I.
Lược Sử
Nghiên cứu tất cả hệ thống tên họ các
dân tộc trên thế giới cho thấy người Việt có lẽ là một dân tộc đầu tiên, cùng với
người Trung Hoa và Đại Hàn, có một hệ thống tên họ đơn giản và hợp lý nhất. Người
Nhật mãi đến năm 1872 mới được quyền có họ, trước đó chỉ có các ngài đại-danh
(samourais) là có đặc quyền đó. Theo lịch sử Trung quốc, việc đặt họ tên bắt đầu
từ năm 2852 trước Công nguyên, khi vua Phục Hi ra lệnh bắt dân chúng phải có một "gia tính" hay"tộc tính" để phân biệt các hệ phái gia đình và định
phép tắc hôn nhân. Đến thế kỷ thứ V trước Công nguyên ở Trung quốc đã có hai loại "gia tính" được dùng: "tính" là họ gốc, do cha truyền con nối hoặc
do vua ban, và dành cho nam giới; "thị" là họ cành, tức tên đặt khi mới sanh
dùng cho cả nam lẫn nữ. Giới quý tộc vừa có Tính vừa có Thị, dân giả thì chỉ có
tính. Từ đó phát xuất thành ngữ "bá
tính" hoặc "bách tính". Con trai
đàn ông xưng "thị" để phân biệt sang hèn, phụ nữ xưng
"tính" để phân biệt hôn nhân.
Theo các kết quả nghiên cứu khoa học của
hơn thập niên gần đây (khảo cổ, genes, di truyền học, v.v.), dân tộc Việt Nam
hình thành từ người Việt sinh sống trên phần đất nước hiện nay và từ các dân tộc
khác trong khu vực gọi chung là chủng Cổ Mã-Lai (Indonésien) thiên cư đến từ châu Phi và từ các cao
nguyên Tây Tạng, Người Cổ Mã Lai thiên cư lên hướng Bắc ở vùng sông Dương-Tử; về
phía Tây tới Ấn-Độ, về phía nam tới các đảo của Nam Dương, về phía đông tới
Phi-luật-tân. Trong số các chủng Nam-Á (austro-asiatique) này, nhiều thế kỷ sau xuất hiện chủng
Bách Việt trong đó có Lạc Việt sinh sống từ vùng Nam sông Dương Tử cho đến miền
Bắc Việt-Nam. Nhân số bành trướng, lãnh thổ Bách Việt (chữ dùng của sử Tàu)
cũng thiên di xuống đồng bằng sông Hồng, hội nhập văn hóa và đồng hóa người Mường
và các sắc dân địa phương. Tuy nhiên văn hóa nông nghiệp nền tảng của Việt tộc
vẫn luôn trội bật. Do đó hơn hai ngàn năm trước, tổ tiên ta đã nghĩ lập ra
"sổ điền" cốt để nhà vua kiểm kê nhân và dân số hàng năm hoặc theo một
thời hạn cố định, mục đích nhằm phân chia ruộng nương thời đó thuộc về nhà vua.
Việc phân chia này đòi hỏi một sự hiểu biết tường tận từng nóc gia. Với họ và
tên gọi, quan chức triều đình có thể ấn định số người trong mỗi gia đình. Về
sau thêm "sổ đinh" hoặc "sổ bộ", ghi họ tên chính thức về hộ
tịch từng cá nhân và gia đình . Rồi từ "sổ bộ", mỗi gia đình lập một
sổ riêng, ghi chú tất cả những việc cưới hỏi, sinh đẻ và tang ma. Đó là nguồn gốc
của gia phả.
Nếu lịch sử là quá khứ và nền tảng của một
dân tộc thì gia phả là lịch sử hình thành và phát triển của gia tộc. Gia phả
phát xuất từ Trung quốc dưới dạng thức "thế bản" từ thời nhà Chu
(111-256 trước Công nguyên) trong khi ở Việt Nam có thể gia phả đã có từ trước,
nhưng theo lịch sử biên chép thì gia phả xuất hiện từ năm 1026 vào thời vua Lý
Thái Tổ, gia phả đầu tiên được gọi là Hoàng-triều ngọc-điệp. Tục làm gia phả
phát triển mạnh ở hai miền Bắc và Trung, trong Nam rất ít gia đình làm gia phả ở
đấy còn được gọi là "gia phổ" và biến thái thành "tông chi"
tức tờ "tông chi tông đồ" cốt để phân phối gia tài hơn là để phân
chia ngành ngọn của gia đình. Theo ông Dã Lan Nguyễn Đức Dụ, lý do là để tránh
sự khủng bố của thực dân Pháp (1). Gia phả các họ vua chúa gọi là "thế phả".
Trong gia phả, người đứng đầu ngành trưởng
(trưởng họ, trưởng tộc) có bổn phận ghi hết những chi tiết về thân thích và
dòng dõi; những người con khác sao lại bản gia phả chính đó. Các gia đình giữ
gìn kỹ lưỡng và truyền từ đời cha tới đời con. "Họ" theo nghĩa gốc có
liên hệ với nhà và dưới chế độ phong kiến, nối kết con người với đất ruộng: một
mái nhà, một gia đlnh, một họ. Họ và tên của một người định vị trí của cá nhân
người đó trong xã hội, xác định cá thể trong một toàn thể.
Họ tên của người Việt thông thường gồm
có theo thứ tự: họ, chử lót hoặc tên đệm, và tên gọi. Trừ một vài ngoại lệ, người
Việt thường gọi nhau bằng tên gọi (prénom, petit nom; first name): bà Nhị, cô Yến,
ông Khanh, cụ Mục, cháu Khuê, v.v...
1. Họ
(Tính):
Số họ người Việt rất hạn chế, có khoảng
140 họ khác nhau - chúng tôi ghi lại trong danh sách ở cuối bài. Do đó có thành
ngữ "trăm họ" (bách tính) thời xưa thường dùng để chỉ dân chúng cả nước.
Chúng tôi chỉ ghi nhận các họ thông dụng vì ngoài ra có nhiều họ dân tộc thiểu
số dù được sách sử ghi lại nhưng không thấy sử-dụng. Ông Dã Lan Nguyễn Đức Dụ
trong cuốn Gia Phả đã dẫn có nói đến ba trăm họ tối đa có thể có nhưng ông đã
không lập danh sách (2). Cũng theo ông, người Trung quốc cũng chỉ có ba trăm họ
trong khi người Nhật Bản sử-dụng đến một trăm ngàn tên họ khác nhau. Người Pháp
gọi "họ" là "nom de famille" và "patronyme", người
Anh Mỹ, "family name" và "patronym".
Những họ Việt Nam thường gặp nhất là
Nguyễn, Phạm, Phan, Trần, Lê, Vũ/Võ, Trương, Huỳnh/Hoàng,... Nhiều người mang
cùng một họ không có nghĩa là có cùng một gốc gác. Thời xưa và nhất là ở nhà
quê, người ta phân biệt nhau bằng cách gọi "họ Nguyễn làng Tiên Điền",
"họ Nguyễn làng Tây Sơn", "Nguyễn Gia Miêu", v.v. Trong nhiều
làng thôn, tất cả mọi người cùng mang một họ. Có người cắt nghĩa là vì vào thời
lập quốc, người Việt chỉ có một tổ tiên chung là Lạc Long Quân và Âu Cơ. Đến thời
hiện đại, những người Việt này chứng minh mỗi dòng họ một tổ tiên riêng.
Từ khi bị người Tàu đô hộ, người Việt chính
thức theo chế độ phụ hệ, do đó con cái phải lấy họ cha. Theo dân luật, con phải
lấy họ cha, không có vấn đề tự do lựa chọn. Họ không thể cho người ngoài họ
dùng và trên nguyên tắc không thể thay đổi. Có hẳn cả một hiệp ước quốc tế năm
1959 về thay đổi họ. Tuy nhiên trong Nam từ thời Pháp thuộc còn có khuynh hướng
dùng cả họ cha và họ mẹ mà đặt cho con, thí dụ con đầu lấy họ cha thì con thứ lấy
họ mẹ, anh chị em ruột mà họ khác nhau là vì vậy!
2. Họ
kép:
Nhiều gia đình mang họ kép, như Vũ-Đỗ
Thìn, Phan-Trần Chúc, Trần-Lê Quang, v.v.. Tuy nhiên cần phân biệt hai loại họ
kép:
- Họ
+ tên đệm: Các họ Đặng Xuân, Đặng Vũ và Ngô Vi, Ngô Thời, xuất phát từ một
gia đmh gốc họ Đặng và họ Vũ, nhưng vì muốn phân biệt chi nhánh nên đã thêm tên
đệm vào họ. Yếu tố này không phải là họ, nhưng giữ nhiệm vụ tên lót trung gian
giữa họ và tên. Nhưng những họ đi kèm với tên đệm "Bá, Thúc" phải được
coi như họ đơn, vì những tên lót này chỉ là những chữ lót chung.
- Họ
kép hợp bởi hai họ: Đây là những họ kép chính thức. Thường thấy có : Vũ-Đỗ,
Nguyễn-Trần, Trần-Lê, Hồ-Đặng, Lê-Phan, Vũ-Phạm, Đặng-Trần,... Vì một lý do nào
đó, một người sử-dụng họ kép và truyền lại cho các thế hệ sau. Trước hết là trường
hợp người con nuôi, y thêm họ gia đình cha mẹ nuôi vào họ gốc. Họ mới đi trước
họ gốc. Đó là hoàn cảnh của nhà thơ Đặng-Trần Côn, tác giả Bích-Câu kỳ-ngộ và
Chinh Phụ Ngâm Khúc. Là con nuôi của một gia đình họ Đặng, ông vốn tên là Trần
Côn. Con cháu thường vẫn tiếp tục giữ họ kép đó. Nhưng có trường hợp có người
con lấy lại họ cũ, như con cháu Vũ-Phạm Hàm, gốc họ Phạm, làm con nuôi người bạn
của cha họ Vũ nên mới có họ kép là Vũ-Phạm. Về sau, có người còn giữ họ Vũ-Phạm,
nhưng đa số lấy lại họ gốc là Phạm vì ông chỉ truyền họ kép Vũ-Phạm cho một
trong chín người con.
Một lý do khác thông thường hơn. Vua
chúa ngày xưa thường cho phép một số quan lại có công với triều đình hoặc đỗ đạt
cao được đổi tên và có khi cho phép theo họ của vua (quốc tính), xem đó là một
cách tưởng thưởng trọng hậu. Có người bỏ hẳn họ gốc để lấy họ vua như Mạc Cảnh
Vinh được chúa Sãi Nguyễn-Phúc Nguyên cho phép đổi thành Nguyễn-Phúc Vinh.
Nhưng thường người được đổi họ được phép giữ họ gốc ghép vào họ mới mà thành ra
họ kép. Huỳnh Đức, quan triều đại Gia-Long trở thành Nguyễn-Huỳnh Đức. Các con
ông là Nguyễn-Huỳnh Thành, Nguyễn-Huỳnh Thừa, v.v.. Tuy nhiên con gái vẫn giữ họ
gốc Huỳnh vì con gái không mang quốc tính. Chỉ có văn hóa Tống Nho mới có những
phân biệt nam nữ như vậy !
Hiện nay người ta thấy có nhiều họ kép
loại mới thường gồm hai họ của vợ chồng dùng đặt cho con cái. Các họ kép mới
này không thể trường tồn vì không được mọi người và tục lệ chấp nhận. Hơn nữa,
những người con của họ, một khi lập gia đình lại sẽ đổi họ kép đặt cho con, họ
kép của người phối ngẫu mới có thể là một họ khác.
3.
Nguồn gốc họ ngườí Việt:
3.1. Họ các triều đại:
Đa số người Việt mang một họ trong số 16
dòng họ đã từng cai trị lẫy lừng trong lịch sử. Theo thứ tự niên đại, đó là những
họ Thục, Trưng, Triệu, Mai, Khúc, Lý, Phùng, Kiều, Ngô, Đinh, Lê, Trần, Hồ, Mạc,
Trịnh và Nguyễn. Hoặc họ là con cháu thật sự của những dòng họ kể trên, hoặc họ
sử-dụng như mượn họ hoặc bị bắt buộc mang những họ đó nhưng khác họ thật.
Có gia đình tự ý đổi lấy họ đương triều
để chứng tỏ sự trung thành. Có người do nhà vua ban cho như Nguyễn Trãi có lúc
đổi tên là Lê Trãi theo họ nhà vua. Nguyễn Chích được vua Lê Thái-Tổ ban thưởng
họ Lê thành Lê Chích. Hai anh em Đinh Lễ và Đinh Liệt đổi lấy họ cậu ruột là
vua Lê Lợi thành Lê Lễ và Lê Liệt. Lê Thái-Tổ là vị vua đã ban quốc tính cho
nhiều công thần nhất trong lịch sử: 221 người! Một số khác bị bắt buộc phải đổi
họ của triều đại vừa bị lật đổ để lấy họ đương triều để chứng giám lòng trung
thành với triều đại mới. Trong nhiều trường hợp, triều đình bó buộc dân gian bỏ
họ gốc để lấy quốc tính để tránh những nhóm phản động có ý lật đổ triều đình
hay làm loạn đưa người họ triều triều đại vừa bị lật đổ vào cho có lý do chính
trị (ý trời, "thuận thiên"). Năm 1837, vua Minh Mạng nhà Nguyễn đã bắt
những người họ Lê đổi họ thành Nguyễn chỉ vì thời đó những kẻ cầm đầu những
phong trào phản động mang họ Lê như Lê Duy Lương nỗi dậy năm 1833, rồi Lê Duy Cự,
Lê Duy Mật, v.v.
Riêng họ Nguyễn, còn là họ triều đại
quân chủ cuối cùng, có thêm một lý do khác khiến họ này trở nên thông dụng
nhưng lại khó hiểu dưới mắt người Tây phương. Năm 1232, đời Trần Thái-Tông - tức
Trần Cảnh lấy Lý Chiêu-Hoàng, vua cuối cùng nhà Lý (1010-1224) bị ép nhường
ngai vàng cho chồng, sau khi đã đoạt ngôi nhà Lý và dàn cảnh để chôn sống tôn
thất nhà Lý ở Hoa Lâm (Bắc-Ninh), thái sư Trần Thủ Độ chú của vua chuyên quyền
lấy lý do ông nội vua nhà Trần tên Lý, đã bắt tất cả những người họ Lý là họ
dòng vua vừa bị hoán vị, lẩn dân gian, phải đổi làm họ Nguyễn; tuy nhiên ý đồ
thật sự là khai tử dòng vua Lý để sẽ không còn ai nhớ đến dòng họ Lý nữa. Chỉ
có hoàng tử Lý Long-Tường con thứ của vua Lý Anh-Tông năm 1226 trước đó đã bỏ
nước ra đi lưu lạc đến tận Cao-ly, là còn giữ được họ gốc cho đến cả ngày nay.
Con cháu nhà Mạc từ khi rút về Cao-Bằng, đã đổi ra nhiều họ khác nhau trong số
có họ Nguyễn: Mạc Cảnh Vinh vào Nam theo Chúa Nguyễn Hoàng đã đổi tên thành
Nguyễn Hữu Vinh. Sử cũng ghi nhận những việc ép đổi họ khác, như năm 1460, vua
Lê Thánh-Tông đã buộc tôn thất nhà Trần tiên triều đổi họ thành Trình lấy cớ bà
nội vua tức Cung Từ Hoàng Thái hậu tên Phạm Ngọc Trần - trong khi vua Lê Thái Tổ
dù đa nghi vẫn chưa đụng đến họ Trần trùng tên vợ vua. Thật ra là từ khi vua Lê
Nghi-Dân bị tướng lãnh phản loạn, vua Lê Thánh Tôn đâm ra lo lắng cho hậu vận
nhà Lê đến lúc đó đã kéo dài được 32 năm. Mặt khác, đời nhà Trần có lệ bắt những
người trong tôn-thất có tội nặng phải đổi ra họ Mai. Sau khi Hồ Quý Ly lật đổ
nhà Trần cũng bắt chước lệ đó bắt tất cả con cháu họ Trần đổi sang họ Mai,
nhưng vì nhà Hồ không trị vì quá 7 năm nên con cháu nhà Trần đã kịp lấy lại họ
gốc.
Ngoài ra, có người cải đổi tên họ vì trốn
sưu thuế, trốn lính hoặc bất đắc dĩ phải đổi lấy họ đương triều vì ông cha bị tội
hình như "tru di tam tộc" - cũng là lý do tại sao ngày xưa khi đi thí
phải khai họ ba đời. Có người đổi họ vì một lý do riêng tư khác. Như Hàn Thuyên
vốn họ Nguyễn, được vua Trần Nhân-Tông ban cho họ Hàn vì ông làm bài văn ném xuống
sông khiến cá sấu bỏ đi (1284), như chuyện Hàn Dũ bên Trung Hoa trước đó. Và vì
Hàn Thuyên hay làm thơ phú bằng quốc âm nên về sau các nhà văn học sử có khi gọi
thơ văn chữ Nôm là thơ văn "Hàn luật". Hoặc như Hồ Quý Ly tổ tiên gốc
người Chiết Giang (Trung Hoa) sang nước ta định cư, đến tổ tiên đời thứ tư là Hồ
Liêm làm con nuôi ông Lê Huấn nên đổi lấy họ Lê. Nhưng khi Hồ Quý Ly dấy nghiệp,
ông lấy lại họ Hồ và đặt cả quốc hiệu là Đại-Ngu vì ông nhận là dòng dõi nhà
Ngu bên Trung quốc.
Hoặc vì kiêng tên húy của vua chúa, nhiều
người phải đổi họ, như ông trạng Hoàng Nghĩa Phú (1511), tổ tiên vì kiêng tên
vua Lý mà đổi ra họ Trịnh, rồi lại phải đổi ra họ Trần; đến đời Trần Khắc Minh
mới đổi lấy lại họ Hoàng. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ vốn họ Hồ và tương truyền
thuộc dòng dõi Hồ Quý Ly, sau lấy họ mẹ là Nguyễn thành Nguyễn Quang Bình. Cùng
trường hợp với Nguyễn Quang Bích là cháu đời thứ hai của Ngô Quyền.
3.2. Hoàng-tộc (patriline) nhà Nguyễn:
Phần này bàn về họ gia đình vua nhà Nguyễn
(1802-1945) vì các họ thuộc về gia đình này không khỏi gây thắc mắc cho nhiều
người, nhất là đối với người nước ngoài, như làm sao họ có thể hiểu cha họ Bửu
mà con họ Vĩnh. Dòng chúa Nguyễn đến đời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên
(1613-1635) mới dùng chữ lót "phúc" ("phước"). Tương truyền
vợ Chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) nằm mộng thấy thần đưa một mảnh giấy ghi đầy chữ
Phúc, nên Chúa dùng phúc làm tên lót để nhiều đời được hưởng - trong khi đó
dòng họ Nguyễn ở lại Gia Miêu (Thanh Hóa) thì đổi thành Nguyễn Hựu. Con cháu
gia đình họ Nguyễn này, từ đời Minh Mạng (còn đọc là Mệnh,1820-1841) trở đi, đã
phân biệt nhau theo dòng và thế hệ bằng nhiều "họ mới" khác nhau.
Theo thứ tự, con cháu cùng một đời mang cùng một họ riêng nhưng luôn hiểu ngầm
là họ Nguyễn. Cứ mỗi "họ mới" là một đời, bắt nguồn từ bài "đế-hệ
thi" của vua Minh Mạng, dùng cho "chánh hệ" (primary royal
branch) tức dòng vua Gia Long :
Miên Hồng (Hường) Ưng Bủu Vĩnh
Bảo Quý Định Long Trường
Hiền Năng Khang Kế Thuật
Thế Thoại Quốc Gia Xương
Thí dụ:
Miên Tông (Thiệu Trị), Miên Thẩm Tùng
Thiện Vương, Miên Trinh Tuy Lý Vương.
Hồng Nhậm (=Nhiệm,Tự Đức), Hồng Bảo (nổi
loạn năm 1848), Hồng Dật (Hiệp Hòa).
Ưng Chân (Dục Đức), Ưng Đăng (Kiến
Phúc), Ưng Lịch (Hàm Nghi), Ưng Xuỵ (Đồng Khánh), Ưng Quả, Ưng Kỳ, Ưng Thuyên,
Ưng Trình.
Bửu Lân (Thành Thái), Bửu Đảo (Khải Định),
Bửu Lộc, Bửu Hội.
Vĩnh San (Duy Tân), Vĩnh Thụy (Bảo Đại),
Vĩnh Lộc.
Bảo Long, Bảo Quốc, v.v...
Như sẽ trình bày trong phần tiếp về chữ
lót, cách định họ trước này bị ảnh hưởng của người nhà Thanh (Mãn Châu) lúc đó
đang cai trị Trung Hoa. Vua Minh Mạng là vị vua nhà Nguyễn chịu nhiều ảnh hưởng
của Trung quốc. Theo phong cách của những người trong giới vua chúa và quan lại
nhà Thanh, một ông tổ dụng công nghĩ ra đặt sẵn chữ lót cho nhiều thế hệ nối tiếp,
có khi cho là do thần truyền mộng. Đó là nguồn gốc của nguyên tắc "hệ
thi" có thể dùng cho nhiều đời liên tiếp. Vua Minh Mạng với 20 "họ"
là có ý mong dòng dõi trường tồn ít ra năm trăm năm, nhưng nhà Nguyễn sau ngài
chỉ làm vua được năm đời mà đã lận đận phế lập, đầy ải cũng nhiều, tang thương
cũng lắm!
Tuy nhiên các họ từ bài "đế-hệ
thi" nói trên chỉ được dùng cho hậu duệ dòng vua Minh Mạng, vì ngoài
"dế-hệ thi" vua còn làm mười bài "phiên-hệ thi" nhắm cho mười
ông hoàng anh em của vua. Tưởng cũng cần biết, vua Gia Long có cả thảy 13 hoàng
nam và 18 công chúa; vua Minh Mạng tên Nguyễn-Phúc Đảm là hoàng tử thứ tư và
trưởng nam là hoàng tử Cảnh đã qua đời lúc trẻ tuổi. Sau khi phổ biến 10 bài
"phiên-hệ thi" thì Quang-Oai Công, ông hoàng thứ 10 cũng chết trẻ,
còn một số ông hoàng khác cũng tuyệt tự sớm hoặc từ đời thứ hai. Đó là lý do tại
sao đến nay trong thực tế chỉ có bốn bài "phiên-hệ thi" được dùng cho
hậu duệ bốn ông hoàng kể sau:
- Anh-Duệ Hoàng Thái-tử (Nguyễn-Phúc-Cảnh,
hoàng trưởng-tử của vua Gia Long):
Mỹ Duệ Tăng Cường Tráng
Liên Huy Phát Bội Hương
Linh Nghi Hàm Tấn Thuận
Vỹ Vọng Biểu Khôn Quang
Hoàng-tử Cảnh mất khi 22 tuổi, ông có
hai con trai: Mỹ Đường bị chú là Minh Mạng kết tội và giáng làm dân đinh, con
cháu chỉ được phụ chép vào sau tôn-phả, và người con thứ hai Mỹ Thùy mất sớm. Kỳ-Ngoại
Hầu Cường Để và các con ông là Tráng Cử, Tráng Liệt, Tráng Đinh rồi đời sau nữa,
Liên Thành, v.v., thuộc nhánh (phòng) này.
- Kiến-An Vương (hoàng tử thứ năm):
Lương Kiến Ninh Hòa Thuật
Du Hành Suất Nghĩa Phương
Dưỡng Dĩ Tương Thức Hảo
Cao Túc Thể Vi Tường
Kiến-An quận-công Lương Viên, công tử
Lương Kỳ cũng như ông Hòa Giai và các con là Thuật Hanh, Thuật Hy thuộc phòng
này.
- Định-Viễn Quận Vương (hoàng tử thứ
sáu):
Tĩnh Hoài Chiêm Viễn Ái
Cảnh Ngưỡng Mậu Thanh Kha
Nghiêm Khắc Do Trung Đạt
Liên Trung Tâp Bát Da
Ông Tĩnh Cơ cũng như Chiêm Nguyên và các
con Viễn Ngô, Viễn Cẩm, Viễn Tống hay ông Chiêm Tân và con Viễn Bào đều thuộc
nhánh này.
- Từ-Sơn Công (hoàng tử thứ mười ba):
Từ Thể Dương Quỳnh Cẩm
Phu Văn Ái Diệu Dương
Bách Chi Quân Phụ Dực
Vạn Diệp Hiệu Khuông Tương
Từ Đàn, Thể Ngô cũng như giáo sư Dương Kỵ
và con là Quỳnh Trân, ông Dương Thanh và con Quỳnh Nam đều là hậu duệ con trai
út của vua Gia Long.
Các bài "phiên-hệ thi" và
"đế-hệ thi" đồng thời là những bài thơ chữ Hán đúng niêm luật và có ý
nghĩa; các từ đều có nghĩa tốt và uyên bác - tài của tác giả là ở đó, không một
chữ trùng điệp! Ở mười một bài tứ tuyệt ! Người ta vẫn tương truyền là "ngự
chế" do thần mộng! Các bài này năm 1823, được vua Minh Mạng ra lệnh cho khắc
lên một cuốn sách kim-loại (kim sách) bằng vàng ròng cho bài "đế-hệ
thi" và mười cuốn bằng bạc (ngân sách) cho mười bài "phiên-hệ
thi". Các kim và ngân sách này được bảo trì kỹ lưỡng cho đến thời Tự Đức
thì phần lớn phải nấu ra kim loại để trả nợ chiến phí bốn triệu đồng cho Pháp
và Tây-ban-nha theo hiệp ước Nhâm-tuất (1962). Không ai biết sự thật ra sao vì
đến ngày Bảo Đại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, thoái vị năm 1945, các sách
kim loại này đã biến mất, chỉ còn lại vài cuốn bằng "đồng sách"(bằng
đồng) và "thể sách" (bằng lụa) trong các viện bảo tàng!
Vua Minh Mạng cũng quyết định rằng hậu
duệ của Triệu-tổ Tịnh Hoàng-đế Nguyễn Kim mà không phải là hậu duệ ngành vua
Gia Long, tức hoàng tộc "tiền hệ", thì chỉ dùng họ "Tôn-thất"
(tức Tông-thất do kỵ húy tên Miên Tông của vua Thiệu Trị). Riêng về nữ giới hậu
duệ của vua Minh Mạng thì dùng các cách gọi sau đây, thay đổi theo thứ tự thế hệ:
- Công-chúa: chị em vua Minh Mạng
- Công-nữ: con của vua
- Công tôn-nữ: cháu của vua
- Công-tằng tôn-nữ: chắt của vua
- Công-huyền tôn-nữ: chít của vua
- Lai-huyền tôn-nữ: con của chít của vua
Minh Mạng.
Người trong hoàng tộc thuộc "đế-hệ
thi" thường không để "Nguyễn-Phúc" hay "Tôn-thất" phía
trước họ mới như Bảo Long, Bửu Dưỡng, Ưng Quả,... trong khi những người thuộc
"phiên-hệ thi" thì lại hay dùng "Tôn-thất" trước họ mới như
Tôn-thất Viễn-Bào, Tôn-thất Dương Kỵ,...
Nói chung, các "họ mới" này
giúp đoán biết người nào thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn và là hậu duệ của ngành Gia
Long, Minh Mạng hay Nguyễn Kim. Tuy nhiên, các "họ" này không thật là
"họ" theo nguyên nghĩa, do đo chúng tôi sẽ không ghi vào danh sách
các họ ở cuối bài. Riêng con cháu dòng nhà Lê cũng có một hệ thống tên lót
"Cam, Hồng, Phước" để phân biệt thế hệ, tuy nhiên chúng tôi chưa tìm
được tài liệu xác nhận (3).
(Xin mở dấu ngoặc để trả lời một số phê
bình của người đọc trên một vài báo chí hải ngoại và trang Internet trong nước
về điểm này. Khi chúng tôi gọi các 'họ mới' bắt nguồn từ bài "đế-hệ
thi" của vua Minh Mạng là 'họ', là chúng tôi đã nghĩ đến tình cảnh sống ở
hải ngoại, việc ghi họ tên của con cháu nhà Nguyễn có thể gây hiểm lầm ở các
văn phòng di trú của các nước ngoài, rồi trên giấy tờ hộ tịch, ấn-phẩm, v.v. và
về lâu dài các 'họ mới' như Vĩnh, Bảo, Liên, v.v. sẽ trở thành Họ, nếu 'Nguyễn
Phước' chỉ được hiểu ngầm. Khác với trong nước và với người trong Hoàng-tộc, họ
'Nguyễn Phước' đã là chuyện hiểu ngầm hiển nhiên không phải bàn tới. Như vừa
xác nhận, chúng tôi sẽ không ghi vào danh sách các họ ở cuối bài, tức là chúng
tôi đã không xem các 'họ mới' này là Họ. Vĩnh Để, một giáo sư Triết ở Việt-Nam
trước 1975, sau di cư sống ở Canada đã xuất bản luận-án và sách đều ký Nguyen
Vinh-De và Vinh-De Nguyen: Le
Problème de l'homme chez Jean-Jacques Rousseau (Sillery : Presses de l'Université du
Québec,1991);L’être humain, thèmes et conceptions (soạn chung, Saint-Laurent: ERPI,
1999), tên họ ông có khác gì những Nguyễn Vinh Hiển (HKP), Nguyễn Vinh Quang,
Nguyễn Vĩnh Phước, v.v. ở xứ người?).
3.3. Họ dân gian:
Trong số "trăm họ" hiện được
dùng, có chừng 30 họ là gốc Việt hoàn toàn, lúc đầu vốn là họ bộ tộc. Chúng tôi
nói "họ" Việt mà không nói "người" Việt vì đến nay, mấy ai
có thể chứng minh là thuần "gen" hay "máu" Việt.
Ngược dòng lịch sử, Việt tộc xuất phát từ
chủng Cổ Mã-Lai (Indonésien) và Nam-Á (austro-asiatique), đã một phần
thiên cư lên miền Bắc ở đồng bằng phía Nam sông Dương-tử bên Tàu. Bị người Hán
xâm chiếm, tổ tiên ta đã phải thiên cư xuống phía Nam và cuối cùng lập quốc ở
vùng đồng bằng sống Hồng, Bắc Việt, vào khoảng thế kỷ thứ IV trước Công-nguyên.
Từ năm 1069, người Việt tiếp tục Nam-tiến, chiếm toàn thể nước Chiêm-Thành năm
1693 và chiếm đóng phần đồng bằng phía đông Cam-Bốt tức Thủy Chân-Lạp năm 1759
vốn là địa bàn cư trú của người Cổ Mã Lai sau chuyển biến thành chủng Nam Đảo.
Cuộc Nam-tiến đã dừng lại khi người Pháp chiếm đóng và thành lập Đông dương thuộc
địa. Phần khác, nước ta từng bị nhà Hán và các triều đại Trung quốc sau đó đô hộ
cả ngàn năm, một số quân lính sang đất Giao Chỉ rồi ở lại lập gia đình sanh con
đẻ cháu. Mặt khác nữa, nước ta đã từng đón nhận nhiều người Hoa đến tị nạn hoặc
di trú. Đáng kể nhất là quần thần nhà Minh tới định cư ở Nam Việt ta sau khi bị
người Mãn Châu (Thanh) xâm chiếm nước họ.
Đó là lý do lịch sử của một số họ Việt gốc
Hoa như Khổng, Lưu, Trương, Mai, Lâm, Lữ, Nhan, Sử, Tăng, Trịnh, Vương, v.v. hoặc
gốc Miên như Thạch, Sơn, Danh, Kim, Lâm là năm họ nhà Nguyễn đã ban cho, hoặc gốc
Chàm như Chế, Chiêm, v.v. hoặc họ của đồng bào thiểu số (trong nước hiện gọi là
"dân tộc") như Linh, Giáp, Ma, Đèo, Kha, Diêu, Vi, Quách, Nông, Chữ,
Ngân, Ông, Trà, Lang, Lục, Sầm, v.v.
4. Ý
Nghĩa Họ Người Việt:
Tất cả họ Việt Nam đều có một ý nghĩa ngữ-nguyên.
Trong số "trăm họ", có những họ xưa tới ba bốn ngàn năm, vào thời đại
mà mỗi bộ tộc có một tượng vật riêng, hoặc cây cỏ hoặc cầm thú. Sau đó những
tên biểu hiệu tượng vật đó được một số gia tộc dùng làm họ, thí dụ họ Âu. Một số
khác biểu tượng nghề nghiệp như họ Đào (thợ gốm), hoặc cách sinh sống của bộ tộc,
như họ Trần. Một số biểu tượng nơi bắt gốc bộ tộc hoặc gia đình. Họ lúc đầu là
họ bộ tộc, đó là lý do người Anh và Pháp gọi là "patronym(e)" để phân
biệt với "nom de famille / family name".
Lúc đầu được ghi chép bằng chữ Hán, sau
thêm chữ Nôm rồi "quốc ngữ" hóa, họ người Việt theo dòng lịch sử bị
nhiều ảnh hưởng, đã biến đổi hoặc hiểu sai lạc, khiến cho người thời nay khó hiểu
được ý nghĩa sơ nguyên của họ. Cùng một phát âm như của ngày hôm nay, chưa chắc
một chữ đã gợi lên cùng một ý nghĩa, như các họ Đinh hiện được hiểu là
"công dân", "người". Quách nghĩa là vật chắc chắn, có sức đối
kháng mà cũng có nghĩa là lớp thành ngoài. Họ Lê vốn nghĩa là "dân
chúng" nói chung.
Vì những lý do đã nêu, các họ được ghi
chép lại, được hiểu là phải viết như một danh từ chung, nhưng không nên hiểu là
có cùng một ý nghĩa như danh từ đó. Cũng như người Pháp có các họ Boucher,
Boulanger, ... có thể nguyên gốc dùng để chỉ nghề nghiệp của tổ tiên họ. Các chữ
không nhất thiết phải gợi lên hành động, trạng thái hoặc đối tượng của danh từ,
nhất là từ khi có chữ quốc ngữ la-tinh, các chữ gợi hình ít hơn và cũng dễ gây
hiểu lầm hơn. Tên họ ghi chép trong các từ điển hiện nay nên được xem như không
có ý nghĩa chắc chắn, vì thế ta không thể khẳng định họ viết như thế phải nghĩa
là thế này hoặc họ đó tương đương với danh từ chung diển tả sự vật hoặc hành động.
II.
Yếu Tố Tạo Thành Tên Họ Người Việt
Đặt tên cho con hoặc để gọi một người
nào, người Việt vẫn dùng một họ đơn hoặc kép, một chữ lót hoặc tên đệm biểu chỉ
tính giống hoặc chữ lót chung và một tên (gọi) đơn hoặc kép. Cách dùng này có từ
thời lập quốc, ít ra là từ khi có sách sử và thư tịch. Tuy nhiên ngày xưa và nhất
là ở một số tỉnh miền Trung, người đàn ông thường có tên họ đơn giản chỉ gồm
hai thành tố mà thôi, tên và họ : Trần Điền, Bùi Kỷ, Nguyễn Du, Võ Hồng, ... Ở
trên chúng tôi đã trình bày về lai lịch và các loại họ đơn và kép. Trong phần
này chúng tôi nói đến các yếu tố chính gồm tên lót và tên gọi cũng như những loại
tên khác người Việt vẫn dùng để cá nhân hoặc độc đáo hoá chính mình.
1. Chữ Lót:
"Chữ lót" hay "tên đệm"
trong tiếng Anh thường gọi là "middle name" nhưng đúng ra phải là
"pađing/qualifying name". Tiếng Pháp có thể là "nom
intermédiaire" hay "mot intercalaire". Chữ lót đã được sử-dụng từ
thời lập quốc xa xưa : ngư phủ Chử Cù Vân trong huyền thoại Chử Đồng-tử và công
chúa Tiên Dung thời vua Hùng (2 tới 3 ngàn năm trước Công-nguyên), anh bà Triệu
Ẩu (248) tên gọi là Triệu Quốc Đạt.
Chữ lót hoặc tên đệm thường được sử-dụng
nhất là "văn" và "thị" phân biệt phái nam với phái nữ.
"Văn" nghĩa là "người có học", "nhà nho".
"Thị" có nghĩa là "đàn bà". Có thuyết lịch sử cho rằng
"thị" phát sinh ra gốc họ hàng (thị tộc), có ý ám chỉ nhờ người đàn
bà mà tộc họ được tồn tại và kéo dài. Theo một số nhà ngữ học, "văn"
và "thị" có nghĩa là "con trai của...", "con gái của..."
và là dấu vết ảnh hưởng văn hóa Mã Lai. Cách phân biệt nam nữ tiện lợi và dễ hiểu
này không còn được người thời nay yêu chuộng lắm, vì người ta cho là thiếu cá
tính. Do đó người Việt nay có khuynh hướng chọn những chữ lót khác, hay, đẹp và
được chủ quan xem là thích hợp hơn với từng cá nhân.
Sự thay đổi này có thể có nhiều mục
đích: làm rõ nghĩa tên gọi, tạo một âm hưởng dễ nghe, hoặc tạo giây liên lạc họ
hàng. Ngoài "văn" và "thị", những tên lót chung thường thấy
dùng là: phúc, đình, ngọc, bá, thúc, cao, công, huy, như, tường, anh, đức, sĩ,
viết, quang, ...
Một loại chữ lót thứ ba dùng để chỉ thứ
tự con cái cùng một gia đình và chỉ dùng cho con trai: "Mạnh" cho con
cả, "Trọng" cho thứ nam và "Quý" cho con trai thứ ba trở
đi. Mạnh, Trọng, Quý vốn gốc chỉ ba tháng của một mùa theo âm lịch. Cách dùng
này đã thành thông thường dù nguyên gốc, "Mạnh" dùng cho con cả dòng
thứ trong khi "Bá" mới là con cả dòng trưởng. Tuy nhiên Bá, Trọng,
Quý còn có những nghĩa khác tùy tên gọi đi sau chứ không nhất thiết thuộc vào ý
nói trên. Thí dụ Bá Tòng, Trọng Kiều (cầu nặng), Quý Châu. "Giáp" và
"Nguyên" cũng thuộc loại chữ lót này, dùng để chỉ con trai đầu lòng,
thí dụ : Lê Giáp Hải, Vũ Nguyên Khang.
Loại chữ lót thứ tư dùng để phân biệt
các ngành cùng một gia đình gốc mà ra. "Bá", "Thúc" thường
được dùng trong loại này. "Bá" dùng đặt cho con nhà bác hoặc dòng trưởng,
"Thúc" con nhà chú hoặc dòng thứ. Ngoài ra, cũng cùng một mục đích kể
trên, một số gia đình dùng những chữ lót khác như "Vi, Thời",
"Xuân, Vũ" : Ngô Vi Thụ, Ngô Thời Nhậm và Đặng Xuân Quang, Đặng Vũ Biền.
Một số gia đình khác, thường thuộc giới
quan cách, sáng chế chữ lót để phân biệt thế hệ: tất cả con cái một thế hệ sẽ
mang cùng một chữ lót. Chế độ đặt tên này rất bành trướng bên Trung-Hoa trong
giới quan lại, bắt chước người Mãn Châu tức nhà Thanh lúc bấy giờ. Một ông tổ dụng
công đặt chữ lót cho nhiều đời nối tiếp, theo nguyên tắc "hệ thi"
chúng tôi đã trình bày ở phần trên, khiến con cháu dù tẩu tán lập nghiệp phương
xa cứ nhìn chữ lót là nhận được họ hàng và biết thuộc thế hệ thứ mấy để tiện bề
xưng hô. Thường những chữ lót định trước này được ghi trong gia phả để con cháu
đời sau biết mà theo, dưới hình thức những câu thơ 4 hoặc 5, 7 chữ. Theo thứ tự,
những chữ này trở nên tên đệm. Và đến thế hệ cuối cùng, phải nghĩ ra những tên
đệm khác!
Ở Việt Nam có họ Dương Khuê (Hà Đông) đã
phỏng theo cách này. Ông đã đặt một bài hệ thi gồm 16 chữ, mỗi thế hệ cứ dựa
vào đó mà đặt tên lót: Dương Tự Quán, Dương Tự Đề > Dương Thiệu Tống, Dương
Thiệu Tước > Dương Hồng Tuân, Dương Hồng Phong, Dương Vân Hán, v.v.
Về phần phái nữ, ngoài chữ lót thông dụng
"thị" còn thấy dùng những tên lót khác như "Nữ" và "Diệu",
chữ lót sau thường dùng ở Huế : Lê thị Diệu Trang, ... Ở thời hiện đại, tên phụ
nữ thường mất hẳn chữ lót "thị" và nhiều chữ lót khác được dùng như :
ngọc, thanh, mỹ, thu, tuyết, v.v. dù các chữ lót này không hẳn chỉ dùng cho
phái nữ (điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu). Nữ có thể là Vũ Ngọc Lan, Trương Thu
Thủy, Nguyễn Mỹ Dung, ... trong khi Nguyễn Ngọc Sơn, ... rõ là nam giới!
2. Tên Gọi (Danh):
Tên gọi còn được gọi là "tên đẻ",
đặt khi mới sinh và "tên bộ", tên ghi ở sổ Bộ. Tên, người Pháp gọi là
"prénom" và người Anh, Mỹ gọi là "first name" (hay
"personal name") vì đặt trước họ, trong khi người Việt cũng như nhiều
dân tộc Á-đông khác, tên được đặt sau họ. Một lý do là truyền thống tôn kính
gia tộc họ hàng trên trước cá nhân.
Tên thường được chọn một cách tự do hơn.
Một cách tổng quát, người nhà quê và bình dân chỉ lựa một tên (đơn, tức độc văn
danh), người giàu hoặc có học hoặc tự cho sang trọng hoặc học làm sang, thì có
khuynh hướng đặt tên kép (song-văn thanh). Ý nghĩa tên gọi trong trường hợp sau
cùng này nằm trong cả hai hoặc ba yếu tố tạo nên tên gọi. Tên gọi kép thường dễ
tìm thấy trong các từ điển, thí dụ : Hào-Kiệt, Tuấn-Kiệt, Anh-Hùng, Anh-Dũng, Bạt-Tụy,
Kỷ-Cương, An-Khang, Chi-Lan, Diễm-Kiều, Đoan-Trang, Tinh-Hoa, v.v.. Cùng trường
hợp với một số chữ lót như "ngọc, thanh, ...", nhiều tên gọi có thể
dùng cho cả nam lẫn nữ vì nói chung, toàn bộ tên họ của một người thường mới
cho biết người đó là nam hay nữ : Hiền, Tuyền, Kim, Hoàng, Nhân, Thu, Diễm,
v.v.
Trên lý thuyết, mỗi người có một tên gọi
khác nhau. Khác, vì tùy theo tín ngưỡng hoặc tư tưởng người ta muốn gán cho tên
gọi, hoặc tùy theo tính tình và trí tưởng tưỡng của người đặt tên. Mỗi người có
thể đặt tên cho con cháu hoặc đổi tên mình theo ý muốn, cả những tên kỳ dị hay
đặc thù không giống ai. Tên đơn giản thường thấy ở giới bình dân hoặc ở thôn
quê như: Ổi, Mít, Tèo, Bướm, Tí, Hĩm, Cu, ... Nhà nào sanh con khó nuôi hoặc
hay bị bệnh tật sài đẹn thường đặt cho con những tên xấu xí để "quỷ thần"
tha cho như Vẹo, Đủi, Đen, ... Có người không dám đặt tên con quá hay sợ bị quở
hay chê cười. Thời xưa, các cụ còn phải tham khảo các bậc túc nho hoặc biết-chữ
và tỏ ra thận trọng trong việc đặt tên cho con cháu.
Tuy nhiên, theo thói tục, việc đặt tên
thường được căn cứ theo truyền thống và tín ngưỡng, nhất là trên nguồn gốc và
quyền lực có thể có của tên gọi. Tên gọi còn có thể diễn tả những ước ao hoặc
lý tưởng đặt cho đứa trẻ mới chào đời như một thông điệp nhờ đứa trẻ tinh khiết
làm người đưa tin hoặc báo tin cho đời. Từ khi hàng triệu người Việt phải bỏ nước
ra đi chẳng hạn, nhiều người đặt tên cho con là Nam Quân, Phục Quốc, Hồi
Hương,... cũng trong ý nghĩa đó. Nhà nhân chủng học Claude Lévi-Strauss trong
La Pensée sauvage (1962) đã đề cao tầm quan trọng của ý nghĩa tiềm ẩn của tên gọi
(4).
Ở hải ngoại, người Việt khi đổi quốc tịch
có khuynh hướng đổi tên hoặc thêm tên gọi tiếng bản xứ, đã làm mất hẳn hay giảm
đi yếu tố duy nhất và độc đáo của tên gọi. Dĩ nhiên có những tên gọi đẹp và đầy
ý nghĩa trong tiếng Việt đã trở nên ... khó nghe khi phát âm theo tiếng bản xứ
như Côn, Công, Dung, Dũng, Phúc, Quy, ...
Tóm một chữ, tên gọi có quan hệ đến
tương lai của đứa trẻ và mọi người nói chung sẽ cùng mang tên gọi suốt đời.
Một cách cụ thể, tên gọi có thể là tên
sông hồ, núi non, hoa quả, cây cỏ (Tùng, Bách, Mai, Trúc, Lan, Hòe, Quế,...),
màu sắc, chim chóc hoặc cầm thú (Long, Lân, Quy, Phượng, Loan, Yến,...), bốn
mùa (Xuân, Hạ, Thu, Đông), tháng, năm (Tí, Sửu, Dần. Mão, Mẹo, Thìn, Tỵ,...),
ngọc quý (Pha, Châu, Ngọc, Quỳnh,...), tên thuộc về loại kim (Cương, Chung, Liệu,...),
loại đá (Thạch, Bích, Thạc, Nha, Sa, ...), phúc đức, phẩm hạnh hoặc hình dung tốt
đẹp (Phúc, Lộc, Khang, Ninh, Thạnh, Vĩnh, Trường, ...). Nhiều người thông hiểu
chữ Hán có khuynh hướng lấy từ kinh sách, châm ngôn, điển tích hoặc đặt tên
theo bộ chữ Hán. Học giả Phạm Quỳnh, tên Quỳnh thuộc bộ Ngọc, nên đã đặt tên
con theo cùng bộ Ngọc : Khuê, Dao, ... Người ta cũng lấy địa danh, chổ ở, nơi
sanh quán hay nguyên quán hoặc tên các nhân vật tiểu thuyết. Cũng vì lý do tôn
trọng tổ tiên, mọi người đều tránh lấy tên các nhân vật lịch sử cũng như tránh
lấy tên ông bà cha mẹ đặt cho con cháu, khác với người Tây phương. Cuốn gia phả
là cẩm nang để con cháu tránh đặt trùng tên gọi với ông bà tổ tiên.
Về cách đặt tên trong một gia đình, có
người đặt tên con cái theo vần hoặc lấy cùng một chữ cái, hoặc tất cả tên gọi
các con tạo thành một ý hoặc dùng tất cả tên một loại mà đặt cho con: thí dụ
tên bốn mùa, tên các phẩm hạnh (Hạnh, Nhân, Trí, Tín,..; Phước, Lộc Thọ,..) tên
ngũ hành hay ngũ tinh (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), ngũ phúc (Phú, Quý, Thọ,
Khang, Ninh), tứ duy (Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ), tứ đức (Hiếu, Đễ, Trung, Tín cho
con trai; Công, Dung, Ngôn, Hạnh cho con gái), tứ linh (Long, Lân, Quy, Phượng).
Trở ngại là khi con sanh ra nhiều hay ít hơn bộ chữ. Và cách đặt tên này chỉ dễ
dàng trong xã hội xưa "tam thê bảy thiếp" và sanh con còn là "bổn
phận" của phụ nữ như ghi trong luật Hồng Đức và Gia Long cũng như đàn ông
tuyệt tự còn là lỗi lớn với ông bà tổ tiên. Đời nay, người phụ nữ bình quyền,
ly dị đã thành thói thường, tình gia tộc ngày càng suy yếu thì cách đặt tên này
ngày càng khó thực hiện.
Một khuynh hướng đặt tên khác cũng nên
ghi nhận dù không thật sự phổ biến, đó là cách đặt một tên gọi cho tất cả con
trai hoặc gái, chữ lót sẽ làm phần việc phân biệt mỗi đứa con. Con gái : Hồng
Ly, Mai Ly, Trúc Ly; con trai : Anh Khoa, Tuấn Khoa, v.v.
Ngoài tên bộ là tên gọi chính thức trên
giấy tờ hộ tịch, người ta có thể có thêm tên tục (hai loại, domestic name và
vulgar name), tên cúng cơm, tên thân mật, tên lịch sự, do chính mình hoặc do
người ngoài đặt cho mình. Trước khi có tên bộ thường đã có tên tục (domestic
name) để gọi trong nhà; nhất là thời xưa chỉ khi đến tuổi đi học, cha mẹ mới
làm giấy tờ hộ tịch cho con, lúc đó mới chọn tên đẹp đẽ cho con - đứa trẻ lúc
đó sẽ có hai tên gọi, tên tục đã có và tên gọi ở trường (name at school). Các
tên tục thường nghe : Cu Tí, Cu Nhớn, Cu Tẹo, Đĩ Lớn, Đĩ Con, Đĩ Út, Tí, Ti,
Bé, ... Trong Nam người ta còn gọi con theo thứ tự: Hai, Ba, Tư,.. Tên bộ cũng
có thể thay đổi. Cụ Nguyễn Khuyến vốn tên Nguyễn Thắng vì rớt thi Hội năm 1865
đã xin đổi thành Khuyến. Nhà thơ sông Vị Trần Tế Xương từng đổi hai lần nhưng
chỉ đổi tên lót, từ Cao thành Tế và cuối cùng là Kế.
3. Các tên khác:
Ngoài tên ra, người Việt có bút hiệu, bí
danh khi cần và theo truyền thống Nho giáo và Trung-Hoa, ta còn có tên tự, tên hiệu, tên tước, tên thụy
và tên đạo...
Tên tự là tên chữ, thường phải đi đôi với tên gọi
(Danh) và theo kinh sách, thường là một câu chữ Nho có ý hay nghĩa lạ, như Tố-Như
Nguyễn Du, Sĩ-Tải Trương Vĩnh Ký, Lệ-Thần Trần Trọng Kim, Ưu-Thiên Bùi Kỷ, Sở-Cuồng
Lê Dư, Ứng-Hoè Nguyễn Văn Tố, Quán-Chi Đào Trinh Nhất, ...
Khác với tên tự, tên hiệu và bút hiệu
không theo nguyên tắc đi với tên gọi mà tự do lựa chọn, tùy sở thích. Tên hiệu
(symbolic name) do chính đương sự hoặc cha mẹ đặt cho, thường có ngụ ý hoài bảo,
chí khí như Sào-Nam Phan Bội Châu, Ức-Trai Nguyễn Trãi, Bạch-Vân Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Tiên-Điền Nguyễn Du, Hạo-Nhiên Nghiêm Toản, hoặc nói lên gốc gác, liên hệ
như Tản-Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Lương-Đường Phạm Quỳnh, ....
Bút hiệu (nom de plume, penname) là tên hiệu của
người cầm bút, tự do đặt và có thể thay đổi nhiều lần hoặc dùng nhiều bút hiệu
một lúc. Bút hiệu thường gồm hai chữ hoặc hơn và có thể mang hình thức của tên
thật như Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn Trung), Hoàng Cầm (Bùi Tằng Việt), Thẩm Thệ Hà
(Tạ Thành Kỉnh), Cung Trầm Tưởng (Cung Thúc Cần), Dương Nghiễm Mậu (Phí Ích
Nghiễm), Lý Hoàng Phong (Đoàn Tường), Tô Kiều Ngân (Lê Mộng Ngân), Nguyễn
Kiên-Trung (Nguyễn Mạnh Côn), Hà Thượng Nhân (Phạm Xuân Ninh), Mai Trung Tĩnh
(Nguyễn Thiệu Hùng), Vương Đức Lệ (Lê Đức Vượng), Trần Thy Nhã-Ca (Trần Thị
Thu-Vân), Trần Tuệ-Mai (Trần Thị Gia-Minh), Hoàng Hương Trang (Hoàng Thị Diệm
Phương), Lê Xuyên (Lê Bình Tăng), Tô Thùy Yên (Đinh Thành Tiên), Chu Vương Miện
(Nguyễn Văn Thưởng), Phạm Thiên Thư (Phạm Kim Long), Trần Dạ Từ (Lê Hà Vĩnh),
Võ Phiến (Đoàn Thế Nhơn), Trần Hoài Thư (Trần Quý Sách), Vũ Hạnh (Nguyễn Đức
Dũng), v.v.. Bút hiệu có thể là tên địa lý như sinh quán, trường hợp của Tô
Hoài, Thanh Châu, Sa-Giang Trần Tuấn Kiệt, Kiên Giang Hà Huy Hà, có khi do đảo
lộn tên thật như Biển Ngũ Nhy (Nguyễn Bính, thân phụ nhà văn An Khê), Khái Hưng
(Trần Khánh Giư), Thế-Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), J. Lebai (Lê Bái), có khi có thể chỉ
là tên những người thân yêu như Mai Thảo, Thế Uyên, Thanh Tâm Tuyền, thậm chí
có khi do tình cờ như Tam Ích trước đã hay ký mật hiệu XXX. Nhiều nhà văn không
hề dùng bút hiệu như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Thị Vinh, ... Có nhà ký tên thật
nhưng lược tên gọi như Nguyễn Bính (Thuyết), Phạm Duy (Cẩn), hay lược họ như
Nguyên Hồng (Nguyễn), Hữu Loan (Nguyễn), Huy Cận (Cù), Xuân Diệu (Ngô), Nhật Tiến
(Bùi), Túy Hồng (Nguyễn Thị). Có người lại chỉ nỗi tiếng với tên thật như Hồ Hữu
Tường, Võ Hồng, Hồ Minh Dũng, v.v. Ở hải ngoại, một nền văn học mới phát triển
với nhiều cây bút mới với những bút hiệu có lẽ chỉ có trong hoàn cảnh sống ở nước
người phải theo tục lệ luật pháp xứ người khi viết tên họ, do đó có bút hiệu đồng
thời là tên họ : Phùng Nguyễn (Nguyễn Đức Phùng), Quan Dương (Dương Công Quan),
v.v.
Riêng "biệt danh" hay "sước
hiệu" (surnom, deuxième prénom, sobriquet ; nickname) thường do người khác
đặt cho, gán cho và thường có ý trêu chọc hoặc miêu tả ác ý diện mạo hoặc tật xấu
của người đó. Nhà văn Nguyễn Tuân có sước hiệu là "Tuân mũi to", Phạm
Quỳnh "kính trắng tiên sinh", một cựu tổng thống miền Nam "tổng
lì", v.v.
Tên tước hay "tước hiệu" thường
được phong cho, chỉ thấy ở giới quý tộc, quan lại: Ôn-Như hầu Nguyễn Gia Thiều,
Tùng-Thiện vương Miên Thẩm, v.v. Tưởng cũng cần biết là nhà Nguyễn thường dùng
địa danh khi phong tước quận công hay quận vương cho công thần, thân thích.
Bí danh thường được những người làm
chính trị, cách mạng và cả công an, quân đội sử dụng để bảo mật. Bí danh khác với
tên "cách mạng" như của một số đảng viên cộng sản ở Việt Nam, trong
thực tế là một cách đổi tên, muốn dâng hiến cho công tác hay chối bỏ quá khứ,
gia đình: Lê Đức Thọ, Mai Chí Thọ, Xuân Thủy, Trường Chinh, v.v.
Trong các tên khác có "tên thụy"
tức tên hèm (posthumous name). Khác với "tên cúng cơm" là tên vốn có
của một người khi mới sanh hay lúc nhỏ, tên hèm là tên tự chọn khi tuổi già để
dùng vào việc cúng giỗ và thờ phượng, ý là người chết sẽ biết tên mà về. Nếu
không kịp tự chọn, người nhà tìm đặt cho người vừa chết để con cháu khấn vái,
cúng giỗ. Tên thụy còn là tên ghi vào sớ hoặc do nhà vua truy tặng để tưởng nhớ
công đức người chết. Tục lệ đặt tên thụy khởi từ đời Tây Chu bên Trung-quốc :
đình thần căn cứ vào sự nghiệp hoặc hành vi, đức độ của nhà vua lúc còn sống mà
đặt tên thụy cho vua. Lúc đầu thường dùng một trong bốn chữ Văn, Vũ, U và Lệ
nhưng về sau chỉ dùng Vũ và Văn là hai chữ để khen. Sau lại đổi thành "miếu
hiệu" như vua Gia Long có miếu hiệu Thế-tổ Cao Hoàng-đế, Tự Đức được tặng
là Dực-tôn Anh Hoàng-đế, v.v.
Riêng "tên húy" tức tên phải
kiêng tránh, thường là tên thành hoàng của làng xã hoặc tên của vua chúa và
hoàng gia cũng như miếu hiệu, hoặc tên của quan lớn sở tại. Người dân giả lỡ
trùng tên phải đổi hay đọc trại ra hay lệch đi. Phan Huy Chú vốn tên tục là Hiệu
vì kiêng húy đã phải đổi thành Chú. Đời vua Minh Mạng thứ 13 (1832) còn đặt ra
lệ hễ các quan cùng tỉnh trùng tên thì người kém phẩm trật phải đổi tên. Đó là
lý do Cảnh đọc thành Kiểng, Thái thành Thới, Hòa thành Huề, Anh thành Yêng,
v.v. Hay tìm tiếng giống nghĩa mà thay vào : Riêu thay Canh, Tập thay Học, v.v.
Ngày xưa đi thi mà không biết để tránh tên húy là phạm trường qui, bị hỏng thi
đã đành, có khi còn bị tù tội.
Cuối cùng là "tên đạo" : nếu
theo đạo Phật là "pháp danh" (Buddhist religious name), là những tên
đặt khi quy y; nếu theo Thiên Chúa giáo, có "tên thánh" (nom de
baptême, patron-saint's name) khi rửa tội, thí dụ Pétrus Ký tức Trương Vĩnh Ký.
Riêng tác giả Đại Nam Quấc Âm Tự Vị ghi tên thánh trước tên gọi, Huình Tịnh
Paulus Của. Có ngộ nhận cho rằng tên thánh là lai căng mất gốc. Thật ra tên
thánh là tên chỉ dùng trong phạm vi tôn giáo, cũng như pháp-danh của người theo
đạo Phật, còn thì người theo đạo Thiên Chúa hay Cơ Đốc vẫn mang tên họ như bất
cứ người theo đạo nào khác. Ngộ nhận này đã dần mất sau biến cố 30-4-1975 khi
người Việt vì nhu cầu hội nhập ở nước ngoài, đã lấy cả tên gọi của người bản xứ
Tomy, Bob, Catherine, Paul, Jos, v.v.
III.
Tên Họ Người Việt Ở Xứ Người
Sau khi đã trình bày lịch sử, nguồn gốc
và ý nghĩa họ tên người Việt, chúng tôi xin được bàn đến một số vấn đề liên
quan đến việc sử-dụng tên họ và khía cạnh chính tả của tên họ Việt Nam dùng ở xứ
người nói chung. Phương cách lý tưởng nhất vẫn là phép viết họ tên như ở quê
nhà. Người Việt ở Pháp vẫn theo giải pháp này vì người Pháp đã quen với tên họ
người mình từ thời thực dân ở Việt Nam, biết phân biệt họ với tên, nhưng cũng
vì vậy mà có người lầm họ với tên...
Sau 1975, hàng triệu người Việt đã bỏ nước
tới định cư ở nhiều nước khắp thế giới. Vấn đề viết tên họ được đặt ra khi hệ
thống hành chánh bắt buộc và sự sử-dụng máy điện toán trở thành phổ thông. Người
Việt phải thật sự đương đầu với tên họ của chính mình. Nhu cầu nảy sinh tìm hiểu
tên họ, giải thích cho người bản xứ và ngay cả lựa chọn họ tên mình. Đó là chưa
kể những trường hợp hy hữu phải kể cả giai thoại mới mong có người hiểu như tên
họ con cháu nhà Nguyễn. Sở di trú làm sao hiểu được cha họ Vĩnh mà con ruột lại
họ Bảo!
Ở Việt Nam ta vẫn có thói quen lấy tên gọi
(prénom, first name) làm mốc để lập danh sách: Nguyễn An-Khang sẽ được liệt kê ở
vần Kh, trước Khanh và sau Kha. Cách dùng này có từ đã mấy ngàn năm và được sử
dụng trong mọi trường hợp, từ thư tịch, lịch sử cũng như sổ lương bổng, danh
sách cử tri hoặc ở học đường.
Một khi ở hải ngoại, dù thế nào đi nữa,
ta vẫn phải giữ lấy "họ" (family name, nom de famille) cho minh bạch.
Có người cốt tránh hiểu lầm hay cốt dễ phát âm, vì muốn tránh họ một chữ cụt ngủn
như "Lê", "Lý", "Đỗ", "Võ / Vũ", đã
ghép tên lót vào làm họ mới : Lê Văn, Đỗ Văn biến thành "Levan",
"Dovan". Phái nữ thường họ tên dài có khi gồm 4, 5 chữ, thành ra có
người ghép tên lót "thị" vào làm họ : Võ Thị thành Vothi. Dễ cho người
bản xứ nhưng đồng hương làm sao nhận ra nhau, nhất là người đó lại có tên gọi
theo người bản xứ như Mike, André, Katherine, Joseph, v.v.! Nếu căn cước Việt-Nam
đã bị vong hóa, văn hóa trước sau cũng sẽ ‘lai căng’ hoặc tệ hơn, mất dấu sau
vài thế hệ!
Trong trường hợp "họ kép", ta
cứ dùng họ kép như người bản xứ, đàn ông cũng như đàn bà (vì lập gia đình theo
dân luật cũ), thí dụ Maurice Marleau-Ponty, Claude Lévi-Strauss, Cecil
Day-Lewis, vv. Vậy Phan-Trần Nam và Đặng-Vũ Tuấn-Kiệt nên trở thành Nam
Phan-Tran và Tuan-Kiet Dang-Vu. Với cách này, ta còn có thể phân biệt họ kép với
họ đơn + tên lót vì tên lót vẫn nên giữ thứ tự của nó dù họ tên có phải đảo ngược
theo người bản xứ: Nguyễn Thị Nhị nên trở thành Nhi Thi Nguyen.
Về họ kép, cả hai yếu tố phải viết hoa
và nên dùng gạch nối. Theo lệ tổng quát và phép chính tả Việt ngữ, tất cả những
yếu tố bổ túc cho nhau về ngữ ý phải viết với gạch nối, cũng như những yếu tố
chính trong danh từ riêng (địa lý hoặc họ, tên) phải viết hoa. Trên nguyên tắc,
"Văn", "Thị" và tất cả những chữ lót chung như "Đình,
Ngọc, Xuân, Huy,..." tương đương với "von, vonder, von und zu" của
người Đức, "op de, ten, van den, van der" của người Hà Lan không phải
viết hoa và không được gạch nối với họ cũng như tên (nhưng vì nhu cầu thực tế,
chúng tôi viết hoa trong bài này). Từ khi có chữ quốc ngữ la tinh, trên các
sách báo xuất bản ở Việt Nam, các nhà văn nhà báo có thói quen gạch nối tất cả
các yếu tố của họ tên, ngay cả trường hợp chỉ có 2 yếu tố như Nguyễn-Du, Phạm-Duy.
Điều này nhiều nhà ngữ học Việt Nam không chấp nhận. Về ngữ ý cũng như theo
truyền thống, cách dùng này rất sai lầm.
Đối với "tên kép", ta nên giữ
thứ tự của cả hai yếu tố tạo thành vì trong nhiều trường hợp, nếu đảo ngược tên
kép đó sẽ mất hết ý nghĩa đối với người Việt và khó mà cắt nghĩa với người bản
xứ ý nghĩa tên của mình. Một khuynh hướng dung hòa dùng cả hai tên gọi kép hai
thứ tiếng để con cái có thể sử-dụng theo nhu cầu ở xứ người hay sau này về nước:
Catherine Hy-Khuê, Joseph An-Khang. Nói chung, ta cứ dùng "tên kép"
như người bản xứ : Jean-Paul Sartre, Paule-Andrée T., Jean-Marie B.. Do đó Lê
Hào-Kiệt nên viết là Hao-Kiet Lê, Nguyễn Joseph An-Khang thành Joseph An-Khang
Nguyen hơn là Kiet Hao Le và Joseph Khang An Nguyen. Vũ Thị Ngọc-Lan, Trần Thị
Bích-Ngọc thành Ngoc-Lan Thi Vu và Bich-Ngoc Thi Tran, tránh Bich-Ngoc Tran-thi
hay Thi Bich Ngoc Tran và Lan Ngoc Thi Vu, vì Lan-Ngọc và Ngọc-Bích khác nghĩa
với Ngọc-Lan và Bích-Ngọc! Cũng vậy, Cung Văn Hòa nên đổi thành Hoa Van Cung
thay vì Hoa Cung Van. Riêng đối với tên họ dài như họ hậu duệ nhà Nguyễn, ta có
thể viết tắt yếu tố tên đệm.
Họ tên phái nữ là một phức tạp khác.
Khác với người Tây phương, người đàn bà Việt Nam dù đã lập gia đình vẫn sử-dụng
tên họ con gái trên giấy tờ hộ tịch, hành chánh và thư từ, dù ngoài đời họ vẫn
thường được gọi theo tên gọi của chồng, nhất là trong giới trí thức và chính trị
gia: bà giáo sư Tăng Xuân An, bà đại sứ Trần Văn Chương, v.v. . Người đàn bà
Tây phương từ xưa đến gần đây đã không có những "quyền lợi" đó của nữ
giới con Rồng cháu Tiên, họ phải đổi lấy họ chồng một khi lập gia đình. Mọi người
chỉ biết họ qua họ chồng, dù làm thủ tướng và dù đã ly dị. Khi các bà khám phá
gì mới cho nhân loại hay ra luận án tiến sĩ, người ta cũng chỉ biết họ qua tên
chồng: bà Marie Curie, mấy ai biết họ bà là Sklodowska và là người Ba-lan!
Mấy thập niên gần đây, dưới áp lực của
các phong trào đòi bình quyền của nữ giới, dân luật nhiều quốc gia đã bắt đầu
cho các bà đổi lấy họ thời con gái và còn đi xa hơn khi không còn bắt phải có
tên cha cho đứa trẻ sơ sinh và đứa bé có thể lấy họ mẹ. Nữ giới Việt Nam đến xứ
người đông đảo vào cuối thời thịnh đạt của chế độ tộc trưởng, phải theo luật xứ
người mà mất họ gốc, từ nay có thể đổi lấy lại họ thời con gái. Sau hơn hai thập
niên, người Việt ở khắp thế giới đã đi vào thống kê và nghiên cứu của xã hội
người. Ở Canada mới đây, Sở thống-kê tỉnh bang Québec nghiên cứu về họ tên trẻ
sơ sanh ở thành phố Montréal độ hơn hai triệu dân: năm 1996, họ Nguyễn đã là họ
dẫn đầu với 96 trẻ, vượt hẳn các họ truyền thống và "pure laine" của
dân bản xứ như Tremblay (50), Gagnon (50) hay Roy (60) (trên 22695 trẻ sơ sanh
và 14 ngàn họ khác nhau, và với 105 bà mẹ họ Nguyễn, 9 đứa trẻ mang họ khác họ
Nguyễn) (5). Họ Nguyễn trở thành nỗi tiếng và bình dân khi nói đến người Việt,
một chương trình truyền hình cũng ở Canada có tựa đề là N'guyen.
*
Ở Việt Nam khó mà nói rằng người mình lầm
lộn nhau vì tên họ hiểu theo nghĩa rộng. Họ được bổ túc bởi tên gọi và chữ lót
chung hoặc tên thế hệ, luôn tạo thành một đơn vị độc đáo. Một lớp học có thể có
nhiều học sinh tên Hùng, nhưng khác họ và tên lót. Ngoài ra ta còn có nhiều
cách để phân biệt nhau tùy hoàn cảnh, bằng nguồn gốc địa lý, bằng chức tước, địa
vị xã hội, bằng lãnh vực chuyên môn hay nghề nghiệp, bằng diện mạo, gốc gác,
cha mẹ, họ hàng, v.v. Họ tên thoạt mới xem là chuyện cá nhân, gia đình và dòng
họ, nhưng đây còn là một đặc điểm văn hóa xã hội, nhân chủng của người Việt. Mỗi
cá nhân có quyền có họ tên thì cũng có quyền được mọi người tôn trọng, đưa đến
vấn đề không được ghi sai, gọi sai.
Hoàn cảnh sống mới ở xứ người đặt người
Việt trước những lựa chọn khó khăn về văn hóa. Hội nhập hay giữ bản sắc nguồn cội
? Uốn theo tục người hay nên giữ phong hóa dân tộc ? Nên "Pháp hóa" /
"Anh hóa" tên Việt như đã từng xảy ra với những người Do thái và Đông
Âu ở Pháp hay Bắc Mỹ (6). Thiết tưởng sự sống còn của văn hóa Việt Nam ở ngay
những đặc điểm Việt. Một trong những đặc điểm đó là tên họ Việt Nam. Làm sao giữ
được tên họ tức gốc nguồn thì ta vẫn là ta. Nếu để mất gốc, mình sẽ hết là mình
mà ta cũng chẳng còn là ta - người viết từng bị shock mỗi khi biết được tính
danh mới của những người nỗi tiếng hoặc quen thuộc ở trong nước. Dù biết có người
muốn quên hoặc chối bỏ quá khứ và cái gì rồi cũng quen, chúng tôi vẫn thấy có
cái gì không ổn. Tên họ vừa là vốn liếng văn hóa vừa là ký hiệu làm người. Họ
tên là yếu tố văn hóa nền tảng của một dân tộc và là báu vật văn hóa mà tổ tiên
đã để lại cho con cháu, nhất là tổ tiên Việt Nam đã luôn ở vào thế chẳng đặng đừng,
bị động, luôn bị xâm lăng và thu hút bởi những nền văn hóa vừa mạnh vừa bạo như
Hoa Ấn lân bang và Tây phương thực dân. Ngày nay con cháu Việt đang phải chịu
nhận văn hóa người và ở ngay trên lãnh thổ của người! Hy vọng một số ý kiến đã
trình bày sẽ giúp ích cho người Việt trong việc sử-dụng, cải đổi hay vay mượn
tên họ nơi xứ người.
Tham Khảo:
- Dã Lan Nguyễn Đức Dụ. Gia-Phả:
Khảo Luận Và Thực Hành. Hà Nội : Văn Hóa, 1992. 402 tr.
- Lê Trung Hoa. Họ
Và Tên Người Việt Nam. Hà Nội : Khoa-học xã hội, 1992. 139 tr.
- Nguyễn Vy-Khanh.
"Les patronymes vietnamiens" Terre Froide / Đất Lạnh, printemps
1981, p. 23-29; "Tìm hiểu tên họ người Việt" Vietnamologica, no 1,
1995, p. 143-163 (Khoi N. Tran, Claireau Consulting lược dịch "Vietnamese
Names"); "Les noms des Vietnamiens" Vietnam
Et Culture, 1-1998, p. 35-42.
- Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu. Đất
Lề Quê Thói. Sài Gòn, 1970. Sống Mới tái bản, 197?, 540 tr.
- Phan Kế Bính. Việt
Nam Phong Tục. Sài Gòn : Phong Trào Văn Hóa, 1970. 370 tr.
Chú thích:
(1) Dã lan NĐD, Sđd, tr.
26.
(2) Dã Lan NĐD, Sđd, tr.
200.
(3) Huard, Pierre &
Maurice Durand. Connaissance
du Vietnam. Paris: Imprimerie
Nationale, 1954, p.93.
(4) "Les noms étaient toujours significatifs de l'appartenance à une
classe, actuelle ou virtuelle, qui peut être seulement celle de celui qu'on
nomme ou celle de celui qui nomme..." (Paris: Plon, 1962, p. 245).
(5) Duchesne, Louis. "Vers un système matrilinéaire? Le choix du nom
de l'enfant au Québec" Communication au Colloque Le Patronyme,
histoire-anthropologie-société des 11e Entretiens du Centre Jacques-Cartier,
Lyon, 7 au 9 décembre 1998.
(6) Thí dụ ở Pháp đã có những đạo-luật bắt Pháp hóa tên Do-thái (décret
28-7-1808) hay tên họ ngoại nhập (loi 25-10-1972). Họ tên người Ý, Tây-ban-nha,
Bồ-đào-nha, Ba-lan và ả-rập cũng từng bị cưỡng bách Pháp hóa.
Danh sách
các Họ người Việt-Nam:
A An, Âu B Bạc, Bạch,
Bành, Bế, Biện, Bùi
C Ca,
Cái, Cam, Cao, Cát, Cầm, Cấn, Cù, Chế, Chiêm, Chu (Châu), Chung, Chử, Cung D Danh,
Diệp, Diêu, Doãn (Roãn), DU (Dzư), Dương, Đái, Đàm, Đào, Đặng, Đèo, Đinh, Đoàn,
Đô, Đồ, Đỗ, Đồng, Đống
G Giang,
Giáp
H Hạ,
Hàn, Hoa, Hoàng (Huỳnh), Hồ, Hồng, Hùng, Hứa K Kiên,
Kiều, Kiểu, Kim, Kỷ, Kha, Khiêu, Khiếu, Khổng, Khu, Khuất, Khúc, Khương, Khưu L La, Lã
(Lữ), Lai, Lại, Lang, Lâm, Lê, Linh, Lộ, Lợi, Lục, Lương, Lưu, Lý M Ma,
Mã, Mạc, Mai, Mạnh
N Ninh,
Nông, Nghiêm, Ngạc, Ngân, Ngô, Ngụy, Nguyễn, Nhan, Nhữ O Ông P Phạm,
Phan, Phí, Phó, Phù, Phùng
Q Quách,
Quan, Quản
S Sầm,
Sơn, Sử
T Tạ,
Tăng, Tiêu, Tô, Tôn, Tống, Từ, Tường, Thạch, Thái, Thang, Thành, Thẩm, Thân,
Thiều, Thục, Trà, Trang, Trần, Triệu, Trịnh, Trình, Trưng, Trương U Ung,
Uông, Uyển, Ưng
V Vạn,
Văn, Vi, Viêm, Vòng, Vũ (Võ), Vương X Xuân
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen