TRÊN BƯỚC ĐƯỜNG CÙNG
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt
Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay.
Lễ các Thánh (1-11) là một trong những lễ quan trọng của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo. Đối với Tổng Thống Diệm, ngày lễ này mang nhiều ý nghĩa và khi còn sinh thời, bao giờ ông cũng sửa soạn từ mấy ngày trước như xưng tội, cầm lòng… và làm một vài việc có ý nghĩa nhất để gọi làm bó hoa thiêng liêng dâng lên Thượng Đế.
Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia (Đại Tá Nguyễn Văn Y) Trung Ương tình báo và sở nghiên cứu chính trị (do Trung Tá Đường thay thế BS Trần Kim Tuyến)… Tất cả mấy cơ quan trên tuy hoạt động ngày đêm song về chuyện đảo chính vẫn không thấy động tịnh gì cả. Và chỉ là việc đang theo dõi, tìm kiếm, khám phá.
Tóm lại, trong suốt buổi sáng ngày 1-11, ông cố vấn Nhu không nhận được một tin tức nào về đảo chánh ngoài việc khám phá âm mưu của Đại Tá Có. Ông vẫn chủ quan tin vào lực lượng phản đảo chánh của ông.
Nếu một khi đảo chánh xảy ra ông sẽ trao cho Thanh Niên Cộng Hòa phận sự giữ gìn an ninh trật tự tại thủ đô tạm thời thay thế cảnh sát (vì kinh nghiệm vụ đảo chính hụt 11-11-1960 Đô Thành coi như bỏ ngỏ, Cảnh sát thì tự động biến mất). Về quân sự thì quân đoàn III đã có Tướng Tôn Thất Đính.
Về Hải Quân, ông Nhu tin tưởng nơi Đại Tá Hồ Tấn Quyền… Đại cương, ông Nhu vẫn tin tưởng với cả sự lạc quan vào lực lượng của chính quyền có thể đương đầu với bất cứ một cuộc đảo chánh nào. Từ khoảng tháng 8-1963 đã có nhiều nguồn tin theo đó ông Cố Vấn Nhu sẽ đảo chánh để lật đổ bào huynh và chính ông sẽ nắm quyền lãnh đạo. Nguồn tin này có lẽ được thêu dệt qua lời tuyên bố của ông Nhu trước hội nghị các đại biểu Ấp Chiến Lược. Ông Nhu nói rằng, nếu chính quyền bất lực và không còn phục vụ được nhân dân và Tổ Quốc thì chính ông là người đầu tiên đứng lên đảo chánh chứ không cần đợi ai đảo chánh. Lời tuyên bố này nhắm cảnh cáo một số cán bộ tắc trách và đồng thời cảnh cáo trước mọi âm mưu phiến loạn. Sự việc chỉ có thế.
CHẾT VÌ CHỦ QUAN HAY CHẾT VÌ PHẢN BỘI?
Các nhân vật thân cận cho hay, vào cuối tháng 10 chính quyền lại có vẻ vững vàng hơn bất cứ lúc nào. Điều làm cho chính quyền lo ngại nhất là các đơn vị của Lữ Đoàn Nhảy Dù. Sau cuộc đảo chính hụt 11-11-1960, chính quyền mới nhận chân được khả năng sung yếu của các đơn vị Mũ Đỏ.
Tuy nhiên, sau ngày 11-11- 1960, Lữ Đoàn này đã được trao cho một sĩ quan thân tín tức Đại Tá Cao Văn Viên ngoài ra một số đơn vị trưởng ở cấp Tiểu Đoàn và Trung Đoàn đã được Sở nghiên Cứu móc nối và được coi như người trong nhà.
Từ tháng 5 năm 1963 ông Cố Vấn Nhu đã tiên liệu trước sau rồi thế nào cũng có đảo chánh nhưng ông vẫn yên chí vì có thể dập tắt được ngay vì những tướng tá âm mưu đảo chính đều không có quân trong tay kể cả Trung Tướng Trần Văn Đôn, quyền Tổng Tham Mưu trưởng cũng sẽ không làm gì được hơn vì trên thực tế, ông Đôn vẫn là tướng không có quân.
Vì chủ quan quá mức như vậy nên ông Cố Vấn Nhu vẫn bình thản trầm ngâm với điều thuốc lá Job trong cùng thời khắc đó tướng lãnh đang quyết định lật đổ chế độ… 12 giờ trưa. Tổng Thống Diệm theo thông lệ vẫn lần hạt đọc kinh trước khi dùng bữa. Cũng thời khắc đó, trên xa lộ gần Thủ Đức, Đại Tá Hồ Tấn Quyền đã bị bắn chết. Cái chết của Đại Tá Quyền cũng bất ngờ và tức tưởi như cái chết của hai anh em Tổng Thống Diệm.
Ông Cố Vấn Nhu đã nắm vững được những yếu tố nào để có thể an tâm và chủ quan như vậy được ? Kể từ khi Mỹ ngưng viện trợ và tìm mọi áp lực để Tổng Thống Diệm phải khuất phục đi theo đường lối của họ, ông Cố Vấn Nhu đã tìm được một đồng minh khác khả dĩ có thể hỗ trợ chế độ trong nhất thời và cũng là cách tạo nên một thế tựa để làm điều kiện với Mỹ.
Trong 9 năm cầm quyền anh em Tổng Thống Diệm chua xót về viện trợ Mỹ và thế nào là đồng minh theo tầm nhìn của Mỹ. Đồng minh này không ai khác hơn là Pháp. Kể từ năm 1945, chưa bao giờ mối bang giao Việt Pháp tạo được nhiều điều kiện thân hữu rất tốt như năm 1963.
Lúc bấy giờ về phía nội bộ, vụ Phật giáo được coi như tạm yên. Phe đối lập gồm một số tướng lãnh mà ông Nhu tin rằng họ không thể làm gì được trừ phi Mỹ quyết tâm song sự quyết tâm của Mỹ cũng chỉ có thể trong vòng bí mật. Tất nhiên Mỹ không thể công khai hỗ trợ bất cứ một phe nhóm nào dùng võ lực để lật đổ chính quyền hợp pháp. Vì còn dư luận quốc tế, còn Pháp, Anh. Ông Nhu vẫn tỏ ra coi thường thực lực của phe âm mưu đảo chánh. Theo ông điều giản dị là họ không có quân không có uy tín trong quần chúng. Một số tướng tá đang nắm thực quyền chỉ huy các đơn vị và nha sở đều là người tin cẩn của chế độ… Sự tin tưởng của ông Nhu cũng hữu lý vì giả thử nếu Đại Tá Đỗ Mậu (Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội) cũng như Tướng Đính không theo phe đảo chánh, dầu cho Mỹ hỗ trợ, phe đảo chánh cũng khó lòng thành công.
Tuy nhiên, cái lầm lỗi nhất của ông Nhu vẫn là bệnh chủ quan và đặt quá nhiều tin tưởng vào một số nhân sự mà ông cũng như Tổng Thống Diệm cho đến giờ phút cuối cùng vẫn không thể ngờ được rằng, họ phản mình. Sự thật là hầu hết các tướng lãnh đều là đảng viên đảng Cần Lao như Chủ Tịch Quân Ủy đảng Cần Lao vốn là Tướng Lễ (nhiệm kỳ I) Tướng Chiểu (nhiệm kỳ II) cho đến ngày 1-11-1963 các Tướng Đôn, Nghiêm, Oai, Tám, Khánh, Cao… các Đại Tá Đỗ Mậu, Nguyễn Văn Chuân, Lâm Văn Phát. Các Trung Tá Đỗ Khắc Mai, Nguyễn Văn Thiệu… đều là đảng viên Cần Lao.
Một số Tướng Tá thân tín của chế độ chủ quan tin tưởng như vậy cho nên trước nguồn tin sẽ có đảo chánh, Đại Tá Hồ Tấn Quyền vẫn tuyên bố với mấy sĩ quan cận thân của ông: “Nhảy Dù mình cũng nắm vững, Hải Quân là do nơi tôi. Chỉ cần huy động hai Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến là có thể dẹp tan được đảo chánh.”
Trước sau có thể nói chính quyền vừa quá chủ quan và khả năng tình báo quá yếu. Ông Nhu cũng chỉ vì chủ quan nên thản nhiên chờ đợi phe đảo chính ra tay trước. Ông ta tin rằng với lực lượng mà ông được nắm vũng sẽ “hốt” được trọn ổ. Giới thân cận cho biết nếu cuộc đảo chánh chậm lại vài ngày nữa thì quả thực ông Nhu sẽ bắt được trọn ổ hoặc là ông cứ ra tay trước vào những ngày 27, 28 thì phe chủ chốt nếu không bị bắt tất cả cũng đành khoanh tay đằng này ông Nhu lại cố nấn ná để chờ cho nó bùng nổ.
TRONG DINH
Khi từng loạt súng nổ ran ở phía Tổng Nha Cảnh Sát và được báo cáo cho biết có một số binh sĩ Thuỷ Quân Lục Chiến đang tiến vào thành phố cho đến lúc này ông Nhu vẫn bình tâm và ông Vỹ được gọi vào Dinh. Kể từ 1g30 trong Dinh Gia Long, Bộ Tham Mưu cao cấp không còn ai khác hơn là hai anh em ông Tổng Thống Diệm và ông Cao Xuân Vỹ.
Tại sao chỉ có bằng ấy người. Thực ra khi có binh biến như vậy anh em Tổng Thống Diệm hay ở địa vị ai cũng chỉ còn trông cậy vào quân đội. Phía dân sự nếu có nhiều người thì chỉ làm bận chân.
Dinh Gia Long gọi điện thoại lên Bộ Tổng Tham Mưu thì không một ai trả lời (đường giây đã bị cắt) khi gọi điện thoại cho Biệt Khu Thủ Đô, Quân Đoàn III thì hai nơi này cũng bặt tin. Khi quay sang Bộ Tư Lệnh Hải Quân gọi Đại Tá Quyền cũng không còn tiếng chuông reo. Tuy nhiên Dinh Gia Long vẫn còn liên lạc được với một số cơ quan dân sự đầu não như Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, Thanh Niên Cộng Hòa, Trung Ương Tình Báo. Bộ Công Dân Vụ. Việc đầu tiên là Tổng Thống Diệm gọi điện thoại cho Phó TT Thơ và một số Bộ Trưởng để chỉ thị cho họ một số điều cần thiết như tạm thời ấn náu giữ vững tinh thần.
Vị Bộ Trưởng trốn lẹ nhất không ai khác hơn là Nguyễn Đình Thuần, Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng kiêm nhiệm Bộ Phủ Tổng Thống. Cho đến quá chiều Dinh Gia Long vẫn còn bắt liên lạc được với một số Tỉnh tại Cao Nguyên và Trung Nguyên Trung Phần cũng như Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Quân Đoàn II. Nhưng không sao bắt được liên lạc với Quân Đoàn IV của Tướng Huỳnh Văn Cao. Kể từ 1g30 đến khi anh em ông Diệm ra khỏi Dinh Gia Long được với Bộ Tham Mưu, Quân Đoàn I và Quân Đoàn II là hai đại đơn vị mà Tổng Thống Diệm vẫn liên lạc được cho đến phút chót và Tướng Nguyễn Khánh cũng là một tướng lãnh duy nhất cho đến phút chót qua đường giây liên lạc vẫn tỏ bày lòng cương quyết trung thành với Tổng Thống Diệm và cho biết Quân Đoàn II Tướng Khánh còn lưu ý với Bộ Tham Mưu Dinh Gia Long: “Các toa phải ráng giữ, đừng có nghe lời tụi nó. Không tin mấy thằng đó được Quân Đoàn II sẵn sàng phản công phe đảo chánh.”
ĐƯỜNG GIÂY ĐÃ ĐỨT
Sau vụ đảo chánh hụt 11-11-1960, Sở Nghiên Cứu Chính Trị đã áp dụng một kế hoạch chống đảo chánh rất hữu hiệu. Nhờ kế hoạch này, một số đơn vị nòng cốt trong Lữ Đoàn Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Thiết Giáp, Biệt Động Quân đều được Sở Nghiên Cứu “chinh phục và tìm bạn” trong hàng Sĩ Quan mà hầu hết là ở cấp Tiểu Đoàn Trưởng.
Tháng 9-1963 Bác Sĩ Trần Kim Tuyến được lệnh cấp tốc lên đường nhận nhiệm vụ mới và Trung Tá Đương chính thức thay thế (Trung Tá Đương còn là chánh văn phòng của ông Nhu).
Tuy đã bàn giao công việc song công việc của Sở Nghiên Cứu không đơn giản như các cơ sở khác, giấy tờ hành chánh chỉ là phần phụ.
Còn bao nhiêu vấn đề nhiêu khê rắc rối mà phải là người chủ động mới có thể nắm vững. Do đó, người thay thế dù là cận thân của ông Cố Vấn Nhu cũng không thể nắm vững các “đường giây” được móc nối tại các đơn vị chủ lực, kể từ tháng 9-1963 gần như tê liệt hoàn toàn. Đó cũng là một khuyết điểm lớn lao nhất là bao giờ cũng đặt tình cảm cá nhân như một căn bản cho lòng tin tưởng và tinh thần phục vụ. Cho nên với cá nhân ông này thì thuộc cấp hết lòng phục vụ cá nhân ông kia họ lại thờ ơ, bất hợp tác.
Cho nên cũng không thấy làm lạ khi người cũ ra đi với bao luyến tiếc của thuộc cấp, thì người mới khi đến tiếp nhận phải cần có một thời gian, phải có sự khôn khéo và có đủ uy tín may ra mới điều khiển nổi cơ sở ở mức bình thường. Khi BS Tuyến ra đi rồi thì từ một lý do này hay lý do kia, Trung Tá Đường không đã không nắm được các “cảm tình viên” đúng ra những “noyeaux” đặt trong một số đơn vị từng được coi là có khả năng làm đảo chánh hay chống đảo chánh rất hữ hiệu. Kế hoạch “nuôi ba năm dùng một giờ” đã trở thành vô hiệu quả. Nhiều đơn vị trưởng khi nhận được lệnh chuyển quân hướng về Saigon đã không biết cấp báo cho ai.
Đây là vấn đề quan hệ đến sinh mạng cho nên không thể cấp báo cho bất kỳ ai mà họ chưa có lòng tin cậy, sự tin cậy đặt trên tình nghĩa và thân hữu. Sau vụ 11-11-1960, Sở Nghiên Cứu Chính Trị cạnh Tổng Thống Diệm đã cố len lỏi vào các đơn vị và tìm bạn. Công tác tìm bạn coi như được hoàn tất vào năm 1962. Những người bạn này không cần nhận một công tác nào cả. Duy chỉ có một điều họ sẽ được bảo vệ nếu gặp sự bất công ngược đãi của cấp trên hoặc tuỳ trường hợp sẽ được giúp đỡ theo nhu cầu và ước muốn của mỗi cá nhân.
Người bạn này không làm công tác tình báo cũng không có phận sự đối với Sở Nghiên Cứu. Tóm lại, họ chỉ là bạn thuần tuý về phương diện tình cảm và không liên hệ một mảy may đối với tổ chức và công việc của Sở Nghiên Cứu. Tuy vậy, họ luôn luôn được căn dặn một điều, nếu khi nào thấy có lệnh chuyển quân hướng về Saigon, hoặc có điều gì khả nghi trong việc động binh thì cấp báo ngay cho người có trách nhiệm của Sở Nghiên Cứu, và cấp báo trực tiếp, đưa tin đến nhà hoặc điện thoại theo các đường giây riêng. Theo Lương Khải Minh, không những “tìm bạn” theo kiểu này tại các đơn vị cấp Tiểu Đoàn và Trung Đoàn, Sở Nghiên Cứu còn tìm bạn trong các cơ quan đầu não của Bộ Quốc Phòng và Bộ Tổng Tham Mưu, thường thường là sĩ quan cấp úy thuộc ngành truyền tin, Quân vận, phòng II phòng III v.v…
Từ tháng 10-1963 các “đường giây” được thiết lập theo hệ thống “bạn”kể trên nếu không nói là tan rã, thì cũng không được kết hợp và phối trí do một người duy nhất điều động. Trong khi đó, ông Nhu lại quá tin tưởng vào một số tướng tá chỉ huy các đại đơn vị không hiểu tại sao ông Nhu lại quên hẳn bài học “Nguyễn Chánh Thi” trong vụ đảo chánh 11-11-1960.
Ông vẫn dùng một số tướng tá thân tín để chống lại mọi âm mưu đảo chánh. Song ông Nhu đã không thể ngờ được rằng, khi các tướng tá trên tạm thời liên hiệp với phe âm mưu đảo chánh thì một sớm một chiều chế độ của ông đã trở thành chế độ trắng tay không có quân để bảo vệ (ngoài Lữ Đoàn PVPTT và một số đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt đã bị phân tán). Thật là một sự tính sai hay đúng một rủi ro của chủ quan. Đây cũng có thể coi là sự lầm lẫn do sự thiếu tế nhận về tâm lý và thực trạng của vấn đề nhân sự trong Quân Đội.
Hải Quân (trong đó có Thủy Quân Lục Chiến) là một thí dụ giúp chúng ta có thể dễ dàng phán đoán cái may cũng như cái rủi từ hai phía (phía đảo chánh và phía chính quyền). Sau vụ oanh tạc Dinh Độc Lập 27-2-1962, Hải Quân được lòng tin cậy của Tổng Thống Diệm. Đại Tá Hồ Tấn Quyền vẫn tự nhận là Hải Quân có công trong vụ bắn hạ chiếc máy bay của phi công Phạm Phú Quốc, và chính Hải Quân đã đem xác chiếc phi cơ AD-6 của phi công Quốc ra trưng bày coi như một chiến lợi phẩm. Hành động này đã làm phật lòng và chạm đến tự ái của Không Quân (sau đó chiếc AD-6 được không quân đem về căn cứ Tân Sơn Nhất) Từ vụ 27-2-1962, Đại Tá Quyền được coi như là người thân tín của chế độ (cho đến nay Hải Quân đã trải qua mấy vị Tư Lệnh song giới Hải Quân vẫn công nhận Đại Tá Quyền là vị Tư Lệnh khá nhất xét về nhiều mặt như tư cách chỉ huy, tình cảm v.v… mặc dầu ông hơi yếu về các phương diện cấp bằng so với các Tư Lệnh sau ông, cũng vì vậy phe đảo chánh không tìm cách móc nối Đại Tá Quyền.
THÀNH BẠI TRONG GANG TẤC
Cho đến sáng ngày 1-11-1963, Đại Tá Quyền vẫn không hay biết gì về cuộc đảo chánh sẽ bộc phát vào lúc 1g30 cùng ngày.
Ngày hôm ấy cũng là ngày sinh nhật của ông, Đại Tá Quyền theo thông lệ những ngày nghỉ vẫn đến sân quần vợt của Bộ Tư Lệnh Hải Quân để cùng dượt với các sĩ quan. Trong số sĩ quan hiện diện quần vợt sáng hôm ấy, có Thiếu Tá Nguyễn Tấn Lực.
Thiếu Tá Lực vốn là bạn thân của Đại Tá Quyền và cũng là chỉ huy trưởng của một ngành trong Hải Quân. Vào khoảng quá 10 giờ sáng, sau khi đánh banh xong, viên Thiếu tá này mời Đại Tá Quyền lên Thủ Đức dùng cơm, với lý do nhân ngày sinh nhật ông Quyền, Thiếu tá Lực muốn có cái hân hạnh được mời ông đi ăn nhậu, và cũng là một người bạn thân thiết. Đại Tá Quyền nhận lời ngay, và cả hai cùng đi bằng một chiếc Citroen dành cho Tư Lệnh Hải Quân.
Khi lên xa lộ, Thiếu Tá Lực mới ngỏ ý với Đại Tá Quyền theo phe đảo chánh. Cho đến giờ phút đó Đại Tá Quyền mới rõ sẽ có đảo chánh thật, và không còn là chuyện dư luận đồn đại nữa. Đại Tá Quyền không chấp thuận.
Kết quả là Đại Tá Quyền bị hạ sát ngay trên xa lộ. Đêm 1-11, Thiếu tá Lực “lò mò” tìm đến Bộ Tư Lệnh Hải Quân nhưng khi đi qua Sở Thú thì bị Lữ Đoàn bắt giữ. Thiếu tá Lực tưởng lầm là quân của phe đảo chính nên tiết lộ với Đại Úy Lễ: ông đã hạ sát Đại Tá Quyền theo chỉ thị của Trung Tướng Dương Văn Minh. Quân của Lữ Đoàn PVPTT định hạ sát ngay Thiếu Tá Lực. Đại Úy Lễ xin chỉ thị của Bộ Tư Lệnh nhưng chỉ được trả lời “Giữ ông Lực lại và không được động chạm đến ông ta”
L’ÉTAT C’EST MOI
Trở lại biến cố 1-11-1963 và cái chết của hai anh em Tổng Thống Diệm. Như mọi người đã biết, Tổng Thống Diệm đã chết như một người bị ám sát. Mặc dầu lúc 4g30 hội đồng QNCM, đã điện đàm với anh em Tổng Thống Diệm. Với lời hứa rằng, nếu Tổng Thống Diệm và Bào Đệ chịu từ bỏ quyền hành và rời khỏi Dinh Gia Long, HĐQNCM sẽ cam kết bào vệ tính mạng cho hai anh em ông và sẽ để anh em Tổng Thống Diệm ra ngoại quốc với nghi lễ dành cho một vị Tổng Thống. Tổng Thống Diệm đã nói như hét: “Tướng Tá mô?”
Tất nhiên Tổng Thống Diệm đã không chấp nhận sự đầu hàng như vậy. Ông lãnh đạo quốc gia trong vòng quan niệm Dân Cử theo quan niệm của ông và tổng hợp với quan niệm Thiên Mệnh, trong Nho Giáo. Với một người cứng rắn quá mức như Tổng Thống Diệm cùng với tự ái quá cao và tự tôn tất nhiên là ông đã coi các tướng lãnh chỉ là những thuộc hạ võ biền (võ biền theo quan niệm của một nhà nho) nên đề nghị của Tướng Minh đối với Tổng Thống Diệm như một hành động xúc phạm đến uy quyền tối cao của Quốc Gia mà ông là tiêu biểu (Tổng Thống Diệm đã từng nói: sau Hiến Pháp còn có tôi. Thực ra ông lãnh đạo Quốc Gia với một mặc cảm tự tôn: Quốc Gia là ta, L’état C’est moi). Điều này sẽ giúp ta rõ ràng giải thích tại sao Tổng Thống Diệm khước từ sự “đầu hàng” và dù trong một tình thế nguy nan nhất, ông vẫn giữ vững lập trường đòi các tướng lãnh phải cử đại diện đến Phủ Tổng Thống gặp ông. Theo Đại Úy Lê Công Hoàn, Tổng Thống Diệm đập bàn rồi bảo với ông Nhu:
“Chúng nó đến đây rồi thì muốn chi thì muốn”.
Tổng Thống Diệm có “cầu cứu” Cabot Lodge không? Riêng ông, có điện đàm với viên Đại Sứ này, song chỉ có ý phiền trách và yêu cầu người Mỹ chấm dứt ngay sự hỗ trợ phe đảo chánh. Ông Nhu thì chỉ yêu cầu Cabot Lodge đóng vai trò trung gian giữa Dinh Gia Long và Hội Đồng QNCM. Song Cabot không thỏa mãn lời yêu cầu này. Cũng tương tự như Tướng Minh, khoảng 4g30 Đại Sứ Cabot Lodge yêu cầu anh em Tổng Thống rời khỏi Dinh và đến tị nạn tại Tòa Đại Sứ. Sau đó ông ta sẽ thu xếp để anh em Tổng Thống xuất ngoại. Trong điều kiện này thì ông Lodge mới bảo đảm tính mạng của hai anh Tổng Thống Diệm và gia đình. Song như đã trình bày ở trên Tổng Thống Diệm đã khước từ dứt khoát. Tổng Thống Diệm cũng như ông Nhu vẫn mong ở thế khả thắng của mình. Qua Đài Phát Thanh lúc 4 giờ Tổng Thống Diệm nghe rõ giọng nói của 22 vị tướng tá xướng danh để áp đảo tinh thần Dinh Gia Long. Tổng Thống Diệm bảo Đại Úy Bằng và các sĩ quan tùy viên: “Các Tướng bị bọn nó bắt cóc làm con tin đấy thôi”. Cũng vì vậy khi Thiếu Tá Nguyễn Hữu Duệ xin Tổng Thống cho đem quân lên Bộ Tổng Tham Mưu để “giải thoát” các tướng Tá thì Tổng Thống khước từ với lý do: “mình đem quân lên giải cứu bọn nó sẽ giết hết các tướng để từ từ coi”. Cũng vào lúc 4g30 Trung Tướng Đôn có điện đàm với Tổng Thống Diệm yêu cầu Tổng Thống Diệm và ông Nhu từ bỏ quyền hành và xuất ngoại, vì quân đội đã đứng lên đảo chánh và đã vây chặt thành Cộng Hòa, Dinh Gia Long. Tổng Thống Diệm nói như quát: “Quân mô? Vây ở mô?” Sự thực, lực lượng đảo chánh không đáng kể… Quân của Sư Đoàn 5 vẫn còn ở bên ngoài Đô Thành. Phía Phú Lâm, Chợ Lớn, cầu Chữ Y, Khánh hội, Thị Nghè còn bỏ trống. Theo Thiếu Tướng Lâm Văn Phát thì vào giờ đó, Hội Đồng Tướng Lãnh chưa biết phải làm gì và hoàn toàn giao động vì vị nào cũng tưởng rằng, khi đọc hiệu triệu trên đài phát thanh thì các cánh quân của Quân đoàn III (trong đó có Sư Đoàn 5) đã vây chặt thành Cộng Hòa và Dinh Gia Long cũng như đã làm chủ tình hình Saigon Gia Định Chợ Lớn, nhưng ngược lại, các cánh quân chủ lực của cuộc đảo chánh vẫn còn rời rạc lẻ tẻ và chưa vượt qua cầu Phan Thanh Giản và cầu Thị Nghè thì đã bị Lữ Đoàn LBPVPTT chặn đứng tại Đa Kao và Sở Thú.
4g30, một cú điện thoại từ Bộ TTM gọi cho Thiếu Tá Duệ: “kéo thắng lên đây đánh thốc vào BTTM, ở đây chỉ lèo tèo vài đại đội tân binh và lính truyền tin”. Thiếu Tá Duệ hỏi: “Tướng lãnh làm gì trên đó?” Ông Duệ được trả lời:“Cha con mấy trự đang xanh mặt “té đái…” Sự thực Chiến Đoàn Vạn Kiếp của Trung Tá Vĩnh Lộc cho đến lúc ấy vẫn còn án binh phía bên kia cầu Phan Thanh Giản. Khoảng 4g30, khi Đại Tá Phát đến một căn nhà ngay ngã tư Phan Thanh Giản – Đinh Tiên Hoàng được coi như bản doanh tiền phương của Sư Đoàn 5 và chiến đoàn Vạn Kiếp thì lúc ấy Trung Tá Vĩnh Lộc đang say ngất ngư và cũng như chưa biết phải tiến quân như thế nào… Sĩ quan cũng như binh sĩ vẫn còn ngơ ngác không biết phải làm gì… chỉ thị của thượng cấp hết sức mơ hồ.
Tướng Lâm Văn Phát cũng tiết lộ, vào giờ phút đó, các Tướng Tá tại Bộ TTM gần như tuyệt vọng, ai nấy xanh mặt và chuẩn bị valise để lên đường tẩu thoát. Trung Tá Nguyễn Cao Kỳ trách nhiệm phần vụ “nếu thất bại sẽ dùng mấy chiếc Dakota của Liên đoàn Vận Tải để đưa các tướng tá qua Thái Lan”
Các Tướng Tá hồi hộp từng phút giây theo dõi cuộc tiến quân của Quân Đoàn III nhưng chỉ nghe thấy tiếng nổ xa xăm… 4g30, Trung Tá Kỳ dẫn 2 phi công vào trình diện Hội Đồng Tướng Lãnh – 2 phi công này lái AD nhào lộn oanh kích khu vực thành Cộng Hòa và sự hiện diện của 3 chàng Không Quân này tựa hồ như cơn gió mát giữa cơn nồng nặc nghẹt thở trong phòng Hội Đồng.
Trung Úy Niên thấy tình hình rất lâm nguy. Bỗng nhiên, ông nhận được tin từ Hội Đồng Tướng Lãnh cho biết: Đại Tá Lâm Văn Phát tạm thay Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, thống lãnh Sư Đoàn 5 để thanh toán Dinh Gia Long và thành Cộng Hòa. Được tin này, Trung Tướng Dương Văn Minh biến sắc. Một số Tướng Lãnh gỉ tai nhau: “Thôi hỏng rồi… tại sao Đính lại giao cho Phát như thế tụi nó quật ngược lại bọn mình rồi“. Không khí nghẹt thở.
Đại Tá Lâm Văn Phát sáng ngày 1-11 đến Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III để chờ trình diện Tướng Đính trước khi xuống Mỹ Tho nhậm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7. Cho đến lúc ấy ông Phát vẫn không hiểu mô tê gì cả nhưng ông đã linh cảm thấy một sự lạ nào đó. Chiều Đại Tá Phát trở vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Giữa lúc Tướng Đính đang xao xuyến vì sự di chuyển chậm trễ của Sư Đoàn 5, ông yêu cầu Đại Tá Phát tạm nắm quyền chỉ huy sư đoàn này để tốc chiến tốc thắng. Đại Tá Phát nhận lời. Tướng Đính phải cho người vào kho lấy bộ đồ trận cho Đại Tá Phát vì ông Phát mặc đồ vàng. Kể từ phút đó, Đại Tá Phát chính thức lâm trận. Ông được thăng Thiếu Tướng vào lúc 1g30 đêm ngày 1-11-1963 khi cuộc tấn công Dinh Gia Long đang mở màn.
RA ĐI KHI TRỜI CHƯA SÁNG
Xin trở lại giờ phút quyết định số mạng của hai anh em Tổng Thống Diệm. Khoảng 4 giờ sáng thứ hai ông Cao Xuân Vỹ hoàn toàn mất liên lạc với hai em Tổng Thống Diệm. Trong suốt buổi tối từ khi đến nhà Mã Tuyên, ông Nhu vẫn thường xuyên liên lạc với ông Vỹ và một số nhân vật thân tín khác. Ông Nhu quyết định sẽ ra đi trước khi trời sáng. Những người thân tín của ông đã nhận được chỉ thị thu xếp cho anh em ông tìm đường lên Cao Nguyên. Công việc thu xếp kể như tạm xong chỉ còn chờ anh em Tổng Thống Diệm quyết đi hay ở… sở dĩ có sự chưa dứt khoát như vậy vì Tổng Thống Diệm không chịu trốn không chịu cải trang. Ông Diệm đã nói với ông Nhu và ông Cao Xuân Vỹ: “Mình là Tổng Thống thì mình phải giữ tư thế của vị Tổng Thống. Dầu mình chết cũng là vị Tổng Thống.” Theo lời tường thuật lại thì tại nhà Mã Tuyên, dù ông Nhu nhiều lần đề nghị ông Diệm thay quần áo và cải trang cho dễ lẩn trốn trong dân chúng. Ông Diệm khước từ một cách bực tức. Ông Nhu đã có sẵn một bộ đồ hóa trang, song vì người anh không chịu, ông đành thúc thủ.
Ông Diệm vẫn tin rằng, phe đảo chánh sẽ không dám làm gì ông, và đã không dám làm gì ông thì cũng không thể giết ông Nhu.
Quyết định cuối cùng của ông Diệm là nếu chết thì chết cả 2. “Tôi đi đâu chú đi đó”.
Cũng vì vậy trong giờ phút cuối cùng tại Nhà Thờ Cha Tam,Tổng Thống Diệm một lần nữa khước từ không chịu mặc tấm áo “Soutane” của Linh Mục, mặc dù ông Diệm đã có lời tuyên bố phần sống như một tu sĩ.
Dinh Gia Long vẫn chìm đắm trong bóng tối và lặng lẽ. Vấn đề cấp thiết nhất là lương thực. Dinh Gia Long không có kho lương nào. Thiếu Tá Hưởng cũng như Thiếu Tá Lạc cùng tất cả các sĩ quan đều đồng ý giữ Dinh Gia Long bất cứ giá nào. Tinh thần họ chỉ lên cao nhờ binh sĩ cũng một lòng như vậy. Đơn giản, họ chỉ là những quân nhân phục vụ chế độ với lòng trung thành.
Từ khi Tổng Thống Diệm và ông Nhu ra đi, Dinh Gia Long không có gì thay đổi, ba đại đội của Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ đóng chung quanh Dinh ra đến tận chợ Bến Thành, Thiếu Tá Lạc cũng như Thiếu Tá Hưởng và Đại Úy Hoàn kéo nhau ra đường đi vòng quanh quan sát rồi dừng chân trước Bộ Quốc Phòng. Khi trở lại, có điện thoại gọi cho Hoàn, Hoàn quay lại nói với mấy sĩ quan: “Liên nó gọi cho moa” tức (Thiếu Tá Nguyễn Bá Liên Tham Mưu Trưởng Thủy Quân Lục Chiến, người chỉ huy TQLC trong cuộc đảo chánh)
Lúc đầu Thiếu Tá Nguyễn Bá Liên chiêu hồi dụ dỗ Đại Úy Hoàn và cho rằng nên hàng đi là hơn. Sau Thiếu Tá Liên nhường máy cho mộ số Đại Tá, Trung Tá nói chuyện thẳng với Hoàn. Đó là cách áp đảo tinh thần Dinh Gia Long. Các Đại Tá, Trung Tá lần lượt lên tiếng trong đó có Trung Tá Vĩnh Lộc, Trung Tá Thảo rồi đến lượt Trung Tá Nguyễn Văn Thiệu. Nghe xong Hoàn bỏ máy xuống quay lại nhìn anh em mỉm cười.
Đại Úy Bằng theo Tổng Thống Diệm và ông Nhu đến Chợ Lớn ở lại một lúc thì Tổng Thống Diệm cho ông về. Ông Bằng không quên mang về một chai Martell, một tút thuốc lá “tăng cường sức sống cho Dinh Gia Long”.Súng vẫn nổ, thỉnh thoảng một trái mortier rơi gần Dinh, mấy sĩ quan trong Dinh vẫn bình tĩnh cụng ly. Đại Úy Hoàn say ngất ngư cùng mấy sĩ quan khác ngồi tâm sự chuyện đời.
Thiếu Tá Nguyễn Bá Liên từ bên ngoài gọi điện thoại kêu Dinh gia Long đầu hàng lần thứ 3. Đại Úy Hoàn cảm ơn tình bạn của ông Liên và từ chối.
Quân Cách mạng đã làm chủ tình hình thủ đô vòng vây mỗi lúc một siết chặt quanh Dinh gia Long. Thiếu Tá Phạm Văn Hưởng đặt Bộ Chỉ Huy hành quân ngay ở công viên trước Dinh Gia Long. 12 giờ thì ông được thành Cộng Hòa thông báo cho biết đã bỏ thành. Bẩy sĩ quan từ thành Cộng Hòa đang tìm cách về Dinh. Nhưng đến đường Phùng Khắc Khoan thì đành chịu và rủ nhau trốn vào nhà Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thụ. Nhà ông này đi vằng hết, chỉ còn lại một gia nhân. Sau đó đám sĩ quan này mượn quần áo cải trang rồi kéo nhau vào nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi.
Ngoài Dinh Gia Long vẫn còn 3 đại đội của Liên Đoàn Phòng Vệ và trong Dinh có thêm một đại đội cận vệ đặt dưới quyền Thiếu Tá Lạc. Súng vẫn nổ. Trong Dinh lặng lẽ như tờ. Viên Đại Úy phụ trách truyền tin xin Thiếu Tá Hưởng cho tháo máy và di tản qua Tòa Án lấy cớ rằng nếu Dinh bị pháo kích, máy truyền tin vẫn còn an toàn (Mấy ngày sau Đảo Chánh, Đại Úy này được Cách Mạng vinh thăng Thiếu Tá với lý do góp công với Cách mạng bằng cách tháo gỡ máy truyền tin. Không hiểu nguyên nhân nào, một tuần sau ông mất lon thiếu tá ).
Vào khoảng 2 giờ ngày 2-11-1963 súng bắt đầu thi nhau nổ. Đại Úy Hoàn bàn bạc với Thiếu tá Lạc là trong tình thế này không thể nào giữ được Dinh nữa rồi thế nào quân đảo chánh cũng sẽ đánh lớn và thanh toán thành trì cuối cùng này. Hơn nữa Đại Úy Hoàn cho rằng Tổng Thống Diệm đã ra đi. Thiếu Tá Lạc cho là phải và đồng ý với Đại Úy Hoàn là phải báo tin cho Tướng Khiêm rõ. Sau đó Đại Úy Hoàn điện thoại cho Tướng Khiêm báo ông biết. Tổng Thống Diệm và ông Nhu đã ra đi và xin Tướng Khiêm ra lệnh ngưng tấn công Dinh Gia Long. Tướng Khiêm trả lời: “được, để qua lo liệu”.
Lúc ấy, Bộ Chỉ Huy nhẹ của Đại Tá Phát đặt ngay tại trường Đại Học Văn Khoa… ông Phát trực tiếp cuộc tấn công Dinh Gia Long.
Nhưng hầu hết đều bắn lên trời. Thủy Quân Lục Chiến đã tiến gần đến Dinh. Một đại đội khác của LĐLBPVPTT vẫn còn giữ được vườn Tao Đàn. Nơi đây được coi như yếu điểm số một trong việc bảo vệ Dinh Tổng Thống.
Bộ Chỉ Huy Dinh Gia Long không còn hy vọng được ai tiếp cứu.
Mấy mật báo viên của Thiếu Tá Hưởng được sai xuống Phú Lâm xem Sư Đoàn 7 đã về chưa. Cuối cùng họ trở về báo cáo, có thấy lính của Sư Đoàn 7 đang di chuyển về Thủ Đô nhưng không có súng.
Thiết giáp mỗi lúc một tiến gần hơn. Khẩu pháo đặt ở bộ Quốc Phòng bị thổi bay. Trước đó khoảng 9g30, một tướng lãnh ở Bộ Tổng Tham Mưu gọi điện thoại cho Thiếu Tá Lạc bảo đầu hàng. Ông Lạc trả lời rằng Dinh Gia Long không thể đầu hàng được vì phải đợi lệnh của Tổng Thống. Một lúc sau, Đỗ Thọ từ nhà Mã Tuyên gọi điện thoại về Dinh và chuyển lời của Tổng Thống Diệm đại ý, Tổng Thống Diệm cảm ơn tất cả và bảo Thiếu Tá Lạc cố giữ Dinh và chờ lệnh của Tổng Thống. Khoảng 3g30 sáng ngày 2, từ nhà Mã Tuyên Chợ Lớn, Tổng Thống Diệm vẫn chỉ thị cho Thiếu Tá Lạc “Một mất một còn để bảo vệ Dinh”. Nhưng ông Nhu thất vọng “Không thấm vào đâu, mình yếu họ mạnh” - Theo nhật ký Đỗ Thọ, Tổng Thống Diệm cho rằng: “Vậy đổ nát, chết chóc, không lợi chi cả“.
Từ 4g30 đêm, Dinh Gia Long như con hổ đã lọt vào bẫy, cố vùng vẫy nhưng kiệt sức, Thiếu Tá Lạc tính chuyện đầu hàng. Thiếu tá Lạc liên lạc thằng với Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm. Tướng Khiêm nói rằng: “Nếu thấy không thể giữ nổi thì hàng để tránh đổ máu.” Tướng Khiêm chỉ thị thêm:
“Các Thiếu Tá trong Dinh phải bật hết đèn pha để làm dấu hiệu đầu hàng”.Thiếu Tá Lạc xin được chậm chậm một chút vì ông Lạc cũng như một số sĩ quan vẫn còn do dự để đợi lệnh cuối cùng của Tổng Thống Diệm.
Lúc ấy Bộ Chỉ Huy của Thiếu Tá Hưởng đã di tản qua tòa Đại Sứ Lào. Súng nổ chát chúa nhưng hầu hết đều bay lên trời.
Đêm đen như mầu mực. Rồi 6 giờ, trời tang tảng sáng… Dinh Gia Long quỵ hẳn thay vì bật đèn pha để làm dấu hiệu đầu hàng, ông Lạc lại lấy tấm drap trắng trải giường cột vào đầu gậy chạy ra bao lơn “phất phất”.Phía Thủy Quân Lục Chiến cũng như trong Dinh nhiều người không trông thấy lá cờ đầu hàng, trong Dinh lại nổ một loạt súng và làm ngã gục mấy TQLC. Phía TQLC nổi giận xông lên.
Súng nổ từng loạt chát chúa. Rồi im bặt, Dinh Gia Long thất thủ lúc 6g25. Trung Úy Tiêm còn mặc bộ đồ ngủ đi lè phe ở hành lang Dinh. Mọi sự thế là xong. Bỗng đâu một viên đạn bay vèo. Trung Úy Tiêm ngã gục. Ông chết vào giờ thứ 25 và nâng tỉ số thương vong của Lữ Đoàn Phòng Vệ lên 7 người. Dinh Gia Long chỉ có một người chết.
Thiếu Tướng Phát công nhận rằng, cuộc tấn công Dinh Gia Long quả là gay go. Binh sĩ phía đảo chánh thì dè dặt, cấp chỉ huy phải hối thúc hò hét khản cổ họ mới chịu tiến. Khi Dinh Gia Long thông báo đầu hàng lính trong Dinh vẫn nổ súng từng loạt. Một chiếc thiết giáp tiến lên ngang hông Bộ Quốc Phòng phía đường Pasteur thì bị “thổi bay”. Lửa bốc cháy thiêu rụi con cọp sắt vào đúng giờ thứ 25 của trận đánh. Chiếc thiết giáp của Đại Úy Bùi Nguyên Ngãi lao lên tiếp cứu. Thiếu Tướng Phát trực tiếp hối thúc Đại Úy Ngãi phải tốc thắng ổ chống cự cuối cùng của Dinh Gia Long. Xe của ông Ngãi tiến gần đến chiếc thiết giáp đang bốc cháy thì bỗng đâu, từng loạt đạn nổ ran. Đại Úy Ngãi vừa thò đầu ra khỏi xe thì bị bắn gục. Con cọp sắt thứ hai bốc lửa. Đại Úy Ngãi gục ngã vào giờ thứ 25.
6g30 Dinh Gia Long nằm gọn trong tay phe đảo chánh, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu vẫn đeo lon Đại Tá kéo theo một trung đội tiến vào Dinh tiếp thu thành trì cuối cùng của Đệ Nhất Cộng Hòa tiêu biểu cho uy quyền tối thượng của VNCH.
TỪ HẦM DINH GIA LONG ĐẾN NHÀ MÃ TUYÊN
Trung Sĩ Mộc, Thủy Quân Lục Chiến cho biết ông đã cùng toán quân của ông là những người thứ nhất đặt chân lên thềm Dinh Gia Long và sau đó, ông xuống hầm làm nhiệm vụ lục soát.
Hầm này thế nào? Đây là nơi Tổng Thống Diệm mà trong 7 tiếng đồng hồ của buổi chiều ngày 1-11 đã cùng bào đệ ẩn trú và tính kế. Hầm hoàn thành xong ngày 28-10 nằm phía sau Dinh Gia Long, chiều dài 25 thước tây đi từ cánh trái của Dinh phía đường Pasteur đến cánh phải phía đường Công Lý. Hầm có hai cửa nhưng có 5 lối xuống hầm. Một lối thông với phòng ngủ của Tổng Thống Diệm ở lầu 2, một lối khác ăn thông với căn phòng của gia đình ông bà Nhu phía đường Pasteur. Bên trên hầm là sân cỏ sát với sân quần vợt với hai trụ thông hơi với một cửa ra vào dành riêng cho lực lượng cận vệ. Cửa hầm bằng sắt dày. Hầm phân ra hai khu một dành cho Tổng Thống Diệm, một dành cho ông Nhu. Về phía Tổng Thống Diệm hầm được ngăn ra thành 3 phòng nhỏ: một phòng khách, một phòng ngủ và một phòng tắm.
Nhưng từ khi súng nổ, Tổng Thống Diệm xuống hầm thì tất cả các bộ phận đầu não đều tập trung trong căn phòng khách nhỏ hẹp của Tổng Thống Diệm với một chiếc bàn tròn, một chiếc ghế bành, một chiếc tràng kỷ. Ông Nhu đi đi lại lại phía trên hành lang sâu hút của chiếc hầm. Từ khi súng nổ, ông Nhu vẫn đi như thế đầu cúi thấp, từng bước chậm chậm.
Buổi chiều nặng nề trôi qua. Tổng Thống Diệm chăm chú nghe lời nói của ông em “Hừ hừ… Mỹ nó biểu làm thì làm… Mỹ nó cho mỗi đứa vài ngàn đô la là xong.” Ông Nhu búng tán thuốc, gương mặt chĩu nặng :”Đính, Mậu nó làm như rứa…”
Tổng Thống Diệm lặng thinh. Khoảng 6 giờ ông già Ẩn mang xuống một tô cháo gà để Tổng Thống Diệm lót lòng. Ông Tổng Thống với cử chỉ uể oải, chán nản tột cùng, cấm thìa múc cháo như chừng không còn đủ sức nuốt cho hết. Ông nhìn mọi người rồi bảo ông già Ẩn: “Múc vài tô nữa cho anh em ăn với “. Nhưng đây là tô cháo cuối cùng của đầu bếp Dinh Gia Long.
Khoảng 7 giờ, ông Nhu nói với bào huynh: “Thôi mình đi“. Tổng Thống Diệm quay lại hỏi: “Đi mô?” Ông Nhu nói nhát gừng: “Cứ đi rồi tính“. Tổng Thống đứng lên nói: “Đi thì đi...” Tổng Thống Diệm sai già Ẩn lên lấy lầu cặp da. Trung Úy Sung thì thu xếp hành trang cho ông Nhu.
Tổng Thống Diệm nói với các sĩ quan tùy viên cùng Bác Sĩ Đinh Xuân Ninh và Trung Tá Kỳ Quan Liêm: “Đi một đứa thôi. Đi nhiều không nên“. Tất cả mọi người có mặt, đều có vợ con riêng. Đỗ Thọ thì còn độc thân. Đại Úy Đỗ Thọ tình nguyện đi theo Tổng Thống. Đại Úy Thọ quay lại nói với Đại Úy Hoàn: “Hoàn ở lại. Tao độc thân đi theo Cụ nếu có chết cũng không sao.” Khi già Ẩn đem chiếc cặp xuống trao cho Tổng Thống, nghẹn ngào, Tổng Thống Diệm trao chiếc cặp da cho Hoàn, đôi mắt ông vẫn lơ đãng, xa vời. Đỗ Thọ đỡ chiếc cặp da bước theo Tổng Thống rời khỏi hầm Dinh.
Chiếc xe Chevaux loại fourgonnette đậu sẵn tại sân cỏ. Tổng Thống Diệm bước lên xe theo sau là ông Nhu và Đại úy Bằng – Đại Úy Đỗ Thọ ngồi băng trước cạnh tài xế. Tổng Thống Diệm ngồi phía sau lưng lái xe và bên cạnh là ông Nhu. Xe rồ máy băng qua cửa nhỏ cửa Dinh phía đường Pasteur rồi tiến vào sân sau tòa Đô Chánh sau đó rẽ qua phía đường Lê Thánh Tôn chạy ngang qua rạp Rex, rẽ tay phải đi theo ngã đường Lê Lợi trực chỉ Chợ Lớn dọc theo đại lộ Trần Hưng Đạo. Ông Cao Xuân Vỹ bỏ đi không tháp tùng Tổng Thống Diệm và khi xe sắp chuyển bánh ông Vỹ thấy Tổng Thống Diệm và ông Nhu ngồi trên sàn xe coi bộ thê lương quá nên ông quay vào Dinh lấy tấm nệm mousse để Tổng Thống Diệm và ông Nhu ngồi tạm nhưng khi mang nệm ra thì xe đã đi.
Trong Dinh Gia Long lúc này chỉ còn lại duy nhất một mình ông Cao Xuân Vỹ là người có thẩm quyền quyết định. Ông không thể bỏ đi ngay được vì phải ở lại đôn đốc một số công việc nhất là lo việc ẩm thực cho anh em binh sĩ. Vì vậy, thay vì tháp tùng xe Tổng Thống Diệm. Ông trở lại Dinh gọi điện thoại cho Trung Tá Phước biết có hai người khách sắp đến. Đồng thời nhân vật này cũng chỉ thị cho Trung Tá Phước nếu xe của hai vị khách tới nơi sẽ cho thay xe khác và thay tài xế và chính Trung Tá Phước phải tự lái xe đem hai nhân vật đến tạm trú tại nhà Mã Tuyên và đợi ở đó ông Vỹ sẽ đến.
Trước sau, anh em Tổng Thống Diệm đã trở thành kẻ cô đơn trong cơn khói lửa, và phải lo liệu tất cả mọi chuyện. Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng cũng như Bộ Trưởng Nội Vụ không còn một liên lạc nào với vị lãnh tụ “anh minh” của họ!
Khoảng 9 giờ đem hôm đó, Trung Tá Phước đưa hai anh em Tổng Thống Diệm đến tạm trú tại nhà Mã Tuyên cùng với tùy viên Đỗ Thọ trên cùng một chiếc xe Land Rover. Sau khi lãnh một số chỉ thị cần thiết, Trung Tá Phước trở về bản doanh của Thanh Niên Cộng Hòa (đặt tại khu Đại Thế Giới). Từ lúc đó trên lầu II nhà Mã Tuyên chỉ còn Tổng Thống Diệm, ông Nhu và Đại Úy Đỗ Thọ. Riêng Đại Úy Bằng khi theo Tổng Thống Diệm đến Đại Thế Giới thì được Tổng Thống Diệm cho tự ý lo liệu. Một lát sau ông Cao Xuân Vỹ đến nhà Mã Tuyên và cũng chỉ ở lại nhà Mã Tuyên trong ít phút sau khi đã thảo luận với hai anh em Tổng Thống Diệm và lãnh chỉ thị cuối cùng.
Lời căn dặn cuối cùng của Tổng Thống Diệm là ông Vỹ phải dồn mọi nỗ lực để giữ an ninh công cộng và nhất là bảo vệ đồng bào về tài sản và sinh mạng. Ông Vỹ được lệnh trở về bản doanh của Thanh Niên Cộng Hòa để điều động mọi việc. Kể từ đó mọi việc liên lạc đều do đường giây điện thoại. Ông Vỹ có trở lại một lần nữa để bàn thảo kế hoạch và lãnh thêm chỉ thị mới. Đây là lần sau chót ông Vỹ gặp mặt Tổng Thống Diệm và vị Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa. Vào khoảng 4 giờ sáng ngày 2 ông Cao Xuân Vỹ mất liên lạc với Tổng Thống Diệm và ông Nhu. Tổng Thống Diệm đến nhà Mã Tuyên là một sự tình cờ. Trước đó, ông Tổng Thống đã khước từ đề nghị đưa ông và ông Nhu vào một tu viện trong Chợ Lớn. Tổng Thống Diệm lắc đầu: “Êm thì không nói là chi. Nếu có sao sau này phiền lụy đến các Cha”. Do đó mà ông Vỹ và Trung Tá Phước bắt buộc phải tạm thời dùng nhà Mã Tuyên làm “Dinh Tổng Thống” cho qua đêm. Khi được Trung Tá Phước báo tin, Mã Tuyên ra tận cửa đón chào anh em Tổng Thống Diệm. Từ 9 giờ tối chiếc xe Dodge trang bị máy truyền tin hoạt động không ngừng và ở đây thu lượm tin tức của Dinh Gia Long và Thành Cộng Hòa cũng truyền chỉ thị của hai ông.
RUỘT THỊT
Được biết, theo kế hoạch đã bàn thảo, Tổng Thống Diệm và ông Nhu mỗi người sẽ đi theo một ngã và cố tránh không để lọt vào tay phe đảo chánh. Ông Nhu sẽ cải trang như một thường dân lao động và tìm cách ra khỏi Đô Thành rồi theo lộ trình nào an ninh nhất, ông sẽ lên Cao Nguyên. Tổng Thống Diệm sẽ lánh tạm tại một nơi an toàn tại Thủ Đô. Sau đó, khi lên tới Cao Nguyên, ông Nhu sẽ huy động lực lượng quân đội do Tướng Nguyễn Khánh trực tiếp điều khiển và sẽ tiến về Saigon phản công.
Về mặt chính trị, ông Nhu vẫn tin tưởng là ông đã nắm vững được cả“nội lực và ngoại diện” khả dĩ có thể giúp ông thắng thế không những đối với phe đảo chánh mà kể cả Hoa Kỳ.
Ông Nhu đã trình bày cho Bào Huynh biết nếu phe Tướng Lãnh bắt được Tổng Thống, họ cũng không dám làm gì có thể nguy hại đến an ninh cá nhân của Tổng Thống. Song chính ông, ông Nhu cũng đã hiểu rằng, nếu phe Tướng Lãnh bắt được ông, họ có thể thanh toán ông ngay không một chút ngần ngại. Hơn nữa, ông cũng biết rằng người Mỹ không ưa gì ông. Dù đã trình bày cặn kẽ, “ai nên ở, ai nên đi” song Tổng Thống Diệm vẫn cương quyết không cho bào đệ của ông ta đi “Tôi ở đâu thì chú ở đó chết thì chết cả hai”. Chính vì tình thương ruột thịt nồng thắm như vậy cho nên ông Nhu không thể cưỡng lại lời anh và ngược lại Tổng Thống Diệm cũng không thể đành lòng để cho ông em một mình ra đi.
Cho đến giờ này, giới thân cận nhất của Tổng Thống Diệm cũng không hiểu nổi từ một nguyên nhân tâm lý nào đã khiến cho Tổng Thống Diệm tính sai như vậy khi ông cương quyết không cho ông Nhu ra đi, và cũng khước từ cả đề nghị để ông Nhu tự do định đoạt còn Tổng Thống Diệm tạm thời lánh vào một tu viện.
GIỜ THỨ 25
Một người như Nguyễn Khánh, vẫn bị ông Nhu nghi ngờ không mấy tin tưởng vào tánh nết của Tướng Khánh. Song trọn đêm ngày 1 rạng sáng ngày 2, Tướng Khánh đã biểu lộ trọn vẹn lòng trung thành đối với Tổng Thống Diệm và ông Nhu cho nên không lấy làm lạ cho đến phút cuối cùng khi biết được thành Cộng Hòa và Dinh Gia Long bị hạ và đã mất hết liên lạc với Tổng Thống Diệm, Tướng Khánh mới cam đành đánh công điện về ủng hộ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Không những Tướng Khánh đã xử sự như vậy mà nhiều tướng tá khác vẫn giữ thái độ “chờ đợi” và chỉ đánh điện ủng hộ HĐQNCM khi biết chắc chắn chế độ đã sụp đổ. Nhiều Đơn Vị Trưởng hoặc Tỉnh Trưởng tuy được đài phát thanh nêu tên tuổi và ghi nhận là họ đã theo phe cách mạng song qua đường giây liên lạc với Dinh Gia Long, họ vẫn cam kết trung thành, và sẵn sàng phản công lại phe đảo chánh.
Tuy nhiên sau khi đảo chánh thành công, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã đặc cách thăng thưởng cho nhiều tướng tá trong trường hợp kể trên. Và đó cũng là cái may cho những ai còn giữ được lòng trung thành, đồng thời lại gặp vận nhận được cái “hên” do tình cờ của lịch sử.
Mỗi vị thêm một lon cũng như Tướng Khánh được đặc cách Trung Tướng vì có công ơn đối với Cách Mạng.
Trong cuộc binh biến và thay chủ đổi ngôi nào mà không có những may rủi tình cờ cũng như oan khiên cừu hận.
Nếu tin là có phần số do trời đã tiền định cho mỗi con người thì cái chết của anh em Tổng Thống Diệm cũng do phần số vậy. Có thể nói được như vậy vì biến cố 1-11-1963, anh em Tổng Thống Diệm có nhiều yếu tố khả thắng khác hẳn với biến cố 11-11-1960 lúc ấy lại có nhiều yếu tố khả bại. Những yếu tố khả thắng này gồm những yếu tố bên trong và bên ngoài. Kể từ đầu tháng 10, mỗi ngày càng thuận lợi cho chế độ Tổng Thống Diệm măc dầu áp lực của Mỹ rất nặng nề. Cũng chỉ vì quá chủ quan và tin vào những yếu tố bên trong và bên ngoài này nên ông Nhu đã khinh xuất và“chơi” một canh bài quá bạo gan. Trong 9 năm, khi còn được Mỹ ủng hộ cơ quan CIA đã giúp cho chế độ của Tổng Thống Diệm rất nhiều tin tức tình báo quan hệ. Bất cứ một âm mưu nào nhằm lật đổ chế độ mà CIA đang ủng hộ đều bị khám phá kịp thời… hoặc là chính CIA ra tay phá những âm mưu đó từ trong trứng nước. Song kể từ khi hai Đại Tá Richardson (chỉ huy CIA tại Tòa Đại Sứ Mỹ) bị gọi về nước, ta có thể coi từ lúc đó, chính quyền của Tổng Thống Diệm không còn trông cậy vào sự cộng tác của CIA (mặt nổi phía Tòa Đại Sứ Mỹ). Tuy vậy, Saigon vẫn là trung tâm của nhiều tổ chức tình báo… Phòng nhì Pháp có, Trung ướng tình báo Bắc Việt cũng có rồi Trung Cộng, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam… Nhờ sự mâu thuẫn giữa các tổ chức này và nhất là biến chuyển tốt đẹp về ngoại giao giữa Pháp và Việt đã giúp cho anh em Tổng Thống Diệm có một số “bàn tay bí mật” cung cấp những tin tức quan hệ nhất đến sống còn của chế độ. Nhưng lịch sử vẫn còn những cái bất ngờ xoay chuyển cả đại cuộc. Nào ai có thể tiên liệu được cái bất ngờ của lịch sử. Tổng Thống Diệm lưu lạc đến nhà Mã Tuyên nào ông Nhu đâu có ngờ xảy ra như thế.
Cái bất ngờ đã đưa người Hoa Kiều Mã Tuyên đến một đoạn đường thê lương suốt 3 năm.
Vậy Hoa Kiều Mã Tuyên là người như thế nào?
Sau đảo chánh Mã Tuyên được tô vẽ như một hùm xám ở Chợ Lớn với gia tài lên đến hàng tỷ bạc. Sự thực có như thế không?
Mã Tuyên là một nhà giàu có. Song gia tài của ông so với giới Hoa Kiều giàu có khác đã không thấm vào đâu. Đối với giới này Mã Tuyên mới chỉ thuộc vào hàng trung lưu. Mã Tuyên đã có sẵn uy tín trong giới Hoa Kiều từ trước năm 1954. Vào khoảng năm 57-58, Mã Tuyên không những là Bang Trưởng mà còn là chủ tịch của 11 Bang các bang Hoa Kiều. Không phải chỉ ở Saigon Chợ Lơn mà trên toàn quốc Mã Tuyên thường được đồng bào gọi là Kiều Lãnh. Chỉ một chức vụ quan trọng này, Mã Tuyên đã có một đời sống dư giả, sung túc và quyền thế mà tập thể Hoa Kiều đã dành cho ông trong tư thế lãnh tụ của họ.
Vào khoảng năm 1959, Tổng Nha Cảnh Sát được mật báo Mã Tuyên là một tay kinh tài cho Trung Cộng và có liên hệ đến những hoạt động của Cộng Sản tại Chợ Lớn. Nguồn tin mật báo này xuất phát từ đám “mã thầu dậu” mà cơ quan an ninh đã xử dụng một thiểu số trong đám đó làm mật báo viên. Do đó Mã Tuyên đã bị mời lên Tổng Nha để điều tra. Vì vụ tố cáo này Mã Tuyên luôn luôn bị đám “mã thầu dậu” quấy rầy và cơ quan an ninh cũng nhân cơ hội đó gây cho ông ta không biết bao nhiêu phiền phức khác. Vào khoảng năm 1960, Đại Sứ Trần Văn Lắm gặp BS Tuyến có than thở là ông có mấy người bạn Huê Kiều bị Công an quấy rầy không sao làm ăn nổi. Người thứ nhất Huê Kiều Phú Lâm Anh chủ nhà hàng Mỹ Cảnh trước đây.
Người thứ hai là Mã Tuyên sống nghề mại bản cho một ngân hàng. Đại Sứ Trần Văn Lắm cả quyết cả hai người này đều không phải là cán bộ kinh tài của Trung Cộng. Qua sự giới thiệu của ông Đại Sứ Trần Văn Lắm, BS Tuyến can thiệp ngay. BS cho gọi viên Chánh Sở Cảnh Sát Đặc Biệt đến để cho biết qua về hoàn cảnh của Mã Tuyên và Phú Lâm Anh.
Ông yêu cầu Cảnh Sát Đặc Biệt chấm dứt mọi phiền hà đối với hai Hoa Kiều này. Có thể nói, kể từ đó Hoa Kiều Mã Tuyên mới được thành thơi làm ăn. Tuy BS Tuyến can thiệp cho Mã Tuyên song ông cũng chưa hề gặp mặt Hoa Kiều này. Riêng Phú Lâm Anh tỉnh thoảng hai ông Tuyến và Đại Sứ Trần Văn Lắm có ghé qua nhà hàng của y.
Năm 1961 trong cuộc vận động bầu cử Tổng Thống, BS Tuyến có mời một số Bang Trưởng Hoa Kiều đến văn phòng của ông để nói chuyện về cuộc bầu cử và yêu cầu các ông Bang Trưởng dùng uy tín để vận động cho liên danh Ngô Đình Diệm – Nguyễn Ngọc Thơ. Đây là lần đầu tiên Mã Tuyên được gặp BS Tuyến và chỉ có lần đó cho đên ngày Đảo Chánh.
Khi Thanh Niên Cộng Hòa được thành lập, ông Cao Xuân Vỹ làm Phó Tổng Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, Đô Thành được trao cho Trung Tá Phước (phó đô trưởng Nội An) là thủ lãnh, thì Mã Tuyên với tư cách đai diện của giới Hoa Kiều Chợ Lớn được để cử làm Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa tại quận V.
Thân hình, khuôn mặt và đời sống của ông ta tiêu biểu đầy đủ cho một dân Trung Hoa chánh gốc. Ông có đến 4 vợ chánh thức và trên 20 người con.
Mã Tuyên chưa hề gặp mặt ông Ngô Đình Nhu và kể cả Cao Xuân Vỹ. Mã Tuyên chỉ quen biết Trung Tá Phước mà thôi. Thanh Niên Cộng Hòa là đoàn thể duy nhất mà ông ta tham dự.
Ông ta cũng chỉ được Tổng Thống Diệm bắt tay vào những dịp Quốc Khánh, khi cùng các phái đoàn Dân Chính đến chúc mừng Tổng Thống và riêng Mã Tuyên với cương vị đai diện Hoa Kiều.
Buổi tối hôm 1-11-1963 lần đầu tiên, gia đình Mã Tuyên được đón tiếp anh em Tổng Thống Diệm. Liên hệ giữa Hoa Kiều Mã Tuyên và chế độ Tổng Thống Diệm trước sau chỉ đơn giản có thế.
Sau ngày đảo chánh, Mã Tuyên bị bắt và được mô tả như một tay kinh tài khét tiếng của chế độ Ngô Đình Diệm.
Ông ta còn bị tịch biên tài sản. Có điều đáng ghi và cũng là điều đáng ca ngợi về tình đồng hương của giới Hoa Kiều là khi vật dụng gia sản của ông bị tịch biên và đem bán đấu giá, thì chính đồng hương của ông đã bỏ tiền túi ra mua lại và đem trả cho gia đình Mã Tuyên. Trong thời gian ông bị giam cầm thì chính đồng bào ông đã tự động góp kẻ ít người nhiều chu cấp cho vợ con ông. Đó cũng là số phận của mỗi con người. Giả thử rằng nếu anh em Tổng Thống Diệm không vào nhà Mã Tuyên ẩn náu một đêm thì chắc chắn Mã Tuyên đã không bị tù đầy trong bốn năm trường từ Khám Chí Hòa đến Côn Đảo và Biên Hòa. Những người thuộc chế độ cũ cùng bị giam với Mã Tuyên đều ghi nhận, Mã Tuyên dù bị oan ức song không hề oán thán và vẫn một lòng tử tế như xưa.
Có thể nói, Mã Tuyên chỉ có một cái tội của kẻ gặp tai bay vạ gió. Giả thử Mã Tuyên can tâm phản bội biết đâu ông ta không trở thành anh hùng trong những anh hùng của Cách Mạng. Ông ta chỉ cần cho vợ con đi cấp báo với phe đảo chánh, tất nhiên anh em ông Diệm sẽ không còn phương thế nào để chống đỡ và anh em ông tất đã bị phe đảo chánh bắt ngay vào đêm 1-11-1963. Song gia đình Mã Tuyên không đang tâm như vậy. Ngược lại đã đón tiếp Tổng Thống Diệm với tất cả lòng cung kính.
ĐÊM DÀI NHẤT
Mã Tuyên dành riêng một căn phòng trên lầu cho anh em Tổng Thống Diệm, và tự tay ông ta làm mọi việc cung phụng hai vị thượng khách. Mã Tuyên cho vợ con xuống ở hết nhà đưới, không một ai được lai vãng lên lầu và chính Mã Tuyên cũng chỉ đóng vai trò phục dịch.Từ lúc anh em ông Diệm đến đây cho đến khi qua nhà thờ Cha Tam, Mã Tuyên đã thức trắng đêm để túc trực phục dịch.
Tuy nhiên ông ta không hề được biết gì hơn, nghe gì hơn ngoài mấy câu thăm hỏi của Tổng Thống Diệm và ông Nhu. Vợ con Mã Tuyên cũng chỉ được một lần nhìn khuôn mặt vóc dáng của anh em Tổng Thống Diệm và cả nhà gữ yên lặng và cung kính đầy kinh ngạc.
Mặc dù súng nổ lớn trong khắp Đô Thành. Mã Tuyên cũng chỉ mơ hồ cảm thấy một điều gì có lẽ quan hệ lắm đang xảy ra.
Trong đêm 1 rạng ngày 2, văn phòng Tổng Thống VNCH đã đặt ngay tại nhà một thương gia Hoa Kiều đã bao nhiêu năm vui hưởng an lạc nhưng bỗng nhiên từ một tình cờ lịch sử lại trở thành một trung tâm của Đại Sứ. Song một ngày sau cả gia tài cơ nghiệp nhà Mã Tuyên bị sụp đổ tan tành.
Đêm ấy tự tay Mã Tuyên pha từng bình trà nóng thứ hảo hạng và tự tay ông từ dưới nhà bưng lên lầu với sĩ quan tùy viên đem vào phòng cho hai anh em Tổng Thống Diệm. Đêm ấy gia đình Mã Tuyên hoàn toàn lặng lẽ trong không khí của sự trang nghiêm vì trước mắt họ và trong lòng họ, họ đang được sống trong khung cảnh thần thoại của một nước Trung Hoa cổ: Trong đó một anh dân giả bình thường đang sống yên vui với gia đình bỗng có một vị Hoàng Đế xa giá đến nhà, chủ nhà vừa ngơ ngác vừa run sợ hoang mang trước một tình cờ như phép mầu hay đúng hơn như một giấc mơ.
Có lẽ chưa một lần nào một anh dân giả như Mã Tuyên lại được gặp một cảnh ngỡ ngàng như thế trong từng giấc mơ của một định mệnh, thoáng qua một đêm và những ngày tới là đổ vỡ kinh hoàng mang theo ảo mộng.
GIÂY PHÚT CUỐI CÙNG
Ông Nhu đề nghị lần cuối với bào huynh: ông sẽ cải tranh trốn lên vùng 2 với Tướng Khánh còn Tổng Thống Diệm sẽ đi vùng 4 – hai người đi hai ngả cho tiện bề lo toan. Tổng Thống Diệm không bằng lòng. Theo Đỗ Thọ, ông Nhu thấy Tổng Thống Diệm tỏ vẻ giận dỗi nên ông bỏ ra ngoài một lúc mới trở vào phòng và đành theo quyết định của ông anh. Mọi liên lạc đã đứt đoạn. Người nắm kế hoạch đưa hai ông đi là Trung Tá Phước thì ông Phước đã bị phe đảo chánh bắt giữ. Gần sáng, Tổng Thống Diệm và ông Nhu bất thần thay quần áo. Hai ông đều bận complet và rời nhà Mã Tuyên lúc 5g15. Tự tay Đại Úy Thọ lái chiếc xe Land Rover đưa hai ông đến nhà thờ Cha Tam.
Hơn một giờ sau, Dinh Gia Long thất thủ. Trung Tá Phạm Ngọc Thảo dò hỏi biết hai ông vào Chợ Lớn và trú ẩn tại nhà Mã Tuyên, thế là ông Thảo tức tốc đem quân đi đón hai ông. Tất cả thành bại đối với nhóm ông Thảo là ở chỗ này: bắt được Tổng Thống Diệm và ông Nhu – nói là bắt thì không đúng. Theo kế hoạch của nhóm Trung Tá Thảo thì phải làm thế nào “nắm”được Tổng Thống Diệm để làm điều kiện áp đảo một số phe nhóm khác và lật ngược thế cờ. Đó cũng là lý do dễ hiểu tại sao Tướng Khiêm biết được Tổng Thống Diệm đã rời Dinh Gia Long từ lúc 3 giờ sáng mà vẫn không tiết lộ tin này cho Hôi Đồng Tướng Lãnh biết. Có lẽ Tướng Khiêm muốn để Tổng Thống Diệm và ông Nhu có đủ thời gian lo toan để thoát cơn hiểm nghèo.
Theo kế hoạch dự trù thì khi đảo chánh thành công phải “nắm” Tổng Thống Diệm và để ông Nhu xuất ngoại. Lúc ấy Tổng Thống Diệm sẽ trở thành chánh nghĩa của nhóm phe ông Thảo và nhóm ông Thảo sẽ dựa vào uy thế của Tổng Thống Diệm để nắm quyền chủ động trong Hội Đồng Tướng Lãnh, nhờ vậy nhóm Đôn, Kim, Xuân, Minh sẽ không thao túng được. Theo Trung Úy Vọng, khi vào nhà Mã Tuyên không gặp được Tổng Thống Diệm cũng không biết tung tích 2 ông ở đâu, Trung Tá Thảo biến sắc rồi thẫn thờ nói với Vọng:
“Thôi nguy rồi Vọng ơi” !
Phe của Trung Tá Thảo không có uy thế ở mặt nổi nhưng có quân – Phe các Tướng Đôn, Kim, Minh, Xuân không có quân nhưng có uy thế nhất lại được Đại Sứ Cabot Lodge hết lòng tán trợ. Theo kế hoạch của nhóm Trung Tá Thảo thì với tình trạng mâu thuẫn và xáo trộn trầm trọng kể từ tháng 5-1963 Miền Nam không thoát được một cuộc đảo chánh quân sự để lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Nhưng vấn đề quan trọng là phe nào, Tướng Tá nào cầm đầu cuộc đảo chánh? Trung Tá Thảo vạch ra một kế hoạch “đảo chánh hớt ngọn”. Nghĩa là nắm vững các đường giây liên lạc với các đơn vị cấp Tiểu Đoàn và Trung Đoàn từ Nhảy Dù đến Thủy Quân Lục Chiến Sư Đoàn 5 và Sư Đoàn 7. Nếu phe nào âm mưu đảo chánh và có uy thế móc nối thì xáp vô nhưng sẽ ra tay hành động vào phút chót để nắm thế chủ động. Trung Tá Thảo chủ trương đảo chánh để hòa giải các mâu thuẫn quân bình chính trị và hòa giải các mầm mống chống đối chia rẽ nhưng vẫn duy trì chế độ, bảo vệ sự liên tục của chánh sách quốc gia và đồng thời tiếp tục phát triển và củng cố Ấp Chiến Lược. Nhóm Trung Tá Thảo chủ trương phải giữ Tổng Thống Diệm làm một cái thế tinh thần và tiêu biểu cho quyền lực quốc gia. Ông Nhu tạm lánh mặt ra ngoại quốc để giảm áp lực của Mỹ và đồng thời hòa giải với Phật Giáo cùng với nhóm chống đối… Với một chủ trương như vậy, sự hiện diện của Tổng Thống Diệm là một điều tối cần cho nhóm ông Thảo nhưng Tổng Thống Diệm và ông Nhu đã ra đi mất rồi.
Trong Nhật Ký Đỗ Thọ, người tùy viên trẻ tuổi trung tín ấy đã ghi lại buổi bình minh cuối cùng của anh em Tổng Thống Diệm như sau:
“Trong nhà thờ đèn nến đã sáng trưng. Có lẽ buổi lễ đầu sắp sửa đến, Tổng Thống Diệm và ông Nhu quỳ xuống ở hàng ghế đầu. Tôi đứng ở đằng sau lưng thường tình của một sĩ quan tùy viên trong các lễ Thiên Chúa Giáo mà Tổng Thống tham dự.
Tôi nghe được tiếng cầu kinh của Tổng Thống và ông Ngô Đình Nhu họp lại. Nếu tôi không lầm thì Tổng Thống và ông Ngô Đình Nhu khởi đầu kinh xưng tội. Như đã viết, tôi là Phật Tử nên không thông thạo về các kinh và lễ của Thiên Chúa Giáo.
Tổng Thống và ông Ngô Đình Nhu lễ sáng khoảng ngoài 15 phút có lẽ đây là buổi lễ sáng lâu nhất của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đối với thường nhật ở Dinh Gia Long. Và đây cũng là buổi lễ bất ngờ với ông Ngô Đình Nhu trừ những ngày chủ nhật.
Khi Tổng Thống Diệm đứng dậy, ông Nhu uể oải đứng dậy theo. Lúc bấy giờ ngoài đường đã có tiếng động của khu vực buôn bán này.
Người đi lễ nhà thờ đã đến, tôi thấy vài người đi vào sân, có lẽ nhiều hơn nữa nhưng vì cánh cửa khép hờ nên tôi không trông được bao quát.
Ông Nhu tiến vào sát ông Tổng Thống Diệm rồi nói: “mình vào gặp Cha một xíu”, không đợi Tổng Thống Diệm trả lời, ông Ngô Đình Nhu đã bước về phía bàn thờ lễ, Tổng Thống Diệm và tôi chậm rãi đi theo.
Khi vào gặp vị lãnh đạo tinh thần tôi đứng phía ngoài nên nghe được câu mất câu còn. Không biết Tổng Thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu nói những gì. Tôi được nghe giọng nói của vị lãnh đạo tình thần, đại khái là khuyên Tổng Thống lưu lại ngôi nhà thờ này. An ninh bí mật hoàn toàn bảo đảm.
Cả ba người nói chuyện khá lâu và có lẽ buổi lễ sớm bắt đầu nên vị lãnh đạo tinh thần đi ra để chủ lễ. Tổng Thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu đi theo và cũng xem lễ thêm.
Trong nhà thờ đã có một số người dự lễ. Phần nhiều là những người già cả, người Hoa Kiều. Tôi đoán chắc rằng họ không để ý đến Tổng Thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu. Vì họ không thể ngờ được Tổng Thống lánh nạn đến đây.
Nếu hôm đó tôi mặc quần áo nhà binh, thì người ta có thể ước đoán. Tuy nhiên tôi bắt gặp được bộ mặt của người đàn ông đang ngồi về phía góc trái của nhà thờ. Ông ta không già lắm. Người đàn ông này chăm chú nhìn về phía Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Có lẽ người này ngờ ngợ tự hỏi: “Đó có phải là Tổng Thống Ngô Đình Diệm không?” và người đàn ông này tôi bắt gặp khi ông ta đang đứng nhìn Tổng Thống Diệm sửa soạn lên M113.
Theo tôi nghĩ thì buổi lễ hôm nay có vẻ rút ngắn, vị lãnh đạo tình thần trông có vẻ hấp tấp, lo lắng. Vì ông ta đang đứng trước cảnh biến động của Tổng Thống trốn chạy. Vả lại vị Tổng Thống đó còn là một người Thiên Chúa Giáo, một con chiên ngoan đạo.
Buổi lễ sáng chấm dứt bình thản. Tôi đã nghe tiếng thì thầm của một đám người đi lễ. Họ dừng lại ở cánh cửa chính nhìn Tổng Thống Diệm và ông Nhu lẫn tôi đang đứng trước mặt Cha Xứ. Trong những người này có cả người đàn ông mà tôi đã nói trên.
Tôi viết như vậy để nói lên rằng một số con chiên ở xứ đạo cha Tam đã nhận diện được Tổng Thống Diệm, một điều bất ngờ ngạc nhiên nhất.
Tổng Thống Diệm, ông Nhu và tôi theo chân Cha Xứ vào bên trong. Tổng Thống nói với Cha Xứ là đến đây quá đường đột phiền cha. Nhưng sẽ đi nữa, chứ không lưu lại làm liên lụy, khổ sở cho nhà thờ, Cha Xứ trả lời là Tổng Thống đừng nghĩ điều đó. Nhà thờ là nước Chúa ai đến cũng được đâu phải riêng cho Tổng Thống. Tổng Thống và ông Cố Vấn yên tâm ở lại đây, ra đi lắm phần nguy hiểm.
Ông Nhu ngồi yên lặng thật lâu rồi nói:
- Thưa Cha! Tổng Thống nói vậy nhưng chúng con không đi đâu nữa. Dầu sao cũng liên lạc với các Tướng Lãnh để bàn việc ra đi của Tổng Thống cho đúng nghi lễ quốc gia.
Sau lời nói của ông Nhu, tôi nghĩ ngay đến cuộc dàn xếp giữa Tổng Thống Diệm và Hội Đồng Tướng Lãnh sẽ xảy ra.
Nhưng hiện nay Tổng Thống Diệm ở trong thế yếu chắc rằng tướng lãnh sẽ ép Tổng Thống nhiều điều kiện.
Sau vài tách trà ở nhà xứ. Bên ngoài trời sáng tỏ. Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu quyết định liên lạc với Hội Đồng Tướng Lãnh tại Tổng Tham Mưu. Tổng Thống Diệm ra lệnh cho tôi lấy điện thoại nhà xứ gọi về Tổng Tham Mưu và cố gắng gặp cho được Tướng Trần Thiện Khiêm.
Tôi cầm điện thoại gọi ngay về bộ Tổng tham Mưu. Bên kia đầu giây xưng danh Đại Tá Đỗ Mậu. Tôi nói ngay: “Thọ đây thưa chú“. Đại Tá Đỗ Mậu hỏi: “Chú mày ở đâu đó, ông Cụ đi đâu rồi?” Tôi đáp lại: “Tổng Thống muốn nói chuyện với Tướng Lãnh”. Đại Tá Đỗ Mậu trả lời: “Các Tướng chưa ai đến , chỉ có Tướng Khiêm túc trực ở đây. Chú mày muốn nói gì thỉ nói”
Tôi đợi trong nháy mắt thì nghe tiếng của Tướng Trần Thiện Khiêm.
Tôi trình bày ngay là tôi được lệnh Tổng Thống liên lạc với Hội Đồng Tướng Lãnh và hiện Tổng Thống đang ở nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn. Hội Đồng Tướng Lãnh cử đại diện đem xe đến rước Tổng Thống về Bộ Tổng Tham Mưu.
Tướng Trần Thiện Khiêm đáp: “Được rồi, qua sẽ trình lên Trung Tướng Chủ tịch. Nói với Tổng Thống yên tâm sẽ có Tướng Lãnh xuống”.
Tôi gác ống nói trình lại với Tổng Thống Ngô Đình Diệm là đã nói chuyện với Tướng khiêm và ông ta sẽ cho đại diện xuống đây.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu cùng Cha Xứ yên lặng không còn ai muốn nói gì cả. Và giờ phút đợi chờ bắt đầu.
Từ giờ phút đó một âm thanh động cơ nào chuyển động bên ngoài cũng khuấy động tình thần tôi (trích nhật ký Đỗ Thọ tr. 260-265 Hòa Bình xuất bản 1970).
Sau này Linh Mục Jean đã tiết lộ, Linh Mục tìm mọi cách thuyết phục anh em Tổng Thống Diệm không nên gặp các tướng lãnh nhưng Tổng Thống Diệm nhất định từ chối.
Linh Mục Jean: Tổng Thống và ông Cố Vấn không nên e ngại, tôi sẽ làm tất cả khả năng của tôi. Tổng Thống và ông Cố Vấn ra đi lúc này vô cùng nguy hiểm.
Tổng Thống Diệm: Cảm ơn Cha, tôi thấy không có gì nguy hiểm cả. Cá nhân tôi, tôi dâng trọn cho ý Chúa và Mẹ Maria nhưng tôi vẫn cón là nguyên thủ quốc gia, tôi còn trách nhiệm với dân.
Linh Mục Jean: Xin Tổng Thống và ông Cố Vấn nghĩ lại. Chính tôi sẽ đưa Tổng Thống và ông Cố Vấn đến một nơi an toàn nhất.
Linh Mục Jean có đề nghị Tổng Tống Diệm và ông Cố Vấn Nhu nếu không muốn tỵ nạn trong tu viện hoặc trong nhà thờ thì Cha Jean sẽ tìm cách tốt nhất để đưa hai ông đến tỵ nạn tại tòa Đại Sứ Pháp hoặc Đại Sứ Trung Hoa.
Tổng Thống Diệm từ chối lần cuối cùng. “Xin cảm ơn Cha, tôi không có tội gì với quốc dân và quốc gia này, tôi không thấy có lý do gì phải lẩn tránh!”.
Trong khi đó, tại Bộ Tổng Tham Mưu, khi nhận được tin anh em Tổng Thống Diệm đang ở nhà thờ Cha Tam thì nhóm Tướng Đôn hết sức vui mừng nhưng cũng vô cùng lo ngại. Phải làm thế nào bây giờ?
NHỔ CỎ NHỔ TẬN GỐC
Thiếu Tướng Đỗ Mậu cho biết là quyết định thanh toán anh em Tổng Thống Diệm không phải do toàn thể Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng và riêng Tướng Mậu cũng như Tướng Đôn, Tướng Khiêm chỉ tán đồng giải pháp đẹp nhất là đưa hai ông ra ngoại quốc. Riêng Tướng Đôn đã cho sửa soạn căn phòng cạnh văn phòng TTM Trưởng để hai ông tạm nghỉ. Tuy nhiên, ngay từ sáng 1-11, Hội Đồng này đã phân hóa và nghi ngờ lẫn nhau,vì không thể biết ai thực tâm với ai. Tuy nhiên, có bốn Tướng Lãnh tạm đoàn kết với nhau hơn ai cả, đó là các Tướng Minh, Xuân, Kim, Đôn. Tướng Đính còn bị “chôn chân” tại trại Lê Văn Duyệt, để điều động các cuộc hành quân. Tuy nhiên không có sự hiện diện của Tướng Đính ở Bộ Tổng Tham Mưu quả là một điều rất hay cho cho phe đảo chánh, vì Tướng Đính vốn ăn nói bạt mạng, một thứ Wantard incorrigible (theo từ ngữ của Chaffard express số 909). Chính điều này đã làm cho Tướng Lãnh “ngán” ông Đính. Cho nên, Tướng Đính đã không được mời tham dự vào cuộc biểu quyết về số phận của anh em Tổng Thống Diệm. Nói là cuộc biểu quyết thì không đúng, đây chỉ là những ý kiến “rỉ rả” không một tướng lãnh nào dám công khai đưa ra đề nghị.
Trước hết, Thiếu Tướng Lễ cho rằng đã “nhổ cỏ thì nhổ tận gốc“. Ông còn kề cà dẫn chứng một số thí dụ trong truyện Tàu. Ý kiến trên được Tướng Xuân tán đồng.
Tướng Kim dè dặt mặc dầu ông là một tướng lãnh bị chế độ Ngô Đình Diệm “bỏ quên” trong 9 năm. Các tướng lãnh khác không công khai tỏ rõ thái độ. Tướng Dương Văn Minh vẫn im lặng một cách khó hiểu. Sau một hồi bàn rỉ rả và cuộc đối thọai của Tướng Lễ, Tướng Xuân, Tướng Dương Văn Minh…”tiêu lệnh” nhổ cỏ nhổ tận gốc đã được quyết định với đa số 7/9 (2/9 không tán thành là lá phiếu của 2 Tướng Đỗ Mậu và Tướng Trần Thiện Khiêm? Và đây cũng chỉ là thứ phiếu “tùy hứng” mà thôi). Một quyết định hết sức mơ hồ cho nên chính người đồng ý giải pháp này cũng không hiểu sẽ được thi hành như thế nào? Sẽ bắt ông Nhu ông Diệm rồi đem ra xử tòa hay đưa ra ngoại quốc? Song không ai nói lên thắc mắc của mình cả. Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng vẫn bao trùm không khí nghi kỵ và đề phòng lẫn nhau. Vị tướng lãnh kể trên cho biết rằng kể cả Tướng Minh với tư cách chủ tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, vẫn không dám đơn phương quyết định hoặc thi hành quyết định của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng mặc dù với tư thế của ông, ông hoàn toàn có quyền quyết định. Song, Tướng Minh đã không thực thi quyền hành tối thượng đó có thể nói việc gì ông cũng phải tham khảo ý kiến với Đại Sứ Mỹ. Nếu ông Lodge quyết tâm bảo vệ sinh mạng cho anh em Tổng Thống Diệm thì sự việc đã khác. Thái độ của ông Lodge lúc đó rất lờ mờ với luận cứ “không can thiệp đến nội bộ Việt Nam” (?) Thái độ của ông Lodge trái hẳn với thái độ của Tướng Harkins. Ngay từ khi ông Lodge nhậm chức tại Việt Nam, mối bất hòa giữa Lodge, Harkins càng ngày càng rõ rệt. Harkins có cảm tình với ông Nhu hơn là Tổng Thống Diệm, Tướng Harkins đã dùng uy tín của mình đối với Tướng Đôn để làm cách nào phe tướng lãnh bảo vệ tính mạng cho anh em Tổng Thống Diệm.
Đại sứ Lodge không tỏ thái độ rõ rệt. Tướng Minh thì im lặng một cách khó hiểu trong khi đó một số tướng lãnh khác lại chủ trương “thanh toán” ngay anh em ông Diệm và sẽ coi như một “việc đã rồi” đối với người Mỹ đồng thời đối với quốc dân sẽ tìm cách ngụy tạo dư luận. Mọi việc đâu cũng sẽ về đấy miễn sao anh em ông Diệm phải “vắng mặt” vĩnh viễn. Mấy tướng lãnh này đã quan niệm đơn giản như vậy. Kể từ sáng 2-11 phe đảo chánh coi như đã làm chủ tình hình tại thủ đô và trên toàn quốc. Sự phân hóa lại càng trở nên rõ rệt giữa nhiều phe nhóm: Phe mạnh với mặc cảm tự tôn cho rằng mình là thành phần chủ chốt, có công đối với cách mạng. Phe này gồm Tướng Đôn, Minh, Xuân,Kim, Đính. Phe “yếu” với mặc cảm chạy theo vào phút chót nên hoàn toàn thu động và chờ đợi ân huệ của cách mạng. Phe ôn hòa gồm Tướng Khiêm và Tướng Mậu.
Tất nhiên là phe mạnh đã hoàn toàn khuynh loát, nhiều quyết định mật của phe này mà phe kia không được biết.
Cho nên quyết định “diệt thảo trù căn” tuy có đặt thành vấn đề thảo luận chung, nhưng cũng chỉ là để thảo luận mà thôi. Quyết định tối hậu vẫn do nơi Tướng Dương Văn Minh. Người có nhiều ảnh hưởng Tướng Minh về chính trị và giao tế là Tướng Kim. Người được Tướng Minh tin cậy về mưu kế và phép thuật đối nội là Tướng Xuân. Nếu Tướng Đính hăng say thì sự hăng say đó cũng chỉ có tính cách trình diễn với ảo tưởng anh hùng lãng mạn nào đó. Nhưng sự hăng say của Tướng Xuân kể từ sáng 2-11 có tính cách đe dọa, vì ông muốn tỏ cho mọi người biết là ông quyết liệt và có thể ra tay làm được tất cả đồng thời ông muốn có dịp cho mọi người thấy biện pháp cực mạnh ấy sẽ như một lời cảnh cáo quyết liệt nhất để hiểu rằng “đừng có ai cựa quậy” Có thể đó cũng là lý do khiến Tướng Xuân tự nguyện đến nhà thờ Cha Tam đón anh em Tổng Thống Diệm?
“JE RESTE NEUTRE”
Cùng đi với ông Xuân, như trên đã viết, có Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Đại Úy Nguyễn Văn Nhung (sĩ quan tổng quát và tuỳ viên của Tướng Dương văn Minh từ năm 1955), Đại Úy Phan Hòa Hiệp, Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa.
Xét về khía cạnh “bất mãn” đối với chế độ của Tổng Thống Diệm, thì Tướng Minh không có gì gọi là “bất mãn“… Nhưng sau cuộc đảo chánh hụt 11-11-1960, Tướng Minh không còn được chế độ này tín nhiệm như xưa. Có lẽ bắt nguồn từ thái độ của ông đối với cuộc đảo chánh đó khi ông tuyên bố với báo chí ngoại quốc “JE RESTE NEUTRE” (Tôi trung lập. Báo J.E.O ngày 13-11-1960). Cho dù vậy, hành động của Tướng Minh đối với anh em Tổng Thống Diệm quả là khó hiểu. Nhưng Tướng Xuân thì sự bất mãn có vẻ sâu xa hơn ai cả, kể từ khi ông mất chức Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội. Ông Xuân vẫn cho rằng mình có công với chế độ trong vụ đánh dẹp Bình Xuyên, và chiến dịch bình định tại Miền Đông Nam Phần. Tuy không xuất thân từ một trường võ bị nào, ông Xuân chỉ là một công thức cao cấp trong ngành mật thám liên bang (Sécurité fédérale) sau được đồng hóa vào ngành ANQĐ với cấp bậc Đại Tá. Tuy nhiên khi mất chức Giám Đốc, ông vẫn được Tổng Thống Diệm cho giữ chức Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung cho đến ngày đảo chánh. Trong ngành Cảnh Sát, tướng Xuân vẫn còn một số cộng sự viên cũ, thuộc giới già phục vụ trong ngành Mật Thám Liên Bang rất lâu năm. Còn một vài lý do “tế nhị” khác đã khiến Tướng Xuân hăng hái nhất trong việc tình nguyện đi đón anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm, mặc dầu trên nguyên tắc HĐQNCM không chính thức chỉ định tướng Xuân đi đón anh em Tổng Thống Diệm, chỉ có Đại Úy Nhung được chỉ định đi theo với tư cách “đặc phái viên” của riêng Tướng Chủ Tịch HĐQNCM.
Khi vào nhà thờ anh em ông Diệm vẫn tỏ ra bình thản. Ông Nhu vẫn tiếp tục hút thuốc nhả khói.
TRƯỚC GIỜ LÂM CHUNG
Trong nhà thờ này, từ hàng ghế trên cùng, gần Cung Thánh, Tổng Thống Diệm và bào đệ của ông đã đọc kinh ăn năn tội trước Đấng Thượng Đế mà riêng ông Diệm, đức tin nơi Thượng Đế đã như sắt thép. Tổng Thống Diệm và bào đệ đã xưng tội. Đối với đời sống tôn giáo như Thiên Chúa Giáo thì hai anh em ông Diệm đã làm tròn phép đạo trước khi lìa trần.
Nhà Thờ Cha Tam vẫn lặng lẽ, tiêu sơ. Nếu không có những tình cờ lịch sử đã đưa anh em Tổng Thống Diệm đến đây thì ngôi Thánh Đường này cũng như trăm ngàn ngôi Thánh Đường khác ở vào những nơi yên tĩnh bao giờ cũng trầm lặng, thanh khí. Rồi bỗng có một loạt súng nổ từ phía ngoài (lời thuật của ông già Hoa Kiều). Cho đến lúc này, ông ta vẫn có mặt trong Thánh đường, ở vào hàng ghế ngoài, phía bên trái, cuối cùng ông nghe tiếng xe tăng, tiếng người nói lao xao.
Chiếc xe tăng cồng kềnh (tức chiếc M113) đã thực sự tiến vào nhà thờ, rú lên những âm thanh ghê rợn. Rồi hai ba chiếc khác tiếp theo (tức là những chiếc Jeep) và còn một vài chiếc khác đậu ở phía bên ngoài đường, họng súng chĩa vào phía trong như sẵn sàng nhả đạn.
Có thể nói, cho đến lúc này, anh em Tổng Thống Diệm vẫn bình thản đọc kinh, ông Nhu quay ra nhìn và đứng lên trước Tổng Thống. Trái lại, ông Diệm vẫn thản nhiên đọc cho hết kinh. Lúc bấy giờ từ ngoài một viên sĩ quan khác mở rộng cánh cửa chính, hai bên hông nhà thờ đều có sĩ quan đứng rải rác, tay cầm súng như sẵn sàng nhả đạn.
Đại Tá Lắm tiến vào phía Cung Thánh, và gặp anh em Tổng Thống Diệm đi ra. Ông giơ tay chào theo lối nhà binh, và nhường bước để anh em Tổng Thống Diệm đi ra trước. Khi đến thềm, anh em mới đứng lại quay sang trò chuyện với Đại Tá Lắm, ông Nhu thản nhiên châm thuốc. “Hình ảnh lúc ấy tôi khó có thể quên được trong đời tôi” (lời cha Jean) ông Nhu bước xuống thềm theo sau Tổng Thống. Lúc ấy tùy viên đi sát Tổng Thống Diệm, tay xách chiếc cặp da đen lớn. Sau thì chiếc cặp da này được trao cho một sĩ quan cấp tá và ông này chuyển cho Tướng Xuân. Một lát sau Tổng Thống Diệm được nghe Đại Tá Lắm trình bày quyết định của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng lên Tổng Thống. Ông Diệm chỉ gật đầu rồi quay sang hỏi ý ông Nhu. Ông Nhu đáp lại bằng mấy câu tiếng Pháp ngắn ngủi.
Ông Nhu tỏ vẻ bực tức, nóng giận phản đối cách thức đi đón Tổng Thống của phe đảo chánh. Ông Nhu nhấn mạnh rằng “Tổng Thống là Tổng Thống của nhân dân chứ có phải là tù binh đâu tại sao các anh lại đưa xe bọc sắt đến đón Tổng Thống như thế này”.
Trong giờ phút đó, Đại Tá Dương Ngọc Lắm vẫn giữ cử chỉ và ngôn ngữ cung kính đối với một vị Tổng Thống quyền uy đang thất thế. Ông Nhu lầm bầm tức giận. Mặt Tổng Thống Diệm đỏ gay. Tổng Thống Diệm bảo Đại Tá Lắm: “Đại Tá đưa tôi và ông Cố Vấn về qua Dinh Gia Long rồi hãy lên Tổng Tham Mưu”.
Ước vọng cuối cùng của Tổng Thống Diệm là trở lại Dinh Gia Long lần cuối. Lúc ấy 8g30. Dinh Gia Long tràn ngập dân chúng già trẻ trai gái đủ loại. Phòng khách danh dự của vị Nguyên Thủ Quốc Gia trở thành chốn vui chơi của từng đoàn thành niên nam nữ. Phòng ngủ của vị Tổng Thống trơ trọi một chiếc divan gỗ, bộ salon cũ nhưng lại trở thành nơi thu hút bao nhiêu khách hiếu kỳ. Những bức tranh vô giá, quà của quốc gia bạn tặng quốc gia Việt Nam phút chốc tiêu tan… những bảo vật quí giá nhất lưu giữ từ thời Quốc Trưởng Bảo Đại bỗng dưng một phút không cánh mà bay. Dinh Gia Long một phút trở thành chốn vô chủ bệ rạc, hoang tàn… Cũng từ phút đó, nơi tiêu biểu cho quốc gia này lại là văn phòng của Tướng Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đặt tại Bộ Tổng Tham Mưu.
Ước vọng cuối cùng của Tổng Thống Diệm đã bị khước từ. Đại Tá Lắm nói với Tướng Mai Hữu Xuân, đại cương ông Cụ muốn cuộc hành trình qua Dinh Gia Long, ông Cụ đang muốn tìm một tài liệu gì đó. Tướng Xuân cho biết, dân chúng đang đổ xô ra đường, Dinh Gia Long bị tràn ngập cho nên vì an ninh lộ trình nên không chiều theo ý Tổng Thống Diệm được.
Đại Tá Lắm thưa lại như vậy, Tổng Thống Diệm cúi đầu, mắt long lanh. Thiếu Tướng Xuân giục giã:
- Bây giờ xin mời Cụ và ông Cố Vấn lên xe cho.
Ông Cố Vấn Nhu cương quyết: “Thiếu Tướng nên biết cho đến giờ này Tổng Thống vẫn còn là Tổng Thống và tôi là Cố Vấn của Tổng Thống, không có lý do gì các anh lại đi đón Tổng Thống bằng xe bọc sắt như vậy“.
Thiếu Tướng Xuân quay lưng bước đi không nói một cậu hai sĩ quan nhảy lại đẩy Tổng Thống Diệm về phía chiếc xe M113. Ông Cố Vấn Nhu trợn mắt cầm điều thuốc hút dang dở ném thẳng vào mặt viên Đại Úy hung tợn này rồi ông nhảy lại xô viên Đại Úy khác, ông Nhu nặng lời la mắng hai viên sĩ quan có cử chỉ vô lễ với Tổng Thống. Một viên Đại Úy rút khẩu rouleau chỉa thẳng về phía ông Nhu. Tổng Thống Diệm mím môi quắc mắt. Viên sĩ quan vội cho súng vào bao rồi quay lưng đi.
Nhật báo Công Luận do Tướng Tôn Thất Đính làm chủ nhiệm qua loạt bài “Cái chết của Diệm Nhu” số 875 ra ngày 18-11-1970 đã viết lại như sau:
“Tổng Thống Diệm quắc mắt nhìn thẳng vào mặt viên sĩ quan này. Bắt gặp nhãn tuyến dữ tợn của một vị Tổng Thống từng được 9 năm suy tôn, tự nhiên sĩ quan thấy mình thiếu mất một phần can đảm, tay súng buông thòng xuống, khẩu rouleau được đút lại vào bao da
Một số chiến sĩ thiết giáp thấy ông Diệm, ông Nhu dằng co với hai viên sĩ quan vội nhảy ra khỏi xe và tiến lên bực thềm nhà thờ với những khẩu Carbine đã lên đạn mũi súng chĩa thẳng về hai ông Diệm, Nhu.
Tùy viên Đỗ Thọ toan nhảy tới trước đám quân thiết giáp này, ông muốn làm một hành động, nhưng rồi ông chùn bước. Đỗ Thọ biết rằng trong khung cảnh đằng đằng sát khí này, bất cứ một hành động chống đối nhỏ nhoi nào của ông cũng đều có thể mất mạng như chơi. Ông Diệm ông Nhu uy quyền như vậy mà chịu bất lực thì ông làm sao mà chống chỏi được.
Sau khi trả lại khẩu rouleau ngắn này vào bao da, viên sĩ quan toan bắn ông Nhu nhìn ông Diệm gằn giọng:
- Chúng tôi mời quí vị lên xe. Giờ này, nơi đây không còn ai là Tổng Thống ai là Cố Vấn nữa. Nếu quí vị từ chối, chúng tôi buộc lòng phải áp dụng biện pháp cứng rắn.
Nói xong viên sĩ quan này đẩy nhẹ ông Diệm xuống sân nhà thờ. Ông Nhu bây giờ lại có vẻ quyết liệt, ông xô viên sĩ quan ra và quát:
- Không được vô lễ với Tổng Thống.
Biết tình thế không thể thay đổi được, ông Diệm nắm lấy vai áo ông Nhu:
- Thôi chú! Mình đi hè!
Ông chưa nói hết câu thì viên sĩ quan thứ hai đã đầy mạnh ông Nhu xuống trước. Tổng Thống Diệm bước theo, tùy viên Đỗ Thọ và Cha Xứ đi theo hai người.
Cửa chiếc xe Thiết vận xa M113 được mở ra, bên trong nồi chảo, hành lý cá nhân của các chiến sĩ thiết giáp ngổn ngang. Khung cảnh chẳng có vẻ gì đã được thu dọn để đón môt vị Tổng Thống. Rõ ràng đây là một cuộc “áp giải” một cách đột ngột thiếu chuẩn bị.
Ông Diệm ông Nhu chùn bước. Cả hai đều hiểu rằng với một sự đón rước cứng rắn như vậy, hy vọng hai ông được đưa ra ngoại quốc hết sức mong manh.
Đối với các tướng lãnh, uy quyền của hai ông chắc cũng đã hết. Hiểu như vậy thì quá muộn. Trên mặt thềm của ngôi nhà thờ buồn tẻ này người ta thấy khuôn mặt của tuỳ viên Đỗ Thọ rất thảm thương. Có lẽ ông đã hình dung được số phận sẽ được dành cho hai ông Diệm Nhu. Trong giờ phút nặng nề này, chỉ có ông Diệm là còn giữ được sự bình tĩnh cần thiết, nên không một phản ứng nào mặc cho số phận đưa đẩy.
Còn ông Nhu trông gương mặt hốc hác tiều tụy của một đêm thức trắng, đôi mắt ông long lên cơn giận như bốc lửa khi thấy đám đông dân chúng đằng xa chỉ trỏ về phía mình như một con hổ sa cơ, ông muốn trút sự nóng giận cho bất cứ một người nào, nhưng cuối cùng ông dằn được”.
BƯỚC CHÂN CUỐI CÙNG
Khi ấy chiếc M113 đã nổ máy quay đầu ra phía cổng.
Thiếu Tá Nghĩa thì chạy lăng xăng. Đại Úy Nhung hai tay chống nạnh, mặt mày rất hung dữ, và thốt ra nhiều lời lỗ mãng, tục tằn. Một sĩ quan khác cũng có mặt tại đây, và ông Nhu đã từng biết mặt. viên sĩ quan này là Đại Úy Hiệp. Đại Úy Hiệp cũng như Nhung thốt ra những lời lỗ mãng nặng nề. Tổng Thống Diệm vẫn làm ngơ, song ông Nhu quay lại quắc mắt mắng Hiệp: “Không được ăn nói cư xử như vậy với Tổng Thống“.
Như cố ý lánh mặt, Tướng Xuân vẫn ngồi ngoài xe đậu phía bên kia đường. Thiếu Tá Nghĩa đã hộ tống anh em Tổng Thống Diệm đến tận chiếc M113. Ông Nhu vẫn dằng co, “các anh để Tổng Thống đi xe nào? Sao lại đi xe này? Sao lại thế này?” Một đại úy đã xô ông Nhu vào phía cửa sau.
Ông Nhu lảo đảo rồi đứng khựng lại. Ông lớn tiếng nặng lời với mấy sĩ quan đứng cạnh ông và Tổng Thống Diệm. Theo ông già Khá, Tổng Thống Diệm vẫn có vẻ từ tốn.
Trong nhật ký Đỗ Thọ có ghi lại như sau:
“Họ đẩy mạnh ông Nhu xuống sân nhà thờ. Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tôi và cha Jean theo sau. Trong khi đó trục máy của chiếc M113 buông thả cửa xe. Lính đảo chánh áp dụng cứng rắn đẩy ông Nhu lên xe, ông Nhu cự nự quay lại nửa người và đưa Tổng Thống Diệm lên trước. Tôi chạy đến đưa chiếc cặp da, chiếc ba-toong cho Tổng Thống. Nhưng Đại Úy Nhung đã giật lấy những món này. Đồng thời họ không cho tôi được phép đến gần Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tôi đứng lại nhìn, cửa sau chiếc M113 đóng lại. Tôi không thể ngờ đó là nơi an nghỉ của Tổng Thống Diệm trong quan tài bọc sắt. Tôi lên GMC về Tổng Tham Mưu” (Nhật Ký Đỗ Thọ trang 267)
Trên lộ trình về Bộ Tổng Tham Mưu đột nhiên đến cổng xe lửa đường Hồng Thập Tự thì đoàn công voa dừng lại. Báo Công Luận số ra 882 ngày 26-11-1970 đã ghi lại:
“Giờ phút kết liễu cuộc đời của hai ông Nhu Diệm xảy ra lúc đoàn “công voa” về tới cổng xe lửa đường Hồng Thập Tự. Đoàn công voa vừa tiến đến đây thì gặp có một chiếc xe lửa chạy qua nên phải ngừng lại.
Đại Tá Lắm ngồi với Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân trong một chiếc xe jeep chạy giữa đoàn, thấy đoàn xe bất thần dừng lại, ông không biết chuyện gì nên đã thét vào máy truyền tin:
- Ai cho lịnh các anh ngừng lại?
Tiếng quân nhân trên thiết giáp đi đầu trả lời:
- Thưa Đại Tá, kẹt xe lửa. Có một chuyến xe lửa sắp chạy qua, cổng rào đã đã kéo xuống.
Đại Tá Lắm “à” một tiếng; rồi tiếp tục nói chuyện với Thiếu Tướng Xuân. Chừng vài phút sau, giữa tiếng chuyển động ầm ầm của chuyến xe lửa chạy qua, ông nghe mơ hồ có nhiều tiếng súng nổ, nhưng hỏi phía trước không có một báo cáo nào cho ông biết có chuyện gì bất ngờ xảy ra.
Những tiếng súng khô khan chen lẫn tiếng động cơ ầm ỹ của chuyến xe lửa đi qua, đó là tiếng súng của Đại Úy Nhung. Trong không khí nặng nề của đoàn công voa rước ông Diệm ông Nhu từ nhà thờ Cha Tam về Bộ Tổng Tham Mưu, thừa cơ hội chiếc xe thiết vận xa, chở ông Diệm ông Nhu ngừng lại, Đại Úy Nhung đã bất thần từ chiếc xe jeep đi kèm nhảy qua chiếc thiết vận xa. Khẩu rouleau ngắn nòng được rút ra khỏi vỏ và ông đã nhả đạn, sau đó dùng dao kết liễu đời hai ông Diệm, Nhu.
Hai nhân vật đầu não của chế độ nằm xuống. Vĩnh viễn nằm xuống, không một phản ứng nhỏ nhoi nào. Cái chết này rất ít người được biết rõ ràng và chứng kiến.
Chính Đại Tá Lắm, người chỉ huy trực tiếp đoàn “công voa” lúc bấy giờ cũng không hay biết. Sau này, Đại Tá Lắm đã có lần nói với chúng tôi là ông không thể ngờ một việc như vậy xảy ra.
Sau khi chuyến xe lửa đã đi qua, đoàn công voa tiếp tục cuộc hành trình. Đại Tá Lắm lúc đó vẫn tin tưởng mọi việc đều bình thường, là không có một điều gì xảy ra. Cho đến khi đoàn xe về tới Bộ Tổng Tham Mưu. Chiếc thiết vận xa M113 chở Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu đột nhiên tách rời khỏi đoàn và chạy qua sân vận động Quân Đội “.
“C’EST COMME CA”
Đoàn xe dừng lại tại sân cờ, Đại Úy Nhung từ trên M113 lẹ chân nhảy xuống trước. Lúc ấy Trung Tướng Chủ Tịch HĐQNCM đang đứng trên bao lơn. Nhung chạy theo sau Thiếu Tướng Xuân tiến lên thềm tam cấp của Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Minh từ trên giơ cao hai tay, cử chỉ giống như Tướng De Gaulle giơ tay lên cao biểu lộ sự chiến thắng để chào mừng quốc dân. Khi Đại Úy Nhung cùng Tướng Xuân bước lên thềm Bộ Tổng Tham Mưu, một tướng lãnh trông thấy tay áo của Nhung dính đầy máu. Ông hất hàm hỏi Tướng Xuân “sao vậy” thì Tướng Xuân khẽ nhún vai chỉ đáp gọn: “C’EST COMME CA” rồi ông và Nhung lên thẳng lầu để gặp Tướng Minh báo cáo các công tác mà họ vừa hoàn thành. Mấy tướng thở dài, quay lưng đi thẳng lên lầu. Một vài tướng khác và mấy đại tá kéo nhau xuống phía sân để coi tử thi. Khi đến nơi, mấy ông đứng khựng lại, rồi ở thế “nghiêm” giơ tay chào từ biệt anh em Tổng Thống Diệm. Thiếu Tướng Đỗ Mậu vùng vằng nói lớn “các anh phải chịu trách nhiệm trước lịch sử”. Tướng Dương Văn Minh lạnh lùng nhún vai không nói một câu. Tướng Khiêm sa sầm nét mặt, hiện rõ sự đau thương. Một tướng lãnh khác vào phòng của Tổng Tham Mưu rủ Đại Tá Lu Conein ra coi xác chết của hai anh em “Nhu Diệm”. Lu Conein lắc đầu: “Tôi nói ra sao được người ta sẽ có lý do cho rằng người Mỹ có dính dáng vô“.
Xác của anh em Tổng Thống Diệm được khiêng xuống đặt trên đất của sân cờ. Hai anh em ông Diệm nằm chỏng chơ như vậy. Miếng ông Nhu há hốc, mắt nhắm, máu ở miệng trào ra hai bên mép và ở cổ, máu đã trở thành đen. Trời hôm ấy không nắng lắm và nhiều mây, từ lúc ấy sân Bộ Tổng Tham Mưu trở nên vắng lặng không một ai được lai vãng trừ một số tướng tá và một số người có phận sự. Người Hạ Sĩ Quan trên chiếc M113 trước khi lên xe rời khỏi sân cờ, ông ta đã rút chiếc khăn “mouchoir”trong túi, phủ lên mặt Tổng Thống Diệm. Hai thi thể nằm chơ vơ như thế đã khá lâu vì HĐQNCM chưa có một quyết định nào. Từ cổng Bộ TTM đã được lệnh canh chừng nghiêm mật nhất là đề phòng các ký giả ngoại quốc.
Tuy nhiên sau đó không đầy 1 giờ ngoại giao đoàn cũng như báo chí ngoại quốc tại Saigon đều đã nhận được đầy đủ tin tức về cái chết của hai anh em ông Diệm. Ai giết? Tại sao giết?
Theo ký giả Robert Shaplen (tác giả cuốn The Lost Revolution) thì có một luận cứ tin được đó là Nhung đã ra tay hạ sát theo lệnh của Tướng Dương Văn Minh. Song rõ rệt nhất là những viên đạn đó được chế tạo tại Hoa Kỳ. Nếu Đại Úy Nhung cầm súng nảy cò thì ông ta cũng là người thi hành lệnh thượng cấp. Một đại úy như Nhung dù là Sĩ Quan tùy viên của Chủ tịch HĐQNCM ông ta cũng chưa thể “điên” đến mức độ tự mình bắn anh em Tổng Thống Diệm. Điều này thật giản dị và rõ rệt. Và những viên đạn này chỉ là kết quả của một âm mưu đã được sửa soạn từ tháng 5-1963 và tiến hành vừa tinh tế, vừa có nghệ thuật, thứ nghệ thuật đảo chánh mà Đại Sứ Cabot Lodge rất am tường – Những viên đạn kết liễu đời anh em Ông Diệm và chế độ của ông không phải chỉ là những viên đạn đồng đơn giản mang dấu hiệu USA – những viên đạn đã được đúc rất công phu từ những trục John Kennedy – Cabot Lodge, Cabot Lodge – Hilsman, CIA Smith – Cabot Lodge và cuối cùng Cabot Lodge đại diện cho những trục này để giao tiếp với một số trục bản xứ có thể mô tả: Cabot Lodge – Tướng Khiêm qua trung gian Harkins và Tướng Đôn – Harkins và Tướng Kim, Xuân, Minh – Cabot Lodge qua trung gian Smith… Cuộc đảo chánh được châm ngòi phải kể đến cái ngòi thứ nhất Đôn – Harkins. Vì Tướng Đôn với tư cách Tổng Tham Mưu Trưởng nên ông có dịp giao tiếp hàng ngày với các Tướng tá Mỹ. Một số tướng tá này trở thành trung gian giữa Cabot Lodge – Đôn và một số Tướng lãnh khác.
Đại Sứ Cabot Lodge và những người Hoa Kỳ có hay biết gì trước giải pháp “nhổ cỏ tận gốc” không?
Sự thực, từ khi tiếng súng đảo chánh bùng nổ, Đại Sứ Lodge đã túc trực tại văn phòng của ông, và theo dõi thường xuyên tin tức “cách mạng“.
Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ và các cơ sở liên hệ như USAID sẽ mở rộng cửa để đón tiếp các phần tử thuộc phe đảo chánh khi sự mưu đồ bất thành.
CHƯA PHẢI LÀ HẾT
Khi xác của hai anh em Tổng Thống Diệm nằm chơ vơ dưới sân thì các tướng trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng bắt đầu ngồi vào thảo luận. Theo Tướng Đỗ Mậu, không khí lúc ban đầu thật nặng nề, khó thở, nhiều ông Tướng chỉ cúi đầu không nói một lời. Tướng Mậu mô tả: “Tôi theo Tổng Thống Diệm từ năm 18 tuổi bao nhiêu tình cảm sâu xa giữa tình thày trò… Thấy xác hai ông tôi không còn khóc được, đau quá – đau đến cùng độ”.
Vấn đề cấp thiết lúc ấy làm thế nào biện minh về cái chết của hai anh em Tổng Thống Diệm đối với ngoại giao đoàn, dư luận., quốc tế và quốc nội. Có lẽ Tướng Dương Văn Minh cho đến lúc đó mới nghĩ đến những hậu quả mà ông không lường trước. Riêng Tướng Kim là người hiểu rõ uy tín của anh em ông Diệm trong giới ngoại giao đoàn nhất là Tòa Khâm Sứ và Đại Sứ Anh dù cách nào Đại Sứ Lodge cũng phải kiêng nể.
Tướng Khiêm cũng như Tướng Kim là người đã lượng tính trước về uy tín ảnh hưởng của Tổng Thống Diệm trong số 2 triệu tín đồ Thiên Chúa Giáo. Từ những lượng tính về hậu quả qua nhiều phía do cái chết này sẽ tạo ra và có thể lật ngược thế cờ hay nếu không thì Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cũng sẽ gặp nhiều khó khăn lớn lao. Do đó Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng hội họp trong một không khí giao động, bế tắc , đến lúc này mấy Tướng “chủ động” trong việc “thanh toán nhanh, thanh toán lẹ” mới ngỡ ngàng không thể hiểu nổi giết một vị Tổng Thống lại gặp nhiều lôi thôi, rắc rối đến như thế. Mặt khác Tướng Đính đã làm cho mấy ông trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng càng thêm bối rối giao động vì Tướng Đính “la hét chửi thề” tùm lum – Bây giờ biết làm thế nào? Đường giây điện thoại giữa Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng và Đại Sứ Lodge lại hoạt động liên miên.
Trong khi đó xác anh em Tổng Thống Diệm được dời về Bộ Chỉ Huy thiết giáp trong vòng thành Bộ TTM. Trên xe có một viên y sĩ Đại Úy thuộc bịnh xá Bộ TTM. Xác không phải chỉ có vết đạn trên đầu mà còn nhiều vết đâm trên ngực. Có lẽ vì chiếc xe Hồng Thập Tự đi lắc lư mạnh nên tôi (lời Hạ Sĩ Cam) thấy đầu của Tổng Thống Diệm nằm trên “brancard” cứ lắc lư trông dễ sợ máu đỏ tươi chảy phọt ra hai bên mép mặc dầu ông đã chết lạnh khô. Máu ở trên tóc dính bệt đổi màu và se thâm lại.
Cùng lúc đó Tướng Đính đưa ra hai điều kiện một là phải chôn cất đàng hoàng hai là phải làm thông cáo như thế nào để trấn an dư luận. Ông Đính nói: “Chết cha tôi rồi…. rồi đây phải ăn nói sao đây“.
Ngay sau khi đươc tin anh em Tổng Thống Diệm bị thảm sát, tòa Đại Sứ Pháp có thông cáo ngay cho Khâm Sứ Tòa Thánh tại Saigon (vị Khâm Sứ lúc ấy là niên trưởng ngoai giao đoàn). Một viên chức cao cấp của tòa Khâm Sứ đã điện thoại hỏi Đại Sứ Cabot Lodge. Không gặp ông. Viên tham vụ trả lời rằng Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cho biết anh em Tổng Thống Diệm đã tự sát. Viên chức tòa khâm Sứ phủ nhận ngay nguồn tin ấy vì đối với người Công Giáo đều không được phép tự sát. Vì đó là trọng tội đối với Thượng Đế và sẽ mất hết mọi ân phước. Một người Công Giáo như ông Diệm thì chuyện này không thể xày ra.
Một lát sau, viên tham vụ này gọi điện thoại cho tòa Khâm Sứ báo tin rằng ông Đại Sứ Lodge cho anh biết anh em Tổng Thống Diệm đã chết như trường hợp ngộ nạn. Một đại úy vô kỷ luật đã bắn anh em ông. Sau đó Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng ra thông cáo rẳng anh em Tổng Thống Diệm đã tự sát.
Sau đây chúng tôi ghi lại bản phúc trình của giới hữu trách Quân Đội mang tên “Sơ lược tài liệu về hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu sau khi chết ngày 1-11-1963 lúc 11 giờ 15 đến ngày an táng 8-11-1963 lúc 21 giờ” Nguyên văn:
SƠ LƯỢC TÀI LIỆU VỀ HAI ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ NGÔ ĐÌNH NHU SAU KHI CHẾT NGÀY 2-11-1962 LÚC 11 GIỜ 15 ĐẾN NGÀY AN TÁNG 8-11-1963 LÚC 21 GIỜ 00.
I – Ngày 2-11-1963 vào lúc 11g15, đoàn xe hộ tống đưa hai xác của ông NGÔ ĐÌNH DIÊM và ông NGÔ ĐÌNH NHU nằm trên hai chiếc barancard để trong chiếc xe M113 vào Bộ Tổng Tham Mưu đặt tại sân Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp Binh Trại Trần Hưng Đạo từ 11g 15 đến 17g 00. Y sĩ trưởng Bệnh xá Tổng Hành Dinh Tổng Tham Mưu đến khám nghiệm tử thi của hai ông DIỆM và NHU, và thành lập hồ sơ khai tử do Phòng Tổng Quản Trị Tổng Tham Mưu phụ trách.
Trong khoảng thời gian nói trên chờ ông bà Trần Trung Dung, cựu Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng, cư ngụ tại số 123 đường Đoàn Thị Điểm Saigon, xin xác hai ông DIỆM và NHU đưa về tư thất.
Lúc 17 giờ 30 ngày 2-11-1963 do Thiếu tá Đại Đội Trưởng Đại Đội Tổng Hành Dinh Tổng Tham Mưu, Đại Úy Đại Đội Phó và Đại Úy Y Sĩ Trưởng Bệnh Xá Tổng Hành Dinh Tổng Tham Mưu đảm nhận việc di chuyển hai xác của ông Diệm và Nhu ra bệnh viện Saint Paul bằng một chiếc xe Hồng Thập Tự (Ambulance) với hai quan tài do thiếu tá Đại Đội trưởng Đại Đội Tổng Hành Dinh Tổng Tham Mưu mua của hãng TOBIA, giao lại cho ông bà TRẦN TRUNG DUNG nhờ hãng bán hòm TOBIA lo việc liệm và an táng.
Khi tẩn liệm xong, hai quan tài để tại một phòng riêng trong nhà xác Bệnh Viện Saint Paul thì Trung Tướng Tổng Trấn Đô Thành Saigon và Ủy Viên Quân Vụ Thị Trấn Saigon theo sự yêu cầu ông bà TRẦN TRUNG DUNG, sắp đặt tổ chức việc an táng hai ông DIỆM và NHU tại nghĩa trang của người Pháp ở đường Mạc Đỉnh Chi Saigon, vào ngày 3-1-1963 khoảng 12 giờ 00 trưa, chôn tại lô đất số 3 nơi đây đã đào sẵn hai huyệt đã xây kim tĩnh.
Trong khi ông bà TRẦN TRUNG DUNG nhờ Tổng Trấn tổ chức việc mai táng thì học sinh và dân chúng Đô Thành cũng tổ chức Ban Chỉ Đạo để đến nhà xác Bệnh Viện Saint Paul hoặc đến đất Thánh ở đường Mạc Đỉnh Chi cướp hai quan tài của ông DIỆM và NHU để tế các vị Sư đã tử vì Đạo cho thỏa dạ của dân chúng và học sinh.
II – Vào khoảng 20 giờ 00 ngày 2-11-1963, theo sự yêu cầu của Ông Bà TRẦN TRUNG DUNG nhờ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng cứu nguy và cho gửi hai quan tài của hai ông DIỆM và NHU trong một bệnh viện của Quân Đội để tránh sự cướp phá nói trên.
Lúc 21 giờ ngày 2-11-1963, do lệnh Trung Tướng Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng bảo liên lạc với ông bà Trần Trung Dung lo việc di chuyển hai quan tài về để một nơi trong Bộ Tổng Tham Mưu đồng thời Trung Tướng Tổng Trấn Saigon cho lệnh hủy bỏ việc an táng hai ông DIỆM và NHU tại nghĩa trang ở đường Mạc Đỉnh Chi Saigon, mặc dầu hai huyệt đã đào và xây kim tĩnh rồi.
Lợi dụng trong giờ giới nghiệm đúng 1 giờ 30 ngày 3-11-1963, Ông Bà TRẦN TRUNG DUNG viết thư cho bà Soeur Supéireure Giám Đốc Bệnh Viện Saint Paul nhận lãnh hai quan tài giao lại cho Quân Đội chở về Bộ Tổng Tham Mưu để tại Phòng Hội Đại Đội Tổng Hành Dinh Tổng Tham Mưu, đúng 2 giờ 00 ngày 3-211-1963. Trong thời gian hai quan tài của hai ông DIỆM và NHU để tại Bộ Tổng Tham Mưu, việc canh gác đươc tổ chức cẩn mật.
Đến ngày 6-11-1963 thì bỗng nhiên quan tài của ông Nhu bị xì hơi bay mùi khó chịu.
Ngày 7-11-1963, vì nhận thấy tình trạng học sinh và dân chúng Đô Thành vẫn còn phẫn nộ không thể an táng hai ông DIỆM và NHU tại Saigon hay đưa về Huế được, phần thì một quan tài đã xì hơi hôi thúi, nên Ông bà TRẦN TRUNG DUNG gửi thư yêu cầu Trung Tướng, Quyển Tổng Tham Mưu Trưởng cho mượn một khu đất trong trại Trần Hưng Đạo Bộ Tổng Tham Mưu để tạm án táng hai quan tài của hai ông DIỆM và NHU trong một thời gian rồi sẽ đem cải táng sau (bản sao bức thư đính kèm). (1)
Tiếp theo thư yêu cầu của ông bà Trần Trung Dung đề ngày 7-11-1963, Trung Tướng Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng chỉ định khoảng đất và Ủy Ban Kiểm Soát để tạm an táng hai quan tài của ông DIỆM và NHU tại Bộ Tổng Tham Mưu, do Sự Vụ Văn Thư số 835/TTM/VP ngày 7-11-1963
III – Ngày 8-11-1963 đúng 20 giờ 00, hai quan tài của ông DIỆM và NHU do Quân nhân thuộc Đại Đội Mai Táng của Quân Vụ Thị Trấn Saigon dưới sự chỉ huy của Đại Úy Đỗ Văn Giương, Đại Đội Trưởng Đại Đội Mai Táng, được di chuyển bằng hai chiếc GMC, từ Phòng Hội Đại Đội Tổng Hành Dinh Tham Mưu đến đặt trên hai huyệt đã xây kim tĩnh sẵn tại khu lăng Võ Tánh, sau chùa Hưng Quốc Tự, phía Đông Bắc.
Khi đó có sự hiện diện của ông bà Trần Trung Dung và Linh Mục Claude Larre, Đại Diện Tòa Khâm Mạng Saigon do ông bà Trần Trung Dung mời đến hành lễ từ 20 giờ 00 đến 20 giờ 50 ngày 8-11-1963. Đúng 21 giờ 00, sau khi Linh Mục làm lễ xong, hai quan tài được hạ xuống hai huyệt đã xây kim tĩnh sẵn, với sự hiện diện của:
- Ông Bà TRẦN TRUNG DUNG
- Linh Mục CLAUDE LARRE
- Ủy Ban Kiểm Soát
- Tất cả chi tiết đều có chụp ảnh (trừ lúc chết)
IV – Huyệt
- Huyệt xây kim tĩnh gạch 1o, tô ciment, sâu 1th30, ngang 1th20, dài 2th50.
Hai huyệt nằm song song, cách nhau về bề ngang 1 thước.
- Khi hai quan tài hạ xuống hai huyệt xây kim tĩnh, đổ đầy cát, trên miệng đậy 2 tấm đanh gắn ciment kín.
Mộ
- Mộ nằm về phía Đông Bắc lăng Võ Tánh mé bên phải mộ ông Lê Văn Phong, bào đệ Tả Quân Lê Văn Duyệt.
Đầu hướng về phía Tây sau chùa Hưng Quốc Tự. Chân đưa về phía Đông, khu nhà thờ Phát Diệm.
- Hai nấm một tô đá rửa, trong lòng mộ dưới đổ cát, trên để một lớp sỏi trắng. Nền mộ cao 0 thước 40 dưới đổ đá, trên tráng ciment, chung quanh nền xây cao 1th80. Bốn góc có 4 trụ. Trước mộ có sân tráng ciment 1th50, có cửa và bậc thang vào mộ. Chu vi dài 7 thước, ngang 6 thước.
- Vòng quanh khu đất mộ nói trên có rào kẽm gai và trụ ciment, 1 cửa vào, và có đặt thường trực một vọng gác trần.
CHƯƠNG XI (Chương Cuối)
SAU 7 NĂM PHONG TRẦN
Ngày 2-11-1965, ngày giỗ đoạn tang Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu. Chiến cuộc đã bắt đầu gia tăng. Chỉ một tuần lễ cuối tháng 10-1965 số quân nhân thương vong lên đến 1.600 người, tính trung bình mỗi ngày có 200 quân nhân hy sinh vì chiến cuộc.
Quốc lộ số I từ Long Khánh qua Phan Rang, Khánh Hòa, Phú Yên cho tới Quảng Trị hoàn toàn bị cắt đứt. Hàng Không trở thành phương tiện duy nhất nối liền Saigon với các tỉnh miền Trung và Cao Nguyên Trung Phần.
Công trình Ấp Chiến Lược bị phá hủy toàn bộ kể từ đầu năm 1964. Các địa điểm dinh điền trở thành hoang phế.
Số cố vấn quân sự Mỹ trước năm 1963 là 14.000 người và chỉ ở cấp Sư Đoàn thì cuối năm 1965, đã tăng gấp 2 lần hơn và có mặt khắp đơn vị Quân Binh Chủng từ cấp Tiểu Đoàn đến Chi Khu.
Đầu năm 1965, Tòa Đại Sứ Mỹ rất thỏa mãn vì đạt được ước vọng mà trước đó 2 năm tòa Đại Sứ này đã tìm mọi cách thuyết phục Tổng Thống Diệm chấp thuận nhưng ông Diệm quyết tâm từ chối.
Đó là việc Tòa Đại Sứ Mỹ thiết lập tại mỗi vùng chiến thuật một cơ cấu mệnh danh Cơ Quan Dân Sự Vụ do một giám đốc người Mỹ chỉ huy. Kể từ đây viên Giám Đốc này được coi là cố vấn dân sự Mỹ tối cao tại Đại Biểu Chính Phủ Tòa Hành Chánh Tỉnh đều có cố vấn dân sự Mỹ đảm trách cố vấn về hành chánh, an ninh, xây dựng nông thôn, viện trợ kinh tế Mỹ và kể cả giáo dục học chánh.
Tại trung ương, các Bộ đều thiết lập một cơ quan dành riêng cho viên chức cố vấn Mỹ kể cả ngành văn hóa giáo dục đến xã hội y tế.
Trước năm 1963, tòa Đại Sứ Mỹ chỉ có một phòng Trung Ương Tình Báo nhưng nay tòa Đại Sứ Mỹ lại thiết lập thêm cơ sở mệnh danh cơ quan An Ninh Dân Sự do một giám đốc đứng đầu. Ngoài tổ chức CIA lại còn có tổ chức CID đặt cơ sở vào hoạt động trên toàn cõi Việt Nam. Hình ảnh người lính MP Mỹ xuất hiện như một thứ uy quyền mới. Hải cảng Cam Rang trở thành căn cứ tiếp vận vĩ đại của Mỹ mang tên “Camranh city” – Long Bình, Biên Hòa, An Khê, Qui Nhơn đều là căn cứ lớn lao bậc nhất của Lục Quân Mỹ tại Đông Nam Á.
Số cố vấn Mỹ được tăng thêm 5000 người vào tháng 6-1964 (cộng với 14.000 người trước năm 1963). Nhưng sau vụ tàu Maddox (2-8-1964) số cố vấn được gia tăng rất mau. Đầu tháng 8-1964 phản lực cơ F102 của Không Lực Mỹ lần đầu tiên được gửi qua Việt Nam tham chiến.
Chiến tranh mở rộng. Quân lực Mỹ ào ạt đổ bộ lên Việt Nam. Quân số lên tới 526.000 gồm Thủy, Lục, Không quân. Tiếp theo là quân đội Đại Hàn, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi rồi Phi Luật Tân và Thái Lan sau này cũng ào ạt tiến vào Nam Việt Nam.
Ba tháng sau khi anh em Tổng Thống Diệm qua đời, Tướng Nguyễn Khánh lại làm đảo chánh và mệnh danh là “chỉnh lý” vào ngày 30-1-1964 và Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng ra quyết định chấm dứt nhiệm vụ của Ban Chấp Hành Hội Đồng thành lập ngày 1-11-1963. Tướng Nguyễn Khánh ra thông cáo giải thích lý do của cuộc chỉnh lý là vì “Từ 3 tháng nay, tình hình suy sụp về mọi mặt, chính quyền tỏ ra bất lực và phản cách mạng, một số người chạy theo Thực Dân và Cộng Sản do đó một lần nữa Quân Đội phải đứng lên can thiệp”. Các Tướng Kim, Xuân, Đôn, Đính bị giam giữ. Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ bị bắt đem vào Bộ Tổng Tham Mưu và do chỉ thị của Thiếu Tướng Dương Văn Đức, Đại Úy Chi Khu rút giây lưng ra trói tay ông lại và dẫn đi ở sân cờ Bộ Tổng Tham Mưu. Thật là “bức tranh vân cẩu vẽ người lao đao”. Sau đó, ông Thơ được phóng thích và xin từ chức cùng với toàn thể nội các của ông.
Ngày 17-2-1964, Sĩ quan Báo Chí Bộ Quốc Phòng chính thức tiết lộ: “Thiếu tá Nguyễn Văn Nhung – Sỹ quan tổng quát và tùy viên của Trung Tướng Dương Văn Minh bị bắt giữ hồi đêm 30-1 và giam tại Lữ Đoàn Nhảy Dù trại Hoàng Hoa Thám – ông Nhung tự vận bằng giây giầy” Ông Nhung chết năm 39 tuổi. Ông được vinh thăng Thiếu tá sau ngày đảo chánh 1-11-1963 và cho đến nay vẫn được coi là “tác giả” bắn vào đầu và đâm vào lưng anh em Tổng Thống Diệm. Theo tài liệu đặc biệt của báo Dân Ý, từ số 140 ngày 1-10-1970 đến số 160 thì Thiếu Tá Nhung vốn là người ngang ngạnh hung dữ. Dân vùng Phú Hưng Chánh Hưng mệnh danh ông Nhung là “cọp đen”. Ông Nhung vốn là sĩ quan thân tín của Tướng Dương Văn Minh và rất được Tướng Minh yêu thương (Thiếu Tá Nhung có máu nghệ sĩ, hay đánh lộn và say mê tuồng cải lương cùng “món” lục huyền cầm và sáu câu vọng cổ). Theo tài liệu đã dẫn thì Thiếu Tá Nhung bị đá bể lá lách sau khi ông đã khai hết tất cả những bí mật trong vụ thanh toán anh em Tổng Thống Diệm. Lời khai của ông được thâu băng và trao cho Tướng Khánh.
Kể từ biến cố 1-11-1963 cho đến khi thành lập Đệ Nhị Cộng Hòa ngày 1-11-1967, trong vòng 4 năm, Miền Nam đã trải qua 4 chính phủ: Chính phủ Nguyễn Khánh (quân nhân), Chính Phủ Trần Văn Hương (độc lập), chính phủ Phan Huy Quát (Đại Việt), chính phủ Nguyễn Cao Kỳ (quân nhân).
Ngày 2-1-1969, hàng ngàn người đến viếng mộ phần của anh em Tổng Thống Diệm tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Phu nhân Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng đến đây thắp hương trên mộ phần Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ngày 2-1-1970 nghĩa là 7 năm sau, theo lời tường thuật của các báo Độc Lập, Chính Luận, Tia Sáng, Đuốc Nhà Nam và hầu hết các báo Saigon (ra ngày 3) thì: “Lần đầu tiên sau 7 năm bài ca Suy Tôn Ngô Tổng Thống đã trỗi lên trong buổi hành lễ tại nhà thờ chánh Hố Nai chiều 1-1″ với trên 5000 người tham dự. Tại Saigon, 9 giờ sáng ngày 2-2, một buổi lễ cầu hồn trọng thể đã được tổ chức tại Vương Cung Thánh Đường do Đức Tổng Giám Mục Saigon chủ lễ với sự tham dự của nhiều Nghị Sĩ Dân Biểu và đặc biệt gồm có sự hiện diện của DS Ngô Khắc Tỉnh, đương kim Tổng Trưởng Thông Tin cùng trên 5000 giáo dân. Sau đó, trên 5000 người đã hàng ngũ chỉnh tề trên xe lam 3 bánh, hay xe hơi, xe đạp đi bộ đã kéo nhau đến Nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi để dự lễ làm phép cho anh em Tổng Thống Diệm. Ngay từ sáng sớm, các vỉa hè trước nghĩa trang trở thành chợ hoa.
Chiều ngày 2, một buổi lễ cầu siêu cũng đã được tổ chức tại chùa Phổ Quang trong nghĩa trang Bắc Việt nơi có mộ phần ông Ngô Đình Cẩn (một phần mộ duy nhất có cây thánh giá biểu tượng cho một tín đồ Thiên Chúa Giáo an nghỉ nơi đây). Dịp này, ảnh của ba anh em Tổng Thống Diệm đã được đặt trên bàn vong với hương khói nghi ngút cùng với âm thanh trầm buồn của những hồi chuông, tiếng mõ của lời tụng niệm.
Tối ngày 31-10-1970, Tướng Trần Văn Đôn mở cuộc tiếp tân tại tư thất để tưởng nhớ ngày cách mạng 1-11-1963. Cũng trên nhật báo Công Luận số đặc biệt cách mạng (số ngày 1-11-1970) cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn linh hồn của biến cố 63 đã lên tiếng qua bài “Những cơ hội đã mất”.
“Ngày 1-11-1963: Một cuộc đảo chánh đã thành công, chấm dứt nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Khí thế Cách Mạng dâng lên thành một cao trào. Người người mong muốn một cuộc cách mạng thực sự sẽ đem lại một trật tự xã hội mới trong một nền dân chủ chân chính.
- Ngày 1-11-1963 vì thế được gọi là ngày cách mạng mở đầu cho một vận hội mới của dân tộc. Những người của ngày 1-11-1963 đã thành công trong đảo chính, nhưng đã thất bại trong việc cầm quyền. Bị đặt trước những nhiệm vụ mới và lớn lao, lại không có kinh nghiệm cầm quyền, họ bị tình thế xô đẩy và tràn ngập trong các vấn đề phải giải quyết”.
“Ngày 1-11-1963 rút lại chỉ còn là một ngày đảo chính mở ra một giai đoạn lịch sử đầy hỗn loạn với bao nhiêu là bấp bênh: hết chỉnh lý lại đến đảo chánh, quyền hành chuyển từ tay nọ qua tay kia và xã hội càng ngày càng thiếu ổn định.
Trong khi đó thì Cộng Sản không ngừng phát triển chiến tranh…”
Trên nhật báo Hòa Bình, mục “VINH NHỤC ngày 1-11-1963″ (số ra ngày 7-12-1970) cựu Thiếu Tướng Lâm Văn Phát cũng đã bày tỏ cảm nghĩ của ông như sau:
“Vì nền Đệ Nhất Cộng Hòa lâm thế kẹt, nên cần một biến cố để mở lối thoát. Vì thế nên tôi mới tham dự biến cố 1-11 vào phút chót, cuộc đảo chánh đã thành công, nhưng việc giết Tổng Thống Diệm làm tôi thất vọng trước tiên.
Sau biến cố, đáng lẽ các tướng lãnh đạo nên trao quyền cho dân sự, thì lại vẫn cầm quyền và vì không quen nên thế cách mạng lúc đầu sôi sục trong lòng dân chúng đã xẹp dần. Chẳng những không có kế hoạch trao quyền lại cho dân sự, các Tướng còn định nắm thêm quyền bằng cách định để Tướng Lê Văn Kim làm Thủ Tướng vì thế tôi tham gia cuộc chỉnh lý 31-1-1964. Nhưng rồi Nguyễn Khánh lại quá nhiều tham vọng nên làm hỏng việc, khiến cho đất nước bị xáo trộn liên tiếp. Đó là về chính trị.
Còn về quân sự, thất bại lớn lao nhất là việc “Mỹ hóa chiến tranh”.
Cố Tổng Thống Diệm đã cưỡng lại sự can thiệp của người Mỹ. Cho đến khi Đệ Nhất Cộng Hòa bị lật đổ, người Mỹ đã ồ ạt can thiệp vào Việt Nam, khiến chủ quyền Việt Nam bị xâm phạm. Nếu người Mỹ can thiệp vào Việt Nam, mà sự can thiệp đó đem lại một tình trạng ổn định, thì còn đỡ. Đằng này, Mỹ đã can thiệp, đã “Mỹ hóa chiến tranh” Việt Nam, và công cuộc Mỹ hóa đưa đền thất bại hoàn toàn, thất bại cho Mỹ và Việt Nam phải chịu hậu quả của sự thất bại đó “.
Sau buổi giỗ trọng thể anh em Tổng Thống Diệm lần thứ 7, đã có nguồn dư luận cho rằng đang có phong trào vận động tích cực để phục hồi chế độ Ngô Đình Diệm và phục hồi danh dự cho anh em Tổng Thống Diệm.
Theo chúng tôi, dư luận đã có một sự nhầm lẫn to tát hoặc tầm nhìn phiến diện hoặc vì mâu thuẫn giữa các tập thể có liên quan đến biến cố 63 hoặc vì tị hiềm thù nghịch phe đảng. Vì giản dị, không một ai, một phe nhóm nào có thể làm được công việc ấy (dù muốn làm). Bởi cái danh dự của một vị Tổng Thống như ông Ngô Đình Diệm thì tự cuộc đời ông mới có đủ thành tố để quan định rõ rệt và chỉ lịch sử mới đủ thẩm quyền phê phán và nói lên cái danh dự ấy. Cái danh dự của Tổng Thống Diệm đã có thì không thể mất và đã gắn liền với lịch sử thì không có chuyện phục hồi. Lịch sử chỉ nói lên sự thật chứ lịch sử không bao giờ làm chuyện phục hồi cho một nhân vật này hay một nhân vật kia. Còn vấn đề phục hồi tái lập chế độ Ngô Đình Diệm ở vào không gian và thời gian 1970 và trong thực tại miền Nam như hiện nay thì đó chỉ là chuyện giả tưởng trên mây. Pháp quốc luôn luôn tự hào với chế độ quân chủ sáng chói của Hoàng Đế Nã Phá Luân nhưng không phải vì thế, vì ca ngợi những hào quang sáng chói của thời Nã Phá Luân mà có thể nói người Pháp sống dưới chế độ Đệ Ngũ Cộng Hòa – Thời đại của Tổng Thống Pompidou lại đang mưu định phục hồi để tái lập chế độ Nã Phá Luân. Cũng như vậy, vào năm 1970 và mãi mãi sau này. Dân Tộc Việt Nam đều một lòng tự hào ca ngợi thời đại huy hoàng, thịnh trị dưới thời Vua Lê Thánh Tôn nhưng không phải vì tự hào và ca ngợi như vậy mà nhất đán nói rằng, sự ca ngợi và tự hào kia là cố ý phục hồi để tái lập chế độ quân chủ sáng chói của Vua Lê Thánh Tôn giữa không gian và thời gian 1970 này.
Viết về biến cố 1963, một biến cố quan trọng của lịch sử cận đại kéo dài từ tháng 5 đến ngày 1-11-1963 cùng với cái chết bi thảm của anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm- chúng tôi – Tác giả thiên bút ký này – chỉ đơn giản ước mong có một điều là đi tìm sự thực của lịch sử cùng với những người đã sống trong biến cố lịch sử ấy và còn sống trong dòng lịch sử này để cùng nhau ghi lại đôi điều trông thấy tai nghe mắt đọc cùng với đôi điều nhận định ước mong sao có thể giúp cho các sử gia sau này dễ dàng soi sáng qua từng sự kiện lịch sử với biến cố của lịch sử và chứng nhân của nó để từ đây lịch sử làm công việc của lịch sử.
Người Việt Nam phần nhiều không có thói quen viết hồi ký. Vì lý do này hay lý do khác, những chứng nhân quan trọng của biến cố lịch sử thường im lặng mỗi khi biến cố qua đi cũng chỉ vì quan niệm “quá giả vãng nhi bất thuyết” (chuyện đã qua rồi, không nói nữa). Những chứng nhân lịch sử ấy, theo thời gian lãng quên chuyện cũ rồi một khi qua đời thì chuyện xưa cũng chôn vùi dưới lòng đất. Đây là sự thiệt thòi rất lớn cho các Sử Gia sau này muốn truy tầm và nghiên cứu nguyên nhân của mỗi sự kiện cùng biến cố lịch sử theo trình tự diễn tiến của nó trong tương quan bối cảnh, nhân vật, thời thế, thực tại chủ quan và khách quan. Riêng chúng tôi (Cao Thế Dung) vì có quen biết nhiều với các nhân vật thuộc chế độ Ngô Đình Diệm cũng như hai tập thể Phật Giáo và Công Giáo – Sự quen biết chỉ có tính cách bằng hữu, tín nhiệm nhau, tri kỷ cùng nhau qua những sinh hoạt bình thường trong một vũ trụ tình cảm vượt hẳn ra ngoài mọi khuôn khổ sinh hoạt quốc gia cũng như tôn giáo, chủ nghĩa và đảng phái. Cũng vì vậy mà một vài người bạn của chúng tôi đang là Giáo Sư Sử học tại các trường Đại Học Saigon, Đà Lạt, Huế có ý thúc đẩy chúng tôi đi tìm các chứng nhân lịch sử trong 9 năm của chế độ Ngô Đình Diệm nhất là biến cố 63 để ghi lại những điều mà các chứng nhân ấy đã đóng vai chủ động, hoặc trung gian hoặc nghe thấy, trông thấy. Và chúng tôi đã làm công việc đó cùng với Lương Khải Minh – Một người mà thân thế đã gần như gắn liền với chế độ Ngô Đình Diệm trong suốt 9 năm, và thường được coi là một thành phần hiểu biết nhiều về những chuyện “bên trong” của chế độ ấy. Lương Khải Minh vì tình thân hữu cũng như sự tín nhiệm và tôn trọng lẫn nhau đã cung cấp cho chúng tôi (Vị Hoàng Cao Thế Dung) những tài liệu sống và căn bản đồng thời đưa dẫn chúng tôi đến các con đường tìm tài liệu cũng như nhân chứng liên quan đến biến cố để hoàn thành tập bút ký này. Trước sau, Lương Khải Minh không đưa ra một phê phán nhận định nào về các nhân vật của biến cố. Phần này ông dành riêng cho chúng tôi để ngòi bút được tự do với trách nhiệm và vai trò của nó.
Vẫn biết rằng, viết về biến cố 1963 giữa một tình thế cực kỳ phân hóa của một thời đại hoài nghi và đầy ngộ nhận như hiện nay sẽ không sao tránh khỏi những sự hiểu lầm từ phía này hay phía kia. Tuy nhiên, với một niềm tin còn lại nơi chính mình, chúng tôi tự không cho phép chính mình được do dự hoặc hoài nghi về một điều nào khác hơn là cố gắng tìm hiểu sự thực và viết lên sự thực.
Saigon, Mùa Đông 1970
LƯƠNG KHẢI MINH và
VỊ HOÀNG CAO THẾ DUNG
Chân Thành Ghi Ân
Quý thượng tọa, linh mục, đại đức, quý nhân sĩ, quí vị tướng lãnh và sĩ quan, quí văn nhân ký giả cùng các nhân chứng trong biến cố và thân hữu của chúng tôi đã cung cấp cho chúng tôi những tài liệu sống và quan yếu nhất để hoàn thành thiên Bút Ký này.
Lương Khải Minh
và
Cao Vị Hoàng tức Cao Thế Dung
và
Cao Vị Hoàng tức Cao Thế Dung
Vài nét về Sử Gia Cao Thế Dung
Sử gia Cao Thế Dung, giáo chức lâu năm của hệ thống giáo dục Lasan Taberd Sài Gòn , nguyên Phụ Tá Viện Trưởng Viện Khoa Học Giáo Dục Sài Gòn , nguyên Phó Khoa Trường Đại Học Bách Khoa Nông Nghiệp Viện ĐHHH tại Sài Gòn. Năm 1973, GS Dung làm Tổng Quản Trị Hiệp Hội Nông Dân Trung Ương thuộc Bộ Canh Nông, một tổ hợp nông doanh lớn vào bậc nhất của VNCH. Di cư qua Mỹ năm 1975, GS Dung được cơ quan văn hóa THE FORD FOUNDATION cấp cho học bổng toàn thì (Research Fellowship) để nghiên cứu thị trường lúa gạo (1975-1977), đồng thời trở lại trường theo học tại đại học Georgetown, Columbia. Sau khi tốt nghiệp văn bằng tiến sĩ (Ph.D), GS Dung trở thành chuyên gia phân tích thị trường, chuyên biệt về phó sản và gạo lúa, hiện là Tham Vấn Viên cho Tổ Hợp Khảo Sát Tài Nguyên Kinh Tế Đông Nam Á.
Về văn nghệ và báo chí: 1959 GS Dung cùng với nhà văn Thế Phong thành lập nhóm Đại Nam Văn Hiến. Từ 1966, ông trở thành một trong mấy cây viết trụ cột của nhật báo Chính Luận. Cùng với nhà thơ Nguyên Sa, phụ trách mục “Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ” trên báo Sống của nhà văn Chu Tử. Chủ bút tạp chí tranh đấu Quần Chúng (SG 1968-1970), thư ký tòa soạn tạp chí Giáo Dục (Viện Khoa Học Giáo Dục Sài Gòn 1970-1972), chủ nhiệm, chủ bút tạp chí Hành Trình ( Hoa Kỳ 1978-1979)
Tác phẩm đã xuất bản: Khúc Ca Nhược Tiểu (thơ ĐNVH-Saigon 1960 bút hiệu Cao Đan Hồ), Văn Học Hiện Đại (Thi Ca Thi Nhân-Phê Bình Văn Học 1969), Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống (Bút ký lịch sử, 1971), Lịch Sử Văn Minh Nông Thôn (Đại học BKNN,1974).
Tác phẩm Anh ngữ đã hoàn tất: “The Role of the Chinese Merchants in VN’s rice maket 1865-1965″ ( Luận án tiến sĩ, 1980).
Đang thực hiện: “Vietnam’s Biographical Dictionnary” và “Việt Nam Trăm Năm Máu Lửa” (…từ Cách Mạng Tháng Tám đến Điện Biên Phủ- sự thực về Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam)
Vài nét về Bác Sĩ LƯƠNG KHẢI MINH
Lương Khải Minh là bút hiệu của Bác Sĩ Trần Kim Tuyến. Ông đậu cử nhân Luật khoa năm 1952 tại Đại Học Hà Nội, tốt nghiệp khóa đầu tiên của Đại Học Quân Y Hà Nội năm 1954 với cấp bậc trung úy. Sau khi chế độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa thành lập, Bác Sĩ Trần Kim Tuyến được Tổng Thống Ngô Đình Diệm ủy thác thành lập cơ sở tình báo chiến lược chính trị dưới danh xưng:” Sở Nghiên Cứu Chính Trị Và Xã Hội Phủ Tổng Thống” mà ông là giám đốc cho đến tháng 9 năm 1963; và Bác Sĩ Trần Kim Tuyến đã trở thành nhân vật quyền uy hàng đầu của Chế Độ.
Trong 9 năm làm ngành Tình Báo Chiến Lược, Bác Sĩ Trần Kim Tuyến nổi tiếng về đức thanh liêm, nhiều tình cảm và nghệ sĩ. Ngoài ra, ông còn là cây bút trụ cột của nhật báo Xây Dựng, và là bình luận gia thường trực của nhật báo Chính Luận (1964-1975). Bác Sĩ Trần Kim Tuyến viết báo dưới bút hiệu Thảo Lư, và là dịch giả cuốn “Thân Phận Con Người” (La Condition Humaine) của Le Comte De Noue (1953).
Trưa ngày 30 tháng Tư năm 1975, trên đường chạy đến Tòa Đại Sứ Pháp tị nạn, bác sĩ Trần Kim Tuyến được một ký giả ngoại quốc cứu thoát. Hiện nay ông cùng với gia đình tị nạn tại Anh Quốc trong một cuộc sống rất đơn sơ, thanh bạch.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen