịt miệng văn
nghệ sĩ, Việt cộng chỉ cho phép báo của Đảng múa võ một mình. Hội văn nghệ của
Đảng được chỉ thị cho ra báo Văn. Nhưng múa võ một mình trong một thời gian,
báo Văn trở nên nhạt nhẽo quá khiến ban chủ nhiệm cũng phải cảm thấy nản, và
quay ra chống Đảng bằng cách đăng những bài của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Việt cộng
bèn đàn áp thẳng tay, bắt 304 văn nghệ sĩ đi chỉnh huấn, sau đó đi "Lao Động Cải Tạo"ở
những vùng rừng thiêng nước độc của Việt Bắc. Hành động bịt miệng và đàn áp thẳng
tay đối với văn nghệ sĩ đã tạm thời chấm dứt một hình thức chống đối trên Mặt
Trận Văn Hóa, nhưng chưa chấm dứt phong trào đấu tranh của nhân dân dưới các
hình thức khác. Cuộc đấu tranh phi quy ước giữa Việt cộng và các tầng lớp nhân
dân bị áp bức còn đương diễn ra trên Mặt Trận Kinh Tế qua các giai đoạn tiếp
theo gồm có công hữu hóa ruộng
đất vườn ao, hợp tác xã cấp thấp, hợp tác xã cấp cao,v.v...
Các cuộc đấu tố của giai đoạn đã qua cho tới năm 1956 mới chỉ là Màn I của
tấn kịch cải cách ruộng đất.Giai đoạn đấu tranh từ 1951 đến 1956 đưa tới vụ sửa
sai và Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm có một số đặc điểm rất điển hình đáng
cho ta ghi chép lại đây.
IV. Những Đặc Điểm
Của Giai Đoạn Cải Cách Ruộng Đất 1951-1956 Đưa Đến Chiến Dịch Sửa Sai
Những nỗ lực và những hoạt động của
cộng sản nhằm dành giựt quyền lực hoặc từ vai trò có quyền lực trong tay để đàn áp quần
chúng nhân dân, tất cả đều là
những nỗ lực và hoạt động của chiến tranh mặc
dầu nhiều khi không có tiếng súng nổ. Đó là cuộc chiến tranh diễn ra từ
1951 tới 1956 phối hợp hai loại đặc điểm nổi bật:
- Những đặc điểm có tính cách chiến
tranh phi quy ước
- Những đặc điểm có tính cách Mác-xít Lênin-nít điển hìnhNếu ta còn nhớ những đặc điểm của chiến tranh phi quy ước trong bài nghiên cứu đầu tiên đại cương về chiến tranh quy ước và phi quy ước, ta sẽ thấy lại những đặc điểm này trong cuộc cải cách ruộng đất của giai đoạn 1951-1956.
1. Dựa vào lực lượng
quần chúng
Đây là một đặc điểm điển hình của
chiến tranh phi quy ước cũng như của chiến dịch Đấu Tranh Chống Phản Động, Đấu
Tranh Giảm Tô, Đấu Tranh Cải Cách Ruộng Đất. Để tiêu diệt mầm mống chống đối,
Việt cộng đã không sử dụng biện pháp pháp lý, biện pháp hành chánh, hay sử dụng
cảnh sát công an, quân đội, mà đã huy động nông dân, bằng cách nhóm Đại Hội
Nông Dân, dùng các "đội đấu tố" và "đội cải cách" xâm nhập
vào dân để xách động dân, làm như thể nông dân đứng chủ động đòi tiêu diệt phản
động, tiêu diệt địa chủ. Việt cộng còn công khai giải tán hệ thống hành chánh
xã trong giai đoạn "đội cải cách" về làng phát động đấu tranh, bề
ngoài làm như đề cao quyền lực của nông dân, nhưng thực sự bên trong là gán
ghép trách nhiệm cho dân, làm cho bàn tay nông dân có dây máu địa chủ, nghĩa là
nếu họ không có chủ động thì ít ra cũng là kẻ đồng lõa tội ác.Tại sao họ Hồ lại
cần có liên minh tội ác đó? Theo sự suy đoán của các hồi chánh viên có liên hệ
tới cải cách ruộng đất thì một trong những lý do có tính cách chiến lược là
tương quan lực lượng giữa Đảng và giới địa chủ, phú nông, trung nông và tất cả
nông dân hữu sản cho thấy Đảng là thiểu số.
Quan niệm dựa vào lực lượng quần chúng vừa là một đặc điểm của chiến tranh
phi quy ước lại vừa phù hợp chủ trương cố hữu của cộng sản và kỹ thuật đấu
tranh của cộng sản. chủ trương của cộng sản là tiêu diệt tư hữu, tiêu diệt tư sản,
tất nhiên phải tiêu diệt địa chủ là những phần tử tư sản "ngoan cố"
nhất. Kỹ thuật đấu tranh của cộng sản là "lấy mâu thuẫn giải quyết mâu thuẫn":
nghĩa là Tạo ra mâu thuẫn giữa
các lực lượng thù địch đẩ các lực lượng này tiêu diệt lẫn nhau và cộng sản ngồi
rung đùi hưởng lợi. Đó là chiến
lược xúi Ngô đánh Ngụy để mình lấy ngon đất Kinh Châu (Tam Quốc Chí). Áp dụng
vào trường hợp đấu tranh cải cách ruộng đất, "lấy mâu thuẫn giải quyết mâu
thuẫn" là lấy bần cố nông giải quyết bài toán địa chủ. Nếu dùng biện pháp
pháp lý để cải cách ruộng đất như các nước Á Châu khác, Việt cộng phải quốc hữu
hóa hoặc mua rẻ ruộng đất của địa chủ rồi chia cho nông dân, như thế đích thân
Đảng phải đối phó với khoảng 1 triệu người thuộc thành phần địa chủ phú nông và
trung nông, mà trong đó có nhiều người có công với kháng chiến, có uy tín với
dân. Tự lực đối phó với khoảng 1 triệu có tư sản, trong khi đảng viên nòng cốt
của Việt cộng lúc đó chưa đầy 500 ngàn người là một việc nguy hiểm.
2. Bất chấp pháp
lý, bất chấp quy ước hành chánh
Đây là đặc điểm thứ hai của cộng
sản khi áp dụng hình thái chiến tranh phi quy ước vào cải cách ruộng đất. Chẳng
những Việt cộng không sử dụng các biện pháp pháp lý và các quy ước hành chánh
thông thường, mà chúng còn trắng trợn vi phạm các nguyên tắc pháp lý và hành
chánh được coi là khuôn mẫu để duy trì trật tự quốc gia và xã hội của các nước
văn minh từ 400 năm qua.
Luật sư Nguyễn Mạnh
Tường, qua bài diễn văn đọc ngày 30-10-1956 trong một cuộc họp của Mặt Trận Tổ
Quốc Hà Nội, đã nêu lên những vi phạm nguyên tắc pháp lý, trong Cải Cách Ruộng
Đất:
a) Nguyên tắc thứ
nhất: Không hành phạt các tội đã phạm quá lâu rồi mới bị khám phá vì khó xác định
các bằng chứng buộc tội. Khi buộc tội một người với những bằng chứng hồ đồ, xã
hội sẽ tạo ra những tiền lệ bất công làm mất uy tín của cơ chế cầm quyền và gây
xáo trộn xã hội. Việt cộng đã vi phạm thô bạo nguyên tắc thư nhất khi mớm cung
cho những bần cố nông vu oan gia họa cho nạn nhân Cải Cách Ruộng Đất về những tội
đã phạm từ mấy chục năm trước, dựa vào những bằng chứng hồ đồ (như hồi chánh
viên Nguyễn Văn Thân đã tường thuật).
b) Nguyên tắc thứ
hai: Theo lời Luật sự Nguyễn Mạnh Tường: Trách nhiệm của phạm nhân thì chỉ một
mình phạm nhân phải chịu, không có trách nhiệm chung với vợ con, của gia
đình", chỉ trong thời đại phong kiến dã man mới có luật tru di tam tộc để
trừng phạt bà con họ hàng của người có tội. Nhưng riêng trong chế độ Việt cộng,
không những thân nhân của người có tội phải trả nợ máu, mà ngay cả những người
không có liên hệ máu mủ gì với nhau mà cũng bị chết chùm với nhau vì mang cái
nhãn hiệu chung là địa chủ, phú nông. "Kích tỷ lệ" là một vi phạm thô
bạo của nguyên tăc thứ hai về pháp lý.
c) Nguyên tắc thứ
ba: Theo luật sư Nguyễn Mạnh Tường là "muốn kết án một người phải có bằng
chứng xác đáng. Phải có nhân chứng là những kẻ đã mục kích sự phạm pháp và cung
khai một cách cụ thể, rõ ràng và chắc chắn. Một nhân chứng thôi cũng chưa đủ,
ít ra phải có hai nhân chứng khai phù hợp với nhau, mới được là đáng kể... Khi
nêu lên nguyên tắc thứ ba trên đây, có lẽ ông Nguyễn Mạnh Tường muốn ám chỉ những
vụ Đấu Giảm Tô như anh Nguyễn Văn Thân thuật lại, ví dụ: "Một cái sẹo cũ
vì bị ngã từ hồi còn bé sẽ được trình bày là vết dao chém của địa chủ ác ông...
Hoặc nếu một bà lão rụng hết tóc vì già hay vì bệnh hoạn thì sẽ dùng chứng tích
này để tố địa chủ nắm tóc giật đánh", (xem bài trước). Những bằng chứng cần
thiết để chứng tỏ vết dao chém tối thiểu là phải trình bày được con dao có vết
máu của nạn nhân. Vì bất chấp nguyên tắc thứ ba trên đây, trong giai đoạn
"Đấu tranh chống phản động" đội cải cách của Việt cộng đã "mớm
cung theo dây chuyền", khiến nhiều nạn nhân đã khai lung tung ra ngoài sự
dự liệu của cán bộ Đảng và làm trò cười cho đấu trường cải cách, cũng như làm
trò cười cho lịch sử mai hậu.
d) Nguyên tắc pháp
lý thứ tư: "Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố
nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình, và khi thiếu điều kiện
nhờ luật sư, khi nào là một trọng tội, tòa phải cử luật sư bào chữa không, cho
bị can... Khi điều tra, thẩm vấn, tuyệt đối không được dùng phương pháp tra khảo,
đánh đập, hành hạ bị cn, mớm cung cho bị can, dọa nạt hay dụ dỗ đương sự"...
3. Thủ Tiêu Chế Độ
Pháp Trị Chân Chính
Một chế độ pháp trị chân chính phải
xác định rõ đâu là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người từ thường dân cho tới
người lãnh đạo. Việt cộng chẳng những thủ tiêu quyền lợi của người dân qua việc
bất chấp các nguyên tắc pháp lý căn bản, mà còn lờ luôn trách nhiệm pháp lý của
cấp lãnh đạo đảng, nhất là họ Hồ, tên chủ mưu trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất
đẫm máu. Về điểm này ông Nguyễn Mạnh Tường viết: ..."Trước hết, bức thư của
ông Hồ Viết Thắng tự phê bình và xin rút lui khỏi Mặt Trận Trung Ương chỉ là một
giải pháp chính trị mà thôi..." "...là một nhà luật học, tôi chưa thể
nào nhận định được trách nhiệm của ông Thắng. Có thể trách nhiệm của ông ấy rất
lớn, có thể rất nhỏ. Đứng trên tinh thần pháp lý, sự nhận tội lỗi của một người
không đủ để quy định trách nhiệm của người ấy...".
Lập luận của ông
Nguyễn Mạnh Tường có ý nói rằng:
Thứ nhất: Giải
pháp hạ tầng công tác Trường Chinh và sự từ chức của Hồ Viết Thắng chỉ là một
giải pháp chính trị, và nếu ngưng ở đó, Việt cộng đã cố tình xí xóa trách nhiệm
pháp lý đối với các vụ sát nhân có mưu định rõ ràng. Và ông Tường gọi đó là
"chính trị lấn áp pháp lý".
Thứ hai: Trách
nhiệm của Hồ Viết Thắng có thể rất lớn, có thể rất nhỏ, nghĩa là nếu Hồ Viết Thắng
chỉ là một kẻ thừa hành, thì cần phải truy nguyên ra cái trách nhiệm pháp lý
cao chót vót là Trung Ương Đảng và Hồ Chí Minh. Không xác định quyền lợi cùa
người dân và trách nhiệm pháp lý của Đảng và nhà nước Việt cộng đã thủ tiêu chế
độ pháp trị chân chính. Mà thủ tiêu chế độ pháp trị chân chính là một đặc điểm
có tính cách Mác-xít Lênin-nít điển hình. Và nó là nguyên nhân của bao xương
máu, chết chóc và đau thương diễn ra trên đất Việt Nam từ hơn 30 năm nay.
Bài nghiên cứu này
kết thúc một giai đoạn đặc biệt của Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc, và không có
nghĩa cuộc cải cách ruộng đất của Việt cộng đã chấm dứt khi ruộng đất được lấy
từ địa chủ để chia cho nông dân nghèo. Không! Sau khi chia ruộng cho nông dân nghèo,
Việt cộng đã từ từ lấy lại hết tất cả ruộng đất tài sản của họ qua các chiến dịch
Tổ Đổi Công, Hợp Tác Xã Cấp Thấp, Hợp Tác Xã Cấp Cao,v.v... song hành với các kế
hoạch kinh tế 3 năm, kế hoạch kinh tế 5 năm,v.v.. mà chúng ta sẽ nghiên cứu
trong những bài tới.
Trong phần kết luận
của bài này, chúng ta hãy đưa ra một nhận xét về trách nhiệm chính trị và pháp
lý của một hành động liên quan đến trật tự công cộng và tính mạng của người
dân.
Một người thường
dân phạm tội giết người phải chịu trách nhiệm pháp lý cho hành động đó. Nếu việc
giết người có chủ mưu, đó là một trọng tội về hình sự, và hình phạt thường là lấy
mạng đền mạng. Một cấp lãnh đạo chính trị, nếu giết người có chủ mưu vì mục
đích chính trị thì phải chịu trách nhiệm về pháp lý, và sau đó còn phải chịu
thêm trách nhiệm về chính trị. Trách nhiệm pháp lý càng gia tăng gấp bội nếu là
tội tàn sát nhiều người với sự dự mưu kỹ càng. Một chế độ, một tập đoàn thống
trị phạm tội tàn sát tập thể cả trăm ngàn người cũng phải chịu trách nhiệm
chính trị và pháp lý như trường hợp chế độ phát xít Đức, phát xít Ý và quân phiệt
Nhật,v.v... Những kẻ lãnh đạo, tùy theo trách nhiệm và sự dự mưu đều phải đền tội
cả về phương diện chính trị và pháp lý. Trước hết bị tước hết quyền hành chính
trị và sau đó lấy mạng đền mạng.
Công lý đã được
thi hành tại Đức, tại Ý, tại Nhật, sau Đệ Nhị Thế Chiến, và trật tự quốc gia nhờ
đó đã được tái lập tại Đức, tại Ý, tại Nhật. Nhưng cũng kể từ sau Đệ Nhị Thế
Chiến, vì Liên Xô không bị trừng phạt về những tội diệt chủng nên các chế độ cộng
sản từ Âu sang Á đã thừa kế thủ tiêu nền pháp trị chân chính. Chúng phủi tay chối
bỏ mọi trách nhiệm pháp lý đối với tội ác của chúng vì nhân dân bất lực trước họng
súng đàn áp, và vì công lý không có sức mạnh để thực thi.
Ở Việt Nam, Hồ chí
Minh và đảng Việt cộng đã phạm nhiều tội ác chồng chất. Tội tàn sát trong Cải
Cách Ruộng Đất chỉ là một trong nhiều tội ác tày đình của chúng trong hơn 30
năm qua. Mỗi lần gặp khó khăn vì nhân dân ta đấu tranh, chúng lại tìm cách xoa
dịu, xí xóa, khi thì bằng chính sách sửa sai, khi thì bằng chính sách nới lỏng
các biện pháp kềm kẹp kinh tế, khi thì bằng màn xiệc "đổi mới tư
duy". Nhưng luôn luôn có nhiều người bị chúng lường gạt, và mỗi lần như thế,
Việt cộng lại chối bỏ được trách nhiệm về tội ác, và trở nên mạnh hơn khi những
nhóm người hoặc thế lực ngu xuẩn giúp chúng cơ hội và phương tiện phục hồi sức
mạnh để tiếp tục tội ác.
Ngày nay, dân ta
đã thức tỉnh, và đã đấu tranh mạnh mẽ buộc Việt cộng phải lãnh trách nhiệm đối
với tội ác của chúng. Dân ta cương quyết thì hành động công lý bằng cách lật đổ
chế độ Việt cộng và thiết lập một nền pháp trị chân chính, nghĩa là bất cứ tập
đoàn nào phản nước hại dân phải chịu trách nhiệm chính trị và pháp lý trước
toàn dân, tức là trả lại quyền hành chính trị và chịu sự phán đoán của luật
pháp quốc gia. Nhân Dân Việt Nam coi những biện pháp "sửa sai" hoặc
"cởi mở" hoặc "đổi mới" hoặc "hòa giải hòa hợp"
là những trò xiệc bịp bợm để bịp những nhóm người ngu xuẩn, hoặc đón gió làm
tay sai cho ngoại bang.
Ngày 21-7-1954, trong buổi họp kết thúc hội nghị Genève, Phạm Văn Đồng
tuyên bố sẽ đạt tới thống nhất như đã chiến thắng nước Pháp. Ngày hôm sau,
22-7-1954, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh sự quyết tâm này bằng cách công khai kêu
gọi nhân dân miền Bắc đấu tranh gian khổ và trường kỳ để chiếm cho được miền
Nam, mà họ Hồ gọi là "lãnh thổ của chúng ta". Để có thể chiếm được miềnNam,
Việt cộng phải củng cố ách thống trị trên miền Bắc, một công việc mà Hồ Chí
Minh gọi là "Xây Dựng Xã Hội Chủ Nghĩa".
Sau cuộc Cải Cách Ruộng Đất, Việt cộng đã
đoàn ngũ hóa được khối nhân lực ở nông thôn. Đồng thời cuộc cải tạo tư bản tư
doanh, đưa đến công tư hợp doanh, và biến thành quốc doanh cùng hợp tác hóa
nông nghiệp, đăng ký hộ khẩu giúp nhà nước cộng sản đoàn ngũ hóa được khối nhân
lực thành thị. Tổng cộng trong những năm sau đó, Việt cộng đã động viên được một
khối nhân lực lao động lên tới 9.600.000 người dưới sự lãnh đạo sản xuất của
nhà nước. Họ làm đêm làm ngày, tăng gia sản xuất, "một người làm việc bằng
hai" để tăng cường củng cố sức mạnh của chế độc và chuẩn bị xâm chiếm miềnNam.
Tất cả các nỗ lực của miềnBắc đều dồn vào việc thực hiện hai mục tiêu trên.
Tháng 2 năm 1957, Việt cộng triệu tập Đại
Hội Trung Ương Đảng Lao Động khóa 12 để thông qua kế hoạch nhà nước năm 1957,
và để tăng cường quốc phòng.
Tháng 4 năm 1960, quốc hội bù nhìn Việt cộng
thông qua đạo luật động viên thanh niên miền Bắc mà Việt cộng gọi là đạo luật về
Nghĩa Vụ Quân Sự.
Đó là những nét đại cương về đường lối
chính sách trên phương diện quân sự. Nhìn lại thực tế thì, vào thời điểm 1955
sau khi chiếm được miềnBắc, cuộc chiến tranh chống Pháp đã để lại cho Việt cộng
một quân đội tuy háo chiến nhưng còn yếu kém về tổ chức và kỹ thuật hiện đại.
Muốn xâm lăng miềnNam, Việt cộng cần cải tổ lại quân đội đó. Công tác này được
gọi là "công cuộc xây dựng quân đội chính quy miền Bắc" mà ta sẽ nói ở
phần sau. Nhưng công tác này không đòi hỏi nhiều thì giờ cho bằng công tác xây
dựng kinh tế miềnBắc, vì muốn vơ vét nhân lực miền Bắc, cộng sản đã lợi dụng
luôn lực lượng quân đội làm cái khung cho công việc sản xuất, và chuẩn bị các
cơ sở có tính cách phục vụ cho một cuộc chiến tranh lâu dài. Với ý niệm trên,
trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu 3 chủ đề chính:
- Tổng Biên Chế quân đội miềnBắc.
- Xây dựng các công trình sản xuất chiến lược, cơ sở quân sự và xa lộ chiến lược,- Xây dựng lực lượng chính quy Việt cộng trong đó có công tác hiện đại và công tác chính trị hóa quân đội.
I. Tổng Biên Chế Quân
Đội Miền Bắc
Năm 1956 Phạm Văn Đồng "đệ
trình" lên quốc hội bù nhìn Việt cộng dự luật "Giảm Trừ Quân Bị".
Nguyễn Ngọc Mai, một hồi chánh viên thuật lại:
"Theo dự luật này, Việt cộng nói rằng sẽ giảm bớt 80.000 bộ đội
chính quy, và tuyên truyền ầm lên rằng miềnNam vi phạm hiệp định Geneve, không
chịu Hiệp Thương Tổng Tuyển Cử".
Thực
chất của vấn đề là Việt cộng miền Bắc dùng dự luật Giảm Trừ Quân Bị làm bình
phong cho chính sách Tổng Biên Chế Quân Đội Miền Bắc. Danh từ Tổng Biên Chế có
nghĩa là chuyển một cách quy mô số 80.000 quân đội từ công tác chiến đấu sang
công tác sản xuất mà vẫn duy trì khả năng võ trang. Danh từ Tổng Biên Chế khác
với danh từ Phục
Viên của Việt cộng dùng để chỉ việc giải ngũ quân đội cho họ trở thành thường
dân. Phục viên có nghĩa làvề vườn (mượn của Tàu).
Điểm chủ yếu của chính sách Tổng Biên Chế
quân đội Miền Bắc là quân đội đóng vai trò chính trong mọi công tác sản xuất,
làm thành phần tiên phong để xây dựng nhất là ngành công nghiệp và nông nghiệp.
Sau chiến dịch sửa sai và ổn định tình hình chính trị, ổn định tình hình an
ninh lãnh thổ. Việt cộng đặt một kế hoạch ba năm (1957,1958,1959) ổn định kinh
tế với mức yêu cầu là phải đạt được nền kinh tế 1939 (Việt cộng lấy tiêu chuẩn
năng suất canh nông của năm 1939 là năm tấn mỗi hectare). Chính sách Tổng Biên
Chế quân đội mang phần lớn nhân lực của quân đội Việt cộng ra thực hiện công
tác phục hồi kinh tế và chỉ giữ lại một số quân thường trực để đáp ứng tình
hình.
1. Sự lợi hại của chính sách Tổng Biên Chế
Chính sách Tổng Biên Chế đã giải quyết một
lúc hai vấn đề gai góc:
- Thứ nhất là các đơn vị Miền Nam ra tập kết ngoài Bắc, sau công tác đàn áp di
cư và Cải Cách Ruộng Đất, trở nên dư thừa và có nhiều bộ đội tập kết thất vọng
vì Hồ Chí Minh không thực hiện được sự thống nhất đất nước qua một cuộc tổng
tuyển cử như đã hứa hẹn long trọng. Không thống nhất được đất nước, nghĩa là
sau 2 năm xa cách miền Nam những bộ đội tập kết ra Bắc nhìn thấy hy vọng được
phép về đoàn tụ với gia đình trở nên quá mờ mịt. Trong 5 năm hay 10 năm, chưa
chắc đã gặp lại thân nhân còn ở lại miền Nam, việc "hội nhập" một số
đông đảo thanh niên gốc miền Nam ở đất Bắc là một vấn đề khó khăn, gây nhiều áp
lực tâm lý trên tập thể này.
Đề ra chính sách Tổng Biên Chế, Việt cộng hứa hẹn sẽ xây dựng gia đình cho các anh em bộ đội tập kết bằng cách đưa anh em đi khai phá miền thượng du lập nông trường, nơi mà nhà nước gọi là "quê hương mới". Khi đã đưa anh em tới nơi khai phá nông trường, một mặt nhà nước hứa hẹn xây dựng vợ con cho bộ đội, một mặt ra lệnh cho Tỉnh uỷ địa phương tuyển mộ những thiếu nữ địa phương từ 18 tới 25 tuổi vào làm công nhân trong nông trường. Các nữ công nhân này khi đã vào trong nông trường mới biết rằng mình không được phép ra khỏi nông trường, vì lệnh trên truyền xuống là bất cứ nữ công nhân nào muốn ra nông trường phải có giấy phép của "chồng" . Như vậy họ chỉ còn có cách lấy bộ đội tập kết chứ còn cách nào khác nữa! Tình trạng này đã đưa đến những sự mâu thuẫn giữa bộ đội tập kết và dân chúng địa phương, vì trong số những nữ công nhân bị đưa vào nông trường, có nhiều người đã hứa hôn với thanh niên tại địa phương. Do đó nhiều thanh niên địa phương tìm đánh bộ đội tập kết vì cho rằng các anh em tập kết đã chiếm đất lại còn chiếm cả vợ của họ nữa.
Đề ra chính sách Tổng Biên Chế, Việt cộng hứa hẹn sẽ xây dựng gia đình cho các anh em bộ đội tập kết bằng cách đưa anh em đi khai phá miền thượng du lập nông trường, nơi mà nhà nước gọi là "quê hương mới". Khi đã đưa anh em tới nơi khai phá nông trường, một mặt nhà nước hứa hẹn xây dựng vợ con cho bộ đội, một mặt ra lệnh cho Tỉnh uỷ địa phương tuyển mộ những thiếu nữ địa phương từ 18 tới 25 tuổi vào làm công nhân trong nông trường. Các nữ công nhân này khi đã vào trong nông trường mới biết rằng mình không được phép ra khỏi nông trường, vì lệnh trên truyền xuống là bất cứ nữ công nhân nào muốn ra nông trường phải có giấy phép của "chồng" . Như vậy họ chỉ còn có cách lấy bộ đội tập kết chứ còn cách nào khác nữa! Tình trạng này đã đưa đến những sự mâu thuẫn giữa bộ đội tập kết và dân chúng địa phương, vì trong số những nữ công nhân bị đưa vào nông trường, có nhiều người đã hứa hôn với thanh niên tại địa phương. Do đó nhiều thanh niên địa phương tìm đánh bộ đội tập kết vì cho rằng các anh em tập kết đã chiếm đất lại còn chiếm cả vợ của họ nữa.
-Vấn đề gai góc thứ hai là tại Việt cộng có
nhiều nơi ở đồng bằng dân cư quá đông, mà đất đai cằn cỗi không canh tác được,
trong khi ở miền thượng du nhiều nơi đất còn nguyên mầu mỡ chưa được khai phá.
Những người nông dân Việt Nam rất sợ nơi rừng thiêng nước độc, vả lại công việc
phá rừng lấy đất trồng trọt là một công tác cực kỳ gian khổ. Đề ra chính sách Tổng
Biên Chế quân đội, đảng và nhà nước có một lực lượng nhân công có sẵn tinh thần
kỷ luật, chịu đựng gian khổ.
Có nhiều nông trường "quê hương mới" được bắt đầu thiết lập từ 1957-1958, mà
quan trọng nhất phải kể nông trường Lam Sơn ở Thanh Hóa, nông trường Đồng Vàng ở
Phú Thọ, nông trường Gỗ Cao-Bắc-Lạng (thuộc ba tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn và Lạng
Sơn).
Tại nông trường Lam Sơn, chính sách Tổng
Biên Chế sử dụng bộ đội của Sư đoàn 338 tập kết, mỗi tiểu đoàn lấy ra một đại đội
xuất sắc. Sự gian khổ cực nhọc của công việc khai phá nông trường có khi còn vượt
quá mức độ ở nông thôn, nơi giờ lao động hàng ngày là 12 giờ, từ 6 giờ sáng tới
6 giờ tối. Một cán binh tập kết thuộc Sư đoàn 338 đã phải phục vụ tại nông trường
Lam Sơn 3 năm từ 1958 đến 1961, kể lại nỗi gian khổ và công trình trồng cà phê,
cao su:
"Công việc khai thác rừng để thành lập nông trường là một
công tác cực nhọc vô biên, không tả xiết. Từ nhỏ đến lớn, chưa bao giờ tôi phải
làm cực nhọc như thế. Nông trường lấy tên là nông trường Lam Sơn tại huyện Hòa
Lạc, tỉnh Thanh Hóa, quê hương vua Lê Lợi. Chúng tôi đến đây phá rừng để trồng
cà phê, cao su và chăn nuôi trâu bò gà vịt. Chiến sĩ lúc này trở thành một tên
cu-li, đầu đội nón lá tay cầm rựa suốt ngày đi chặt cây đốt rừng, cuốc đất
v.v.... Nắng cháy da thịt. Chúng tôi có cảm tưởng như tù khổ sai bị đầy ải..."
(Nguyễn Văn Hoài).
Ngoài
Sư đoàn 338 tập kết, tại Nông trường Lam Sơn còn có nhiều đơn vị khác nữa vì tổng
số bộ đội tập kết tại đây là 39 đại đội, mỗi đại đội phụ trách một khu rừng và
được tăng cường thêm một số công nhân địa phương.
"Đời sống anh em mình ngày Bắc đêm
Nam" đó là câu
nói thường xuyên của các anh em tập kết, có nghĩa là ban ngày gian lao khổ cực
không còn thì giờ suy nghĩ nhưng đêm xuống là tâm hồn bộ đội tập kết đều hướng
về miền Nam nơi gia đình thân yêu đương sống.
Tại nông trường Đồng Vàng, Phú Thọ, bộ đội
tập kết được tổng biên
chế để khai khẩn nông trường trồng trà và cà
phê. Thượng uý Đặng Anh Kiến thuộc Trung đoàn tập kết 96 từ An Khê ra Bắc và hoạt
động tại nông trường Đồng Vàng, cho biết hai phần ba trung đoàn và cơ quan
Trung đoàn Bộ được đưa tới nông trường:
"...Lúc mới đầu tuy sản xuất nhưng vẫn giữ nguyên cách thức tổ
chức và điều hành của quân đội, nhưng về sau, khi nông trường đã hoạt động đều,
hình thức quân đội được xoá bỏ. Anh em bộ đội biến thành công nhân của nông trường,
trực thuộc Bộ Nông Trường. Nghĩa là họ chính thức thành công nhân, họ ăn lương
theo cấp bậc công nhân nông trường chứ không còn ăn lương của quân đội nữa....
Trong thời gian khai phá nông trường Đồng Vàng (lúc ban đầu) chúng tôi vẫn ăn uống
theo chế độ cung cấp của quân đội) 1 ngày là 0.70 đồng (tức là 21 đồng một
tháng). Ngoài ra chúng tôi không được bồi dưỡng thêm gì cả. Có thể nói thời
gian này mồ hôi chúng tôi đổ rất nhiều..."
"... Sau
khi các nông trường đã hoàn chỉnh, nghĩa là các nông trường đã bắt đầu hoạt động
thì nhà nước đẩy các chị em phụ nữ chưa chồng vào các nông trường. Và sau đó,
anh em bộ đội và chị em phụ nữ xây dựng với nhau thành những cặp vợ chồng.
Trong tinh thần đó các nông trường dần dần lớn mạnh và trở thành những trung
tâm kinh tế đông dân cư...".
Chính sách Tổng
Biên Chế không phải chỉ đem quân đội vào nông trường, mà nói chung vào tất cả mọi
ngành:
"Nông trường là ngành mà quân đội xây dựng đến 80% hay 90% Về
công nghiệp (công trường) quân đội cũng chuyển ngành qua xây dựng, như khu công
nghiệp Việt Trì là do Trung đoàn 108 thuộc Sư đoàn 305 xây dựng hoàn toàn, hoặc
khu Liên Hợp Gang Thép Thái Nguyên là do Sư đoàn 316 xây dựng.... Hoặc công tác
cải tạo tư bản tư doanh, công tư hợp doanh ở thành thị cũng đều do cán bộ quân
đội đảm trách... "Có thể nói quân đội chiếm trên 90%.Ngay công an dân cảnh
Hà Nội bây giờ, các hầm mỏ, cảng Hải Phòng". (Đăng Anh Kiến).
Ngoài
việc Tổng Biên Chế các đơn vị chiến đấu chính quy để làm công tác sản xuất, Việt
cộng bắt bộ đội phải thi hành Lời Thề Thứ 5: "Quân đội làm tròn trách nhiệm là chiến đấu và sản xuất" . Vì thế các đơn vị chủ
lực của các tỉnh, hay các đơn vị công binh, cầu đường sống tại căn cứ, ít di
chuyển cũng phải sản xuất để tự túc cung cấp lương thực một tháng mỗi năm. Các
đơn vị này còn phải chăn nuôi thêm để trực tiếp cung cấp thịt ăn.
2. Các Nông Trường, Công Trường Do Quân Đội Được
Tổng Biên Chế Để Xây Dựng Và Quản Lý
Mặc dầu các cán binh bị đem vào nông trường
và công trường làm công tác sản xuất như một công nhân viên, họ vẫn phải nằm
trong khuôn khổ huấn luyện quân sự. Trên toàn miền Bắc có 43 nông trường, thì
32 cái được gọi là nông trường quân đội, trong đó hàng tuần công nhân được huấn
luyện quân sự, và được biên chế vào các đơn vị đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn
chiến đấu.
Một hồi chánh viên cho biết như sau:
"Mỗi nông trường coi như một trung đoàn tự vệ. Khi cần thiết
họ có thể điều động một lúc hàng trăm người ra chiến đấu ngay được, ví dụ cụ thể
năm 1961, nông trường Rạng Đông tỉnh Nam Định thuộc Quân khu Hữu Ngạn Sông Hồng
điều động một lần được 300 sĩ quan và binh sĩ đi chiến đấu ở chiến trường B (miền
Nam) chiến trường C (Lào) và sau đó mỗi quý, mỗi 6 tháng hay một năm lại điều động
một loạt cho đến khi hết cựu sĩ quan và binh sĩ ở nông trường mới ngưng lại.
Như vậy mục đích họ thành lập nông trường Quốc doanh do bộ đội chuyển ngành
sang (Tổng Biên Chế) là để giữ lượng cựu sĩ quan và binh sĩ lại để vừa sản xuất
kinh doanh vừa huấn luyện quân sự, và khi cần thiết có thể điều động ngay ra
chiến trường chiến đấu...".
Các
nông trường còn là nguồn bổ sung lực lượng trừ bị. Đó là các thanh niên được
tuyển từ các thành phố, thị xã hoặc các vùng nông thôn vào làm công nhân trong
nông trường. Một khi đã vào nông trường, họ bị khép vào kỷ luật quân đội, kỷ luật
tập thể, phải học tập chính trị và bị nhồi sọ bằng tư tưởng Mác-xít.
Trên phương diện an ninh diện địa, các
nông trường còn có nhiệm vụ phòng thủ biên giới, bờ biển và các vị trí trọng yếu
như ta sẽ thấy trên bản đồ dưới đây.
- Hai tỉnh Sơn La, Lai Châu ở phía Tây-Bắc
của Việt cộng có 2 nông trường Điện Biên Phủ và nông trường Mộc Châu do hai
trung đoàn thuộc Sư đoàn 305 tập kết và 316 đóng giữ.
- Tỉnh Sơn Tây có nông trường Xuân Mai do một trung đoàn của Sư đoàn 338 tập kết trấn đóng.
- Tỉnh Thanh Hóa có nông trường Sao Vàng do một trung đoàn của Sư đoàn 338 quản trị, cùng với nhiều đơn vị khác, tổng cộng 39 đại đội tập kết (tương đương một Sư đoàn).
- Tỉnh Nam Định có nông trường Rạng Đông do Trung đoàn độc lập 269 quản trị.
- Tỉnh Ninh Bình có nông trường Bình Minh do Trung đoàn độc lập 271 quản trị.
- Tỉnh Nghệ An có các nông trường Sông Con, Đông Tây Hiếu do một trung đoàn của Sư đoàn 324 tập kết quản trị.
- Tỉnh Quảng Bình có nông trường Lệ Thủy do một trung đoàn của Sư đoàn 325 tập kết quản trị.
- Tỉnh Phú Thọ có nông trường Đồng Vàng do Trung đoàn tập kết 96 (từ An khê ra Bắc) quản trị.
- Khu công nghiệp Việt Trì do Trung đoàn 108 thuộc Sư đoàn 305 tập kết quản trị.
- Khu Liên Hợp Gang Thép Thái Nguyên do Sư đoàn 316 xây dựng và quản trị.
- Tỉnh Sơn Tây có nông trường Xuân Mai do một trung đoàn của Sư đoàn 338 tập kết trấn đóng.
- Tỉnh Thanh Hóa có nông trường Sao Vàng do một trung đoàn của Sư đoàn 338 quản trị, cùng với nhiều đơn vị khác, tổng cộng 39 đại đội tập kết (tương đương một Sư đoàn).
- Tỉnh Nam Định có nông trường Rạng Đông do Trung đoàn độc lập 269 quản trị.
- Tỉnh Ninh Bình có nông trường Bình Minh do Trung đoàn độc lập 271 quản trị.
- Tỉnh Nghệ An có các nông trường Sông Con, Đông Tây Hiếu do một trung đoàn của Sư đoàn 324 tập kết quản trị.
- Tỉnh Quảng Bình có nông trường Lệ Thủy do một trung đoàn của Sư đoàn 325 tập kết quản trị.
- Tỉnh Phú Thọ có nông trường Đồng Vàng do Trung đoàn tập kết 96 (từ An khê ra Bắc) quản trị.
- Khu công nghiệp Việt Trì do Trung đoàn 108 thuộc Sư đoàn 305 tập kết quản trị.
- Khu Liên Hợp Gang Thép Thái Nguyên do Sư đoàn 316 xây dựng và quản trị.
3. Hệ Thống Tổ Chức
Các Nông Trường, Công Trường
Mặc dầu các nông trường, công trường quốc
doanh là do quân đội xây dựng và quản trị, nhưng các nông trường đều do một bộ
nông trường chỉ huy trên phương diện chính quyền, và các Đảng uỷ trong nông trường
thì chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ chứ không ở dưới sự lãnh đạo của Huyện
uỷ địa phương, mặc dầu trên phương diện địa dư nó có thể nằm trong phạm vi một
huyện. Ví dụ nông trường Rạng Đông thuộc phạm vi địa dư và hành chánh huyện
Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, thì Đảng uỷ nông trường chịu sự điều khiển của tỉnh
uỷ Nam Định, mặc dầu trong những vấn đề hành chánh thì cũng có liên lạc hội ý với
cơ quan hành chánh địa phương của huyện Nghĩa Hưng.
Những nông trường hoặc công trường tùy
theo phạm vi lớn nhỏ phải sử dụng ít hoặc nhiều công nhân, hoặc phải dùng cơ giới.
Ví dụ khu Liên hợp Gang Thép Thái Nguyên là một công trường đại quy mô có tới
20.000 nhân công. Nông trường Rạng Đông là một nông trường trung quy mô, còn gọi
là nông trường loại II, sử dụng khoảng 2500 cán bộ và công nhân (từ 2.500 đến
5.000 nhân công là trung quy mô. Theo tài liệu phỏng vấn các hồi chánh viên, hệ
thống tổ chức của một nông trường điển hình có thể được mô tả theo sơ đồ dưới
đây của nông trường Rạng Đông. (xem sơ đồ)
Nông trường trung quy mô nói trên có một
Giám đốc và 2 Phó giám đốc, dưới sự lãnh đạo của một bí thư Đảng uỷ với cấp bậc
Đại úy hoặc Thiếu tá trong quân đội. Quân hàm của Phó giám đốc là Thượng úy.
Bên công đoàn có một thư ký công đoàn cấp
bậc Thượng úy và 2 thư ký công đoàn cấp bậc Trung úy có nhiệm vụ giám sát kiểm
tra từ Giám đốc xuống đến công nhân, mặc dầu trên danh nghĩa là để bảo vệ quyền
lợi công nhân.
Tổ Chức Công Đoàn Trong Nông Trường
Công đoàn là tổ chức hàng dọc để đoàn ngũ
hoá mọi công nhân không phải là đảng viên, và như vậy, không có một công nhân
nào thoát ra khỏi màng lưới của đảng và nhà nước.
Danh từ Công Đoàn khiến nhiều người bên
ngoài nhầm lẫn với Công Đoàn của các nước tự do nhằm bảo vệ quyền lợi của công
nhân, hoặc trong một số trường hợp bảo vệ quyền lợi riêng của một bọn đầu nậu.
Dưới chế độ Việt cộng, bọn đầu nậu chính là đảng, và đảng kiểm soát công nhân một
cách chặt chẽ qua Công Đoàn và hệ thống Đảng ủy.
Tổ Chức Đảng Ủy Trong Nông Trường
Giống như trong hợp tác xã nông nghiệp hay
bất cứ một tổ chức quy mô nào của cộng sản, Đảng ủy giống như hệ thống thần
kinh nối liền cấp chỉ huy xuống tới mọi thành phần nhỏ nhất là một đội hoặc một
tổ sản xuất. Đảng ủy từ cao xuống thấp có tên gọi là Chi ủy, Chi bộ, Liên tổ đảng
và Tổ đảng, có nhiệm vụ lãnh đạo, giám sát, làm đầu tàu gương mẫu để thúc đẩy
và bắt buộc công nhân lao động sản xuất. Cũng giống như trong hợp tác xã nông
nghiệp, "làm việc tại đồng, phân công tại sở", trong nông trường quốc
doanh cán bộ có nhiệm vụ thi công, tức là thi hành công tác bằng cách chỉ tay
năm ngón phân phối công việc, còn công nhân đổ mồ hôi và sức lao động xuống
nông trường. Về tình trạng bóc lột công nhân trong các nông trường và công trường,
ta sẽ có dịp nghiên cứu một cách chi tiết trong tương lai, khi nói về những nỗ
lực đẩy mạnh chiến tranh của Việt cộng.
II. Xây Dựng Các Công Trình Sản Xuất ChiếN Lược,
Cơ Sở Quân Sự Và Xa Lộ Chiến Lược
Đầu tháng 9 năm 1960, Đại Hội Đảng Lao Động
Việt cộng lần thứ III họp tại Hà Nội để thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ nhất,
nhằm xây dựng một nền công nghiệp làm "cơ sở vật chất của xã hội chủ
nghĩa", mà căn bản là chiến tranh bành trướng.
Bắt đầu từ năm 1961 trở đi rất nhiều xí
nghiệp kỹ nghệ được thiết lập, và các nhà máy này được xây dựng chung quanh các
khu công nghiệp quan trọng nhất sau đây:
- Khu công nghiệp Hà Nội
- Khu công nghiệp Hải Phòng- Khu công nghiệp Việt Trì (khánh thành ngày 18-1-1962)
- Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên
1. Sản xuất chiến lược
Nằm trong mục tiêu chiến lược dài hạn,
ngành công nghiệp nặng được chú trọng đặc biệt. Với sự giúp đỡ của Liên Xô và
khối cộng sản, Việt cộng đã đẩy mạnh việc sản xuất điện lực, khai thác than đá
và luyện thép.
Các nhà Máy Điện quan trọng nhất là:
Nhà máy thủy điện Bàn Thạch, Thanh Hóa
(khánh thành ngày 2-1-1962)
Nhà máy thủy điện Thác Bà, Bắc KạnNhà máy nhiệt điện Uông Bí, Hồng Quảng
Nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn, Thái Nguyên
Nhà máy nhiệt điện Cọc 5, Cẩm Phả
Nhà máy nhiệt điện Lào Kay
Nhà máy nhiệt điện Việt Trì
Nhà máy nhiệt điện Hà Nội
Nhà máy nhiệt điện Vinh
và một trạm biến điện lớn nhất miền Bắc tại Đông Anh, ngoại thành Hà Nội, với đường giây điện cao thế Đông Anh Thái Nguyên, khánh thành ngày 5-1-1963.
Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên do
Trung Quốc viện trợ là một kỳ vọng của Việt cộng cho nền công nghiệp nặng và nền
kinh tế tự túc và chiến lược. Khu gang thép dùng 20.000 công nhân làm việc ngày
đêm, và năm 1965 mức sản xuất lên tới 150,000 tấn. Ngày 20-12-1963 Việt cộng
khánh thành lò luyện thép đầu tiên tại Thái Nguyên. Ngày 23-9-1965, lò luyện
thép số II được khánh thành.
Song song với nền công nghiệp gang thép là
việc khai thác than đá tại khu vực Hòn Gay, Đông Triều, Cẩm Phả, Vàng Gianh,
Thái Nguyên phần lớn là loại anthracite (năng xuất nhiệt rất cao) và số lượng sản
xuất năm 1965 đã lên tới 4.000.000 tấn.
Vẫn trong phạm vi mục tiêu chiến lược lâu
dài, Việt cộng thiết lập những ngành sản xuất có tính chất lưỡng thể, cần thiết
trong thời bình cũng như thời chiến:
- Các nhà máy phân đạm Hà-Bắc: Trong thời
bình, các nhà máy này yểm trợ cho canh nông, còn trong thời chiến chỉ cần thay
đổi công thức hóa học một chút để sản xuất thuốc nổ.
- Các nhà máy cơ khí: nhà máy cơ khí Hà Nội,
nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, nhà máy cơ khí xe lửa Gia Lâm, nhà máy cơ khí
Lương Yên, nhà máy sửa chữa xe hơi "1 tháng 5", nhà máy cơ khí ZK
120. Để phục vụ chiến tranh các nhà máy có thể sản xuất võ khí, vỏ lựu đạn, vỏ
mìn, một số phụ tùng thay thế cho đại bác, xe tăng v.v....
2. Sản xuất hàng tiêu thụ
- Có lẽ Hà Nội nghĩ rằng với sách lược chiến
tranh nhân dân, chiến tranh giải phóng, các nước chống cộng không có lý do can
thiệp mạnh tới mức độ oanh tạc Miền Bắc và tàn phá nền kỹ nghệ của cộng sản. Vì
thế Hà Nội đã xây dựng hàng loạt những nhà máy sản xuất đồ tiêu thụ (danh từ Việt
cộng gọi là hàng tiêu dùng) để cho các cấp cán bộ đảng được ưu đãi sử dụng theo "phiếu cung cấp", còn công nhân viên phải là những người
xuất sắc trong những người xuất sắc nhất mới được rút thăm (danh từ Việt cộng gọi
là "bình bầu chiến sĩ thi đua") để mua trong những dịp đặc biệt. Những
nhà máy này tập trung ở những khu vực quan trọng dưới đây.
- Khu Hải Phòng: Nhà máy len, nhà máy đồ hộp, nhà máy hóa
chất, nhà máy thủy tinh.
-Khu công nghiệp Việt Trì: Nhà máy hoá chất, nhà máy mì chính, nhà máy giấy, nhà máy
đường, nhà máy sấy chuối khô.
-Khu công nghiệp Hà Nội: Nhà
máy phích nước, bóng đèn, nhà máy Cao-Xà-Lá (cao su, xà phòng, thuốc lá) do
Trung Quốc viện trợ và được khánh thành ngày 18-5-1960; nhà máy dệt kim Đồng
Xuân (dệt áo lót và bí tất) do Trung Quốc viện trợ, khánh thành ngày 13-4-1959;
nhà máy xe đạp Thống Nhất, nhà máy Pin Văn Điển nhà máy in Tiến Bộ, nhà máy
diêm Thống Nhất v.v....
3. Những công trình
xây cất chiến lược
Ngoài những nhà máy sản xuất võ khí như
công trường 14 ở Tuyên Quang (sản xuất súng AK mang nhãn hiệu Trung Quốc, lựu đạn,
súng đại bác, mìn) Việt cộng xúc tiến mạnh mẽ những công trình chiến lược có
tính cách quan trọng như sân bay, đường chiến lược với sự giúp đỡ của Liên Xô
và Trung Quốc. Tại mỗi tỉnh của miền Bắc ngày nay đều có một phi trường chiến
lược dành riêng cho mục tiêu quân sự. Ngoài những phi trường quan trọng có từ
trước như sân bay Cát-Bi, sân bay Bạch Mai, sân bay Gia Lâm, được mở rộng, Việt
cộng còn xây cất thêm các phi đạo quan trọng khác như:
- Sân bay Đa Phúc (Vĩnh Yên)
- Sân bay Hòa Lạc (Sơn Tây)- Sân bay Kép (Bắc Giang)
- Sân bay Sao Vàng (Thanh Hóa)
Nguyễn Văn Thân, kỹ sư thủy lợi nói về phi trường Đa Phúc tại Vĩnh Yên:
"...Tôi biết rõ nhất là sân bay Đa Phúc vì sân bay này ở ngay
cạnh đập Đại Lãi. Khi bộ Giao thông Vận tải thiết kế sân bay này cũng có tham
khảo ý kiến của tôi. Theo như họ nói thì sân bay Đa Phúc là sân bay chiến lược
lớn nhất Đông Nam Á, có thể chứa được từ 500 tới 700 phi cơ phản lực Mig, tuyệt
đối không có máy bay vận tải tại đây. Phi trường này rộng một chiều 12 km và một
chiều 9km. Nằm theo trục quốc lộ số 2 và số 3. Đường bay được làm rất kỹ với
các lớp đệm cát rất dày và mặt đường bay được lát bằng tấm bê tông dày từ 50
phân tới 70 phân. Bởi vì làm bằng các tấm bê tông như vậy nên khi bị đánh phá
hư hỏng trong các vụ oanh tạc của Mỹ ở miền Bắc, phi trường được sửa chữa và sử
dụng lại mau chóng bởi vì đã có sẵn các tấm bê tông. Hơn nữa phi trường Đa Phúc
ở cạnh núi Sóc Sơn nên có nhiều hầm hố kiên cố do Nhật để lại, nay Việt cộng
dùng để chứa nhiên liệu hoặc cất dấu máy bay rất kín đáo..." (Nguyễn Văn
Thân).
Về
đường bộ có việc xây cất hai con đường chiến lược quan trọng do Trung Quốc thiết
kế và thi công:
"...Đường thứ nhất là đường từ biên giới Trung Quốc qua các tỉnh
Bắc Kạn, Bắc-Thái (Bắc Giang và Thái Nguyên) đường rộng từ 18 thước tới 24 thước,
không tráng nhựa mà trải đá lớn dầy 50 phân rồi đổ đá dăm và đất Biên Hòa cán bằng.
Nói tóm lại các tỉnh ven biên giới Việt Nam-Trung Quốc đều do Trung Quốc đài thọ.
Các đường này đều được mở cấp tốc từ khoảng năm 1961-1962, và có thể chịu đựng
được các chiến xa nặng khoảng 70 tấn".
Con đường chiến
lược lớn thứ hai là đường lộ từ Trung Quốc qua biên giới Việt Nam đến Điện Biên
Phủ rồi sang Lào tới Cánh đồng Chum, Savanakhet. Đường này đã có từ trước, nay
chỉ làm công tác mở rộng và đảm bảo lại cho chắc chắn, kỹ càng hơn..." (Nguyễn Văn Thân).
Theo
kỹ sư Nguyễn Văn Thân thì con đường chiến lược Điện Biên Phủ tới cánh đồng Chum
và Savanakhet đã có từ trước, nhưng đương sự không cho biết có từ bao giờ. Hệ
thống này không thể là hệ thống quốc lộ số 13 vì quốc lộ này nằm trong khu vực
quân đội Hoàng gia Lào, khiến cho Việt cộng không thể sử dụng thường xuyên cho
những đoàn xe vận tải như thực tế đã chứng tỏ. Ở một đoạn khác, Nguyễn Văn Thân
nói rõ con đường chiến lược này song song với đường mòn thượng đạo (sách báo
Tây phương quen gọi là đường
mòn Hồ Chí Minh) vì trong khi đi đường vẫn nghe thấy tiếng xe ô tô di chuyển gần đó.
Nhưng đương sự lại gọi lầm đường đó là đường số 9 đưa đến Khe Sanh bởi vì đường
số 9 băng ngang từ Việt Nam qua Lào tới Savanakhet, chứ không chạy song song với
đường mòn thượng đạo dọc biên giới Việt Lào.
Ngoài ra Nguyễn Văn Thân không nói đến con
đường chiến lược từ Bắc Việt băng qua khu Bắc Lào sang Thái Lan.
III. Xây Dựng Lực Lượng
Chính Quy Bắc Việt
Năm 1956, sau khi việc chia đôi hai miền
Nam Bắc đã dứt khoát, vấn đề an ninh lãnh thổ tạm ổn định, Hà Nội bằt đầu bỏ ra
nhiều năm xây dựng quân đội chính quy. Lực lượng võ trang của Việt cộng nói
chung có ba ngành: lực lượng chính quy, lực lượng địa phương và dân quân du
kích. Tại mỗi xã ngoài Bắc, lực lượng địa phương có một xã đội với ban chỉ huy
và lực lượng du kích có từ một trung đội đến một đại đội tùy theo xã lớn hay nhỏ
và tùy theo tầm quan trọng. Tại mỗi huyện có một huyện đội và ít nhất một đại đội,
còn tại mỗi tỉnh có tỉnh đội và một tiểu đoàn. Ngoài ra tại các đô thị, thị xã,
xí nghiệp còn có các đơn vị tự vệ giữ an ninh, và có một cán bộ cấp Đảng uỷ-viên
tại mỗi nơi này phụ trách việc tổ chức, lãnh đạo, huấn luyện các lực lượng tự vệ.
Ở một phần khác ta sẽ nói kỹ về lực lượng
địa phương quân và dân du quân kích trong vai trò giữ nhà. Ở đây ta chỉ nói về
công trình xây dựng quân đội chính quy Việt cộng trong kế hoạch thôn tính Đông
Dương, kể từ năm 1956 khi Phạm Văn Đồng đệ trình lên quốc hội Việt cộng dự luật "giảm trừ quân bị".
Đạo luật "giảm trừ quân bị" được thông qua nằm trong chính sách Tổng
Biên Chế quân đội Miền Bắc, và 80.000 quân chính quy giải ngũ gồm một số lớn
thương phế binh, số còn lại quy tụ các thành phần bị coi là địa chủ, cường hào,
ác bá, tư sản v.v... và được đem vào khai thác các nông trường "quê hương mới" cùng với một số lớn các bộ đội tập kết miền
Nam (ở những nông trường riêng).
Những đơn vị Nam Bộ tập kết năm 1954 ra Bắc
được tổ chức thành những sư đoàn mang phiên hiệu Việt cộng 305, 324, 325, 330,
338 và một số trung đoàn biệt lập. Như ta đã thấy trong bài trước, một phần của
các sư đoàn này được chia ra xây dựng và quản trị các nông trường, phần còn lại
có nhiệm vụ giữ an ninh, hoặc được huấn luyện tại các quân trường như sẽ được
trình bày trong phần dưới đây.
Theo đạo luật về "Nghĩa vụ quân sự" của Việt cộng năm 1960, tất cả các thanh
niên từ 18 đến 28 tuổi đều phải nhập ngũ và phục vụ ít nhất 3 năm. Bằt đầu từ
đó, Việt cộng xúc tiến công tác xây dựng quân đội chính quy, mà xuyên qua các
tài liệu về Việt cộng, ta có thể nhận định thấy hai nét chính yếu:
- Hiện đại hóa quân đội
- Chính trị hóa quân đội
- Chính trị hóa quân đội
1. Hiện đại hóa quân đội
Hiện đại hóa là khuynh hướng chung của bất
cứ một nhà cầm quyền mới nào chứ không riêng gì Việt cộng. Nhưng việc hiện đại
hóa quân đội của Việt cộng có một số đặc điểm làm nổi bật những ưu điểm cũng
như khuyết điểm của Hà Nội trong khung cảnh chiến tranh Đông Dương.
Sau khi đã nằm vững được tình hình chính
trị Miền Bắc, Hồ Chí Minh và cấp đầu lãnh Việt cộng có nhiều vấn đề phải giải
quyết liên quan đến công tác hiện đại hóa quân đội. Năm 1956, khi dự tính nuốt
trôi miền Nam qua âm mưu Tổng Tuyển Cử không thành, viễn ảnh xâm chiếm Miền Nam
bằng một cuộc chiến tranh võ trang đã trở thành một sự lựa chọn chằc chằn.
Trong dự tính xâm lăng Miền Nam, Việt cộng cũng nhìn thấy khả năng can thiệp của
Hoa Kỳ bằng một lực lượng quân sự hiện đại.
Mặt khác, trong khi rêu rao rằng "không có gì quý hơn độc lập và tự
do", Hồ Chí Minh và
đảng Việt cộng còn nhằm thôn tính Đông Dương và Thái Lan, một công tác phục vụ
cho quan thầy được mệnh danh là "nghĩa
vụ quốc tế".
Quân đội Việt cộng Miền Bắc lúc đó còn
mang tính chất một lực lượng võ trang của một cuộc chiến tranh du kích, thích hợp
với một cuộc chiến tranh phi quy ước, nhưng thiếu những đặc tính cần có trong một
cuộc viễn chinh quy ước tại các chiến trường ngoại lai như Kampuchia và Thái
Lan, hoặc trong trường hợp phải đương đầu với quân đội Việt Nam Cộng Hòa và lực
lượng yểm trợ của Hoa Kỳ tại miền Nam.
Cho tới năm 1958, ngay các đơn vị chủ lực
của quân đội Việt cộng còn được trang bị bằng đủ loại võ khí hỗn tạp của Pháp
và Nhật để lại cùng với võ khí và trang bị của Trung Quốc. Các sĩ quan và binh
lính Việt cộng còn mang quân phục của thời kháng Pháp.
Ngày 20-6-1958, chính quyền Việt cộng ký
nghị định số 307/TTG chính thức ấn định quân hàm cho các cấp trong quân đội, và
ngày 22 tháng 12, Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng gằn lon cho các cấp Tướng Miền Bắc.
Từ ngày các cấp Tướng Tá Việt cộng mang lon, báo chí Việt cộng lại mở một chiến
dịch tuyên truyền về sự khác biệt giữa hệ thống "lon tư bản phản cách mạng" và hệ thống "quân hàm tiến bộ" của quân đội nhân dân (bài diễn văn của
Nguyễn Chí Thanh đăng trong báo Quân Đội Nhân Dân ngày 9-9-1958).
Nhưng vấn đề quan trọng nhất của công tác
hiện đại hóa là vấn đề tổ chức, huấn luyện và trang bị. Trên phương diện tổ chức
một đạo quân hiện đại, Việt cộng Miền Bắc phải thành lập thêm các quân chủng
ngoài quân chủng Bộ binh. Đó là các quân chủng Hải quân, Không quân, và các
binh chủng Pháo binh, Công binh, Truyền tin và Thiết kỵ. Việc thành lập thêm những
binh chủng mới đòi hỏi công tác huấn luyện trong nước cũng như gửi các thành phần
đảng viên trung kiên hoặc con của các lãnh tụ và cán bộ đầu sỏ đi học ở các trường
quân sự của các nước cộng sản khác.
Từ năm 1958, Việt cộng thiết lập các trường
huấn luyện sĩ quan và hạ sĩ quan thuộc mọi quân binh chủng:
- Trường Bộ binh
- Trường Hải quân Bãi Cháy, Hòn Gay- Trường Hải quân Hải Phòng
- Trường Hải quân Vinh
- Trường Pháo binh Sơn Tây
- Trường Truyền tin
- Trường Công binh
- Trường sĩ quan Thiết kỵ
Việt cộng đã gửi quân nhân đi các nước cộng sản để được huấn luyện về không quân, ra-đa, tên lửa (hỏa tiễn), hải quân (chủ yếu là tàu ngầm và phóng ngư lôi), công binh, quân giới, đặc công v.v.... Đồng thời các chế độ cộng sản, nhất là Liên Xô và Trung Quốc, đã trang bị võ khí hiện đại cho Việt cộng. Quan niệm hiện đại hóa quân đội của Việt cộng bị giằng co giữa hai khuynh hướng đối nghịch. Khuynh hướng Võ Nguyên Giáp chủ trương sử dụng võ khí hiện đại, kỹ thuật hiện đại. Vì "chiến tranh nhân dân" đã lỗi thời. Dĩ nhiên, trong khối cộng sản chỉ Liên Xô là có khả năng trang bị đầy đủ võ khí hiện đại cho Việt cộng. Đối nghịch với khuynh hướng Võ Nguyên Giáp là khuynh hướng Trường Chinh gồm có Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh và Lê Đức Thọ chủ trương lấy "chiến tranh nhân dân" để đánh thắng chiến tranh hiện đại và trong chủ trương "chiến tranh nhân dân", vấn đề tối quan trọng là lãnh đạo tư tưởng, là chính trị hóa quân đội, và võ trang một cách dư thừa bằng võ khí cổ điển. Quan điểm của Trường Chinh cũng là quan điểm Mao Trạch Đông đã thằng thế trong Bộ chính trị, vì thế việc hiện đại hóa quân đội Miền Bắc chỉ được thực một cách hạn chế. Hậu quả là Việt cộng nhận tương đối ít võ khí hiện đại của Liên Xô, mặc dầu tính thành tiền, con số viện trợ của Liên Xô rất lớn vì vũ khí hiện đại trị giá cao. Mặt khác Việt cộng nhận được rất nhiều võ khí cổ điển của Trung Quốc từ súng lục súng trường tới tiểu liên, trung liên, súng phòng không 37, phòng không 57, đại bác phòng không v.v....
Ưu điểm thứ nhất của đường lối hiện đại
hóa quân đội Việt cộng là việc thành lập binh chủng đặc công, tượng trưng cho
quan điểm trang bị hạn chế võ khí hiện đại nhưng chú trọng tới chiến thuật, kỹ
thuật chiến đấu chuyên biệt và tinh nhuệ. Bộ Tư lệnh Đặc công trực thuộc Bộ Tổng
Tư lệnh quân đội Miền Bắc và Bộ Tổng Tham Mưu. Ban chỉ huy rường cột là Lữ đoàn
305 tức là Lữ đoàn Dù được thành lập từ năm 1958. Nhưng vì binh chủng Dù không
đắc dụng trong cuộc chiến tranh Đông Dương nên bộ Tổng Tư lệnh Việt cộng đã giải
tán và lấy toàn thể Bộ Tư lệnh Dù lập thành Bộ Tư lệnh Đặc công, do Đại tá Điều
làm Tư Lệnh trưởng và Thượng tá Đạo làm Chính ủy. Đặc điểm về tổ chức là binh
chủng này không có cấp trung đoàn, trung đội và tiểu đội, chỉ có cấp tiểu đoàn,
đại đội, phân đội và thấp nhất là tổ, gồm từ 3 đến 5 người. Từ 4 tới 5 tổ hợp
thành một phân đội và 5 phân đội thành một đại đội. Đặc điểm thứ hai là sự
chuyên biệt. Ví dụ Tiểu đoàn 5 chuyên đánh dưới nước, đánh cầu, đánh tàu. Tiểu
đoàn 2 chuyên huấn luyện bổ sung miền Nam. Tiểu đoàn 4 chuyên đánh thành phố....
Ưu điểm của đặc công là lấy chuyên môn
đánh không chuyên môn, lấy ít đánh nhiều, và về phương diện này, bộ đội đặc
công giống các chiến sĩ biệt kích và các chiến sĩ người nhái của Việt Nam Cộng
Hòa trước đây.
Ưu điểm thứ hai của đường lối hiện đại hóa
hạn chế là ngành pháo binh của Việt cộng. Pháo binh đã dùng hỏa lực cực kỳ ồ ạt
phối hợp với việc quan trằc địa hình rất kỹ lưỡng. Pháo diện địa cũng như pháo
phòng không của Việt cộng đã nằm ưu thế tại miền Bắc cũng như ở Hạ Lào. Ở Miền
Nam, pháo của cộng quân đã nâng đỡ cho chúng rất nhiều trước ưu thế trên không,
ưu thế lưu động tính, và ưu thế cơ giới của quân đội Miền Nam và Đồng Minh.
Mặt khác, đường lối hiện đại hóa hạn chế
cũng có một số khuyết điểm. Trước hết, quân chủng Hải quân, mặc dầu với tàu ngầm,
với phóng ngư lôi hạm, với tên lửa trang bị cho chiến hạm, đã bị Hạm đội 7 của
Hoa Kỳ đè bẹp ngay trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh không tập và Việt cộng
đã phải giải tán quân chủng này, chỉ giữ lại một ít tàu tượng trưng để tuần tiểu.
Toàn bộ sĩ quan và binh sĩ tàu nổi đều được chuyển sang các quân chủng khác, phần
lớn là bộ binh. Riêng quân số tàu ngầm được tăng cường thêm. Một khuyết điểm thứ
hai là về không quân. Sau 10 năm chiến tranh, không quân Việt cộng hầu như đã
không có dịp nào tung hoành trên mặt trận Đông Dương, mà chỉ quanh quẩn trong nội
bộ Việt cộng, hơn nữa, còn bị đàn áp trước ưu thế của không lực Hoa Kỳ, suốt
trong 3 năm không tập từ 1965 tới 1968, Việt cộng đã mất 50% không lực trong
các cuộc không chiến cũng như trong các cuộc không tập của Hoa Kỳ. Khuyết điểm
thứ ba là về hoả tiễn. Từ 1965 tới tháng 1-1967, Việt cộng đã bằn 1.000 hỏa tiễn
SAM mà chỉ hạ 30 máy bay Hoa Kỳ trị giá 60 triệu Mỹ kim.
Trong khi các loại võ khí thường hạ được
430 máy bay trị giá hơn 1 tỷ Mỹ kim, thì trong suốt thời gian chiến tranh không
tập, Việt cộng đã bằn hơn 3.500 hỏa tiễn SAM trị giá gần 100 triệu Mỹ kim mà
không đạt được kết quả mong muốn.
2. Chính trị hoá quân
đội
Đường lối hiện đại hoá quân đội một cách hạn
chế và khuynh hướng ngả về loại chiến tranh phi quy ước mà Việt cộng mệnh danh
là "chiến tranh nhân dân" đã đưa đến việc rập khuôn mẫu tổ chức của
Trung Quốc trong công tác"chính trị hóa" quân đội.
Cấp cao nhất của hệ thống chính quyền
trong quân đội Việt cộng là Hội Đồng Tối Cao Quốc Phòng gồm toàn Ủy viên chính
trị bộ và Trung ương đảng: Chủ
tịch: là Chủ tịch Nhà nước
Hồ Chí Minh (chủ tịch đầu tiên)
và là Tôn Đức Thắng (chủ tịch thứ hai).
Phó chủ tịch:
Phạm Văn Đồng (chính trị bộ)
Võ Nguyên Giáp (chính trị bộ)
Ủy viên:
và là Tôn Đức Thắng (chủ tịch thứ hai).
Phó chủ tịch:
Phạm Văn Đồng (chính trị bộ)
Võ Nguyên Giáp (chính trị bộ)
Ủy viên:
Nguyễn Chí Thanh (chính trị bộ)
Văn Tiến Dũng (chính trị bộ)
Nguyễn Duy Trinh (chính trị bộ)
Trần Quốc Hoàn (chính trị bộ)
Nguyễn Văn Trân (Trung ương đảng bộ)
Chu Văn Tấn (Trung ương đảng bộ)
Song Hào (Trung ương đảng Bộ)
Dưới Hội đồng Tối cao Quốc phòng là Bộ Quốc phòng rồi đến Bộ Tổng Tư lệnh. Cấp đảng ủy kiểm soát Bộ Tổng Tư lệnh Miền Bắc là Tổng Quân ủy Trung ương, gồm một số Tướng lãnh Việt cộng: Võ Nguyên Giáp (quân hàm Đại tướng), Song Hào (Trung tướng), Phạm Ngọc Mẫu (Thiếu tướng) và một số Ủy viên Trung ương đảng như Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng v.v....
Nguyễn Duy Trinh (chính trị bộ)
Trần Quốc Hoàn (chính trị bộ)
Nguyễn Văn Trân (Trung ương đảng bộ)
Chu Văn Tấn (Trung ương đảng bộ)
Song Hào (Trung ương đảng Bộ)
Dưới Hội đồng Tối cao Quốc phòng là Bộ Quốc phòng rồi đến Bộ Tổng Tư lệnh. Cấp đảng ủy kiểm soát Bộ Tổng Tư lệnh Miền Bắc là Tổng Quân ủy Trung ương, gồm một số Tướng lãnh Việt cộng: Võ Nguyên Giáp (quân hàm Đại tướng), Song Hào (Trung tướng), Phạm Ngọc Mẫu (Thiếu tướng) và một số Ủy viên Trung ương đảng như Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng v.v....
Đường lối chính trị hóa quân đội, theo sơ
đồ, cho thấy mấy đặc điểm chính sau đây:
- Thủ trưởng (chỉ huy) các cấp đơn vị từ Bộ
chỉ huy đến ban chỉ huy đều phải chịu sự lãnh đạo của đảng. Sự lãnh đạo của đảng
đi tới cấp thấp nhất là một tổ trong một tiểu đội. Đơn vị nhỏ nhất của quân đội
là "Tổ tam tam", gồm 3 người, trong đó tổ trưởng hoặc phải
là một đảng viên, hoặc một thành phần trung kiên cơ bản. Một tiểu đội có ba ba
"Tổ tam tam".
- Cấp chỉ huy quân đội chịu sự kiểm tra của
cấp đảng ủy đơn vị, ví dụ Sư đoàn Trưởng chịu sự kiểm tra của Chính ủy sư đoàn
là người chấp hành đường lối đảng thi hành các Nghị Quyết do đảng đề ra.
- Các chức vụ Chính trị viên hay Chính ủy
trong quân đội đều do Bí thư Đảng ủy, Đảng bộ cấp đó nằm giữ mà bí thư là nhân
vật quan trọng nhất của Đảng ủy, Đảng bộ.
Dĩ nhiên đường lối chính trị hóa quân đội
nói trên cũng được áp dụng cho tất cả các đơn vị võ trang của Việt cộng ở trong
Nam, và đảng của Việt cộng ở trong Nam mang "ngụy danh" là Đảng Nhân
Dân Cách Mạng để che dấu sự can thiệp của Việt cộng.
Tóm lại, với tổ chức chính trị hóa như
trên, đảng đã nằm chằc quân đội trong tay, đã nhào nặn cả triệu thanh niên
trong một hệ thống "bịt mằt bằt hào quang giải phóng miền Nam ruột thịt",
đã lừa bịp và thúc đẩy cả triệu thanh niên miền Bắc chết cho cái ảo vọng đẫm
máu của Các-Mác, Lê-nin.
Cũng theo sơ đồ nói trên, song song với
vai trò kiểm soát và lãnh đạo chính trị của hệ thống Đảng ủy, Tổng cục Chính trị
có nhiệm vụ thi hành các công tác chính trị qua các Cục Tuyên huấn, Cục Cán bộ,
Cục Tổ chức, Cục Bảo vệ, Cục Địch vận, Cục Dân vận và Cục Văn hoá.
Chuẩn Bị Xâm Nhập Miền Nam
Đồng thời với công việc xây dựng lực lượng
quân đội Miền Bắc, Việt cộng đã bí mật huấn luyện cán binh để âm thầm xâm nhập
miền Nam, thành lập khung cho lực lượng cộng quân ở miền Nam mệnh danh là "Lực lượng võ trang giải phóng miền
Nam". Các cán binh
Việt cộng ở miền Nam tập kết ra Bắc được huấn luyện tại các trung tâm sau đây:
- Trung tâm Mạch Lũng ở làng Mạch Lũng,
huyện Đông Anh, tỉnh Hải Dương.
- Trung tâm Xuân Mai, tỉnh Hòa Bình.
- Trung tâm Sơn Tây.
- Trung tâm Phú Yên, tỉnh Bắc-Thái (Băc Kạn-Thái Nguyên)
- Khu vực "Thép" tại Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, huấn luyện bộ binh, pháo binh, cơ giới, công binh, thông tin, hóa học.
- Trường đặc công, núi Na-Sơn, tỉnh Sơn Tây.
- Trường đặc công xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây.
- Trung tâm Xuân Mai, tỉnh Hòa Bình.
- Trung tâm Sơn Tây.
- Trung tâm Phú Yên, tỉnh Bắc-Thái (Băc Kạn-Thái Nguyên)
- Khu vực "Thép" tại Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, huấn luyện bộ binh, pháo binh, cơ giới, công binh, thông tin, hóa học.
- Trường đặc công, núi Na-Sơn, tỉnh Sơn Tây.
- Trường đặc công xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây.
Các cán binh thuộc Sư đoàn Nam Bộ tập kết
324 là những cán binh xâm nhập trong đợt đầu tiên vào năm 1960, và được bí mật
huấn luyện tại một doanh trại của bản doanh Sư đoàn 338 của Tô Ký.
Riêng trung tâm Xuân Mai có khả năng huấn
luyện mỗi đợt 1.000 người.
Tổng Kết
Những nỗ lực của Hồ Chí Minh và Việt cộng
trong việc xây dựng cơ sở vật chất nhằm thôn tính Đông Dương đã làm nổi bật kế
hoạch hai mặt của Việt cộng: mặt chìm và mặt nổi. Mặt nổi là xây dựng và phát
triển, mặt chìm là chiến tranh thôn tính và bành trướng mà Hồ Chí Minh gọi là "nghĩa vụ quốc tế", trong đó Hồ bằt nhân dân Việt Nam đóng
vai trò tên lính tiền phong cho cộng sản Liên Xô.
Trong giai đoạn chuẩn bị cơ sở vật chất
cho cuộc chiến tranh, một nhà máy phân đạm (chlorure de potassium) được Việt cộng
đề cao là để phục vụ cho nông nghiệp, tăng gia năng xuất và nâng cao mức sống
nhân dân. Nhưng khi phát động cuộc chiến tranh, nhà máy phân đạm biến thành nhà
máy thuốc súng (sản xuất chlorate de potassium) và nhà nước nói là để "giải phóng miền Nam ruột thịt và các
nước anh em Miên-Lào".
Khi nhân dân phải ăn đói để nhà nước xây cất
các nhà máy cơ khí, thì họ hy vọng có máy cày, máy nổ, xe đạp, bình thủy, để
nâng cao mức sống. Nhưng khi Việt cộng phát động chiến tranh thôn tính, nhân
dân mới vỡ lẽ ra rằng nhà máy cơ khí là nơi sản xuất vỏ lựu đạn, mìn, súng đạn,
cơ giới chiến tranh.
Xây dựng xã hội chủ nghĩa trong mấy chục
năm qua đã gằn liền với chiến tranh thôn tính. Hình thức bề ngoài có khác,
nhưng bản chất bên trong nếu có khác thì cũng chỉ là sự khác biệt giữa chlorure
de potassium và chlorate de potassium.
Chiến tranh thôn tính trong mấy chục năm qua
đã đem lại gì cho nhân dân, và đã phục vụ cho ai? Nhân dân nghĩ gì về cuộc chiến
tranh mà Hồ Chí Minh nói là sẽ đem lại Thống Nhất, Độc Lập và Tự Do? Ta hãy đọc
những vần thơ dưới đây của thi sĩ Nguyễn Chí Thiện;
Không
có gì quý hơn độc lập tự do!
Tôi biết nó, thằng nói câu đó.
Tôi biết nó, đồng bào miền Bắc này biết nóViệc nó làm, tội phạm nó ra sao
Nó đầu tiên đem râu nó bện vào
Hình xác lão Mao lông lá
Bàn tay Nga đầy băng tuyết giá
Cũng nhoài qua lục địa Trung Hoa
Không phải xoa đầu mà túm tóc nó từ xa
Nó không đứng yên, tất bật điên đầu
Cũng nhoài qua lục địa Trung Hoa
Không phải xoa đầu mà túm tóc nó từ xa
Nó không đứng yên, tất bật điên đầu
Lúc rụi vào Tàu, lúc rụi vào Nga
Nó gọi Tàu Nga là cha anh nó
Nó gọi Tàu Nga là cha anh nó
Và tình nguyện làm con chó nhỏ
Xông xáo giữ nhà gác ngõ cho cha anh
Nó tận thu từ quả trứng trái chanh
Học lối hung tàn của cha anh nó
Cuộc chiến tranh chết vội hết thanh niên
Đương diễn ra triền miên ghê gớm đó
Cũng là do Nga giật Tàu co
Tiếp nhiên liệu gây mồi cho nó:
-Súng, tăng, tên lửa, tàu bay
Nếu không, nó đánh bằng tay?
Ôi đó, thứ độc lập không có gì quý hơn của nó!
Tôi biết rõ, đồng bào miền Bắc này biết rõ
Việc nó làm, tội phạm nó ra saoNó là tên trùm đao phủ năm nào
Hồi cải cách đã đem tù, đem bằn
Độ nửa triệu nông dân
Rồi bảo là nhầm lẫn
Đường nó đi trùng điệp bất nhân
Hâm hấp trời đêm nguyên thủy
Đói khổ dựng cờ đại súy
Con cá, lá rau nát nhầu quản lý
Tiếng thớt tiếng dao vọng từ hồi ký
Tiếng thở lời than đan họa ụp vào thân
Nó tập trung hàng chục vạn "ngụy quân"
Nạn nhân của đường lối "khoan hồng chí nhân" của nó
Mọi tầng lớp nhân dân bị cầm chân trên đất nó
Tự do, không thời hạn đi tù!
Mắt nó nhìn ai cũng hóa kẻ thù
Vì ai cũng đói mòn nhục nhằn cằn răng tạm nuốt
Hiếm có gia đình không có người bị nó cho đi suốt
Đất nó thầm câm cũng chẳng được tha!
Tất cả phải thành loa
Sa sả đêm ngày ngợi ca nó và đảng nó
Đó là thứ tự do không có gì quý hơn của nó!
Ôi! Độc Lập! Tự Do
Xưa cũng chỉ vì quý hai thứ đóĐất Bắc mắc lừa mất vào tay nó
Nhưng nay mà vẫn còn có người mơ hồ nghe nó!
Nó mới vạn lần cần nguyền rủa thực to!
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen