Từ
ngữ cùng nghĩa là những từ ngữ gần nhau về ý nghĩa, nhưng khác nhau về âm
thanh. Có ba kiểu cùng nghĩa trong tiếng Việt, là cùng nghĩa giữa từ ngữ thuần
Việt (TV) với từ ngữ thuần Việt, cùng nghĩa giữa từ ngữ thuần Việt với từ ngữ
Hán Việt (HV), và cùng nghĩa giữa từ ngữ Hán Việt với từ ngữ Hán Việt. Câu đối
chơi chữ theo cách cùng nghĩa, có hai hình thức: tạo các từ ngữ cùng nghĩa xuất
hiện trên cùng một văn bản ngắn; và cách cùng nghĩa có kết hợp với các hình thức
chơi chữ khác.
1. Câu đối chơi chữ theo cách tạo các từ ngữ cùng
nghĩa xuất hiện trên cùng một văn bản ngắn
Cách chơi chữ này thường dựa trên cơ sở cùng âm. Góp nhần nhận ra hiện tượng cùng nghĩa, có thể nhờ vào yếu tố cùng trường ở vị trí đối ứng. Ví dụ:
* Trồng môn trước cửa;
Bắt ốc sau nhà .
Các cặp cùng nghĩa HV–TV: “môn” – “cửa”; “ốc” – ”nhà”. Trong ngữ cảnh thuận, “môn”, “ốc” là tên cây, tên con vật (TV); chúng chuyển thành từ HV để tương ứng với “cửa”, “nhà”, theo cách cùng nghĩa (để chơi chữ). Sự chuyển nghĩa này được nhận ra do hiện tượng cùng trường: “cửa” – ”nhà” .
* Thủ thỉ chén đầu lợn;
Hung hổ vỗ bụng hùm.
“Thủ thỉ”, “hung hổ” (HV, cấu tạo theo ngữ pháp tiếng Việt), cùng nghĩa với “đầu lợn”, “bụng hùm” (TV). Trong ngữ cảnh thuận, chúng là những từ thuần Việt (“thủ thỉ”: (ăn nói) nhỏ nhẹ, từ tốn; “hùng hổ”: (thái độ) nóng nảy, dữ tợn).
* Da trắng vỗ bì bạch;
Rừng sâu mưa lâm thâm.
“Da trắng” (TV) cùng nghĩa với “bì bạch” (HV). Trong ngữ cảnh thuận, “bì bạch” là từ tượng thanh; nó chuyển thành ngữ “bì bạch” (HV, cấu tạo theo ngữ pháp tiếng Việt –lẽ ra phải “bạch bì”), do sự xuất hiện của “da trắng”, nhằm đạt cùng nghĩa, trên cơ sở cùng âm (nếu đổi lại, “da đen vỗ bì bạch” chẳng hạn, thì nghĩa theo ngữ cảnh thuận không thay đổi, nhưng chuyện chơi chữ biến mất). Tương tự, “rừng sâu” (TV) cùng nghĩa với “lâm thâm” (HV). Ở ngữ cảnh thuận, “lâm thâm” là từ tượng hình; nó chuyển thành ngữ “lâm thâm” (HV), do sự có mặt của “rừng sâu”, trên cơ sở cùng âm, để tạo ra hiện tượng chơi chữ cùng nghĩa.
Có một số vế đối lại (thay vế dưới) khác: Mũi thấp hun tị ti, Trời xanh màu thiên thanh, Giếng nhỏ bé tỉnh tinh,... Chúng không chỉnh bằng (do nhiều yếu tố, nhưng yế tố cơ bản, là ở vị trí đối ứng với “bì bạch”, không sử dụng được từ tượng thanh).
* Cuốc xuống ao uống nước;
Gà vào vườn ăn kê.
“Cuốc” (quốc), “kê” (HV), cùng nghĩa với “nước” (nước nhà), “gà” (TV). Trong ngữ cảnh thuận, “cuốc” là con chim cuốc, “kê” là loài cây (hạt kê thường dùng để nấu chè), “nước” là thức uống.
* Sửa nhà, gia đình ra sân;
Cứu nước, quốc hội phải họp.
Các cặp cùng nghĩa HV–TV: “gia” – “nhà”, ”đình” – “sân”; ”quốc” – “nước”, ”hội” – “họp”.
* Dưới sông, hà bá là chúa;
Trên đất, thổ công làm trùm.
Các cặp cùng nghĩa HV–TV: “hà” 2 “sông”, “bá” 2 “chúa”, “thổ” 2 ”đất”, “công” 2 “trùm”.
* Nấu đậu phụ cho cha ăn;
Sắc ích mẫu cho mẹ uống.
“Phụ”, “mẫu” (HV), cùng nghĩa với “cha”, “mẹ” (TV). “Phụ”, “mẫu” là các từ tố của “đậu phụ” (một nguyên liệu để chế biến thức ăn), “ích mẫu” (một cây thuốc thường dùng để chữa bệnh cho phụ nữ), được tách ra để hình thành lối chơi chữ cùng nghĩa, trên cơ sở cùng âm.
Một vế đối lại khác: Lấy mắm tôm cho mẹ chấm. Đem “mắm tôm” đối với “đậu phụ” có vẻ sát hợp hơn, chúng đều là những món ăn thường dùng; duy cách cùng nghĩa “tôm” với “mẹ” thì không tương ứng theo lối HV–TV của vế ra, lại không ổn về nghĩa –”tôm” thường được dân gian sử dụng như một biểu tượng chỉ phụ nữ nói chung, có ý tục, dùng với mẹ thì xấc.
* Chuồng gà kê áp chuồng vịt;
Cá diếc tức phường cá mè.
“Kê”, “áp”, “tức”, “phường” (HV), cùng nghĩa với “gà”, “vịt”, “diếc”, “mè” (TV). Trong ngữ cảnh thuận, “kê” là đặt, xếp đặt (vật dụng); “áp” là (đặt) sát vào; “tức” là giận, bực; “phường” chỉ tầng lớp người cùng làm một việc, một nghề (hoặc: lũ, bọn), là những từ TV. Do xuất hiện cùng nghĩa, chúng chuyển thành từ HV, theo cách cùng âm TV–HV.
* Đứng giữa làng Trung Lập;
Dấy trước phủ Tiên Hưng.
“Đứng giữa”, “dấy trước” (TV), cùng nghĩa với “trung lập”, “tiên hưng” (HV –vốn tách theo cách cùng âm với hai địa danh Trung Lập, Tiên Hưng, thuộc tỉnh Thái Bình). Vế ra của quan huấn đạo, vế đối lại là của Kì Đồng (Nguyễn Văn Cẩm).
* Ô! Quạ tha gà;
Xà! Rắn bắt ngoé.
“Ô”, “xà” (HV), cùng nghĩa với “quạ”, “rắn” (TV). Trong ngữ cảnh thuận, “ô”, “xà” là những từ cảm thán.
* Hương ngũ vị năm mùi thơm chửa?
Đèn tam tinh ba ngọn sáng sao!
“Ngũ vị”, “tam tinh”, cùng nghĩa với “năm mùi”, “ba ngọn (sao)”; “vị”, “tinh” cũng có nghĩa là “chửa” (chưa), “sao”.
Có vế đối lại khác: Hồ bán nguyệt nửa tháng trông trăng. “Bán nguyệt” cùng nghĩa với “nửa tháng”; “nguyệt” cũng có nghĩa là “trăng”.
* Con rể nết na xem tử tế;
Ông chồng cay đắng kể công phu.
“Tử tế”, “công phu” (HV, cấu tạo theo ngữ pháp tiếng Việt), cùng nghĩa với “con rể”, “ông chồng” (TV). “Tử tế” (có đủ theo yêu cầu, không lôi thôi; có lòng tốt), “công phu” (sự hao tổn sức lực, thời gian), dùng theo ngữ cảnh thuận, là những từ có gốc HV, chuyển thành từ ngữ HV cùng âm, do xuất hiện các yếu tố TV cùng nghĩa với chúng.
* Học trò Phú Khê ăn cơm cháy;
Quan huyện Thanh Trì uống nước ao.
“Cháy”, “ao” (TV) cùng nghĩa với cùng âm “khê” (TV) của “Khê” (trong Phú Khê), với “Trì” (trong Thanh Trì), là những yếu tố HV (được tách ra theo cách cùng âm).
* Nước giếng Rồng pha chè Long Tỉnh;
Lửa cầu Rắn thắp hương Xà Kiều.
Giếng Rồng, cầu Rắn (địa danh TV), cùng nghĩa với Long Tỉnh, Xà Kiều (địa danh theo HV). Long Tỉnh, Xà Kiều đồng thời là tên chè, tên hương; nên với hai địa danh trên là cùng âm.
* Bươm bướm đậu cành sen, liên chi hồ điệp;
Gà trống mổ hạt thóc, cốc đế hùng kê.
“Bươm bướm”, “cành sen” (TV), cùng nghĩa với “hồ điệp”, “liên chi” (HV); “gà trống”, “thóc” (TV), cùng nghĩa với “hùng kê”, “cốc” (HV).
* Ao Thanh Trì nước trong leo lẻo, cá lội ngắc ngư;
Sông Ngân Hà sao bạc chan chan, vịt nằm ấm áp.
Có sáu cặp từ cùng nghĩa TV–HV: “ao”–”trì”; “trong”–”thanh”; “cá”–”ngư”; “sông”–”hà”; “bạc”–”ngân”; ”vịt”–”áp”. “Thanh”, “trì”, “ngân”, “hà” cùng âm với Thanh Trì, Ngân Hà (tên riêng); “ngư”, “áp” là từ tố của “ngắc ngư”, “ấm áp”, được tách ra trên cơ sở cùng âm để đạt yêu cầu chơi chữ. Ở đây, cũng dùng cách chơi chữ cùng trường nghĩa sở thuộc: “cá” ? “ao Thanh Trì”, “vịt” ? “sông Ngân Hà”.
* Huyện Tam Dương có ba con dê, đứng núi đá trông về Lập Thạch;
Quan Tứ Kì đi xe bốn ngựa, vâng mệnh trời ra trị Thừa Thiên.
Các cặp từ ngữ cùng nghĩa HV–TV: “tam dương”–”ba con dê”; “lập thạch” –”đứng núi đá”; “tứ kì”–”bốn (con) ngựa”; “thừa thiên” –“vâng mệnh trời” (đồng thời, “tam dương”, “lập thạch”, “tứ kì”, “thừa thiên” là bốn từ ngữ cùng âm với bốn địa danh trong câu đối).
Có một câu đối được tạo nên bằng những cặp từ đơn tiết cùng nghĩa đi liền nhau:
* Đi chi đường đạo sợ cụ;
Không vô trong nội nhớ hoài.
(tương truyền, vế ra của vua Duy Tân, vế đối lại của thượng thư Nguyễn Hữu Bài)
Các cặp cùng nghĩa TV–HV: “Đi”–”chi”; “đường”–”đạo”; “sợ”–”cụ” (vế trên); “không” –”vô”; “trong”–”nội”; “nhớ”–”hoài” (vế dưới). Các từ HV được chuyển từ cùng âm TV sang một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn đến mức khó nhận ra có sự dụng công, mà chỉ như những câu nói đầu cửa miệng.
Sau cùng, có hai vế câu đối, chưa thấy có các vế đối lại tương ứng, cùng ra đời vào dịp tết và cùng đề cập đến loài hổ báo, xin được chép ra đây:
* Đêm ba mươi tết cọp nằm nhà, xoa đầu con, beo má vợ, sẵn tương ớt, rót hổ cốt nhắm với tôm hùm, no kễnh bụng.
* Làm đại khái qua loa, nói như hùm như cọp, ông ba mươi đã lên giọng lão, chẳng sửa dần càng thêm hổ miệng. (Văn Lợi, 1986)
Loạt từ cùng nghĩa, chỉ loài hổ báo: (ông) ba mươi, cọp, beo1, hổ, hùm, kễnh (câu đầu); khái, hùm, cọp, ông ba mươi, dần, hổ (câu sau).
2. Câu đối chơi chữ theo cách cùng nghĩa kết hợp với các hình thức chơi chữ khác
a. Cùng nghĩa kết hợp với cùng âm
Đây là cách chơi chữ phức hợp, cả hai hình thức cùng nghĩa và cùng âm đều được thể hiện trên văn bản. Ví dụ:
* Kê là gà, gà ăn kê;
Âu là trẻ, trẻ ăn ấu.
“Kê1”, “ấu1” (HV), cùng nghĩa với ”gà”, ”trẻ” (TV). Có thể viết câu đối dưới dạng công thức suy luận : “kê”=”gà”, “ấu”=”trẻ”; và “kꔹ”gà”, “ấu”¹“trẻ”. Ta thấy, chúng phạm quy luật đồng nhất (đã là một thì không thể tự mình “ăn” (huỷ hoại) mình được). Để khỏi phạm luật, “kê2”, “ấu2” phải là những từ khác nghĩa với “kê1”, “ấu1” – đây là hai từ TV (gọi tên hạt kê và quả ấu).
* Lộc là hươu, hươu đi lộc cộc;
Ngư là cá, cá lội ngắc ngư.
“Lộc”, “ngư” (HV), cùng nghĩa với “hươu”, “cá” (TV). Các từ HV này, đồng thời, cùng âm với các từ tố “lộc”, “ngư” trong “lộc cộc”, “ngắc ngư” (TV).
Vế đối lại khác: Long là rồng, rồng chạy long đong. “Long” (HV) cùng nghĩa với “rồng” (TV), cùng âm với từ tố “long” của “long đong”.
* Cái là tượng, tượng là voi, voi chầu cửa cái;
Tu là hổ, hổ là cọp, cọp bắt thầy tu.
(vế trên là của một nhà sư, vế dưới là của Hoàng Phan Thái)
Các cặp cùng nghĩa được nêu trực tiếp (cái là tượng, tượng là voi,...). Các cặp cùng âm như sau: HV-HV: “tượng” (tượng mảng) 2 ”tượng” (voi), “tu” tức “hổ” (xấu hổ) 2 ”tu” (thầy tu); HV-TV: “cái” tức “tượng” (HV, tượng mảng) 2 ”cái” (“cửa cái” –TV, cửa chính), ”hổ” (cọp) 2 “hổ” (xấu hổ).
Ở đây, có hiện tượng chuyển nghĩa bằng cùng âm, tạo sự vi phạm quy luật đồng nhất về hình thức (giả vi phạm luật đồng nhất), trong lúc thực chất là hợp logic. Có thể mô hình hoá để lí giải hiện tượng này như sau:
“Tu (T) là hổ (H), hổ là cọp (C), cọp bắt thầy tu” : T = H , H = C ® C ¹ T
Công thức trên biểu thị việc vi phạm luật đồng nhất (lẽ ra, phải suy thành C = T). Nhưng chỉ giả vi phạm, bởi vì “cọp” là “hổ” (con hổ), không phải là “hổ” (xấu hổ); và “hổ” (xấu hổ) này là “tu” (HV), cùng âm với “tu” (HV -trong “thầy tu”). Vì thực chất C ¹ T, “nên cọp bắt thầy tu” là hợp lẽ.
* Phụ là vợ, phu là chồng, vì chồng vợ phải đi phu;
Ngã là ta, nhĩ là mày, tại mày nên ta mới ngã.
Giai thoại về câu đối này: “Anh học trò trốn đi phu, quan bắt vợ anh ta đi thay, rồi đọc vế trên, bảo nếu đối lại hay, sẽ miễn phu cho cả hai người, và anh nọ đã đối như vậy; dù vế đối lại rất xấc, nhưng quan cũng giữ lời mà tha cho”.
Các cặp cùng nghĩa đã được nêu trực tiếp. Các cặp cùng âm như sau: “phu” (chồng) 2”phu” (phu phen, lao dịch); “ngã” (ta)2”ngã” (té ngã).
* Phụ là cha, tử là con, công cha con không dám phụ;
Mẫu là mẹ, tử là con, biết mẹ con còn nói mẫu.
Các cặp cùng nghĩa đã được nêu trực tiếp. Các cặp cùng âm: “phụ” (cha) 2 ”phụ” (phụ bạc); “mẫu” (mẹ) 2 ”mẫu” (nói mẫu: nói bông lơn, nói mỉa mai).
b. Cùng nghĩa kết hợp với cùng trường nghĩa
* Tí tận, thử tống mão;
Sửu đầu, ngưu thốn thìn.
“Tí”, “sửu”, về mặt biểu tượng, cùng nghĩa với “thử”, “ngưu”. Bên cạnh đó, “tí”, “sửu”, “mão”, “thìn” cùng trường nghĩa, thuộc thập nhị địa chi.
* Cây xương rồng, trồng đất rắn, long vẫn hoàn long;
Quả dưa chuột, tuột thẳng gang, thử chơi thì thử.
Tương truyền, vế ra là của Thị Điểm, vế đối lại là của Trạng Quỳnh. “Rồng”, “chuột” (TV), cùng nghĩa với “long”, “thử” (HV). Vế ra có “rồng”, “rắn”, hai từ cùng trường nghĩa; vế đối lại có “(dưa) chuột”, “(dưa) gang”, cũng là hai từ cùng trường dưa quả.
* Cha con thầy thuốc về làng, gánh một gánh hồi hương, phụ tử;
Vàng bạc nhà nông chuộc đất, trồng đôi hàng thục địa, kim ngân.
(Vế trên là một vế đối cổ, vế dưới của Phan Châu Trinh)
Các cặp từ cùng nghĩa TV–HV: “cha con” – ”phụ tử”; “về làng”–”hồi hương”; “vàng bạc” – ”kim ngân”; “chuộc đất” – ”thục địa”. Chúng cùng âm với các tên gọi vị thuốc “hồi hương”, “phụ tử”,... Bên cạnh đó, “hồi hương”, “phụ tử”, “thục địa”, “kim ngân” lập thành một trường về các vị thuốc, phù hợp với nghề thuốc và nhà nông trồng cây thuốc.
* Giậu rào mắt cáo, mèo chui lọt;
Rổ nức lòng tâm, tép nhảy qua.
(vế trên chưa rõ tác giả; vế dưới, tương truyền của Nguyễn Huy Lượng)
Câu đối có các cặp cùng nghĩa: “giậu”–”rào”; “lòng”–”tâm”. Đồng thời, có “cáo”,”mèo” là hai từ cùng trường nghĩa; “tôm”,”tép” cũng vậy.
c. Cùng nghĩa kết hợp với nhiều nghĩa, cùng âm, trùng điệp
* Tương truyền, Đoàn Thị Điểm có ra một vế đối, mà đến nay vẫn chưa có vế đối lại tương xứng:
Song song là hai cửa sổ, hai người ngồi trong cửa sổ song song.
Cùng nghĩa HV-TV: “song song” 12 ”hai cửa sổ”. Nhiều nghĩa: “song song” 2 vừa có nghĩa sóng đôi, ngang bằng nhau, vừa có nghĩa được thông suốt (nghĩa “sóng đôi, ngang bằng nhau” đã được Việt hoá). Cùng âm: “song song” 1 – “song song” 2. Cũng lưu ý rằng, nếu ngắt nhịp giữa “ngồi” và “trong”, thì “cửa sổ song song” lại có thể hiểu theo một cách khác, là hai lần cửa, hoặc hai cửa sổ cùng nằm trên hướng nhìn (hai người không ngồi gần nhau). Bên cạnh đó, hiện tượng trùng điệp (âm hay từ) cũng được sử dụng, chỉ có 8 âm tiết được dùng để lắp đầy cho 14 âm tiết của vế đối. ”Cái hay” ấy cũng là cái khó để có thể lựa lời đối lại.
Câu đối chơi chữ theo cách cùng nghĩa, qua các trình bày trên, là một mảng câu đối thú vị. Chúng góp phần làm phong phú diện mạo câu đối có sử dụng chơi chữ nói riêng, sự sắc sảo, hóm hỉnh của tính cách Việt nói chung.
Cách chơi chữ này thường dựa trên cơ sở cùng âm. Góp nhần nhận ra hiện tượng cùng nghĩa, có thể nhờ vào yếu tố cùng trường ở vị trí đối ứng. Ví dụ:
* Trồng môn trước cửa;
Bắt ốc sau nhà .
Các cặp cùng nghĩa HV–TV: “môn” – “cửa”; “ốc” – ”nhà”. Trong ngữ cảnh thuận, “môn”, “ốc” là tên cây, tên con vật (TV); chúng chuyển thành từ HV để tương ứng với “cửa”, “nhà”, theo cách cùng nghĩa (để chơi chữ). Sự chuyển nghĩa này được nhận ra do hiện tượng cùng trường: “cửa” – ”nhà” .
* Thủ thỉ chén đầu lợn;
Hung hổ vỗ bụng hùm.
“Thủ thỉ”, “hung hổ” (HV, cấu tạo theo ngữ pháp tiếng Việt), cùng nghĩa với “đầu lợn”, “bụng hùm” (TV). Trong ngữ cảnh thuận, chúng là những từ thuần Việt (“thủ thỉ”: (ăn nói) nhỏ nhẹ, từ tốn; “hùng hổ”: (thái độ) nóng nảy, dữ tợn).
* Da trắng vỗ bì bạch;
Rừng sâu mưa lâm thâm.
“Da trắng” (TV) cùng nghĩa với “bì bạch” (HV). Trong ngữ cảnh thuận, “bì bạch” là từ tượng thanh; nó chuyển thành ngữ “bì bạch” (HV, cấu tạo theo ngữ pháp tiếng Việt –lẽ ra phải “bạch bì”), do sự xuất hiện của “da trắng”, nhằm đạt cùng nghĩa, trên cơ sở cùng âm (nếu đổi lại, “da đen vỗ bì bạch” chẳng hạn, thì nghĩa theo ngữ cảnh thuận không thay đổi, nhưng chuyện chơi chữ biến mất). Tương tự, “rừng sâu” (TV) cùng nghĩa với “lâm thâm” (HV). Ở ngữ cảnh thuận, “lâm thâm” là từ tượng hình; nó chuyển thành ngữ “lâm thâm” (HV), do sự có mặt của “rừng sâu”, trên cơ sở cùng âm, để tạo ra hiện tượng chơi chữ cùng nghĩa.
Có một số vế đối lại (thay vế dưới) khác: Mũi thấp hun tị ti, Trời xanh màu thiên thanh, Giếng nhỏ bé tỉnh tinh,... Chúng không chỉnh bằng (do nhiều yếu tố, nhưng yế tố cơ bản, là ở vị trí đối ứng với “bì bạch”, không sử dụng được từ tượng thanh).
* Cuốc xuống ao uống nước;
Gà vào vườn ăn kê.
“Cuốc” (quốc), “kê” (HV), cùng nghĩa với “nước” (nước nhà), “gà” (TV). Trong ngữ cảnh thuận, “cuốc” là con chim cuốc, “kê” là loài cây (hạt kê thường dùng để nấu chè), “nước” là thức uống.
* Sửa nhà, gia đình ra sân;
Cứu nước, quốc hội phải họp.
Các cặp cùng nghĩa HV–TV: “gia” – “nhà”, ”đình” – “sân”; ”quốc” – “nước”, ”hội” – “họp”.
* Dưới sông, hà bá là chúa;
Trên đất, thổ công làm trùm.
Các cặp cùng nghĩa HV–TV: “hà” 2 “sông”, “bá” 2 “chúa”, “thổ” 2 ”đất”, “công” 2 “trùm”.
* Nấu đậu phụ cho cha ăn;
Sắc ích mẫu cho mẹ uống.
“Phụ”, “mẫu” (HV), cùng nghĩa với “cha”, “mẹ” (TV). “Phụ”, “mẫu” là các từ tố của “đậu phụ” (một nguyên liệu để chế biến thức ăn), “ích mẫu” (một cây thuốc thường dùng để chữa bệnh cho phụ nữ), được tách ra để hình thành lối chơi chữ cùng nghĩa, trên cơ sở cùng âm.
Một vế đối lại khác: Lấy mắm tôm cho mẹ chấm. Đem “mắm tôm” đối với “đậu phụ” có vẻ sát hợp hơn, chúng đều là những món ăn thường dùng; duy cách cùng nghĩa “tôm” với “mẹ” thì không tương ứng theo lối HV–TV của vế ra, lại không ổn về nghĩa –”tôm” thường được dân gian sử dụng như một biểu tượng chỉ phụ nữ nói chung, có ý tục, dùng với mẹ thì xấc.
* Chuồng gà kê áp chuồng vịt;
Cá diếc tức phường cá mè.
“Kê”, “áp”, “tức”, “phường” (HV), cùng nghĩa với “gà”, “vịt”, “diếc”, “mè” (TV). Trong ngữ cảnh thuận, “kê” là đặt, xếp đặt (vật dụng); “áp” là (đặt) sát vào; “tức” là giận, bực; “phường” chỉ tầng lớp người cùng làm một việc, một nghề (hoặc: lũ, bọn), là những từ TV. Do xuất hiện cùng nghĩa, chúng chuyển thành từ HV, theo cách cùng âm TV–HV.
* Đứng giữa làng Trung Lập;
Dấy trước phủ Tiên Hưng.
“Đứng giữa”, “dấy trước” (TV), cùng nghĩa với “trung lập”, “tiên hưng” (HV –vốn tách theo cách cùng âm với hai địa danh Trung Lập, Tiên Hưng, thuộc tỉnh Thái Bình). Vế ra của quan huấn đạo, vế đối lại là của Kì Đồng (Nguyễn Văn Cẩm).
* Ô! Quạ tha gà;
Xà! Rắn bắt ngoé.
“Ô”, “xà” (HV), cùng nghĩa với “quạ”, “rắn” (TV). Trong ngữ cảnh thuận, “ô”, “xà” là những từ cảm thán.
* Hương ngũ vị năm mùi thơm chửa?
Đèn tam tinh ba ngọn sáng sao!
“Ngũ vị”, “tam tinh”, cùng nghĩa với “năm mùi”, “ba ngọn (sao)”; “vị”, “tinh” cũng có nghĩa là “chửa” (chưa), “sao”.
Có vế đối lại khác: Hồ bán nguyệt nửa tháng trông trăng. “Bán nguyệt” cùng nghĩa với “nửa tháng”; “nguyệt” cũng có nghĩa là “trăng”.
* Con rể nết na xem tử tế;
Ông chồng cay đắng kể công phu.
“Tử tế”, “công phu” (HV, cấu tạo theo ngữ pháp tiếng Việt), cùng nghĩa với “con rể”, “ông chồng” (TV). “Tử tế” (có đủ theo yêu cầu, không lôi thôi; có lòng tốt), “công phu” (sự hao tổn sức lực, thời gian), dùng theo ngữ cảnh thuận, là những từ có gốc HV, chuyển thành từ ngữ HV cùng âm, do xuất hiện các yếu tố TV cùng nghĩa với chúng.
* Học trò Phú Khê ăn cơm cháy;
Quan huyện Thanh Trì uống nước ao.
“Cháy”, “ao” (TV) cùng nghĩa với cùng âm “khê” (TV) của “Khê” (trong Phú Khê), với “Trì” (trong Thanh Trì), là những yếu tố HV (được tách ra theo cách cùng âm).
* Nước giếng Rồng pha chè Long Tỉnh;
Lửa cầu Rắn thắp hương Xà Kiều.
Giếng Rồng, cầu Rắn (địa danh TV), cùng nghĩa với Long Tỉnh, Xà Kiều (địa danh theo HV). Long Tỉnh, Xà Kiều đồng thời là tên chè, tên hương; nên với hai địa danh trên là cùng âm.
* Bươm bướm đậu cành sen, liên chi hồ điệp;
Gà trống mổ hạt thóc, cốc đế hùng kê.
“Bươm bướm”, “cành sen” (TV), cùng nghĩa với “hồ điệp”, “liên chi” (HV); “gà trống”, “thóc” (TV), cùng nghĩa với “hùng kê”, “cốc” (HV).
* Ao Thanh Trì nước trong leo lẻo, cá lội ngắc ngư;
Sông Ngân Hà sao bạc chan chan, vịt nằm ấm áp.
Có sáu cặp từ cùng nghĩa TV–HV: “ao”–”trì”; “trong”–”thanh”; “cá”–”ngư”; “sông”–”hà”; “bạc”–”ngân”; ”vịt”–”áp”. “Thanh”, “trì”, “ngân”, “hà” cùng âm với Thanh Trì, Ngân Hà (tên riêng); “ngư”, “áp” là từ tố của “ngắc ngư”, “ấm áp”, được tách ra trên cơ sở cùng âm để đạt yêu cầu chơi chữ. Ở đây, cũng dùng cách chơi chữ cùng trường nghĩa sở thuộc: “cá” ? “ao Thanh Trì”, “vịt” ? “sông Ngân Hà”.
* Huyện Tam Dương có ba con dê, đứng núi đá trông về Lập Thạch;
Quan Tứ Kì đi xe bốn ngựa, vâng mệnh trời ra trị Thừa Thiên.
Các cặp từ ngữ cùng nghĩa HV–TV: “tam dương”–”ba con dê”; “lập thạch” –”đứng núi đá”; “tứ kì”–”bốn (con) ngựa”; “thừa thiên” –“vâng mệnh trời” (đồng thời, “tam dương”, “lập thạch”, “tứ kì”, “thừa thiên” là bốn từ ngữ cùng âm với bốn địa danh trong câu đối).
Có một câu đối được tạo nên bằng những cặp từ đơn tiết cùng nghĩa đi liền nhau:
* Đi chi đường đạo sợ cụ;
Không vô trong nội nhớ hoài.
(tương truyền, vế ra của vua Duy Tân, vế đối lại của thượng thư Nguyễn Hữu Bài)
Các cặp cùng nghĩa TV–HV: “Đi”–”chi”; “đường”–”đạo”; “sợ”–”cụ” (vế trên); “không” –”vô”; “trong”–”nội”; “nhớ”–”hoài” (vế dưới). Các từ HV được chuyển từ cùng âm TV sang một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn đến mức khó nhận ra có sự dụng công, mà chỉ như những câu nói đầu cửa miệng.
Sau cùng, có hai vế câu đối, chưa thấy có các vế đối lại tương ứng, cùng ra đời vào dịp tết và cùng đề cập đến loài hổ báo, xin được chép ra đây:
* Đêm ba mươi tết cọp nằm nhà, xoa đầu con, beo má vợ, sẵn tương ớt, rót hổ cốt nhắm với tôm hùm, no kễnh bụng.
* Làm đại khái qua loa, nói như hùm như cọp, ông ba mươi đã lên giọng lão, chẳng sửa dần càng thêm hổ miệng. (Văn Lợi, 1986)
Loạt từ cùng nghĩa, chỉ loài hổ báo: (ông) ba mươi, cọp, beo1, hổ, hùm, kễnh (câu đầu); khái, hùm, cọp, ông ba mươi, dần, hổ (câu sau).
2. Câu đối chơi chữ theo cách cùng nghĩa kết hợp với các hình thức chơi chữ khác
a. Cùng nghĩa kết hợp với cùng âm
Đây là cách chơi chữ phức hợp, cả hai hình thức cùng nghĩa và cùng âm đều được thể hiện trên văn bản. Ví dụ:
* Kê là gà, gà ăn kê;
Âu là trẻ, trẻ ăn ấu.
“Kê1”, “ấu1” (HV), cùng nghĩa với ”gà”, ”trẻ” (TV). Có thể viết câu đối dưới dạng công thức suy luận : “kê”=”gà”, “ấu”=”trẻ”; và “kꔹ”gà”, “ấu”¹“trẻ”. Ta thấy, chúng phạm quy luật đồng nhất (đã là một thì không thể tự mình “ăn” (huỷ hoại) mình được). Để khỏi phạm luật, “kê2”, “ấu2” phải là những từ khác nghĩa với “kê1”, “ấu1” – đây là hai từ TV (gọi tên hạt kê và quả ấu).
* Lộc là hươu, hươu đi lộc cộc;
Ngư là cá, cá lội ngắc ngư.
“Lộc”, “ngư” (HV), cùng nghĩa với “hươu”, “cá” (TV). Các từ HV này, đồng thời, cùng âm với các từ tố “lộc”, “ngư” trong “lộc cộc”, “ngắc ngư” (TV).
Vế đối lại khác: Long là rồng, rồng chạy long đong. “Long” (HV) cùng nghĩa với “rồng” (TV), cùng âm với từ tố “long” của “long đong”.
* Cái là tượng, tượng là voi, voi chầu cửa cái;
Tu là hổ, hổ là cọp, cọp bắt thầy tu.
(vế trên là của một nhà sư, vế dưới là của Hoàng Phan Thái)
Các cặp cùng nghĩa được nêu trực tiếp (cái là tượng, tượng là voi,...). Các cặp cùng âm như sau: HV-HV: “tượng” (tượng mảng) 2 ”tượng” (voi), “tu” tức “hổ” (xấu hổ) 2 ”tu” (thầy tu); HV-TV: “cái” tức “tượng” (HV, tượng mảng) 2 ”cái” (“cửa cái” –TV, cửa chính), ”hổ” (cọp) 2 “hổ” (xấu hổ).
Ở đây, có hiện tượng chuyển nghĩa bằng cùng âm, tạo sự vi phạm quy luật đồng nhất về hình thức (giả vi phạm luật đồng nhất), trong lúc thực chất là hợp logic. Có thể mô hình hoá để lí giải hiện tượng này như sau:
“Tu (T) là hổ (H), hổ là cọp (C), cọp bắt thầy tu” : T = H , H = C ® C ¹ T
Công thức trên biểu thị việc vi phạm luật đồng nhất (lẽ ra, phải suy thành C = T). Nhưng chỉ giả vi phạm, bởi vì “cọp” là “hổ” (con hổ), không phải là “hổ” (xấu hổ); và “hổ” (xấu hổ) này là “tu” (HV), cùng âm với “tu” (HV -trong “thầy tu”). Vì thực chất C ¹ T, “nên cọp bắt thầy tu” là hợp lẽ.
* Phụ là vợ, phu là chồng, vì chồng vợ phải đi phu;
Ngã là ta, nhĩ là mày, tại mày nên ta mới ngã.
Giai thoại về câu đối này: “Anh học trò trốn đi phu, quan bắt vợ anh ta đi thay, rồi đọc vế trên, bảo nếu đối lại hay, sẽ miễn phu cho cả hai người, và anh nọ đã đối như vậy; dù vế đối lại rất xấc, nhưng quan cũng giữ lời mà tha cho”.
Các cặp cùng nghĩa đã được nêu trực tiếp. Các cặp cùng âm như sau: “phu” (chồng) 2”phu” (phu phen, lao dịch); “ngã” (ta)2”ngã” (té ngã).
* Phụ là cha, tử là con, công cha con không dám phụ;
Mẫu là mẹ, tử là con, biết mẹ con còn nói mẫu.
Các cặp cùng nghĩa đã được nêu trực tiếp. Các cặp cùng âm: “phụ” (cha) 2 ”phụ” (phụ bạc); “mẫu” (mẹ) 2 ”mẫu” (nói mẫu: nói bông lơn, nói mỉa mai).
b. Cùng nghĩa kết hợp với cùng trường nghĩa
* Tí tận, thử tống mão;
Sửu đầu, ngưu thốn thìn.
“Tí”, “sửu”, về mặt biểu tượng, cùng nghĩa với “thử”, “ngưu”. Bên cạnh đó, “tí”, “sửu”, “mão”, “thìn” cùng trường nghĩa, thuộc thập nhị địa chi.
* Cây xương rồng, trồng đất rắn, long vẫn hoàn long;
Quả dưa chuột, tuột thẳng gang, thử chơi thì thử.
Tương truyền, vế ra là của Thị Điểm, vế đối lại là của Trạng Quỳnh. “Rồng”, “chuột” (TV), cùng nghĩa với “long”, “thử” (HV). Vế ra có “rồng”, “rắn”, hai từ cùng trường nghĩa; vế đối lại có “(dưa) chuột”, “(dưa) gang”, cũng là hai từ cùng trường dưa quả.
* Cha con thầy thuốc về làng, gánh một gánh hồi hương, phụ tử;
Vàng bạc nhà nông chuộc đất, trồng đôi hàng thục địa, kim ngân.
(Vế trên là một vế đối cổ, vế dưới của Phan Châu Trinh)
Các cặp từ cùng nghĩa TV–HV: “cha con” – ”phụ tử”; “về làng”–”hồi hương”; “vàng bạc” – ”kim ngân”; “chuộc đất” – ”thục địa”. Chúng cùng âm với các tên gọi vị thuốc “hồi hương”, “phụ tử”,... Bên cạnh đó, “hồi hương”, “phụ tử”, “thục địa”, “kim ngân” lập thành một trường về các vị thuốc, phù hợp với nghề thuốc và nhà nông trồng cây thuốc.
* Giậu rào mắt cáo, mèo chui lọt;
Rổ nức lòng tâm, tép nhảy qua.
(vế trên chưa rõ tác giả; vế dưới, tương truyền của Nguyễn Huy Lượng)
Câu đối có các cặp cùng nghĩa: “giậu”–”rào”; “lòng”–”tâm”. Đồng thời, có “cáo”,”mèo” là hai từ cùng trường nghĩa; “tôm”,”tép” cũng vậy.
c. Cùng nghĩa kết hợp với nhiều nghĩa, cùng âm, trùng điệp
* Tương truyền, Đoàn Thị Điểm có ra một vế đối, mà đến nay vẫn chưa có vế đối lại tương xứng:
Song song là hai cửa sổ, hai người ngồi trong cửa sổ song song.
Cùng nghĩa HV-TV: “song song” 12 ”hai cửa sổ”. Nhiều nghĩa: “song song” 2 vừa có nghĩa sóng đôi, ngang bằng nhau, vừa có nghĩa được thông suốt (nghĩa “sóng đôi, ngang bằng nhau” đã được Việt hoá). Cùng âm: “song song” 1 – “song song” 2. Cũng lưu ý rằng, nếu ngắt nhịp giữa “ngồi” và “trong”, thì “cửa sổ song song” lại có thể hiểu theo một cách khác, là hai lần cửa, hoặc hai cửa sổ cùng nằm trên hướng nhìn (hai người không ngồi gần nhau). Bên cạnh đó, hiện tượng trùng điệp (âm hay từ) cũng được sử dụng, chỉ có 8 âm tiết được dùng để lắp đầy cho 14 âm tiết của vế đối. ”Cái hay” ấy cũng là cái khó để có thể lựa lời đối lại.
Câu đối chơi chữ theo cách cùng nghĩa, qua các trình bày trên, là một mảng câu đối thú vị. Chúng góp phần làm phong phú diện mạo câu đối có sử dụng chơi chữ nói riêng, sự sắc sảo, hóm hỉnh của tính cách Việt nói chung.
Câu đối chơi chữ theo cách cùng âm
Hiện tượng cùng âm xảy ra khi cùng một tổ hợp
âm thanh nhưng có nhiều ý nghĩa khác nhau tương ứng, trong cùng một ngữ cảnh.
Câu đối chơi chữ theo cách cùng âm có thể chia làm hai loại: lặp nhiều từ ngữ
cùng âm trên cùng một văn bản ngắn; dùng một tổ hợp để biểu thị hai từ ngữ cùng
âm; đồng thời, dạng cùng âm có yếu tố tên riêng cũng được xét như một loại đặc
biệt.
I. Câu đối lặp nhiều từ ngữ cùng âm trên cùng một văn bản ngắn
1. Cùng âm thuần Việt - thuần Việt (TV - TV)
Trên cùng một văn bản ngắn, loạt cùng âm thường là từ đơn tiết. Hiệu quả chơi chữ được thể hiện khi giữa các từ cùng âm tạo nên một sự rối rắm nhất định giữa âm và nghĩa, đòi hỏi chuyện phân định rạch ròi giữa chúng (mà việc phân định này, mỗi khi lí trí không níu giữ, chúng lại tuột khỏi, tiếp tục gây “mù”, tạo lẫn lộn như cũ).
* Vôi tôi, tôi tôi;
Trứng bác, bác bác.
Hai “tôi” đầu là đại từ, “tôi3” là động từ (có nghĩa “làm cho tan vôi sống bằng cách đổ nước vào”), hai “bác” đầu là danh từ, “bác3” là động từ (có nghĩa “vừa đun nhỏ lửa vừa quấy cho đến khi sền sệt”).
* Ruồi đậu mâm xôi đậu;
Kiến bò đĩa thịt bò.
“Đậu1” và “bò1” là động từ, “đậu2” và “bò2” là danh từ.
* Con ngựa đá con ngựa đá, con ngựa đá không đá con ngựa;
Thằng mù nhìn thằng mù nhìn, thằng mù nhìn không nhìn thằng mù.
“Đá1” và “đá4” là động từ, “đá2” và “đá3” là danh từ; “nhìn1” và “nhìn4” là động từ, “nhìn2” và “nhìn3” là từ tố của từ mù nhìn (bù nhìn).
* Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai?
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.
“Ai3” là từ tố của trần ai (bụi), khác với các “ai” còn lại là đại từ. Hai “thế” đầu là danh từ, gần nghĩa với cục diện, thế lực; “thế3” là từ tố của thời thế (tình thế, hoàn cảnh chung của xã hội trong một thời kì); “thế4” và “thế5” là đại từ, nghĩa là vậy, ấy.
Theo nhiều tài liệu có dẫn câu đối, thì vế ra là của Đặng Trần Thường, vế đối lại là cuả Ngô Thì Nhậm. Hai người vốn là bạn học, rồi Thường theo Nguyễn Anh, Nhậm phò Nguyễn Huệ. Nhà Tây Sơn sụp đổ, Nhậm bị chính Thường bắt. Thường đã ra vế đối trên để làm nhục Nhậm. Nhậm không chịu nhún, đối lại một cách khẳng khái, nên Thường đã hạ lệnh đánh Nhậm ba mươi hèo mới tha.
2. Cùng âm Hán Việt - Hán Việt (HV-HV)
Loạt cùng âm là những từ đơn tiết:
* Thị vào hầu, thị đứng thị trông, thị cũng muốn, thị không có ấy;
Vũ cậy mạnh, vũ ra vũ múa, vũ bị mưa, vũ ướt cả lông.
Bốn từ “thị” cùng âm: thị1-2: hầu, thị3: trông, thị4: muốn, thị5: ấy; bốn từ “vũ” cùng âm: vũ1-2: mạnh, vũ3: múa, vũ4: mưa, vũ5: lông.
Có câu đối tương tự, dùng nguyên vế sau, còn vế đầu thay bằng: “Đình không dừng, đình thế thì thôi, đình gặp sét, đình tung cả nóc”; với năm từ “đình” cùng âm: “Đình1”: tên người, “đình2”: (nước) không chảy, “đình3”: dừng lại, “đình4”: cái đình, “đình5”: cái sân.
3. Cùng âm TV-HV hoặc HV-TV
* Cha áo thâm, con áo thâm, phụ tử hữu tình thâm chi nghĩa;
Chị trằm bạc, em trằm bạc, tị muội vô phận bạc chi duyên.
Tương truyền, vế ra là của người chị họ Phan Văn San (Phan Bội Châu), vế đối lại là của Phan (lúc mười một tuổi). “Thâm1-2” (màu tối, gần với đen), “bạc1-2”(màu sáng; kim loại có màu trắng), là hai từ TV, cùng âm với “thâm3” (sâu, nồng thắm; trái với “thiển”), “bạc3” (mỏng, nhạt nhẽo; trái với “hậu”), là hai từ HV.
II. Câu đối dùng một tổ hợp để biểu thị hai từ ngữ cùng âm
1. Cùng âm TV-TV
a. Từ ngữ cùng âm với từ ngữ vốn có theo ngữ cảnh thuận, được nhận ra nhờ một yếu tố cùng trường nghĩa
* Đọc vế đối:
Ngói đỏ lợp nghè, lớp trên đè lớp dưới.
Thì “nghè” là miếu, điện lợp ngói. Đọc tiếp vế đối lại:
Đá xanh xây cống, hòn dưới nống hòn trên.
Do có “cống” (hương cống, tức cử nhân) xuất hiện, “nghè” trở thành “(ông) nghè” (tiến sĩ). Và có thể suy ra hiện tượng cùng âm tương ứng ở “cống” (cái cống ® ông cống) 2vế ra là của một ông nghè, vế đối lại là của Nguyễn Gia Cát.
Cũng có một số câu đối mà quan hệ cùng âm được thiết lập ở hai, ba cặp đối ứng:
* Rượu xơi cốc lớn vì say gái;
Bạc đánh cò con cũng thức dai.
Hai cặp: “cốc” (“(cái) cốc” « “(con) cốc”) 2 “cò” (“(đánh) cò (con)” « “(con) cò”); “gái”2“dai (trai)” (“(thức) dai” « “(gái) giai”). Câu đối của Nguyễn Can Mộng.
* Giàu có thiếu chi tiền, đi một vài quan đâu phải lẽ;
Sang không thì cũng bạc, đem dăm ba chữ để làm duyên.
Ba cặp: “giàu” - “sang” (“sang” tính từ, và “sang” động từ); “tiền” - “bạc” (“bạc” danh từ, và “bạc” tính từ); “quan” - “chữ” (“chữ” là đồng tiền, và “chữ” là văn tự, chữ nghĩa). Câu đối của Nguyễn Khuyến, làm lúc dự đám cưới của một người giàu trong thôn.
Các câu đối cùng kiểu dạng khác:
* Khoai Đơ xanh tốt nhờ về Phủ;
Lĩnh Mỗ vàng trơn bởi có nghè.
“Nghè (vải)” cùng âm với “(ông) nghè”. Câu đối của Nguyễn Quý Đức.
* Gái vờ vịt lấy trai không ra mặt;
Bạc đá gà chơi đĩ lại sát xương.
“Vịt”, thành tố của từ láy “vờ vịt” (giả vờ để che giấu), cùng âm với “(con) vịt”. Câu đối của Lê Trọng Du.
* Đau tiếc thân, lành tiếc của, thói ở bạc đã quen;
Mất lòng trước, được lòng sau, ai có tiền thì hốt.
“Bạc (nghĩa)” cùng âm với “(tiền) bạc”. Câu đối dán trước cửa hiệu thuốc bắc (“hốt”: bốc -PN Nam Bộ), của Nguyễn An Cư.
* Nghển cổ cò, trông bảng không tên: Giời đất hỡi, văn chương xuống bể!
Lủi đầu cuốc, về nhà gọi vợ: Mẹ đĩ ơi, tiền gạo lên giời!
Câu đối tả cảnh xem bảng kết quả thi, thấy không đỗ, cắm cổ về nhà của thí sinh ngày trước. “Cuốc” (đi một cách cắm cúi) cùng âm với “cuốc” (chim cuốc). “Lủi đầu cuốc” có thể hiểu “cắm đầu cắm cổ cuốc bộ về nhà”, đồng thời, cũng có thể hiểu tương đương với thành ngữ “lủi như cuốc” (tả hành động đi nhanh về nhà, không nhìn một ai).
b. Từ ngữ cùng âm với cụm từ tự do vốn có theo ngữ cảnh thuận, được nhận ra bởi hình thức cố định của chúng
* Bán rượu, bán trầu, không bán nước;
Buôn trăm, buôn chục, chẳng buôn quan.
Câu đối được dán ở quán giải khát. “Bán nước” tức bán nước uống, cùng âm với ngữ cố định “bán nước” (phản bội tổ quốc); “buôn quan” tức buôn một lượng hàng hoá có giá trị một quan tiền (hoặc buôn bán trong phạm vi một quan tiền), cùng âm với “buôn quan” (mua bán chức tước).
c. Từ ngữ cùng âm với từ ngữ vốn có theo ngữ cảnh thuận, được nhận ra bằng kiến thức, kinh nghiệm hay thực tiễn ngoài văn bản
* Câu đối của Nguyễn Khuyến:
Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại;
Triều đình cử mục, anh hùng chỉ có một ngươi thôi.
Ông tam nguyên viết câu đối này để tặng một viên quan võ tên Quản Long. “Một ngươi” tức một mình ngươi, cùng âm với “một (con) ngươi”. Suy được cùng âm này, vì Quản Long chỉ có một mắt.
2. Cùng âm HV-HV
a. Câu đối tiếng Việt (chữ Nôm, chữ quốc ngữ)
* Cũng câu đối của Nguyễn Khuyến (viết tặng tổng đốc Hà Nam):
Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp;
Nẹt thằng mặt trắng lấy tam nguyên.
“Tam nguyên” theo ngữ cảnh thuận là ba đồng (giá trị bằng một tạ gạo lúc bấy giờ), cùng âm (và cùng chữ viết) với “tam nguyên” (đỗ đầu ba kì thi: thi hương, thi hội và thi đình; tức giải nguyên, hội nguyên và đình nguyên). Cùng âm này được xác định bởi sự đối ứng với “nhị giáp” ở vế trên.
b. Câu đối chữ Hán
* Hoàng giáp Đỗ Huy Liêu mất, Khiếu Năng Tĩnh ở Trực Mĩ có câu đối viếng:
Hiển tàng độc dị phùng tam mão;
Tâm sự toàn nghi đối lưỡng thân.
(Lúc hiển đạt và lúc mất, một điều lạ là cùng gặp vào ba năm mão;
Tâm sự như thế là trọn đạo làm con đối với hai đấng thân)
Thân” trong “lưỡng thân” (cũng gọi song thân, là cha mẹ), cùng âm với “thân” (thuộc thập nhị địa chi), do yếu tố “mão” cùng trường nghĩa này, ở vị trí đối ứng chỉ ra 2Đỗ Huy Liêu đỗ thủ khoa năm đinh mão (1867), đỗ hoàng giáp năm kỉ mão (1879), mất năm tân mão (1891).
3. Cùng âm TV-HV hoặc HV-TV
a. Cùng âm TV-HV
Dạng chơi chữ này dựa vào từ TV theo ngữ cảnh thuận, để suy ra từ ngữ HV cùng âm. Cách suy cùng âm dựa vào từ cùng trường nghĩa, hay tính chất cố định của từ.
* Dầu vương cả đế;
Ỉa vãi vào sư.
(Vế ra của một nhà sư, vế đối lại của Hoàng Phan Thái)
* Một chiếc cùm lim chân có đế;
Ba vòng xích sắt bước thì vương. (Cao Bá Quát)
“Vương” là mắc, dính vào (TV), cùng âm với “vương” là vua (HV). “Đế” là bộ phận gắn ở phần dưới của một số vật (TV), cùng âm với “đế” là hoàng đế (HV). “Vương” và “đế” HV được nhận ra do cùng trường nghĩa, cái này là điều kiện của cái kia và ngược lại (ở cả hai câu đối; riêng “vãi” thuộc cách cùng âm TV-TV -- “(vung) vãi” - “(bà) vãi” ).
* Ông thông đến gốc cây đề, ông thông không đi, là ông thông lại;
Ông tú đi qua cửa cống, ông tú nhảy được, là ông tú tài.
Theo ngữ cảnh thuận, thì “thông lại” là (ông) thông quay trở lại (kết cấu TV), cùng âm với “thông lại” (viên chức làm việc ở bàn giấy các công đường phủ, huyện thời thực dân Pháp) (HV); “tú tài” là (ông) tú có tài năng (kết cấu TV), cùng âm với “tú tài” (một học vị dưới cử nhân) (HV). Ngoài ra, “đề”, “cống” (trong “cây đề”, “cửa cống”) (TV), cùng âm với “đề” (thuộc đề, lại -viên chức), “cống” (thuộc cống (cử nhân), tú -học vị) (HV).
b. Cùng âm HV-TV
Cùng âm HV-TV vừa có ở câu đối tiếng Việt, vừa có ở câu đối chữ Hán.
+ Với câu đối tiếng Việt:
* Có vế đối:
Trong quần anh có em học khá.
“Quần anh” (HV: họp mặt các anh tài) cùng âm với “quần anh” (TV: cái quần của anh). Hiểu theo nghĩa TV, vế ra đối có ý nghĩa tục.
+ Với câu đối chữ Hán, các yếu tố cùng âm HV với TV tạo nên cách hiểu như từ ngữ TV, thường là hiểu theo nghĩa thực, nghĩa đen.
* Chị nọ chồng mất sớm, làm nghề hàng thịt, một niềm thờ chồng nuôi con. Vào dịp giáp tết, chị mang biếu Nguyên Khuyến đôi bồ dục, bát tiết canh và ngỏ ý xin nhà thơ mấy chữ về treo nhà. Nguyễn Khuyến viết:
Tứ thời bát tiết canh chung thủy;
Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang.
(Bốn mùa tám tiết bền chung thủy;
Dặm liễu gò bồ muốn điểm trang.)
Câu đối nói lên ý chí, quyết tâm chung thủy của người vợ góa trước nỗi xao xuyến, đòi hỏi được “điểm trang” của “dặm liễu”, “gò bồ”. Đồng thời, chúng ta cũng lẩy ra được “bát tiết canh”, “đôi bồ dục” (hai món ăn được nhiều người thích) (TV), nhờ chúng cùng âm với các từ ngữ HV ở vị trí tương ứng (nếu đọc liền, không ngắt nhịp ở sau “tiết” và “bồ”).
III. Câu đối dùng cùng âm có yếu tố tên riêng
1. Lặp nhiều từ ngữ cùng âm trên cùng một văn bản ngắn
a. Câu đối tiếng Việt
+ Tên riêng là địa danh
* Nam Định có vùng đất Lạc Quần, nơi có chợ, có sông tấp nập; đồng thời, lại có xứ Quần Lạc cách Lạc Quần không xa, cũng trù phú không kém. Một vế ra đối được lưu truyền từ lâu, có nêu các địa danh này, nhưng chưa có một vế đáp thật chỉnh. Vế ra là:
Cô gái Quần Lạc, đi chợ Lạc Quần, bán lạc mua quần, trở về Quần Lạc.
“Lạc Quần”, “Quần Lạc”, hai địa danh có tên gọi theo lối đảo trật tự từ của nhau, cùng âm với “lạc quần” (lạc mất cái quần), hàm ý trêu đùa, lại cùng âm với lạc (đậu phộng), ‘‘quần” (quần áo) ở dạng tách rời (về âm thanh, khômg phải về chữ viết)... Chừng ấy cũng thấy vế đối quả không dễ đối lại.
* Hà Nam có đất Như Trác. Tương truyền, nơi đây cũng có vế đối khó đối lại như vế đối ở xứ Lạc Quần (Nam Định):
Gái Như Trác xấu như ma, người ta thiết tha như ma như trác.
“Như Trác” cùng âm với “như trác” (HV: như giũa); “như ma” (TV: giống như con ma) cùng âm với “như ma” (HV: như mài). “Như giũa như mài” (như ma như trác) nói về cách tu luyện của mỗi người.
Hồ Xuân Hương, có tài liệu nói, cũng có vế đối dùng địa danh Khán Xuân ở Hà Nội, như sau:
Gái Khán Xuân, xuân xanh tuổi mười ba, khép cửa phòng xuân còn đợi nguyệt.
Và có người đã đối lại:
Trai Đình Bảng, bảng vàng treo đệ nhất, chờ khi chiếm bảng trúng khôi khoa. Đình Bảng thuộc Hà Bắc. “Bảng” (trong “bảng vàng”) cùng âm với “bảng” (trong “Đình Bảng”); tương ứng với “xuân” (trong “xuân xanh”) cùng âm với “xuân” (trong “Khán Xuân”) của vế ra.
+ Tên người
* Có ông tên Phạm Đình Chi, một hôm, đến thăm bà Nguyệt Anh (Sương Nguyệt Anh). Ông Chi có vẻ tự phụ, đề nghị gia chủ ra vế đối để kết duyên văn tự. Bà Nguyệt Anh đọc:
Đình làng tôi chẳng phạm, thưa ông, tôi phạm đình chi?
Ông Chi nghĩ nát óc vẫn không sao đối lại được, đành cáo từ.
“Phạm” là xúc phạm, đụng chạm đến cái cần tôn trọng, “đình” là đình làng, chúng cùng âm với “Phạm Đình” (họ Phạm Đình); “phạm đình chi” (phạm vào đình gì) cùng âm với Phạm Đình Chi (tên riêng). Cách cùng âm này vốn đã rất khó, với người trong cuộc càng khó hơn (muốn đối lại, trước hết, phải tìm được một cái tên gồm ba âm tiết, có từ loại theo thứ tự động từ, danh từ và đại từ (tương ứng với tên Phạm Đình Chi), kết thành một tổ hợp có nghĩa,và nếu được, là tên của người ra vế đối càng tốt).
* Một thời, ở tạp chí Văn nghệ, có Nguyễn Đình làm thơ trào phúng, Nguyễn Đình Thi viết truyện ngắn, thơ trữ tình rất hăng say. Xuân Thiều ra vế đối:
Nguyễn Đình thi với Nguyễn Đình Thi.
Thanh Tịnh đối lại:
Trần Thanh địch cùng Trần Thanh Địch.
Tên của hai người ở đầu vế đối cùng âm với hai âm tiết đầu trong tên ba âm tiết của hai người ở cuối vế đối. “Thi”, “địch”, hai động từ, cùng âm với “Thi”, “Địch” trong Nguyễn Đình Thi, Trần Thanh Địch, tên riêng.
b. Câu đối bằng chữ Hán
+ Tên riêng là địa danh
* Đặng Toán làm quan có tiếng thanh liêm, đang giữ chức tuần phú Ninh Bình thì có chỉ cử làm tổng đốc Nghệ Tĩnh, nhưng sắp sửa lên đường nhận chức mới thì mất. Đỗ Huy Liêu có câu đối viếng Đặng Toán:
Phương đáo Hoan chi thăng, hồ kị hạc quy, quy Thúy Hạc;
Khởi dữ Ninh hữu ước, hưu tương hồng ấn, ấn Lam Hồng.
(Mới nghe tin ông thăng quan lên châu Hoan (Nghệ Tĩnh), sao ông vội cỡi hạc về, về núi Thúy Sơn, núi Hồi Hạc; Hay là với tỉnh Ninh có hẹn, nên không đem dấu chim hồng in ở sông Lam Giang, núi Hồng Lĩnh.)
“Hạc”, “hồng” là tên hai loài chim lớn (HV), cùng âm với một thành tố của tên gọi địa danh Thúy Hạc, Lam Hồng.
+ Tên người
* Đoàn Trác Luân là anh ruột Đoàn Thị Điểm. Hôm ấy, ông Luân xuống ao rửa chân, thấy bà Điểm đang soi gương bên cửa sổ, bèn nói:
Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm.
(Soi gương kẻ lông mày, một nét hoá ra hai nét)
Bà Điểm đối ngay:
Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân.
(Tới ao xem trăng, một vầng thành ra hai vầng).
“Điểm” (chấm, nét), “luân” (vòng, vầng), chúng cùng âm với tên hai anh em bà Điểm, ông Luân.
Ngụy Vô Kị, Trưởng tôn Vô Kị, bỉ vô kị, ngã diệc vô kị.
2. Dùng một tổ hợp để biểu thị hai từ ngữ cùng âm
a. Câu đối tiếng Việt
* Lúc Trần Tế Xương mất, Nguyễn Khuyến có câu đối viếng:
Kìa ai chín suối xương không nát;
Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn.
“Xương” là xương cốt (tng: “Sống gửi nạc, thác gửi xương”), cùng âm với tên người được viếng.
* Lê Trung Đình lúc mới mười lăm tuổi đã tỏ ra xuất chúng. Một lần, Tuần phủ Điện đùa Đình một vế đối:
Đình xiêu giữa chợ, ăn mày ngủ.
Đình đối ngay:
Điện tế bên đường, chó đói ăn.
“Đình”, “điện”, những nơi thờ cúng, là hai danh từ chung, cùng âm với Đình, Điện, tên của người thách, kẻ đối.
b. Câu đối chữ Hán
* Trong một chuyến đi sứ sang Tàu, Mạc Đĩnh Chi có lần chẳng may sa chân xuống một cái hố bên mép cầu. Đoàn sứ giả chạy lại đỡ ông dậy. Để đùa vui, họ ra cho ông một vế đối:
Can mộc hoành cừ, lục giả tương như tự đạo.
(Gỗ thẳng, cầu ngang, đường đi ngỡ là đất phẳng)
Vế đối này hóc hiểm ở chỗ, có năm tên người cùng âm (mỗi tên hai âm tiết): Can Mộc (Đoàn Can Mộc, một nhân vật thời Chiến Quốc); Hoành Cừ (tên hiệu của Trương Tái, một triết gia đời Bắc Tống); Lục Giả (người giỏi biện luận, từng giúp Hán Cao Tổ); Tương Như (Lạn Tương Như, một nhân vật thời Chiến Quốc); Tự Đạo (Giả Tự Đạo, người nước Tống, một quyền thần chuyên chế).
Mạc Đĩnh Chi nhìn quanh, thấy bên kia sông có cái đình dưới chân núi, bèn chỉ đình mà đối:
Đại đình an thạch, vọng chi nghiễm nhược Thái Sơn.
(Đình to, đá vững, thoạt trông như thể Thiên Thai)
Vế đối lại cũng ghép các tên người: Đại Đình (một tên hiệu của Thần Nông); An Thạch (Vương An Thạch, một nhân vật đời Tống); Vọng Chi (người đời Hán, làm phụ chính cho Hán Nguyên Đế) (hai tên sau chưa tra cứu được).
Câu đối chơi chữ theo cách cùng âm là một bộ phận câu đối có giá trị trong kho tàng câu đối nói riêng, trong nền văn học dân tộc nói chung. Những trình bày và phân tích, lí giải ở đây tuy chưa thật đầy đủ, sâu sắc, nhưng về cơ bản cũng cho thấy được diện mạo vấn đề, sự thú vị của nó, hòng giúp bạn đọc thưởng lãm.
1. Câu đối chơi chữ theo cách tách ghép chữ Hán
Tách ghép chữ Hán, cũng gọi chiết tự, là cách tách các yếu tố cấu tạo một chữ Hán ra thành các chữ, thường cũng là từ, có nghĩa độc lập, hoặc ghép các chữ Hán lại thành một chữ. Đây là lối chơi chữ phổ biến trong văn chương xưa, mà câu đối tỏ ra có ưu thế hơn cả.
a. Tách một chữ Hán ra thành các yếu tố có nghĩa
* Mạc Đĩnh Chi có lần cùng bàn luận văn chương với một nhà sư Trung Hoa. Nhà sư đọc vế đối:
Kỉ dĩ mộc, bôi bất mộc, như hà dĩ kỉ vi bôi? (Kỉ là gỗ, còn bôi (chén nhỏ, thường dùng để uống rượu) không phải là gỗ, cớ sao lấy kỉ làm bôi?)
Ông Mạc đối lại:
Tăng tằng nhân, Phật phất nhân, vân hồ dĩ tăng sự Phật?
(Sư từng là người, Phật không phải là người, cớ sao lấy sư thờ Phật?) Chữ “kỉ” [杞] gồm hai chữ “dĩ” [已] và “mộc” [木]; chữ “bôi” [杯] gồm hai chữ “bất” [不] và “mộc” [木] ; chữ “tăng” [僧] gồm hai chữ “tằng” [曾] và “nhân” [ ] ; chữ “Phật” [佛] gồm hai chữ “phất” [弗] và “nhân” [ ]. Hàm ý của vế ra đối chê ông Mạc người thấp bé (như cây gỗ kỉ) mà được trọng dụng. Vế đối lại cũng có thể có hàm ý: việc tu hành của ông chẳng hợp lẽ chút nào.
* Lần khác, một bạn thơ Trung Hoa ra vế đối:
Lị, mị, võng, lượng tứ tiểu quỷ (Các chữ lị, mị, võng, lượng có bốn chữ quỷ nhỏ).
Mạc Đĩnh Chi đối lại:
Cầm, sắt, tì bà bát đại vương (Các chữ cầm, sắt, tì bà có tám chữ vương lớn).
Các chữ lị [魑], mị [魅], võng [魍], lượng [魎] đều có bốn chữ quỷ [鬼] ở bên phải; các chữ cầm [琴], sắt [瑟], tì bà [琵 琶] đều có tám chữ vương [王] đặt ở trên.(1)
b. Ghép các chữ Hán lại thành một chữ
Ghép các chữ Hán lại thành một chữ là cách làm theo quy trình ngược lại với cách trên. Chữ được ghép, tất nhiên, là chữ có nghĩa.
* Trong một cuộc trò chuyện với Mạc Đĩnh Chi, có một văn hữu Trung Hoa đọc:
Thập khẩu tâm tư: tư quốc, tư gia, tư phụ mẫu.
(Ghép ba chữ “thập” [十], “khẩu” [口], “tâm” [心] thành chữ “tư” [思] là lo: lo nước, lo nhà, lo cha mẹ).
Dứt lời, ông Mạc đối ngay:
Thốn thân ngôn tạ: Tạ thiên, tạ địa, tạ quân vương.
(Ghép ba chữ “thốn” [寸], “thân” [身], “ngôn” [言], thành chữ “tạ” [謝], là bái tạ, cảm ơn: ơn trời, ơn đất, ơn vua.)
* Tương truyền, Phùng Khắc Khoan đi sứ sang Trung Hoa, khi ngang qua đám rừng, gặp một người con gái ngồi dưới gốc cây. Ông đọc:
Tam mộc sâm đình, tọa trước hảo hề nữ tử (Ba cây mọc chụm ở sân, có cô con gái đẹp ngồi ở dưới).
Cô gái không chút do dự, đối ngay:
Trùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân (Núi non mở đường, người đi đến là quan sứ giả).
Trạng Bùng khâm phục cô gái. Bởi vế ra đối của ông tuy là lời lẽ dung dị, nhưng dùng cách ghép chữ không dễ đối: ba chữ “mộc” [木] (cây), ghép lại thành chữ “sâm” [森] (rậm rạp); chữ “hảo” [好] (tốt, đẹp), do chữ “ nữ” [女] (phụ nữ) và chữ “tử” [子] (con) ghép lại. Cô gái cũng dùng lời lẽ bình thường, và cũng sử dụng lối ghép chữ: hai chữ “sơn” [山] (núi), ghép lại thành chữ “xuất” [出] (ra, mở); chữ “sứ” [使] (đi sứ), do chữ “lại” [吏] (quan lại) và chữ “nhân” [人] (người) ghép lại.
Ông đọc tiếp:
Sơn nhân bằng bất kỉ, mạc phi tiên nữ lâm phàm ? (Cô sơn nữ ngồi trên ghế, phải chăng là tiên nữ giáng trần?)
Vẫn dùng lối ghép chữ: chữ “sơn” [山] (núi) ghép với chữ “nhân” [人] (người), thành chữ “tiên” [仙] (tiên); chữ “bằng” [朋] có chữ “kỉ” [几] (ghế); chữ “nhất” [一] ghép với chữ “kỉ” [几] thành chữ “phàm” [凡] (trần tục).
Cô gái thung dung đối lại:
Văn tử đới trường cân, tất thị học sinh thị trướng? (Văn nhân chít khăn dài, hẳn là học trò nhìn màn học?).
Lại vẫn dùng lối ghép chữ: chữ “văn” [文] ghép với chữ “tử” [子], thành chữ “học” [學]; chữ “đới” [帶] có chữ “cân” [巾] (cái khăn); chữ “trường” [長] ghép với chữ “cân” [巾] thành chữ “trướng” [帳] (màn).
Nghe đến đây, ông Phùng cúi đầu thi lễ. Khi vừa ngẩng lên thì cô gái đã biến mất. Trên cây gỗ có tấm biển treo dòng chữ: “Mão khẩu công chúa, băng mã dĩ tẩu”. Những người cùng đi tỏ vẻ không hiểu, ông Phùng giảng giải:
- “Mộc” [木] là cây gỗ, ghép với chữ “ mão” [卯] thành chữ “liễu” [柳], ghép với chữ “khẩu” [口] ra thành chữ “hạnh” [杏]. Tiên nữ vừa rồi chính là công chúa Liễu Hạnh. Còn chữ “băng” [冫] ghép với chữ “mã” [馬], là họ Phùng [馮] của ta; chữ “dĩ” [已] nằm cạnh chữ “tẩu” [走] chính là chữ “khởi” [起]. Chắc công chúa muốn ta khởi công xây dựng ngôi chùa (sau đó, Phùng Khắc Khoan khởi công trùng tu ngôi chùa này).
* Lúc còn là học trò, các bạn của Nguyễn Hàm Ninh ra cho ông vế đối:
Vinh Sơn, Ngưu Sơn, sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt.
Ông Nguyễn đối lại:
Tràng Hải, Ngoại Hải, hải hải đa liệt nữ anh thư.
Vế ra nhằm thể hiện niềm tự hào về quê hương (vùng dưới chân đèo Ngang) của bạn. Cách ghép chữ “sơn” [山] (núi) + “sơn” [山] = “xuất” [出] (ra). Vế đối lại cũng biểu thị niềm vinh dự được sống trên mảnh đất có nhiều “liệt nữ anh thư”, để sánh cùng “anh hùng hào kiệt” của bạn. Ở đây, cũng dùng cách ghép chữ: khung chữ bên bộ “thủy” [ ] của chữ “hải” [海] (biển), được xem là “đa” [多] (nhiều).
* Kì Đồng Nguyễn Văn Cẩm đến thăm Nguyễn Khuyến, không nói rõ tên mà chỉ xưng là khóa sinh. Ông Nguyễn đang giảng bài, sai người đưa ra vế đối, bảo đối được sẽ đón tiếp. Vế đối ấy là:
Quả ngôn viết khóa, nhất nhân khấu mệnh, vi thùy? (Tự xưng là khóa sinh, một mình đến gặp ta, ai vậy?)
Vế ra đối dùng cách ghép chữ: chữ “quả” [果] ghép với chữ “ngôn” [言], thành chữ: “khóa” [課] (khóa sinh); chữ “nhất” [一], chữ “nhân” [人], chữ “khấu” [叩] ghép lại, thành chữ “mệnh” [命].
Kì Đồng đối lại rằng:
Nhập mỗ ngôn công, thiên lí hành xung, thị ngã (Người đến nói chuyện cùng ông, từ nghìn dặm đường đột, là tôi).
Vế đối lại cũng dùng cách ghép chữ: chữ “nhập” [入] ghép với chữ “mỗ” [ ], thành chữ “công” [公] (ông); chữ “thiên” [千], chữ “lí” [里] , chữ “hành” [行] ghép lại, thành chữ “xung” [衝].
Nghe vế đối, Nguyễn Khuyến giật mình, biết ngay người đến thăm mình là Kì Đồng, bèn ra thi lễ, rước vào nhà trong đàm đạo.
* Một câu đối (không ghi tên tác giả), có thể chép ra đây:
Ba sĩ ngồi một ghế, đội đức đế Nghiêu;
Một bách xách hai cung, đáng tài phụ bật.
Ba “sĩ” [士] (học trò) ghép với “kỉ” [几] (ghế), thành chữ “Nghiêu” [堯] (một ông vua hiền của Trung Hoa cổ đại); “bách” [百] (trăm) kết hợp với hai chữ “cung” [弓] (cung nỏ), thành chữ “bật” [弼] (giúp đỡ).
* Truyện Trạng Quỳnh có mẩu kể việc Quỳnh trêu ghẹo con gái quan Bảng nhãn (có tài liệu nói ông quan Bảng nhãn này là Phạm Quang Trạch (1653 - 1716), người xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội, đỗ Bảng nhãn năm 1684, đời Lê Hi Tông). Quan Bảng ra vế đối khó, nếu đối không được sẽ bị đòn:
Thằng quỷ ôm cái đấu, đứng cửa khôi nguyên.
Vế ra sử dụng cách ghép chữ: “quỷ” [鬼] + “đấu” [斗] = “khôi”[魁].
Quỳnh đối lại:
Con mộc nấp cây bàng, dòm nhà bảng nhãn.
Vế đối lại cũng sử dụng cách ghép chữ: “mộc” [木] + “bàng” [旁] = “bảng” [榜]. ý nghĩa cũng tương xứng, già giặn (“mộc” (con Mộc): một loại ma gỗ, ma cây).
* Truyện Trạng Lợn có mẩu kể chuyện Chung Nhi vào nhà Phấn Khanh, thấy ở thư phòng có một vế đối [八 刀 分 米 粉] (bát đao phân mễ phấn), bèn viết tên mình bên cạnh nàng Phấn, xong lăn ra ngủ. Đến sáng, Phấn Khanh vào thấy chữ “Chung” [鍾] (Chung Nhi), cho rằng Chung Nhi đã đối lại vế ra của mình, là [千 里 重 金 鍾] (thiên lí trọng kim chung), mà không cần ghi hết ra, khen nức nở.
Hai chữ “bát” [八] , “đao” [刀] ghép lại thành chữ “phân” [分], lại ghép thêm chữ “mễ” [米] nữa, ra chữ “phấn” [粉] (Phấn Khanh); hai chữ “thiên” [千], “lí” [里] ghép lại thành chữ “trọng” [重], lại ghép thêm chữ “kim” [金] vào, ra chữ “chung” [鍾] (Chung Nhi).
2. Câu đối chơi chữ theo cách chuyển hóa chữ Hán
Nếu tách ghép chữ là cách xáo chữ có tính chất nội bộ, thì chuyển hóa chữ không đóng khung trong phạm vi một số chữ (hay nét chữ) của một chữ Hán, mà mở ra một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, vượt cả giới hạn tác động của một bộ thủ. Bên cạnh sự chuyển dịch, thay đổi chữ, còn có cả sự quay đảo chữ. Do vậy, cách chuyển hóa chữ cũng tạo được những bất ngờ thú vị hơn.
* Lê Quí Đôn từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng. Tương truyền, năm ông lên bảy, có người bạn của cha đến chơi, hỏi đâu ông trả lời được đấy, khiến người này vô cùng kinh ngạc. Nhân thấy có con sông nhỏ chảy thành ba nhánh cạnh nhà, mới ra vế đối:
Tam xuyên (Ba con sông).
“Tam” [三] (ba) gồm ba nét ngang, quay 900 thành “xuyên” [川] (sông); vế đối chỉ hai chữ mà thành không đơn giản chút nào !
Cậu bé Lê Quí Đôn hiểu ra ngay cái lắt léo này, nhìn quanh để tìm ý. Chợt thấy ông khách đang đeo kính, cậu liền đối:
Tứ mục (Bốn con mắt).
“Tứ” [四] (bốn), quay 900 thành “mục” [目] (mắt). Ông khách thán phục lắm.
“Tam xuyên - tứ mục” là một câu đối đặc biệt. Sự chuyển hóa ở đây là do sự quay đảo (tác động bên ngoài) tạo nên. Các trường hợp khác đều không như vậy.
* Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên lúc mới mười hai tuổi, vua thấy bé loắt choắt mà ăn nói lại hàm hồ chưa có phép tắc gì cả, bắt về học lễ ba năm rồi bổ dụng sau. Trạng về quê, cùng đùa nghịch với bọn trẻ trong làng. Sau đó, vua phái sứ giả đến rước Nguyễn Hiền lên Kinh. Sứ giả chưa quen biết Trạng, khi đến làng, gặp ông đang đùa nghịch với vẻ khôn khéo đặc biệt, đọc một câu rằng:
Tự là chữ, cất giằng đầu, tử là con, con ai con ấy?
Nguyễn Hiền đối lại ngay:
Vu là chưng, bỏ ngang lưng, đinh là đứa, đứa nào đứa này ?
Cách chuyển hóa chữ: “tự” [字] (chữ), ‘tách’ [宀] (giằng đầu), còn “tử” [子] (con); “vu” [于] (chưng), ‘bỏ’ [一] (ngang), thành chữ “đinh” [丁] (đứa).
* Một câu đối khuyết tên tác giả, được nhiều người nhớ, có cung cách tương tự câu đối trên, nhưng thay vì tạo câu hỏi ở tổ hợp sau cùng, thì đó là câu tục ngữ:
Chữ đại là cả, bỏ một nét ngang, chữ nhân là người, chớ thấy người sang bắt quàng làm họ;
Chữ bì là da, thêm ba chấm thủy, chữ ba là sóng, chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo. Cách chuyển hóa chữ: “đại” [大] (cả, to, lớn), bỏ [一] “ngang”, thành chữ “nhân” [人] (người); chữ “bì” [皮] (da), thêm [ ] “ba chấm thủy”, ra chữ “ba” [波] (sóng).
* Câu đối sau có vế trên là của một văn sĩ Trung Hoa, vế dưới là của Mạc Đĩnh Chi:
An, nữ khứ thỉ nhập vi gia;
Tù, nhân xuất vương lai thành quốc.
Cách chuyển hóa chữ: “an” [安] (yên lành), bỏ chữ “nữ” [女] (phụ nữ), thay “thỉ” [豕] (lợn) vào, thành chữ “gia” [家] (nhà) ; “tù” [囚] (người tù), bỏ chữ “nhân” [人] (người), thay “vương” [王] (vua) vào, thành chữ “quốc” [國] (nước).
* Anh học trò tên Lỗi, tính tình rất ngang bướng. Anh ta đi thi, viên quan thừa ti được cử làm sơ khảo kì thi ấy, thấy Lỗi có vẻ ngông nghênh, bèn ra vế đối:
Lỗi kia đã nặng bằng ba thạch.
Lỗi ta trả miếng ngay:
Ti nọ xem khinh đáng nửa đồng.
Viên thừa ti biết gặp phải tay chẳng vừa, đành nuốt giận làm ngơ.
Vế ra dùng cách tách ghép chữ: chữ “lỗi” [磊] (phạm lỗi, cùng âm với tên anh học trò), do ba chữ “thạch” [石] (đá) viết chồng lên. Đồng thời, cũng có ý cảnh cáo về sự ngang ngạnh đáng phạt của anh học trò. Vế đối lại dùng cách chuyển hóa chữ: chữ “ti” [司] (cơ quan cấp ti, cũng hàm ý chỉ chức thừa ti của quan sơ khảo), bằng nửa chữ “đồng” [同] (cùng). Do “nửa (chữ) đồng” và “nửa đồng (bạc)” cùng âm, nên có ý xem thường viên quan thừa ti làm sơ khảo. Bên cạnh cách chơi chữ theo lối tách ghép, chuyển hóa chữ, ở đây, còn có cách chơi chữ khoán nghĩa (Lỗi, tên người học trò, và Ti, chỉ viên quan, được nêu trên văn bản, vừa theo cách cùng âm, vừa có vẻ trực tiếp).
* Phạm Đình Trọng và Nguyễn Hữu Cầu là bạn học cùng một thầy. Sau ông Nguyễn khởi nghĩa chống lại triều đình Lê - Trịnh (ở Đông Nam đồng bằng Bắc Bộ), ông Phạm vâng lệnh triều đình ra đánh. Trước khi tấn công, ông Phạm gửi cho ông Nguyễn một vế đối:
Thổ triệt bán hoành, thuận giả thượng, nghịch giả hạ (Chữ thổ bỏ một nửa nét ngang, để xuôi là chữ thượng, để ngược là chữ hạ).
Ý muốn nói là, nếu ông Nguyễn chịu quy hàng thì sẽ cho quan chức, nếu chống lại thì sẽ bị tiêu diệt.
Nguyễn Hữu Cầu xem xong, đối lại rằng:
Ngọc tàng nhất điểm, xuất vi chúa, nhập vi vương (Chữ ngọc có một chấm, để ra (trên) là chữ chúa, ẩn vào (trong) là chữ vương).
Tỏ ý “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, vua chúa chính là ta.
Thế là hai bên dàn quân ra đánh nhau kịch liệt.
Cách chuyển hóa chữ: chữ “thổ” [土] (đất), bỏ nửa nét ngang, để xuôi, thành chữ “thượng” [上] (trước, bậc trên); để ngược, thành chữ “hạ” [下] (dưới, bậc dưới). Chữ “ngọc” [玉] (ngọc) có dấu chấm, để ra (trên), thành chữ “chúa” [主] (chúa), ẩn vào (trong), thành chữ “vương” [王] (vua).* Tương truyền, khi vua Duy Tân mười hai tuổi, có lần ngự yến tại tòa khâm sứ cùng với viên cố đạo người Pháp. Viên cố đạo là người thông thạo tiếng Việt và chữ Hán, thấy nhà vua tuy ít tuổi mà có vẻ thông minh, anh tuấn, mới đọc ra một vế câu đối:
Rút ruột vua, tam phân thiên hạ.
Vua Duy Tân đối lại:
Chặt đầu Tây, tứ hải giai huynh.
Cách chuyển hóa chữ: chữ “vua” là “vương” (cùng nghĩa); “vương” [王] rút nét sổ ở giữa, thành chữ “tam” [三] (ba); “tây” [西] (hướng Tây, người Pháp), chặt ở phần đầu, thành chữ “tứ” [四] (bốn). Vế đối không chỉnh lắm, nhưng cũng đã làm cho viên cố đạo đau điếng.
Mảng câu đối chơi chữ theo cách tách ghép, chuyển đổi chữ Hán là mảng câu đối thú vị trong kho tàng văn học nước nhà. Những trình bày trên cũng cho thấy, để tham gia được trò chơi này, chẳng những cần phải am tường, nhuần nhuyễn về chữ nghĩa, mà nhiều trường hợp còn đòi hỏi cả sự mẫn tiệp, thông tuệ nữa. Việc có mặt của nhiều ông Trạng trong mảng câu đối này đã nói lên điều đó.
Triều Nguyên
CHÚ THÍCH:
(1) Ca dao có bài dựa theo câu đối này:
- Cầm đàn gảy khúc nam thương
Tì bà cầm sắt, bát vương đối gì ?
- Khéo đưa sách cổ mà ôn
Lị, mị, võng, lượng, bốn con quỷ ngồi./.
1. Cùng âm thuần Việt - thuần Việt (TV - TV)
Trên cùng một văn bản ngắn, loạt cùng âm thường là từ đơn tiết. Hiệu quả chơi chữ được thể hiện khi giữa các từ cùng âm tạo nên một sự rối rắm nhất định giữa âm và nghĩa, đòi hỏi chuyện phân định rạch ròi giữa chúng (mà việc phân định này, mỗi khi lí trí không níu giữ, chúng lại tuột khỏi, tiếp tục gây “mù”, tạo lẫn lộn như cũ).
* Vôi tôi, tôi tôi;
Trứng bác, bác bác.
Hai “tôi” đầu là đại từ, “tôi3” là động từ (có nghĩa “làm cho tan vôi sống bằng cách đổ nước vào”), hai “bác” đầu là danh từ, “bác3” là động từ (có nghĩa “vừa đun nhỏ lửa vừa quấy cho đến khi sền sệt”).
* Ruồi đậu mâm xôi đậu;
Kiến bò đĩa thịt bò.
“Đậu1” và “bò1” là động từ, “đậu2” và “bò2” là danh từ.
* Con ngựa đá con ngựa đá, con ngựa đá không đá con ngựa;
Thằng mù nhìn thằng mù nhìn, thằng mù nhìn không nhìn thằng mù.
“Đá1” và “đá4” là động từ, “đá2” và “đá3” là danh từ; “nhìn1” và “nhìn4” là động từ, “nhìn2” và “nhìn3” là từ tố của từ mù nhìn (bù nhìn).
* Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai?
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.
“Ai3” là từ tố của trần ai (bụi), khác với các “ai” còn lại là đại từ. Hai “thế” đầu là danh từ, gần nghĩa với cục diện, thế lực; “thế3” là từ tố của thời thế (tình thế, hoàn cảnh chung của xã hội trong một thời kì); “thế4” và “thế5” là đại từ, nghĩa là vậy, ấy.
Theo nhiều tài liệu có dẫn câu đối, thì vế ra là của Đặng Trần Thường, vế đối lại là cuả Ngô Thì Nhậm. Hai người vốn là bạn học, rồi Thường theo Nguyễn Anh, Nhậm phò Nguyễn Huệ. Nhà Tây Sơn sụp đổ, Nhậm bị chính Thường bắt. Thường đã ra vế đối trên để làm nhục Nhậm. Nhậm không chịu nhún, đối lại một cách khẳng khái, nên Thường đã hạ lệnh đánh Nhậm ba mươi hèo mới tha.
2. Cùng âm Hán Việt - Hán Việt (HV-HV)
Loạt cùng âm là những từ đơn tiết:
* Thị vào hầu, thị đứng thị trông, thị cũng muốn, thị không có ấy;
Vũ cậy mạnh, vũ ra vũ múa, vũ bị mưa, vũ ướt cả lông.
Bốn từ “thị” cùng âm: thị1-2: hầu, thị3: trông, thị4: muốn, thị5: ấy; bốn từ “vũ” cùng âm: vũ1-2: mạnh, vũ3: múa, vũ4: mưa, vũ5: lông.
Có câu đối tương tự, dùng nguyên vế sau, còn vế đầu thay bằng: “Đình không dừng, đình thế thì thôi, đình gặp sét, đình tung cả nóc”; với năm từ “đình” cùng âm: “Đình1”: tên người, “đình2”: (nước) không chảy, “đình3”: dừng lại, “đình4”: cái đình, “đình5”: cái sân.
3. Cùng âm TV-HV hoặc HV-TV
* Cha áo thâm, con áo thâm, phụ tử hữu tình thâm chi nghĩa;
Chị trằm bạc, em trằm bạc, tị muội vô phận bạc chi duyên.
Tương truyền, vế ra là của người chị họ Phan Văn San (Phan Bội Châu), vế đối lại là của Phan (lúc mười một tuổi). “Thâm1-2” (màu tối, gần với đen), “bạc1-2”(màu sáng; kim loại có màu trắng), là hai từ TV, cùng âm với “thâm3” (sâu, nồng thắm; trái với “thiển”), “bạc3” (mỏng, nhạt nhẽo; trái với “hậu”), là hai từ HV.
II. Câu đối dùng một tổ hợp để biểu thị hai từ ngữ cùng âm
1. Cùng âm TV-TV
a. Từ ngữ cùng âm với từ ngữ vốn có theo ngữ cảnh thuận, được nhận ra nhờ một yếu tố cùng trường nghĩa
* Đọc vế đối:
Ngói đỏ lợp nghè, lớp trên đè lớp dưới.
Thì “nghè” là miếu, điện lợp ngói. Đọc tiếp vế đối lại:
Đá xanh xây cống, hòn dưới nống hòn trên.
Do có “cống” (hương cống, tức cử nhân) xuất hiện, “nghè” trở thành “(ông) nghè” (tiến sĩ). Và có thể suy ra hiện tượng cùng âm tương ứng ở “cống” (cái cống ® ông cống) 2vế ra là của một ông nghè, vế đối lại là của Nguyễn Gia Cát.
Cũng có một số câu đối mà quan hệ cùng âm được thiết lập ở hai, ba cặp đối ứng:
* Rượu xơi cốc lớn vì say gái;
Bạc đánh cò con cũng thức dai.
Hai cặp: “cốc” (“(cái) cốc” « “(con) cốc”) 2 “cò” (“(đánh) cò (con)” « “(con) cò”); “gái”2“dai (trai)” (“(thức) dai” « “(gái) giai”). Câu đối của Nguyễn Can Mộng.
* Giàu có thiếu chi tiền, đi một vài quan đâu phải lẽ;
Sang không thì cũng bạc, đem dăm ba chữ để làm duyên.
Ba cặp: “giàu” - “sang” (“sang” tính từ, và “sang” động từ); “tiền” - “bạc” (“bạc” danh từ, và “bạc” tính từ); “quan” - “chữ” (“chữ” là đồng tiền, và “chữ” là văn tự, chữ nghĩa). Câu đối của Nguyễn Khuyến, làm lúc dự đám cưới của một người giàu trong thôn.
Các câu đối cùng kiểu dạng khác:
* Khoai Đơ xanh tốt nhờ về Phủ;
Lĩnh Mỗ vàng trơn bởi có nghè.
“Nghè (vải)” cùng âm với “(ông) nghè”. Câu đối của Nguyễn Quý Đức.
* Gái vờ vịt lấy trai không ra mặt;
Bạc đá gà chơi đĩ lại sát xương.
“Vịt”, thành tố của từ láy “vờ vịt” (giả vờ để che giấu), cùng âm với “(con) vịt”. Câu đối của Lê Trọng Du.
* Đau tiếc thân, lành tiếc của, thói ở bạc đã quen;
Mất lòng trước, được lòng sau, ai có tiền thì hốt.
“Bạc (nghĩa)” cùng âm với “(tiền) bạc”. Câu đối dán trước cửa hiệu thuốc bắc (“hốt”: bốc -PN Nam Bộ), của Nguyễn An Cư.
* Nghển cổ cò, trông bảng không tên: Giời đất hỡi, văn chương xuống bể!
Lủi đầu cuốc, về nhà gọi vợ: Mẹ đĩ ơi, tiền gạo lên giời!
Câu đối tả cảnh xem bảng kết quả thi, thấy không đỗ, cắm cổ về nhà của thí sinh ngày trước. “Cuốc” (đi một cách cắm cúi) cùng âm với “cuốc” (chim cuốc). “Lủi đầu cuốc” có thể hiểu “cắm đầu cắm cổ cuốc bộ về nhà”, đồng thời, cũng có thể hiểu tương đương với thành ngữ “lủi như cuốc” (tả hành động đi nhanh về nhà, không nhìn một ai).
b. Từ ngữ cùng âm với cụm từ tự do vốn có theo ngữ cảnh thuận, được nhận ra bởi hình thức cố định của chúng
* Bán rượu, bán trầu, không bán nước;
Buôn trăm, buôn chục, chẳng buôn quan.
Câu đối được dán ở quán giải khát. “Bán nước” tức bán nước uống, cùng âm với ngữ cố định “bán nước” (phản bội tổ quốc); “buôn quan” tức buôn một lượng hàng hoá có giá trị một quan tiền (hoặc buôn bán trong phạm vi một quan tiền), cùng âm với “buôn quan” (mua bán chức tước).
c. Từ ngữ cùng âm với từ ngữ vốn có theo ngữ cảnh thuận, được nhận ra bằng kiến thức, kinh nghiệm hay thực tiễn ngoài văn bản
* Câu đối của Nguyễn Khuyến:
Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại;
Triều đình cử mục, anh hùng chỉ có một ngươi thôi.
Ông tam nguyên viết câu đối này để tặng một viên quan võ tên Quản Long. “Một ngươi” tức một mình ngươi, cùng âm với “một (con) ngươi”. Suy được cùng âm này, vì Quản Long chỉ có một mắt.
2. Cùng âm HV-HV
a. Câu đối tiếng Việt (chữ Nôm, chữ quốc ngữ)
* Cũng câu đối của Nguyễn Khuyến (viết tặng tổng đốc Hà Nam):
Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp;
Nẹt thằng mặt trắng lấy tam nguyên.
“Tam nguyên” theo ngữ cảnh thuận là ba đồng (giá trị bằng một tạ gạo lúc bấy giờ), cùng âm (và cùng chữ viết) với “tam nguyên” (đỗ đầu ba kì thi: thi hương, thi hội và thi đình; tức giải nguyên, hội nguyên và đình nguyên). Cùng âm này được xác định bởi sự đối ứng với “nhị giáp” ở vế trên.
b. Câu đối chữ Hán
* Hoàng giáp Đỗ Huy Liêu mất, Khiếu Năng Tĩnh ở Trực Mĩ có câu đối viếng:
Hiển tàng độc dị phùng tam mão;
Tâm sự toàn nghi đối lưỡng thân.
(Lúc hiển đạt và lúc mất, một điều lạ là cùng gặp vào ba năm mão;
Tâm sự như thế là trọn đạo làm con đối với hai đấng thân)
Thân” trong “lưỡng thân” (cũng gọi song thân, là cha mẹ), cùng âm với “thân” (thuộc thập nhị địa chi), do yếu tố “mão” cùng trường nghĩa này, ở vị trí đối ứng chỉ ra 2Đỗ Huy Liêu đỗ thủ khoa năm đinh mão (1867), đỗ hoàng giáp năm kỉ mão (1879), mất năm tân mão (1891).
3. Cùng âm TV-HV hoặc HV-TV
a. Cùng âm TV-HV
Dạng chơi chữ này dựa vào từ TV theo ngữ cảnh thuận, để suy ra từ ngữ HV cùng âm. Cách suy cùng âm dựa vào từ cùng trường nghĩa, hay tính chất cố định của từ.
* Dầu vương cả đế;
Ỉa vãi vào sư.
(Vế ra của một nhà sư, vế đối lại của Hoàng Phan Thái)
* Một chiếc cùm lim chân có đế;
Ba vòng xích sắt bước thì vương. (Cao Bá Quát)
“Vương” là mắc, dính vào (TV), cùng âm với “vương” là vua (HV). “Đế” là bộ phận gắn ở phần dưới của một số vật (TV), cùng âm với “đế” là hoàng đế (HV). “Vương” và “đế” HV được nhận ra do cùng trường nghĩa, cái này là điều kiện của cái kia và ngược lại (ở cả hai câu đối; riêng “vãi” thuộc cách cùng âm TV-TV -- “(vung) vãi” - “(bà) vãi” ).
* Ông thông đến gốc cây đề, ông thông không đi, là ông thông lại;
Ông tú đi qua cửa cống, ông tú nhảy được, là ông tú tài.
Theo ngữ cảnh thuận, thì “thông lại” là (ông) thông quay trở lại (kết cấu TV), cùng âm với “thông lại” (viên chức làm việc ở bàn giấy các công đường phủ, huyện thời thực dân Pháp) (HV); “tú tài” là (ông) tú có tài năng (kết cấu TV), cùng âm với “tú tài” (một học vị dưới cử nhân) (HV). Ngoài ra, “đề”, “cống” (trong “cây đề”, “cửa cống”) (TV), cùng âm với “đề” (thuộc đề, lại -viên chức), “cống” (thuộc cống (cử nhân), tú -học vị) (HV).
b. Cùng âm HV-TV
Cùng âm HV-TV vừa có ở câu đối tiếng Việt, vừa có ở câu đối chữ Hán.
+ Với câu đối tiếng Việt:
* Có vế đối:
Trong quần anh có em học khá.
“Quần anh” (HV: họp mặt các anh tài) cùng âm với “quần anh” (TV: cái quần của anh). Hiểu theo nghĩa TV, vế ra đối có ý nghĩa tục.
+ Với câu đối chữ Hán, các yếu tố cùng âm HV với TV tạo nên cách hiểu như từ ngữ TV, thường là hiểu theo nghĩa thực, nghĩa đen.
* Chị nọ chồng mất sớm, làm nghề hàng thịt, một niềm thờ chồng nuôi con. Vào dịp giáp tết, chị mang biếu Nguyên Khuyến đôi bồ dục, bát tiết canh và ngỏ ý xin nhà thơ mấy chữ về treo nhà. Nguyễn Khuyến viết:
Tứ thời bát tiết canh chung thủy;
Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang.
(Bốn mùa tám tiết bền chung thủy;
Dặm liễu gò bồ muốn điểm trang.)
Câu đối nói lên ý chí, quyết tâm chung thủy của người vợ góa trước nỗi xao xuyến, đòi hỏi được “điểm trang” của “dặm liễu”, “gò bồ”. Đồng thời, chúng ta cũng lẩy ra được “bát tiết canh”, “đôi bồ dục” (hai món ăn được nhiều người thích) (TV), nhờ chúng cùng âm với các từ ngữ HV ở vị trí tương ứng (nếu đọc liền, không ngắt nhịp ở sau “tiết” và “bồ”).
III. Câu đối dùng cùng âm có yếu tố tên riêng
1. Lặp nhiều từ ngữ cùng âm trên cùng một văn bản ngắn
a. Câu đối tiếng Việt
+ Tên riêng là địa danh
* Nam Định có vùng đất Lạc Quần, nơi có chợ, có sông tấp nập; đồng thời, lại có xứ Quần Lạc cách Lạc Quần không xa, cũng trù phú không kém. Một vế ra đối được lưu truyền từ lâu, có nêu các địa danh này, nhưng chưa có một vế đáp thật chỉnh. Vế ra là:
Cô gái Quần Lạc, đi chợ Lạc Quần, bán lạc mua quần, trở về Quần Lạc.
“Lạc Quần”, “Quần Lạc”, hai địa danh có tên gọi theo lối đảo trật tự từ của nhau, cùng âm với “lạc quần” (lạc mất cái quần), hàm ý trêu đùa, lại cùng âm với lạc (đậu phộng), ‘‘quần” (quần áo) ở dạng tách rời (về âm thanh, khômg phải về chữ viết)... Chừng ấy cũng thấy vế đối quả không dễ đối lại.
* Hà Nam có đất Như Trác. Tương truyền, nơi đây cũng có vế đối khó đối lại như vế đối ở xứ Lạc Quần (Nam Định):
Gái Như Trác xấu như ma, người ta thiết tha như ma như trác.
“Như Trác” cùng âm với “như trác” (HV: như giũa); “như ma” (TV: giống như con ma) cùng âm với “như ma” (HV: như mài). “Như giũa như mài” (như ma như trác) nói về cách tu luyện của mỗi người.
Hồ Xuân Hương, có tài liệu nói, cũng có vế đối dùng địa danh Khán Xuân ở Hà Nội, như sau:
Gái Khán Xuân, xuân xanh tuổi mười ba, khép cửa phòng xuân còn đợi nguyệt.
Và có người đã đối lại:
Trai Đình Bảng, bảng vàng treo đệ nhất, chờ khi chiếm bảng trúng khôi khoa. Đình Bảng thuộc Hà Bắc. “Bảng” (trong “bảng vàng”) cùng âm với “bảng” (trong “Đình Bảng”); tương ứng với “xuân” (trong “xuân xanh”) cùng âm với “xuân” (trong “Khán Xuân”) của vế ra.
+ Tên người
* Có ông tên Phạm Đình Chi, một hôm, đến thăm bà Nguyệt Anh (Sương Nguyệt Anh). Ông Chi có vẻ tự phụ, đề nghị gia chủ ra vế đối để kết duyên văn tự. Bà Nguyệt Anh đọc:
Đình làng tôi chẳng phạm, thưa ông, tôi phạm đình chi?
Ông Chi nghĩ nát óc vẫn không sao đối lại được, đành cáo từ.
“Phạm” là xúc phạm, đụng chạm đến cái cần tôn trọng, “đình” là đình làng, chúng cùng âm với “Phạm Đình” (họ Phạm Đình); “phạm đình chi” (phạm vào đình gì) cùng âm với Phạm Đình Chi (tên riêng). Cách cùng âm này vốn đã rất khó, với người trong cuộc càng khó hơn (muốn đối lại, trước hết, phải tìm được một cái tên gồm ba âm tiết, có từ loại theo thứ tự động từ, danh từ và đại từ (tương ứng với tên Phạm Đình Chi), kết thành một tổ hợp có nghĩa,và nếu được, là tên của người ra vế đối càng tốt).
* Một thời, ở tạp chí Văn nghệ, có Nguyễn Đình làm thơ trào phúng, Nguyễn Đình Thi viết truyện ngắn, thơ trữ tình rất hăng say. Xuân Thiều ra vế đối:
Nguyễn Đình thi với Nguyễn Đình Thi.
Thanh Tịnh đối lại:
Trần Thanh địch cùng Trần Thanh Địch.
Tên của hai người ở đầu vế đối cùng âm với hai âm tiết đầu trong tên ba âm tiết của hai người ở cuối vế đối. “Thi”, “địch”, hai động từ, cùng âm với “Thi”, “Địch” trong Nguyễn Đình Thi, Trần Thanh Địch, tên riêng.
b. Câu đối bằng chữ Hán
+ Tên riêng là địa danh
* Đặng Toán làm quan có tiếng thanh liêm, đang giữ chức tuần phú Ninh Bình thì có chỉ cử làm tổng đốc Nghệ Tĩnh, nhưng sắp sửa lên đường nhận chức mới thì mất. Đỗ Huy Liêu có câu đối viếng Đặng Toán:
Phương đáo Hoan chi thăng, hồ kị hạc quy, quy Thúy Hạc;
Khởi dữ Ninh hữu ước, hưu tương hồng ấn, ấn Lam Hồng.
(Mới nghe tin ông thăng quan lên châu Hoan (Nghệ Tĩnh), sao ông vội cỡi hạc về, về núi Thúy Sơn, núi Hồi Hạc; Hay là với tỉnh Ninh có hẹn, nên không đem dấu chim hồng in ở sông Lam Giang, núi Hồng Lĩnh.)
“Hạc”, “hồng” là tên hai loài chim lớn (HV), cùng âm với một thành tố của tên gọi địa danh Thúy Hạc, Lam Hồng.
+ Tên người
* Đoàn Trác Luân là anh ruột Đoàn Thị Điểm. Hôm ấy, ông Luân xuống ao rửa chân, thấy bà Điểm đang soi gương bên cửa sổ, bèn nói:
Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm.
(Soi gương kẻ lông mày, một nét hoá ra hai nét)
Bà Điểm đối ngay:
Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân.
(Tới ao xem trăng, một vầng thành ra hai vầng).
“Điểm” (chấm, nét), “luân” (vòng, vầng), chúng cùng âm với tên hai anh em bà Điểm, ông Luân.
Ngụy Vô Kị, Trưởng tôn Vô Kị, bỉ vô kị, ngã diệc vô kị.
2. Dùng một tổ hợp để biểu thị hai từ ngữ cùng âm
a. Câu đối tiếng Việt
* Lúc Trần Tế Xương mất, Nguyễn Khuyến có câu đối viếng:
Kìa ai chín suối xương không nát;
Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn.
“Xương” là xương cốt (tng: “Sống gửi nạc, thác gửi xương”), cùng âm với tên người được viếng.
* Lê Trung Đình lúc mới mười lăm tuổi đã tỏ ra xuất chúng. Một lần, Tuần phủ Điện đùa Đình một vế đối:
Đình xiêu giữa chợ, ăn mày ngủ.
Đình đối ngay:
Điện tế bên đường, chó đói ăn.
“Đình”, “điện”, những nơi thờ cúng, là hai danh từ chung, cùng âm với Đình, Điện, tên của người thách, kẻ đối.
b. Câu đối chữ Hán
* Trong một chuyến đi sứ sang Tàu, Mạc Đĩnh Chi có lần chẳng may sa chân xuống một cái hố bên mép cầu. Đoàn sứ giả chạy lại đỡ ông dậy. Để đùa vui, họ ra cho ông một vế đối:
Can mộc hoành cừ, lục giả tương như tự đạo.
(Gỗ thẳng, cầu ngang, đường đi ngỡ là đất phẳng)
Vế đối này hóc hiểm ở chỗ, có năm tên người cùng âm (mỗi tên hai âm tiết): Can Mộc (Đoàn Can Mộc, một nhân vật thời Chiến Quốc); Hoành Cừ (tên hiệu của Trương Tái, một triết gia đời Bắc Tống); Lục Giả (người giỏi biện luận, từng giúp Hán Cao Tổ); Tương Như (Lạn Tương Như, một nhân vật thời Chiến Quốc); Tự Đạo (Giả Tự Đạo, người nước Tống, một quyền thần chuyên chế).
Mạc Đĩnh Chi nhìn quanh, thấy bên kia sông có cái đình dưới chân núi, bèn chỉ đình mà đối:
Đại đình an thạch, vọng chi nghiễm nhược Thái Sơn.
(Đình to, đá vững, thoạt trông như thể Thiên Thai)
Vế đối lại cũng ghép các tên người: Đại Đình (một tên hiệu của Thần Nông); An Thạch (Vương An Thạch, một nhân vật đời Tống); Vọng Chi (người đời Hán, làm phụ chính cho Hán Nguyên Đế) (hai tên sau chưa tra cứu được).
Câu đối chơi chữ theo cách cùng âm là một bộ phận câu đối có giá trị trong kho tàng câu đối nói riêng, trong nền văn học dân tộc nói chung. Những trình bày và phân tích, lí giải ở đây tuy chưa thật đầy đủ, sâu sắc, nhưng về cơ bản cũng cho thấy được diện mạo vấn đề, sự thú vị của nó, hòng giúp bạn đọc thưởng lãm.
CÂU ĐỐI CHƠI CHỮ THEO CÁCH TÁCH GHÉP, CHUYỂN HÓA CHỮ HÁN
Câu đối chơi chữ theo cách tách ghép, chuyển hóa chữ Hán được trình bày ở đây, là câu đối trong văn chương của người Việt, được sách vở ghi chép lại. Bài viết nhằm tập hợp một cách tương đối đầy đủ và có hệ thống vấn đề, để giúp bạn đọc thưởng lãm. Theo một kết quả nghiên cứu mới đây của người viết, thì phương thức chơi chữ liên quan đến chữ Hán, gồm có các hình thức sau: tách ghép chữ Hán, chuyển hóa chữ Hán, đố chữ Hán, sấm kí có liên quan đến chữ Hán, đọc nhầm chữ Hán, và viết rút gọn tác phẩm theo tự dạng Hán và đồ hình. Hai hình thức đầu được câu đối sử dụng nhiều và có không ít câu sắc sảo (hai hình thức đầu này, bên cạnh câu đối, thơ, ca dao,... cũng dùng, nhưng không phong phú, thú vị bằng; còn các hình thức sau, rất ít liên quan đến câu đối).
1. Câu đối chơi chữ theo cách tách ghép chữ Hán
Tách ghép chữ Hán, cũng gọi chiết tự, là cách tách các yếu tố cấu tạo một chữ Hán ra thành các chữ, thường cũng là từ, có nghĩa độc lập, hoặc ghép các chữ Hán lại thành một chữ. Đây là lối chơi chữ phổ biến trong văn chương xưa, mà câu đối tỏ ra có ưu thế hơn cả.
a. Tách một chữ Hán ra thành các yếu tố có nghĩa
* Mạc Đĩnh Chi có lần cùng bàn luận văn chương với một nhà sư Trung Hoa. Nhà sư đọc vế đối:
Kỉ dĩ mộc, bôi bất mộc, như hà dĩ kỉ vi bôi? (Kỉ là gỗ, còn bôi (chén nhỏ, thường dùng để uống rượu) không phải là gỗ, cớ sao lấy kỉ làm bôi?)
Ông Mạc đối lại:
Tăng tằng nhân, Phật phất nhân, vân hồ dĩ tăng sự Phật?
(Sư từng là người, Phật không phải là người, cớ sao lấy sư thờ Phật?) Chữ “kỉ” [杞] gồm hai chữ “dĩ” [已] và “mộc” [木]; chữ “bôi” [杯] gồm hai chữ “bất” [不] và “mộc” [木] ; chữ “tăng” [僧] gồm hai chữ “tằng” [曾] và “nhân” [ ] ; chữ “Phật” [佛] gồm hai chữ “phất” [弗] và “nhân” [ ]. Hàm ý của vế ra đối chê ông Mạc người thấp bé (như cây gỗ kỉ) mà được trọng dụng. Vế đối lại cũng có thể có hàm ý: việc tu hành của ông chẳng hợp lẽ chút nào.
* Lần khác, một bạn thơ Trung Hoa ra vế đối:
Lị, mị, võng, lượng tứ tiểu quỷ (Các chữ lị, mị, võng, lượng có bốn chữ quỷ nhỏ).
Mạc Đĩnh Chi đối lại:
Cầm, sắt, tì bà bát đại vương (Các chữ cầm, sắt, tì bà có tám chữ vương lớn).
Các chữ lị [魑], mị [魅], võng [魍], lượng [魎] đều có bốn chữ quỷ [鬼] ở bên phải; các chữ cầm [琴], sắt [瑟], tì bà [琵 琶] đều có tám chữ vương [王] đặt ở trên.(1)
b. Ghép các chữ Hán lại thành một chữ
Ghép các chữ Hán lại thành một chữ là cách làm theo quy trình ngược lại với cách trên. Chữ được ghép, tất nhiên, là chữ có nghĩa.
* Trong một cuộc trò chuyện với Mạc Đĩnh Chi, có một văn hữu Trung Hoa đọc:
Thập khẩu tâm tư: tư quốc, tư gia, tư phụ mẫu.
(Ghép ba chữ “thập” [十], “khẩu” [口], “tâm” [心] thành chữ “tư” [思] là lo: lo nước, lo nhà, lo cha mẹ).
Dứt lời, ông Mạc đối ngay:
Thốn thân ngôn tạ: Tạ thiên, tạ địa, tạ quân vương.
(Ghép ba chữ “thốn” [寸], “thân” [身], “ngôn” [言], thành chữ “tạ” [謝], là bái tạ, cảm ơn: ơn trời, ơn đất, ơn vua.)
* Tương truyền, Phùng Khắc Khoan đi sứ sang Trung Hoa, khi ngang qua đám rừng, gặp một người con gái ngồi dưới gốc cây. Ông đọc:
Tam mộc sâm đình, tọa trước hảo hề nữ tử (Ba cây mọc chụm ở sân, có cô con gái đẹp ngồi ở dưới).
Cô gái không chút do dự, đối ngay:
Trùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân (Núi non mở đường, người đi đến là quan sứ giả).
Trạng Bùng khâm phục cô gái. Bởi vế ra đối của ông tuy là lời lẽ dung dị, nhưng dùng cách ghép chữ không dễ đối: ba chữ “mộc” [木] (cây), ghép lại thành chữ “sâm” [森] (rậm rạp); chữ “hảo” [好] (tốt, đẹp), do chữ “ nữ” [女] (phụ nữ) và chữ “tử” [子] (con) ghép lại. Cô gái cũng dùng lời lẽ bình thường, và cũng sử dụng lối ghép chữ: hai chữ “sơn” [山] (núi), ghép lại thành chữ “xuất” [出] (ra, mở); chữ “sứ” [使] (đi sứ), do chữ “lại” [吏] (quan lại) và chữ “nhân” [人] (người) ghép lại.
Ông đọc tiếp:
Sơn nhân bằng bất kỉ, mạc phi tiên nữ lâm phàm ? (Cô sơn nữ ngồi trên ghế, phải chăng là tiên nữ giáng trần?)
Vẫn dùng lối ghép chữ: chữ “sơn” [山] (núi) ghép với chữ “nhân” [人] (người), thành chữ “tiên” [仙] (tiên); chữ “bằng” [朋] có chữ “kỉ” [几] (ghế); chữ “nhất” [一] ghép với chữ “kỉ” [几] thành chữ “phàm” [凡] (trần tục).
Cô gái thung dung đối lại:
Văn tử đới trường cân, tất thị học sinh thị trướng? (Văn nhân chít khăn dài, hẳn là học trò nhìn màn học?).
Lại vẫn dùng lối ghép chữ: chữ “văn” [文] ghép với chữ “tử” [子], thành chữ “học” [學]; chữ “đới” [帶] có chữ “cân” [巾] (cái khăn); chữ “trường” [長] ghép với chữ “cân” [巾] thành chữ “trướng” [帳] (màn).
Nghe đến đây, ông Phùng cúi đầu thi lễ. Khi vừa ngẩng lên thì cô gái đã biến mất. Trên cây gỗ có tấm biển treo dòng chữ: “Mão khẩu công chúa, băng mã dĩ tẩu”. Những người cùng đi tỏ vẻ không hiểu, ông Phùng giảng giải:
- “Mộc” [木] là cây gỗ, ghép với chữ “ mão” [卯] thành chữ “liễu” [柳], ghép với chữ “khẩu” [口] ra thành chữ “hạnh” [杏]. Tiên nữ vừa rồi chính là công chúa Liễu Hạnh. Còn chữ “băng” [冫] ghép với chữ “mã” [馬], là họ Phùng [馮] của ta; chữ “dĩ” [已] nằm cạnh chữ “tẩu” [走] chính là chữ “khởi” [起]. Chắc công chúa muốn ta khởi công xây dựng ngôi chùa (sau đó, Phùng Khắc Khoan khởi công trùng tu ngôi chùa này).
* Lúc còn là học trò, các bạn của Nguyễn Hàm Ninh ra cho ông vế đối:
Vinh Sơn, Ngưu Sơn, sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt.
Ông Nguyễn đối lại:
Tràng Hải, Ngoại Hải, hải hải đa liệt nữ anh thư.
Vế ra nhằm thể hiện niềm tự hào về quê hương (vùng dưới chân đèo Ngang) của bạn. Cách ghép chữ “sơn” [山] (núi) + “sơn” [山] = “xuất” [出] (ra). Vế đối lại cũng biểu thị niềm vinh dự được sống trên mảnh đất có nhiều “liệt nữ anh thư”, để sánh cùng “anh hùng hào kiệt” của bạn. Ở đây, cũng dùng cách ghép chữ: khung chữ bên bộ “thủy” [ ] của chữ “hải” [海] (biển), được xem là “đa” [多] (nhiều).
* Kì Đồng Nguyễn Văn Cẩm đến thăm Nguyễn Khuyến, không nói rõ tên mà chỉ xưng là khóa sinh. Ông Nguyễn đang giảng bài, sai người đưa ra vế đối, bảo đối được sẽ đón tiếp. Vế đối ấy là:
Quả ngôn viết khóa, nhất nhân khấu mệnh, vi thùy? (Tự xưng là khóa sinh, một mình đến gặp ta, ai vậy?)
Vế ra đối dùng cách ghép chữ: chữ “quả” [果] ghép với chữ “ngôn” [言], thành chữ: “khóa” [課] (khóa sinh); chữ “nhất” [一], chữ “nhân” [人], chữ “khấu” [叩] ghép lại, thành chữ “mệnh” [命].
Kì Đồng đối lại rằng:
Nhập mỗ ngôn công, thiên lí hành xung, thị ngã (Người đến nói chuyện cùng ông, từ nghìn dặm đường đột, là tôi).
Vế đối lại cũng dùng cách ghép chữ: chữ “nhập” [入] ghép với chữ “mỗ” [ ], thành chữ “công” [公] (ông); chữ “thiên” [千], chữ “lí” [里] , chữ “hành” [行] ghép lại, thành chữ “xung” [衝].
Nghe vế đối, Nguyễn Khuyến giật mình, biết ngay người đến thăm mình là Kì Đồng, bèn ra thi lễ, rước vào nhà trong đàm đạo.
* Một câu đối (không ghi tên tác giả), có thể chép ra đây:
Ba sĩ ngồi một ghế, đội đức đế Nghiêu;
Một bách xách hai cung, đáng tài phụ bật.
Ba “sĩ” [士] (học trò) ghép với “kỉ” [几] (ghế), thành chữ “Nghiêu” [堯] (một ông vua hiền của Trung Hoa cổ đại); “bách” [百] (trăm) kết hợp với hai chữ “cung” [弓] (cung nỏ), thành chữ “bật” [弼] (giúp đỡ).
* Truyện Trạng Quỳnh có mẩu kể việc Quỳnh trêu ghẹo con gái quan Bảng nhãn (có tài liệu nói ông quan Bảng nhãn này là Phạm Quang Trạch (1653 - 1716), người xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội, đỗ Bảng nhãn năm 1684, đời Lê Hi Tông). Quan Bảng ra vế đối khó, nếu đối không được sẽ bị đòn:
Thằng quỷ ôm cái đấu, đứng cửa khôi nguyên.
Vế ra sử dụng cách ghép chữ: “quỷ” [鬼] + “đấu” [斗] = “khôi”[魁].
Quỳnh đối lại:
Con mộc nấp cây bàng, dòm nhà bảng nhãn.
Vế đối lại cũng sử dụng cách ghép chữ: “mộc” [木] + “bàng” [旁] = “bảng” [榜]. ý nghĩa cũng tương xứng, già giặn (“mộc” (con Mộc): một loại ma gỗ, ma cây).
* Truyện Trạng Lợn có mẩu kể chuyện Chung Nhi vào nhà Phấn Khanh, thấy ở thư phòng có một vế đối [八 刀 分 米 粉] (bát đao phân mễ phấn), bèn viết tên mình bên cạnh nàng Phấn, xong lăn ra ngủ. Đến sáng, Phấn Khanh vào thấy chữ “Chung” [鍾] (Chung Nhi), cho rằng Chung Nhi đã đối lại vế ra của mình, là [千 里 重 金 鍾] (thiên lí trọng kim chung), mà không cần ghi hết ra, khen nức nở.
Hai chữ “bát” [八] , “đao” [刀] ghép lại thành chữ “phân” [分], lại ghép thêm chữ “mễ” [米] nữa, ra chữ “phấn” [粉] (Phấn Khanh); hai chữ “thiên” [千], “lí” [里] ghép lại thành chữ “trọng” [重], lại ghép thêm chữ “kim” [金] vào, ra chữ “chung” [鍾] (Chung Nhi).
2. Câu đối chơi chữ theo cách chuyển hóa chữ Hán
Nếu tách ghép chữ là cách xáo chữ có tính chất nội bộ, thì chuyển hóa chữ không đóng khung trong phạm vi một số chữ (hay nét chữ) của một chữ Hán, mà mở ra một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, vượt cả giới hạn tác động của một bộ thủ. Bên cạnh sự chuyển dịch, thay đổi chữ, còn có cả sự quay đảo chữ. Do vậy, cách chuyển hóa chữ cũng tạo được những bất ngờ thú vị hơn.
* Lê Quí Đôn từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng. Tương truyền, năm ông lên bảy, có người bạn của cha đến chơi, hỏi đâu ông trả lời được đấy, khiến người này vô cùng kinh ngạc. Nhân thấy có con sông nhỏ chảy thành ba nhánh cạnh nhà, mới ra vế đối:
Tam xuyên (Ba con sông).
“Tam” [三] (ba) gồm ba nét ngang, quay 900 thành “xuyên” [川] (sông); vế đối chỉ hai chữ mà thành không đơn giản chút nào !
Cậu bé Lê Quí Đôn hiểu ra ngay cái lắt léo này, nhìn quanh để tìm ý. Chợt thấy ông khách đang đeo kính, cậu liền đối:
Tứ mục (Bốn con mắt).
“Tứ” [四] (bốn), quay 900 thành “mục” [目] (mắt). Ông khách thán phục lắm.
“Tam xuyên - tứ mục” là một câu đối đặc biệt. Sự chuyển hóa ở đây là do sự quay đảo (tác động bên ngoài) tạo nên. Các trường hợp khác đều không như vậy.
* Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên lúc mới mười hai tuổi, vua thấy bé loắt choắt mà ăn nói lại hàm hồ chưa có phép tắc gì cả, bắt về học lễ ba năm rồi bổ dụng sau. Trạng về quê, cùng đùa nghịch với bọn trẻ trong làng. Sau đó, vua phái sứ giả đến rước Nguyễn Hiền lên Kinh. Sứ giả chưa quen biết Trạng, khi đến làng, gặp ông đang đùa nghịch với vẻ khôn khéo đặc biệt, đọc một câu rằng:
Tự là chữ, cất giằng đầu, tử là con, con ai con ấy?
Nguyễn Hiền đối lại ngay:
Vu là chưng, bỏ ngang lưng, đinh là đứa, đứa nào đứa này ?
Cách chuyển hóa chữ: “tự” [字] (chữ), ‘tách’ [宀] (giằng đầu), còn “tử” [子] (con); “vu” [于] (chưng), ‘bỏ’ [一] (ngang), thành chữ “đinh” [丁] (đứa).
* Một câu đối khuyết tên tác giả, được nhiều người nhớ, có cung cách tương tự câu đối trên, nhưng thay vì tạo câu hỏi ở tổ hợp sau cùng, thì đó là câu tục ngữ:
Chữ đại là cả, bỏ một nét ngang, chữ nhân là người, chớ thấy người sang bắt quàng làm họ;
Chữ bì là da, thêm ba chấm thủy, chữ ba là sóng, chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo. Cách chuyển hóa chữ: “đại” [大] (cả, to, lớn), bỏ [一] “ngang”, thành chữ “nhân” [人] (người); chữ “bì” [皮] (da), thêm [ ] “ba chấm thủy”, ra chữ “ba” [波] (sóng).
* Câu đối sau có vế trên là của một văn sĩ Trung Hoa, vế dưới là của Mạc Đĩnh Chi:
An, nữ khứ thỉ nhập vi gia;
Tù, nhân xuất vương lai thành quốc.
Cách chuyển hóa chữ: “an” [安] (yên lành), bỏ chữ “nữ” [女] (phụ nữ), thay “thỉ” [豕] (lợn) vào, thành chữ “gia” [家] (nhà) ; “tù” [囚] (người tù), bỏ chữ “nhân” [人] (người), thay “vương” [王] (vua) vào, thành chữ “quốc” [國] (nước).
* Anh học trò tên Lỗi, tính tình rất ngang bướng. Anh ta đi thi, viên quan thừa ti được cử làm sơ khảo kì thi ấy, thấy Lỗi có vẻ ngông nghênh, bèn ra vế đối:
Lỗi kia đã nặng bằng ba thạch.
Lỗi ta trả miếng ngay:
Ti nọ xem khinh đáng nửa đồng.
Viên thừa ti biết gặp phải tay chẳng vừa, đành nuốt giận làm ngơ.
Vế ra dùng cách tách ghép chữ: chữ “lỗi” [磊] (phạm lỗi, cùng âm với tên anh học trò), do ba chữ “thạch” [石] (đá) viết chồng lên. Đồng thời, cũng có ý cảnh cáo về sự ngang ngạnh đáng phạt của anh học trò. Vế đối lại dùng cách chuyển hóa chữ: chữ “ti” [司] (cơ quan cấp ti, cũng hàm ý chỉ chức thừa ti của quan sơ khảo), bằng nửa chữ “đồng” [同] (cùng). Do “nửa (chữ) đồng” và “nửa đồng (bạc)” cùng âm, nên có ý xem thường viên quan thừa ti làm sơ khảo. Bên cạnh cách chơi chữ theo lối tách ghép, chuyển hóa chữ, ở đây, còn có cách chơi chữ khoán nghĩa (Lỗi, tên người học trò, và Ti, chỉ viên quan, được nêu trên văn bản, vừa theo cách cùng âm, vừa có vẻ trực tiếp).
* Phạm Đình Trọng và Nguyễn Hữu Cầu là bạn học cùng một thầy. Sau ông Nguyễn khởi nghĩa chống lại triều đình Lê - Trịnh (ở Đông Nam đồng bằng Bắc Bộ), ông Phạm vâng lệnh triều đình ra đánh. Trước khi tấn công, ông Phạm gửi cho ông Nguyễn một vế đối:
Thổ triệt bán hoành, thuận giả thượng, nghịch giả hạ (Chữ thổ bỏ một nửa nét ngang, để xuôi là chữ thượng, để ngược là chữ hạ).
Ý muốn nói là, nếu ông Nguyễn chịu quy hàng thì sẽ cho quan chức, nếu chống lại thì sẽ bị tiêu diệt.
Nguyễn Hữu Cầu xem xong, đối lại rằng:
Ngọc tàng nhất điểm, xuất vi chúa, nhập vi vương (Chữ ngọc có một chấm, để ra (trên) là chữ chúa, ẩn vào (trong) là chữ vương).
Tỏ ý “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, vua chúa chính là ta.
Thế là hai bên dàn quân ra đánh nhau kịch liệt.
Cách chuyển hóa chữ: chữ “thổ” [土] (đất), bỏ nửa nét ngang, để xuôi, thành chữ “thượng” [上] (trước, bậc trên); để ngược, thành chữ “hạ” [下] (dưới, bậc dưới). Chữ “ngọc” [玉] (ngọc) có dấu chấm, để ra (trên), thành chữ “chúa” [主] (chúa), ẩn vào (trong), thành chữ “vương” [王] (vua).* Tương truyền, khi vua Duy Tân mười hai tuổi, có lần ngự yến tại tòa khâm sứ cùng với viên cố đạo người Pháp. Viên cố đạo là người thông thạo tiếng Việt và chữ Hán, thấy nhà vua tuy ít tuổi mà có vẻ thông minh, anh tuấn, mới đọc ra một vế câu đối:
Rút ruột vua, tam phân thiên hạ.
Vua Duy Tân đối lại:
Chặt đầu Tây, tứ hải giai huynh.
Cách chuyển hóa chữ: chữ “vua” là “vương” (cùng nghĩa); “vương” [王] rút nét sổ ở giữa, thành chữ “tam” [三] (ba); “tây” [西] (hướng Tây, người Pháp), chặt ở phần đầu, thành chữ “tứ” [四] (bốn). Vế đối không chỉnh lắm, nhưng cũng đã làm cho viên cố đạo đau điếng.
Mảng câu đối chơi chữ theo cách tách ghép, chuyển đổi chữ Hán là mảng câu đối thú vị trong kho tàng văn học nước nhà. Những trình bày trên cũng cho thấy, để tham gia được trò chơi này, chẳng những cần phải am tường, nhuần nhuyễn về chữ nghĩa, mà nhiều trường hợp còn đòi hỏi cả sự mẫn tiệp, thông tuệ nữa. Việc có mặt của nhiều ông Trạng trong mảng câu đối này đã nói lên điều đó.
Triều Nguyên
CHÚ THÍCH:
(1) Ca dao có bài dựa theo câu đối này:
- Cầm đàn gảy khúc nam thương
Tì bà cầm sắt, bát vương đối gì ?
- Khéo đưa sách cổ mà ôn
Lị, mị, võng, lượng, bốn con quỷ ngồi./.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen