CHƯƠNG I
ĐỊNH MỆNH ĐÃ AN BÀI
Sáng sớm ngày 2-11-1963, sau một đêm dài nhất, một đêm không ngủ, trong lúc tiếng súng vẫn còn nổ lẻ tẻ đâu đây, với nhiều đám khói tại trung tâm Thủ Đô còn bốc lên nghi ngút, từ các máy thu thanh phát ra lời loan báo của phe đảo chánh đã hạ được Dinh Gia Long thủ phủ cuối cùng của chế độ họ Ngô Đình Diệm nhưng anh em ông Diệm đã trốn thoát khỏi Dinh Gia Long.
Khoảng 10 giờ cùng ngày, đài phát thanh Sài Gòn loan một tin vắn tắt: “Anh em ông Diệm bị bắt tại Chợ Lớn, và đã tự tử”! Dư luận bàn tán xôn xao, phần đông nghi ngờ: Không tin anh em ông Diệm đã chết, và nhất là không tin anh em ông Diệm tự sát. Vì ai cũng biết: Cố Tổng Thống Diệm là một người ngoan đạo, mà đạo Thiên Chúa cấm tự sát. Phe đảo chánh không cho biết thêm tin tức nào về cái chết, trong khi báo chí thì không dám nói rằng anh em ông Diệm bị giết.
Ngày 6 tháng 11 năm 1963, nhật báo New York Times in hình xác Tổng Thống Diệm bị còng tay với lời chú thích “Suicide with no hand” (tự sát không có tay) có ý mỉa mai lời thông báo của phe đảo chánh rằng anh em ông Diệm tự sát. Về sau, người ta có thể công khai nói rằng anh em cố Tổng Thống bị giết. Nhưng ai giết? Và ai ra lệnh giết? Đó là một nghi vấn cho đến nay vẫn chưa được hoàn toàn phơi bày ra ánh sáng.
Thời gian như chiếc lá bay vèo. Mọi việc tưởng như mới xảy ra ngày hôm qua thế mà đã sáu năm. Vào thế kỷ trước khi tốc độ còn tính bằng chục cây số thì 6 năm qua là quãng thời gian quá ngắn chưa đủ một khoảng cách không gian cần và đủ để có thể phơi bày tất cả mọi sự thật về một biến cố lịch sử. Nhưng ngày nay, tốc độ tính bằng ngàn cây số, 6 năm là thời gian quá đủ để nói thật, nói hết về một biến cố lịch sử. Mỗi biến cố lịch sử có một giá trị riêng của nó, vào thời đại của nó. Mỗi giai đoạn lịch sử, cũng có một giá trị khác nhau. Chỉ riêng sự thật có giá trị muôn đời. Và cái gì là sự thật, phải trả về với sự thật.
Viết về một giai đoạn cầm quyền suốt 9 năm của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, không nhằm mục đích biện minh cho ai, hoặc kết tội ai, mà chỉ muốn nói lên một sự thật.
Sự thực sẽ ghi tội và công trạng của những người có công. Người viết không dám làm việc của một sử gia, mà chỉ muốn góp phần nhỏ vào việc soi sáng cho một giai đoạn gay go của lịch sử, một giai đoạn đầy những biến chuyển và bí mật.
Cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm không đơn giản như một vụ thanh toán chính trị và thoán đoạt quyền hành ở cấp lãnh đạo thượng tầng quốc gia.
Cái chết của Ông đã biểu hiện trọn vẹn thân phận của người dân nhược tiểu Á Phi và gần hơn nữa, thân phận của một người Việt Nam yêu nước dù có phạm những lỗi lầm nào vẫn còn giữ được lòng tự ái quốc gia và cả danh dự của dân tộc. Trước hết, cái chết của ông dù cách nào cũng chỉ là kết quả của một lòng yêu nước và chỉ không chịu cúi đầu khuất phục trước những thế lực ngoại bang, nhằm khuynh đảo đất nước này và tạo ra những hoàn cảnh tan rã và mỗi ngày càng thêm tan rã.
Tổng Thống Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu bị bắn chết vào sáng ngày 2-11-1963, tức là đã 6 năm qua. Thời gian này quả là ngắn ngủi so với giòng lịch sử. Nhưng với thời đại của tốc độ không gian như hiện nay thì 6 năm cũng không phải là quãng đường quá ngắn. Nhận định về cái chết của anh em Tổng Thống Diệm ngay bây giờ cũng không phải là vấn đế quá sớm, vội vàng vì hiển nhiên trong sáu năm qua, miền Nam đã trải qua bao nhiêu biến cố, bao nhiêu lần thay chủ đổi ngôi. Nhưng sự kiện diễn biến của thời cuộc cũng đã đủ cung ứng chất liệu cho ta có thể bình tâm nhận định về cái chết của T.T Diệm cùng sự sụp đổ của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa.
Vấn đề công và tội của Cựu Hoàng Bảo Đại, của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đều thuộc thẩm quyền phê phán của lịch sử dân tộc sau này. Song sự nhận định phê phán nào cũng không thể bỏ qua thực tại bi thảm của dân Việt Nam trong nửa thế kỷ vừa qua. Sự nhận định phê phán xuất phát từ quan điểm nào cũng phải đặt lên lập trường dân tộc như một lập trường căn bản. Từ thực tại Việt Nam và trong hoàn cảnh bi thảm của xứ xở, chúng tôi trình bày ở đây chỉ nhằm sáng tỏ những sự thực từ mắt thấy tai nghe và kinh nghiệm tang thương của xứ sở.
Trước và sau ngày 1-11-1969 (ngày Quốc Khánh của Đệ II Cộng Hòa) trong quốc dân đã trỗi dậy một vài khuynh hướng và phong trào đòi phục hồi danh dự cho cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và làm sống lại cái chết bi thảm của ông và các bào đệ ông. Đồng thời lại có một vài khuynh hướng khác không đồng ý như vậy vì nếu phục hồi danh dự cho cố T.T Diệm tức là đã công khai phủ nhận ý nghĩa của ngày 1-11-1963 mà khuynh hướng trên vẫn còn coi đó là một ngày cách mạng với niềm tự hào phát xuất từ danh nghĩa cao đẹp này.
Cái chết của TT Diệm hiển nhiên không thể so sánh với cái chết của Hoàng Đế Louis XVI đối với cách mạng Pháp 1789. Dù cách nào cái chết của ông đã được nhiều người Việt Nam thắp nén hương lòng để tưởng niệm. Giả dụ TT Diệm chết vì mưu toan của ngoại bang thì cái chết của vị tử vì đạo vì quyền tự quyết dân tộc.
Nhưng khuynh hướng và phong trào trên đây chung quanh vấn đề phục hồi danh dự cho cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm dù cách nào cũng chỉ là phản ứng nhất thời của từng tập thể. Do đó sẽ thiếu trung thực và vô tư cần có.
Nhận định về cái chết của TT Diệm cũng như vấn đề công hay tội của chế độ Ngô Đình Diệm trước hết phải tách rời tinh thần chủ quan phe phái và phải vượt trên và ở ngoài phương vị tôn giáo cũng như các chính kiến dị biệt.
Trước mắt và trong tâm hồn người viết sẽ chỉ thấy một con người Việt Nam.
Ngô Đình Diệm trên đoạn đường lịch sử 9 năm (1954-1963) Con người ấy như thế nào? Đã làm được gì cho Việt Nam? Đã tranh đấu như thế nào cho nền độc lập trong thời Pháp thuộc và đã bảo vệ chủ quyền danh dự của dân tộc như thế nào trước thế lực Mỹ cùng những ưu khuyết điểm của ông như thế nào trong suốt 9 năm nắm giữ giềng mối quốc gia với một uy quyền chói sáng? Và ai là thủ phạm chính trong âm mưu hạ sát Ngô Đình Diệm?
Từ phía Cộng Sản khi còn sinh thời, cố Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nhận định Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc.
- Ái quốc theo cách thức của Tổng Thống Diệm. Vậy cách thức đã thể hiện như thế nào trong cuộc đời của ông và chế độ Đệ I Cộng Hòa.
GIÂY PHÚT CUỐI CÙNG
Trước khi nhận định toàn bộ về con người Ngô Đình Diệm và chế độ của ông chúng tôi xin ghi lại ở đây những giây phút cuối cùng cuộc đời của một Tổng Thống đã một thời tiêu biểu cho uy quyền của dân tộc Việt Nam.
Nhân dịp tiếp các phái đoàn quân dân chính trong ngày Quốc Khánh 26-10-1963, Tổng Thống Diệm, bằng một giọng ai oán, thoáng buồn ông nói:
” Chế độ này tuy còn nhiều khuyết điểm, cũng còn hơn nhiều chế độ khác. Người ta chê là độc tài nhưng chỉ ngại còn những thứ độc tài khủng khiếp hơn. Tôi tiến thì theo tôi, tôi lui thì bắn tôi, tôi chết thì trả thù cho tôi.”
(theo Đoàn Thêm- Những ngày chưa quên trang 236-238)
(theo Đoàn Thêm- Những ngày chưa quên trang 236-238)
Trong thời gian này, tinh thần của TT Diệm đang trải qua cơn dao động cực độ. Những nhân vật gần ông, đều nhận thấy ông trở nên nóng nẩy bất thường, hay thở dài, nét mặt đăm chiêu thoáng buồn. Có lẽ TT Diệm đã linh cảm được tai họa sắp đến với ông và gia đình và chế độ. Ông Ngô Đình Nhu lại càng biểu linh một cách nhanh chóng, Ông Nhu già hẳn đi, nét mặt chảy dài. Bức hình của ông Nhu đăng trên tuần báo Express số 909 (15-12-1968) chính là một trong mấy bức hình chụp vào những ngày cuối cùng trong đời ông. Khuôn mặt ông Nhu càng in một vẻ căm hận cùng với vẻ đẹp của đường nét điêu khắc.
Tuy nhiên ông Nhu vẫn giữ được vẻ điềm tĩnh và sẵn sàng đối phó.
Theo tác giả Đoàn Thêm, sớm ngày 30-10-1963, ông Diệm lững thững xuống vườn hoa trước của Dinh Gia Long, coi mấy chậu non bộ nhỏ mới đắp xong và đặt ở gốc cây. Ông bận đồ xám lạt, đội mũ len, chống cây ba trong như khi đi thăm địa điểm Dinh Điền. Ông ngắm vài phút ngó lên bức ảnh lớn của ông treo cao đằng sau bàn giấy của ông Đổng Lý Bộ Phủ Tổng Thống rồi mỉm cười, lên lầu.
Bốn hôm sau, khi được chính phủ cách mạng cho trở lại dinh để dọn đồ, thì thấy ảnh kia bị bắn vỡ tan tành.
TIẾP KHÁCH LẦN CUỐI
Ngày 31-10, hầm trú ẩn xây trong Dinh Gia Long đã hoàn tất có thể chịu đựng loại bom 500 ký lô. Cũng vào ngày đó, ông Ngô Đình Nhu tiếp kiến các đại diện Ủy Ban Hiệp Hội Bảo Vệ Phật Giáo. Cùng ngày các phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc về vụ Phật Giáo VN đáp máy bay ra Huế để tiếp tục cuộc điều tra. Đại Sứ Cacbot Lodge đã nhận được đầy đủ tin tức về kết quả và thái độ của phái đoàn này tại Sài Gòn và thấy rằng sẽ bất lợi cho những toan tính và âm mưu của ông Lodge. Vụ đàn áp Phật Giáo phải được duy trì để lấy cớ lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm như ông Lodge mong muốn.
Sáng 1-11-1963 nhằm vào ngày lễ Thánh, công sở đều được nghỉ, Tổng Thống Diệm đã tiếp người bạn “đồng minh” Hoa Kỳ cuối cùng trong cuộc đời ông. Đó là Đô Đốc Harry D. Felt, Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Mỹ tại Thái Bình Dương. Đô Đốc Harry D. Felt chắc chắn biết rõ những gì sắp xảy tới trong mấy giờ nữa kết thúc chế độ của Tổng Thống Diệm mà ông ta theo lễ nghi vẫn xưng tụng như một nhà lãnh đạo anh minh của miền Nam.
Hồi 13 giờ 30 súng bắt đầu từ nhiều nơi trong đô thành….Ai gây ra tiếng súng đó? Bắt đầu từ một thế lực nào? Tướng lãnh? Quần chúng? Mỹ?
Thực ra, những âm mưu lật đổ Tổng Thống Diệm đã sắp đặt từ tháng 5-1963 rồi âm thầm tiến hành… Buổi tối ngày 28-10, do sự sắp xếp từ trước Trung Tướng Trần Văn Đôn đã tiếp xúc bí mật với giới chức Mỹ tại nhà một Nha Sĩ (Theo tài liệu của Robert Shaplen- The Lost Revolution). Tướng Đôn luôn nhắc nhở xin người Mỹ giữ bí mật hoàn toàn và không thảo luận vấn đề này với bất cứ một ai, ông đã cố gắng thuyết phục ĐS Cabot Lodge chấp nhận chương trình hành động của nhóm ông và làm như thế nào để Hoa Thịnh Đốn đồng ý cho bật đèn xanh càng sớm càng hay.
Lúc đầu nhóm đảo chánh dự định khai hỏa vào ngày 31-10 (sự tiết lộ của Đại Tá Lu Conein).
Trước nữa, nhóm đảo chánh cùng với sự đạo diễn của mấy chuyên viên CIA đã dự định đảo chánh nhân ngày kỷ niệm Quốc Khánh 26-10. Nhưng đêm 26-10, ông Nhu đã nhận được báo cáo đầy đủ: nhóm đảo chánh với tướng Đôn, Minh, sẽ ra tay hành động trong cuộc duyệt binh tại đường Thống Nhất vào sáng 25-10 (Theo báo cáo mật của Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc thẩm quyền của ông Dương Văn Hiếu- Phó Tổng Giám Đốc CSQG). Dịp này sẽ bắt sống Tổng Thống Diệm và ông Nhu sau đó sẽ thanh toán Dinh Gia Long và thành Cộng Hòa. Vào phút chót, ông Smith, trưởng phòng CIA tòa Đại Sứ Mỹ (người thay thế Đại Tá Richardson) đã thông báo kịp thời cho Lu Conein biết là chưa thể bật đèn xanh vì đã có kẻ trong Tòa Đại Sứ tiết lộ cho ông Nhu. Kể từ ngày Đại Sứ Lodge sang Việt Nam thay thế Nolting cũng không ngoài nhiệm vụ đặc biệt là làm thế nào lật đổ được chế độ Ngô Đình Diệm đồng thời thi hành kế hoạch của Mỹ trong giai đoạn mới. Hiển nhiên là Cabot Lodge đóng vai trò một nhà lãnh đạo đứng bật đèn cho cuộc đảo chánh 1-11-63. Cabot Loge được coi như tiếng nói có thẩm quyền của phe “Tự Do” Harriman Hilsman và tổ chức Việt Nam Task Force.
Những nguyên nhân nào khiến cho Mỹ phải gấp rút tìm mọi cách lật đổ chế độ TT Diệm? Hẳn nhiên, về phía Mỹ không phải là nguyên nhân Phật Giáo. Đơn giản là vì quyền lợi Mỹ trước hết.
Cái gai chính yếu của Đại Sứ Lodge cũng như Smith Conein và nhóm đảo chánh là Tướng Tôn Thất Đính. Làm sao nhổ được cái gai này? Tuy nhiên, cho đến ngày 28-10 Tướng Đôn có thể tạm thời yên tâm về tướng Đính. Điều mà phe đảo chánh lo ngại nhất là Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Lê Quang Tung, lực lượng này vẫn được coi như thành phần nòng cốt của chế độ TT Diệm. Ngày 29-11, Tướng Tôn Thất Đính với tư cách Tư Lệnh Quân Đoàn III (và từng là Tổng Trấn Sài Gòn-Gia Định) ông ra lệnh cho các đơn vị thuộc LLĐB di chuyển ra khỏi Sài Gòn. Đó cũng là một phần kế hoạch nhằm vô hiệu hóa những lực lượng trung thành với chế độ. Hơn nữa, Tướng Đính đang đươc lòng tin cậy của ông Nhu. Theo dư luận đồn đại sau ngày đảo chính 1-11-1963 thì chính ông Nhu đã trao phó cho Tướng Đính thực hiện một cuộc đảo chánh giả hiệu Bravo I và II nhằm phá vỡ kế hoạch đảo chánh thực của nhóm tướng lãnh đang liên kết với Cabot Lodge.
Nếu thực sự cuộc đảo chính sẽ xảy ra, ông Nhu chấp nhận một cách không nghi ngờ việc Tướng Đính “móc nối” với nhóm Minh, Đôn. Chính ông Nhu đã từng nói với Tướng Huỳnh Văn Cao “Khánh với Đính là chỗ người trong nhà cả. Không lo”. Ông Nhu tuy cao tay ấn nhưng đâu có thể học được chữ ngờ qua trường hợp Tướng Đính! Tương kế tựu kế, Tướng Đính nắm lấy cơ hội này để quật lại thế cờ cuối cùng của ông Nhu…Không có sự tham dự của Tướng Đính, cuộc đảo chính 1-11-63 không thể thành công.
Cái lối của ông Nhu là cái lối của một nhà chiến thuật và chiến lược nhìn tiên liệu quá xa phạm vi hạn hẹp của chiến thuật, giai đoạn. Hơn nữa vì lòng tin cậy, ông Nhu đã chọn nhầm một người mà chính ông Nhu trước đây cho là “khó xài“. Nhưng vẫn xử dụng vì tự cho mình là cao tay ấn.
Mặt khác, trước đó Đại Tá Đỗ Mậu, quyền giám đốc Nha An Ninh Quân Đội, một môn đệ tin cậy của TT Diệm đã phúc trình cho hai ông Nhu, Diệm hay là hiện VC đang tập trung tại ven đô và âm mưu đánh phá Sài Gòn. Dĩ nhiên đây chỉ là bản phúc trình giả với mục đích làm lạc hướng theo dõi của chính quyền và đồng thời có cớ để phân tán một số đơn vị trung thành của ông Diệm ra khỏi Sài Gòn. Nhờ vậy phe đảo chánh sẽ giảm được nhiều sức chống đối của phe chính phủ.
Hồi 12 giờ 30 ngày 1-11, Tướng Trần Văn Đôn cùng một số tướng tá nòng cốt triệu tập Hội Nghị trong Bộ Tổng Tham Mưu với sự tham dự hầu hết các tướng lãnh và một số Tư Lệnh Quân Binh Chủng. Tướng Tôn Thất Đính không có mặt trong hội nghị này và lúc đó ông đang phải túc trực tại Tổng Hành Dinh Quân Đoàn III. Người thì cho rằng đến giờ phút quyết liệt, phe đảo chánh vẫn chưa tin hẳn Tướng Đính và có lẽ đó cũng là lý do Tướng Đính không có mặt trong buổi hội nghị quan trọng đó?
THIỆN CHÍ NHÀ GIÀU
Theo tiết lộ của Georges Chaffard qua bài báo tựa đề La paix manquée en 1963 (tuần báo Express số 909-đdch) để lôi kéo Tướng Đính vào phe đảo chánh, Mỹ đã trao cho Tướng Đính một số tiền ứng trước là 1 triệu dollars kết quả do sự thương lượng giữa tướng Đôn và ĐS Cabot Lodge vào ngày 24-10. Số tiền ứng trước này được coi là thiện chí cụ thể của Mỹ giúp phe đảo chánh có chút phương tiện để thực hiện kế hoạch hoàn thành cách mạng.
Tưởng cũng nên nhắc lại khoảng cuối tháng 10, dư luận trong chính giới và ngoại giao đoàn đã đồn đại về những hoạt động của nhóm mãi vụ Pháp thuộc Sở “Hành Động” (Action) do Tướng De Gaulle gởi qua Sài Gòn với nhiệm vụ bảo vệ anh ninh cho 2 anh em ông Diệm.
Sáng 1-11, ĐS Cabot Lodge hướng dẫn Đô Đốc Felt đến Dinh Gia Long thăm xã giao TT Diệm. Nhân dịp này TT Diệm đã cho ĐS Cabot Lodge biết là đang có dư luận về một cuộc đảo chánh nhằm lật đổ TT Diệm. Ông Diệm đã nói như thế là có ý bảo cho ông ĐS Cabot Lodge biết, ông luôn luôn theo dõi đường đi nước bước của Mỹ trong âm mưu lật đổ chế độ hiện hữu. Đại Sứ Cabot Lodge vẫn nở một nụ cười vồn vã hứa chắc với TT Diệm, nếu có sự chẳng hay xảy ra như dư luận đồn đại, người Mỹ sẽ bảo đảm cho cá nhân Tổng Thống. Cũng vào giữa khoảng thời gian đó, Đại Tá Lu Conein đã đến gặp Tướng Đôn và túc trực bên phe đảo chánh trong suốt ngày 1 và 2 ngay tại Bộ Tổng Tham Mưu. Ông ta là trung gian giữa Tòa Đại Sứ Mỹ và phe đảo chánh. Hay đúng hơn, ông ta thủ vai trò của kẻ điều động và thực hiện kế hoạch đã được thảo luận và quyết định chung giữa tòa Đại Sứ Mỹ và phe đảo chánh? (Theo sự tiết lộ của Lu Conein thì ông được mời đến với tư cách cố vấn Mỹ tại Bộ Nội Vụ tham dự phiên họp thường lệ của Bộ TTM và sau khi đảo chánh xảy ra thì Tướng Đôn giữ khéo Lu Conein ở lại Bộ TTM như một thứ con tin và một bảo đảm an ninh cho các tướng lãnh.)
Khi ở dinh gia Long trở về, ĐS Cabot Lodge đã nhận được đầy đủ tin tức từ Bộ Tổng Tham Mưu báo cáo cho biết kế hoạch đang tiến hành…
Rồi một ngày trôi qua như mọi người Việt Nam đều biết, cuộc đảo chánh hoàn toàn thành công với sự xuất hiện của các tướng lĩnh mang danh xưng là những con người cách mạng và ở trong tổ chức mới lúc đầu mệnh danh “Hội Đồng Các Tướng Lãnh” sau đổi thành “Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng”.
Nhằm đúng vào ngày lễ các đấng linh hồn, một trong những lễ quan trọng nhất của tín đồ Thiên Chúa Giáo, hai anh em Tổng Thống Diệm cùng bị thảm sát sau khi đã dâng trọn những lời cầu nguyện cuối cùng tại nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn, với sự chứng kiếm của Linh Mục Jean- một linh mục thuộc hội Thừa Sai Ba Lê (MEP)
Chi tiết về cái chết của TT Diệm đến nay tuy không còn là một điều bí mật song có quá nhiều những chi tiết mâu thuẫn nhau.
Trong những giờ phút cuối cùng, Tổng Thống Diệm đã tỏ ra hoàn toàn mệt mỏi và không còn tin tưởng bao nhiêu khi phe đảo chánh báo cho anh em ông biết đã bắt Đại Tá Tung và ông này cùng lực lượng Đặc Biệt của ông đã đầu hàng phe cách mạng, Tổng Thống Diệm bây giờ chỉ còn đặt tin tưởng vào Quân Đoàn IV của Tướng Huỳnh Văn Cao và nhất là Quân Đoàn II của Tướng Khánh mà ông Nhu hoàn toàn tin cậy. Song Tướng Cao đã không làm được gì khác hơn. Sư Đoàn 7 nằm trong tay Đại Tá Nguyễn Hữu Có, phụ tá Tư Lệnh Quân Đoàn III. Anh em ông Diệm chỉ còn lại lực lượng phòng vệ trong Dinh. Tất nhiên là lực lượng này không còn phương thế nào hành động khác hơn là đành thúc thủ trong 4 bức tường thành Cộng Hòa và Dinh Gia Long. Trước một tình thế bi đát như vậy, ông Nhu quyết định ra đi. Tổng Thống Diệm mặc nhiên chiều theo quyết định của ông em: “Đi mô…đi thì đi…” Đó là lời gió cuốn mây trôi của Tổng Thống Diệm.
8 giờ 30 Tổng Thống Diệm, ông Nhu, Đại Úy Đỗ Thọ và Đại Úy Bằng rời khỏi dinh Gia Long trên bước đường của định mệnh.
Khi tiếp thu Dinh Gia Long, Trung Tá Phạm Ngọc Thảo không tìm thấy anh em TT Diệm và cấp báo cho Tướng Trần Thiện Khiêm rõ. Tướng Khiêm ra lệnh cho Trung Tá Thảo phải đi tìm kiếm. Theo tiết lộ của những người trong cuộc, Tướng Khiêm dặn Phạm Ngọc Thảo phải tìm mọi cách đón anh em TT Diệm, phải bảo vệ an ninh cho anh em ông có được như vậy thì Tướng Khiêm và phe của Trung Tá Phạm Ngọc Thảo mới có thể thực hiện kế hoạch lật ngược thế cờ.
Khi được tin Dinh Gia Long đã thất thủ thì lúc ấy chính là lúc Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng và nhóm tướng tá đảo chánh cũng đã chia thành năm bảy phe qua những xu hướng chính trị và quyền lợi trái ngược nhau.
Riêng Trung Tá Phạm Ngọc Thảo từ trước ngày đảo chánh đã có những liên lạc mật thiết với Đại Tá Đỗ Mậu và Tướng Khiêm, ông Thảo là người được Tướng Khiêm tin cẩn và cả hai đều là những Tướng Tá được chế độ tin dùng. Riêng Tướng Khiêm sau vụ đảo chánh hụt 11-11-1960, ông trở thành vị tướng lãnh thân cận của Tổng Thống Diệm và được coi như “người con tin cẩn” trong gia đình Tổng Thống.
Đường lối và trong thâm tâm của phe Phạm Ngọc Thảo chỉ muốn thay đổi cơ cấu của chế độ mà thôi…
Song tình thế đã biến chuyển khác hẳn và trái với ước mong trong thâm tâm Thảo từ buổi ban đầu, ông Thảo hẳn đã biết rõ những xu hướng khác nhau trong HĐCM trong đó đã có một xu hướng chủ trương phải giết hai anh em ông Diệm để trừ hậu hoạn và đó cũng là chủ trương của một số nhân vật Mỹ mà ông Fisthel là đại diện. Ông này vẫn chủ trương: Chế độ Ngô Đình Diệm phải được cải tổ toàn bộ nếu TT Diệm không ưng chịu thì TT phải ra đi hoặc bị thủ tiêu.
Xu hướng thanh toán TT Diệm quy tụ mấy tướng lãnh sẵn lòng bất mãn với chế độ từ lâu. Đó là các Tướng Trần Tử Oai, Mai Xuân Hữu. Mặc dầu những người như Trung Tướng Trần Văn Đôn từng được chế độ của TT Diệm đặc biệt ưu đãi, tin cẩn trong suốt 9 năm của chế độ.
Tướng Đôn liên tiếp được trao phó những chức vụ quan trọng, từ Tư Lệnh Vùng I đến Tư Lệnh Lục Quân, rồi quyền Tổng Tham Mưu Trưởng. Ba Tướng Đôn, Kim, Oai được coi là thành phần nòng cốt của HĐQNCM. Người Mỹ tin cẩn vào Tướng Đôn hơn cả. Sở dĩ Tướng Dương văn Minh được trao phó vai trò chính vì đối với quân đội lúc ấy và trong hàng Tướng lãnh thì uy tín của Tướng Minh trỗi bật hơn cả.
Ta có thể nói năm Tướng Minh, Đôn, Kim, Oai, Xuân đứng riêng một phe. Chưa có chứng cớ nào rõ rệt để nói rằng Tướng Khiêm, Đại Tá Mậu, Trung Tá Thảo đứng về một phe khác không mấy thân hữu và tin cẩn đối với phe kia. Nhưng dù sao tướng Khiêm vẫn là người tỏ ra ôn hòa đối với chế độ Ngô Đình Diệm mà chính ông đã trưởng thành trong chế độ ấy. Còn Trung Tá Phạm Ngọc Thảo – một tín đồ Thiên Chúa Giáo có đầu óc tiến bộ và quốc gia cực đoan, kể từ biến cố Phật giáo, ông quyết liệt chủ trương phải thay đổi thành phần và cơ cấu của chế độ. Trung Tá Thảo là người thứ nhất đã can đảm trình bày với Tướng Khiêm tất cả ước vọng và kế hoạch của ông khi Tướng Khiêm đang nắm quyền Tham Mưu Trưởng Liên Quân, cái trục liên lạc thân hữu của Trung Tá Thảo có thể mô tả: Thảo, Mậu, Tuyến. Thảo là bạn tâm tình của Bác Sĩ Trần Kim Tuyến và chính Thảo cũng đã thẳng thắn bầy tỏ ước vọng và kế hoạch của ông cho Bác Sĩ Tuyến rõ.
Kể từ tháng 5 năm 1963 theo sự lượng tính và tiên liệu của Bác Sĩ Tuyến nếu không cấp thời có một chương trình hành động để cứu nguy chế độ thì khó lòng ngăn ngừa được cuộc đảo chánh. Trung Tá Thảo cũng lo âu như thế. Từ khi ông Tuyến ra đi thì Thảo không còn gì ràng buộc mật thiết với chế độ. Song Thảo vẫn tiếp tục móc nối một số tướng tá vẫn được coi là người của chính quyền nhằm thực hiện một cuộc đảo chánh cốt sửa sai, hơn là san bằng, đồng thời có thể ra tay trước phe Tướng Minh và vô hiệu hóa mọi âm mưu trong kế hoạch của họ và lật ngược thế cờ để nắm chủ động.
Thảo đã đóng một vai trò quan hệ trong cuộc đảo chánh 1-11-63 và Thảo được đặt dưới quyền xử dụng của Tướng Khiêm.
Dù chủ trương như thế nào, Trung Tá Thảo cũng đã là một trong mấy người thân tín của chế độ TT Diệm đã trực tiếp lật đổ chế độ này. Ông Thảo đã được HĐQNCM trao phó phần vụ phát thanh. Đây mới là thứ khí giới sắc bén nhất để xô đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Ví dụ như không có phần phát thanh từ lúc đầu thì cục diện chưa chắc đã thay đổi mau lẹ.
Khi phe Tướng Minh, Kim, Đôn nhận được tin ông Diệm đang ở Chợ Lớn đã cấp tốc ra lệnh cho Đại Tá Dương Ngọc Lắm đem thiết quân vận M.113 vào đón bắt. Đai Tá Lắm lúc ấy đang nắm quyền Tổng Giám Đốc Địa Phương Quân (một trong số tướng tá được chế độ đặc biệt ưu đãi, tin dùng). Ông Lắm là người theo đảo chánh vào phút chót. Công tác đầu tiên mà ông được phe đảo chánh trao phó là đem quân vào Chợ Lớn đón bắt anh em TT Diệm. Tất nhiên là ông đã không được lòng tin cậy của phe chủ chốt. Do đó, Tướng Mai Hữu Xuân được Tướng Minh chỉ định đi theo giám sát Đại Tá Lắm.
Tóm lại, đã có hai toán quân vào Chợ Lớn tìm bắt anh em TT Diệm. Mỗi toán có thể nói thuộc một phe, nhằm mục đích riêng. Thay vì Trung Tá Thảo nếu biết rõ anh em ông Diệm đang ở nhà thờ Cha Tam thì cái chết đã không đến với anh em ông Diệm, ít nhất là cũng cứu thoát được ông Diệm. Song Thảo lại chỉ đến lục soát nhà Mã Tuyên trong lúc đó anh em TT Diệm đang dâng lễ ở nhà thờ Cha Tam. Ông Thảo trở về tay không đồng thời cũng mang theo sự thất bại của nhóm ông.
Và có phải chính ông Diệm đã báo tin cho Tướng Khiêm để nhận sự đầu hàng và cho biết đang ở nhà thờ Cha Tam không? Một nghi vấn cho rằng: Có lẽ viên sĩ quan tùy viên của ông vào phút chót đã phản phúc vào báo cho phe đảo chánh biết nơi anh em đang trú ẩn. Sự thực không phải Đỗ Thọ đã phản phúc Tổng Thống Diệm. Đại Úy Đỗ Thọ được TT Diệm bảo đi gọi điện thoại về Bộ Tổng Tham Mưu cho Tướng Khiêm nhưng Thọ lại gọi điện thoại trực tiếp cho Đại Tá Đỗ Mậu là chú ruột của ông.
Vậy thì anh em ông Diệm có đầu hàng đảo chánh không? Những diễn biến tại dinh Gia Long và tại nhà Mã Tuyên từ 12 giờ 30 ngày 1-11-63 đến 4 giờ đêm ngày 2-11-63 sẽ giúp cho sử gia sau này đi đến một kết luận rõ rệt hơn.
Khi Đại Tá Lắm đem quân đến nhà thờ Cha Tam thì lúc đó HĐQNCM vẫn chưa dám quyết định chung là dứt khoát về số phận của anh em TT Diệm. Một người trong cuộc cho biết: Anh nào cũng run hết trước một quyết định dứt khoát và tối quan hệ đến sự thành bại của cuộc đảo chánh, Hội Đồng chia thành ba, bốn phe: Một phe nhất định phải thanh toán ngay. Tuy nhiên phe này chỉ rỉ tai bàn kín với nhau mà thôi. Phe khác chủ trương để anh em ông Diệm lưu vong ra ngoại quốc. Phe thứ ba giữ thái độ dè dặt…Phe quyết định thanh toán lấy cớ rằng, nếu anh em ông Diệm còn sống thì cuộc đảo chánh sẽ bất thành vì tay chân của ông không sớm thì muộn cũng sẽ phản công. Vả lại, phe này thấy rằng ngay trong HĐQNCM cũng đã quá phân nửa từng là người thân tín của TT Diệm và ông Nhu. Điều lo ngại hơn nữa là họ vẫn chưa nắm được Tướng Tôn Thất Đính và binh quyền lại đang nằm gọn trong tay Đính cũng như một số tướng tá khác như Tướng Nguyễn Khánh Quân Đoàn II, tướng Huỳnh Văn Cao Quân Đoàn IV, Đại Tá Cao Văn Viên Tư Lệnh Nhảy Dù và Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền Tư Lệnh Không Quân (hai sĩ quan cấp tá này thẳng thắn từ chối tham gia phe đảo chánh). Giả sử, nếu đưa anh em TT Diệm về trình diện HĐQNCM thì biết đâu sự hiện diện của anh em ông lại không thể làm nản lòng và gây xúc động lương tâm những người thân tín cũ của ông. Nếu chỉ nhằm đến mục đích hoàn thành cuộc đảo chánh và tránh mọi hậu họa thì phe này khi ra tay hạ sát TT Diệm cũng không có gì khó hiểu.
ĐAO PHỦ
Ai giết anh em TT Diệm? Theo Robert Shaplen trong cuốn The Lost Revolution thì có hai dữ kiện: Dữ kiện thứ nhất theo đó chính Tướng Mai Hữu Xuân đã ra lệnh giết anh em ông Diệm. Dữ kiện thứ hai và có đủ yếu tố thì chính Tướng Dương Văn Minh chủ tịch HĐQNCM đã trực tiếp ra lệnh hạ sát. Người thi hành lệnh đó là Đại Úy Nhung.
Trước vụ thảm sát này, một số tướng lãnh trong HĐQNCM đã phản đối và đặc biệt tướng Đính đã nổi giận dữ dằn, đập điện thoại và gục đầu khóc ngay tại văn phòng của ông ở trại Lê Văn Duyệt (mặc dù theo ký giả David Habertam của tờ New York Time số ra ngày 6-1-1963 thì ông Đính là người phản bội ông Diệm, nếu không có sự phản bội của tướng Đính thì cũng chưa có cuộc đảo chánh 1-11-1963)
Thi hài anh em TT Diệm được đặt trong hai bộ quan tài thuộc loại trung bình rồi được âm thầm an táng trong vòng thành Bộ Tổng Tham Mưu với sự hiện diện của người cháu gái. Hai anh em ông được làm thủ tục khai tử tại quận Tân Bình. Về nghề nghiệp của Tổng Thống Diệm được ghi là Tuần Vũ và ông Nhu là Quản Thủ Thư Viện.
Khi tướng Nguyễn Hữu Có làm Tổng Tham Mưu Trưởng đã nghe lời một thầy địa lý và bói số cho rằng, nếu không cải táng anh em ông Diệm đến một nơi khác thì sẽ còn đảo chánh. Do đó di cốt anh em Tổng Thống Diệm được đưa ra nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi.
CHƯƠNG II
NGƯỜI SỐNG VÀ NGƯỜI CHẾT
1 giờ 30, Sài Gòn ngái ngủ trong ánh nắng gay gắt. Từng loạt súng nổ làm thức giấc dân Đô Thành. Tin đảo chánh lan truyền trong dư luận từ mấy tháng nay bây giờ đã trở thành sự thực. Nhưng ai làm vụ này và rồi ra sao?
Trong một quán cóc vùng Cống Bà Xếp Lê Văn Duyệt, bốn chàng thanh niên ngồi uống cà phê, nghe ngóng tình hình.
Chàng thứ nhất: Lật đổ đi cho xong, dân chúng chán ngấy rồi. Nghẹt thở quá chịu sao nổi.
Chàng thứ hai: Chuyến này, anh em Quốc Gia có làm nên trò trống gì không. Lúc này, đảo chánh là nguy hiểm.
Chàng thứ ba: Dù thế nào cũng phải duy trì ông Diệm ở vị trí Quốc Trưởng.
Chàng thứ Tư: Đã dẹp là dẹp hết…phải làm mới lại hết, phải thay đổi tất cả.
Bốn chàng thanh niên đều là cán bộ của VNQDĐ, một chàng nhà văn mơ tưởng đến ngày huy hoàng của Cách Mạng. Một chàng tín đồ Phật giáo thuần thành trong lòng vẫn còn mối cừu hận đêm 21-8 Cảnh Sát và Lực Lượng Đặc biệt tấn công chùa. Còn hai chàng tín đồ Thiên Chúa Giáo. Họ đang bàng hoàng trước giờ khởi điểm của một biến chuyển lịch sử.
Ai đây sẽ lãnh đạo quốc gia? Những khuôn mặt lớn nào xuất hiện? Lúc ấy, dám chắc rằng không một ai có thể liệu Phó Tổng Thống Thơ sẽ làm “Cách Mạng”. Nhưng cũng không ai ngạc nhiên thấy Trung Tướng Dương Văn Minh trở thành Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.
Hầu hết giới trẻ lúc ấy đều mơ ước Miền Nam có được một cuộc Cách mạng thực sự trên nền tảng quốc gia dân tộc. Cho nên khi nghe tin Đảo Chánh với một Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thì không ai khỏi phấn khởi…
Bốn chàng thanh niên trên, thức gần trắng đêm nghe tin Cách Mạng và nghe súng nổ từng giờ hồi hộp lo âu.
Sáng ngày 2-11-63 Saigon bốc bừng trong một khí thế vũ bão. Đường phố đông nghẹt những người… Các Phật Tử đua nhau tiến về chùa Xá Lợi, Giác Minh, Từ Quang để thăm hỏi tin tức các Thày…Thanh niên nam nữ lũ lượt kéo nhau lên Dinh Gia Long và thành Cộng Hòa.
Thế là cáo chung một chế độ.
9 giờ 15, Đài Phát Thanh loan tin: “Anh em ông Diệm và ông Nhu đã tự tử”.
Tại sao lại tự tử?
Hàng ngàn người nô nức kéo nhau ra đường như một ngày đại hội. Thanh niên nam nữ trong niềm khát vọng thực, trong nhiệt tình chan hòa của giòng máu nóng tuổi trẻ kéo đến kéo nhau từng lớp lớp về phía trung tâm thành phố. Quân Cách mạng được nhiệt liệt hoan nghênh và được dân chúng tặng quà với sự tán thưởng như các vị anh hùng của dân tộc.
Chàng thanh niên tên Thịnh, tên Tụy, tên Vĩnh không thể tin anh em ông Diệm tự tử…Ba chàng thanh niên cúi đầu đọc cho hai ông một kinh Lạy Cha cùng với lời nguyện cầu trong tâm tưởng…
Chàng thanh niên tên Trâm, tên Duyệt lòng tràn đầy phấn khởi với bao nhiêu niềm tin vào Cách mạng. Đảng sẽ hồi sinh sau bao nhiêu năm thoi thóp…Các anh sẽ làm tất cả, dựng lại Đảng tích cực dấn thân…
Từng đoàn thanh niên nam nữ hè nhau đi đập phá trụ sở Việt Tấn Xã và 9 tờ báo được coi là thân chính quyền. 26 trụ sở các hội đoàn được coi là của chính quyền cũng bị đập phá tan hoang.
Tướng Dương Văn Minh trở nên một thần tượng mới. Tướng Đôn, Đính được suy tôn như các vị anh hùng lỗi lạc.
Tư thất của một số nhân vật thuộc chế độ cũ cũng bị đám đông kéo đến đập phá. Thiệt hại nặng nề là tư thất của các ông Ngô Trọng Hiếu, Cao Xuân Vỹ. Đám đông nam nữ reo hò vang dậy. SV Thịnh hồi tưởng lại khí thế trong những ngày đầu Cách Mạng anh cho rằng, “Quả thực đã có một giờ Cách Mạng, một ngày Cách Mạng trào dâng trong nhiệt huyết tuổi trẻ và nhiều tầng lớp dân chúng…Khí thế lúc ấy như vũ bão…” Đám đông sinh viên học sinh tràn vào trụ sở phong trào Phụ Nữ Liên Đới đập phá tan hoang và tinh thần lên cao.
Chế độ Ngô Đình Diệm cáo chung trước hết là do kết quả của những chùm mâu thuẫn nội bộ và sự góp công lật đổ chế độ của một số viên chức thư lại chỉ biết cúi đầu thi hành, không một sáng kiến mới và xây dựng chế độ.
ANH ĐI ĐƯỜNG ANH TÔI ĐI ĐƯỜNG TÔI
Sự xuất hiện của Tướng Khánh trên chính trường VN cùng với sự ủng hộ tích cực của Mỹ qua vai trò của Cabot Lodge đến hai ông Minh, Thơ là một đôi bạn tâm giao, thân thiết. Ông Thơ ông Minh cũng như tấm tình thân thiết đối với ông Ngô Trọng Hiếu và ông Huỳnh Hữu Nghĩa. Khi đảo chánh thành công thì tứ tài tử chia làm hai ngả: Ông Hiếu và ông Nghĩa rủ nhau vào khám Chí Hòa. Ông Thơ và ông Minh lên đến hàng tột đỉnh“công danh“. Tại sao lại như vậy? Một lớp người từng lương cao bổng hậu của chế độ cũ song một phần thì nối tiếp nhau đi vào khám Chí Hòa, hay nếu không cũng bị vong gia bại sản. Còn một phần khác nối đuôi nhau tiến lên theo ngọn triều Cách Mạng, chẳng qua đó cũng chỉ là bức tranh “vân cẩu” muôn đời của thế sự.
Những lý do nào khiến cho đôi bạn Thơ, Hiếu trong phút chốc kẻ được cách mạng hậu trọng như một vị “bán anh hùng” còn người thì bị lên án như một “hung thần” tay sai của vợ chồng ông Nhu.
Trước năm 1954, khi ông Thơ còn làm Tỉnh Trưởng Long Xuyên, thì ông Hiếu làm Trưởng Ty Ngân Khố và hai người trở thành bạn tri giao thân thiết. Ngoài Tướng Minh với ông Hiếu, ông Thơ còn một người bạn tâm giao khác là ông Huỳnh Hữu Nghĩa nguyên Bộ Trưởng Lao Động.
Phút chốc thế sự thay đổi, anh đi đường anh tôi đi đường tôi…ông Ngô Trọng Hiếu sau khi ra tù, ngày nay ở trong một căn nhà bình dân trong xóm Thị Nghè, sáng chiều leo lên chiếc vecspa cũ chỉ để đi dạy học, vào lớp nói tiếng Tây thả dàn ngâm Kiều, học Chinh Phụ Ngâm. Đêm đêm nằm tay vắt trán mà suy ngẫm trò đời. Cựu phó Tổng Thống Thơ từ ngày “thôi làm” Thủ Tướng lui về vui thú trong cảnh toại hưởng kỳ thanh lâu lâu đi Pháp một chuyến đi Nhật một chuyến…Và mới được Nhật tặng huy chương (1968).
Sự thực đối với chế độ cũ, Phó TT Thơ đã có công với rất nhiều người. Nhờ sự đề bạt của phó TT Thơ mà nhiều người có lương cao bổng hậu, áo mão xênh sang. Trong số người này có cả Tướng Tá, tổng bộ trưởng. Chính ông Ngô Trọng Hiếu cũng là người bạn chí tình của ông Thơ và được ông Thơ đề bạt lên TT Diệm (Chính phủ Ngô Đình Diệm thành lập ngày 7-7-1054, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã đề nghị cho ông Ngô Trọng Hiếu làm Tổng Trưởng Thông Tin nhưng sau đó có sự trục trặc nên ông Bùi Kiên Tín giữ chức vụ này). Chính ông Thơ đã giới thiệu và vận động để ông Hiếu đi làm đại diện Chính phủ tại Cambodge (hàng Đặc Sứ).
Sau này đôi bạn Hiếu Thơ trở thành xa lạ nhau trước hết chỉ vì nguyên nhân: Ông Hiếu bị coi là người thân tín của ông Ngô Đình Nhu, còn ông Thơ lại được TT Diệm không những kính nể mà còn coi nhau như tình anh em. Ông Nguyễn Ngọc Thơ rất kiêng kỵ những ai được coi là “người” của ông Nhu.
Tại sao như vậy? Báo chí ngoại quốc nói rằng Tướng Big Minh bị ông Nhu ganh ghét và loại trừ.
Điều đó có đúng không?
Ông Cố Vấn Nhu đã nghĩ về Tướng Big Minh như thế nào? Nhất là vai trò của Phó TT Thơ ra sao trong 9 năm của chế độ cũ và 3 tháng sau đảo chánh? Trong chương này xin nói lại cho rõ mà không nhắm tô hồng hay bôi đen ai.
MỘNG CÔNG HẦU
Sau ngày 1-11-1963, Một số đông chính khách đã có bụng mừng thầm là phen này thế nào họ cũng được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chiếu cố. Cụ thể hơn hết là cố làm sao vận động cho mình và phe đảng mình được tướng lãnh và các “Thầy” đề bạt vào ghế nào đó trong chính phủ Cách Mạng, mà do Tướng Dương Văn Minh đang thăm dò để chọn một số vị “lương đống quốc gia” chèo lái con thuyền VN trong một giai đoạn mới.
Trong 2 ngày 2 và 3 tháng 11 Tướng Minh rất bận rộn và phải dành nhiều thì giờ tiếp xúc với một số chính khách có tên tuổi.
Những người sau đây được coi là có nhiều hy vọng được chỉ định làm Thủ Tướng Chính Phủ: Quý ông Trần Văn Văn, Phan Huy Quát, Vũ Văn Mẫu, Trần Văn Hương, Nguyễn Ngọc Thơ…Ai cũng tưởng Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng sẽ không bao giờ đề cử cựu Phó TT Thơ làm thủ tướng vì như vậy “khó coi” nếu xét về tình cảm và “không thể được” nếu xét về cái lý.
Song như lịch sử đã diễn biến, cuối cùng chỉ có ông Nguyễn Ngọc Thơ được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng lựa chọn. Nói là Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng lựa chọn chỉ là cách nói theo nguyên tắc và trên văn từ. Thực tế không phải như vậy.
BÀN TAY PHÙ THỦY
Trước khi Đại Sứ Cabot Lodge thừa lệnh Hoa Thịnh Đốn cho bật đèn xanh vào giờ H dể các tướng lãnh bắt tay vào đại sự thì cũng vào lúc đó, trục liên lạc Hoa Thịnh Đốn-Saigon bắt đầu hoạt động từng giờ từng phút. Công việc đảo chánh đã trở thành “thứ yếu”. Điều quan hệ nhất đối với Hoa Thịnh Đốn là tìm được người thừa kế chính phủ Ngô Đình Diệm cho hợp tình hợp lý. Cái tình ở đây phải hiểu là hợp “hảo ý” của giới chức Mỹ, phải được lòng “các thầy” trong hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo và đồng thời có thể làm cho đồng bào Thiên Chúa Giáo được an tâm. Ông Lodge vốn là một tay “cao thủ” trong ngành ngoại giao Mỹ và từ lâu bị nghi ngờ có những hoạt động riêng cho cơ quan CIA.
Tuy vậy, ông ta luôn luôn tỏ ra tôn trọng những nguyên tắc ngoại giao. Từ sáng ngày 2-11 ông Lodge đã tiếp xúc rộng rãi với ngoại giao đoàn nhất là mấy vị đại sứ mà ông Lodge quan tâm nhất đó là các đại sứ Anh, đại sứ Nhật sau nữa là Tòa Khâm Sứ đại diện cho toàn thánh Vatican tại Quốc Gia VN. Dĩ nhiên là tòa khâm sứ đã hoàn toàn dè dặt và chỉ cư xử với ông Lodge theo mức độ ngoại giao bình thường.
Lúc đầu đã có một vài ứng viên được giới chức Mỹ lưu tâm và dùng làm trái ballon nhỏ để thăm dò. Đó là Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, cựu Ngoại Trưởng của Tổng Thống Diệm, một vài người Mỹ thuộc phòng chính trị tòa Đại Sứ Hoa Kỳ cho rằng, ông Mẫu vừa có tiếng trong giới ngoại giao, vừa có thành tích đối với Phật Giáo nhân vụ giáo sư Mẫu “xuống tóc” và qua Ấn Độ hành hương để gọi là phản đối chính phủ về vụ Phật Giáo. Ông Mẫu lại là một luật gia tên tuổi khéo léo mềm mỏng. Tuy vậy, một vài giới Mỹ không hài lòng vì một điểm duy nhất vì GS Mẫu là người Bắc Việt di cư. Lập trường của ông Mẫu lại không rõ rệt, ông không được lòng tin cậy của Phật giáo như các nhà “lãnh đạo mới” đồng thời một số người khác lại coi Giáo Sư Mẫu như một người có trách nhiệm về sự ám sát tinh thần (Assasitnat Moral) đối với chế độ của TT Diệm. Theo giới am tường chính sự tại HĐQNCM thì ngay các tướng lãnh cũng “lờ mờ” không ai biết ai sẽ được chỉ định làm tân Thủ Tướng và nhiều vị tướng trong HĐ cho đến phút chót mới biết tin ông Thơ được chỉ định.
Trọn ngày 3-11-1963, giới chức Mỹ vẫn chưa dứt khoát trong việc“khuyến cáo” Tướng Minh chỉ định.
Ngoại Trưởng Dean Rusk cũng như Thứ Trưởng Harriman dĩ nhiên trong cương vị của họ không thể bày tỏ ý định nào. Nhưng qua những cuộc đàm đạo với ĐS Lodge một số chính khách Việt Nam cũng đã hiểu được rằng, người Mỹ muốn một thủ tướng thuộc type “ôn hòa trung dung” được hiểu theo cái nghĩa thư lại bàn giấy. Khuynh hướng Thượng Tọa Trí Quang vẫn còn xa lạ với GS Mẫu.
Giới chức Mỹ muốn được tiếp tục đều đặn như không có chuyện gì xảy ra nghĩa là ông Diệm chết là chuyện riêng còn chế độ của ông thì vẫn cần duy trì miễn sao thuận tình cảnh mới. Sau này, người ta cho rằng, Đs Lodge bị Phật Giáo cho vào mê hồn trận và xỏ mũi và đồng thời Mỹ cũng như HĐQNCM đã bị chi phối bởi áp lực rất mạnh mẽ của phía Phật Giáo. Sự thực như thế này: HĐQNCM có thể chịu sự chi phối mạnh mẽ như vậy, song ông Đại Sứ Lodge thì không.
Cái vẻ bề ngoài thì Đại Sứ Lodge nghiêng hẳn về phía Phật Giáo của các Thượng Tọa Tâm Châu và Trí Quang. Nhưng trong đường hướng mới của Mỹ. Ông Lodge đã “lựa chọn” phía Phật Giáo Nam Việt (Mai Thọ Truyền).
Vì giản dị, Phật Giáo Nam Việt trong quá khứ được coi là hiền hòa, không có những tham vọng chính trị là một tập thể tương đối thuần thành về phương diện tôn giáo. Hơn nữa phía Phật Giáo Nam Việt sau 1-11-1963 đã tỏ ra dè dặt, hay đúng hơn, tách khỏi các thầy Tâm Châu và Trí Quang.
Trong một chiến thuật giai đoạn thì Đại Sứ Lodge phải đi với phe Phật Giáo của các Thượng Tọa Tâm Châu và Trí Quang. Trong một chiến lược và từ cục bộ đến toàn bộ, thì ông Lodge không thể xử dụng người của khối này trong tư thế thủ tướng chính phủ vì đây được coi là khởi điểm của lộ trình mới. Do lẽ đó, ông Lodge đã khuyến cáo Tướng Minh nên tìm người này người nọ. Ông Lodge rất khôn khéo không chỉ rõ đích danh ai nhưng với một số tiêu chuẩn nào đó Tướng Minh có thể tìm ngay được vị Thủ Tướng hợp ý với ông lại hợp ý đại sứ Mỹ.
TUỒNG MỚI KÉP CŨ
Người đó như lịch sử đã ghi: Theo Hiến Ước tạm thời số 1; Tướng Minh với tư cách Quốc Trưởng đã chỉ định ông Nguyễn Ngọc Thơ thành lập chính phủ: Sắc lệnh lại do chính ông Nguyễn Ngọc Thơ ấn ký. Thành phần gồm 14 Tổng Bộ Trưởng chia ra 4 sắc thái rõ rệt:
1- Chuyên viên Kỹ Sư Trần Ngọc Oánh, Phạm Hoàng Hồ.
2- Chính trị gia “không ưa” chế độ cũ (nhưng lại có ít nhiều liên lạc bí mật) là GS Âu Trường Thanh.
3- Tướng lãnh gồm 3 vị được coi là thân cận của Tướng Minh.
4- Còn lại là các vị thuộc chế độ cũ từng là then chốt trong guồng máy của chế độ đó (từng là Tổng Thơ Ký Phủ Tổng Thống như ông Nguyễn Thành Cung đến Kỹ Sư Trần Lê Quang là một chuyên viên được TT Diệm thương yêu và coi như người trong nhà).
Một vài vị khác được coi là chế độ cũ nếu hiểu như một công chức và quân nhân của mọi triều đại). Những Tổng Bộ Trưởng đều là người của chế độ cũ tuy được “Cách Mạng” xài tạm song trước hết phải là người của ông Thơ nếu không thì cũng không bị ông Thơ ghét hay bị nghi ngờ là người của ông Nhu. Ông Thơ có thể chấp nhận một cách vui vẻ nếu cộng sự viên là “con cái” của TT Diệm song ông sẽ quay mặt đi và coi như kẻ đáng ghét nhất nếu ai đến với ông mà trước đây lại từng được ông Nhu tin cẩn trọng dụng. Đó cũng là đầu mối của tấm thảm kịch “chế độ Ngô Đình Diệm“.
Việc chỉ định ông Nguyễn Ngọc Thơ được làm Thủ Tướng mặc dầu người Mỹ đã lượng tính trước sự bất hợp tác của khối Phật Giáo và đảng phái nhất là ông Thơ lại không thể tìm được cảm tình đối với đa số Phật tử Hòa Hảo… Tất nhiên là Cao Đài cũng không ủng hộ. Biết như thế người Mỹ vẫn tiến hành và tích cực khuyến cáo Tướng Minh. Bởi vì giản dị là người Mỹ có sẵn một giải pháp mà ông Lodge đang bỏ túi. Tạm thời trong lúc chuyển tiếp phải có ông Thơ (cũng như khi “giải pháp” ấy được ném ra tức là lúc Tướng Nguyễn Khánh được đem lên diễn đài thì ông Lodge vẫn phải khuyến cáo tích cực để Tướng Minh đóng vai trò “tạm thời trong lúc chuyển tiếp”.
CHẾ ĐỘ DIỆM KHÔNG DIỆM
Dù không được lòng ai, dù bị mang tiếng đã làm sống lại một chế độ“Diệm không Diệm” song sự lựa chọn ông Thơ có nhiều cái hợp lý :
1) Ông Thơ là bạn tri kỷ của Tướng Minh.
2) Ông Thơ đã quen việc trong suốt 9 năm của chế độ cũ.
3) Ông Thơ trước sau vẫn là đốc phủ sứ với tất cả cái nghĩa của giới này trước năm 1945. Ông Thơ dầu sao vẫn là một địa chủ nên người Mỹ có đủ yếu tố để tin tưởng vào lập trường địa chủ của ông.
4) Ông Thơ tuy làm quan lại thời Pháp nguyên Bí Thư Toàn Quyền Decoux nhưng ông Thơ không phải là mẫu người được Pháp đào tạo, từ truyền thống văn hóa Pháp như ông Ngô Đình Nhu hay Kỹ Sư Trần Văn Văn v.v… Điều mà người Mỹ rất ngại.
Có một dư luận trong chính giới thân Mỹ lúc ấy là: Nếu không có sự thảm sát anh em TT Diệm thì Đại Sứ Trần Văn Chương đã trở về nước và ông có nhiều hy vọng làm thủ tướng. Song vì con rể ông bị thảm sát, một nhạc gia tất nhiên không thể làm như vậy (đây chỉ là một dư luận được tung ra để thăm dò vào lúc ấy). “Cũng nên ghi thêm, ngày 28-10-1963 nguyên Đại Sứ Trần Văn Chương đã lên tiếng công kích nặng nề chế độ TT Diệm và con rể ông”.
Kể từ ngày 4-11 phe các Tướng Minh, Đôn, Kim, Xuân, Đính trở thành ngũ hổ song sự phân hóa trong HĐQNCM càng trở nên rõ rệt mỗi bên đều đề cao cảnh giác.
Một số đơn vị tham dự đảo chánh được điều động ra khỏi đô thành. Một số sĩ quan cấp tá như Phạm Ngọc Thảo bị theo dõi sát nút (Đại Tá Đỗ Mậu được thăng thiếu tướng nhưng vô quyền sau được bổ nhiệm Tổng Lãnh Sự Việt Nam tại Hong Kong).
Tuy mấy tướng lãnh như Xuân, Đôn, Đính, Kim…đang có thực quyền sinh sát trong sự “hiện diện” của một vài tướng lãnh cũng như sự xuất hiện của cựu Trung Tá Trần Đình Lan đã làm cho giới chức Mỹ không hài lòng. Người Mỹ không những “kỵ” văn hóa Pháp mà “kỵ” cả nhưng ai bị nghi ngờ “người của Pháp”. Như thế, ta cũng hiểu được rằng, trong lúc mà Mỹ tin tưởng sẽ chiến thắng Cộng Sản bằng con đường và cách thức của Mỹ thì ở đây, Mỹ có thể chấp nhận CS nằm vùng (nếu sự nằm vùng có lợi về phía Mỹ) song không thể chấp nhận sự hiện diện và thao túng của Phòng Nhì cũng như các tay phản gián Pháp.
Đó cũng là lý do khiến Trần Đình Lan cũng như Vương Văn Đông phải cuốn gói ra đi mặc dù hai người này đã có thành tích “diệt Cộng” khét tiếng trước năm 1954. (Thực ra thì cơ quan CIA Mỹ cũng biết rõ rằng, Trần Đình Lan hay Vương Văn Đông sẽ không làm nên trò trống gì nhưng họ lại dùng hai sĩ quan thân Pháp này như một bằng chứng cho “hồ sơ” được gọi là Trung Lập của bộ ba Minh, Kim, Xuân và bằng chứng đó là một phần “luận cứ” để biện minh cho cuộc chỉnh lý của tướng Khánh).
BÀN TAY MÓC NỐI
Khi Phó Tổng Thống Thơ được chỉ định thành lập Chính Phủ đồng thời các đảng phái, Phật Giáo cũng tiêu tan hy vọng mà họ vẫn thường hướng về HĐQNCM coi như đấy là nơi sẽ có nhiều phép lạ xây dựng cơ đồ cho đất nước.
Thủ Tướng Thơ trả lời báo chí dạo đó là thủ tướng đã có ý định từ chức Phó TT từ dạo tháng 9 tháng 10… nhưng Trung Tướng Dương Văn Minh cản ngăn (?) vì sợ hỏng chuyện. Thủ Tướng Thơ cũng cho biết ông có biết về những kế hoạch lật đổ TT Diệm. Sau này một vài người bạn thân của ông Thơ cho rằng, đó chỉ là cách ông Thơ biện minh cho sự hiện diện của ông khi được “cách mạng” trọng dụng. Sự thực, trước ngày 1-11-1963 kể cả bạn bè thân cận của Phó TT Thơ chưa bao giờ thấy ông ngỏ ý từ chức Phó Tổng Thống, ông Thơ chỉ thực sự bị từ chức Phó Tổng Thống khi cuộc đảo chánh thành công.
Vai trò của ông Thơ đã liên hệ như thế nào đối với TT Diệm và Trung Tướng Minh sau này? Trước hết, Tướng Minh khi còn là trung tá đã được ông Nguyễn Ngọc Thơ đề bạt lên TT Ngô Đình Diệm (1954) và cũng nhờ sự đề bạt của ông Thơ nên TT Diệm đã một thời hoàn toàn tin cậy tướng Minh.
Như đoạn viết đã viết trên, Phó TT Thơ là bạn tâm giao với Tướng Dương Văn Minh và hai ông Hiếu và Nghĩa.
Khi TT Diệm còn hoạt động ở trong bóng tối, ông Huỳnh Hữu Nghĩa được coi là một cán bộ giao liên tin cẩn. Chính ông Nghĩa đã có công “móc nối” giữa anh em TT Diệm và Trung Tướng Trịnh Minh Thế. Đồng thời TT Ngô Đình Diệm quen biết Phó TT Thơ cũng do sự móc nối của ông Nghĩa. Rồi Phó TT Thơ lại là người móc nối Trung Tá Dương Văn Minh (1954) với TT Diệm. Đó cũng là cái “vòng vo thân hữu” nhiều khi không cần tài cho lắm, song nếu có anh em đưa đẩy đề bạt thì vấn đề tạo lập công danh kể như truyện đi du ngoạn lại trúng số “cá cặp”
ĐỊA PHƯƠNG
Khi ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh, có hai vấn đề mà TT Diệm quan tâm bậc nhất về phương diện nội bộ:
1) Yếu tố nhân sự và vấn đề nhân sự miền Nam.
2) Thành phần lãnh đạo trong quân đội. Ông Ngô Đình Nhu mấy năm đầu vẫn quan niệm dứt khoát rằng, Bắc, Nam, Trung không thành vấn đề. Điều quan trọng là họ có làm được không? Song TT Diệm tế nhị hơn ông em điều này: “Phải dùng người sinh quán tại miền Nam ít nhất cũng phải theo một tỷ lệ tương đối so với dân số Nam phần”. Cũng bởi lý do đó ngay từ buổi đầu, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã được TT Diệm lưu tâm đặc biệt. Ông Thơ lại có một quá khứ “hành chánh” hợp nhãn giới TT Diệm vì ông Thơ là một đốc phủ sứ.
Theo quan niệm của TT Diệm thì đó là một giới “biết việc” cho nên không phải chỉ riêng một ĐPS Nguyễn Ngọc Thơ được trọng dụng mà nhiều ĐPS khác đã được TT Diệm đặc biệt cất nhắc như trường hợp Đốc Phủ Sứ Hải, Đốc Phủ Sứ Công.
TT Ngô Đình Diệm lại dùng ông Thơ như một tâm điểm để móc nối với hàng ngũ quan lại và địa chủ tại miền Nam. Trong 2 năm đầu 1954-1956 ông Thơ đã thành công trong nhiệm vụ này. Uy tín của ông đối với TT Diệm càng ngày càng vững chắc, nhất là ông Thơ được coi như người có công lớn trong vụ tướng Hòa Hảo Ba Cụt, cùng các vụ giàn xếp với mấy nhóm Hòa Hảo khác (Nhóm Hòa Hảo Trần Văn Soái tự Năm Lửa, Lâm Thành Nguyên Nguyễn Giác Ngộ). Trong chế độ NĐD có hai người được TT Diệm kính nể đó là Ngoại Trưởng Vũ Văn Mẫu và Phó TT Nguyễn Ngọc Thơ. Riêng ông Thơ, TT Diệm thường nói với Phó TT Thơ đại khái: “Ngài thấy thế nào? Ngài đi dùm tôi việc này” Trong những lúc không có mặt ông Thơ. Ông Diệm vẫn thường “một tiếng Phó TT hai tiếng Phó TT. Cụ Phó như thế, ngài như vậy”. Rất ít khi TT Diệm gọi ông Thơ bằng “ông”. Về phía quân đội, khi về nước chấp chánh, TT Diệm coi như “trắng tay” không có một tên quân, không có một tên tướng tá nào được coi là “người của mình”. Trong lúc hoàn toàn thiếu cán bộ quân sự tin cẩn, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã đề bạt Trung Tá Dương Văn Minh. Tất nhiên là TT Diệm rất hoan hỉ chấp nhận. Trong đó Trung Tá Minh được coi là sĩ quan cấp tá được TT Diệm yêu mến tin cẩn nhất. Trung Tá Minh lần lượt được trao phó các chức vụ quan trọng như Tư Lệnh chiến dịch Rừng Sát và chiến dịch bình định tại miền Tây. TT Diệm vẫn coi tướng Minh là một thứ “homme de bataille”…Sau vụ chiến thắng Rừng Sát, Đại Tá Minh dẫn đầu đoàn quân tiến về thủ đô đi trên đại lộ Catinat rồi về Dinh Độc Lập…. trước bao nhiêu tiếng hoan hô vang dậy. Báo chí của nhà nước lại được dịp thổi phồng, tán dương rất bay bướm. TT Ngô Đình Diệm sáng hôm ấy đã sẵn sàng ở thềm Dinh Độc Lập để đón mừng “Người anh hùng Rừng Sát“… Sau này TT Diệm vinh thăng Đại Tá Minh lên Thiếu Tướng.
TƯỚNG KHÔNG QUÂN
Xét về hai con người, một Phó TT Thơ và một Tướng Dương Văn Minh thì Tướng Minh được TT Diệm trọng hậu ngay từ buổi ban đầu và nổi bật một cách dễ dàng. Ông trở thành ngôi sao sáng trong hàng tướng tá kể từ đầu năm 1955. Ông Thơ phải đợi đến năm 1956 mới được bổ nhậm Phó Tổng Thống, mặc dầu ông đã tham gia chính phủ đầu tiên của TT Diệm với tư cách Bộ Trưởng Nội Vụ (7-7-1954) Song vai trò còn lu mờ và chỉ như một viên chức phụ tá Thủ Tướng. Tướng Minh càng ngày càng được TT Diệm tín nhiệm và yêu mến nhờ hội được mấy điều kiện mà TT Diệm cho là xứng đáng theo hai tiêu chuẩn :
1) Tướng Minh có vóc dáng một Tướng lãnh đàng hoàng.
2) Tướng Minh không có những vụ lem nhem vì “vợ nọ con kia hay bài bạc”. Hơn nữa, do sự kính mến Phó TT Thơ nên TT Diệm cũng mến tướng Minh.
Khi thành lập Bộ Tư Lệnh Hành Quân, Tướng Minh được chỉ định là Tư Lệnh , lúc ấy ông đã đeo lon ba sao và nguyên là Tư Lệnh Quân Khu Thủ Đô. Giới thân cận của TT Diệm cho rằng TT Diệm đặc biệt lưu tâm đến Bộ Tư Lệnh Hành Quân và đề cử Tướng Minh. TT Diệm coi như là một tín nhiệm đặc biệt. Ông Diệm rất mù mờ về lãnh vực quân sự. Hai tiếng Hành Quân đối với ông là cả một sự trọng đại. Khi chỉ định Tướng Minh, TT Diệm đã cho rằng chỉ có Tướng Minh mới xứng đáng vì TT vẫn cho rằng Tướng Minh là một homme de bataille.
Tuy vậy, Tướng Minh lại không mấy ham chức vụ “không quân” này.
Tướng Minh thường tỏ ra không hảo ý với vị Trung Tướng Tư Lệnh Quân Khu Thủ Đô (trước ngày 11-11-1960). Tướng Minh vẫn phê bình công khai là ông Trung Tướng này “nhẩy dù-đi tắt“…
Trước vụ 11-11-1960, chế độ cũ không hề thắc mắc đến Tướng Minh vì coi ông là người thân tín của “ông cụ”. Nhưng sau ngày 11-11-60 vì Tướng Minh tuyên bố đứng trung lập giữa chính quyền và phe đảo chánh (báo Journal Extrême Orient 13-11-1960) rồi lại có báo cáo là trước ngày đảo chánh Tướng Đôn có vào Saigon và gặp Tướng Minh cũng như Tướng Kim ở ngay Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Đó cũng là lý do làm cho Tướng Minh bị xa dần chế độ.
TỚI LUI ĐÚNG LÚC
Ông Nguyễn Ngọc Thơ đã có một hành động hết sức đẹp trong dịp cải tổ chánh phủ ngày 24-9-54 (với sự tham gia rộng rãi của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo) hành động đó như sau: Ông Thơ nguyên tỉnh trưởng Long Xuyên vốn là khu vực được coi như là lãnh thổ của Hòa Hảo, giáo phái này từ lâu tỏ ra “thiếu thân thiện” nếu không nói hiềm khích đối với ông Thơ. Sau khi trở thành Bộ Trưởng Nội Vụ của chính phủ Ngô Đình Diệm, ông Thơ lại càng bị Hòa Hảo nghi ngờ. Trong lần cải tổ chánh phủ vào tháng 9 kể trên, phe Hòa Hảo Trần Văn Soái “lên tiếng” với ông Ngô Đình Nhu rằng họ chỉ tham gia chính phủ với điều kiện này điều kiện kia trong đó có một điều kiện không chấp nhận sự có mặt của ông Thơ trong thành phần nội các mới.
TT Ngô Đình Diệm phản đối với lý do, từ ngày ông Thơ lên làm Bộ Trưởng Nội Vụ cho đến lúc ấy, ông Thơ chưa có một lầm lỗi nào trái lại ông đã làm việc một cách tận tâm đắc lực. TT Diệm nhất quyết không nhượng bộ phe Trần Văn Soái về điểm này. Khi hai bên chính phủ và Hòa Hảo còn đang “marchander” ông Thơ biết việc này, chính ông nói với TT Diệm xin tự ý rút lui để TT Diệm xử trí với phe Hòa Hảo.
Vì biết phe Hòa Hảo coi ông Thơ như kẻ thù, TT Diệm tìm cách để ông “vắng mặt” một thời gian, đó cũng là ý muốn của ông. Vì vậy, ông Thơ được bổ nhiệm làm Đại Sứ Việt Nam tại Nhật Bản. Vào tháng 4-1955 sau khi chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia tan vỡ, Trần Văn Soái, Lương Trọng Tường từ chức…. Hòa Hảo chống lại chính phủ Ngô Đình Diệm và miền Tây mịt mờ khói lửa, ông Đại Sứ Nguyễn Ngọc Thơ được gọi về nước, vẫn giữ nguyên chức vụ Đại Sứ song ông được Tổng Thống Diệm trao phó cho nhiệm vụ đặc biệt giải quyết tất cả các vấn đề chính trị tại miền Tây. Ông Thơ được coi là đại diện Thủ Tướng Chính Phủ trong việc kiểm soát chiến dịch bình định và thu xếp vụ Hòa Hảo.
Sau khi vụ Hòa Hảo được coi như thanh toán xong, ông Thơ lại trở qua Nhật. Đó cũng là ý muốn của ông.
Thực ra ông Thơ muốn tự mình “làm mờ” vai trò của mình trong vụ Hòa Hảo nhất là vụ bắt tướng Hòa Hảo Lê Quang Vinh mà ông Thơ là người có trách nhiệm. Ông trở qua Nhật là vì vậy mặc dù Thủ Tướng Diệm có ý giữ ông ở lại nước nhận một chức vụ quan trọng hơn.
NGÀY TRỞ VỀ
Tháng 3-1956, Tướng Hòa Hảo Trần Văn Soái trở lại hợp tác với chính phủ, Tướng Dương Văn Minh họp báo nói về trường hợp qui thuận của Tướng Soái, chiến dịch miền Tây được coi như kết thúc. Tương Minh cho biết, chiến dịch Hoàng Diệu đã tịch thu được 20 ký vàng 16 triệu 1/2 bạc mặt số tiền này ông đem nộp cho chính phủ và dùng xây cất một Cô Nhi Viện Quốc Gia. Đồng thời 5656 sĩ quan và binh sĩ Hòa Hảo đã về hợp tác với chính phủ trong một buổi lễ tại Cái Vồn (8-3-56). Vấn đề Hòa Hảo miền Tây coi như xong. Ông Nguyễn Ngọc Thơ lúc ấy mới công khai tham chánh và được bổ nhiệm Bộ Trưởng Kinh Tế thay thế Bộ Trưởng Trần Văn Mẹo (16-5-1956).
Tuy hai ông Diệm Nhu muốn ông Thơ nắm Bộ Nội Vụ vì TT Diệm coi đó là sở trường của ông Thơ nhưng ông Thơ không nhận và ông chỉ thích Bộ Kinh Tế, ông Thơ chính thức trở thành người của chế độ. Trong buổi tiếp tân vào tối ngày 26-10-1955- Quốc Khánh đầu tiên của Đệ Nhất Cộng Hòa, ông Thơ xuất hiện bên cạnh TT Diệm với tư cách Phó Tổng Thống. Buổi tiếp tân hôm ấy, trong bộ nhung phục mới của cấp tướng, Thiếu Tướng Minh được mọi người chú ý đặc biệt vì ông đã trở thành “con cưng”của chế độ và đang được Tổng Thống thương yêu. Bạn bè của PTT cũng lên vù vù từ đó.
NỖI BUỒN NHO NHỎ
Vì không mấy khi được ông Nhu tham khảo về chính sự, Phó TT Thơ mỗi ngày càng xa cách ông cố vấn với mặc cảm rằng, ông Nhu chỉ là một Cố Vấn. Đối với công quyền ông không có “ký lô” nào vì ông cố vấn không phải là một “titre officiel”. Phó TT mới là nhân vật số 2. Do đó ông phải hơn ông Nhu và sẽ không cần biết ông Nhu, chỉ cần biết Tổng Thống. Tuy vậy, mỗi lần gặp ông Nhu, PTT Thơ vẫn mềm mỏng, khôn khéo và tỏ ra rụt rè. Tuy bên trong, có lẽ, Phó TT Thơ không được hài lòng do một số những bất mãn nào đó, có khi chỉ là chuyện rất tầm thường.
Thí dụ như vụ Thiếu Tá Đỗ Kiến Nhiễu, Tỉnh Trưởng Long Xuyên (1957). Thiếu Tá Nhiễu được coi là người thân của gia đình phó TT Thơ và ông Thơ đề bạt cho về làm tỉnh trưởng nơi quê hương của ông. Ông Nhiễu làm tỉnh trưởng tỉnh này khá lâu. Sau vì một vụ “sì căng đan tình ái” ông Nhiễu bị mất chức. Vì sì căng đan này đã làm sôi nổi dư luận miền Tây. Nội vụ đại cương: Một sĩ quan cao cấp của Hòa Hảo bị bắt. Ông ta có một cô vợ khá nhan sắc… Nghe đâu trong một dịp ông Nhiễu gặp mặt mụ này làm ầm lên, gây sì căng đan lớn… không hiểu trong vụ Hòa Hảo có âm mưu hạ uy tín ông Nhiễu hay không?
Ông bị thuyên chuyển và Thiếu Tá Nguyễn Văn Minh được thay thế. Thiếu Tá Minh là một sĩ quan trẻ, cũng có ít nhiều liên hệ với Phó TT Thơ. Trước khi được làm Tỉnh Trưởng Long Xuyên, ông Minh là Thanh Tra Bảo An tại mấy tỉnh Hậu Giang. Sau vụ này, Phó TT Thơ tỏ ra phiền muộn không ít. Thiếu Tá Minh bị “phe” của PTT Thơ nghi ngờ là người của ông Nhu. Đó cũng là lý do sau ngày 1-11-63 ông Nguyễn Văn Minh bị “hành hạ” khá nhiều trước khi đi làm Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh (1966).
Còn một chuyện “phiền muộn” khác nữa chẳng hạn năm 1957 Thiếu Tá Nhan Minh Trang bị mất chức Tỉnh Trưởng Rạch Giá. Tuy Phó TT Thơ không nói ra, nhưng coi đó như một điều phiền muộn.
Thiếu Tá Trang gọi PTT Thơ là “dượng ruột” (sau đảo chánh được thăng Đại Tá và từng là chánh văn phòng của Thủ Tướng Thơ sau là Tỉnh Trưởng Gia Định). Về vụ này, chính đương sự là Thiếu Tá Trang không lấy làm gì bất mãn vì lỗi không do ông mà do sự “lem nhem” của ông Trưởng Ty Quan Thuế. Nhưng do sự không khéo của chính quyền khi lựa chọn người thay thế, đã không hỏi ý PTT Thơ, vì ông Thơ vẫn cho rằng mình thông thạo am tường dân miền Tây, nhất là 3 tỉnh Rạch Giá, Châu Đốc, Long Xuyên. Đó cũng là một điều làm ông Thơ không hài lòng chính quyền hồi đó đã thiếu kinh nghiệm tâm lý quần chúng và địa phương nên thay vì bổ nhiệm một tỉnh trưởng sinh trưởng tại miền Tây thì lại cử Trung Tá Hoàng Lạc là người Bắc di cư. Kinh nghiệm cho biết phàm những tỉnh miền Tây hay miền Đông đã có một sắc thái đặc biệt thì chính quyền không bao giờ bổ nhiệm một ông tỉnh trưởng người Bắc hay người Trung đó không phải là sắc thái địa phương đòi phải làm như vậy nếu muốn ông tỉnh trưởng “được việc” và chiếm được lòng dân. Bổ nhiệm Trung Tá Hoàng Văn Lạc có thể chính quyền hồi đó cho rằng Rạch Giá với khu định cư Cái Sắn phải gắn bó chặt chẽ với khối dân di cư thì ông Tỉnh trưởng là người Bắc sẽ thuận tiện hơn. Cũng cần ghi nhận: Thiếu Tá Nhan Minh Trang rất có công lao trong sự thành lập khu Dinh Điền Cái Sắn.
Dù vậy đã tạo nên một số ngộ nhận nhất là Trung Tá Lạc trước khi làm tỉnh trưởng lại là Tư Lệnh Lữ Đoàn LBPVTT.
NGỒI CHƠI XƠI NƯỚC
Tuy nhiên, sự việc không đơn giản như vậy. Đối với ông Thơ, chính quyền “của ông” lại gây cho ông một sự hiểu lầm to lớn hơn khác là khi chính phủ cải tổ ngày 28-5-1961, ông Thơ bị mất chức Bộ Trưởng Kinh Tế cho dù ông được nâng lên hàng Bộ Trưởng đặc nhiệm phối hợp phát triển kinh tế. Nhưng ông Thơ lại cho rằng chức đó chỉ “ngồi chơi xơi nước”…Ông đã hoàn toàn mất thực quyền về kinh tế. Tại một quốc gia tiến bộ, và trong một chế độ tiến bộ thì người lãnh đạo phải là người hoạch định và phối hợp kế hoạch chứ không thể là người chỉ biết cúi đầu thi hành kế hoạch. Nhưng một nước chậm tiến như VN người “lãnh đạo” không chịu như vậy họ chỉ thích đóng vai trò “thừa hành” để được thượng cấp sai khiến thuộc cấp.
Từ một tâm lý lãnh đạo như vậy, nên chức Bộ Trưởng đặc nhiệm phối hợp đã chả được “nước nôi” gì. Hơn nữa, người thay ông Thơ lại còn quá trẻ “tức ông Hoàng Khắc Thành ” (em Kỹ Sư Hoàng Kinh tốt nghiệp cao học thương mại) Nhất là ông Thành lại thuộc giới khoa bảng, mới hồi hương.
Trong khi đó ông Thơ tuy là đốc phủ sứ song không phải là dân khoa bảng.
Ông Thành lại là người Bắc và bị coi là tay chân của Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần. Ông Thành là người trẻ có khả năng, tính tình thẳng thắn, nhưng lại khá vụng về trong thuật xử thế nên ông Thơ cho rằng ông Thành đi thẳng với Phủ Tổng Thống về mọi vấn đề kinh tế, qua mặt ông Phó TT đặc nhiệm kế hoạch KT.
Từ những sự kiện lặt vặt như vậy đã tạo cho Phó TT Thơ có mặc cảm bị tước đoạt quyền hành và ông cho rằng phe ông Nhu đã “chơi” ông.
Khi ông Thơ không còn làm Bộ Trưởng Kinh Tế thì ông Ngô Trong Hiếu lại được cân nhắc lên làm Bộ Trưởng Công Dân Vụ một tay quán xuyến ba ngành Thông tin, Thanh Niên và Công Dân Vụ (thực tế thì chỉ có ngành Công Dân Vụ) ông Hiếu được coi là người của ông Nhu và mỗi ngày càng được chế độ tin dùng. Có lẽ đó cũng là lý do khiến cho đôi bạn Thơ, Hiếu mỗi ngày thêm xa cách nhau.
Kể từ chiến dịch Rừng Sát uy tín của Tướng Minh mỗi ngày một tăng cường trong quân đội. Uy tín đó phải công nhận rằng, guồng máy tuyên truyền (báo chí-đài phát thanh ) của chế độ cũ đã có công phát triển và hào quang hóa “anh hùng Rừng Sát” nhất là từ đêm liên hoan tại trường Pétrus Ký (1956) các đoàn thể đã không tiếc lời ca tụng Tướng Minh và các chiến sĩ Rừng Sát. Tướng Minh lại biết “tự làm vắng mặt mình” khi thấy cần, ít ồn ào và trầm lặng khó hiểu cho nên “huyền thoại Rừng Sát miền Tây” lại càng có dịp thêu hoa lá trong quân đội nhất là giới sĩ quan trẻ.
Trước năm 1963 Tướng Minh cũng chỉ đủ túc dụng hàng ngày không nghèo không giàu đó là ưu điểm để tăng cường uy tín của ông trong giới trẻ.
NGÀI NGOẠI TRƯỞNG
Như đã viết trên, nhiều tướng tá nhờ sự đề bạt của PTT Thơ nên suốt 9 năm của chế độ Ngô Đình Diệm đã được hưởng mũ áo xênh xang. Điển hình là ông Albert Nguyễn Cao.
Ông Cao khi là sĩ quan cấp Úy đã từng là sĩ quan tùy viên của Tướng Nguyễn Văn Hinh. Đáng lý ra khi Tướng Hinh đại bại thì ông Cao cũng khó lòng tiến thân được. Nhưng rồi nhờ “uy thế” của ông Thơ, Thiếu Tá Cao từ Trưởng Khu Dinh Điền Cao Nguyên leo lên Tổng Ủy Trưởng Dinh Điền. Thời Nguyễn Khánh được phong Chuẩn Tướng và Đổng Lý Văn phòng của tướng Khánh.
Bức tranh “vân cẩu” của thế sự đã diễn ra bao nhiêu “hình thù” hào quang một phút rồi đen tối cũng chỉ một phút.
Đã có bao nhiêu huyền thoại xây trên đổ vỡ và cái hèn mọn nhất của con người. Cũng nên nhắc lại nhân dịp nhắc đến “huyền thoại” này “huyền thoại” kia…trong 7, 8 năm làm Ngoại Trưởng thì GS Mẫu cũng là một huyền thoại, GS Mẫu vì được “ông cụ” kính nể. Cho nên mọi người cũng kính nể có khi đến độ “thần thánh” nhà trí thức đại khoa bảng này.
GS Mẫu là một luật gia uyên thâm Thạc Sĩ Tư Pháp Giáo Sư thực thụ Đại Học Luật Khoa Saigon). Sự ăn nói mạch lạc và cách đi đứng đàng hoàng của ông ta đã dễ dàng thu hút được cảm tình và sự kính nể của TT Diệm. Nhưng ông Diệm đã “vỡ mộng” đau điếng người khi ông Mẫu “xuống tóc” cho đến lúc sau này TT Diệm vẫn biện minh cho lòng kính nể ông Mẫu “Ngài đàng hoàng đấy, nhưng phải làm thế chỉ vì ngài nể bà Ngoại Trưởng” (ông Mẫu là người thứ hai sau ông Thơ được ông Diệm gọi là Ngài). Số là, giới cận thần tại Dinh Gia Long và Bộ Ngoại Giao bấy giờ cho biết: ông Ngoại Trưởng rất “vị nể” phu nhân. Phu nhân lại đau yếu luôn luôn vì bị mất một lá phổi. Phu nhân cũng như gia đình Ngoại Trưởng rất mộ đạo Phật. Thế nhưng trong vụ Phật Giáo trước tháng 8, NT rất im lặng, phục vụ.
Buổi sáng này 20-8 Ngoại Trưởng Mẫu còn hướng dẫn tân Đại Sứ Anh đến trình uỷ nhiệm thư tại Dinh Gia Long. Ông đã bày tỏ thái độ hoàn toàn đồng ý với chính phủ. Song buổi chiều ngày 21-8 đột nhiên ông Ngoại Trưởng lại xuống tóc phản đối. Đó là một hành động đẹp theo tinh thần kẻ sĩ Phương Đông. Nhưng dư luận lại cho rằng, ông phải làm như thế vì phu nhân làm áp lực quá dữ dội. Sau này, ông Nguyễn Đình Thuần thuật lại: “Nếu ông ấy xuống tóc và xin đi hành hương, nhưng đừng làm cái việc cố “vận động chạy chọt để đổi thật nhiều dollars, ba, bốn ngàn gì đó, thì cũng còn coi được“. Ông Thuần mà phê bình GS Mẫu như thế thì kể cũng hơi kỳ (Theo dự luật tại Viện Hối Đoái thì Phủ Tổng Thống chỉ thị Viện này để GS cựu Ngoại Trưởng được đổi 5000 dollars).
Vì tiếng súng đảo chánh bùng nổ, ông Thuần với tư cách Bộ Trưởng Quốc Phòng (phụ tá QP kiêm Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống) song lại chuồn lẹ nhất đến nỗi trong Dinh không còn biết ông ở đâu để liên lạc.
CHÁY NHÀ RA MẶT CHUỘT
Đêm 1-11, ông Thuần và Nguyễn Lương là hai Bộ Trưởng đến trình diện tại HĐQNCM sớm nhất. Một vị tướng phê bình “Cháy nhà mới ra mặt chuột. Chế độ ông Diệm sụp đổ cũng chỉ vì có những Bộ Trưởng như vậy. Khi đến trình diện thì rụt dè khúm núm quá, chả bù khi còn thét ra lửa“.
Nhờ sự đầu hàng sớm như vậy, cũng như sự khúm núm rụt rè, sợ hãi hai ông được HĐQNCM cho về nhà thong dong. Ít lâu sau, ông Thuần qua Pháp, vì vợ con ông đã ở sẵn bên đó. Ông Nguyễn Lương được thong dong đến một năm sau, thời tướng Khánh, ông bị bắt vì tội Cần Lao. Thật là số mệnh an bài…trước đó thì chả sao. Ông Nguyễn Lương bị đưa vào Khám Chí Hòa hôm trước, thì hôm sau ông bị đưa lên xe bịt bùng ra máy bay trực chỉ Côn Sơn.
- Ơ? Tôi đâu có tội gì? Riêng Hoa Kiều Mã Tuyên bị lao lý trước, ông Lương hàng năm trời, nhưngTuyên vẫn cam phận “tội thì tội chớ”
CÁI GAI CẦN NHỔ
Chính phủ Nguyễn Khánh kết tội ông Nguyễn Lương là cán bộ cáo cấp của Cần Lao quả là bóp méo sự thật. Ông Lương thuộc hàng quan lại cũ – Năm 1955, ông đã lên đến ngạch Chưởng Lý Tòa Thượng Thẩm. Khi GS Vũ Quốc Thông giữ chức Bộ Y Tế và Xã Hội thì ông Nguyễn Lương làm Tổng Giám Đốc Xã Hội (viên chánh văn phòng của ông là Hoàng Thế Phiệt sau trở thành Nghị Sĩ của Thượng Viện Đệ II Cộng Hòa) – Khi Nha Tổng Giám Đốc Xã Hội tách ra khỏi Bộ Y Tế và trực thuộc Phủ Tổng Thống thì đây là dịp ông Lương được gần TT Diệm. Nhờ tài ăn nói lưu loát và am tường pháp luật, ông Lương rất được TT Diệm tín nhiệm. Đứng trước TT Diệm ông luôn chấp tay cung kính. Ông trở thành cố vấn Pháp Luật của TT Diệm và sau được bầu làm Chủ Tịch Liên Đoàn Công Chức Cách Mạng Quốc Gia.
Cái chết của TT Diệm mang theo sự sụp đổ của chế độ Đệ I Cộng Hòa đồng thời tố cáo luôn bộ mặt thực của một số thư lại gia nhân. Chính họ đã góp công lật đổ, trước hết vẫn là một thảm kịch đó đã kéo dài trên một thế kỷ. Những viên đạn nổ vào đầu Ông Diệm chỉ là kết quả của bao nhiêu mâu thuẫn nội bộ của những ưu điểm và nhầm lẫn, của sự phân hóa trong hàng ngũ Quốc Gia, và đồng thời cũng là kết quả của cuộc hôn nhân miễn cưỡng giữa Mỹ và Việt xa hơn nữa là sự “thọc gây bánh xe” của Pháp và gần nữa là Cộng Sản. Đối với CS thì ông Diệm hay ai cũng thế thôi đều là kẻ thù của họ, nếu bản chất là quốc gia.
Người quốc gia tiến bộ và thực tâm yêu nước, biết bảo vệ chủ quyền thì lại càng trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất của CS. Năm 1945-1946, CS đã không giết Tổng Đốc Hồ Đắc Điềm hay hung thần Vi Văn Định, song họ đã phải thanh toán ngay Lê Ninh (lãnh tụ VQ-Dân chúng dạo ấy đã có câu: Việt Quốc Lê Ninh, Việt Minh Trần Văn Giầu) Một Phan Văn Hùm, Một Tạ Thu Thâu cùng bao nhiêu người quốc gia khác. Cộng Sản đã sửa soạn cho Ông Diệm một cái chết theo kỹ thuật đoản kỳ và trường kỳ của họ kể từ năm 1954 khi ông ở hải ngoại về nước chấp chánh.
Thực dân Pháp cũng đã chuẩn bị cho ông một “cái chết” từ khi Trần Đình Lan đang cầm quyền phòng VI và biệt đội Con Ó (1954). Từ đầu năm 1963, một số người Mỹ cũng bắt tay vào làm công việc ấy. Năm 1963 con số cố vấn Mỹ tại miền Nam đã lên đến 14.000 người đồng thời tại Bộ Ngoại Giao Mỹ thành lập một Ủy Ban Nghiên Cứu hỗn hợp về xử dụng “sức mạnh” của Mỹ tại Việt Nam , Ủy ban ấy mang một danh xưng thật đẹp “Việt Nam Task Force” mà người đứng đầu là Hislman. Vấn đề chủ quyền quốc gia đối với TT Diệm đã trở thành đầu mối cho tấm thảm kịch Việt Mỹ. Nếu Hislman đặc trách Á Châu sự vụ có phận sự nghiên cứu những phương thức Mỹ nhằm tiêu diệt CS tại Việt Nam, thì song hành với công việc này Hislman cũng đã “sửa soạn” theo kỹ thuật của Mỹ để “hạ” một Tổng Thống cứng đầu như ông Ngô Đình Diệm. Lu Conein cũng như Smith và Hislman, Fishtel nghĩa là cả guồng máy CIA đã góp công vào sự sửa soạn này.
NƯỚC VỚI LỬA
Giữa Tướng Minh và ông Ngô Đình Nhu có ít sự liên lạc. Người thân cận nhất của ông Nhu hiểu rõ hơn ai hết là ông Nhu để ý đến Tướng Minh qua một vài biến cố quan trọng như vụ Rừng Sát, chiến dịch thanh toán các lực lượng võ trang Hòa Hỏa, vụ đảo chánh hụt 11-11-1960 mặc dù ông Nhu có đọc trên báo Journal Extrême Orient thấy tường thuật Tướng Minh tuyên bố “Je reste neutre” ông cũng làm thinh. Thực ra ông Nhu không để ý đến Tướng Minh. Vì có “máu say” chính trị nên tướng lãnh như Tướng Minh dưới mắt ông cũng chỉ là nhà quân sự bình thường. Ông Nhu cho rằng Tướng Minh có tài chiến đấu nhưng ở một mức nào thôi chứ không phải là một chiến lược gia quân sự. Ông Nhu chỉ bắt đầu để ý đến Tướng Minh kể từ tháng 9 năm 1963, khi có tin đồn về một cuộc đảo chánh của các tướng lãnh.
Nhưng tại sao Tướng Minh lại “kỵ” ông Nhu và cho rằng ông Nhu “ghen ghét” với mình? Theo báo chí có một lý do thầm kín như thế này: Sau vụ thanh toán Bình Xuyên tại Saigon và Rừng Sát, dân chúng loan truyền “huyền thoại” nhằm suy tôn Tướng Minh, là Tướng Minh tịch thu được bao nhiêu vàng bạc đều đem nộp cho Tổng Thống. Lại có một nguồn tin khác trong giới chỉ huy quân sự tại Saigon dạo ấy, là, khi Tướng Minh làm Tư Lệnh dẹp Bình Xuyên, tịch thu rất nhiều “bao bố” giấy bạc. Nhiều bao bạc bị rơi xuống nước nên ướt đẫm. Số giấy bạc này được mang vào phơi khô và “ủi” cho phẳng phiu ngay tại Tòa Tỉnh Trưởng Chợ Lớn.
Sau đó, không hiểu được đem đi đâu và chia phần cho những ai? Có đúng rõ rệt là chính quyền hồi đó không nhận được một đồng xu nào trong số bạc lớn lao này nếu có. Tuy vậy, chính quyền cũng không thấy lên tiếng về vụ Tướng Minh đem nộp vàng bạc của Bình Xuyên cho TT Diệm cũng như số bạc lớn lao trên đây nếu có thì bỏ vào túi riêng của những ai? Phải chăng vì thế mà có sự tránh né?
Một lý do khác nữa khiến Tướng Minh “kỵ” ông Nhu đơn giản vì Phó TT Thơ cũng “kỵ” ông Nhu. Tuy được TT Diệm kính nể song PTT Thơ lại tỏ ra không hài lòng với ông Nhu. Thường ngày, ông Thơ vẫn vào Dinh nhưng chỉ vào thẳng văn phòng Tổng Thống – đệ trình công việc, có khi hàng tháng ông mới gặp ông Nhu một lần và hai người cũng chỉ trao đổi vài câu thăm hỏi xã giao. Ông Nhu thì cho rằng ông Thơ không biết gì về chính trị và cái khả năng hành chánh của ông thì cũng đã quá lỗi thời. Nhưng ông anh kính mến ông Thơ thì ông em cũng phải kính mến. Dưới mắt ông Nhu, Phó TT Thơ cũng là người “được việc” nhất là ông lại chịu khó đại diện Tổng Thống trong các buổi hội hè, lễ nghi. Sự thực ông Nhu không bao giờ hỏi han PTT Thơ về các việc chính trị, ông Nhu cho rằng ông Thơ không có khả năng về lãnh vực này. Ông Nhu không ghét ông Thơ, trái lại tỏ ra có thiện cảm nhất là ông Thơ lại khôn khéo và luôn luôn tỏ ra khiêm tốn bình dị. Tuy là PTT mỗi lần ông Thơ đi đâu thì đều im lìm… không kèn không trống ồn ào không cả xe hộ tống…ông lại có thói quen ngồi bên cạnh tài xế.
Vào năm 1957, khi tiễn chân TT Diệm công du Mỹ, Phó TT Thơ gặp ông Nhu tại phi trường Tân Sơn Nhứt đã nói nhỏ với ông Nhu: ” Tôi không hiểu tại sao ông BS Tuyến cứ cho người theo dõi tôi hoài” Mấy hôm sau, ông Nhu nói lại việc đó với ông Tuyến: “Làm thế nào mà ông Phó TT lại phàn nàn như vậy” Ông Tuyến rất đỗi ngạc nhiên vì ông không có người để làm việc đó.
CHƯƠNG III
TRONG THẾ GIỚI CỦA QUYỀN UY VÀ CÔ ĐƠN
CÂU HỎI GIAO DU
Sau ngày đảo chánh, một số đông các sĩ quan thuộc LĐLBPVPTT đều bị bắt giữ. Mấy Sĩ Quan Tùy viên đều phải trả lời một số câu hỏi như: “Có thấy những người đàn bà nào vào phòng riêng của TT Diệm? TT Diệm có “giao du” với bà Nhu không?” Đại Úy Lê Công Hoàn, một sĩ quan tùy viên phục vụ bên cạnh TT Diệm 5 năm đã trả lời trên giấy tờ: “Tôi quả quyết không bao giờ có chuyện như vậy nếu có mà tôi bảo là không tôi xin chịu mất đầu”.
Vậy thì sự tương quan trong nếp sống gia đình thường nhật giữa vợ chồng ông Nhu và TT Diệm ra sao?
TT Diệm ở trong một căn phòng riêng, ngủ trên tấm đi văng gỗ.
Mỗi tối, ông già Ẩn chăng màn, sáng sớm lại tháo gỡ. TT Diệm thường dùng bữa ngay trong phòng ăn này. Ông vẫn ăn một mình trong suốt 9 năm, trừ những buổi tiệc tùng dạ hội. Đối với gia đình ông Nhu thì TT Diệm sống một thế giới riêng. Rất ít khi TT Diệm ăn cơm chung với gia đình ông Nhu. Hoặc khi sang phòng ông Nhu dùng cơm thì TT Diệm dùng món ăn riêng của ông. Trong Dinh có hai đầu bếp. Một đầu bếp của vợ chồng ông Nhu. Một đầu bếp của TT Diệm. Đầu bếp của TT Diệm thì rất nhàn hạ. Sáng ông điểm tâm bằng cháo trắng với dưa chua hoặc cá thu kho mặn. Trưa ông Tổng Thống không mấy khi ăn cơm mà chỉ dùng trái cây hoặc rau xà lách trộn dầu hoặc súp lơ, cải bắp luộc. Bữa chính của ông là bữa tối. Thứ cơm mà ông dùng là gạo lứt đỏ.
Món ăn của ông không thay đổi qua mấy món như mắm ruốc, dưa thịt kho, cá kho, cải xào. Tóm lại ông ăn uống như người trung lưu của xứ Quảng Bình hay Huế.
Thông lệ, mỗi sáng sĩ quan tùy viên đem vào phòng một xấp báo đủ loại. Ông vừa đọc vừa ăn điểm tâm.
Thỉnh thoảng, có gì đặc biệt lắm ông mới sang phòng của vợ chồng ông Nhu ngồi uống nước, chuyện lan man. Theo sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn cũng như Đại Úy Bằng, ông già Ẩn thì ông Diệm và ông Nhu không mấy khi anh em hàn huyên tâm sự. Ông rất kính trọng Đức Cha Thục theo quan niệm “Quyền huynh thế phụ”.
Trước khi qua Rome, dự Công Đồng Vatican II Đức Cha Thục vào Dinh ở lại vài ngày. Như thường lệ, đức cha Thục vào chào ông em Tổng Thống.
Theo sĩ quan tùy viên Hoàn thì anh em TT Diệm rất giữ lễ với nhau chứ không suồng sã tự nhiên. Khi về đến Dinh, Đức Cha Thục thường dùng cơm với ông bà Nhu và mỗi lần như vậy , TT Diệm ghé qua phòng ông em nhân tiện đáp lễ ông anh. Đức Cha Thục nói gì TT Diệm nghe không vừa ý, TT Diệm chỉ thở dài, cau có và hết sức bẳn gắt với sĩ quan tùy viên. Cũng không mấy khi ông bà Nhu vào phòng riêng của TT Diệm trừ mấy đứa con trai của ông Nhu.
Căn phòng riêng của TT Diệm vừa là phòng ngủ, vừa là chỗ làm việc, bao giờ cũng có hai cận vệ gác ở ngoài với một sĩ quan tùy viên túc trực suốt ngày đêm (thay phiên như làm việc theo từng ca). Bất kỳ một ai viếng thăm về phía quân sự đều qua tay sĩ quan tùy viên (sự sắp xếp do Tham Mưu Biệt Bộ). Sự thăm viếng về dân sự và ngoại giao đoàn đều do Nha Nghi Lễ đảm trách.
Không kể Đỗ Thọ đã chết, 3 sĩ quan tùy viên còn sống (trong đó có Đại Úy Lê Châu Lộc) cùng với Đại Úy Bằng hầu cận đều cho biết: “Họ không hề bị ông bà Nhu chi phối. Gặp ông bà ấy thì chào hỏi vậy thôi. Họ làm việc trực tiếp với TT Diệm và làm việc theo kiểu “người nhà” phi nguyên tắc luật lệ. Vào phòng ông tổng thống lúc nào cũng được và cửa phòng ông không bao giờ khóa mà chỉ khép. Người được coi là ngang ngược và hay gây gổ với bà Nhu là ông Đại Úy Bằng. Thế giới của TT Diệm là thế giới tình cảm”.
Qui tụ quanh ông, phái cao cấp là ông Võ Văn Hải, gần ông Tổng Thống là Bí Thư Trần Sử rồi 4 viên sĩ quan tùy viên, ông già Ẩn, Đại Úy Bằng và mấy người thân cận khác. Tìm hiểu cuộc sống riêng tư và tâm tình của một Tổng Thống không gì bằng tìm hiểu ngay những người thân cận quanh ông và nếp sống thường nhật. Tại một nước Cộng Sản, cá nhân lãnh đạo chưa phải là yếu tố quan hệ bậc nhất. Tập thể lãnh đạo mới là điều quan hệ và chi phối toàn thể. Tại các quốc gia Tây Phương có một cơ chế cai trị vững chắc và một truyền thống dân chủ thì một cá nhân lãnh đạo cũng chưa phải là một yếu tố quan trọng bậc nhất.
Nhưng ở Việt Nam thì lại khác. Con người quốc gia ở miền Nam lại hoàn toàn khác hẳn. Cá nhân lãnh đạo trở thành yếu tố quan trọng bậc nhất và chi phối toàn thể, cho nên đời sống riêng tư và tâm tình của một Tổng Thống lãnh đạo trở thành nguyên động lực tiềm ẩn chi phối con đường lãnh đạo và cai trị vào đời sống riêng tư ấy tự nó đã có giá trị để nhận định con người lãnh đạo quốc gia. Thói quen hút thuốc lá, ăn cơm Tây uống rượu mạnh, hay thú trăng hoa hoặc hay ưa nói bậy, thích tuyên bố lăng xăng thì tự nó đã lập thành bản chất và sự lãnh đạo quốc gia cũng như ủy quyền và danh dự của nhà lãnh đạo cũng tùy thuộc vào bản chất này. Vận mệnh và danh dự quốc gia cũng lại tùy thuộc vào bản chất này.
Bởi vậy viết về giai đoạn lịch sử 1955-1963 không thể bỏ qua phần tìm hiểu con người TT Ngô Đình Diệm để từ đó soi sáng một tâm lý chính trị.
Tâm lý chính trị này là một phần căn bản giúp cho sử gia dễ dàng phân tích và dẫn giải các sự kiện lịch sử qua hướng đi của nó qua sự chèo lái của nhà lãnh đạo.
Tổng Thống Diệm thích làm thơ. Tất nhiên là thơ Đường Luật. Ông còn biết vẽ và nét vẽ rất đẹp. Bức vẽ cuối cùng của ông là ngôi Thánh đường dự định sẽ xây cất ở khu Phượng Hoàng. Ông đã có ý định không ra ứng cử TT nhiệm kỳ 1965 và sẽ lui về sống an dưỡng ở khu Phượng Hoàng.
Trước đó, đã có một dự án chỉnh trang toàn thể khu Cồn Hến tại Huế để làm nơi TT Diệm trở về vui thú điềm viên. Khu này được coi là một trong mấy nơi thơ mộng nhất của Huế cách thôn Vĩ Dạ chỉ một con sông. Khi dự án được trình lên, ông TT không vừa ý và cho dẹp bỏ.
Rồi tự tay ông phác họa khu Phượng Hoàng. Ngôi Thánh Đường cũng tự tay ông vẽ. TT Diệm ưa thích đánh cờ tướng nhưng lại không phải là tay cao cờ.
Nhiều lần, trong lúc cao hứng, ông cho gọi đại úy Bằng và Ngô Đình Trác vào phòng riêng của ông bảo hai người đánh cờ để ông ngồi ông xem, ông có thể ngồi như vậy trong một, hai giờ liền.
Thú lớn nhất của ông là chụp hình. Thỉnh thoảng cao hứng ông lai đưa bọn con ông Nhu ra chụp vài “pô” hay chụp mấy viên sĩ quan tùy viên.
Tướng Lê Văn Kim được coi là “người bạn” của Tổng Thống về phương diện chụp hình và rửa hình. Một lần vào năm 1961, vợ chồng BS Trần Kim Tuyến đang coi ciné ở Đại Nam thì có thuộc viên đến tìm, cho biết: “Tổng Thống điện thoại gọi BS vào Dinh gấp” Hai vợ chồng bỏ dở xuất ciné trở vào Dinh. Bà vợ ngồi dưới xe chờ chồng từ 10 giờ sáng đến gần 2 giờ chiều mới thấy chồng trở ra. Nhân chứng được ông TT tiếp gần 4 giờ liền không ngoài việc máy ảnh và chụp hình. Vì ông mới mua một cái máy Canon cho nên gọi nhân chứng vào để chỉ cho cách xử dụng. Mỗi lần như thế ông Diệm rất vui tươi cởi mở.
Đặc biệt TT Diệm không uống được rượu, chỉ cần làm một hớp nhỏ, mặt ông đã đỏ gay… Tuy vậy trong phòng ông cũng có một chai rượu nho, thỉnh thoảng ông nhấm nháp đôi chút và những lần như vậy giới hầu cận đều biết ngay là Tổng Thống gặp chuyện vui. Đầu bếp trong Dinh phải chế tạo riêng một loại xâm banh. loại xâm banh này chỉ là nước ngọt cho vào chai đúng “marque champagne” hảo hạng và khi mở cũng nổ chát xùi bọt như xâm banh thực. Khi có tiệc lớn cùng dự với các Đại sứ và quốc khách thì ông Thổng Thống dùng xâm banh loại này. TT Diệm ăn uống không có giờ giấc nào cả. Bữa cơm chiều có thể là 8 giờ hoặc 10 giờ…Khi gặp ai vui chuyện, TT Diệm có thể mạn đàm lan man cả 2, 3 giờ liền. Ông hay dùng pate chau ở Bưu điện và ông cho là ngon tuyệt hạng. Giá mua 5 đồng một cái nhưng bà Nhu dặn bồi bếp nói cụ hỏi bao nhiêu thì phải nói là 1 đồng. Bà Nhu giải thích: “ Nói như thế để ông Cụ được vui”. TT Diệm vẫn tấm tắc khen ngợi: “Pâté chaud 1 đồng, mà ngon quá bay ơi! Như vầy thì lương lính nó được 900 đồng, vợ con nó cũng sung sướng quá hỉ?”,
Như trên đã viết ông Diệm rất kính trọng và vâng lời các anh. Ông lại luôn luôn sống xa mẹ. Sau khi từ chức Lại Bộ Thượng Thư triều đình Huế (1933) ông không về sống ở Phú Cam mà về ở trong một ngôi nhà của ông Ngô Đình Khôi tại Vĩnh Điện, Quảng Nam. Ngồi nhà đó chỉ có ông Diệm và ông Bằng lo việc cơm nước, quần áo và mọi sự cho ông Thượng Thư, một vài tuần ông lại về Phú Cam một buổi. Vài tháng ông lại vào Nam. Từ dạo đó, ông đã sống một đời khép kín, đi hay về không ai hay biết. Khi ông Ngô Đình Khôi bị giết năm 1945, Đức cha Thục trở thành người có ảnh hưởng nhất đối với TT Diệm. Qua tập Album của gia đình họ Ngô ta thấy Đức cha Thục và ông Diệm hay cùng nhau chụp ảnh, hai người tỏ ra tương đắc.
Chúng tôi nêu lên một sự kiện này một sự kiện lịch sử để thấy rằng cái tình huynh đệ gia đình của một ông Tổng Thống đã quan hệ đến cả vận mệnh quốc gia.
Năm 1963 là năm Ngân khánh của Đức Cha Thục. Theo truyền thống Thiên Chúa Giáo thì đây là một dịp trọng thể, đánh dấu công nghiệp của một đời tu hành. Lễ này thường do giáo dân đứng lên tổ chức để tỏ bầy kính mến đối với bậc chăn chiên của họ. Giả dụ Đức Cha Ngô Đình Thục không phải là anh ruột của một vị đương kim Tổng Thống thì lễ này có tổ chức long trọng đến mấy cũng không có gì đáng nói vì đó là sự thường tình trong nếp sống tôn giáo. Nhưng Đức Cha Thục lại là anh ruột của một Tổng Thống (chúng ta sẽ phân tách rõ ở chương vụ Phật giáo 63).
Từ đầu tháng 1-63, các giới chức dịa phương và trung ương đã rộn dịp thi đua “góp công” vào việc tổ chức lễ Ngân Khánh của Đức Cha. Có một số địa phương tại miền Trung, Tỉnh trưởng lại đi thu góp tiền bạc để góp phần vào lễ Ngân Khánh cho thêm long trọng. Rồi một ủy ban toàn quốc được thành lập đứng đầu là ông chủ tịch Quốc Hội Trương Vĩnh Lễ sau là BS Cao Xuân Cẩm cùng các ủy viên gồm một số Bộ Trưởng, Dân Biểu. Linh Mục Cao Văn Luận, Viện trưởng Đại Học Huế cũng được mời tham dự. Cha Luận lấy làm khó chịu nhưng không thể khước từ nên phải nói: “Là một Linh Mục sống trong địa phận của Đức Cha thì có bổn phận vâng kính Đức Cha. Ông Bộ Trưởng Giáo Dục, Viện Trưởng Đại Học Saigon cũng tham dự thì Viện Trưởng Đại Gọc Huế cũng xin vui về tham dự”. Một mặt Cha Luận biên thư cho ông Chủ Tịch Quốc Hội xin tham dự vào Ủy Ban để cho vừa lòng đẹp ý người đến mới.
Mặt khác, cha Luận đến gặp riêng ông Ngô Đình Cẩn vì Cha Luận vẫn được coi là một vị linh mục có nhiều ảnh hưởng đến gia đình họ Ngô (cũng như Lm Nguyễn Văn Thính, Lm Nguyễn Văn Lập. LM Nguyễn Viết Khai). Cha Luận khuyên ông Cẩn nên tìm cách ngăn cản để làm thế nào lễ Ngân Khánh tổ chức trong vòng thân mật và thu hẹp vì từ ngày Đức Cha Thục ra trọng nhậm giáo khu Huế đã gây nên nhiều ngộ nhận trong giới Phật Giáo. Nếu lễ Ngân Khánh tổ chức quá rầm rộ ở ngay tại Cố Đô Huế e rằng bất lợi. Ông Cẩn cho là phải và rất đồng ý với Cha Luận nhưng ông Cẩn cho biết: “Từ ngày Đức Cha về đây, Đức Cha có coi tôi có ra cái gì đâu. Tôi làm sao nói được xin nhờ Cha vào Saigon gặp thẳng Tổng Thống để nói cho rõ sự lợi hại”. Hôm sau, cha Luận vào Saigon xin gặp ông Ngô Đình Nhu.
Ông Nhu cũng đồng ý như vậy và cho rằng không thể lẫn lộn tôn giáo với quốc gia, ông Nhu than thở với Cha Luận là ông không biết phải làm thế nào vì thẳng ra sợ phật lòng Đức Cha – bậc quyền huynh thế phụ đối với gia đình họ Ngô. Trước năm 1953 ông Nhu vẫn bị ngộ nhận là con người chống lại hàng giáo phẩm. Ông Nhu phàn nàn với Cha Luận đại cương: “Thân sinh tôi mất rồi thì chỉ còn Đức Cha là bậc quyền huynh thế phụ. Tôi không biết phải nói thế nào, ông Cụ thì cả nể Đức Cha lắm. Từ ngày Đức Cha về Huế, ở đây tôi mới “rảnh rang”…Khi Đức Cha còn ở Vĩnh Long thì thứ bảy chủ nhật nào bọn họ cũng rủ nhau xuống Vĩnh Long cả nội các, cả quốc hội. Biết là phiền phức nhưng không làm thế nào được”. Ông Nhu một lần nữa nhờ riêng Cha Luận nói rõ hơn thiệt với Tổng Thống. Tất nhiên ông Nhu còn không dám nói với TT Diệm thì Cha Luận sức nào dám nói thẳng sự hơn thiệt.
Mặc dầu lễ Ngân Khánh đã được sửa soạn chu đáo nhưng không được như dự định vì xẩy ra vụ Phật giáo (ngày 8-5-63).
Trước đó, TT Diệm cũng không dám bãi bỏ Uỷ Ban toàn quốc tổ chức lễ Ngân Khánh vì sợ làm phật lòng bào huynh mặc dầu ông Nhu cũng nói “xa gần” với giọng ray rứt trách móc Tổng Thống làm sao lại để cho nhân viên Chính Phủ và Quốc Hội đứng ra tổ chức lễ Ngân Khánh. Theo thường tình, giáo dân có quyền tổ chức một ủy ban toàn quốc như vậy. Song ông Chủ Tịch QH là Chủ Tịch Ủy Ban, thì quả là điều “chướng mắt” khó coi cho dù ông là giáo dân… Có lẽ vì vậy mà BS Cao Xuân Cẩm đứng ra làm Chủ tịch (?)… nhưng cũng không phá tan được sự ngộ nhận “dĩ công vi tư và lạm dụng uy thế của TT Diệm”
HÀNH HƯƠNG VĨNH LONG
Tổng Thống Diệm quá nặng tình nghĩa gia đình. Gia đình đó lại sống theo quan niệm “đóng cửa bảo nhau“. Cho nên, dù anh em mâu thuẫn bất hòa người bên ngoài cũng không mấy ai biết ngoại trừ những người thân cận sống lâu năm trong gia đình họ Ngô.
Trong 9 năm kháng chiến, Đức Cha Thục không tỏ rõ một thái độ nào có thể minh chứng khuynh hướng chính trị của Đức Cha. Khác hẳn những khu Phát Diệm, Bùi Chu, Giáo khu Vĩnh Long luôn luôn đứng ra ngoài vòng của cuộc chiến. Những gia đình quen biết của Đức Cha Thục như Phạm Ngọc Thảo, Kiều Công Cung đã theo kháng chiến ngay từ buổi đầu cho đến năm 1954. Linh Mục Lu Vinh thuộc xứ đạo Bến Tre cũng đã từng tham gia kháng chiến. Linh mục này được coi như con cưng của Đức Cha Thục. Năm 1961, Linh Mục Lu Vinh cũng như ông Sáu Nhân (tức Hoàng Xuân Việt) đều được Đức Cha gửi vào ở tạm tại Nhà Dòng Đồng Công Thủ Đức. Cha Lu Vinh đã có lần tâm sự rất nhiều về Đức Cha Thục và đề cho rằng Đức Cha trước năm 1954 rất khác Đức Cha sau năm 1954 và càng ngày càng bị vây hãm bị lợi dụng dấn mình quá sâu vào đời sống chính trị của các em.
Vào khoảng tháng 6 năm 1960, Nhân một buổi lễ trọng thể tại Vĩnh Long (buổi lễ thuộc phạm vi tôn giáo). Thế nhưng từ sáng sớm đã có hàng trăm xe hơi nối đuôi nhau trên con đường “hành hương” Vĩnh Long. Hầu hết là các Bộ Trưởng, Dân Biểu, Tướng tá, công chức cao cấp. Vì có hàng trăm xe của nhân viên chính quyền cho nên Bắc Mỹ Thuận bị kẹt, xe hàng, xe dân bị ứ lại dài cả hàng cây số và phải đợi hàng 2, 3 tiếng đồng hồ mới được khai thông. Một nhà báo Mỹ cũng bị kẹt trong đám xe đó. Khi trở về Saigon ông ta tỏ ý phàn nàn và phê bình gay gắt với nhân chứng Lương Khải Minh.
Nhà báo Mỹ thì lúc nào chẳng tìm cách làm “sì căng đan”. Lương Khải Minh tìm cách biện minh cho nhà báo vui vẻ, bỏ qua sựu phiền muộn. Nhân chứng cho ông Ngô Đình Nhu rõ tự sự, ông Nhu mặt đỏ tía tai đập tay vào bàn rồi gọi điện thoại cho ông Chủ Tịch Quốc Hội Trương Vĩnh Lễ:” Làm cái gì mà kỳ vậy. Xuống đấy làm cái gì mà lố vậy. Tôi nhờ ông bảo bọn họ ngưng ngay cái trò đó đi”.
Ông Nhu không thích là chuyện của ông Nhu
Con đường Saigon – Vĩnh Long vẫn tấp nập khách công hầu. Ông Nhu thường phàn nàn với nhân chứng Lương Khải Minh “Bây giờ Nội Các và Quốc Hội họp ở Vĩnh Long mà!”
Như trên đã viết, TT Diệm bị chi phối mạnh mẽ bởi tình nghĩa gia đình thân thuộc. Chữ Lễ đối với ông là một điều quan trọng không thể thiếu. Tiếc rằng chữ Lễ trong tinh thần Nho giáo tuy tạo đuọc thể thống về phương diện quốc gia song cái thực tại của xã hội giữa thế kỷ 20 đã làm cho chữ lễ của ông Tổng Thống trở nên những hình thức phù du và làm cho ông lạc lõng và càng cô xa lạ trong một thế kỷ mà nấc thang giá trị cũ chỉ còn như áng mây chiều.
Một bọn nịnh thần lại luôn luôn bám vào chữ Lễ của ông Tổng Thống để che đậy những manh tâm… Chữ Lễ với giá trị cao cả của nó trong tình nghĩa của nếp sống Đông Phương lại trở thành chiếc gậy thần của một số “phù Thủy” xúm nhau lại suy tôn và thần thánh hóa Ngô Tổng Thống … Ông Tổng Thông càng thêm lạc lõng và chữ lễ biến thành vùng ảo tưởng vây bọc lấy ông.
Tổng Thống Diệm làm việc ngay trong phòng riêng. Ông ngồi trên chiếc ghế bành trước một chiếc bàn tròn và ở đó ông phê chuẩn, khán ký, cũng như xem xét hồ sơ công việc và bàn xét quốc sự. Nếu không phải tiếp khách ngoại quốc hay các phái đoàn, ông làm việc trong phòng cả buổi sáng buổi chiều như vậy. Thường thường ông mặc chiếc áo dài đen. Không bao giờ Tổng Thống mặc đồ ngủ tiếp khách thì theo thói quen ông cũng xốc lại cổ áo nắn lại chiếc Cravate rồi cầm lược chải đầu, gọi bồi lau lại đôi giày .
CHỮ LỄ TRONG TINH THẦN NHO GIA
Những ngày đầu vào Dinh Gia Long làm việc nhân chứng Lương Khải Minh còn trẻ lại quen tính ăn mặc lè phè. Mấy lần vào phòng làm việc của ông Tổng Thống, đương sự chỉ mặc áo cổ bẻ, cộc tay, bỏ ngoài quần và đi dép quai da. Đương sự không để ý đến sự khó chịu của ông Tổng Thống nên cứ tiếp tục ăn mặc như vậy. Sau TT Diệm gọi thẳng bà Nhu phiền trách “Thiếm phải lo cho chú ấy ăn mặc đàng hoàng. Chú ấy ăn mặc lôi thôi mấy đứa nó bắt chước, mất cả thế thổng. Thằng cha nó ăn mặc cái gì mà lôi thôi quá”. Từ đó đương sự phải để sẵn trong văn phòng một bộ Complet Cravate.
Nếu Tổng Thống cho gọi là phải ăn mặc cho đầy đủ lễ bộ. Giầy mà không có giây thắt, ông Tổng Thống cũng cho là một sự thất lễ. Một lần Bộ Trưởng Nguyễn Đình Thuần vào Dinh mặc chiếc áo “veste” mới may, xẻ phía sau lưng theo mode mới liền bị Tổng thống nhìn một lúc lâu rồi khen“ông Bộ Trưởng mua chiếc áo xẻ lưng đep quá hỉ?” Ông Tổng Thống cho rằng làm lớn ăn mặc như thế không hợp với thể thống. Từ đó, Nguyễn Đình Thuần biết ý phải cố ăn mặc làm sao cho vừa ý Tổng Thống.
Cũng vì một chữ thể thống mà một sĩ quan đã thắng được một vụ kiện. Quan tòa là ông Tổng Thống, bà Nhu là nguyên cáo. Khi Quốc Vương và Hoàng Hậu Thái Lan qua thăm Việt Nam thì bà Nhu đóng vai “tiếp viên của Quốc Gia” (Hotesse) để nghênh đón Hoàng Hậu Thái về Dinh Độc Lập viếng Tổng Thống Việt Nam theo nghi lễ rồi trở về Dinh Gia Long nghỉ. Tổng Thống Việt Nam cũng đến Dinh Gia Long để đáp lễ, cùng đi theo có bà Nhu. Lúc trở ra, bà Nhu đi sau Tổng Thống. Viên sĩ quan hầu cận cản lại và nói “Bà không được đi cùng. Theo nghi lễ bà phải đi sau 5 phút“. Bà Nhu nổi giận phản đối. Viên sĩ quan dẫn chứng theo “sách” “Bà đâu có phải là vợ của Tổng Thống mà được phép trở về dinh cùng một lúc. Tôi cứ theo nghi lễ của ông Hoàng Thúc Đàm. Tổng Thống phải về Dinh trước, năm phút sau bà mới được ra về”. Bà Nhu nổi giận mà đành phải chịu.
Nhưng sau đó bà về mách ông Nhu và sang tận phòng Tổng Thống kiện. Ông Tổng Thống sai gọi viên sĩ quan hầu cận (Đại Úy Bằng) và “đối chất“. Bà Nhu nói theo lẽ của bà Nhu. Viên sĩ quan nói theo lẽ của viên sĩ quan và nhấn mạnh làm như thế để giữ thể thống Quốc Gia. Ông Tổng Thống không nói một câu rồi cho cả hai người ra về. Bà Nhu rất hậm hực về thái độ lặng thinh của ông anh Tổng Thống. Sau buổi chiều ông qua phòng ông bà Nhu và tuyên án “Nó nói đúng. Tính nó ngang ngược như rứa thôi bỏ qua”.
Người em của bà Nhu tức Trần Văn Khiêm cũng đã gây nên nhiều sự phiền phức cho ông Tổng Thống. Anh ta ưa phách lối, làm le và dọa nạt nhiều người. Có lần (tháng 10-63) anh ta dọa ném lựu đạn giết cả nhà bác sĩ Trần Kim Tuyến. Sự lạm dụng và phách lối của Trần văn Khiêm đến tai TT Diệm, ông Tổng Thống cũng không biết làm thế nào hơn là ra lệnh cho sĩ quan mở cuộc điều tra riêng. Việc đến tai bà Nhu. Bà lại tìm mọi cách che chở em rồi tìm cơ hội “mách” ông Tổng Thống về những “lạm dụng” của đám người thân bên cạnh ông Tổng Thống. Do đó, trong 9 năm, ông Diệm luôn luôn phải xử những “vụ án” ngay trong nội bộ của Dinh.
Nhiều người thân của TT Diệm cho rằng, đó là nỗi khổ tâm mà ông không thể nói ra và mỗi lần như vậy ông lại càng thêm bẳn gắt. Ví dụ: Một lần đám con bà Nhu lấy bút vẽ bậy bạ lên tường Dinh gần phía phòng Tổng Thống. Sĩ quan hầu cận đe nẹt thì đám trẻ lại nặng lời với họ rồi về mách mẹ. Bà Nhu bênh con lại nặng lời và đổi thừa cho đám cận vệ vẽ bậy. Lời qua tiếng lại bà Nhu lại vào thưa kiện với Tổng Thống vì viên sĩ quan dám hỗn xược với bà. Ông Tổng Thống lại mất công phân xử. Thường Thường bao giờ ông cũng chỉ đỏ mặt, yên lặng, quay đi và lắng nghe cả hai bên trình bày, ông không nói một câu… Nếu cùng lắm thì chỉ phán quyết: “Thôi bỏ qua”.
Một lần khác, vào đầu năm 58 khi chế độ Ngô Đình Diệm đang vào thời kỳ cực thịnh, một buổi tối bà Nhu bận đồ ngủ, mặc áo choàng vào phòng ông TT để kiện cáo một vài chuyện lặt vặt, ông già Ẩn khép cửa đi ra….Bỗng ông TT quát tháo rầm rĩ, bấm chuông gọi ông Ẩn và ông Bằng mắng vu vơ trước mặt bà Nhu. Từ buổi đó, biết ý ông TT nên mỗi lần bà Nhu vào phòng Tổng Thống thì ông Ẩn hay ông Bằng phải có mặt hoặc Sĩ quan tùy viên. Nếu không thì y như là có sự la lối. Thường thường nói chuyện với bà Nhu hay bất kỳ một người đàn bà nào khác, mặt ông Diệm đỏ gay, mắt nhìn đi chỗ khác và lời cắt quãng, nhát gừng.
Mỗi lần bà Nhu vào kiện cáo chuyện gì, ông yên lặng lắng nghe. Khi bà đi ra, ông lại lẩm bẩm nói nhát gừng: “Chuyện đàn bà con nít như rứa… thôi bỏ qua “
Một lần khác bà Nhu vào kiện cáo chuyện gia đình dòng họ, TT Diệm vẫn yên lặng lắng nghe rồi nói: “Thím cứ về đi rồi tui tính cho” – Bà Nhu không chịu lại la lớn tiếng. Bất thần ông Tổng Thống cầm chiếc gạt tàn thuốc lá ném về phía em dâu. Có lẽ ông ném hờ vậy thôi.
Chiếc gạt tàn văng vào tường vỡ tung. Bà Nhu mở của chuồn lẹ.
Những người thân cận chung quanh Tổng Thống Diệm đa số đều phục vụ ông từ nhiều năm trước thời kỳ 1945. Riêng sĩ quan tùy viên thì do Nha Nhân Viên Bộ QP tuyển chọn và đề bạt. Trước năm 1960, mỗi tùy viên phục vụ thời gian 2 năm. Nhưng sau, thời hạn bất kể. Thông lệ mỗi năm ông ra lệnh cho gọi tất cả các sĩ quan tùy viên cũ trở về Dinh gặp ông và cho mỗi người một số tiền 2000$.
Đối với TT Diệm đã là quá to. Rút tiền mặt chi cho ai đồng nào, ông thường đếm đi đếm lại rất cẩn thận.
Ngoài chữ Lễ theo quan niệm Nho Gia “Lễ vi tiên” ông còn luôn luôn nhắc nhở mọi người cẩn thận về chữ Nghĩa theo tiêu chuẩn “Nghĩa vi bản mạt” (Nghĩa là gốc ngọn). Thí dụ: Anh chàng Nậy trước kia kéo xe cho ông Huyện Diệm khi còn trọng nhậm ở Huyện Hải Lăng Quảng Trị. Lên làm Thủ Tướng, ông đánh điện cho Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Đẳng chỉ thị phải tìm Nậy và đưa vào Saigon. Nậy vào Saigon và được tuyển dụng vào Dinh Độc Lập làm nghề thợ mộc để có lương nhà nước dù lúc đầu Nậy không biết gì về nghề mộc. Rồi từ viên Thừa phái Hải Lăng, đến viên đội khố xanh ở Bình Định hay Chánh Tổng ở Hòa Đa…tức là những thuộc viên cũ, ông Tổng Thống đều gọi vào Dinh cho tiền làm vốn liếng (năm ngàn là tối đa)rồi cho một việc làm trong Dinh. Có một viên Đội Khố Xanh trước gác ở Dinh quan tuần Phan Thiết rồi lại ra Bình Định. Sau này nhờ Tây lên được hàng Úy, kịp đến khi ông Diệm về nước rồi tình cờ gặp được ông Diệm được ông lưu ý nâng đỡ mà leo lên mãi đến hàng “tá cao cấp” sau này góp công không nhỏ trong việc “Làm thế nào để giết được một Tổng Thống”.
Một thí dụ khác về cái nghĩa của ông, vào tháng 1 năm 1962 trước vụ ném bom Dinh Độc Lập vào khoảng 1 tháng, BS Tuyến có một người quen bị công an bắt giam.
Người quen ấy là ông Nguyễn Văn Lực, một đảng viên VNQDĐ. Lúc ấy nội bộ của chế độ Ngô Đình Diệm đang bắt đầu phân hóa và đầy dẫy ngộ nhận và mặc cảm lẫn nhau cho nên BS Tuyến không thể đơn phương can thiệp cho Nguyễn Văn Lực được trả tự do. Song lại có cụ Nguyễn Xuân Tiếu, lãnh tụ Đại Việt cũng bị công an bắt giam.
BS Tuyến định tâm tìm cách nào tốt nhất để nói trực tiếp với Tổng Thống vì biết rằng cụ Nguyễn Xuân Tiếu trong quá khứ có rất nhiều liên hệ với TT Diệm. Một hôm vào phòng Tổng Thống để trình công việc, Ông Diệm hỏi: “Tình hình đảng phái chính trị dạo này ra sao?” Đương sự đáp: “Cũng không có gì cả, bình thường. Thưa cụ, thì mấy ông đảng phái nhàn rỗi không có việc làm thì cũng họp hành, tuyên bố lăng nhăng thế thôi”. Ông Tổng Thống ờ ờ, hút thuốc, tỏ ý khoan khoái. Đương sự tấn công tình cảm ngay:“Thưa Cụ, có ông Nguyễn Xuân Tiếu bị công an bắt giữ“. Ông Tổng Thống: “Nguyễn Xuân Tiếu tôi biết, hắn làm sao mà bị bắt hè“. Đương sự tìm lời nói khéo “Ông cụ ấy có tật hay uống rượu, uống rượu vào rồi thì cũng nói lăng xăng chống đối. Con thấy cũng không có gì nguy hiểm“.
Ông Tổng Thống vui vẻ gật đầu “Biểu Nguyễn Văn Là nó thả ông ta ngay- Biểu Tổng Thống chỉ thị”.
Ông Tổng Thống trầm ngâm “Năm 45, tôi bị Việt Minh nó bắt giam ở Thái Nguyên, Nguyễn Xuân Tiếu đối với tôi tốt lắm Hắn tiếp tế đồ ăn cho tôi hằng ngày, tiếp cả thuốc lá.
Sau hắn còn đưa cả tiền cho tôi để có chút ít chi phí về Hà Nội rồi vào Nam”. Ông Tổng Thống không quên nhắc nhở đương sự: “Khi nào gặp hắn bảo hắn lúc nào rảnh rỗi vào đây chơi”.
Nhờ có cụ Nguyễn Xuân Tiếu nên nhân chứng xin cho cả ông Nguyễn Văn Lực được trả tự do. Nhưng hơn 20 ngày sau khi con trai ông Lực là phi công Nguyễn Văn Cử cùng phi công Phạm Phú Quốc oanh tạc Dinh Độc Lập, ông Lực nhanh chân trốn thoát.
Sự việc này đã làm cho BS Tuyết bắt đầu bị thất sủng vì có sự nghi ngờ. Ngay sau khi im tiếng súng đương sự vào thăm Tổng Thống thì ông rất lạnh lùng hỏi: “Vụ này nghe như ông biết trước rồi phải không?” Đương sự lạnh cả người. Tuy vậy, theo đương sự, ít ngày sau, ông Tổng Thống cũng bỏ qua không nhắc tới nữa. Trong mấy anh em, thì TT Diệm được coi là người tuy nóng tánh bất thường nhưng đã dùng ai thì không muốn thay đổi. TT Diệm tuy có trí nhớ rất tốt nhưng ông cũng hay quên… Khi nổi nóng ông la mắng nhưng sau đó quên ngay. Việc dùng người cũng vậy, nhiều chiến hữu rất thân cận với ông, nếu giữ khí tiết không tìm cách cầu cạnh để đề bạt, Ông Tổng Thống cũng quên luôn. Trường hợp Đô Trưởng Vũ Tiến Huân, lúc đầu ông cho “quyền Đô Trưởng” rồi sau không ai nhắc nhở nên cứ quyền Đô Trưởng cho đến ngày đảo chánh. Trường hợp Đỗ Mậu quyền Giám Đốc Nha ANQĐ cũng vậy.
Như tướng Trần Văn Đôn lúc đầu tuy bị ông Nhu không ưa vì cho rằng “Thứ dân Tây đi lính cho Tây chỉ biết ăn chơi thì làm được cái gì”. Nhiều lần ông Nhu có ý thay thế tướng Đôn ở chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I nhưng không dám công khai ngỏ ý vì biết có ngỏ ý TT Diệm cũng không chấp nhận. Một lần coi tấm hình tướng Đôn bận áo thụng xanh khăn đóng thù tiếp ông Cậu Cẩn và cùng vấn thuốc lá Cẩm Lệ hút như ông Cậu. TT Diệm có vẻ đắc ý, lại được một Sĩ quan thân cận phụ đề: “Mấy năm nay tướng Đôn chỉ lo làm việc, không còn ăn chơi nhảy nhót” TT Diệm xem ra “chịu” ông tướng vùng địa đầu. Nhiều báo cáo đến tay ông đều dẹp bỏ không xét. Riêng về việc phong tướng, ông Diệm tỏ ra thận trọng.
Dịp tăng thưởng 26-10-1962 cũng như năm 1963, có mấy Đại Tá được đề nghị lên tướng, ông Diệm đều không chấp thuận và nói: “Thằng ấy… thằng ấy lên Đại Tá là maximum”.
Có một ông Đại Tá thuộc “người trong nhà” tưởng là thế nào ông Cụ cũng cho đeo sao vì có công theo Cụ từ ngày còn đội khố xanh. Ông Tổng Thống gạt đi mà mắng rằng: “Từ nay, việc lên tướng dành cho bọn trẻ”Một số Sĩ Quan cấp tá trẻ được Ông Tổng Thống lưu ý đặc biệt ông vẫn thường gọi vào “xem tướng” rồi nói với mấy người thân cận “Mai này cho hắn lên tướng được đó. Bảo hắn ấy phải lo mà học hành lấy bằng cấp đi.” Ông Diệm vẫn phàn nàn với mấy người chung quanh: “Tướng của mình phải có chút bằng cấp học vấn thì người ngoại quốc người ta mới không khi rẻ. Tướng Mỹ, tướng Pháp họ học cao lắm”. Có hai điều nếu ai ngỏ ý xin, TT Diệm chấp thuận ngay: 1- Xin được đi học 2- Xin ra chỉ huy ở đơn vị tác chiến. Cũng vì có tư cách đàng hoàng và chịu cắp sách đến trường cầu học, Đại tá Cao Văn Viên đã được TT Diệm quí mến đặc biệt. Trung Tá Lữ Mộng Lan, khi còn làm trưởng phòng III Bộ Tổng Tham Mưu, ngỏ ý xin Tổng Thống cho ra chỉ huy đơn vị tác chiến. TT Diệm lưu tâm ngay và cho là ông Lan có ý cầu tiến, chịu xông pha. Khi thành lập SĐ 25 BB tại Quảng Ngãi, Trung Tá Lan được cử làm Tư Lệnh Sư Đoàn sau đeo lon Đại Tá giả định.
Về cách chọn người của TT Diệm thì khó ai có thể lường được trước. BS Tuyến xác nhận rằng: “80 % các Tỉnh Trưởng đều do ông Tổng Thống chọn“. Khoảng năm 1958, Tỉnh Trưởng Kiến Hòa lúc bấy giờ là một Thiếu Tá người quen thân của Trung Tá Phạm Ngọc Thảo và cũng là chỗ quen thân của BS Tuyến. Một hôm, đương sự vào phòng Ông trình công việc, bất thần ông Tổng Thống nói: “Anh có biết Sĩ Quan nào quen việc hành chánh không chỉ cho 2 người”.
Tất nhiên là đương sự không dám hỏi thẳng Tổng Thống dùng 2 sĩ quan ấy vào việc gì. Đương sự đáp: “Thưa có, hiện nay ở sở của con có 2 sĩ quan con đang chờ lệnh bổ dụng mà con cũng chưa biết đặt ở đâu. Hai sĩ quan này đều đã làm Quận Trưởng bên Gia Định vừa mới bị thay thế”. Ông Tổng Thống gật đầu: “được rồi. Tên?” Hai sĩ quan này là Đại Úy lê Minh và Trung Uý Q rồi ông Diệm lấy giấy ghi tên hai người.
Theo thông lệ những việc nào có tính cách bí mật và để tránh sự nhòm ngó của người chung quanh ông Thổng Thống đều viết chữ Hán. Vì ông cho rằng, thời nay không mấy ai đọc được chữ Hán. Cũng như người Bồi phòng của TT Diệm vì lo công việc hàng ngày trong phòng riêng của Ông nên phải chọn một anh không biết chữ như bồi Bẩy Thạch.
Khoảng 3 ngày sau, ông Đổng lý Quách Tòng Đức báo cho BS Tuyến biết là hai sĩ quan kể trên đã có Nghị Định bổ nhậm Tỉnh Trưởng và Phó Tỉnh Trưởng Nội An Kiến Hòa. Đại Úy Lê Minh được cho lên Thiếu Úy giả định, Trung úy Q được lên Đại Úy giả định. Nhân BS Tuyến nghe tin này thì choáng váng cả người vì Thiếu Tá Thảo bị thay thế là chỗ thân của ông. Riêng Lê Minh lại không muốn đi làm Tỉnh Trưởng Kiến Hòa. Sau khi bị thay thế Quận Trưởng, Lê Minh đã chán hành chánh chỉ muốn có một chỗ tốt tại Saigon. Bỗng đâu chỉ vì một lời giới thiệu vu vơ, Lê Minh trở thành Tỉnh Trưởng rồi sau này lại bị ông Tổng Thống nổi giận cất chức Tỉnh Trưởng.
Trong 9 năm có rất nhiều trường hợp “trúng số độc đắc” như vậy. Một thí dụ khác vào khoảng năm 1962, lúc ấy Bộ Trưởng Tư Pháp là ông Nguyễn Văn Lượng. Theo Lương Khải Minh thì khi ông Bộ Trưởng Tư Pháp vào trình công việc của Bộ, rồi cũng bất thần bị ông Tổng Thống hỏi:”Bên Tư Pháp có ông Thẩm Phán nào biết việc hành chánh, quản trị nhân viên, ông Bộ Trưởng tìm cho tôi hai người“. Bộ Tư Pháp lúc ấy cũng có hai Thẩm Phán “ngồi chơi xơi nước” trong khi chờ lệnh bổ nhậm mới. Đó là ông Tòa Trần Thiện Đức, nguyên Biện Lý ở Tòa Sơ thẩm Mỹ Tho vì có sự bất hòa chống đối viên Tỉnh Trưởng địa phương nên tạm thời được rút về bộ. Còn ông Tòa Khánh thuộc Tòa Nha Trang vì vụ lỗi lầm gì đó nên bị thay thế và đang nằm đợi lệnh ở Tòa Thượng Thẩm Huế. Ông Tòa Trần Thiện Đức nổi tiếng về sự cương trực và có lòng tốt, dân Mỹ Tho rất quí trọng ông.
Bộ Trưởng Tư Pháp Nguyễn Văn Lượng đưa tên hai ông Tòa này trình lên TT Diệm. Ông Tổng Thống lại tự tay ghi chép. Ít lâu sau có Nghị định bổ nhậm ông Tòa Khánh làm đại biểu Chính Phủ tại Cao Nguyên Trung Phần, ông Tòa Trần Thiện Đức làm Tổng Đoàn Trưởng Công Dân Vụ mà cả hai đương sự không được thông báo trước.
Trước khi có Nghị Định bổ nhậm, họ nhận được lệnh vào trình diện TT Diệm cũng chỉ có mục đích để ông Tổng Thống xem tướng. Nhiều trường hợp chỉ vì “xấu tướng” đã không được ông Tổng Thống bổ nhậm.
Riêng ông Tòa Đức vì sự giới thiệu tình cờ của ông Bộ Trưởng Tư Pháp mà trở thành Tổng Đoàn Trưởng Công Dân Vụ. Sau đảo chánh 63 ông bị điều tra “lên xuống” xem có phải là Cần Lao không, có chạy tiền để được chức vụ ấy không.
Về vụ xem tướng người của TT Diệm cũng có nhiều cái rất lạ. Như ông X, TT Diệm lắc đầu: “mặt thịt, vai u nó làm được cái gì“. Như ông Y, TT Diệm thấy ăn mặc đàng hoàng, nói năng dõng dạc, đi đứng nghiêm trang, ông gật đầu: “thằng đó khá“. Anh nào nói không ra hơi ngôn bất xuất khẩu, ông lắc đầu ngay… Những anh nào ưa “nói leo” chưa hỏi đã nói cũng khó lòng lọt vào mắt xanh của ông. Điều tối kỵ với ông là anh nào có vợ hai, bị báo cáo là bài bạc nghiện hút. Ông ghê sợ sự nghiện hút và kẻ nào vợ nọ con kia. Thiếu Tá Trần Ngọc Châu được ông thương vì có tài nói và thuyết trình rất lưu loát. Tướng Đôn được TT Diệm sủng ái vì được coi là quân nhân có tác phong, đi đứng và chào kính nghiêm trang. Phó TT Thơ dù lùn và lé nhưng TT Diệm coi như em vì “Cụ Phó chịu làm việc. Cụ Bà hiền đức“
LÀM LỚN
Dù thế nào thì TT Diệm cũng vẫn là một ông Quan trọng tinh thần “Phụ mẫu chi dân”, một ông Quan trong giấc mộng kinh bang tế thế và được thành lập bởi tinh thần Nho Gia “Dân chi sở ố, ố chi. Dân chi sở hiếu, hiếu chi” (dân ghét cái gì, mình ghét cái đó. Dân thích cái gì, mình thích cái đó. Sách Đại học). Sở dĩ phải dẫn sách Đại Học ở đây vì ông Tổng Thống thuộc nằm lòng sách này và thường đem từng câu ấy ra giảng dạy cho thuộc cấp. Khi trở thành Tổng Thống thì ông Quan ấy trở nên một vị Hoàng Đế với tiêu chuẩn “Thừa Thiên hành đạo“. Ông cai trị dân với một Thiên Mạng của nho gia. Cho nên ta thường thấy ông luôn nhắc đến chữ “Thành“. Chữ Thành lấy ở sách Trung Dung.. Một tướng lãnh hiện nay vẫn còn giữ bản thủ bút của ông do ông viết tay và cho đương sự làm món gia bảo gồm 6 chữ Hán, nét chữ rất đẹp:
“Thành giả thiên chi đạo dã” (Thành là đạo của trời vậy). Trong tinh thần đó ông quả là một vị minh quân ở tiền bán thế kỷ 19. Nhưng giữa thế kỷ 20 và trong thực tại của miền Nam sau 1954, TT Diệm lại trở thành lạc lõng trong cơn giống tố của thời đại. Tuy tạo được uy quyền tối thượng, tuy giữ được thể thống quốc gia nhưng ông Tổng Thống lại trở thành pho tượng trong vườn ngự uyển. Trong khu vuờn đó, ông tưởng ai cũng nghĩ như ông, cũng làm như ông và sống như ông. Ông lại quá tin nơi mình với mặc cảm uy quyền và ông ghen với uy quyền đó (jalouse de son pouvoir).
Ông làm việc theo lề lối của một vị đường quan và quân thần chủ nghĩa. Vì vậy mà công việc được giải quyết theo khẩu lệnh và quần thần cứ y thế mà làm không mấy ai dám ho he phản đối. Theo nhân chứng Lương Khải Minh làm việc trực tiếp với TT Diệm và ông Nhu trong 9 năm thì có thể nói nếu so với Đức Cha Ngô Đình Thục hay ông Cẩn, TT Diệm và ông Nhu đều biết ai hèn hạ ai tâng bốc nhưng biết mà không nói, biết mà vẫn dùng. Sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn kể lại rằng: Có một lần vào năm 1962 ở Dinh Tổng Thống trên Đà Lạt, ông Tổng Thống cần đi gấp mà trong phòng lại không có đôi giày. Ông la bồi. Lúc ấy bồi lại đi đâu vắng. Sĩ quan tùy viên vẫn đứng yên vì lấy giầy cho Tổng Thống không phải là việc của anh (những việc này để bồi nó làm. Tổng Thống dặn như vậy).
Thấy Tổng Thống la bồi biểu đi tìm giầy, một ông Bộ Trưởng chạy đi tìm và mang giầy lại. Ông Tổng Thống mặt đỏ gay, nhăn nhó và gạt đi, nói một cách bực tức: “Hừ…hừ…để bồi nó làm“. Ông Bộ Trưởng tái mặt vì ngượng và sợ. Sĩ quan tùy viên nhìn mặt ông Bộ Trưởng mỉm cười. Nhiều ông lớn tỏ ra hèn hạ một cách công khai đã bị ông Tổng Thống mắng thẳng vào mặt. Riêng ông Nhu, một lần thấy một ông Đại Úy mặc quân phục đeo lon, đẩy xe cho ông Ngô Đình Luyện dạo quanh Dinh (vì ông Luyện đau chân nên phải ngồi xe có tay đẩy), ông Nhu cười “ruồi” chỉ cho một sĩ quan hầu cận của TT Diệm và nói thẳng: “thằng cha sao nó lố như rứa“.
Còn bao cảnh hèn hạ tuyệt vời khác như ông Đ. cúi đầu tháo giày cho ông Luyện, ông L kia dở chén măng cua ăn thừa của Đức Cha một cách hoan hỉ. Lỗi lầm tai hại nhất của chế độ Ngô Đình Diệm chính là ở điểm như vậy của cộng sự viên qua cái bản chất hèn hạ của con người họ. Mà những con người ấy lại tiêu biểu cho quốc gia ở một ngành này hay một địa phương khác. Trong khi đó, Cộng Sản luôn luôn tìm cách khai thác và tạo nên dư luận thành kiến để làm lớn chế độ rồi bôi đen chế độ qua những vết đen của từng cá nhân trong guồng máy chế độ.
Người ta thường cho rằng, trong 9 năm TT Diệm chỉ “làm vì” và ông Nhu bao thầu mọi việc. BS Tuyến cho rằng “như thế là sai sự thật” chế độ, Ông Nhu chỉ là một thứ bổ sung cần thiết cho TT Diệm. Kể từ năm 1962 và nhất là khi thành lập Ấp Chiến Lược thì công việc mới bắt đầu dồn lại phía ông Nhu. Nó dồn lại một cách mặc nhiên và ông Nhu cũng mặc nhiên chấp nhận. Nhưng TT Diệm vẫn giữ quyền của ông mà không ai chia xẻ được kể cả ông Nhu. Nhiều sự bổ nhậm trong quân đội cũng như hành chánh khi đã có Nghị định, bấy giờ ông Nhu mới biết. Nếu muốn đặt để ai ở một chức vụ quan trọng, ông Nhu chỉ đánh tiếng bằng những lời khen: “ông ấy, ông ấy, có khả năng, có tài về lãnh vực ấy”. Khi chú Nhu đã nói như vậy thì ông Tổng Thống tin ngay và chắc chắn đương sự sẽ được bổ nhậm. Nếu ông Nhu nói: “Sừ A khá, cho hắn làm Tổng Giám Đốc” thì, theo BS Tuyến, chắc chắn ông A sẽ không bao giờ được bổ nhậm như ý ông Nhu muốn vì đã nhiều lần xảy ra như vậy.
Nhưng nếu mọi việc không có ý của chú Nhu thì ông Tổng Thống không yên tâm như việc thảo diễn văn chẳng hạn. Những năm đầu thì do ông Trần Chánh Thành viết, sau này do ông Lương Danh Môn (Tổng Thư Ký Bộ Quốc Phòng) hoặc khi nào rảnh thì do ông Võ Văn Hải. Ông Hải đảm trách phần vụ viết diễn văn bằng Anh ngữ. Nhưng ai viết cũng đều phải qua tay ông Nhu đọc lại. Diễn văn quan trọng thì tự tay ông Nhu viết. Dù ai viết và ông Nhu đã xem lại, ông Tổng Thống thế nào cũng đọc kỹ và sửa lại một vài chữ mới bằng lòng. Một lần theo lời viên Sĩ quan hầu cận (Đại Úy Bằng): “Ông Nhu đưa bài diễn văn qua phòng ông Tổng Thống, ông Tổng Thống dọc rồi lắc đầu quầy quậy”.
Bài ấy ông gạch một chữ rồi gọi chú Nhu qua, ông nói:”Sao lại tiến bộ”ông Nhu giải nghĩa bằng tiếng Pháp. Ông Tổng Thống lắc đầu: “Tiếng Pháp đâu có thâm thúy bằng tiếng ta”. Ông nói: “tiến bộ là sai, phải dùng chữ đồng tiến“. Rồi ông lại nói một mình: “Đồng tiến là mọi người cùng nhau tiến”. Từ đó, ông đắc ý với hai chữ “đồng tiến” nên mới đặt tên cho những khóa học như khóa Đồng Tiến rồi kinh Đồng Tiến và diễn văn luôn luôn có chữ đồng tiến.
Về diễn văn phải viết bằng tiếng Pháp thì do ông Nhu. Về Anh văn do ông Võ Văn Hải hoặc Trương Bửu Điện và sau này là Tôn Thất Thiện. Dù ông vẫn phục ông Nhu về đề tài viết Pháp văn nhưng thế nào ông cũng đọc lại rồi dở từ điểm ra coi, cân nhắc một vài “termes” cho chỉnh. Về Anh văn cũng thế, mặc dầu TT Diệm không có sở trường về Anh văn.
Một lần viếng thăm một Quân Đoàn, ông tướng Tư Lệnh của Quân Đoàn này đọc mấy lời “kính dâng Ngô Tổng Thống”…Ông Diệm nhăn trán quắc mắt vì trong đó có chữ Hán dùng sai. Buổi tối, trở về phòng trong lúc nói chuyện vui, ông bảo viên Sĩ quan hầu cận: “Cái thằng nớ nó người Hoàng Tộc sao nó ngu như rứa. Nó học hành đến đâu hè, ông thân sinh của nó xưa nghe nói giỏi chữ Hán…” Rồi ông Tổng Thống nhớ mãi. Vào khoảng tháng 10-63, có sự đề nghị của ông tướng này tham chánh, ông Tổng Thống lại nhắc đến bài “kính dâng” xưa kia và nói giận dữ: “Chữ nó còn không thông thì nó biết cái mô tê chi”.
Dù ông Nhu là một cần thiết không thể thiếu song ông Nhu không dám qua mặt ông anh một cách công khai, nhất là về hành chánh. Ông Nhu vẫn thường phê bình ông anh: “Il peut administrer mais…Il ne peut gouverner“.
Như trên đã viết, ông Nhu là một thứ bổ sung cần thiết cho ông Tổng Thống. Trong bất cứ một vấn đề quan hệ nào nếu không có ý kiến của ông em thì ông anh không yên tâm.
Nhưng thế giới của ông anh là riêng của ông anh, ông em không thể nào “xía” vô. Hai thế giới cách xa nhau, màu sắc và bản chất cũng khác nhau. Căn phòng làm việc của ông anh Tổng Thống thì hoàn toàn vô trật tự, giấy tờ, hồ sơ ông để lung tung. Ông làm việc không theo giờ ấn định, không có lịch trình. Theo Đại tá Đỗ Mậu, khi vào trình Tổng Thống về việc A…nhưng chỉ ít phút sau ông hỏi qua việc B rồi lan man qua phạm vi tử vi tướng số. Ông thích hàn huyên tâm sự, thích nói chuyện đời xưa…Trái lại, văn phòng làm việc của ông Nhu rất trật tự. Hằng ngày ông làm việc theo giờ giấc và đúng lịch trình. Ông làm việc tại văn phòng phía sau bàn giấy là tủ sách. Hồ sơ để theo thứ tự và sắp xếp từng loại. Sự ngăn nắp này cũng dễ hiểu vì ông là Tổng quản Thư Viện và Văn Khố…. Nhưng TT Diệm gặp đâu làm đó lại luôn luôn giải quyết công việc bằng khẩu lệnh. Theo Lương Khải Minh người ta thường cho rằng ông Nhu nói gì ông Tổng Thống nghe nấy, điều đó không đúng…Ông Tổng Thống chỉ nghe ông Nhu về những vấn đề quan trọng thuộc lãnh vực chính trị và chiến lược. Ngoài ra, những vấn đề khác nhất là những vấn đề thuộc lãnh vực hành chánh và Dinh Điền, ông Nhu đôi khi phải nhờ Đệ Tam Nhân can thiệp với ông Tổng Thống. Đệ tam nhân đó có thể là ông Nguyễn Đình Thuần, vừa là người của ông Tổng Thống vừa là người được lòng ông Nhu. Trường hợp bổ nhậm Nguyễn Xuân Khương là điển hình tuy ông được BS Tuyến giới thiệu với ông Nhu khi ông Nhu muốn kiếm một người làm Tổng Giám Đốc điền địa có khả năng chuyên môn để phụ giúp ông Bộ Trưởng Huỳnh Hữu Nghĩa.
Trong giới kỹ thuật, Lương Khải Minh thấy ông Khương là kỹ sư chuyên viên về địa chánh, ăn nói lại lưu loát. Nhờ đó ông Khương được cân nhắc. Vì đang chú trọng đến công tác chỉnh trang lãnh thổ nên Nguyễn Xuân Khương luôn luôn có dịp ở bên Tổng Thống. Ông Tổng Thống lại là người thích xem họa đồ, nói chuyện đất đai lãnh thổ, ông Khương là người lanh chân lẹ miệng được lòng Tổng Thống. Từ khi địa vị đã vững vàng, theo sát chân Tổng Thống, ông Khương lờ luôn cả ông Nhu, mọi việc nhất nhất ông Khương đều trình thẳng lên Tổng Thống. Bởi vì nếu đã được lòng ông Tổng Thống dầu rằng ông Nhu có ghét cũng không sao.
Tháng 6-63 Nguyễn Xuân Khương được cử thay Hồ Đắc Khương làm Đại Biểu Chánh Phủ tại Cao Nguyên Trung Phần. Ông nhu chỉ được biết ông Tổng Thống đã quyết định bổ nhậm ông Khương. Ông Nhu đành bóp đầu bóp trán: “Hắn thì biết gì về chính trị mà cử ra đó”, nhưng ông anh đã quyết định thì ông em cũng đành phải theo rồi tìm đệ tam nhân “nắm”Nguyễn Xuân Khương.
Thế nhưng, có hai người vẫn làm việc song song, đối đầu nhau. Có những việc mật, chỉ ông Hải biết mà ông Nhu không biết, cho dù không ưa ông Hải, ông Nhu cũng chả làm gì được hơn. Trong gia đình đó kẻ làm em phải chịu lép vế. Theo Lương Khải Minh nhiều vấn đề ông Nhu rất không đồng ý với ông anh và nhiều lần công kích nhưng khi gặp TT Diệm thì ông Nhu lại ngồi lặng thinh không dám nói. Cũng như ông Cẩn ở miền Trung, ông không ưa gì bà Nhu, thường nặng lời công kích, mạt sát nhưng khi gặp ông Nhu và bà chị dâu thì ông Cẩn lại lặng thinh.
Tuy ở cùng trong Dinh sống chết có nhau trong 9 năm, ông Nhu rất ngại gặp Tổng Thống. Theo Sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn từ khi anh vào Dinh làm việc, dạo năm 1958 đến năm 1963, anh chỉ đến chào ông Nhu lần thứ nhất khi nhận việc theo sự chỉ dẫn của Tham Mưu Biệt Bộ.
Lần ấy gặp ông Nhu, ông nhìn anh mỉm cười, nói mấy câu ngắn ngủi“Cảm ơn, ở đây mà làm việc”. Ông Nhu hầu như không để ý đến thế giới của ông anh kể cả cộng sự viên thân tín của ông anh.
Trường hợp Lê Công Hoàn được gọi về Dinh cũng đầu bất ngờ như bao trường hợp khác. Anh đang phục vụ trong ngành Công Binh tại Pleiku thì có công điện gọi về trình diện tướng Đính tại ban Mê Thuột, gặp tướng Đính, ông cho biết: “Anh về Saigon trình diện Tổng Thống”. Rồi ngay đêm đó, ông Đính cho một chiếc xe jeep thật tốt, có người hộ tống, đi suốt đêm từ Ban Mê Thuột về Sài Gòn. Lê Công Hoàn rất hồi hộp không biết số phận hên xui ra sao. Sáng hôm sau, dù qua một đêm hành trình mệt mỏi, ông Hoàn cũng phải quần áo chỉnh tề ngay ngắn… Nhưng gặp ai và ai đưa vào trình diện Tổng Thống? Lúc ấy Lê Công Hoàn còn là Trung úy. Ông đến trình diện Bộ Tổng Tham Mưu. Ở đây, lắc đầu không biết. Ông đến Bộ Quốc phòng, Ở đây bảo qua Lữ Đoàn LĐPV cũng không biết và bảo qua Tham Mưu Biệt Bộ gặp Trung Tá Cao Văn Viên. Bấy giờ mới tìm đúng chỗ. Sau đó, ông được Trung Tá Viên đưa vào trình diện Tổng Thống Diệm. Trước hết, ông Tổng Thống lừ mắt nhìn Hoàn từ đầu đến chân, ông nhìn thật lâu có lẽ để xem tướng Hoàn. Dùng người ông Tổng thống có thói quen bắt tướng. – Một lát ông gật đầu, hỏi qua Hoàn về gia đình. Ông hỏi Hoàn “Đeo kiếng cận như vậy có bắn được không?” Lê Công Hoàn đáp: “Dạ thưa gần thì con bắn được” – Ông Tổng Thống hỏi: “Trúng không?” LCH thưa: “Dạ bắn được thôi. Con không dám nói là trúng”, ông Tổng Thống gật đầu cười.
Năm năm sống cạnh Tổng Thống Diệm, Sĩ quan tùy viên lê Công Hoàn cho biết rằng: Ông cũng chẳng có quan niệm nào về đảng Cần Lao. Đã được TT tín nhiệm thương yêu thì khỏi cần đảng phái.
Mà ông Tổng Thống rất ít nhắc đến Đảng. Việc đảng phái có chú Nhu lo. Người không hề tham gia đảng phái chính trị như Đại tướng Lê Văn Tỵ rất được ông Tổng Thống tín nhiệm thương yêu trong sự tương kính. Dù có chân trong Đảng hay được ông Nhu hay ông Cẩn tín nhiệm, nhưng ông Tổng Thống không ưa thì đương sự cũng khó ngóc đầu lên được…
Ông Nhu làm việc và tiếp khách đều theo lịch trình đã định sẵn. Kể cả lúc đi săn cũng thể theo chương trình. Một vài năm lại về Huế nghỉ 10 ngày bế quan tỏa cảng và đọc sách. Đọc sách cũng có chương trình. Bằng ấy ngày nghỉ sẽ đọc bằng ấy quyển. Mỗi lần đều có sổ tay ghi chép. Ông Tổng Thống thì không. Sĩ quan tùy viên Lê Công Hoàn cho biết: Mỗi lần ông Tổng Thống đi kinh lý ở đâu, văn phòng đều có định trước chương trình. Ví dụ ông lên Đà Lạt thì 9 giờ viếng Trường Võ Bị, 11 giờ đi thăm Ấp Chiến lược… Rồi sẽ tiếp những ai. Tùy viên phải học thuộc lòng. Tổng Thống hỏi phải nói ngay không bao giờ được đưa giấy ra coi. Tuy nhiên chẳng bao giờ ông Tổng Thống theo chương trình ngoại trừ trường hợp có các ông Đại Sứ tháp tùng.
Việc tiếp khách cũng thế, theo nguyên tắc Tham Mưu Biệt Bộ sắp đặt để Tổng Thống tiếp ai, giờ nào ngày nào. Nguyên tắc ấy thực tế không được tôn trọng. Chức việc văn võ đến ngồi chờ trong phòng khách rồi tùy theo chức vụ cấp bậc và công việc gấp hay không gấp , Sĩ quan tùy viên sẽ mời từng người vào “hầu” Cụ. Lúc ấy ông Sĩ quan tùy viên trở nên quan trọng có thể nói, tùy viên “khoái ai” thì đưa người đó vào trước… Không có cảm tình với ai, dù ở cấp bậc cao, tùy viên vẫn có thể cho ngồi chờ 2, 3 giờ. Có người Tổng Thống tiếp năm ba phút, có người được tiếp hằng 2, 3 giờ. Phía tướng lãnh người tâm đầu ý hợp với TT Diệm là Đại Tướng Tỵ. Mỗi lần Đại Tướng Tỵ vào Dinh gặp TT sẽ lâu hằng một hai giờ. Mọi người đều các nhận tướng Tỵ không có tài thao lược nhưng lại tốt bụng , tướng Tỵ không khúm núm không quỵ lụy, tướng Tỵ đề cử ai thì xem như ăn chắc 100%. Chính tướng Tỵ đã đích thân tuyển chọn Trung Tá Sang lái máy bay riêng cho TT Diệm. Về nội bộ Quân Đội, tướng Tỵ nói điều gì, ông Tổng Thống tin điều đó. Tuy nhiên tướng Tỵ đối với tướng tá khác đều coi là đàn em nên ông không dèm pha ai. Về việc tưởng thưởng Bảo Quốc huân chương, ông Tổng Thống coi thứ Huân chương này như nấc thanh giá trị cao nhất, tiêu biểu cho sự nghiệp và chiến công của người được thụ lãnh. Nhưng tướng Tỵ đề nghị cho ai thì người đó được liền. Ngoài tướng Tỵ ra, khó lòng ai có thể đề bạt cho người này được thưởng Bảo Quốc Huân Chương. Thí dụ trường hợp Trung Tá Khôi khi được cử đi làm tùy viên QS tại một quốc gia bạn. Ông Khôi là một Sĩ quan tham mưu nên huy chương không có nhiều. Ra ngoại quốc làm Sĩ quan tùy viên như vậy thì hơi kỳ, nên có người vận động Tổng Thống cho ông Khôi được Bảo Quốc Huân Chương.
Dù là người cận thân tín xin cho ông Khôi song ông Tổng Thống vẫn gạt đi. Cuối cùng ông Khôi nghe lời bạn cứ ra tiệm mua đại một cái Bảo Quốc huân Chương đeo vào ngực cho có thể thống.
Ông Nhu thì coi thường giai cấp quan lại cũ. Song ông Tổng Thống vẫn hoài nhớ dĩ vãng xa xưa cho nên ông mới tái lập Kim Khánh Bội Tinh. Lập lại cả chức vụ Chánh Phó Tổng tại địa phương. Ông lại hay quan niệm gọi cấp bậc của thuộc viên từ thời Pháp. Chẳng hạn ông Tá X. ông Tổng Thống lại thường nói: “À ông Đội phẩm” (ông này vốn quen thuộc hàng xuất đội). Ông Y, ông Tổng Thống quen biết từ xưa nên lại thường gọi: “À ông Huyện…”
Không phải cứ quen thân ông bà Nhu là được Tổng Thống Diệm tín nhiệm, nhiều khi lại ở thế kẹt cứng…Tổng thống Diệm nóng tính nhưng cả nể.
Cũng vì sự cả nể nên bao nhiêu tai tiếng về Trần Văn Khiêm đến tai ông, ông đều bỏ qua chỉ vì Khiêm là em ruột bà Nhu (sau đảo chánh 63 anh ta bị khép tội mật vụ)
Lương Khải Minh xác nhận, anh ta chả có chức vụ gì cả, không một ai giao cho anh ta công tác gì. Nhưng dựa vào thế của chị, anh này ra ngoài lộng hành nhân danh người này người kia. Khi vào Dinh thì chạy lăng xăng. Nể bà Nhu nên không ai để ý. Có mấy khi anh chàng này được gặp Tổng Thống Diệm đâu. Có một lần Sĩ quan Lê Công Hoàn ghi nhận: Hôm ấy Khiêm được TT Diệm cho gọi vào. Anh tưởng ông Cụ ban phát chức vụ bổng lộc, nên mặt mũi quan trọng, hất hàm bảo Đại úy lê Công Hoàn “Nè ông Đại Úy, ông đưa tôi vào gặp Cụ”, ông Hoàn đáp nhã nhặn: “Thưa ông, Cụ đang bận, xin ông chờ”. Nhưng Khiêm ra vẻ quan trọng: “Tôi cần vào gặp Cụ ngay” Nói xong Khiêm kéo tay nhìn đồng hồ rồi tiếp: “10 giờ tôi có hẹn gấp. Tôi không thể chờ lâu được lâu” , ông Hoàn đáp thủng thẳng: “Được, xin ông cứ chờ”. Đáng lý Lê Công Hoàn đưa Khiêm vào gặp TT Diệm ngay sau đó nhưng “trả thù” cho bõ ghét. Ông Hoàn cứ để cho Khiêm ngồi chờ đến 11 giờ mới dẫn vào yết kiến TT Diệm. Sĩ quan tùy viên vừa khép cửa đã nghe tiếng Ông Thổng Thống la mắng quát tháo Khiêm thật dữ dội. Một lát sau Khiêm đi ra mặt tái xám, tiu nghỉu, cắm đầu rảo bước.
Ông Khiêm không có một chức vụ, một vai trò nào, ấy vậy mà ở ngoài nghe thấy Khiêm ai cũng ngán. Khiêm chỉ là thứ cáo mượn oai hùm. Dưới chế độ Ngô Đình Diệm không thiếu chi những loại cáo mượn oai hùm như Khiêm.
Nhưng bọn họ lại có khả năng tạo nên sự nghẹt thở trong các khối quần chúng, reo rắc thêm hoang mang trong dân gian đi đến đâu chúng cũng nhân danh ông này ông nọ để lấy le cũng có để lường gạt cũng có.
Bất cứ một chế độ nào muốn vững vàng tại miền Nam, muốn cho dân chúng thương yêu tín nhiệm thì phải sáng suốt trừ ngay những thành phần cáo mượn oai hùm, nhất là những con cáo đó lại là bà con anh em của người cầm quyền thì sự tác hại của nó đối với chế độ không phải là nhỏ.
Gần những năm cuối cùng của chế độ, gia đình TT Diệm cũng bắt đầu phân hóa và mâu thuẫn lớn dần trong mấy anh em TT Diệm. Ông Nhu càng ít gặp ông anh Tổng Thống. Nhiều việc ông anh tự quyết định mà không cần hỏi chú Nhu.
Ngoài Trung, ông Cẩn bắt đầu uống rượu. Trước kia ông Cẩn chỉ nhấm nháp chút đỉnh rượu lễ. Từ năm 61, 62, ông đã uống cả ly lớn. Mỗi lần say ngất ngư, ông lại thét chửi mắng. Ông Nhu càng thêm say mê săn bắn. Đại úy Hạp, tùy viên của ông Nhu cho biết rằng, có khi ông nhu nằm dưới hầm săn cọp hai đêm liền. Có khi phải theo ông đi bộ cả ngày trong rừng già Phan Rang. Đó cũng là dấu hiệu báo trước sự thay đổi lớn trong nội tâm của những trụ cột chế độ đang ở giai đoạn suy tàn.
Trong năm 63, giới thân cận ông Cẩn cho biết: Ông Cẩn ức mà thổ huyết ít nhất cũng 3 lần.
Những lần ông ngồi ăn cơm với các anh, không biết anh em “xào nấu” nhau ra sao (người ngoài không thể biết được) ông Cẩn mặt đỏ gay rồi ông thổ huyết ngay trong bữa ăn (nói nôm na tức giận mà hộc máu).
Ông Nhu cũng như TT Diệm bắt đầu bị ám ảnh nặng nề bởi tổ chức CIA. Ông Nhu vẫn cho rằng CIA thuộc loại “insociable”…”thứ đó hết xài nổi”. Dạo ấy muốn dèm pha ai, hại ai chỉ cần báo với ông Nhu người ấy hoạt động cho CIA, đương sự kể như tan tành công danh chức nghiệp.
Thế giới của anh em ông Diệm bắt đầu xa cách nhau. Xin đưa ra một thí dụ đã nói lên sự xa cách đó. Tháng 10-1963, TT Diệm với sự góp ý của ông Nhu đã ra lệnh giải tan ngay văn phòng Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung của ông Cẩn, ông TT cho rằng mọi công việc đều do tòa Đại Biểu Chính Phủ giải quyết… Đại Úy Nguyễn Văn Minh rời khỏi chức vụ Chánh Văn phòng Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung qua sự giới thiệu của cha Bửu Đồng (khi ông Minh còn đóng ở đồn Cửa Tùng) đã trở thành người cán bộ cốt cán của ông Cẩn từ tháng 5-54. Trong 9 năm sống bên cạnh ông Cẩn, hầu hết trong gia đình họ Ngô từ ông Tổng Thống đến Đức Cha không còn xa lạ gì Đại Úy Minh… Ông Minh trở thành người trong gia đình và rất được tin cẩn.
Tháng 10-63, bỗng dưng Đại Úy Minh bị gọi vào Saigon qua thủ tục hành chánh. Một thủ tục chưa bao giờ áp dụng cho những người trong nhà như ông Minh. Bộ Nội Vụ theo lệnh Tổng Thống đánh công điện cho Tòa Đại Biểu chỉ thị cho ông Minh vào trình diện Tổng Thống. Ông Cẩn không được hỏi ý kiến. Điều ấy làm cho ông tức giận không ít.
Khi vào gặp TT Diệm, ông Tổng Thống vẫn vui vẻ hỏi: “Tôi nghe ở ngoài đó anh liên lạc với Mỹ nhiều lần lắm hỉ?” Đại Úy Minh trình bày sự liên lạc của ông với lãnh sự và Phó Lãnh sự Mỹ tại Huế. Đại cương ông Minh nói: “Con có gặp gỡ họ luôn. Đây là theo chỉ thị ông Cậu. Ông Cậu bảo con nên tìm cách tiếp xúc với Mỹ và tìm hiểu xem thái độ của họ ra sao” – TT Diệm gật đầu, không nói gì. Khi Đại Úy Minh trở lại Huế vào gặp ông Cẩn và đưa ông xem sự vụ lệnh thuyên chuyển ông Minh lên trường Võ bị Đà Lạt thì vẻ mặt ông Cẩn lúc ấy đăm chiêu và lộ vẻ buồn rất sâu đậm. Ông Cẩn bảo Đại úy Minh: “Thôi thì anh cứ đi. Ông Cụ làm thế này là ông Cụ đập vào mặt tôi” Hôm ấy là ngày 28-10-63. Đại Úy Minh sau 9 năm phục vụ bên cạnh ông Cẩn phải thu xếp hành trang rời bỏ Cố đô Huế. Có điều đáng ghi: Đại Úy Minh sinh trưởng ở miền Bắc khi trở thành Chánh Văn Phòng của ông Cẩn mới trên 26 tuổi… Một số người vẫn cho rằng ông Cẩn không ưa người miền Bắc như trường hợp Đại úy Minh cũng như nhiều cộng sự viên thân cận của ông Cẩn gốc miền Bắc đã đủ nói lên đây chỉ là “dư luận” có nhẽ dư luận ấy xuất phát từ ngôn ngữ hay có thói quen la hét: “Mẹ cha cái thằng Bắc kỳ”.
Đại cương, sự xa cách trong gia đình họ Ngô là như vậy. Chỉ có thể nói là xa cách còn có sự bất hòa không mấy ai biết được ngoại trừ người thân thiết của ba anh em ông.
Ông Tổng Thống nóng nẩy, chửi ai thì chửi thẳng vào mặt. Ông Nhu không ưa ai nhưng vẫn cười nửa miệng, lạnh lùng khó hiểu. Ông Cẩn hay quát tháo, xử dụng ngôn ngữ bình dân với thái độ hách dịch kiểu Tổng lý thời xưa.
UY QUYỀN
Đáng lý ra, những tiểu tiết thuộc vấn đề nhân sự không nên trình bày ở thiên bút ký này. Song có một điều giản dị: chính những tiểu tiết vụn vặt nhiều khi lại làm hỏng đại sự. TT Diệm có cái uy của người lãnh đạo tối thiểu nhưng ông lại luôn luôn bị chi phối ràng buộc bởi những chi tiết vụn vặt do cá tính của ông cũng như sự dị biệt trong cá tính của anh em ông.
Về ông Ngô Đình Nhu, ai cũng phải nhận rằng, ông giỏi, thông minh, am tường và thông suốt nhiều vấn đề. Nhưng ông kiêu ngạo quá, tính tình lại lạnh lùng khép kín.
TT Diệm là một người nhiều tình cảm, tốt bụng nhưng chữ Lễ, chữ Nghĩa theo tiết độ của nho gia đã trở thành cái khung chắc nịch nhốt ông vào trong đó. Do đó mà cái tôi tình cảm (le moi sensible) của ông không thể hiện được ra ngoài để thâu phục nhân tâm và hỗ trợ cho cái uy sẵn có của ông. Sau năm 1963, phải nhìn nhận rằng, trong hàng lãnh đạo quốc gia tại miền Nam, chưa một nhà lãnh đạo nào chứng tỏ có cái uy như ông. Đó là ưu điểm và là điều cần thiết số một của một ông Quốc Trưởng. Nhất là Quốc Trưởng môt nước chậm tiến. Không có uy thì quốc gia còn gì phép tắc, thể thống và uy quyền.
Những người thân cận đều xác nhận rằng: phải sống lâu với ông Tổng Thống mới nhận ra con người thực của ông. Con người ấy lại luôn luôn bị tình cảm chi phối. Ông cả nể và cả nghe. Năm 1959 là năm ông đang say mê với công cuộc khẩn hoang và phát triển đồn điền. Cho nên nếu ai khéo nói, khéo trình bày hợp lý, ông Tổng Thống đều chấp thuận cho khai thác rừng để lập đồn điền. Ông tướng Xuân là một trong những người được ông cho phép khẩn hoang hàng trăm mẫu rừng tại Phước Long để trồng cao su. Có một báo cáo mật của địa phương cho rằng, ông tướng Xuân chỉ giả vờ lấy cớ trồng cao su mà thực ra là để phá rừng lấy gỗ bán. Sau đó, ông Tổng Thống có xem xét lại rồi gạt bản báo cáo đi, mắng một ông Bộ Trưởng: “Bậy bạ, Người ta làm cho Quốc Gia mà mình cứ phá”. Ông Tổng Thống tin mọi người cũng ngay thẳng như ông… Nên đã bao nhiêu giấy phép cho cúp rừng để lập đồn điền khai hoang nhưng “Đồn Điền” chỉ là cái cớ để lòe ông Tổng Thống ký thế mà ông vẫn tin.
ĐỊNH MỆNH AN BÀI
Khoảng năm 56-60 có tin đồn Đại Tướng Thái Quang Hoàng sẽ thay Đại Tướng Tỵ. Cũng như năm 1961, có tin tướng Khánh sẽ thay tướng Tỵ. Theo Lương Khải Minh, Đại tướng Tỵ mới là cánh tay mặt của TT Diệm. Nếu tướng Tỵ không đi Mỹ chữa bệnh thì chẳng bao giờ tướng Đôn trở thành Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, như lịch sử đã an bài, không ai lúc đó có thể ngờ rằng sự thay đổi chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng lại trở thành một trong những yếu tố làm chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ.
TT Diệm được một bác sĩ Mỹ cho biết: Bệnh ung thư phổi của tướng Tỵ không thể nào chữa khỏi và chỉ còn chờ ngày chết. Những người thân xin để Đại Tướng Tỵ qua Pháp điều trị, ông Tổng Thống gạt đi và quyết định đưa Đại Tướng qua Mỹ. Từ bao lâu rồi, ông Tổng Thống yên trí chỉ có Mỹ mới giỏi về khoa học, ông Tổng Thống muốn tự tay ông lo cho Đại Tướng Tỵ.
Trước ngày Đại Tướng sang Mỹ chữa bệnh, ông có đến cáo biệt TT Diệm. Hai người tâm sự một lúc lâu. Ông Tổng Thống hỏi: “Bà thân mẫu của Đại Tướng còn không?” Rồi ông Tổng Thống tâm tình: “Tôi thì thân mẫu còn sống, thân mẫu tôi đã già rồi tôi cũng phải cố giữ gìn thân thể để còn trả chữ hiếu cho mẹ”
- Tổng Thống Diệm quí mến tướng Tỵ trước hết vì tướng Tỵ thật thà lại hay hàn huyên tâm sự với ông Tổng Thống. Tướng Tỵ có thể tiếp chuyện với ông Tổng Thống lâu cả một, hai giờ không phải là vì chuyện quốc sự hay quân cơ mà thường là chuyện tình cảm. Tướng Tỵ là một trong mấy tướng chỉ xưng “tôi” mà không dùng tiếng “con” đối với ông Tổng Thống. Đại khái tướng Tỵ thường nói: “Thưa Tổng Thống tôi… tôi xin trình Tổng Thống….Tôi xin thưa Tổng Thống”. Tướng Tỵ ăn mặc rất chỉnh tề đúng phong cách quân kỷ. Mỗi lần vào phòng Tổng Thống, tướng Tỵ đều chào kính theo đúng quân cách, đó là điều ông Tổng Thống rất thích. Một ưu điểm khác nữa là tướng Tỵ không “xin xỏ” lôi thôi… không kéo phe kết đảng…Ông nói năng dõng dạc, nhưng khi tâm tình với Tổng Thống lại rí rỏm, tỏ ra tương đắc.
TT Diệm tin cẩn tướng Tỵ từ dạo năm 1954 qua vụ tướng Hinh. Lúc ấy tướng Tỵ đang làm Tư Lệnh Đệ Nhất Quân Khu khi mà TT Diệm không có hơn một đại đội phòng vệ Dinh Thủ Tướng thì chính tướng Tỵ đã âm thầm tìm mọi cách ủng hộ Thủ Tướng Diệm. Tháng 9 -1954, tướng Hinh dựa vào lực lượng Quân đội Viễn Chinh Pháp quyết liệt hạ cho bằng được Thủ Tướng Diệm thì tướng Tỵ bên ngoài vẫn giữ tư thế quân nhân thuần túy, không đứng về phe tướng Hinh cũng không công khai ủng hộ Thủ Tướng Diệm, nhưng trong bóng tối ông đã có thái độ dứt khoát ủng hộ Thủ Tướng Diệm. TT Diệm cảm kích tấm lòng trung kiên của tướng Tỵ từ dạo đó. Ông Nhu không ghét tướng Tỵ nhưng cũng không có nhiều thiện cảm với vị tướng lãnh xuất thân từ thế hệ lính Pháp. Tương quan tình cảm và công việc giữa tướng Tỵ với ông Nhu gần như không có. Cả Năm, tướng Tỵ mới gặp ông Nhu vài ba lần và mỗi lần đôi bên chỉ chào hỏi xã giao. Riêng tướng Tỵ , tỏ ra khâm phục ông Nhu và dành cho ông một sự kính trọng đặc biệt.
Sau vụ đảo chánh hụt 11-11-1960, TT Diệm lại càng tin yêu tướng Tỵ và hai con người cùng lớp tuổi đã trở thành đôi bạn tri kỷ. Nhưng cũng sau cuộc đảo chính hụt 11-11-60, môt số nhân vật cao cấp có ý tìm cách để TT Diệm thay thế tướng Tỵ. Nhưng tướng lãnh lúc ấy xem ra cũng không còn ai hơn tướng Tỵ – người được điểm này lại mất điểm kia – ông Tỵ là loại “chung chung” tuy vậy ông cũng bị một số tướng trẻ dèm pha nhất là số tướng ta thuộc hàng con cưng của ông Cẩn.
Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, uy quyền tập trung vào một ông Tổng Thống. Do đó, Phó TT Thơ vẫn ở tư thế một viên chức cao cấp hơn là một PTT của nước VNCH. Ông Thơ không có huy hiệu riêng – ngoại trừ những lần đại diện Tổng Thống tham dự các buổi lễ lớn – Xe của PTT không có hiệu kỳ cũng không cắm quốc kỳ – Ông đi làm bình thường như một công chức – ngồi cạnh tài xế và cũng không có Harley hộ tống.
Riêng Đại tướng Tỵ là người thứ 2 của Đệ Nhất Cộng Hòa được chia xẻ uy quyền với ông Tổng Thống. Mỗi lần ông vào Dinh là một sự uy nghi… trong khi Bộ Trưởng Quốc phòng rất khiêm tốn bình thường. Tư Dinh của tướng Tỵ ở đường Cường Để được xây trên một ngọn đồi chính là do chỉ thị đặc biệt của Tổng Thống Diệm. Từ năm 1956, gần như không có một cuộc kinh lý nào của TT Diệm mà không có mặt tướng Tỵ.
Khi biến cố Phật giáo bùng nổ thì Đại Tướng Tỵ lâm trọng bệnh. Khi tiễn chân Đại Tướng Tỵ, TT Diệm tặng cho ông một chuỗi hạt và nói: “Đại tướng nhớ cầu nguyện cho tôi…Tôi xin ơn trên phò hộ cho Đại Tướng” – Tướng Tỵ là một thứ tín đồ công giáo trong tâm hồn – (Calholique de coeur) – Ông thuộc nhiều kinh Công giáo và có lòng sùng mộ Đức Mẹ rất đặc biệt. Mặc dầu gia đình tướng Tỵ là Phật giáo thuần thành – Tổng Thống Diệm ngậm ngùi phàn nàn với Đại Úy Bằng: “Đại Tướng khó qua khỏi…bệnh của Đại tướng không biết sống chết lúc nào, khó qua khỏi năm nay” - TT Diệm đỡ vai tướng Tỵ và cùng theo ông xuống đến tận thềm Dinh Gia Long. Cánh cửa xe đóng lại, Tướng Tỵ cúi đầu chào, ông Tổng Thống vẫy tay với một vẻ ngậm ngùi.
TT Diệm chỉ thị cho Bộ Trưởng phụ tá Quốc phòng phải tổ chức lễ tiễn chân Đại Tướng Tỵ một cách trọng thể đặc biệt. Ngày Đại Tướng ra phi trường Tân Sơn Nhất đáp máy bay đi Hoa Kỳ, ông đã được hưởng đầy đủ nghi lễ dành cho vị Thống Soái. Cửa phòng Khách Danh Dự (VIP) của phi trường được mở rộng….Đây là một vinh dự đặc biệt, vì chỉ có Tổng Thống mới đi qua cửa này… Trước năm 1963, phòng Khách Danh Dự phi trường Tân Sơn Nhất được xem là nơi tiêu biểu cho uy quyền và thể thống Quốc gia. Dù là ông Ngô Đình Nhu, Đức cha Thục, Phó TT Thơ, chủ tịch Quốc Hội vẫn đi vào phi trường theo ngả thông thường. Năm 1961, vợ chồng ông Nhu qua Maroc với tư cách đại diện chánh thức của TT Diệm thì lần này Phòng khách Danh Dự mới mở cửa đón tiếp vợ chồng ông Nhu.
Tuy là Tổng Tham Mưu Trưởng nhưng Đại tướng Tỵ có nhiều uy thế rất nhiều so với Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng, đó là một ưu đãi đặc biệt của TT Diệm đối với ông.
Tại Mỹ, khi nghe tin TT Diệm bị thảm sát, Đại tướng Tỵ bàng hoàng rồi ôm mặt khóc. Sau này khi hồi hương, mỗi lần nghe ai nhắc đến TT Diệm thì Đại tướng Tỵ lại than thở: “Hồi ông Cụ tiễn chân tôi qua Mỹ, ông Cụ tưởng qua chết…Ai dè ông Cụ lại chết trước qua”. Đại tướng vẫn giữ chuỗi hạt mà TT Diệm tặng ông. Đại tướng vẫn thường tâm sự: “Ông Cụ chết như vậy qua tin chắc hồn ông Cụ linh thiêng lắm”. Trước phút lâm chung, tướng Tỵ vẫn giữ trong lòng tay chuỗi hạt của TT Diệm. Ông coi đó như một kỷ vật thiêng liêng.
CON NGƯỜI TÌNH CẢM
Nhiều người vẫn tin TT Diệm là con người khô khan tình cảm. Điều này không đúng và trái lại ông quá nhiều tình cảm. Nhiều tướng tá và viên chức cao cấp được ông tin cẩn trọng dụng trước hết vì tương đắc với ông và “đánh trúng” con người tình cảm của ông. Trường hợp Đại Tướng Tỵ, không đảng phái, không phe nhóm, không luồn cúi ông Nhu, ông Cẩn hay Đức Cha Thục nhưng lại được ông Tổng Thống tin yêu trước hết là cái tình già… thỉnh thoảng buồn buồn, có khi đang đêm ông Tổng Thống lại điện thoại gọi Đại Tướng vào Dinh rồi hai người mạn đàm chuyện đời cho đến khuya. TT Diệm nói chuyện Tam Quốc, Đại Tướng Tỵ góp lời bàn thêm. TT Diệm nói về cái địa danh miền Tây thì Đại tướng Tỵ góp chuyện cái hay cái lạ ở miệt vườn… Câu chuyện không đầu không đuôi giữa hai ông có khi kéo dài đến khuya. Đại tá Đỗ Mậu được TT Diệm hết lòng che chở, tin dùng thương yêu trước hết vì ông Mậu “hầu chuyện” hợp ý với ông Tổng Thống. Cả câu chuyện tử vi lý số năm này qua năm khác… Ông Tổng Thống cùng Đại Tá Mậu luận bàn không biết chán.
MỐI TÌNH BÍ MẬT CỦA TT NGÔ ĐÌNH DIỆM
Có một sự thực đã như một thứ hỏa mù bao trùm miền Nam từ 15 năm qua: Đó là sự hiểu lầm, nghĩ quẩn lo quanh và dư luận.
Dư luận bao giờ cũng chỉ là dư luận. Thế nhưng quần chúng Việt Nam dễ tin, dễ nghe cho nên dư luận về một người này hay một chuyện kia được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, dư luận mặc nhiên trở thành sự thực. Hay ít ra cũng như thực. Rồi quần chúng sống cho sự thực đó phản kháng mai mỉa hay bằng lòng với sự thực đó. Về sự hiểu lầm, nghĩ sai cũng thế, ngày này qua ngày khác, tích lũy lại rồi bộc phát ra tùy theo hoàn cảnh mà trở nên thù oán nhau.
Con người quốc gia ở miền Nam, tuy đứng cùng trong một chiến tuyến, tuy có chung một kẻ thù nhưng rồi vì ngộ nhận, vì chính kiến dị biệt về đường lối và cách thế… Trong mười mấy năm qua, nhưng con người quốc gia ấy đã quay lưng lại nhau “ra lườm vào nguýt và đánh đấm” nhau rất chí tình.
Nói về sự ngộ nhận thì có cả hàng trăm hình thức ngộ nhận. Từ đó đồng bào sẵn sàng thêu “hoa dệt gấm” cho nhau bằng cả cái gia tài tiếu lâm vô hạn của dân tộc. Về TT Diệm chả hạn. Trước đây có dư luận lưu truyền trong dân gian là ông Diệm bất lực, ông Diệm có tướng ngũ đoản và cơ quan sinh dục của ông nó bất lực và không như người bình thường.Do đó Tổng Thống Diệm không lập gia đình và cứ đứng gần đàn bà thì ông đỏ mặt thẹn thùng. Nhiều người bạn của chúng tôi, kể cả những người gần Tổng Thống nhất cũng như trong hàng ngũ đối lập, đều thắc mắc về các tiểu tiết mà họ cho là hấp dẫn, ly kỳ cần tìm hiểu: Tổng Thống có như một người bình thường về cơ quan sinh dục không. Cái quan hệ gấp trăm ngàn lần thì chả để ý, song cái “tiểu tiết đó” xem ra thiên hạ thắc mắc lắm. Rồi người ta chế tạo ra nhiều giai thoại rất ly kỳ và rất phù hợp với bản chất trào phúng và tiếu lâm của đại đa số dân Việt. Ông Phạm Văn Nhu , nguyên Chủ Tịch Quốc hội thời TT Diệm trong buổi trà đàm cho biết rằng, ông biết TT Diệm và hai người thân với nhau từ năm 11,12 tuổi ở xứ Huế. Những năm thơ ấu đó trong những lúc hai người sống rất tự nhiên theo sự tự nhiên của tuổi trẻ, Ông Phạm Văn Nhu không thấy có gì khác lạ nơi con người ông Ngô Đình Diệm nghĩa là TT Diệm hoàn toàn bình thường về cơ thể như tất cả mọi người. Điều này thiết tưởng cũng nên tìm hiểu vì ai cũng hiểu rõ rằng, yếu tố sinh lý trong một con người rất quan hệ đến đời sống tâm lý của con người đó, mà con người lãnh tụ thì yếu tố tâm lý rất quan hệ đối với những quyết định chính trị trong tư thế lãnh đạo.
Năm 1948, cụ Thượng Thư Ngô Đình Diệm vào miền Nam khi thì ông ở Vĩnh Long với bào huynh Ngô Đình Thục, khi thì ông lên Saigon lưu ngụ tai khu Thánh Đường Saint Pierre. Có một thời gian, ông Diệm đã sống tại nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn.
Khu Thánh đường ấy, 15 năm sau (48-63) Ông Diệm trở lại lần cuối cùng rồi vĩnh viễn ra đi về cõi thiên cổ. Ông Diệm thích tâm sự hàn huyên với Cha Tam, nên dù đi đâu xa, ông vẫn lưu nhớ. Khi ở Vĩnh Long về Saigon, ông Diệm thường đến làm việc xã hội, họp với nhóm Tinh Thần và Hoa Lư tức là hai tờ báo hoạt động theo khuynh hướng xã hội Công giáo, trụ sở của nhóm Tinh Thần và Hoa Lư đặt ngay trong một văn phòng trên tầng lầu hai của cư thất Luật sư Lê Văn Kim (vị LS đậu nhiều bằng cấp khác nhau. Năm 1945 bị Nhật giết vì cho rằng LS Kim là gián điệp của quân đội đồng minh). Phía dưới căn lầu đó là văn phòng của LS Nguyễn Hữu Thọ (hiện là Chủ Tịch MTGPMN). Ông Diệm hằng ngày đến trụ sở này để làm việc với một số cộng sự viên của ông, trong số đó có GS Phạm Văn Nhu vừa từ Huế vào.
GS Nhu cho biết, trong anh em ông vẫn “tiếu lâm” với nhau sau những giờ làm việc mệt nhọc và cũng là cách để đỡ nhớ vợ con.
Nhưng mỗi khi ông “Thượng Thư” đến thì anh em ông lại phải bắt tay vào công việc hội họp. Ông Diệm không thích chuyện tếu.
Nhưng ông có thể ngồi nói chuyện liên miên hằng hai ba giờ, hết chuyện đất nước đến chuyện Tây, chuyện Mỹ, chuyện trên trời dưới biển. Những lúc tâm sự như thế, ông Diệm cười rất có duyên và yêu đời hơn cả những dân có “tình ái” yêu đời.
Năm 18, 19 tuổi, khi ông Diệm đang là sinh viên trường Hậu Bổ, vào một buổi sáng mùa hè nọ, ông đang ngồi đọc sách trên lầu tại nhà bà chị ông tức Bà Cả Lễ, thì ba bốn cô gái Huế đến chơi nhà bà Cả. Vốn là những tiểu thơ khuê các trong một xã hội mà làn sóng lãng mạn phương Tây đang đổ xô vào tâm hồn giới trẻ (tiểu Thuyết Tố Tâm 1922 là một thí dụ)
Các nàng tiểu thơ kia đã tìm mọi cách chọc ghẹo, chài mồi cậu Ấm Diệm, tuy lùn nhưng có bộ mặt điển trai. Vào một thời đại “phi cao đẳng bất thành phu phụ” và ở giữa đất thần kinh của Vua Chúa quan quyền tất nhiên là Cậu Ấm Diệm trở thành đối tượng cho lòng say mê của bao nhiêu tiểu thơ. Nhưng hôm ấy, trước sự mồi chài, chọc ghẹo của các cô, Cậu Ấm Diệm bỗng nhiên nổi nóng, đứng từ trên lầu mắng các cô, những rằng “con gái gì mà hư thân trắc nết như rứa”.
Thêm vào đó, cậu Ấm Diệm khi còn học ở trường Pellerin đã từng nuôi mộng đi tu để trở thành một sư huynh sau này. Từ buổi cậu bất thần nổi giận với các cô, cả vùng Phú Cam các cô rỉ tai nhau phê bình: “Cậu Diệm sợ đàn bà con gái“. Cũng từ đó, khi trở thành tri phủ Hòa Đa, Tuần Vũ Phan Thiết, ông Diệm đã “ở vậy” dù có rất nhiều gia đình đường quan vị vọng đánh tiếng gả con gái cho ông .
Cho đến năm 1948, khi ông Diệm đã gần tuổi ngũ tuần, giới thân cận của ông không ai nghe thấy ông Diệm nói chuyện về đàn bà con gái.
Phần vì nể ông, cho nên trong những lần trò chuyện với ông cũng chẳng ai đề cập làm chi. Lại có một số người “đạo đức giả” mỗi khi gặp ông chỉ toàn nói chuyện tu hành đạo đức Thánh hiền Hóa cho nên trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày, ông Diệm đã không có dịp nào xử dụng ngôn ngữ về thế giới đàn bà và tình ái. Rồi dần dần, mỗi khi nhắc đến ông Diệm, người thân và cộng sự viên của ông đứng riêng trong một thế giới không vướng mắc mùi “tục lụy”.
MON COEUR A SON SECRET
Sau này khi ông Diệm chấp chánh cho đến năm 1963 người ta lại càng hồ nghi rồi trở nên tin tưởng ông “bất thường sinh lý”. Quanh cái tiểu tiết đáng tò mò này giới có ăn học lại thường đem ra phân giải theo sự ăn học. Giới bình dân thì lại rỉ tai nhau theo cái máu tráo phúng của giới bình dân Việt Nam. Về điều gì chứ cái sự liệt của một người không đi tu, dân Việt ta coi bộ không chịu và người đó sẽ bị coi là dân khó tính, dân không chịu chơi, dân mất thăng bằng và hay quan trọng hóa. Sau vị 11-11-60 một Luật sư – người của chế độ- lúc ấy đã phẩm bình trong lúc hơi men chấp choáng, đại ý rằng: “Ông Cụ thì liệt, ông Nhu coi bộ “impuissant” cho nên bà Nhu mới tha hồ khống chế tung hoành theo cái luật Âm thịnh Dương suy”.
Như trên đã viết, ông Diệm là một người bình thường trong phần “cơ cấu quan hệ của thân thể” GS Phạm Văn Nhu kể lại sau:
Vào một buổi sáng đẹp trời, năm 1948, ông Diệm từ nhà thờ Cha Tam đến tìm ông ở trụ sở Nhóm Hoa Lư Tinh Thần (nhà LS Kim). Hôm ấy, ông Diệm vui tươi lắm, mất hẳn sự ưu tư khắc khổ. Ông Nhu nghi trong bụng có lẽ “Cụ Thượng Thư” mới nhận được tin gì tốt lành đây. Ông Diệm bảo ông Phạm Văn Nhu: “Mọi công chuyện hãy xếp lại vào đó sáng nay bọn mình đi Sở Thú”. Ông Nhu đi mượn chiếc xe hơi Limousine của một vị tướng Cao Đài.
Rồi hai người “thả ga” lên Sở Thú. Dọc đường ông Diệm đề nghị “bọn mình ghé tiệm nào uống ly café chơi”. Và đó cũng là một điều lạ khiến ông Nhu thắc mắc: “Hẳn ông già phải có một chuyện chi quan hệ lắm đây“… Sau tuần café sữa, hai người lên Sở Thú, đi một vòng thưởng ngoạn cỏ cây hoa lá chim muôn. Nhưng xem chừng ông Diệm có điều gì “nao nức” khác hơn là chuyện đi chơi Sở Thú. Ở Sở Thú ra, ông Diệm có vẻ ngại ngần, đắn đo một lúc lâu, rồi bảo ông Nhu: “Ông cho tôi lên đường Pasteur và đường Le Grand De Laliraye (tức Phan Thanh Giản hiện nay). Đến nơi, ông Diệm bảo ông Nhu khóa xe rồi đi theo ông. Hai người vào một căn nhà trên tầng lầu hai (một dãy nhà dài, gồm nhiều căn và hầu hết là công chức người Pháp). Ông Nhu chỉ hỏi: “Cụ vào nhà ai ở đây?” Ông Diệm vẻ mặt tươi hẳn lên và đáp: “Tôi vào thăm con Mệ nó”. Lần đầu tiên ông Nhu nghe thấy ông Diệm nói đến “con Mệ nó” ông đi thăm “con Mệ nó”. Trước khi về nhà ông Diệm nói: “con Mệ nó hiền đức lắm” – ông Diệm gõ cửa phòng, một người đàn ông trạc 50 tuổi ra mở cửa, vừa trông thấy ông Diệm, ông ta đã cúi đầu kính cẩn thưa: “Mời Cụ Lớn vào”. Ông Diệm hỏi ngay “Bà có nhà không?”Người đàn ông thưa: “Bẩm cụ lớn Bà con mới vừa ra Nha Trang. Mời cụ lớn vào nhà dùng nước đã” – vẫn theo lời GS Phạm Văn Nhu, ông Diệm đang vui bỗng nhăn mặt lại, không vui. Ông nói trống không: ”lạ chi hè, đi Nha Trang mà không cho biết hỉ”. Ông Diệm đứng bất thần một lúc rồi hỏi người đàn ông: “ông có biết Bà ra Nha Trang ở nơi mô không, ông có địa chỉ không?” Người đàn ông đáp có biết. Ông Diệm bỗng vui hẳn lên rồi tíu tít quay sang phía ông Nhu: “ông có mang bút giấy, ông ghi lại cho tôi ngay”.
Ông Nhu nghĩ bụng hẳn ông Diệm lui tới căn nhà này luôn nên gia nhân mới thân mật mời chào như vậy.
Căn nhà đó lần đầu tiên ông Phạm Văn Nhu đến thăm, và ông cũng là người duy nhất được ông Diệm tin cẩn cho đi theo. Khi đã có địa chỉ rồi, ông Diệm rất mừng trở về và bảo ông Nhu phải sửa soạn hành lý đi ra Nha Trang ngay để thăm “cho biết”.
Dọc đường trở về nhà ông Diệm đã tâm tình với ông Nhu là: “Con Mệ nó” tuy lấy Tây, tuy là loại đàn bà bị người khinh rẻ, nhưng lòng dạ tốt lắm, và rất thương đồng bào. Nhờ “con Mệ nó” (ông Diệm nhắc đi nhắc lại nhiều lần) ông đã cứu được nhiều người quốc gia bị mật thám bắt. Ông Diệm cho biết thêm, chồng “con Mệ nó” là người Pháp tòng sự tại Sở Mật Thám liên bang bót Cantinat (Sûreté Fédérale) mỗi khi có bạn bè hay người quen thuộc phe quốc gia bị mật thám bắt ông Diệm lại nhờ “Con Mệ nó” lập tức chồng “Con Mệ nó” can thiệp trả tự do ngay.
(Sau này cũng vì một vụ can thiệp như vậy do ông Diệm nhờ cậy qua trung gian “con Mệ nó”, người chồng Pháp của bà bị thải hồi thất nghiệp sau phải lên Đà Lạt làm cho một hãng sửa xe hơi. Rồi người chồng của bà đã bị chết trong một tai nạn máy bay trên không phận Saigon).
Ngày hôm sau hai ông đã có mặt tại Nha Trang. Ông Nhu đi kiếm địa chỉ trước, để về cấp báo cho ông Diệm “con Mệ nó” của ông đang ở nơi mô. Khi gặp mặt bà ta, ông Nhu mới ngã ngửa người kinh ngạc. Người đàn bà này không ai khác hơn là cô gái Huế mới thủa nào hai người đã từng quen mặt biết tên và cô gái Huế xinh tươi thuở ấy cũng đã từng biết mặt, nghe tên “cậu Ấm Diệm”.
Qua bao nhiêu năm xa cách, ông Nhu không hiểu từ một duyên cớ nào đã phải đem thân lưu lại đến tận Sài Gòn và trở thành vợ một người da trắng. Ông Nhu cho biết thêm: “Đây là người đàn bà thuộc sắc nước hương trời, ăn nói lại có duyên dáng mặn mà“. Ông Diệm đã tâm tình với ông Nhu: “Tôi thương con Mệ nó hiền đức, tuy lấy Tây mà nó vẫn còn tình còn nghĩa với người đồng bào“.
Bà ta ra Nha Trang lần ấy là để thăm xứ Thùy Dương lần cuối cùng, trước khi sang Pháp sống lưu lạc nơi quê chồng. Một nhà thơ Pháp từng than thở cho nỗi đoạn trường ân ái “Mon coeur a son secret, mon amour a son mystère”. Biết đâu ông Diệm đã chẳng từng nuôi cơn mộng sầu nhớ thiên thu của tình trường. Chỉ biết rằng, vẫn theo lời ông Nhu, từ đấy rồi…thôi, riêng ông không bao giờ còn nghe thấy ông Diệm nhắc lại, ba tiếng “con Mệ nó” với bao nhiêu náo nức như lần đi thăm Sở Thú và đến Nha Thành.
Một số người có khuynh hướng thần thánh hóa Tổng Thống Ngô Đình Diệm (mà Bộ trưởng Trần Chánh Thành là một)
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen