Võ Trung Tín & Nguyễn Hữu Viên
Lực Lượng Ðịch : Dưới quyền điều động của Bộ Tư Lệnh mặt trận
Ban Mê Thuộc A75 do Tướng Văn Tiến Dũng, Ðinh Ðức Thiện và Lê Ngọc Hiền
chỉ huy gồm khoảng 25,000 người.:
- SÐ F10. chủ lực tấn công BMT.
- SÐ320 chỉ có danh vì đã bị thiệt hại nặng khi đụng độ với Nhảy
Dù ở Thượng Ðức.
- SÐ316 CSBV tử Nam Lào tiến sang
- SÐ968
- SÐ3CSBV Sao Vàng làm nghi binh.
- 4 Trung Ðoàn Bộ Binh 95A, 95B, 25 và 271.
- 5 Trung Ðoàn pháo binh gồm 48 khẩu pháo dủ loại và phòng
không.
- 1 Trung Ðoàn Chiến Xa, một Trung Ðoàn Ðặc Công.
- 2 Trung Ðoàn Công Binh, Một Trung Ðoàn Thông Tin.
- Các đơn vị hậu cần, Quân xa...
Lực Lượng Bạn : Tổng cộng khoảng 4,000 người
- Trung Đoàn 53 Bộ Binh ( chỉ còn 2 Tiểu Đoàn).
- Liên Đoàn 21 BĐQ.
- Các Tiểu Đoàn Địa Phương Quân.
- Lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia.
Từ sau ngày ký
Hiệp Ðịnh Paris ngừng bắn 27/1/1973 tình hình Việt Nam tương đối yên tĩnh.
-
Tháng 6/1973
Quốc hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự tại Ðông
Dương Việt Miên Lào. Ðầu tháng 7-1973 Nixon ký thành đạo luật áp dụng từ giữa
tháng 8-1973 cấm hoạt động quân sự của Mỹ trên toàn cõi Ðông Dương. Tháng
10-1973 Quốc Hội ra đạo luật hạn chế quyền Tổng Thống về chiến tranh, Tổng Thống
phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến.
Cộng Sản Bắc Việt
nhận thấy thời cơ đã đến, bèn thay đổi đường lối đấu tranh từ chính trị sang bạo
lực. Trước hết tiến đánh các đồn bót lẻ tẻ, Sửa chửa và tu bổ hệ thống đường
mòn HCM. Tại Quân khu 1, lấn chiếm một số căn cứ của Việt Nam Cộng Hòa, tháng
9, tháng 10 một số đơn vị thuộc tỉnh Thừa Thiên phải di tản. Năm 1973 Bắc Việt
vẫn chưa phục hồi sau trận Mùa Hè 1972, chưa thể tổ chức được cuộc tấn công qui
mô lớn.
Sau khi ký Hiệp
định Paris, Bắc Việt cho khởi công xây tuyến đường xa lộ hành lang 613, song
song với đường
mòn Hồ Chí Minh nhưng nằm trong địa phận Việt Nam Cộng Hòa từ Ðồng Hới cho tới Lộc Ninh gọi là “Xa Lộ Đông Trường Sơn”, đến đầu 1975 thì công trình hoàn thành dài 1,200 km.gồm 5 hệ thống đường dài 5,500 km, 21 đường trục ngang dài 1,020 km. Dọc theo xa lộ Ðông Trường Sơn là hệ thống ống dẫn dầu dài 5000 km qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh, đủ sức tiếp dầu cho hàng chục nghìn xe cơ giới các loại. Bắc Việt huy động hàng nghìn xe ủi đất, hàng vạn bộ đội, công nhân, thanh niên xung phong, dân công .. ngày đêm phá núi san đèo, xây cống, lắp đường, dựng cầu.. đường rộng 8 m.. các xe vận tải cỡ lớn, các chiến xa loại nặng chạy được hai chiều với tốc độ cao cả bốn mùa, đã ngày đêm chuyển hàng trăm nghìn tấn vũ khí đạn dược quân trang quân dụng cho chiến trường.
mòn Hồ Chí Minh nhưng nằm trong địa phận Việt Nam Cộng Hòa từ Ðồng Hới cho tới Lộc Ninh gọi là “Xa Lộ Đông Trường Sơn”, đến đầu 1975 thì công trình hoàn thành dài 1,200 km.gồm 5 hệ thống đường dài 5,500 km, 21 đường trục ngang dài 1,020 km. Dọc theo xa lộ Ðông Trường Sơn là hệ thống ống dẫn dầu dài 5000 km qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh, đủ sức tiếp dầu cho hàng chục nghìn xe cơ giới các loại. Bắc Việt huy động hàng nghìn xe ủi đất, hàng vạn bộ đội, công nhân, thanh niên xung phong, dân công .. ngày đêm phá núi san đèo, xây cống, lắp đường, dựng cầu.. đường rộng 8 m.. các xe vận tải cỡ lớn, các chiến xa loại nặng chạy được hai chiều với tốc độ cao cả bốn mùa, đã ngày đêm chuyển hàng trăm nghìn tấn vũ khí đạn dược quân trang quân dụng cho chiến trường.
Bắc Việt đã xử dụng
16,000 xe vận tải để chuyên chở binh khí, kỹ thuật, đạn dược, lương thực chuẩn
bị cho chiến trường miền Nam trong suốt hai năm 1973 và 1974.Đường dây liên lạc hữu tuyến cũng đã kéo
dài tới Lộc Ninh. Từ Hà Nội đã nói chuyện thẳng được với nhiều chiến trường.
Ngày 22-5-1974 Hạ
Viện Mỹ phủ quyết đề nghị gia tăng quân viện 1.4 tỷ Mỷ Kim cho Việt Nam Cộng
Hòa của Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện, tới 23/9/1974 Lưỡng Viện Quốc Hội Mỹ đồng
thanh chấp thuận Quân viện cho Việt Nam Cộng Hòa là 700 triệu, như vậy từ
1/7/1974 VNCH chỉ nhận được một nửa số quân viện cần thiết, trong số 700 triệu
này thì 300 triệu đã được dùng để trả lương cho nhân viên cơ quan DAO ( Phòng
Tùy Viên Quân Sự).
Tướng Nga
Kulikov, Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng Nga tới Hà Nội xúi giục Bắc Việt tấn công
xâm chiếm Miền Nam và hứa giúp thêm vũ khí đạn dược. Cuối tháng 10-1974 Bộ
Chính Trị Bắc Việt quyết định kế hoạch tác chiến năm 1975. Văn Tiến Dũng đã xác
nhận trong Đại Thắng mùa xuân :
“Quyết tâm
chiến lược của Bộ chính trị được thể hiện trong kế hoạch chiến lược hai năm
1975-1976: Năm 1975, tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện
để năm 1976 tiến hành Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền
Nam”
“Võ Nguyên Giáp,
Bí thư Quân Uỷ Trung Ương, kết luận xác định khu vực và mục tiêu chiến trường
Tây nguyên làm chiến trường chủ yếu trong cuộc tiến công lớn và nhiệm vụ chiến
dịch, hướng phát triển, sử dụng lực lượng, gợi ý về cách đánh, nhấn mạnh đến
phương châm mạnh bạo, bí mật, bất ngờ, phải nghi binh rất nhiều để làm cho địch
tập trung sự chú ý vào bảo vệ phía Bắc Tây nguyên.”
Như thế Bắc Việt đã chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột từ bốn tháng trước trong khi ta
không có một nhận định hoặc tin tức tình báo nào rõ rệt. Ngày 13/12/1974 Bắc Việt
đưa ba sư đoàn tấn công Phước Long, đến ngày 7/1/ 1974 tỉnh này hoàn toàn lọt
vào tay địch
Sau khi tỉnh lỵ
Phước Long thất thủ CSBV yên chí thấy phía Mỹ không phản ứng. Sau đó ngày
8/1/1975 Lê Duẫn nói “tình hình đã sáng tỏ, chúng ta quyết tâm hoàn thành kế hoặch
2 năm”.Tướng Trần Văn Trà ,Tư Lệnh mặt trận B2 / CSBV đệ trình kế hoạch tấn
công Ban Mê Thuộc, để khởi đầu chiến dịch tấn chiếm Nam Việt Nam, được Bộ Tông
Tham Mưu Bắc Việt chấp thuận với khẩu hiệu “ Mạnh bạo, bí mật và nghi binh “.Để
tấn công Ban Mê Thuột, Trà chuẩn bị 5 Sư Đoàn chính quy, 15 Trung Đoàn Thiết
Giáp, Pháo Binh, Phòng Không, Truyền Tin và Công Binh với tổng số bộ đội
lên đến 80,000 người.
Sau trận Phước
Long, Bộ TTM ta biết chắc Cộng Sản sẽ đánh lớn tại Cao Nguyên nhưng chưa biết
chắc chỗ nào vì chúng nghi binh tối đa, ta không đoán được ý định của địch,
theo Tướng Hoàng Văn Lạc “trước khi Văn Tiến Dũng vào Nam, Giáp đã dặn dò Dũng
phải nghi binh thật nhiều để đánh lạc hướng ta”.
Tình hình chính
trị quân sự Việt Nam Cộng Hòa 1975 rất là bi đát. Năm 1967 quân phí tại Việt
Nam là 20 tỷ Mỹ Kim, năm 1968 lên 26 tỷ, năm 1969 lên 29 tỷ, hai năm 1970, 71
rút xuống còn 12 tỷ mỗi năm. Khi Mỹ đã rút gần hết chỉ còn 24,200 người
trong năm 1972 thì Việt Nam phải một mình gánh vác chiến trường với tiền viện
trợ ngày một bị cắt giảm. Năm 1973 viện trợ quân sự là 2,1 tỷ, năm 1974 chỉ còn
1,4 tỷ, năm 1975 tụt xuống còn 700 triệu trong đó 300 triệu để trả lương cho
nhân viên Phòng Tùy Viên Quân Sự (DAO) của Mỹ.
Ðảng Dân
chủ nắm đa số tại Quốc Hội Mỹ chủ trương rút quân bỏ Việt Nam không cần đếm xỉa
gì tới bạn đồng minh cũng như danh dự cho nước Mỹ. Họ tìm sơ hở của Cộng Hòa để
phá phách kiếm phiếu, Dân
Chủ thường mị dân, o bế dân nghèo, giới bình dân khố rách áo ôm, đám trốn quân
dịch, phản chiến… để lấy lòng; họ thắng lợi đúng lúc người dân chống đối chiến
tranh Việt Nam dữ dội. Ðảng nọ phá đảng kia, miền Nam Việt Nam chết oan vì bị nằm
giữa cái thế trâu bò húc nhau giữa Cộng Hòa và Dân Chủ.
Hậu quả của của
việc cắt giảm quân viện khiến chúng ta lâm vào tình trạng thiếu hụt, năm 1972 một
số lớn xăng dầu đạn dược đã được dốc vào mùa hè đỏ lửa. Hậu quả là Không Quân
đã phải cho hơn 200 phi cơ ngưng bay vì thiếu nhiên liệu, giảm số giờ bay yểm
trợ huấn luyện 50%, thám thính giảm 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%. Hải
quân cũng cắt giảm hoạt động 50%, 600 tầu chiến các loại nằm ụ. Ðạn dược chỉ
còn đủ đánh tới tháng 5, tháng 6 -1975, hỏa lực giảm 60%.
Năm 1972
ta xử dụng 66 ngàn tấn đạn một tháng từ tháng 7-1974 đến tháng 3-1975 ta chỉ
còn xử dụng 18 ngàn tấn một tháng, thiếu thuốc men, số tử thương tăng cao, tinh
thần binh sỉ xuống thấp. Ngày 9/8/1974 Nixon từ chức mang theo những lời hứa hẹn
với Tổng Thống Thiệu xuống tuyền đài.
Việt Nam Cộng
Hòa nay đang đứng trước nguy cơ sụp đổ, thù trong giặc ngoài. Ðồng Minh thì phản
bội, lãnh đạo bất tài, tham ô, sợ chết…kẻ thù thừa nước đục thả câu xua đại
binh tấn công như vũ bão.
Tin tức Tình Báo về cuộc điều quân của đ ịch:
Trong phần trình
bày về trận chiến tại Cao nguyên, Đại Tướng Cao Văn Viên đã phân tích về kế hoạch
tấn công của CSBV như sau: “Cộng Sản chuẩn bị kế hoạch quân sự của họ
trong sự tin tưởng và phấn khởi vì thái độ yên lặng của Hoa Kỳ từ sau biến cố
Phước Long .Nhiều biến chuyển và hoạt động của địch cho thấy Vùng II sẽ là mặt
trận mở màn cho các cuộc tấn công sắp đến của CS”
Vào cuối tháng
1/1975, sư đoàn 320 CSBV hoạt động tại Đức Cơ được báo cáo là đang di chuyển về
hướng Nam của Cao nguyên Đắc Lắc. Quân đoàn 2 liền báo động nhưng không có hành
động nào đáng kể ngoài một số phi vụ oanh kích các đoàn xe tiếp tế của địch. Suốt
trong tháng Hai, nhiều đoàn xe tiếp tế của CQ gồm hàng trăm chiếc vận tải bị
phát giác và bị tấn công bằng Không quân VNCH .
Các bằng chừng
khác là các sư đoàn CSBV như 312, 314, 316 cũng được báo cáo là đã di chuyển xuống
miền Nam, nhưng đến đâu thì chưa được xác nhận. Sư đoàn 316 CSBV sau đó bị phát
giác là tiến về Ban Mê Thuột bằng đường Nam Lào.
Những cuộc hành
quân truy lùng tin tức địch đã được thực hiện liên tục. Các đơn vị Nghĩa Quân
(NQ) và Cảnh Sát Quốc Gia (Cảnh Sát Quốc Gia) tại Ban Mê Thuột vào cuối tháng 2
năm 1975, đã phát giác dấu xích xe tăng T-54 của địch.
Các đơn vị Nghĩa
Quân và Cảnh Sát Quốc Gia Bản Đôn cũng đã cung cấp tin tức về sự di chuyển của
quân Cộng Sản Bắc Việt trong khu vực Bandon.
Các tin tình báo
của những tình báo viên trong những tháng 2 và 3/1975, khi đi khai thác lâm sản
ở khu vực phía tây thị xã (Bandon) và Tây Nam thị xã 62 km cũng đả báo cáo cho
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Darlac tin tức về các đường dây điện
thoại, ống dẫn dầu và dấu xích chiến xa T-54 của cộng quân.
Ngày 14 tháng
2/1975, 7 chiếc xe be khai thác lâm sản, trong lúc làm cây ở khu vực Nam
Tây-Nam thị xã Ban Mê Thuột 82 km đã bị Cộng quân cưỡng chiếm, các nạn nhân
cũng đã khai trình Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh và Phòng 2 Tiểu Khu những
tin tức về lực lượng cộng quân.
Tháng 2/1975, một
nữ cán binh thuộc Trung Đoàn 25 Địa Phương của Cộng quân ra hồi chánh với một
đơn vị thuộc tiểu khu Darlac đã cung cấp tin tức về sư đoàn F10 của Cộng quân
đang di chuyển về khu vực Nam thị xã Ban Mê Thuột, đồng thời cho biết Trung
Đoàn 25 Địa Phương sẽ mở chiến dịch tại khu vực Khánh Dương, nằm trên Quốc Lộ
21, ranh giới gữa Khánh Dương và Phước An - Ban Mê Thuột.
Ngày 5 tháng 3,
1975 một cuộc phục kích tại phía đông Buôn Dak Gang cách bắc Đức Lập 10 cây số.
Lực lượng chi khu đã bắt được một tù binh thuộc Sư đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt,
và tài liệu tiết lộ Bắc quân sẽ đại tấn công Quảng Đức và Ban Mê Thuột để mở đầu
chiến dịch Tây Nguyên 1975.
Đặc biệt là cuộc
hành quân ngày 7 tháng 3/1975 (ba ngày trước khi Cộng quân tấn công Ban Mê Thuột),
của một đơn vị thuộc tiểu khu Darlac, đã bắt được một tù binh Cộng Sản, quân
hàm Thiếu Úy, trong toán tiền thám của Sư đoàn 320 Điện Biên trong lúc y đang
giăng dây điện thoại ở khu vực Buôn La Sup, thuộc xã Cư Ming, Bandon, Quận Ban
Mê Thuột.
Qua sự thu thập
từ những tin tức này cho thấy là Cộng Quân đang chuẩn bị cho một cuộc tấn
công lớn và kế hoạch tấn công Ban Mê Thuột dần dần thấy rõ hơn.
Nhưng nguồn tin
này, cũng như nguồn tin tình báo tương tự của tiểu khu Ban Mê Thuột, đã không
được Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh và Quân đoàn II "xếp hạng" là những
nguồn tin quan trọng và đã không có những phản ứng thích nghi.
Giai đoạn tiên
khởi, CQ muốn cắt đứt quốc lộ 14, 19 và 21 để tách vùng Cao nguyên ra khỏi vùng
đồng bằng của Quân khu 2 và đồng thời ngăn chận lực lượng VNCH đến tăng cường.
Sư đoàn 320 CSBV chuyển lên đóng tại các vị trí nằm về hướng Bắc của Ban Mê Thuột
để vô hiệu hóa tất cả các đồn đóng dọc theo Quốc lộ 14. Tất cả những sự chuẩn bị
này CQ cho tiến hành bí mật để hòng tạo yếu tố bất ngờ.
Đại tướng Cao
Văn Viên phân tích tiếp: “Phòng 2 của Tình Báo Quân đoàn 2 đã có đầy đủ ước lượng
về hoạt động và mục tiêu của địch quân vào giữa tháng 2/1975, nhưng
những báo động này không được vị Tư lệnh Quân đoàn cứu xét một cách cẩn thận.
Tướng Phú cho rằng việc địch di chuyển đến Ban Mê Thuột chỉ là nghi binh, trong
khi thật sự Pleiku mới là mục tiêu của CSBV. Do đó cách bố phòng của Quân đoàn
2 đã nói lên lối suy nghĩ của vị tư lệnh Quân đoàn”.
Lực lượng phòng thủ Ban Mê Thuột :
Vì thế, toàn bộ
Sư đoàn 23 Bộ binh được đưa về hoạt động phòng ngự quanh Pleiku, việc phòng thủ
Ban Mê Thuột ủy nhiệm cho Liên Đoàn 21Biệt động quân, Địa phương quân, Nghĩa
quân tỉnh và Cảnh Sát. Vào đầu tháng 3/1975 khi có báo động về Sư đoàn 320 CSBV
chuyển đến Ban Mê Thuột, Quân đoàn 2 chỉ đưa một phần Trung đoàn 53 (chỉ có 2
Tiểu Đoàn) trở lại Ban Mê Thuột. Trung đoàn này lúc bấy giờ được giao nhiệm vụ
hành quân quanh khu vực phía Nam phi trường Phụng Dực, còn lực lượng Biệt Động
Quân thì trấn giữ tại khu vực Buôn Hô chừng 32 km về hướng Đông Bắc. Các toán
thám sát của Sư đoàn 23 BB và Nha Kỹ Thuật QL.VNCH được tung ra chung quanh trại
Bản Đôn để theo dõi các hoạt động của sư đoàn 320 CSBV nhưng chỉ phát giác được
một số đơn vị nhỏ cấp đại đội CQ địa phương.
Như vậy, lực
lương quốc gia phòng thủ Ban Mê Thuộc tổng cộng khoảng 4,000 người gồm những
quân
nhân hậu cứ của Bộ Tư Lệnh (BTL) Sư Đoàn 23
Bộ Binh, hậu cứ Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 8 (quân số chủ lực của các đơn vị này đã
được điều động về Pleiku và Kontum từ trước Tết ).
Ban Mê Thuột
thực sự là một thành phố bỏ ngỏ không lực lượng bảo vệ. Do vậy, vấn đề phân nhiệm
phòng thủ tuy có kế hoạch nhưng chẳng thắm vào đâu so với lực lượng tấn công
thiện chiến và đông đảo gấp 20 lần của đối phương .
- Lực lượng phòng thủ phía Nam là hậu
cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh gồm các phòng các ban các sở trực thuộc.
- Lực lượng
phòng thủ phía Tây, khu vực trọng yếu và nguy hiểm nhất, gồm các đơn vị hậu cứ
của Thiết đoàn 8 kỵ binh và kho đạn (trại Mai hắc Đế) cùng với Trung Tâm Yểm Trợ
tiếp vận (đại đội hành-chánh tài-chánh ).
- Lực lượng
phòng thủ phía Đông do Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn 23 Bộ Binh đảm trách. Xa
hơn là Chi Khu Ban Mê Thuột và Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia quận Ban Mê Thuột
phối hợp với nhau để chịu trách nhiệm vấn đề phòng thủ mặt nầy.
- Lực lượng
phòng thủ mặt Bắc thị xã là Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac cùng với một
đơn vị 206 Cảnh Sát Dã Chiến.
- Nội
vi thị xã và các chốt điểm trọng yếu đều do lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đảm trách,
và được bố trí như sau:
* Hai chốt
cảnh sát đặt tại Trường Trung Học và cuối đường Phan Chu Trinh là các chốt ở cửa
Bắc.
* Cuối đường
Tự Do được giao cho Cục Cảnh Sát Cư Kplong và một tiểu đội Cảnh Sát Dã Chiến.
* Cửa ngỏ
phía Nam có Cục Cảnh Sát Cư Ê Bư và một đơn vị Cảnh Sát Dã Chiến chịu
trách nhiệm.
* Cửa Tây
thị xã giao cho Cục Cảnh Sát thị xã Cục Lạc chịu trách nhiệm. Các cao ốc trong
toàn thị xã và các khách sạn đều được Cảnh Sát Quốc Gia đóng chốt.
* Các đơn
vị trừ bị gồm có một tiểu đoàn của Trung Đoàn 53 Bộ Binh đóng tại phi trường Phụng
Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột 7 km, có một pháo đội 105 ly, trong khi pháo binh
của Cộng quân lại là loại 130 ly, và hỏa tiển 122 ly, tầm xa và sức công phá
hoàn toàn cách biệt.
* Ngoài
ra, doanh trại các tiểu đoàn Pháo binh, Công binh, Truyền tin, Tiếp vận thống
thuộc Sư đoàn 23 bộ binh đóng gần thị xã đều tận dụng quân số tại hàng để tổ chức
phòng ngự trong phạm vi trách nhiệm.
Riêng về trách
nhiệm của tiểu khu Darlac, Đại Tá Nguyễn Trọng Luật đã cho điều động tiểu đoàn
204 Địa phương quân đang đóng tại Ban Don về thị xã.
Cô lập
Ban Mê Thuột :
Các trận đánh nhằm nghi binh & cô lập
Ban Mê Thuộc trước ngày 10/3/1975
Bắc Việt đưa kế
hoạch tấn công bất ngờ và đông đảo, nghi binh tối đa, chúng vờ đánh Pleiku để
nhử ta lên giải tỏa rồi cắt các đường dẫn đến Ban Mê Thuột, chiếm phi trường
sau cùng ba mặt giáp công.
Bắc Việt dùng
các Trung Đoàn, Sư Đoàn cắt các đường giao thông 19, 14, 21 nghi binh thu hút
quân đội VNCH về phía Bắc để bất thần tấn công Ban Mê Thuột. Chúng không để sẵn
quân ở vị trí xuất phát tấn công mà tập kết từ xa vận động đến, bỏ qua vòng
ngoài, bất ngờ thọc sâu vào thị xã phối hợp với lực lượng đặc công đã len lỏi sẵn
trong thị xã, rồi từ đó đánh ra ngoài.
Ngày 1-3-1975 sư
đoàn 968 Bắc Việt tấn chiếm các đồn bót gần Thanh An, pháo kích phi trường Cù
Hanh, Pleiku.
Ngày 4/3/1975
Trung Đoàn 95B Việt Cộng và Sư đoàn 3 Sao Vàng tấn công ngăn chận quốc lộ 19 tại
An Khê như muốn tấn công Pleiku, cắt đường giao thông Pleiku và Nha Trang.
Ngày 5/3/1975
Trung Đoàn 25 Việt Cộng cắt Quốc Lộ 21 giữa Phước An và Khánh Dương, cắt đường
Nha Trang - Ban Mê Thuột. Tướng Phú cho tăng cường trung đoàn 45 tại
Thanh An và cho 2 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân và Thiết Giáp giải tỏa quốc lộ 19
nhưng không thành công .
Ngày 7/3/1975 sư
đoàn 320 Việt Cộng chiếm quận lỵ Thuần Mẫn trên Quốc lộ 14 nằm giữa đường
Pleiku đi Ban Mê Thuột.
Ngày 9-3 hôm nay
Sư đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt nhất định san bằng quận Đức Lập để tiến quân về
Ban Mê Thuột. Chi khu bị tấn công từ 6 giờ sáng, VC đã dùng pháo binh 130 ly và
SKZ 82 ly bắn vào Chi khu và Chi đoàn Chiến xạ, địch đã làm tê liệt các chiến
xa của ta ngay từ phút đầu và sau đó quân chính qui Cộng sản Bắc Việt mở
"trận địa chiến" đánh ban ngày, các công sự phòng thủ trên mặt đất sập
hết. Tình hình Đức Lập vô cùng nguy ngập. Các đồn phụ đã bị "bứt". Tiểu
đoàn Địa phương quân đóng tại Núi Lửa cách Đức Lập 9 cây số bị địch tràn ngập
sau một trận đánh đẫm máu. Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng và một số cấp chỉ huy khác
bị Việt cộng sát hại.
Tương Phú bốc
máy liên hợp liên lạc thẳng với Trung tá Nguyễn Cao Vực, Quận trưởng quận Đức Lập.
Ông được báo cáo Trung tá Quận trưởng đã bị thương, hiện ở ngoài chỉ huy và điều
khiển những khẩu đại bác 105 ly bắn trực xạ vào Cộng quân. Chi khu cầm cự cho đến
sáng, khi mặt trời bắt đầu lên. Đúng 10 giờ 30 phút quận Đức Lập biến thành biển
lửa.
Như thế Việt Cộng
đã cô lập Ban Mê Thuột cả Bắc và Nam mà Tướng Phú vẫn cho là địch sẽ đánh
Pleiku, ông lại nghĩ chúng nghi binh vờ đánh Ban Mê Thuột. Tuy nhiên theo đề
nghị của Bộ tư lệnh Quân Đoàn ông đã cho trực thăng vận 2 tiểu đoàn Biệt đông
quân thuộc Liên Đoàn 21 từ Kontum đến Buôn Hô cách 30 km ở phía Bắc Ban Mê Thuột.
Sự sai lầm của
tướng Phú đã được Việt Cộng khai thác triệt để: “Từ ngày 1 tháng 3 đến ngày 9
tháng 3 năm 1975, trước khi tiến công vào Buôn Ma Thuột, ta triển khai thế chiến
dịch, thu hút sự chú ý của địch về hướng Công tum, Plây cu, cắt các đường, cô lập
mục tiêu chủ yếu. Cho nên đến lúc ta sắp nổ súng đánh vào Buôn Ma Thuột, địch mới
biết. Chúng báo động và muốn tăng cường lực lượng nhưng không kịp nữa rồi, lực
lượng đã bị căng giữ ở các nơi khác” (ÐTMX trang 90)
Mặt Trận Ban Mê Thuột
Ngày 9/3/1975
Thiếu Tướng Phú bay lên BMT thị sát kế hoạch phòng thủ, ứng chiến của thành phố
ra lệnh cấp phát hỏa tiển chống chiến xa M72 và hỏa tiển TOW cho các đơn vị. Từ
12 giờ trưa đến 5 giờ chiều ngày 9/3/1975, Tướng Phú họp với Tư lệnh Sư đoàn 23
Bộ binh, các Tiểu khu trưởng Ban Mê Thuột và Quảng Đức để duyệt xét tình hình
các mặt trận.
Sau khi chấp nhận những đề nghị của các giới
chức liên hệ và cho những chỉ thị cần thiết, ông ra lệnh cho Đại tá Nghìn, Tỉnh
trưởng Quảng Đức bay về trước. Tại Ban Mê Thuột, để cho có sự thống nhất chỉ
huy, Tương Phú bổ nhiệm Đại tá Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 làm Tư lệnh chiến
trường Ban Mê Thuột.
Các Tư lệnh mặt trận phải ra lệnh đôn đốc
các đơn vị chuẩn bị và sẵn sàng chiến đấu trong 2, 3 tháng liên tiếp; tổ chức
những cuộc hành quân xa ngoài thị xã và vị trí phòng thủ.
Kho xăng, kho đạn phải được phân tán, đề
phòng đặc công Cộng sản Bắc Việt đánh phá. Lệnh thiết quân luật mỗi nơi được ủy
nhiệm cho các Tư lệnh mặt trận toàn quyền định đoạt.
Đến 10.00 giờ
đêm, thành phố Ban Mê Thuộc được lệnh báo động đỏ, tập họp tất cả binh sỉ chuẩn
bị tác chiến.
Ngày 10/3/1975,
từ 1giờ 20 đến 2 giờ 15 sáng, các chốt điểm Cảnh Sát Dã Chiến ở cửa Bắc và cửa
Tây thị xã đã phát giác các tổ trinh sát tiền phong của Cộng quân và liên tiếp
báo về Trung Tâm Hành Quân Cảnh Lực, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac.
2 giờ 20 sáng
ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân bắt đầu thực hiện trận mưa pháo theo chiến thuật
tiền pháo hậu xung bằng đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly vào các cứ điểm quân sự
như Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, kho đạn Mai Hắc Đế và
phi trường L19.
Những tiếng nổ của
hỏa tiển 122 ly và đại pháo 130 ly khủng khiếp làm vỡ tung hết các cửa kiếng và
rung chuyển cả thành phố như cảnh tượng động đất. Các nhà cao tầng bị rung chuyển
cực mạnh. Thành phố đã như con tàu chao nghiêng trong bão tố. Một số các nhà
xây thô sơ quanh các khu vực quân sự đã bị sụp đổ, và trận mưa pháo liên tiếp
không ngừng đổ xuống các cứ điểm quân sự cho đến 6 giờ sáng.
Bốn giờ sáng,
chiến xa T-54 và bộ đội Cộng Sản chia làm nhiều mũi tấn công vào phi trường
L19, kho đạn Mai Hắc Đế , Tiểu Khu Darlac, Tòa Hành Chánh Tỉnh, BTL Sư Đoàn 23
BB, Hậu cứ Trung Đoàn 53 BB sát phi trường Phụng Dực với chiến thuật biển người.
Trận đánh quyết
định giữa Nam-Bắc đã diển ra. Nhưng lực lượng giữa hai bên quá ư chênh lệch,
như trứng chọi với đá nếu so sánh cả về quân số, vũ khí, chiến cụ. Địch đã ở thế
thượng phong ngay từ lúc đầu !
6 giờ 15 sáng,
xe phóng thanh của Ty Thông Tin đậu tại Ngã 6 thị xã phát lời kêu gọi của Đại
Tá Tỉnh Trưởng yêu cầu đồng bào bình tỉnh, ai ở nhà nấy, tình hình an ninh tại
thị xã vẩn còn yên tỉnh.
6 giờ 20 sáng
ngày 10 tháng 3/1975, một góc phía Bắc của phi trường L19 bị Cộng quân tràn ngập.7
giờ 15 các chốt cảnh sát xin lệnh rút khỏi vị trí phòng thủ vì áp lực địch quá
mạnh, dân chúng từ khu vực Buôn A-Lê B, Tân Mai, cửa Nam thị xã lũ lượt chạy
vào trung tâm thành phố.
8 giờ 30 , Kho đạn
Mai Hắc Đế thất thủ. Viên Đại Úy chỉ huy trưởng bị tử thương.
9 giờ 20, chiến
xa T-54 và bộ đội cộng quân chia làm nhiều mũi tấn công vào thị xã. Một mũi từ
cuối đường Phan Chu Trinh (cửa Bắc ) tràn chiếm khu vực nhà thờ Chính Tòa, ngã
Sáu thị xã, cách Bộ Chỉ HuyTiểu Khu 800 mét. Mũi phía Nam, từ khu vực Buôn A-Lê
B, đồi La San, theo đại lộ Thống Nhất tiến đánh khu vực tư dinh Tỉnh Trưởng, Ty
Ngân Khố. Một mũi khác, từ hướng chùa Khải Đoan, đánh chiếm ngã tư Nguyễn Tri
Phương Phan Bội Châu, và mặt Tây thị xã cũng đã bị Cộng quân tấn chiếm.
Ngoài mặt trận chính Ban Mê Thuột, Cộng
quân tấn công khắp nơi. Các trận bắc Kontum, nam Pleiku, bắc Bình Định, Quảng Đức
và trên 2 quốc lộ 19, 21 đều bị áp lực nặng nề.
Mặt trận Ban Mê
Thuột ngày 10/3/1975
MẶT TRẬN TIỂU KHU DARLAC
Từ 9 giờ 30 sáng
ngày 10 tháng 3/1975, các mũi tiến quân của Cộng quân từ hướng Bắc và hướng Tây
Bắc đã hoàn toàn tràn ngập trung tâm thành phố và tập trung nổ lực tấn công Bộ
Chỉ Huy Tiểu Khu nằm trên đại lộ Thống Nhất. Bộ đội và chiến xa T-54 của Cộng
quân từ khuôn viên nhà thờ chính tòa tràn qua ngã Sáu, chiếm Câu Lạc Bộ Biên
Thùy, khu cư xá sĩ quan, nằm trên Ngã Ba đại lộ Thống Nhất và đường Lê Lợi.
Lực lượng phòng
vệ Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu phản công quyết liệt. Một chiếc T-54 của Cộng quân bị bắn
cháy. Dù với chiến thuật biển người và đại bác 100 ly trang bị cho T-54 bắn trực
xạ không ngừng nhưng Cộng quân vẫn chưa tiến sát được vào hệ thống công sự
phòng thủ này. Tinh thần chiến đấu và lòng dũng cảm của những chiến sĩ thuộc Tiểu
Khu quả thật không thể tưởng tượng. Cứ mỗi đợt tiến công của Cộng quân là những
tràng đại liên, M-79 (súng phóng lựu) và M-16 từ các công sự phòng thủ xối xả
phản kích làm cho bước tiến quân của Cộng quân đã phải ngừng lại.
Cộng quân lui về
cố thủ khu vực cư xá sĩ quan và Câu Lạc Bộ Biên Thùy, đồng thời chia quân tràn
qua đại lộ Thống Nhất đánh chiếm Tòa Án, bưu điện, tòa nhà Đại Biểu Chính Phủ,
và tiếp tục thực hiện trận mưa pháo bằng đại bác 100 ly từ các chiến xa T-54 và
đại bác130 ly cùng hỏa tiễn 122 ly từ hướng Tây thị xã (khu vực Bandon) đổ vào
Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu.
11giờ 20, một
chiếc T-54 của Cộng quân tiến vào cổng trước Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu trên đường Thống
Nhất đã bị bắn hạ. Tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ Tiểu Khu càng lên cao.
11 giờ 45, hai
chiếc Commando Car (thiết giáp với bốn bánh cao su, không xích sắt) của Thiết
Đoàn 8 từ hướng chùa Khải Đoan theo đường Quang Trung qua Tôn Thất Thuyết để tiến
về đánh bọc hậu lực lượng của Cộng quân đang công hãm Tiểu Khu. Nhưng khi đến
ngã Ba Ama Trang Long Tôn Thất Thuyết, các chiến sĩ Thiết Đoàn 8 bị lực lượng của
Cộng quân từ ngã Sáu tràn xuống chận đánh. Hai chiếc Commando Car bị Cộng quân
bắn cháy trước Bar Quốc Tế. Nhưng các chiến sĩ của Thiết Đoàn 8 đã len theo khu
phố Ama Trang Long để tiến về hướng Tiểu Khu.
Khu chợ Ban Mê
Thuột, từ đường Quang Trung chạy dọc theo đường Y Jút đến Ama Trang Long bị
trúng đạn pháo và bốc cháy dữ dội. Nhà hàng Thanh Thế mới khai trương, cũng tân
kỳ không thua gì nhà hàng Thanh Thế ở đại lộ Lê Lợi Saigon, giờ đây đang là một
biển lửa. Dãy phố bên kia đường Ama Trang Long, đối diện với nhà hàng Thanh Thế
như tiệm Rồng Vàng, nằm mặt sau của Ty Cảnh Sát cũ đã là một bãi gạch vụn. Khu
phố nằm trên đường Y Jút, đối diện với chợ Ban Mê Thuột như nhà của Bác Sĩ Tôn
Thất Hối đã bị sập.
Lực lượng Biệt Ðộng
Quân tại Buôn Hô được điều động về tiếp cứu Ban Mê Thuộc nhưng gập hỏa lực mạnh
mẻ của các chốt kháng cự trên đường đi. Một lực lượng Thiết Giáp và ÐPQ đang
hành quân tại Budrang cũng được lệnh trở lại nhưng bị cầm chân ở một cây
cầu phía Nam tỉnh lỵ khoảng 10 km.
Đến 11 giờ 45
các chiến sĩ của Tiểu Khu Darlac vẫn cố thủ. Lực lượng của cộng quân từ 2 mặt,
phía Bắc và mặt tiền Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu đã bám sát hệ thống công sự phòng thủ
của Tiểu Khu. Những trận đánh xáp lá cà đẫm máu đã xảy ra dọc theo hệ thống
công sự phòng thủ nầy.
13 giờ 15 trưa
,Trung Tâm Hành Quân của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu bị trúng pháo, mọi liên lạc truyền
tin bị phá hủy.
14 giờ 20 Bộ Chỉ
Huy Tiểu Khu Tỉnh Darlac thất thủ, sau hơn 7 tiếng đồng hồ giao tranh với lực
lượng biển người của Cộng quân có chiến xa T-54, và các loại đại pháo yểm trợ,
mà không có được một đơn vị bạn nào tiếp cứu. BCH Tiểu Khu phải di tản và sát nhập với BTL tiền
phương của SĐ23BB.
Sáu mươi ngàn
dân thị xã Ban Mê Thuột mãi mãi ghi nhớ chiến công, lòng dũng cảm và tinh thần
kỷ luật của các chiến sĩ Tiểu Khu Darlac. Trong những giờ phút lâm nguy đã cố gắng
và hy sinh để làm tròn bổn phận cho đến hết sức mình với những trận tấn công và
đánh xáp lá cà cùng lực lượng biển người của quân thù, đến giờ phút cuối đành
di tản Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu để bảo toàn lực lượng.
MẶT TRẬN PHÍA BẮC THỊ XÃ
Những Trận Đánh Oanh Liệt của Các Chiến Sĩ
Cảnh Sát Quốc Gia Thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac
Trong kế hoạch
phòng thủ thị xã Ban Mê Thuột, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac là một
trong những đơn vị chịu trách nhiệm về một khu vực phòng thủ nặng nề nhất, từ nội
vi thị xã đến cả một mặt Bắc, bao gồm phi trường trực thăng và phi trường L19.
Phòng thủ phi trường L19 là đơn vị Thám Sát Tỉnh (PRU), trực thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh
Sát Tỉnh.
Với những tin tức
nhận được của mạng lưới tình báo cơ hữu và của các đơn vị bạn, vị chỉ huy trưởng
Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, Trung Tá Trần Quang Vĩnh đã sẵn sàng kế hoạch phòng thủ
và phản công cho đơn vị hằng tháng trước. Ông đã bổ nhiệm Đại Úy Nguyễn Ngọc Tuấn,
Đại Đội Trưởng đại đội Cảnh sát Dã Chiến 206 làm phụ tá đặc trách hành quân.
2 giờ 20 sáng
ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân bắt đầu tấn công phi trường L19, (khu vực phòng
thủ của Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, do Đại Đội Thám Sát chịu trách nhiệm),
bằng đại bác 130 ly và hỏa tiễn 122 ly.
Đến 4 giờ sáng
ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân bắt đầu dùng lực lượng bộ binh với chiến thuật
biển người và xe tăng T-54 tấn công phi trường L19. Đơn vị Thám Sát Tỉnh chống
trả quyết liệt và báo cáo về Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia. Đại Úy Nguyễn Ngọc
Tuấn liền liên lạc với Tiểu Khu xin Đại Đội 1/224 tiếp viện. Nhưng Đại Đội
1/224 đã không thể chọc thủng vòng vây của Cộng quân ở mặt Bắc Phi trường L19.
6 giờ 20, một đoạn
vòng đai ở khu vực phía Bắc phi trường bị chọc thủng. Lực lượng Cộng quân tràn
ngập khu vực này, và đơn vị Thám Sát Tỉnh đã phải lui về phòng tuyến phòng thủ
phía sau với những tổn thất nặng nề về nhân sự .
Sau khi tràn ngập
các vị trí phòng thủ, 9 giờ 20, lực lượng Cộng quân từ mặt Bắc thị xã, tức là
khu vực phía Bắc phi truờng L19 bắt đầu tấn công Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh
Darlac, nằm trên đường Tự Do để xâm nhập trung tâm thành phố.
Lợi dụng hệ thống
công sự phòng thủ và các dãy hàng rào kẽm gai bảo vệ phi trường L19 nằm bên kia
đườngTự Do, lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đã chận đứng các mũi tiến quân của Cộng
quân. Các chiến sĩ Cảnh Sát dù chỉ được trang bị M-16, M-79 và lựu đạn nhưng đã
anh dũng phản công quyết liệt trước những đợt tấn công của Cộng quân, không cho
địch tiến sát vào hệ thống công sự phòng thủ.
Chính nhờ lòng
dũng cảm chiến đấu, kỷ thuật tác chiến, và hệ thống chỉ huy chặt chẽ , mà một mặt
phía Đông thị xã Ban Mê Thuột, từ khu đường Tự Do, chạy dài xuống Bà Triệu,
Hùng Vương, Trường Trung Học Tổng Hợp Ban Mê Thuột, chưa có bóng dáng của Cộng
quân. Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac đã trấn giữ một khu vực an toàn
mà có lẽ họ không thể nào ngờ được, đó là con đường di tản duy nhất sau này cho
các đơn vị phải rút lui vào phút cuối.
15 giờ 40 với áp
lực của địch, và để bảo toàn đơn vị, Thiếu tá Hàn Văn Thành, chỉ huy phó Bộ Chỉ
Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac đã ra lệnh mở đường máu đem đơn vị ra khỏi thị
xã về Cây Số 5, phối hợp với các đơn vị trực thuộc và Chi Khu Ban Mê Thuột để
tiếp tục phản công quân thù.
16 giờ Cộng
quân hoàn toàn làm chủ tình hình thị xã Ban Mê Thuột, ngoại trừ khu vực Bộ Tư Lệnh
Sư Đoàn 23 Bộ Binh vẫn còn kháng cự.
Trong thành phố,
tiếng súng nhỏ đã im, nhưng cảnh tan hoang của thị xã thật không cách nào tả xiết.
Rải rác trên các khu phố, những vũng máu và thây người, kẻ bị thương, bị chết
không ai săn sóc. Thành phố bây giờ như một bãi tha ma, chứa đầy tử khí. Bóng
dáng của Cộng quân như tử thần đến chiêu hồn những kẻ còn sống và đe dọa mọi
người.
Trong gần suốt
14 giờ đồng hồ, các đơn vị quân đội, Cảnh Sát, Nghĩa Quân, Đoàn Cán Bộ Xây Dựng
Nông Thôn Tỉnh và Nhân Dân Tự Vệ toàn thị xã đã tận hết sức mình để chống trả với
lực lượng biển người, chiến xa và đại bác của Cộng quân mà không có được một
đơn vị bạn nào tiép cứu.
Và giữa những giờ
phút quyết liệt này, người ta nhận được tin vào lúc 10 giờ 15 sáng ngày 10
tháng 3/1975, một đơn vị Biệt Động quân từ cửa Bắc thị xã (bến xe Cây Số 3) đã
xâm nhập trung tâm thành phố. Tin tức này được
loan truyền đến hầu hết các đơn vị đang chiến đấu trên khắp các cửa ngõ thị xã,
và mỗi người lính, từ cấp chỉ huy cho đến binh sĩ đều vui mừng hy vọng chiến
trường sẽ xoay hướng.
Nhưng cho đến một
giờ chiều, tin tức về Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân vẫn im hơi lặng tiếng, mà chiến
trường mỗi lúc càng quyết liệt hơn, cho đến khi người ta biết rằng đơn vị Biệt
Động Quân tiến vào thị xã sáng nay là chỉ để giải cứu gia đình vợ con của Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, vị Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh ra khỏi thị xã.
Tin này quả thật
là một tác động tâm lý, không những làm cho các đơn vị tham chiến mà cả toàn thị
xã có cảm nghĩ Ban Mê Thuột đã bị bỏ rơi. Tuy nhiên với tinh thần và trách nhiệm
của một người lính, các đơn vị có mặt tại thị xã vẫn anh dũng chiến đấu với niềm
tin lực lượng tổng trừ bị, và đặc biệt là hai Trung Đoàn 44 và 45 Bộ Binh nhất
định sẽ được gởi đến.
ĐÊM KINH HOÀNG
Từ 6 giờ chiều
ngày 10 tháng 3/1975, bộ đội Cộng quân bắt đầu chia thành từng toán nhỏ lục
soát khắp cùng các khu phố và những điểm tập trung của người chạy loạn như chùa
Khải Đoan, trường Bồ Đề, trường Tàu ở đường Y Jút. Họ thanh lọc dân chúng, bắt
đi những thanh niên nam nữ, và truy lùng các viên chức chánh phủ, sĩ quan và
binh lính.
Khắp cùng các
ngõ phố, bọn đặc công và du côn, thi nhau lập công, đập phá các cửa tiệm, dinh
thự, tư gia, những nơi mà họ cho là có kẻ thù ẩn trốn, là Việt gian, phản động,
làm việc cho Mỹ Ngụy, hoặc có nợ máu với nhân dân. Chúng thi nhau lục soát các
trường học, nhà thờ, bức tượng ở nhà thờ quân đội, cạnh trường Hưng Đức cũng bị
chúng đập nát, đồng thời lùng bắt những người có thù hằn với chúng, và lôi đốt
hết các loại sách báo, giáo khoa, tự điển, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, đặc
biệt là những ấn phẩm viết bằng tiếng ngoại quốc như Anh văn, Pháp văn.
Một lần nữa, ngọn
lửa tượng trưng cho sự hủy diệt lại bùng lên khắp cùng thị xã. Cảnh hôi của,
hôi người, trả thù cá nhân lan tràn khắp nơi. Thành phố bây giờ là một xã hội
không tổ chức, không luật pháp, và tai họa thảm khốc đã diễn ra khắp cùng các
ngõ phố. Những hình phạt dã man thời tiền sử đã được đem ra thực hiện. Hình ảnh
của chết chóc và khủng bố đang bao trùm lên thị xã nhỏ bé này và đè nặng xuống
tâm hồn mỗi dân đinh của toàn thành phố.
Sự ngu dốt của kẻ
chiến thắng, hay sự dã man và thiếu trình độ của cấp lảnh đạo chính là tai họa
và thảm trạng tàn khốc cho một xã hội. Xã hội miền Nam, và dân trí của nền Cộng
Hòa miền Nam đã có một trình độ văn hóa và kỷ thuật cách xa gấp bội so với miền
Bắc, nên bộ đội Cộng quân, sau khi đã kiểm soát toàn thị xã, lập tức đi dò tìm
những ''đài địch,'' và đã dùng súng B-40, B-41, hoặc đại bác 100 ly trang bị
trên chiến xa T-54 bắn vào các tư gia có trụ ăng ten trên nóc nhà, vì họ cho rằng
đó là vị trí đặt các máy truyền tin của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mà các trụ
ăng ten TV là những ''đài địch '' ấy đã có khắp trong toàn thị xã. Thảm thương
thay cho thành phố Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân của thị xã này.
Trong đêm này,
không biết có bao nhiêu gia đình tan hoang, bao nhiều người bị chết oan, đánh đập,
hoặc bị đấu tố mang thương tích hay tàn khuyết, mà vợ con, thân nhân, bạn bè chỉ
đứng nhìn mà không dám kêu van. Máu và lệ đã đổ, nhưng không chảy ra từ khoé mắt,
mà lại tuôn ngược vào lòng. Trời ở quá cao mà Phật cũng rất xa, nên con người
đã là chủ của con người trong đêm nay, với đầy đủ quyền uy và hung dữ. Đêm kinh
hoàng, đêm của địa ngục và Sa Tăng.
Nhưng cái quan
trọng của những kẻ chiến thắng không phải là những thứ đó, Cái quan trọng đối với
kẻ chiến thắng trong cuộc chiến 20 chọi 1 này là vơ vét tất cả những gì họ có
thể vơ vét: Kho dự trữ lương thực trung ương, nằm trên đường Tự Do, Kho Quân
Nhu, Quân Cụ, dụng cụ y khoa và dược phẩm, thuốc men của các bệnh viện như Quân
Y Viện, Dân Y Viện, Trạm xá, nhà hộ sinh, các cửa tiệm thuốc Tây, các đại lý gạo,
cửa hàng bách hóa của tư nhân trong toàn thành phố ….
Suốt đêm, người
ta nhìn thấy những đoàn Molotova chở đầy hàng hóa vật dụng của thành phố đi về
hướng Bandon, phía Tây thị xã.
BỘ TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23 BỘ BINH VÀ TRẬN ĐÁNH
CUỐI CÙNG
Bây giờ là 4 giờ
20 sáng ngày 11 tháng 3/1975, khu suối Đốc Học với những vườn rau tàn tạ đầy dấu
dép râu và dấu xích chiến xa, khu vực Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh và Dân Y Viện
Ban Mê Thuột, chỉ còn thấy được ngọn đèn Signal chơ vơ trên trụ truyền tin. Những
đóm màu đỏ của hỏa châu càng nhỏ hơn, như ánh mắt của loài thú hoang trong rừng
đêm.
Cái lặng lẽ của
đêm trường và cái yên tĩnh của chiến trường càng làm cho người ta liên tưởng tới
một cái gì khủng khiếp sắp xảy ra. Lâu lâu một tràng đại liên hoặc những loạt
súng nhỏ không phân biệt được AK-47 hay M-16 bắn ra. Và như vậy là đã hơn 24 giờ
đồng hồ, từ lúc 1 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, lực lượng phòng thủ hậu cứ
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh đã chống trả không ngừng trong suốt 24 giờ, và
không hiểu sẽ còn cầm cự được bao lâu nữa.
Qua hệ thống
truyền tin, người ta nhận được tín hiệu của Chi Khu Ban Mê Thuột, và Đại Tá Dậu,
chỉ huy trưởng Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân còn ở ngoài vòng đai thị xã, ở mặt Bắc,
mà chưa chọc thủng được phòng tuyến của Cộng quân để tiến vào thị xã. Hy vọng
duy nhất trong lúc này, là hai chiếc L-19 đang bay trên đầu Bộ Tư Lệnh, dầu rằng
màng lưới phòng không với đại liên 37 ly của Cộng quân vẫn không ngừng tấn
công.
5 giờ 55 sáng
ngày 11 tháng 3/1975, chiến trường vẫn còn yên tĩnh, Ở cửa Nam thị xã, lực lượng
phòng thủ tư dinh tỉnh trưởng, nằm trên đại lộ Thống Nhất vẫn còn cầm cự.
6 giờ 30 sáng
ngày 11 tháng 3/1975, từ khuôn viên trường tiểu học Nguyễn Du, sau lưng Sở Học
Chánh Ban Mê Thuột, những chiếc T-54 của Cộng quân, và lực lượng bộ binh tùng
thiết đang thực hiện một cuộc chuyển quân bao vây hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23
Bộ Binh. Vòng vây này đang được thắt chặt, như một màng lưới dày đặc chung
quanh vòng đai phòng thủ Bộ Tư Lệnh. Và 6 chiếc T-54, nhìn được từ hướng
Tây-Nam, đang dàn hàng ngang tiến sát vào hệ thống công sự phòng thủ Bộ Tư Lệnh.
Với kinh nghiệm của những người lính, ai cũng hiểu Bộ Tư Lệnh khó lòng cầm cự
được trong vòng vài ba giờ đồng hồ tới.
Trong khi đó, những
tiếng súng nhỏ, và đại bác 100 ly, cùng lúc gầm lên như những giây pháo nổ
không ngừng, làm rung chuyển cả một vùng trời. Cộng quân bắt đầu nổ lực tấn
công hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Và tại cửa Nam thị xã, bộ binh và
chiến xa T-54 cũng ráo riết tấn công lực lượng phòng thủ tư dinh tỉnh trưởng.
8 giờ 15 sáng
ngày 11 tháng 3/1975, tư dinh tỉnh trưởng bị T-54 ủi sập các bức tường vòng
đai, và pháo sập các tầng lầu. Trung úy Trung đội trưởng bị trọng thương. Tư
dinh tỉnh trưởng đã thất thủ, chốt điểm cuối cùng ở cửa Nam thị xã đã bị Cộng
quân tràn ngập, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh bây giờ như người hùng cô đơn vẫy
vùng dưới trời mưa đạn của quân thù.
NHỮNG PHÚT CUỐI CÙNG CỦA BỘ TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN
23 BỘ BINH
Lực lượng phòng
thủ Bộ Tư Lệnh gồm hai đại đội và một số các phòng ban chuyên môn, trong đó có
đại đội tổng hành dinh, chuyên trách về hành chánh và ẩm thực. Lực lượng chủ chốt
là các Trung Đoàn 44 và 45 đang hành quân vùng Pleiku. Trung Đoàn 53 chỉ có hai
tiểu đoàn ở Ban Mê Thuột, và một trung đội Pháo Binh 105 ly, nhưng một tiểu
đoàn lại đã điều động lên giải tỏa Quận Đức Lập, một quận vừa bị Cộng quân tràn
ngập vào sáng Chủ Nhật ngày 9 tháng 3/1975. Tiểu đoàn còn lại phòng thủ Phi trường
Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê Thuột về phía Đông Đông-Bắc 7 km.
Cho đến 8 giờ 20
sáng ngày 11 tháng 3/1975, đơn vị quân lực còn có mặt tại thị xã Ban Mê Thuột
chỉ là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, Cộng quân biết rõ điều này, và
càng hiểu rằng Trung Đoàn 44 và 45 Bộ Binh nhất định sẽ trở về chiếm lại giang
sơn của họ. Và đặc biệt là Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đang có mặt ngoài vòng
đai thị xã ở cửa Bắc,
Liên Đoàn 21 Biệt
Động Quân được đổ xuống Buôn Hô, một quận cách thị xã Ban Mê Thuột 35 km về hướng
Bắc lúc 4 giờ 30 chiều ngày 10 tháng 3/1975. Đến 9 giờ tối cùng ngày đã tiến
sát vào vòng đai thị xã, nhưng chưa chọc thủng được vòng vây của Cộng quân. Tiểu
Khu Darlac lúc bấy giờ đã rút ra khỏi thị xã. Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 cố
thủ trong khuôn viên Bộ Tư Lệnh, nên không có được một đơn vị nào làm đầu cầu
cho Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân tiến vào thị xã.
Điểm đáng tiếc
là 10 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, đơn vị tiền sát của liên đoàn đã đột nhập
thị xã, di tản gia đình vị tư lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh ra khỏi thị xã, nhưng lại
không được lệnh ở lại làm điểm tựa cho Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân đến giải cứu
thị xã sau này.
Từ 6 giờ 45 sáng
ngày 11 tháng 3/1975, Cộng quân đã bố trí xong lực lượng thắt chặt vòng văy hậu
cứ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và thực hiện trận mưa pháo bằng đại bác 100
ly trang bị trên chiến xa T-54, bắn trực xạ, đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly từ
hướng Bandon dồn dập đổ xuống Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Đồng thời, chiến xa và bộ đội
Cộng quân dàn hàng ngang tấn công bốn mặt vòng đai Bộ Tư Lệnh. Lực lượng phòng
thủ Bộ Tư Lệnh đã chống trả quyết liệt, đẩy lui nhiều đợt tấn công, và đánh cận
chiến với quân thù.
10 giờ 10 phút,
một phi vụ A-37 của Không Quân thả bom nhầm vào Trung Tâm Hành Quân của Bộ Tư Lệnh
Sư Đoàn 23. Mọi liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Bộ Tổng Tham Mưu hoàn
toàn bị phá hủy.
10 giờ 30 sáng
ngày 11 tháng 3/1975, một đoạn hệ thống công sự ở mặt Tây và phía Nam Bộ Tư Lệnh
đã bị chọc thủng. Bộ đội và chiến xa của Cộng quân tràn vào hậu cứ Sư Đoàn 23 Bộ
Binh như nước vỡ bờ. Đại Tá Vũ Thế Quang, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn, Đại Tá Nguyễn Trọng
Luật, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Darlac, mở đường máu đem đơn vị
thoát khỏi hậu cứ, bỏ lại Ban Mê Thuột và 60 ngàn dân đinh trong một tình huống
vô cùng bi thảm. Ban Mê Thuột lâm chung. Sáu mươi ngàn dân như một đàn gà con mất
mẹ. Đêm đen phủ xuống thành phố này cùng với nổi hải hùng và tuyệt vọng mênh
mong.
MẶT TRẬN PHI TRƯỜNG PHỤNG DỤC VÀ TRUNG ĐOÀN
53 BỘ BINH
Thị xã Ban Mê
Thuột đã hoàn toàn lọt vào tay Cộng quân từ chiều hôm qua, ngày 10 tháng
3/1975, và đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư
Đoàn 23 Bộ Binh rút khỏi thị xã này lúc 10 giờ 38 phút ngày 11 tháng 3/1975.
Nhưng Trung Đoàn 53 Bộ Binh, phòng thủ Phi Trường Phụng Dực, cách thị xã Ban Mê
Thuột 7 km về hướng Đông Bắc vẫn cố thủ và cương quyết chống lại lực lượng biển
người và chiến xa T-54 của Cộng quân.
Cùng lúc tấn
công vào thị xã Ban Mê Thuột 1 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, Cộng quân đã
không bỏ sót Trung Đoàn 53. Chiến xa và bộ đội của Cộng quân, với đại bác 130
ly, và hỏa tiển 122 ly yểm trợ đã không ngừng luân phiên tấn công Trung Đoàn
53. Và sau khi đơn vị quân lực Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng rời bỏ Ban Mê Thuột,
Cộng quân càng tập trung lực lượng tấn công Trung Đoàn 53 ác liệt hơn.
Trận đánh thư
hùng giữa Trung đoàn 53 Bộ binh và một lực lương quân chính qui CS Bắc Việt đã
được tăng cường thêm đông hơn gấp 10 lần xảy ra lúc 5 giờ sáng. Đó cũng
là lần xuất trận đầu tiên của Sư đoàn 316, sư đoàn tổng trừ bị của Bắc Việt tại
mặt trận phi trường Phụng Dực trên chiến trường Cao nguyên.
Trung Đoàn Trưởng
Trung Đoàn 53 Bộ Binh là Trung Tá Võ Ân. Biết rõ ý đồ của Cộng quân, nhưng ông cũng
hiểu rằng Phi Trường Phụng Dực là điểm tiếp liệu, tiếp vận duy nhất cho lực lượng
tổng trừ bị là sư đoàn Nhảy Dù sẽ đến giải cứu Ban Mê Thuột sau này, đồng thời
đơn vị của ông là lực lượng đầu cầu và liên lạc duy nhất cho các đơn vị bạn về
sau. Do vậy, ông đã ra lệnh cố thủ và chỉ thị cho các binh sĩ tiết kiệm đạn dược
và mọi phương tiện quân y, dược cụ, cố gắng chiếm dụng vũ khí của địch để chống
lại kẻ địch, và phải nhất định bắn trúng mục tiêu.
Trong suốt thời
gian 6 ngày đêm, Trung Đoàn 53 Bộ Binh không những đã đánh tan nhiều đợt tấn
công biển người của Cộng quân, mà còn tịch thu nhiều loại vũ khí cá nhân cũng
như súng cộng đồng để tiêu diệt T-54 và hàng trăm xác quân thù bỏ lại chiến trường.
Sự tổn thất nặng nề nhất của Cộng quân trong mặt trận Ban Mê Thuột, hơn 200
nhân mạng, không biết được con số bị thương, và hàng chục T-54 bị phá hủy bằng
chính B-40, B-41 của Cộng quân do Trung Đoàn 53 tịch thu tại mặt trận Phi trường
Phụng Dực.
Góp phần đáng kể vào việc kéo dài trận chiến
là một đại đội chừng 70 binh sĩ tinh nhuệ, gan lì, được huấn luyện đặc biệt và
quyết tâm chiến đấu đến cùng. Tham gia trận chiến Ban Mê Thuột ngay từ ngày đầu,
và là đơn vị sau chót rút khỏi đấy là Đại Đội Thám Báo mà Thiếu Uý Nguyển Công
Phúc là một trung đội trưởng.
Đại đội đã chiến
đấu trong hoàn cảnh cô đơn, cam go, căng thẳng và thiếu thốn súng đạn, lương thực.
Họ đã gây tổn thương nặng cho một tiểu đoàn địch, giúp Trung Đoàn 53 của bạn chống
trả lại những đợt tấn công mãnh liệt của đối phương, đồng thời chấm tọa độ hướng
dẫn pháo binh bạn bắn vào những vị trí địch.
Một trong những
yếu tố để đại đội đạt được thành tích trên và tồn tại mà chiến đấu bền bỉ nhất ở
Ban Mê Thuột là Cộng quân không biết vị trí đóng quân kín đáo và bất ngờ của đại
đội. Cộng quân khi tấn công Trung Đoàn 53 đã bị thúc mạnh vào cạnh sườn vì
không biết có đại đội thám báo nằm quanh những ụ đất dùng để che chở cho máy
bay ở phi trường và gần rừng cao su phía ngoài căn cứ của trung đoàn. Đại đội mới
nhận vị trí đóng quân ở đấy vào buổi chiều. Chỗ đóng quân lại không phải là
doanh trại. Quanh phi trường lại có những bãi trống, địch tiến quân dễ bị phát
hiện.
Trong những giờ
đầu của cuộc tấn công, Phúc theo dõi tình hình mặt trận qua máy truyền tin. Được
trang bị hệ thống truyền tin tối tân hơn những đơn vị bộ binh thông thường
khác, đại đội thám báo có thể liên lạc với những đợn vị bạn theo hàng dọc, mà cả
với mấy đơn vị theo hàng ngang như quân đoàn, sư đoàn và không đoàn ở Nha
Trang. Nhờ vậy Phúc biết thêm một số diễn tiến ở trận chiến.
Từ sáng sớm ngày
10 tháng 3/1975 cho đến hết ngày 15 tháng 3/1975, Trung Đoàn 53 Bộ Binh chỉ với
một tiểu đoàn Bộ Binh, và Pháo đội 105 ly đã anh dũng chiến đấu với một lực lượng
Cộng quân nhiều gấp bội, có chiến xa và đại bác đủ loại, mà không cần biết đến
Ban Mê Thuột đã thất thủ và đài BBC trong bản tin phát đi vào đêm 14 tháng
3/1975, đã loan tin Sư Đoàn 23 Bộ Binh bị xóa tên trong quân sử Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa.
Ngày 15 tháng
3/1975, một phi vụ yểm trợ tiếp liệu cuối cùng cho Trung Đoàn 53 đã không rơi
đúng điểm ấn định mà lại rơi xuống khu vực Vườn Ương ở Hồ thực nghiệm.
Ngày 16 tháng
3/1975, Trung Đoàn 53 Bộ Binh hoàn toàn mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn
2. Hết đạn dược và thuốc men, Trung Tá Trung Đoàn Trưởng Võ Ân đành phải ra lệnh
rút khỏi phi trường Phụng Dực. Điểm liên lạc, tiếp vận duy nhất cho Ban Mê Thuột
đã lọt vào tay Cộng quân. Nhưng Trung Tá Ân, đúng là người hùng của quân lực,
và Trung Đoàn 53 Bộ Binh anh dũng là những người con yêu của Tổ Quốc, đã làm
khiếp đảm quân thù, và đem vinh quang về cho một quân đội kiêu hùng của nền Cộng
Hòa miền Nam.
Với lịch sử của
Sư Đoàn 23 Bộ Binh, và thực tế của mặt trận Ban Mê Thuột, nếu thị xã Ban Mê Thuột
được Trung Đoàn 44 hoặc 45 Bộ Binh phòng thủ, thì cho dầu Cộng Sản Bắc Việt có
quân số nhiều hơn vài ngàn người trong cuộc tấn công này, Ban Mê Thuột và 60
ngàn dân đã không rơi vào biển đêm của lịch sử dân tộc. Và Sư Đoàn 23 Bộ Binh
vĩnh viễn sẽ là một đơn vị kiêu hùng của một quân lực kiêu hùng bất diệt.
QĐ2 Tiếp cứu BMT :
Ban Mê Thuộc lọt
vào tay CS, khởi đầu cho việc sụp đổ của Miến Nam Tự Do. Buổi sáng khi 2 trái
bom 500 cân Anh của Không quân đánh sập một đầu hầm Trung tâm Hành quân của Bộ
Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, một số sĩ quan trong bộ tham mưu đã thoát lên được.
Đại tá Quang ra lịnh rút quân vọt ra khỏi hàng rào và hướng về phía Tây tức là
“Suối Bà Hoàng” - cách BTL Sư đoàn 250m.
Cũng may mùa này
là mùa khô nên suối cạn. Đáy suối lại thấp hơn mặt đất tới 15m nên rất dễ cho
việc ẩn nấp. Anh em binh sĩ đi theo rất đông, chừng 100 người. Xa xa tiếng phát
thanh tuyên truyền của địch quân gần Chùa của Tỉnh hội Phật giáo Ban Mê Thuột
kêu gọi các binh sĩ ta đầu hàng. Cộng quân lúc này đầy khắp các ngả đường trong
thành phố cùng với những đoàn xe tăng của chúng
Sau cùng Đại tá
Quang quyết định mọi người phải phân tán mỏng để tránh sư phát giác của địch
quân. Đại tá Quang, Vị Tư lịnh chiến trường Ban Mê Thuột sẽ đi về hướng Nam, đến
gần cầu khoảng cách 14km và tìm đường về Nha Trang. Còn Đại tá Nguyễn Trọng Luật
cùng với Phó Tỉnh trưởng Hành chánh Nguyễn Ngọc Vỵ đi về hướng Tây, nhằm về khu
cà phê của Trung tướng Hoàng và chờ trời tối sẽ bọc lên phía Bắc Ban Mê Thuột
và từ đó tìm về Nha Trang. Riêng các binh sỉ thì phân tán mỏng và tìm cách trở
về Nha Trang. Hy vọng lúc đó sẽ tập họp lại để tiếp tục chiến đấu..
Cũng thời gian
này trên Quốc lộ 14, từ Đức Lập về Ban Mê Thuột, bộ Chỉ huy Hành quân nhẹ của
Trung đoàn 53 Bộ binh cùng với một tiểu đoàn, được lệnh rút từ vùng hành quân
phía đông bắc quận Đức Lập về tiếp cứu Ban Mê Thuột, cũng bị Việt cộng phục
kích chận đánh. Trung tá Trung đoàn Phó Trung đoàn 53 và hầu hết các sĩ quan đều
bị tử trận hoặc bị địch bắt. Cánh quân này coi như bị tan rã trước khi tới được
trận địa Ban Mê Thuột.
Đến xế trưa ngày
11 tháng 3, bên cạnh Đại tá Quang chỉ còn có người Thiếu úy, Sĩ quan Tùy viên
và một người lính. Không thể đi tới được phi trường Phụng Dực và cũng không còn
phương tiện truyền tin để liên lạc, ba người đã lẩn tránh trong một vườn cà phê
mấy tiếng đồng hồ, đợi đêm tối nhắm hướng nam đi về phía Quảng Đức.
Khoảng 2 giờ
sáng ngày 12 tháng 3, Đại Tá Quang và tùy tùng trốn khỏi Trung Tâm Hành
Quân, đi được khoảng 6 cây số đường rừng, ngay khi vừa tới sát một làng Thương,
thì bị Việt cộng nổ súng, xông ra vây bắt. Đại tá Quang vẫn còn mang cấp bậc
trên cổ áo và xưng danh là Tư lệnh Phó Sư đoàn 23 Bộ binh, chúng đã trói lại, lột
giầy và liệng xuống hố. Chừng một giờ sau, chúng được lệnh dẫn Đại tá Quang đi
suốt đêm. Tới chiều hôm sau, ngày 13 tháng 3, được cởi trói, cho đi giầy vào và
chở đi bằng xe Molotova sang Cam Bốt để khai thác.
Riêng cánh Đại
Tá Nguyễn Trọng Luật khi chạy đến vườn cà phê của Trung Tướng Thái Hoang
Hoàng,tất cả cũng bị Cộng quân dàn quân chận bắt hết.Riêng Đại Tá Luật bị chúng
bắt lên một xe thiết giáp chở đi mất.
Những cơ sở đầu
não ở Ban Mê Thuột bị VC đánh chiếm trong hai ngày đầu. Mấy ngày sau Sài Gòn
chưa nhìn nhận Ban Mê Thuột thất thủ vì chiến trận còn tiếp diễn ở Trung Đoàn
53 khu vực gần phi trường nằm phía ngoài thị xã.
Ngày 12 tháng
3/1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 tổ chức cuộc đổ quân tăng
viện để tái chiếm Ban Mê Thuột. Lực lượng chính của cuộc phản công là Trung
đoàn 45 Bộ binh (BB) và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 BB đang
phòng ngự tại Pleiku. Về phía Không quân VNCH tham gia cuộc đổ quân, ngoài các
phi đoàn của Sư đoàn 6 Không quân, BTL đặt tại Pleiku, còn có các phi đoàn trực
thăng của Sư đoàn 1 Không quân (Đà Nẵng) và Sư đoàn 4 Không quân (Cần Thơ), với
hơn 100 trực thăng đủ loại kể cả các loại Chinook.
-Theo lịch trình
đổ quân, hai tiểu đoàn của Trung đoàn 45 BB và đại đội Trinh sát Sư đoàn 23 BB
được trực thăng vận trước tiên. Tiếp đến, các Chinook móc theo các khẩu đại bác
105 thả xuống khu vực đổ quân của lực lượng đặc nhiệm tại quận lỵ Phước An.
-1 giờ 10 trưa
ngày 12 tháng 3/1975, Thiếu tướng Phú từ bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 bay đến Ban Mê
Thuột trên một chiếc phi cơ nhỏ để trực tiếp điều quân. Tới Ban Mê Thuột vào
khoảng 2 giờ chiều, Tướng Phú đã liên lạc với đơn vị trưởng của các đơn vị đang
chiến đấu ở quanh Ban Mê Thuột như trung đoàn 53 BB ở phi trường Phụng Dực,
Liên đoàn 21 Biệt Động Quân, các tiểu đoàn Địa phương quân Darlac. Cùng đi theo
cánh quân cứu viện còn có Đại tá Trịnh Tiếu, Trưởng phòng 2 Quân đoàn 2, được
Tướng Phú chỉ định giữ chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Darlac thay thế
Đại tá Nguyễn Trọng Luật được ghi nhận là mất tích. Cùng đi theo Đại tá Tiếu,
còn có bộ chỉ huy lưu động của Tiểu khu Darlac vừa thành lập.
Tuy nhiên, sự phản
công và kế hoạch giải vây của quân ta đã không hữu hiệu, các Trung Đoàn 44 và
45 được đổ xuống Phước An dùng làm bàn đạp để tiến về thành phố Bàn Mê Thuột.
Nhưng Phước An vào lúc đó trở thành một trung tâm tản cư của những người dân chạy
thoát ra từ Ban Mê Thuộc. Ở đây nhiều binh sỉ gặp lại gia đình tự động lẫn vào
đám đông bỏ ngũ. Một số các binh sỉ khác tự động rời hàng ngũ đi tìm thân nhân
mất tích. Một đạo quân giải vây trong tình trạng như thế chắc chắn không thể hoạt
động được. Bốn ngày sau, SĐF10 của CSBV tiến chiếm Phước An. Hy vọng giải vây
BMT bị tan vở.
Chiều ngày 12
tháng 3/1975, cùng lúc tấn chiếm tại chiến trường Ban Mê Thuột, thì tại
Pleiku,Cộng quân cũng đã pháo kích bằng hỏa tiễn vào phi trường quân sự Cù Hanh
và bộ Tư lệnh Quân đoàn 2.
Trưa ngày 14
tháng 3, 1975, trong khi Sư đoàn 23 BB đang khai triển các cánh quân để tiến về
giải cứu Ban Mê Thuột, thì tại Cam Ranh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng
Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang, phụ tá An
ninh Quân sự của Tổng thống, đã họp mật với Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh
Quân đoàn 2-Quân khu 2.Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu ra lệnh cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ lực lượng của
Quân đoàn 2/Quân khu 2 khỏi Cao nguyên, di chuyển về các tỉnh duyên hải miền
Trung thuộc lãnh thổ Quân khu 2.
Thay lời kết :
Bắc Việt tung
vào trận địa tấn công Ban Mê Thuột 3 sư đoàn chủ lực, toàn bộ lực lượng vào khoảng
30 ngàn người, gấp 7 lần lực lượng trú phòng (khoảng 4000). Chủ lực quân ta chỉ
có hai tiểu đoàn thuộc trung đoàn 53 còn lại là Địa Phương Quân, Sảnh Sát, lực lượng
đã quá chênh lệch địch lại đánh lén, đánh trộm thì chúng phải dành chắc
phần thắng trong tay. Sự thất thủ của Ban Mê Thuột là chuyện đương nhiên; dù biết
trước phòng thủ cũng vẫn thua. Nhưng nếu biết trước và tăng cường yểm trợ để
gây tổn thất nặng nề cho địch thì có thể giảm bớt áp lực địch tại các mặt trận
khác hy vọng không đưa tới tình trạng hốt hoảng hỗn loạn dây chuyền đưa tới sụp
đổ tan tành mau chóng.
Tuy nhiên sự sai
lầm của Tướng Phú chỉ là phương diện chiến thuật, Ban Mê Thuột mất vì tại Quân
khu 2 ta không đủ lực lượng chống lại áp lực địch gồm 5 Sư đoàn chủ lực cộng
thêm 15 Trung Đoàn biệt lập và cơ giới, lại thêm những lệnh lạc bất thường thiếu
nghiên cứu vì cấp lãnh đạo của ta đã sai lầm về lảnh đạo và chiến lược..
Tài liệu tham khảo :
- Những Ngày Cuối Của VNCH ,
của Cao Văn Viên Bản dịch Việt Ngữ của Nguyễn Kỳ Phong, nhà xuất bản
Vietnambliography 2003.
- Ban Mê Thuột, ngày đầu
cuộc chiến của Nguyễn Định trên trang Web History of the Viet NamWar.
- Mặt Trận Ban Mê Thuột ngày
10/3/1975 của Vương Hồng Anh đăng trên Việt Báo từ 3/2000.
- Những Trận đánh lịch sử
trong chiến tranh VN 1963-1975 của Nguyễn Đức Phương, Đại Nam xuất bản 1993.
- Trận Ban Mê Thuột 3/1975,
Khúc quanh lịch sử của Trọng Đạt trên trang nhà Quốc Gia Hành Chánh 2007
- Mặt Trận Ban Mê Thuột của
Phạm Huấn trên trang nhà http://doanket.orgfree.com
- Ðại thắng Mùa Xuân của Văn
Tiến Dũng trên trang web: http://vnthuquan.net
- Nhìn lại trận đánh BAN MÊ THUỘT 1975 của Đại
Tá Nguyễn Trọng Luật trên http://doanket.orgfree.com
Đại Úy Võ Trung Tín
Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-545-0105
Đại Úy Nguyễn Hữu Viên
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-897-1435
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen