Sonntag, 4. November 2018

Giới thiệu khái quát về tỉnh Quảng Tây


Zoom Picture
Nằm ở phía nam Trung Quốc, Quảng Tây giáp giới với Vân Nam phía tây, Quý Châu phía bắc, Hồ Nam phía đông bắc, và Guangdong phía đông nam. Nó cũng có biên giới với Việt Nam phía tây nam và Vịnh Bắc Bộ phía nam.
Lịch sử
Vùng đất này chính thức thuộc về Trung Quốc từ năm 214 trước công nguyên, khi quân đội nhà Tần xâm chiếm hầu hết miền nam Trung Hoa ngày nay. Tên gọi "Quảng Tây" bắt nguồn từ thời nhà Tống, khi khu vực này được tổ chức thành một lộ, gọi là Quảng Nam Tây Lộ. Vào cuối đời nhà Nguyên, vùng này được tổ chức thành một tỉnh với tên gọi được rút gọn thành "Quảng Tây". Trong sáu thế kỷ tiếp theo, Quảng Tây vẫn là một tỉnh của Trung Quốc cho đến khi được chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chuyển thành một khu tự trị dành cho dân tộc thiểu số đông đảo ở đây.
Vào cuối đời nhà Thanh, ở huyện Quế Bình, miền đông Quảng Tây, đã nổ ra cuộc khởi nghĩa Kim Điền vào ngày 11 tháng 1 năm 1851 , khởi đầu của phong trào khởi nghĩa nông dân vĩ đại Thái Bình Thiên Quốc. Cửa ải Trấn Nam Quan (ngày nay là Hữu Nghị Quan) trên biên giới với Việt Nam cũng là nơi diễn ra trận đánh Trấn Nam Quan nổi tiếng vào ngày 23 tháng 3 năm 1885, trong chiến tranh Pháp-Thanh. Trong trận đánh này, mũi tấn công của quân Pháp đã bị lực lượng Trung Quốc của tướng Phùng Tử Tài đánh bại, một sự kiện lịch sử rất được những người yêu nước Trung Hoa ca tụng.
Sau ngày thành lập Trung Hoa dân quốc, Quảng Tây trở thành căn cứ của một trong những tập đoàn quân phiệt hùng mạnh nhất của Trung Quốc: Tập đoàn Quảng Tây (Quế hệ) cũ. Do Lục Vinh Đình và những người khác lãnh đạo, tập đoàn này đã vươn ra kiểm soát cả các tỉnh Hồ Nam và Quảng Đông ở liền kề. Đầu thập niên 1920 Tập đoàn Quảng Tây cũ bị thất bại, và được thay thế bằng Tập đoàn Quảng Tây mới, do Lý Tông Nhân và Bạch Sùng Hi cầm đầu. Quảng Tây còn được nhắc đến bởi cuộc khởi nghĩa Bách Sắc, một cuộc khởi nghĩa cộng sản do Đặng Tiểu Bình lãnh đạo vào năm 1929. Các căn cứ cộng sản đã được thiết lập mặc dù cuối cùng đều bị lực lượng Quốc dân Đảng tiêu diệt.
Vào năm 1944 gần kết thúc Thế Chiến IINhật Bản chiếm đóng Quảng Tây sau Chiến dịch Ichigo (hay còn gọi là Chiến dịch Dự Tương Quế trong một nỗ lực thâu tóm tuyến đường sắt Hồ Nam-Quảng Tây và thiết lập một vùng đất nối với Đông Dương Pháp thuộc. Người Nhật đã chiến thắng và một loạt các thành phố chính ở Quảng Tây trở thành thuộc địa của Nhật Bản.
Nằm ở xa phía nam, lực lượng cộng sản kiểm soát Quảng Tây muộn hơn. Chính quyền tỉnh thay đổi vào tháng 12 năm 1949, hai tháng sau khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân. Vào năm 1958, Quảng Tây được chuyển đổi thành Khu tự trị dân tộc Tráng/Choang theo đề nghị của Thủ tướng Chu Ân Lai. Quyết định này được đưa ra do người Tráng là một trong những dân tộc thiểu số lớn nhất ở Trung Hoa, và tập trung nhiều ở Quảng Tây; tuy nhiên người Tráng vẫn chỉ chiếm thiểu số trong dân số Quảng Tây.
Suốt chiều dài lịch sử, Quảng Tây là vùng đất nội lục (không có biển). Năm 1952 một phần nhỏ của bờ biển Quảng Đông được chuyển giao cho Quảng Tây, từ đó vùng đất này được thông với biển. Năm 1955 chuyển giao lại, và năm 1965 tiếp nhận lại.
Mặc dù có sự phát triển công nghiệp nặng diễn ra trong tỉnh trong suốt những năm 1960 và 1970, vẫn còn rất nhiều các danh lam thắng cảnh du lịch hấp dẫn mọi người trên khắp thế giới. Thậm chí mức tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc trong những năm 1990 dường như để Quảng Tây tụt lại phía sau. Tuy nhiên trong những năm gần đây đã có sự tăng trưởng mạnh về công nghiệp hóa và tập trung hóa cây trồng. GDP đầu người đã tăng nhanh chóng do các ngành công nghiệp ở Quảng Đông phải tìm kiếm các địa điểm sản xuất tại các khu vực có giá nhân công rẻ hơn.
Các đơn vị hành chính của Quảng Tây
Quảng Tây được chia ra 14 thành phố thuộc tỉnh (địa cấp thị), dưới nữa là 56 huyện, 34 quận, 12 huyện tự trị và 7 thị xã (huyện cấp thị). Các thành phố (địa cấp thị) là:
Địa lý
Nằm ở phía nam Trung Quốc, Quảng Tây giáp giới với Vân Nam phía tây, Quý Châu phía bắc, Hồ Nam phía đông bắc, và Guangdong phía đông nam. Nó cũng có biên giới với Việt Nam phía tây nam và Vịnh Bắc Bộ phía nam.
Quảng Tây là vùng núi. Dãy Nam Lĩnh nằm ở ranh giới phía đông bắc, với Việt Thành Lĩnh và Hải Dương Sơn là những nhánh ngắn của Nam Lĩnh. Gần vào giữa tỉnh hơn có các núi Đại Dao Sơn và Đại Minh Sơn. Về phía bắc có các núi Đô Dương Sơn và Phượng Hoàng Sơn, còn ở vùng ranh giới đông nam có núi Vân Khai Đại Sơn. Đỉnh núi cao nhất Quảng Tây là Miêu Nhi Sơn, thuộc dãy Việt Thành Lĩnh, cao 2141 m.
Nhiều con sông cắt qua các dãy núi tạo thành các thung lũng. Hầu hết các sông này đều thuộc lưu vực sông Tây Giang:
Hệ thống sông Tây Giang (chữ nghiêng chỉ những sông nằm ngoài Quảng Tây)
sông Hạ Giang
sông Tây Giang
sông Li Giang
sông Quế Giang
sông Bắc Bàn
sông Hồng Thủy
sông Kiềm Giang
sông Tầm Giang
sông Nam Bàn
sông Dung Giang
sông Liễu Giang
sông Long Giang
sông Hữu Giang
sông Ung Giang
sông Úc Giang
sông Tả Giang
Quảng Tây có bờ biển ngắn nằm bên Vịnh Bắc Bộ. Các hải cảng chính là Bắc HảiKhâm Châu và Phòng Thành Cảng.
Quảng Tây có khí hậu cận nhiệt đới. Mùa hè thường dài và nóng. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 17 - 23 °C, trong khi lượng mưa hàng năm từ 1250 - 1750 mm.
Thành phố chính: Nam NinhBắc HảiQuế LâmLiễu Châu.
Thị xã tiêu biểu: Long MônTam GiangDương Sóc.
Kinh tế
Các loại ngũ cốc và lương thực quan trọng của Quảng Tây gồm: gạongôkhoai và lúa mỳ. Hoa màu có: mía đườnglạcthuốc lá và đay. Quảng Tây có trữ lượng thiếcmăng ganindium nhiều hơn bất cứ tỉnh nào của Trung Quốc. Trong những năm gần đây, Quảng Tây đã tụt hậu so với tỉnh Lưỡng Quảng là Quảng Đông về kinh tế. GDP danh nghĩa năm 2004 của Quảng Tây là 332 tỷ NDT (41,19 tỷ USD), xếp thứ 17 các tỉnh Trung Quốc. GDP đầu người là 680 USD.
Dân cư
Khu tự trị là nơi tập trung nhiều Người Tráng, hơn 14 triệu, một trong những dân tộc thiểu số chính ở Trung Quốc. Hơn 90% người Tráng ở Trung Quốc sống ở Quảng Tây, đặc biệt là ở khu vực trung tâm và phía Tây. Cũng có một số lượng khá người dân tộc thiểu số Người Đồng và Người Miêu. Dân tộc thiểu số khác gồm: Người DaoNgười HồiNgười DiLô LôNgười Thủy, và Người Kinh (người Việt).
Văn hóa
Quảng Tây nổi tiếng vì sự đa dạng ngôn ngữ. Ví dụ ở thủ phủ Nam Ninh, có tới bốn phương ngữ được nói: Quan thoại Phương NamQuảng Đông thoạiBình Thoại, và tiếng Tráng.
Các trường cao đẳng, đại học
Du lịch
Điểm du lịch hấp dẫn nhất ở Quảng Tây là Quế Lâm, một thành phố nổi tiếng khắp Trung Quốc và trên thế giới vì vẻ ngoạn mục của nó bên bờ Li Giang với các đỉnh núi karst vây quanh. Đây từng là thủ phủ của Quảng Tây, và Tĩnh Giang vương thành, nơi ở trước đây của các ông hoàng cũng mở cửa cho dân chúng. Từ Quế Lâm xuôi về phía nam là thị trấn Dương Sóc, một điểm đến nổi tiếng của du khách nước ngoài đặc biệt là khách du lịch ba-lô.
Những người dân tộc thiểu số ở Quảng Tây như người Tráng và người Đồng đều rất quan tâm đến du lịch. Phía bắc của tỉnh, tiếp giáp với Quý Châu, là quê hương của ruộng bậc thang Long Môn được coi là một trong những ruộng dốc nhất trên thế giới. Không xa đó là Huyện tự trị Đồng tộc Tam Giang.

Chữ Trung Hoa là chữ của Việt Tộc



Sau mấy ngàn năm bị che phủ bởi thời gian và sức mạnh của kẻ thống trị, lần đầu tiên dân tộc Việt đã tìm lại được nguồn cội của dân tộc
cùng với tiếng nói và chữ viết của tiền nhân.
 Đây là một thiên duyên phục hưng đại tộc Việt trước ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.

Với nền văn minh nông nghiệp của một dân tộc khai sáng ra nghề trồng lúa nước sớm nhất thế giới, một dân tộc đã có kỷ cương truyền thống với những điển chương thiết chế xã hội ngay từ thời cổ đại chắc chắn phải có chữ viết tự lâu đời. Hiến lệnh của sở, Việt quốc có Việt luật rồi Việt ca, Tập Sở từ, Thiên Vấn, Ly Tao là những tuyệt tác văn chương của Khuất Nguyên. Bản tấu trình của Mã Viện thời Hán đầu Dương lịch về 10 điều khác biệt của Việt luật so với Hán luật, tất cả đã xác định người Việt cổ đã có chữ viết từ xa xưa. Thế nhưng do hoàn cảnh lịch sử phải đối đầu với một kẻ thù bạo tàn quỷ quyệt chủ trương triệt tiêu văn tự, xóa nhòa lịch sử Việt. Trong gần một ngàn năm thống trị, các viên Thái Thú Hán bắt buộc dân ta phải học tiếng Hán để nô dịch đồng hóa nhưng dân tộc ta vẫn bảo lưu được văn hóa truyền thống. Ngày nay, các công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam và ngoại quốc đã phục hồi một sự thật lịch sử về tiếng nói và chữ viết cổ của dân tộc Việt Nam.
Cổ sử Trung Hoa cũng như thực tế xác nhận người Việt cổ chi Âu Việt cư trú trên địa bàn liên tục từ Tây Bắc, Đông Bắc xuống tới Đông Nam và Tây Nam Trung Quốc bây giờ. Thật vậy, người Âu Thục ở Tứ Xuyên, Lạc Lê ở Hồ Nam, La Việt ở Hồ Bắc Hồ Nam, Dạ Lang ở Quý Châu (Âu + Lạc + Miêu), Đông Âu ở Nam Triết Giang và Bắc Phúc Kiến, Tây Âu ở Quảng Tây và Quảng Đông. Địa bàn của chi Âu Việt nằm sát, đôi khi xen kẽ địa bàn chi Lạc Việt. Chi Âu Việt chiếm 18 tỉnh vùng rừng núi trong khi chi Lạc Việt chiếm các vùng đất đai phì nhiêu và đồng bằng ven biển tính ra hơn 12 tỉnh của Trung Quốc ngày nay. Các học giả phương Tây cũng nhận định người cổ Indonesian mà chúng tôi gọi là Malaynesian (Malayo-Viets) gồm hai nhóm chính là Malaynesian núi rừng và Malaynesian ven biển nói theo hai ngữ hệ chính:
- Ngữ hệ Nam Á (Austro-Asiatic) tức ngữ hệ vùng rừng núi gồm có Việt-Mường, Tày-Thái, Lào, Mèo Dao, Môn-Khmer, Hán, Tạng, Miến.
- Ngữ hệ Đa đảo (Austronesian) tức ngữ hệ vùng biển, ven biển gồm Chàm, GiaRai, Raglai, Êđê, Churu, Mã Lai (Malaysia), Nam Dương (Indonesia) và quần đảo Polynesia.[1]
Theo các nhà ngôn ngữ thì Trung Quốc có 10 phương âm, tiếng Quan Thoại được coi là chính thức vì nó được nói ở Bắc Kinh, thủ đô của Trung Quốc. Tiếng Quan Thoại của Hán tộc chỉ dùng ở Thiểm Tây, Sơn Tây, Bắc Hà Nam và Nam Hà Bắc tức vùng Tây Bắc trong đó Tần ngữ được coi như cổ ngữ của Quan Thoại. Ngoài ra, tất cả dân Trung Hoa đều nói tiếng Việt cổ gồm: Thục ngữ (Âm của người Âu Việt xưa), Yên, Tề ngữ, Đông Di và Mạc Địch (tiếng Việt cổ chi Thái (Âu Việt), Sở ngữ (tiếng Việt cổ của Kinh Việt, Lạc bộ Trãi), Mân ngữ của Mân Việt ở Phúc Kiến, Giang Hoài ngữ (Dương Việt) của người Việt Triết Giang và Bắc Giang Tô, Ngô Việt ngữ (Bắc Giang Tô, Triết Giang), Điền, Kiềm ngữ (Âu Việt cổ ở Vân Nam) và Việt ngữ ở Quảng Đông, Quảng Tây.
Các công trình nghiên cứu ngôn ngữ cho thấy tiếng nói vùng Hoa Nam gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Triết Giang đều có âm Việt cổ chung hoàn toàn khác với phương ngữ Hán phương Bắc mà dân gian Hoa Nam gọi là tiếng Quan Thoại của giới quan lại thống trị từ thời Tần. Đây là Hán ngữ chính thống (Sino-Tibetan) mà giọng đọc gọi là Quan Thoại ở vùng Đông Thiểm Tây, Bắc Hà Nam, Nam Hà Bắc và Nam Sơn Tây. Tần ngữ là giọng nói ở Thiểm Tây được coi là giọng cổ Quan Thoại phát âm lơ lớ Quan Thoại, lơ lớ Mông Cổ, lơ lớ Tây Nhung còn lại 8 phương âm khác của Di Việt ở khắp Trung Nguyên gồm:
- Thục ngữ ở Tứ Xuyên của chi Âu Việt.
- Yên Tề ngữ của chi Lạc Việt (bộ Trãi) mà họ gọi là Rợ Đông Di gồm các tỉnh Sơn Đông và một phần Hà Bắc.
- Sở ngữ là giọng nói ở Hồ Bắc, Hồ Nam của chi Lạc Việt bộ Mã mà Hán tộc gọi là rợ Kinh man. Vào đầu kỷ nguyên Dương lịch, Yên Tề Sở ngữ giống Việt ngữ, Sở ngữ còn gọi chung là giọng Hồ Quảng.
- Mân ngữ (Hoklo) là giọng nói của chi Mân Việt (Min-Yueh) ở Phúc Kiến (Lạc bộ Mã).
- Việt ngữ vùng Quảng Đông và Quảng Tây của chi Âu Việt còn gọi là Tây Âu của đồng bào Thái (Thái Việt)
- Giang Hoài ngữ là giọng nói vùng giữa sông Hoài và Sông Dương Tử thuộc nước Ngô thời chiến quốc ở Bắc Giang Tô và Triết Giang của U-Việt còn gọi là Đông Việt.
- Điền Kiềm ngữ là giọng nói vùng Vân Nam và vùng phụ cận của chi Điền Việt.
- Ngô Việt ngữ.[2]
Bản đồ “Tối Tân Trung Quốc Phân Tỉnh Đồ Bản” mới nhất của Trung Quốc đã xác nhận tất cả các dân cư bản địa thời cổ ở Hoa Nam ngày xưa đều còn hiện diện trên lãnh thổ Trung Quốc. Bức bản đồ ngôn ngữ đầy đủ nhất “Ethnolinguistes groups of Mainland Southeast Asia” do Human Relations Area Files, Yale University xuất bản cho biết hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Quý Châu là địa bàn hiện nay của dân Thái tức người Âu Việt cổ. Mặt khác Tối tân Trung Quốc Phân Tỉnh Đồ còn cho biết là không hề có nhóm người Hán nào gọi là người Quảng Tây mà dân ở mấy tỉnh đó đều là người Quảng Đông còn gọi là người Việt Đông, là người Việt và giọng đọc tiếng Trung Quốc của dân Quảng Đông được gọi là Việt ngữ.
Các công trình khảo cổ, ngôn ngữ và di truyền học đã kết luận như nhà ngôn ngữ học J.Norman là tiếng Hakka, Mân (Min) và Quảng Đông (Việt ngữ: Yue) cùng chung một cội nguồn lịch sử và được gọi chung là tiếng cổ Nam Trung Hoa (Old Southern Chinese). Nhà ngôn ngữ học Laurent Sagart nghiên cứu về nguồn gốc tiếng Hakka cho biết lớp tầng cổ nhất thuộc họ ngôn ngữ Mèo-Dao (Miao-Yao) hay còn gọi là Hmong-Mien và người She thuộc họ ngôn ngữ Hmong-Mien là tổ tiên của người Hakka và Gan. Giáo sư Fong Hok Ka trong công trình nghiên cứu “Investigating in dept about the origin of Hakka đã công nhận Hakka với một nền văn minh rất cao từ lâu trước thời kỳ Tần Hán xâm lăng đánh chiếm các dân tộc phương Nam. Hakka chữ Hán có nghĩa là khách trú do người Quảng Đông chịu ảnh hưởng của văn hoá Hán dùng để chỉ người từ phương Bắc di cư xuống vùng Bắc Quảng Đông và Nam Phúc Kiến. Người Hakka đã cư trú lâu đời từ hàng ngàn năm trước ở vùng phía Nam sông Dương Tử mà địa bàn chính ở phía Nam tỉnh Giang Tây giáp với tỉnh Phúc Kiến.
Cộng đồng các quốc gia Bách Việt cư trú tản mác trên cả địa bàn trung nguyên rộng lớn bao gồm lưu vực 2 con sông Hoàng Hà Dương Tử. Chính vì vậy, mỗi quốc gia có những sinh hoạt riêng biệt và theo thời gian xa cách, mỗi nơi nói một ngôn ngữ, một phương ngữ riêng và hình thành chữ viết riêng.
Truy cứu lại lịch sử chữ viết của Trung Hoa cho chúng ta biết rằng chữ Bát quái của Phục Hi, chữ Kết Thằng là lối chữ ký hiệu bằng cách thắt nút dây của Đế Thần Nông. Đến đời Đế Hoàng, sử gia Thương Hiệt đã thống nhất được lối chữ cổ kể trên, đồng thời theo dấu hình chân chim thú bay nhảy mà biết văn lý phân biệt rồi khuếch trương bằng hình thanh đặt ra lối chữ Điểu Triện. Mãi tới thời Chu Tuyên Vương của Hán tộc mới sai Thái Sử Trứu thêm bớt lối chữ Khoa Đẩu, Điểu Triện  đặt ra lối chữ “Đại Triện” nét tròn thường viết bằng sơn trên gỗ tre. Bởi vậy, lối chữ đại triện này gọi là Trứu thư được xem là của Hán tộc vì nó có phần khác với lối chữ Khoa Đẩu, Điểu Triện thời Đế Hoàng của Việt tộc. Ngược dòng lịch sử, tìm về nguồn cội dân tộc từ thời lập quốc chúng ta thấy cộng đồng Bách Việt đã hình thành các lối chữ sau:

Chữ Kết Thằng
Lối chữ thuở ban sơ là lối chữ thắt nút mà sách sử cổ gọi là “Kết Thằng” của dòng Thần Nông. Lối chữ này được người Việt cổ mang theo đến châu Mỹ nên thổ dân châu Mỹ Ameriviets cũng có lối chữ thắt nút mà các nhà nghiên cứu gọi là “Quipus”. Sách “Đại Việt Sử Lược” Chép “Hùng Vương đóng đô ở Văn Lang, lấy hiệu là nước Văn Lang. Truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương. Phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối thắt nút (Kết Thằng)”. Từ các nguồn sử liệu trong thư tịch cổ Trung Hoa đến các công trình khảo cổ, nghiên cứu về ngôn ngữ và dân tộc học, cộng với kết quả của khoa khảo tiền sử đã góp phần xác định minh chứng sự thật lịch sử là Việt tộc, hậu duệ chính thống của Viêm Đế Thần Nông thời cổ đại đã có lối chữ “Kết Thằng” để ghi lại những sự kiện bằng màu sắc và cách thắt nút dây do Thần Nông đặt ra. Lối chữ này còn được thổ dân châu Mỹ gốc Bách Việt (Malayo-Viets) bảo lưu. Các nhà nghiên cứu gọi lối chữ này là Kipus. Nhà nghiên cứu E. Nordenskiold nhận định: “Cũng giống như chúng ta, với sự kết hợp 24 chữ cái bằng nhiều cách, chúng ta tạo thành những câu vô tận. Người Indian cũng vậy, với những nút và màu sắc, họ biểu thị vô số ý nghĩa của sự vật”.[3]

Khoa Đẩu Tự
Lối chữ thứ hai là lối chữ hình con nòng nọc gọi là “Khoa Đẩu Tự” còn lưu lại trong chữ viết của các dân tộc ở Trung Đông, Ấn Độ, Thái Lan, Cao Miên và đồng bào Chăm… Vua Lê Thánh Tông là một vị vua yêu nước đã gửi gấm cho thế hệ sau những ưu tư về cội nguồn chữ Việt cổ còn lưu lại trong tập “Thánh Tông Dị Thảo”. Hình dáng của lối chữ Việt cổ có nét chữ ngoằn ngoèo và hiện lối chữ ấy còn bảo lưu ở một đồng bào Mường Mán của chúng ta. Sự thực này đã được chính thư tịch cổ Trung Quốc xác nhận là Việt tộc đã có thứ chữ riêng hình con Nòng Nọc mà họ gọi là “Khoa Đẩu Tự” từ thời xa xưa. Tiền Hán thư ghi rõ là ngay từ thời Đào Đường khoảng thiên niên kỷ thứ II trước Dương lịch, người Việt cổ đã có một thứ chữ riêng biệt trông như con nòng nọc. Sách Thông Chí do Trịnh Tiêu đời Tống chép: “Đời Đào Đường, Nam Di có Việt Thường Thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa được nghìn tuổi, rộng hơn 3 thước, trên lưng có chữ “Khoa Đẩu” chép việc từ lúc khai thiên lập địa tới nay. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Qui Lịch”. Sách  “Lĩnh Nam Dật sử” chép “Lối chữ cổ của vua Đại Vũ viết trên tấm bia chôn ở núi Cú Lũ (tên cổ là hang rùa) là bảng chữ Việt”.[4]
Việt Thường là một chi tộc trong đại tộc Bách Việt đã có chữ viết và một nền văn minh khá cao nên mới làm được lịch gọi là lịch rùa (Quy Lịch). Đặc biệt, trên lưng rùa có ghi chép những sự việc từ thời khai thiên lập địa được xem như khởi đầu của triết học với vũ trụ quan phương Đông với Âm Dương Dịch biến luận của người Việt cổ. Kiến thức về địa lý và thiên văn của Việt Thường cao hơn thời Đường Nghiêu, Việt Thường đã có chữ viết Khoa Đẩu tức lối viết theo hình loăn quăn ngoằn ngoèo như con Nòng Nọc trong khi Hán tộc (Trung Quốc) còn trong tình trạng du mục bán khai ở Tây Bắc nước Trung Quốc bây giờ.
Các công trình tìm kiếm, nghiên cứu thực tế đã chứng minh là người Việt cổ đã sử dụng tiếng nói và có chữ viết tự xa xưa. Tháng 8 năm 1924, Jean Batherllier đã tìm thấy các hình khắc chi chít trên mặt các tảng đá lớn nằm rải rác giữa các khu ruộng bậc thang ven dòng suối Mường Hoa cách thị trấn Sapa khoảng 6 km. Đó là những tảng đá trên bề mặt có nhiều nét chạm trổ nằm rải rác xen giữa những thửa ruộng bậc thang của đồng bào Hmong-Dao. Di tích bãi đá cổ rộng với những hình vẽ người, nhà sàn và các dấu hiệu có thể là hình thức phôi thai của chữ viết, kế đến là đàn hổ đá và tấm bia có khắc chữ Việt cổ.    
Các nhà ngôn ngữ học ghi nhận ở vùng Nghệ Tĩnh ngôn ngữ địa phương vẫn còn giữ lại được nhiều chữ tiếng Việt cổ như xưa họ nói nác nay là nước, cơn nay gọi là cây, lả là lửa, ló là lúa. Năm 1903, Vương Duy Trinh là Hiệp Biện Đại Học Sĩ làm Tổng Đốc Thanh Hóa đã sưu tập đựơc 35 mẫu tự của chữ cổ ở Châu, đó là “Phụ Man Mẫu Tự Tam Thập Ngũ Tự” (Ba mươi lăm mẫu tự của chữ ở Châu). Vương Duy Trinh, tác giả “Thanh Hoá Quan phong” (thế kỷ XIX) viết: “Đây là chữ Châu tiếng Châu (vùng sơn cước). Trên kia đã dịch làm tiếng chợ (vùng đồng bằng), một khúc ca có 12 đoạn, có tầng thứ, có nông sâu, có mở đóng, có hồi cố. Có khác gì 13 nước Phong-thi. Người làm bài ca là người có học. Vậy mới biết có văn tự thì phải có văn chương. Tỉnh Thanh Hóa một châu quan có lối chữ thập châu đó. Người ta thường nói rằng Việt Nam không có chữ, tôi nghĩ rằng không phải. Thập Châu vốn là đất nước ta. Trên Châu còn có chữ lẽ nào dưới chợ lại không? Lối chữ trên Châu chính là lối chữ nước ta đó. Nay xem chữ trên Châu với chữ Xiêm, chữ Lào tuy rằng viết dọc viết ngang có khác dạng nhưng cũng là một lối chữ “Loan Phụng Khoa Đẩu”.
Nguyễn Đổng Chi trong tác phẩm Việt Nam Cổ Văn Học Sử đã sưu tầm được 35 chữ cái của đồng bào Mường. Đó là lối chữ ngoằn ngoèo như con nòng nọc đúng như Tiền Hán thư chép. Hình dạng chữ viết của đồng bào Mường gần giống như những hoa văn với những đường cong lạ trên mặt trống đồng Lũng cú, Hà Tuyên mới được phát hiện trong thập niên 70 với những hoa văn kỷ hà có những nét giống chữ Phạn cổ trên bia đá Võ Canh ở Khánh Hoà và chữ cổ khắc trên đá ở di chỉ Óc Eo (An Giang).
Nghiên cứu các hoa văn trên mặt trống đồng, chúng ta thấy rằng tất cả tự dạng trên có một điểm chung nhất là ký hiệu sổ ngang sổ uốn tròn như bộ di chuyển của con Nòng nọc mang tính biểu trưng của lối chữ tượng ý. Bên cạnh hình ngôi sao 12 cánh, hoa văn vòng tròn có chấm, đường thẳng song song hướng tâm, đường gấp khúc hoặc nửa hình thoi, hình người hóa trang cách điệu, người ta còn thấy những đường nét uốn lượn tạo thành các hình dạng ngoằn ngoèo. Đó chính là dấu tích của lối chữ viết ngoằn ngoèo như con nòng nọc được khắc họa trên trống đồng Lũng Cú Hà Tuyên.
Nền văn minh tối cổ của người Hòa Bình Hoabinhoid của cư dân Dravidian với nền văn minh sông Ấn. Nền văn minh này phát sinh rất sớm vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ III TDL và tàn lụi vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ II TDL vì sự xâm lấn của chủng Ấn Âu (Arian). Cư dân Dravidian tôn thờ mặt trời, thờ nữ thần Mẹ và nhiều vị thần có liên quan đến nông nghiệp và chăn nuôi. Cư dân Dravidian có tín ngưỡng phồn thực và đã sáng tạo ra lối chữ cổ Ấn Độ. Đặc biệt trong sử thi Anh hùng ca Ramayana của Ấn Độ cổ cũng có truyền thuyết về cội nguồn được xem như dị bản của huyền thoại Rồng Tiên với khái niệm Bách Việt mà Hoàng tử Rama là con trai trưởng giống như Hùng Quốc vương trong huyền thoại Rồng Tiên.
Các nhà ngôn ngữ học đã ghi nhận là chữ viết Ấn Độ đã đi sâu vào vùng Đông Nam Á, làm cơ sở cho sự hình thành chữ viết của một số nước như Thái Lan, Miến Điện, Lào, Cambodia. Các thứ chữ Chăm, Khmer, Thái đều bắt nguồn từ chữ Ấn Độ cổ gọi là Brahmi có trước tiếng Sansckrit. Về phía  Bắc, chữ Brahmi cũng góp phần vào việc tạo ra chữ viết cho Tây Tạng, Turkistan và ở các đảo lớn tại Thái Bình Dương như Java, Sumatra, Célèbres cho đến tận Phillippine. Đây chính là tiếng Nam Á của Hoabinhian được người Ấn Độ cổ Dravidian bảo lưu văn tự nên các nhà ngôn ngữ học cho là của Ấn Độ, thực ra đây chính là là ngôn ngữ Hoabinhian Protoviets (Tiền Việt) của cư dân văn hóa Hòa Bình .
Các học gỉa Benedickt và Jerry Norman cũng đã cho rằng người Trung Quốc vay mượn tên của các con vật chỉ năm tuổi gồm Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi của tiếng nói  các nước Đông Nam Á. Công trình nghiên cứu giá trị của học giả Lacouperie, giáo sư ngôn ngữ, trong sách “Beginning of writing”, xuất bản tại Luân Đôn đã trưng bằng cớ của bốn mẫu chữ Đông Nam Á. Điểm độc đáo là  gần một thế  kỷ sau, các nhà  khảo cổ  mới tìm thấy những mẫu chữ này được ghi trên trống đồng Lũng Cú vừa tìm thấy ở Lũng Cú Hà Tuyên, Việt Nam. Đặc biệt, nhà ngôn ngữ học Paul Rivert cho rằng nền văn hóa Hòa Bình cùng với lối chữ con nòng nọc này đã được truyền bá khắp nơi góp phần tạo nên các chữ viết của các dân tộc Thái Lan, Lào, Chăm, Cao Miên (Cambodia), Nam Dương (Indonesia), Miến Điện (Myannmar), Tây Tạng, Ấn Độ, Srilanka, Đại Hàn và Nhật Bản.[5]
Trong bộ “Từ Điển Nguồn Gốc Tiếng Việt” và “Từ Điển Đồng nguyên tiếng Việt-Đông Nam Á”, nhà ngôn ngữ Nguyễn Hy Vọng đã đưa ra 275 ngàn tiếng một đồng nguyên của tiếng Việt với hàng trăm ngàn bằng chứng thực tế rõ ràng,  những chi tiết phong phú đa dạng của tiếng Việt.  Lối chữ “Nòng Nọc” của người Việt cổ cùng với nền văn hóa Hòa Bình đã lan truyền khắp Trung Đông, góp phần tạo nên những nền văn minh cổ đại khác của nhân loại.

Chữ Vuông
Ngoài 2 lối chữ “Kết Thằng” và “Khoa Đẩu” các công trình nghiên cứu gần đây đã phục nguyên lại chữ Việt cổ đã bị vùi lấp hàng ngàn năm lịch sử. Lối chữ thứ ba này là lối chữ “Vuông” của cư dân Bách Việt định cư ở lưu vực 2 con sông Hoàng Hà - Dương Tử lãnh thổ Trung Quốc bây giờ đã hình thành những nền văn hóa Long Sơn, Ngưỡng Thiều, Hà Mẫu Độ… Các nhà khảo cổ ghi nhận trên những di chỉ văn hóa ở Bán Pha, Long Sơn, Ngưỡng Thiều, Cảm Tang (Quảng Tây), Đông Sơn (Bắc VN)… đều có dấu tích các chữ viết cổ sơ của cộng đồng Bách Việt. Sử sách Trung Quốc chép là lối chữ của họ đã có từ thời Thương nhưng các chứng cớ khảo cổ và công trình nghiên cứu đã xác định lối chữ này đã thành hình ngay từ thời nhà Hạ của Việt tộc còn để lại trên giáp cốt văn.
Sử sách Trung Quốc gọi miệt thị cư dân của nền văn hóa Long Sơn là Đông Di. (Dongyi東夷) để chỉ chi Lạc bộ Trãi (Trĩ) của tộc Việt ở bán đảo Sơn Đông và cả vùng Đông Bắc Trung Quốc. Cư dân Việt ở đây đã hình thành những nền văn hóa như văn hóa Hậu Lý, văn hóa Bắc Tân, Đại Vấn Khẩu, Nhạc Thạch và Long Sơn (Longshan) là những nền văn hóa cổ đại từ thời đá mới. Giới nghiên cứu đã tìm thấy 20 ký tự tượng hình trong các hầm mộ Đông Di. Đặc biệt trong  mộ táng văn hóa Đại Vấn Khẩu ở huyện Cử tỉnh Sơn Đông, giới nghiên cứu đã thấy nhiều chữ như Đán=旦,Việt=钺,  cân=斤, hoàng=皇, phong=封, tửu=酒, phách=昃 và trắc=拍là những chữ vẫn còn được dùng đến ngày nay để viết tiếng Hán hiện đại. Đây là chứng cớ thuyết phục nhất về sự hiện diện của cư dân Việt mà sử sách Trung Quốc gọi là Đông Di ở vùng Đông Bắc Trung Quốc với lối chữ vuông mà ngày nay Trung Quốc vẫn sử dụng gọi là Hán tự. Các công trình nghiên cứu và di chỉ khảo cổ đã xác nhận người Đông Di đã sáng chế ra cung tên và thờ chim là vật tổ biểu trưng của chi Âu việt. Chữ “Di” là sự kết hợp giữa chữ “đại” 大 nghĩa là “lớn” và chữ “cung” 弓 chỉ cung tên mà các sách sử Trung Quốc như Tả Truyện, Thuyết văn Giải tự và Kinh Lễ đều kể chuyện Hậu Nghệ, một lãnh đạo Đông Di có tài bắn cung đã bắn rụng mặt trời…[6]
Sách “Nhĩ Nhã” của môn đệ Khổng Tử ghi: “Rợ Đông Di (Lạc bộ Trãi) định cư từ lưu vực sông Bộc ra tới biển Đông và lên tới cực Bắc Trung Hoa cũng có tục nhuộm răng xâm mình”. Sách Nhĩ Nhã viết chữ Lạc của Lạc bộ Trãi (Trĩ) giống hệt chữ Lạc trong họ của Lạc Long Quân. Lê Huy Yêm trong tác phẩm “Lê Phổ Chí Tục Biên” đã viết về lối chữ cổ của dân tộc ta như sau: “Con Rồng cháu Tiên, chữ con chữ Rồng viết như thế này… Bọn Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp sang cai trị dân ta bắt đốt hết sách ta, nhà nào cất giữ thì bị giết hại. Đây không phải chữ Nôm đâu, chữ Nôm về sau, cách đây khoảng năm trăm năm do Nguyễn Thuyên, tức Hàn Thuyên đặt ra bằng cách ghép chữ, còn chữ cổ Việt Nam đã có hàng mấy nghìn năm về trước. Nhà ta cất giữ được quyển sách này từ cụ Lê Huy Nghiêm. Các cháu phải biết là nước ta có chữ trước chữ Hán rất lâu”.
Sách Thuyết uyển” do Lưu Hướng viết vào khoảng năm 16 TDL đã xác nhận một cách đúng đắn là người Việt đã có ngôn ngữ riêng, âm nhạc riêng đó là bài “Việt Ca”. “Lục Độ Tập Kinh cùng với Cựu Tạp Thí Dụ Kinh đã để lại cho chúng ta một loạt những cấu trúc tiếng Việt cổ quý giá mà từ đó, chúng ta tham khảo thêm bài Việt ca do Lưu Hướng chép lại trong Thuyết Uyển để có thể phục chế lại một phần nào tiếng nói dân tộc ta cách đây mấy ngàn năm. Đặc biệt, ngoài bản Việt Ca còn bảo lưu được trên 15 trường hợp các cấu trúc ngữ học theo văn pháp tiếng Việt cổ. Toàn văn Lục Độ Tập Kinh thể hiện một cách có hệ thống và toàn diện, liên tục nhất quán của ngữ pháp, cú pháp về ngữ vựng của tiếng Việt ví dụ như tiếng Tàu gọi Trời xanh là thanh thiên, mây trắng là bạch vân hoàn toàn khác với tiếng Việt. Học giả Trương Vĩnh Ký cũng cho rằng dân tộc ta đã có chữ viết trước thời Hán thuộc nhưng sau khi bị Hán tộc thống trị cấm sử dụng tiếng Việt cổ, đồng thời bắt dân ta phải học tiếng Hán nên sau hơn một ngàn năm nô lệ, tiếng Việt cổ mai một dần theo thời gian. Bản tấu trình lên Hán đế của Mã Viện về luật Việt viết khác Hán luật 10 điều. Thực tế lịch sử này một lần nữa đã xác minh là tiền nhân chúng ta đã có chữ viết và xã hội thời Hùng Vương đã được thể chế cụ thể bằng bộ Việt luật”.[7]
Mãi tới năm 1965, các nhà khảo cổ Trung Quốc đã tìm thấy một thanh gươm cổ trong ngôi mộ cổ ở núi Vọng Sơn, Gia Lăng tỉnh Hồ Bắc thuộc địa bàn cư trú của Bách Việt xưa. Đặc biệt trên thân thanh gươm báu có 8 chữ “Vua Việt Câu Tiễn đúc gươm để dùng” được nạm sợi bạc, khắc theo lối Điểu triện tức lối chữ Triện viết theo dạng hình chân chim: “Việt Vương Câu Tiễn tự tác dụng gươm”. Toàn thân và cán gươm có cẩn ngọc Minh Châu màu lam và lục tùng rất đẹp. Lối chữ “Điểu Triện” của người Việt cổ chính là lối chữ Thương Hiệt thời Đế Hoàng.
Năm 1999 các nhà khảo cổ Trung Quốc đã công bố trên tạp chí Nature đã tìm thấy nhiều chiếc sáo làm bằng xương ống chân hoặc xương cánh của loài sếu (hạc) đầu đỏ, khoét từ 5 đến 8 lỗ thoát hơi, cỡ 9.000 năm tuổi. Một chiếc sáo còn nguyên vẹn có 7 lỗ, âm vực trải đủ một quãng tám Tây phương, vẫn thổi được, âm thanh của chúng rất hay. Chúng là những nhạc cụ xưa nhất, kỳ diệu nhất mà con người đã được biết và được nghe. Tháng 3 năm 2003, các nhà khảo cổ lại công bố những nét khắc 11 ký hiệu đơn lẻ khắc trên mai rùa. Những chiếc mai rùa được chôn theo người chết trong 24 mộ phần, định tuổi bằng đồng vị carbon là từ năm 6.600 đến 6.200 TDL. Nghiên cứu cho thấy ký hiệu này mang những nét tương đồng với chữ viết được dùng hàng ngàn năm sau trong thời Thương (1776-1100 TDL).  Như vậy các ký tự trên mai rùa tại Giả Hồ thuộc về thời Đồ đá hoặc Đồ đá mới, sớm hơn chữ Ai Cập 2.900 năm và sớm hơn chữ tiền Lưỡng Hà – Ấn Độ 2.700 năm. Các nhà nghiên cứu đã phân tích các tài liệu về khảo cổ học, ngữ học và nhân chủng học đã cho rằng nguồn gốc của thời đá mới ở phiá Bắc Trung Hoa bắt nguồn từ phương Nam vì triều Thương mới thành lập năm 1766 TDL nghĩa là sau các ký tự cổ trên hàng ngàn năm.
Gần đây, các nhà khảo cổ Trung Quốc lại tìm thấy một món đồ cổ hình rồng 3.700 tuổi, được làm từ hơn 2.000 mảnh ngọc lam, đã được xác định là vật tổ hình rồng cổ nhất Trung Quốc. Món đồ cổ được được khai quật từ ngôi mộ của một vị quan trong cung điện ở Erlitou ở khu di tích Erlitou ở thành phố Yanshi, tỉnh Hà Nam. Bức tượng làm từ ngọc lam được tìm thấy nằm giữa vai và xương chậu của chủ nhân ngôi mộ.[8]
Yanshi là thủ phủ nhà Hạ của Việt tộc (2.100 – 1.600 TDL). Những chứng cớ khảo cổ này một lần nữa cho chúng ta thấy những cư dân này thuộc dân nhà Hạ của Việt tộc bị tộc Thương đánh đuổi tiêu diệt năm 1776TDL để thành lập triều Thương đầu tiên của lịch sử Trung Quốc.
Các công trình nghiên cứu khai quật ngôn ngữ Hán cổ đã tìm ra rất nhiều bằng chứng cho thấy chữ Hán chính là chữ Việt cổ cực kỳ phong phú của đại tộc Việt. Theo nhà nghiên cứu Đỗ Thành thì những di chỉ văn hóa như Bán Pha, Ngưỡng Thiều, Đông Sơn… đều có dấu tích các chữ viết thuộc về tiền thân của Giáp Cốt Văn và chữ Vuông ngày nay. Chữ “Vuông 文” của người Việt đi từ phôi thai cho đến phổ cập từ đời nhà Hạ đến ngày nay. Thật vậy, ngày nay chỉ có Việt ngữ phương Nam mới có âm đọc và chữ để viết “chữ Vuông” bằng hai tiếng “chữ 字 Vuông 文”. Tuy rằng người Việt Nam ngày nay đã đọc “文 vuông” là “Văn 文” theo Hán Việt, nhưng dấu tích “văn 文” là “Vuông 文” mà tiếng Triều Châu còn sử dụng. Người Mân Việt-Triều Châu cho đến nay vẫn chỉ đọc chữ “văn 文” là “Vuông 文” mà  không bao giờ đọc là “văn 文”. “Văn” là do đọc trệch âm “Vuông 文” mà thành.
Tiếng Mân Việt - Triều Châu là một phương ngữ rất xưa, được nhìn nhận là có ít nhất là 7000 năm lịch sử, xưa hơn chữ đời Thương, Chu và âm Hán Việt thời Hán, Đường và thời Tống rất nhiều! Chữ Nôm với âm Nôm có trước là “Diệt 日”, chứ không phải là âm “Nhật 日” của Hán Việt, chữ Nguyệt ngày xưa cũng đọc là “Việt/ Duyệt 月”. Tiếng Quảng Đông ngày nay vẫn đọc “Nguyệt 月” là “Duyệt 月” y như phát âm của chữ “Việt 粵 ” và “Việt 越”.  Theo nhà nghiên cứu ngôn ngữ Đỗ Thành thì chữ Hạ 夏 cũng là chữ “Diệt 夏 Việt”, tiếng Triều châu đọc là “He 夏” như “Hè 夏” trong tiếng Việt để chỉ “mùa hè 夏”. Chữ “hè 夏” nầy có chữ “Hiệt 頁” phía trên, phát âm “Hiệt 頁” ngày xưa cũng  tương đương là chữ “Diềt 夏 =Việt”. Việt 夏/Hè cũng chính là “Hùng 夏 Vương”, Họ Mỵ 芈 hay Mi 芈 của vua Việt và “Hoa 華  Hạ 夏” thì đủ biết chữ Hoa 華 nầy chính là Hạ 夏 là Yue = Việt. Như vậy, chữ Hạ 夏 cũng là chữ “Diềt 夏 Việt” và Việt 夏/Hè cũng chính là “Hùng 夏 Vương”, Họ Mỵ 芈 hay Mi 芈 của vua Việt và Hoa 華 – Hạ 夏” đã xác định nhà Hạ là của tộc Việt.[9]
Do đó, sách sử cổ Trung Hoa viết nền văn minh Hoa Hạ chính là nền văn minh Việt của thời nhà Hạ. Từ thời nhà Hạ trở về trước, sách sử cổ chép là Trung Hoa, mãi đến thời Thương tiêu diệt nhà Hạ mới lấy tên Trung Quốc để gọi tên nước của tộc người này.
Kết quả của công trình khảo cổ đã xác nhận là cư dân nhà Hạ đã có một nền văn hóa cao nên đã kiểu thức hóa chữ viết Việt cổ được 11 ký hiệu đơn lẻ khắc trên mai rùa bao gồm: chữ “mục” (mắt), “hộ” (cửa nhỏ, 1 cánh), và các số 1, 2, 8, 10, 20. Những chiếc mai rùa này được chôn cùng với thi thể người trong 24 mộ phần, định tuổi bằng đồng vị carbon là từ năm 6.600 đến 6.200 TDL trong khi tộc Thương mới đến xâm chiếm đất đai của nhà Hạ và thành lập triều Thương năm 1776 TDL. Trương QuangTrực (Chang Kwang Chih), sử gia hàng đầu hiện nay của Trung Quốc đã thừa nhận một sự thực lịch sử là tuy Trung Quốc là một quốc gia lớn với một nền văn hóa lớn nhưng nó đã phải thâu nhập tinh hoa của nhiều nền văn hóa hợp lại. Ông viết: “Những nền văn hóa địa phương thời tiền sử, sau khi thống nhất đã trở thành một bộ phận của văn hóa Trung Quốc”. Về nguồn gốc chủng tộc, Trương Quang Trực cho rằng: “Nguồn gốc thực sự của Hoa Hán chỉ là phần nhỏ nhưng sau khi triều Tần thống nhất thì dân tộc cả nước thống nhất ấy là dân tộc Trung Hoa”. Thực tế này đã được sử gia Trung Quốc Hoàng văn Nội thừa nhận là quá nửa dân số TQ ngày nay là người gốc Viêm tộc (Viêm Việt) bị Hán tộc thống trị đồng hóa thành người Trung Quốc gốc Việt cổ.
Đặc biệt, Việt tộc có chữ viết và tiếng nói ăn khớp với nhau được chứng minh bởi Đồ phổ Trống đồng. Thuở xa xưa, tộc Việt cư ngụ ở Trung nguyên nên tiếng Việt tổng hợp các ngữ vị và âm vị của 4 phương thiên hạ. Tiếng Việt và chữ Việt là hệ thống Tiêu âm là thiết âm tức là loại tiếng đánh vần được. Nhờ đó âm lại được mọi thứ tiếng của các nước nên ngữ vị và âm vị tiếng Việt hết sức phong phú. Tiếng Việt chữ Việt theo bản chữ đời Hùng để lại từ đời Thánh Tản viên cho Cao Thông, đệ tử của Thánh Tản Viên. Sau này, Trịnh Bồng đã được bản chữ đó và chính bản chữ đó đã giúp cho Raphael Quý dạy cho giáo sĩ  Alexandre de Rhodes để dịch sang mẫu tự La tinh, là chữ quốc ngữ bây giờ. Giáo Sĩ Đắc Lộ ở trong Nam (Đàng Trong) nghe ở Thanh Hoá (Đàng Ngoài) còn có người biết tiếng Việt cổ nên đã ra địa phận Thanh Hoá gặp được thầy Raphael Quý là người có duyên còn giữ được bản chữ đời Hùng. Nhờ thiên phú có tài về ngôn ngữ nên cả hai đã cùng nhau hợp tác giải mã những dấu hiệu chữ mô tả âm thanh của đời Hùng theo chữ La Tinh để chúng ta có được lối chữ quốc ngữ ngày nay. Như vậy, ông Tổ chữ quốc ngữ là bản chữ đời vua Hùng theo lối tiêu âm mà ghép thành văn tự. Người xưa đã có thứ chữ viết mô tả được đủ mọi thanh âm tự nhiên nghe thấy trong trời đất. Chữ viết đó là loại chữ Tiêu âm ghép vần rất tài tình và đúng âm luật, chữ Việt cổ lại có đủ số, đủ dấu làm toán, đủ dấu chấm câu, có 5 dấu nên biến hoá vô cùng theo sát nguyên lý vũ trụ.[10] Chính vì vậy, đại thi hào Nguyễn Trãi mới tuyên xưng: “Chỉ nước Đại Việt ta từ trước, mới có nền văn hiến ngàn năm” trong Bình Ngô Đại Cáo với những anh hùng dân tộc, những danh nhân khai sáng văn hoá, những điển chương văn hóa, những kỷ cương truyền thống của một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất với gần năm ngàn năm văn hiến.
So sánh đối chiếu tự dạng từ đơn giản đến chữ viết và độ tuổi khảo cổ với lộ trình thiên cư của người Việt cổ cho chúng ta nhận định như sau:
1. Cư dân Hòa Bình Hoabinhian tức người Tiền Việt Protoviets đã để lại hình khắc trên đá ở Sapa.
2. Khi biển tiến cách đây 14 ngàn năm, cư dân Hòa Bình phải di cư lên vùng cao rồi khi biển lùi thì những người Hoabinhian = Malaynesian = Malayoviets lại di chuyển xuống lưu vực sông Hoàng Hà định cư đã lưu lại những chữ viết cổ trên bình gốm ở di chỉ Bán Pha 2 có niên đại cách ngày nay 12 ngàn năm.
3. Lần biển tiến cách đây 11.500 năm, người Tiền Việt Hòa Bình lại phải di chuyển lên vùng cao rồi khi nước biển rút thì thiên cư xuống vùng đồng bằng sinh sống đã khắc trên yếm rùa chữ cổ có niên đại cách đây 9 ngàn năm.
4. Lần biển tiến cách ngày nay 8.000 năm, người Việt cổ lại phải thiên cư, khi nước rút dân thì người Malayoviets xuống định cư lâu dài hình thành các nền văn hóa Việt khắp trung nguyên như nền văn hóa Cảm Tang ở Quảng Tây với chữ Việt cổ trên vách đá, xương thú có độ tuổi 4-6 ngàn năm. Việt tộc là cư dân nông nghiệp đời sống thiên về văn hóa nên những người Việt cổ Malayoviets định cư từ lâu mà hậu duệ là cư dân nhà Hạ sau này đã kiểu thức hoá chữ viết Việt cổ được 11 ký hiệu đơn lẻ bao gồm: chữ “mục” (mắt), “hộ” (cửa nhỏ, 1 cánh), và các số 1, 2, 8, 10, 20 …
Giới nghiên cứu thống nhất nhận định rằng hệ thống chữ viết của người Đông Di được xem là hệ thống chữ viết sớm nhất vào thời kỳ đồ đá mới ở Trung Hoa. Người ta đã tìm thấy 20 ký tự tượng hình trong các hầm mộ Đông Di ở Sơn Đông (mộ táng văn hóa Đại Vấn Khẩu ở huyện Cử), trong đó có nhiều chữ như “旦,鉞,斤,皇,封,酒,拍,昃” (đán, Việt, cân, hoàng, phong, tửu, phách, trắc), vẫn còn được dùng đến ngày nay để viết tiếng Hán hiện đại. Hệ thống chữ viết này tiếp tục phát triển cho đến khi tộc Thương đánh chiếm nhà Hạ rồi với sức mạnh của kẻ thống trị, Thái Sử Trứu đời Chu Thành Vương đã sửa đổi lối chữ vuông của người Việt cổ thành lối chữ Hán gọi là Trứu Thư. Đến thời đế quốc Tần, Tần Thủy Hoàng thống nhất văn tự, đốt bỏ tất cả sách sử các nước, bắt người dân các nước phải học Tần Ngữ, nói tiếng Quan Thoại nên theo thời gian chúng ta không còn chữ viết riêng của dân tộc Việt. Mãi đến cuối thiên niên kỷ thứ hai, hàng loạt các công trình nghiên cứu của các học giả ngoại quốc đã phục hồi nền văn minh Hòa Bình của Habinhian= Người Tiền Việt là nền văn minh tối cổ của nhân loại. Khoa Di truyền học với những kết quả thuyết phục cùng với khoa Đại Dương Học đã giúp chúng ta tìm về nguồn cội dân tộc cùng với nền văn minh Việt cổ của dân tộc Việt.

Phạm Trần Anh
Trích: www.vietthuc.org
_____________
Chú thích:
[1] Bình Nguyên Lộc: Bình Nguyên Lộc: Nguồn Gốc Mã Lai của Dân tộc Ta, NXB Bách Bộc Sài Gòn, tr 346-349.
[2] Bình Nguyên Lộc: Bình Nguyên Lộc: Nguồn Gốc Mã Lai của Dân tộc Ta, NXB Bách Bộc Sài Gòn, tr 346-349.
[3] E. Nordenskiold: The Secret of the Peruvian Quipus. Kipus (Quipus) bao gồm những đoạn giây to nhỏ có thắt nút và màu sắc khác nhau. Khi dùng vào công việc thống kê thì màu sắc chỉ đối tượng thống kê, mỗi nút thể hiện một con số. Phía dưới là đơn vị, phía trên là hàng chục, trên nữa là hàng trăm, hàng ngàn… Kipus là bị vong lục, ngoài ra nó còn được dùng làm bùa, làm lịch và cũng biểu hiện cả tư tưởng đơn giản nữa”.
[4] Nguyễn Đoàn Tuân: Truyện Kiều, Hồn Tính Việt Ngàn Đời. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đoàn Tuân thì đây chính là thứ chữ trong Lạc Thư Bách Việt. Người xưa tin Lạc là Thần, phát xuất từ cái nôi sinh tụ của Bách Việt là Rượu Cô Dịch sau di chuyển về Tiểu Côn Lôn là vùng núi Vụ Uyển nơi vua Đại Vũ nhà Hạ đã chôn giấu tấm bia mà sách Lĩnh Nam Dật Sử nhắc tới.
[5] Vũ Hữu San: Địa Lý Biển Đông, NXB San Clement 2007, tr 25.
[6] Nguồn Wikipedia: Đông Di (Dong yi).
[7] Lê Mạnh Thát: Lục Độ Tập kinh và Lịch sử Khởi nguyên của Dân tộc. NXB Ban Tu Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh, tr 149.
[8] Andreson J.G: Children of the Yellow Earth Studies in Prehistoric China, London 1934. Cung Đình Thanh: Tìm về Nguồn gốc Văn minh Việt Nam, tr 224 dẫn Richard Peason 1980 “The Ch’ing-Lien-Kang Culture Chinese Civilization”, University of California Press, Berkerley and Los Angeles California 1983, p 125.
[9] Đỗ Thành: Nhannamphi Blog “Chữ Nôm cổ xưa và ý nghĩa của chữ Việt.
[10] Nguyễn Đoàn Tuân: Truyện Kiều, Hồn Tính Việt Ngàn Đời.

Dân tộc Kinh ở Quảng Tây

Vương Văn Quang

Phạm Hoàng Quân dịch
 
Lời người dịchNgười Kinh là dân tộc chủ yếu trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Một bộ phận dân tộc Kinh hiện đang sinh sống ở Khu Tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc; là một trong 56 dân tộc của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nhằm góp một mảng tư liệu về cộng đồng dân tộc Kinh ở hải ngoại này, chúng tôi trích dịch phần viết về "Dân tộc Kinh” [1] trong quyển Trung Quốc Nam phương dân tộc sử [2] , công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Sử học Vương Văn Quang, Giáo sư chuyên ngành Lịch sử dân tộc Đại học Vân Nam, Trung Quốc. Tác giả đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử các dân tộc ở Trung Quốc như: Bách Việt đích nguyên lưu dữ phân bố [3] , Trung Quốc cổ đại đích dân tộc thức biệt [4] , Trung Hoa dân tộc phát triển giản sử [5] , Vân Nam dân tộc đích do lai dữ phát triển. [6] 

Chúng ta không hẳn sẽ chấp nhận mọi ý kiến của tác giả, nhất là ở phần viết về nguồn gốc dân tộc Kinh. Tuy nhiên, với thái độ xem đây là đối tượng tìm hiểu và nghiên cứu, chúng tôi khách quan chuyển ngữ để đông đảo bạn đọc cùng tham khảo. Mặt khác, vì nhận thấy phần khảo về dân tộc Kinh ở Quảng Tây là một nguồn tài liệu cần thiết, qua đó chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về đời sống, phong tục, tín ngưỡng... của một bộ phận đồng bào đã định cư và lập nghiệp ở hải ngoại gần 500 năm qua. 

Ngoài các chú thích của tác giả kí hiệu –TG, là chú thích của người dịch.
I. Xuất xứ và phân bố

Vào đời Minh, một nhóm người từ vùng Đồ Sơn, Việt Nam di cư sang đất Quảng Tây. Nhóm người này thuộc tộc Kinh, dân tộc chủ yếu của Việt Nam, trong quá khứ còn gọi là tộc Việt. Người Kinh còn gọi là “người Việt Nam” hoặc “người An Nam”; người Miêu [7] , người Dao thì gọi là “người Giao Chỉ”. [8]

Về lịch sử nguồn gốc tộc Kinh, hiện nay đang còn nhiều tranh luận. Có người cho rằng, “trong tiếng Kinh có thành phần tiếng Khmer mà cho rằng tộc Kinh là một bộ phận của tộc Môn-Khmer” [9] Lý Can Phân cho rằng: “Nguồn gốc tộc Kinh không phải trực tiếp xuất phát từ tộc Bách Việt, mà là một dân tộc mới, chủ yếu có quan hệ nhân chủng với chủng Australoid-Negroid. [10] ” Tuy nhiên, đa số các luận điểm thì cho rằng, tộc Kinh có nguồn gốc phát triển trực tiếp từ tộc Bách Việt. [11] Tác giả Trung Nam Bán đảo Dân tộc cho rằng: “Tổ tiên của tộc Kinh ngày nay là tộc Âu Việt, Lạc Việt trong dân tộc Bách Việt cổ đại” [12] Trong Trung Quốc Đại Bách khoa Toàn thư, phần Dân tộc, mục Việt Nam biên rằng: “...còn gọi là người Việt Nam, người Kinh... hậu duệ của người Lạc Việt cổ đại, ban đầu ở Bắc Bộ Việt Nam, sau dần tiến về phương Nam, đến đầu thể kỷ XIX thì ở khắp cõi Nam.” Giáo sư Vương Dân Đồng – chuyên gia nghiên cứu lịch sử Đông Nam Á – cho rằng: “Dân tộc chủ thể ở Việt Nam là tộc Việt (tộc Kinh) thuộc Lạc Việt, nguyên là một chi của Bách Việt. Từ thời Đồ Đá Mới đã định cư ở vùng tam giác châu thổ sông Hồng, Bắc Việt; đến thế kỷ II, III tr. CN, người Lạc Việt ở Trung và Hạ du sông Hồng đã trồng lúa nước [13] , gọi là Lạc dân.” Sau đó người Lạc Việt dần biến chuyển thành người Kinh hiện nay. Vào năm 969 [14] , (họ) dựng nền độc lập, xưng là Đại Cồ Việt.” [15]

Thuyết thứ nhất khó mà đứng vững được bởi thấy từ đời Hán đã thiết lập 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Đương nhiên, Lạc Việt và tổ tiên của tộc Môn-Khmer là láng giềng; trong lịch sử lại thường xảy ra các cuộc giao chiến, một bộ phận người Môn-Khmer bị đồng hóa bởi tộc Kinh và tất nhiên về văn hóa có sự ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó có ngôn ngữ. Trong tiếng của tộc Kinh có nhân tố của tiếng Môn-Khmer là lẽ tự nhiên; không như người Khmer bị ảnh hưởng rất lớn của người Kinh. Hiện tại, rất nhiều người Khmer nói tiếng của người Kinh và ăn mặc theo kiểu của người Kinh. [16]

Thuyết của ông Lý Can Phân cũng khó khiến người ta tin được. Bởi nhìn theo góc độ Cổ Nhân loại học, thì từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 tới nay, các nhà Cổ Nhân loại học, dựa vào các nguồn tư liệu mới để nghiên cứu, đều cho rằng: từ Người Vượn Java đến người Soloensis và người Wadjakensis [17] phát triển thành chủng người Australoid-Negroid; còn Người Vượn Bắc Kinh [18] đến người Sơn Đính Động thì phát triển thành chủng người Mongoloid. [19]

Vào thời thượng cổ, chủng người Australoid-Negroid sơ khai, chủ yếu phân bố ở quần đảo Malaysia và Australia; sau đó, có thể họ thông qua “chiếc cầu lục địa” mà đến khu vực quần đảo Đông Nam Á. Cũng trong lúc ấy, chủng người Mongoloid không ngừng từ phía Bắc đi về Nam; chẳng những ức chế về địa bàn cư trú đối với chủng người Australoid-Negroid mà còn nắm chắc sự đồng hoá và dung hợp. [20] Đối với giới học thuật Việt Nam, trước mắt, họ thường nhìn nhận là: “Vào thời đại Đồ Đá Cũ, đất của tộc Kinh ngày nay là vùng phân bố của người Melanesia; đến thời Đồ Đá Mới, chủng người Mongoloid đến và lại dung hợp với nhau. Vì thế, người Melanesia hoặc người Indonesia không phải là tổ tiên nguyên thủy của người Kinh.” [21]

Còn như nói rằng tộc Kinh từ Lạc Việt phát triển mà thành thì dễ rơi vào phiến diện, đi đến đơn giản hoá, cũng giống như coi Giáp rồi đến Ất, Ất rồi đến Bính, Bính rồi đến Đinh ắt sẽ dẫn đến chỗ quay lại Giáp. Vậy mà những người theo thuyết này cứ vội vàng kết luận, phần lớn họ không đưa ra quá trình luận chứng mà chỉ đưa ra kết quả.

Trong quá trình phát triển, tổ tiên tộc Kinh từng có sự hấp thu các nhân tố từ người Chăm, người Môn-Khmer và người Hán, mà chủ thể là quần thể người Việt. Nếu nói người Kinh hoàn toàn do sự phát triển của người Lạc Việt mà thành thì đó là một kiểu lý luận thiên lệch. Phải nói rằng, người Kinh đã hấp thu từ nhiều thành phần dân tộc, trên nhiều phạm vi khác nhau (trên cơ sở người Lạc Việt là chủ thể), đến thế kỷ X về sau thì tổ hợp ấy mới trở thành một dân tộc.

Người Giao Chỉ cổ đại là chủ thể chủ yếu của người Kinh. Sách Văn hiến thông khảo – tứ duệ [22] có biên: “Giao Chỉ, lúc đầu thời Hán là đất Nam Việt, Hán Võ đế bình Nam Việt, chia đất thành Đam Nhĩ, Châu Nhai, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, gồm 9 quận, đặt Giao Châu Thứ sử thống lĩnh. Hậu Hán đặt Giao Châu; Tấn, Tống, Tề cũng theo đó. Tùy dẹp Trần, bỏ quận, đặt châu; [Tùy] Dượng đế những năm đầu, bỏ châu, đặt quận. Khoảng niên hiệu Võ đế [nhà Đường] đổi làm Giao châu Tổng quản Phủ; khoảng niêu hiệu Chí Đức [nhà Đường] đổi làm An Nam Đô hộ Phủ. Niêu hiệu Chính Ninh [nhà Lương-Chu], thổ hào Khúc Thừa Mỹ chuyên quyền một cõi” [23] . Đoạn văn trên khái quát rõ sự diên cách trong lịch sử của đất Giao Chỉ, dừng ở đời Lương, và sau đó là sự xuất hiện của một quốc gia có chính quyền độc lập, cũng vừa lúc người Kinh thực hiện vai trò nối trước mở sau, dựa vào điều kiện khách quan ngoại tại mà thiết lập nền chính trị, kinh tế.

Xem thấy cư dân chủ thể trên đất Giao Chỉ từ cổ đại đến thời Tần-Hán vốn theo chế độ của vương triều Trung nguyên [24] ; trồng tỉa lúa nước, dân gọi là Lạc dân; cai quản Lạc dân là Lạc hầu, Lạc vương. Ngụy-Tấn về sau, thành một đặc khu Lạc Việt, gọi là Liêu [25]hoặc gọi Lạc Việt. Năm 679, nhà Đường lập An Nam Đô hộ Phủ tại đất Giao Chỉ, dân thì gọi là người An Nam. Đến lúc ấy, tộc Kinh vẫn chưa hình thành, mà chỉ đang ở trong giai đoạn tích hợp.

Bắt đầu từ cuối thế kỷ IX, nhân lúc thế lực nhà Đường suy yếu, thế lực chính trị ở An Nam bắt đầu khởi động. Năm 906, địa chủ An Nam Khúc Thừa Mỹ nhân lúc nhà Đường hỗn loạn tự lập làm Tiết độ sứ [26] . Năm 939, tướng lĩnh An Nam là Ngô Quyền đánh bại quân đội Nam Hán ở sông Bạch Đằng, tự xưng Vương, lập triều Ngô, đóng ở đô Cổ Loa, thực sự là một nước độc lập. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh đánh bại các thế lực phong kiến, xưng Đế ở Hoa Lư, lập nước Đại Cồ Việt. Năm 979, cha con Đinh Bộ Lĩnh bị giết, Tổng chỉ huy quân đội là Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên thay, lập triều Lê (980-1009), sử gọi là nhà Tiền Lê. Triều Ngô, triều Đinh và triều [Tiền] Lê cộng tám đời vua, thống trị được 70 năm, An Nam bước vào thời kỳ thoát ly vương triều Trung nguyên. Năm 1009, Điện tiền chỉ huy sứ của nhà Tiền Lê là Lý Công Uẩn lên ngôi Đế, mở ra nhà Lý, thống trị hơn 200 năm (1009-1225). Trong giai đoạn này, chính trị nhà Lý ổn định, sức dân tăng trưởng, tộc Kinh bắt đầu hình thành, bộ phận tổ thành gồm có: Lạc Việt-Liêu là bộ phận chủ thể; người Chăm từ nước Champa; bộ phận người Môn-Khmer và một phần nhỏ người Hán.

Trong quá trình hình thành, tộc Kinh hấp thu tộc Chăm chủ yếu thông qua việc tiến hành chiến tranh. Theo lịch sử ghi lại, các cuộc chiến xảy ra rất nhiều lần: năm 982, Lê Hoàn công hãm thủ đô Champa, chiếm lấy 3 châu: Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh (nay là tỉnh Quảng Bình và phía Bắc tỉnh Quảng Trị, Việt Nam). Năm 1312 [27] , Trần Anh Tông lại công hãm Champa, bắt phải làm nước phụ thuộc [28] . Năm 1471, Lê Thánh Tông lại công hãm kinh thành Champa, thu Chiêm Động, Cổ Lũy Động và lập làm Quảng Nam Đạo; sau đó đến năm 1697 thi diệt nước Champa, khiến toàn bộ người Chăm phải ở trong phạm vi quản lý của Việt Nam ngày nay. Trong quá trình lịch sử, đại bộ phận người Chăm nhập vào tộc Kinh. Do vậy, giới sử học Việt Nam nói: “Từ thế kỷ XVIII về sau, dân tộc Việt Nam trong xu thế Nam tiến dần dần hấp thu hết cả một vùng (chỉ Champa – tức Lâm Ấp thời Tần-Hán) thành một chỉnh thể đất đai và cư dân. [29] ” Như người Chăm, thời cổ đại dõng hoạt như thế mà đến nay chỉ còn tám vạn dân bên trong nước Việt Nam [30] ; bao nhiêu người còn lại đi đâu hết vậy? Đương nhiên là tuyệt đại bộ phận đã đồng hóa với tộc Kinh.

Tộc Kinh còn chứa thành phần người Khmer. Người Khmer từng kiến lập các vương quốc hùng mạnh như Phù Nam, Chân Lạp; trong lịch sử từng cùng với Việt Nam tranh đoạt Champa, từ thế kỷ XIV về sau, người Khmer kiến lập quốc gia và không ngớt bị An Nam dung kế tàm thực [31] để lấn chiếm [32] . Năm 1658, Chúa Nguyễn mở rộng biên giới, đưa quân đánh chiếm Mỗi Tuệ [33] (nay là tỉnh Biên Hòa, Việt Nam); năm 1689, lại chiếm Sài Côn (nay là Sài Gòn, Việt Nam) mở đất ngàn dặm. Cuối thế kỷ XVIII, An Nam chiếm lĩnh toàn bộ vùng tam giác châu thổ sông Mekong, sống dung hợp với người Khmer.

Tộc Kinh dung hợp với tộc Hán chủ yếu từ thời Tần-Hán: quan lại và binh lính người Hán sang đóng ở đấy Giao Chỉ, nhiều người không trở về bản quán, đây là điều hiển nhiên, không cần phải kể...

Tóm lại, thành phần chủ thể của tộc Kinh là tộc Lạc Việt-Liêu hậu duệ của Bách Việt; đồng thời thêm vào nhân tố ngữ hệ Malay-Polynesia (Nam Đảo), ngữ tộc Indonesian (người Chăm); ngữ hệ Nam Á, ngữ tộc Môn-Khmer của người Khmer và một phần nhỏ người Hán. Các nhân tố này hợp thành một quần thể dân tộc mới, trong quá trình phát triển của lịch sử, chịu ảnh hưởng và tiếp thu mạnh nhất là văn hóa Hán; kế đến là văn hóa của người Chăm và người Khmer. Vì trong ngôn ngữ, cùng lúc tồn tại nhiều nhân tố nên các nhà ngôn ngữ học gặp nhiều khó khăn trong việc xác định thuộc tính gốc.

Trên đây là nói chung về nguồn gốc tộc Kinh, giờ nói riêng về người Kinh ở Trung Quốc. Người Kinh từ Đồ Sơn, Việt Nam sang Trung Quốc vào khoảng đời Minh. Khoảng những năm triều Thanh, người Kinh ở thôn Hà Vĩ [34] có lập hương ước để làm phép tắc cho dân trong thôn, trong hương ước từng minh xác rằng họ đến đây từ thời Hậu Lê (Đại Việt) niên hiệu Hồng Thuận năm thứ 3 tức triều Minh đời vua Võ Tông niên hiệu Chính Đức năm thứ 6 (1511), tức cách nay hơn 400 năm [35] . Người Kinh ở đây đa số mang họ Lưu, họ Nguyễn, tổ tiên họ nguyên cư trú vùng Cát Bà, sau dời đến dùng duyên hải Đồ Sơn, sống bằng nghề đánh cá. Có một dịp, họ đuổi theo đàn cá ở vùng vịnh Bắc Bộ mà lạc đến đảo Vu Đầu, nay thuộc thành phố Phòng Thành, khu tự trị dân tộc Choang [36] Quảng Tây, thấy làng xóm vắng vẻ không người ở, lại thấy nơi này thuận tiện trong việc đánh bắt cá, họ bèn định cư hẳn mà không về nữa, đến nay đã qua 16, 17 đời, nếu tính mỗi đời là 25 năm thì đến nay đã hơn 400 năm, đối chiếu với bản hương ước nói trên thì thấy rất hợp lý.

Người Kinh hiện phân bố chủ yếu ở 3 khu: Sơn Tâm, Hà Vĩ, Vu Đầu và một số nơi khác như Hoàn Vọng, Đàm Cát, Hồng Khảm, Trúc Sơn... thuộc Phòng Thành, Quảng Tây.

Phòng Thành các tộc tự trị huyện, Địa đồ trích từ Quảng Tây Tráng tộc tự trị khu địa đồ sách – Quảng Tây nhân dân XBX, 1990.


II. Văn hóa tập tục


Tập tục phục sức, hôn nhân và ẩm thực

Đàn bà, con gái người Kinh thường mặc áo ngắn, cổ tay hẹp, áp bó sát thân, cổ không có bâu, trước ngực che tấm vải hình củ ấu, quần rộng và dài, màu đen hoặc màu nâu, khi ra ngoài thì mặt thêm một áo dài màu trắng, tóc bới như hình tấm thớt. Đàn ông mặt áo dài, tay hẹp, thân áo dài ngang đầu gối, thắt dải dây ngang eo.

Việc gả cưới phần lớn do cha mẹ lo liệu, hôn nhân theo chế độ một vợ một chồng, phổ biến là nuôi cháu và nuôi dâu, cá biệt cũng có trường hợp con trai ở rể. Cùng họ thì không lấy nhau, con cô con cậu cũng cấm lấy nhau, nếu vi phạm thì bị phạt [37] .

Nam nữ kết thân thường do người làm mai chọn ngày tháng tốt, bên nhà trai thỉnh người có uy vọng nhất ở trên đảo hoặc thân hữu lo giúp sắp đặt mâm lễ. Lễ phẩm gồm có trầu cau, táo đỏ [khô] và táo đen, đường phèn, trà; trên mặt mâm lễ thì xếp các loại bánh in thành đồ án hỷ khánh để trang trí. Một đội nam nữ chèo thuyền biết ca hát sẽ đưa lễ phẩm đi đến nhà gái; bên nhà gái cũng cử một đội nam nữ chèo thuyền biết ca hát ra đón. Trong quá trình đưa và nhận lễ phẩm, hai bên đều lấy lời ca thay lời nói, một bên xướng một bên họa lại, khi hai bên đến hồi hứng thú nhất thì người bên nhà gái sẽ thâu nhận lễ phẩm, việc hôn sự đến lúc này, coi như sắp hoàn tất. Sau đó, nhóm ca hát sẽ đưa chú rể đến nhà gái để ra mắt, nhà gái đãi trầu cau và trà, những vật phẩm tượng trưng cho sự tốt đẹp, hạnh phúc [38] .

Phụ nữ tộc Kinh múa hoa đăng, trích Trung quốc dân tộc, Nxb Trung Quốc Dân tộc Nhiếp ảnh Nghệ thuật, Bắc Kinh, 1989
Người Kinh chủ yếu sinh sống bằng nghề đánh cá, và lại chịu ảnh hưởng lâu đời của truyền thống văn hóa dân tộc, biểu hiện qua tập tục ăn uống lấy gạo [cơm] làm thức ăn chính, khoai núi và khoai nước làm thức ăn giậm; tính thích ăn cá, tôm, cua, nước mắm và cơm rượu; phụ nữ thì khoái nhai trầu cau [39] .

Nước mắm là thức điều vị [nêm nếm] truyền thống của người Kinh. Cách làm như sau: trước tiên chọn loại cá nhỏ rửa sạch, cho vào vò sành hoặc thùng gỗ, phân thành lớp rồi rải muối và đậy kín lại. Sau vài tháng, cá từ từ tan rã, rỉ ra chất dung dịch màu hồng, đó là nước mắm. Sau khi lọc kỹ, nước mắm có hương vị nồng nàn, tinh thơm. Qua lần lọc thứ hai thì màu và mùi vị kém đi, qua lần lọc thứ ba thì lẫn nhiều xương và cặn bã của cá, chỉ để cho gia súc ăn hoặc để bón ruộng. Nước mắm vừa là chất để nêm nếm trong việc chế biến thức ăn, vừa để làm nước chấm khi ăn cơm.

Trong các dịp ăn mừng năm mới, tiết mới người Kinh thường làm món bánh cơm rượu và chè gạo nếp, họ rất thích ăn món bánh dầy, loại bánh này dùng bột gạo nếp nấu chín, rồi cho vừng trộn vào, để lên lửa nướng, trước khi ăn thoa một lớp váng sữa mỏng, rồi chấm nước mắm và ăn, đây là món ăn quý để đãi khách.


Tông giáo

Người Kinh theo tín ngưỡng đa thần, vừa tin theo Phật giáo vừa tin theo Đạo giáo, có một số ít theo Thiên chúa giáo. Linh Quang Thiền Tự là ngôi chùa lớn nhất của người Kinh ở ba đảo [40] . Trong chùa có một chuông đồng đúc năm 1787, chùa thờ Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngoài ra còn có Tam Bà Miếu (trong thờ Quán Thế Âm, phụ nữ thường đến để cầu sinh con), Ưu Bà Miếu (trong thờ Phục Ba Tướng quân Mã Viện đời Hán). Đặc biệt là ở các chùa miếu này không có hòa thượng hay ni cô trụ trì, chỉ có "Tự đầu" [41] do người dân trong thôn chọn cử lo việc đèn nhang. Được cử làm việc này là người có phẩm hạnh đoan chính, chồng vợ đề huề, con gái con trai đầy đủ. Thù lao cho Tự đầu trích từ nguồn thu của chùa hoặc họ được nhận hoa lợi từ một hai mẫu đất công [42] .

Tín ngưỡng của người Kinh ở Quảng Tây khác với tín ngưỡng của người Kinh ở Việt Nam. Người Kinh ở Quảng Tây bị ảnh hưởng nhiều bởi văn hóa của người Hán. Các cuộc hành lễ có tính chất tông giáo trong dân gian được điều khiển bởi Pháp sư và Sinh đồng. Pháp sư và Sinh đồng phần nhiều do cha truyền con nối, họ tự xưng thuộc phái Chính nhất của Đạo giáo [43] . Cùng với tín ngưỡng Quán Thế Âm Bồ Tát của Phật giáo, họ còn thờ phụng các vị thần của Đạo giáo như Thiên quan, Thổ địa và thờ cả các vị thần dân gian như Trấn hải Đại vương, Hưng Đạo Đại vương, Hậu Thần, Điền Đầu Công... dung hòa Phật, Đạo và tín ngưỡng dân gian thành một thể. Khác với các dân tộc khác, khi thực hiện lễ cúng họ chỉ niệm chú chớ không dùng vũ điệu.

Trong sinh hoạt hàng ngày, có nhiều việc liên hệ với Pháp sư. Pháp sư thực hiện các lễ cúng chủ yếu là: Lễ Rằm tháng Giêng, lễ Rằm tháng Bảy cúng "Thí U" tức cúng thí xả quần áo, thức ăn cho du hồn dã quỷ; lễ "Quá Du Oa" trừ yêu trị bệnh cho người và yểm tà cho gia súc được yên ổn, làm cho sự đi biển đánh bắt được bình an; làm phép chiêu hồn trị bệnh "Ma làm"; làm phép "Thập bảo" để kéo dài tuổi thọ cho người già yếu bệnh hoạn, làm phép "Tẩy uế" cho sản phụ. Trong lúc làm lễ cúng cho cộng đồng hoặc các cá nhân, đồng thời treo hình tượng Phật và Thần (Đạo giáo) biểu thị sự dung hợp Phật, Đạo của người Kinh.

Sinh đồng, còn gọi "Giáng sinh đồng" là Vu sư dân gian, tự bảo là được thần linh dựa vào người nên có khả năng liên lạc với quỷ thần. Thông thường, tại nhà riêng thiết lập bàn thờ thần, cúng bái Tổ sư thần, thổ nhưỡng, Thổ địa thần... phần nhiều là làm phép đuổi tà trị bệnh [44] .

Ngư dân người Kinh ngoài việc rước Pháp sư, Sinh đồng để làm phép, họ còn cúng tế tại nhà theo tục lệ dân gian, cầu phước tiêu tai. Vào các dịp đan lưới vừa xong, trước khi hạ lưới đánh cá, cuối mùa đánh cá, các thời điểm mở đầu hoặc kết thúc một số sự việc khác họ đều bày tế phẩm ven bờ biển để cúng Hải Công, Hải Bà [Ông biển, Bà biển]. Mỗi năm từ ngày 20 đến 28 tháng Chạp âm lịch, nghề cá cùng nhau tổ chức lễ bái thần. Võng đầu (chủ lưới, chủ ghe) họp lại dẫn hết các võng đinh (thợ đánh bắt) đi lạy cầu thần ban phúc cuối năm, cầu cho năm sau mặt biển bình yên, nghề cá thu hoạch lớn.

Ngày lễ có tính tông giáo lớn nhất của người Kinh là lễ Cáp Tiết [45] , nội dung chủ yếu là tế thần, tổ chức ăn nhậu vui vẻ, đây là một hình thức đổi khác của lễ Xã tiết (tế Thổ địa, Thành hoàng).



III. Quan hệ dân tộc và chính trị


Người Kinh ở Quảng Tây có mối quan hệ rất tốt với các dân tộc khác cùng sống trên địa bàn. Thuở ban sơ, họ cư trú tại đảo Vu Đầu, thị trấn Giang Bình, nhà Thanh đã từng thiết lập địa khu Giang Bình, đặt Ty Tuần phủ Giang Bình.

Trong lịch sử, về tổ chức xã hội, người Kinh có đặt chức "Ông Thôn" đứng đầu. "Ông Thôn" có vai trò cũng như Hương trưởng hoặc Hương chính, phụ trách và xử lý các sự vụ trong thôn, coi sóc và giám sát việc thực hiện thôn ước, chủ trì nghi thức tế lễ và lo liệu các việc công ích. Dưới "Ông Thôn" thì có "Ông Quản" lo phụ "Ông Thôn" chấp hành việc xử phạt, quản lý núi rừng, ngoài ra còn có "Ông Ký" lo việc văn thư trương mục. Đối với các sự vụ trọng đại thì các bậc cao tuổi trong thôn sẽ họp lại bàn bạc quyết định, rồi giao cho "Ông Thôn" [46] theo đó mà làm.



Người dịch bổ sung:

  • Trung Quốc Đại lục phân tỉnh địa đồ [47] ghi: Kinh tộc có 4.000 nhân khẩu, phân bố tại vùng phụ cận trấn Đông Hưng, địa khu Hợp Phố, tỉnh Quảng Đông.
  • Encyclopedia Britannica [48] ghi: Kinh tộc là một dân tộc thiểu số của Trung Quốc, trước gọi là Việt tộc, năm 1958 đổi gọi là Kinh tộc... chưa định được hệ ngôn ngữ, phần lớn nói giọng Quàng Đông, viết chữ Hán... thanh niên nam nữ có tục nhuộm răng, làm nghề biển là chính, nghề nông là phụ... Năm 1958 Kinh tộc cùng các dân tộc thiểu số khác liên hợp thành “Đông Hưng các tộc tự trị huyện”, năm 1978 đổi gọi là “Phòng Thành các tộc tự trị huyện”, nhân khẩu 11.900 người (thống kê 1982).
  • Từ Hải [49] ghi: Kinh tộc có 19.000 nhân khẩu (thống kê 1990).
  • Quảng Đông lịch sử địa đồ tập [50] ghi: Địa bàn phân bố của Kinh tộc từ thời Minh, Thanh, Dân quốc cho đến năm 1958 thuộc tỉnh Quảng Đông, từ năm 1959 tới nay thuộc Quảng Tây Tráng tộc Tự trị Khu.