Donnerstag, 1. Mai 2014

GIỞ NHỮNG TỜ LỊCH CŨ 1975

Kính thưa Quý vị , 
Tôi xin được phép đưa lên những trang nhật ký của những tháng ngày đau thương tang tóc của VNCH trong suốt chặng đường 52 ngày đêm chiến đấu đầy máu và nước mắt , những sự bi hùng hy sinh gian khổ và mất mát , để rồi ... cuối cùng chúng ta :
Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt. Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu xương.Tự do ôi tự do! Em đổi bằng thân xác. Vì hai chữ tự do! Ta mang đời lưu vong  

 

NGÀY THỨ 1 – TRẬN CHIẾN BAN MÊ THUỘT - 10-3-1975.
NGÀY THỨ 2 – BAN MÊ THUỘT THẤT THỦ - 11-3-1975.
NGÀY THỨ 3 – QUÂN ĐOÀN 2 CHUẨN BỊ TÁI CHIẾM BAN MÊ THUỘT – 12-3-1975.
NGÀY THỨ 4 – DI TẢN MIỀN TRUNG – 13-3-1975.
NGÀY THỨ 5 – DI TẢN CAO NGUYÊN – 14-3-1875.
NGÀY THỨ 6 – TỬ CHIẾN Ở QUẢNG NAM – 15-3-1975.
NGÀY THỨ 7 – QUÂN ĐOÀN 2 TRIỆT THOÁI – 16-3-1975.
C
ÙNG 
NGÀY THỨ 7 – TRẬN CHIẾN QUẢNG TÍN – 16-3-1975.
NGÀY THỨ 8- 17-3-1975
NGÀY THỨ 9 – 18-3-1975
NGÀY THỨ 10 –19-3-1975 
NGÀY THỨ 11 –20-3-1975
NGÀY THỨ 12 –21-3-1975
NGÀY THỨ 13 –22-3-1975
NGÀY THỨ 14 –23-3-1975
NGÀY THỨ 15 –24-3-1975
NGÀY THỨ 16 – QUÂN ĐOÀN 1 RÚT KHỎI HUẾ - 25-3-1975.
NGÀY THỨ 16 – TRẬN CHIẾN QUÂN KHU 2 – 25-3-1975.
NGÀY THỨ 17 – KỊCH CHIẾN TẠI PHÚ THỨ - QUÂN KHU 2 – 26-3-1975.
NGÀY THỨ 18 – TRẬN CHIẾN Ở BÌNH ĐỊNH – 27-3-1975.
NGÀY THỨ 19 –28-3-1975
NGÀY THỨ 20 – TUYÊN ĐỨC - LÂM ĐỒNG – THẤT THỦ - 29-3-1975.
NGÀY THỨ 21 – TRẬN CHIẾN TẠI QUY NHƠN – 30-3-1975.
NGÀY THỨ 22 – BÌNH ĐỊNH THẤT THỦ - 31-3-1975.
NGÀY THỨ 23 – TRẬN CHIẾN TẠI KHÁNH DƯƠNG – QUÂN KHU 2 – 1-4-1975.
NGÀY THỨ 24 – NGÀY CUỐI CÙNG CỦA QUÂN ĐOÀN 2 – NHA TRANG THẤT THỦ - 2-4-1975.
NGÀY THỨ 25 – PHAN RANG HỔN LOẠN – 3-4-1975.
NGÀY THỨ 26 – TRẬN CHIẾN TẠI NINH THUẬN – 4-4-1975.
NGÀY THỨ 27 – THỦ TƯỚNG TRẬN THIỆN KHIÊM TỪ CHỨC – 5-4-1975.
NGÀY THỨ 28 – TRẬN CHIẾN TẠI BÌNH THUẬN – 6-4-1975.
NGÀY THỨ 29 – TRẬN CHIẾN TẠI MIỀN ĐÔNG – 7-4-1975.
NGÀY THỨ 30 – TRẬN CHIẾN QUỐC LỘ 20 – 8-4-1975.
NGÀY THỨ 31 – LONG KHÁNH BÙNG NỔ - 9-4-1975.
C
ÙNG  
NGÀY THỨ 31 – TRẬN CHIẾN TẠI THỊ XÃ TÂN AN – 9-4-1975.
NGÀY THỨ 32 – TRẬN CHIẾN THỊ XÃ XUÂN LỘC – 10-4-1975.
NGÀY THỨ 33 – TRẬN CHIẾN TẠI DẦU GIÂY – 11-4-1975.
NGÀY THỨ 34 – KỊCH CHIỆN TẠI XUÂN LỘC – 12-4-1975.
NGÀY THỨ 35 – TRẬN CHIẾN TẠI BẢO ĐỊNH – 13-4-1975.
NGÀY THỨ 36 – NỘI CÁC MỚI TRÌNH DIỆN – TẠI SÀI GÒN – 14-4-1975.
NGÀY THỨ 37 – TRẬN XUÂN LỘC – DẦU GIÂY THẤT THỦ - 15-4-1975.
NGÀY THỨ 38 – TẠI PHÒNG TUYẾN PHAN RANG – PHAN RANG THẤT THỦ - 16-4-1975.
NGÀY THỨ 39 – TRẬN CHIẾN TẠI XUÂN LỘC – 17-4-1975.
NGÀY THỨ 40 – TRẬN CHIẾN TẠI BÌNH THUẬN – 18-4-1975.
NGÀY THỨ 41 – CUỘC DI TẢN CỦA TIỂU KHU BÌNH THUẬN - 19-4-1975.
C
ÙNG 
NGÀY THỨ 41 – TRẬN CHIẾN TẠI ĐỊNH QUÁN – 19-4-1975.
NGÀY THỨ 42 – KỊCH CHIẾN TẠI XUÂN LỘC – 20-4-1975.
C
ÙNG 
NGÀY THỨ 42 – NGÀY CHÚA NHẬT - 20-4-1975 – TẠI SÀI GÒN.
NGÀY THỨ 43 – TỔNG THỐNG NGUYỄN VĂN THIỆU TỪ CHỨC – 21-4-1975.
C
ÙNG 
NGÀY THỨ 44 – TRẬN CHIẾN TẠI TÂY NINH – 22-4-1975.
CÙNG NGÀY THỨ 44– TRẬN CHIẾN TẠI TRẢNG BOM – 22-4-1975.
CÙNG NGÀY THỨ 44 – NGÀY THỨ BA 22-4-1975 – TẠI SÀI GÒN.
NGÀY THỨ 45 – DÀN XẾP TÌNH HÌNH VNCH – 23-4-1975.
C
ÙNG 
NGÀY THỨ 45 – THỦ TƯỚNG NGUYỄN BÁ CẦN TỪ CHỨC – 23-4-1975.
CÙNG NGÀY THỨ 45 – THỨ TƯ NGÀY 23-4-1975. 
NGÀY THỨ 46 – THỨ NĂM NGÀY 24-4-1975.
NGÀY THỨ 47 – TRẬN CHIẾN TẠI BÌNH DƯƠNG – 25-4-1975.
NGÀY THỨ 47 – THỨ SÁU NGÀY 25-4-1975.
NGÀY THỨ 48 – TRẬN CHIẾN TẠI BÀ RỊA – 26-3-1975.
C
ÙNG 
NGÀY THỨ 48 – THỨ BẢY NGÀY 26-3-1975.
NGÀY THỨ 49 – BẦU TỔNG THỐNG MỚI – 27-4-1975.
C
ÙNG 
NGÀY THỨ 49 – SƯ ĐOÀN 3 BB GIỬ BÀ RỊA – 27-4-1975.
CÙNG NGÀY THỨ 49 – TRẬN CHIẾN TẠI TÂN CẢNG CẦU SÀI GÒN – 27-4-1975.
CÙNG NGÀY THỨ 49 – CHÚA NHẬT NGÀY 27-4-1975.
NGÀY THỨ 50 – THỨ HAI NGÀY 28-4-1975 - ÔNG MINH NHẬM CHỨC.
C
ÙNG 
NGÀY THỨ 50 – THỨ HAI NGÀY 28-4-1975 – SƯ ĐOÀN 5BB TỬ CHIẾN.
CÙNG NGÀY THỨ 50 – THỨ HAI NGÀY 28-4-1975.
NGÀY THỨ 51 – BỘ TỔNG THAM MƯU – 29-4-1975.
NGÀY THỨ 51 – THỨ BA NGÀY 29-4-1975.
NGÀY THỨ 52 – THỨ TƯ NGÀY 30-4-1975.
C
ÙNG 
NGÀY THỨ 52 – NGÀY DÀI NHẤT CỦA DƯƠNG VĂN MINH – 30-4-1975.
CÙNG NGÀY THỨ 52 – THỨ TƯ NGÀY 30-4-1975 TIẾNG KHÓC HỜN AI OÁN CỦA QUÂN DÂN VNCH.


Và cũng xin được phép đưa lên những giòng nhật ký và các bài viết liên quan ghi lại những giai đoạn lịch sử vào giờ phút đau thương thống khổ của một DÂN TỘC ANH HÙNG ... xin được mượn những giòng chữ nầy để TẠ LỖI với QUÊ HƯƠNG DÂN TỘC và tạ lỗi với CÁC ANH HÙNG TỬ SĨ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA... 

Xin được theo từng ngày đưa lên một số bài viết của một số tác giả CHỨNG NHÂN CỦA LỊCH SỬ để cho con cháu chúng ta nhìn lại được sự thật của lịch sử chứ không phải học lịch sử giả tạo của bọn cộng sản.



 BLOG Trần Dương 30.04.2014 Hamburg




Tỉnh lộ 7B. Nguồn: OntheNet





Nghị định 147/QĐ/NĐ ngày 12-4-1952 quyết định thành lập Bộ Tổng tham mưu QĐQGVN. Ngày 1-7-1952, bộ Tổng tham mưu đã chia toàn thể lãnh thổ QGVN thành 4 quân khu:
Đệ nhất quân khu : Nam Việt.
Đệ nhị quân khu : Trung Việt.
Đệ tam quân khu : Bắc Việt, kể cả cao nguyên Bắc Việt.
Đệ tứ quân khu : Cao nguyên Trung Việt(
Sau Hiệp định Genève (20-7-1954), hệ thống quân khu trên đây thay đổi vì Đệ tam quân khu là Bắc Việt thuộc về nhà cầm quyền phía bắc vĩ tuyến 17. Năm 1956, hệ thống quân khu QĐVNCH được chia lại như sau:
Đệ nhất quân khu : Các tỉnh miền Đông Nam phần
Đệ nhị quân khu : Trung phần (không thay đổi)
Đệ tam quân khu : Kontum, Pleiku, Bình Định, Phú Yên
Đệ tứ quân khu : Các tỉnh phía nam Cao nguyên Trung phần và phía nam duyên hải Trung phần
Đệ ngũ quân khu : Các tỉnh miền Tây Nam phần
Quân khu Thủ đô : Sài Gòn, Gia Định, Long An (Sau Long An tách khỏi QKTĐ) 
Các đại đơn vị QĐVNCH lần lượt được thành lập: Quân đoàn I ngày 1-6-1957, Quân đoàn II ngày 1-10-1957, Quân đoàn III ngày 1-3-1959. Sau đó, ngày 13-4-1961, sắc lệnh số SL.98/QP chia lại lãnh thổ thành ba vùng chiến thuật (CT) và Biệt khu Thủ Đô. Cần chú ý là quân khu và vùng chiến thuật là khu vực quân sự, còn quân đoàn là đơn vị quân sự đóng trên các khu vực quân sự.
Ba vùng chiến thuật theo sắc lệnh số SL.98/QP ngày 13-4-1961 như sau: Vùng I CT gồm các tỉnh từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi, do Quân đoàn I trấn đóng. Vùng II CT gồn Cao nguyên Trung phần và các tỉnh từ Bình Định vào Bình Thuận, do Quân đoàn II trấn đóng. Vùng III CT gồm các tỉnh từ Bình Tuy vào Nam do quân đoàn III trấn đóng.
Từ ngày 1-1-1963, một đại đơn vị mới được thành lập, đó là Quân đoàn IV và Vùng IV CT. Vì vậy Nam phần được chia lại: Vùng III CT gồm các tỉnh Bình Tuy, Phước Long, Bình Long, Bình Dương, Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy, Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An. Vùng IV CT từ Định Tường xuống tới Cà Mau.
Dưới các Vùng CT là các Khu CT (cấp liên tỉnh), tiểu khu (cấp tỉnh), chi khu (cấp quận). Thời chính phủ Trần Văn Hương, ngày 27-11-1964, Hội Đồng Quân Lực ấn định lại các Vùng và Khu CT: Toàn quốc được chia thành 4 Vùng CT, 1 Biệt khu Thủ đô và 1 Đặc khu Rừng Sác. Một lần nữa, vào tháng 7-1970, các Vùng CT đổi trở lại thành các quân khu.  Vì cấp Vùng CT bị thay thế, nên khu CT bị bãi bỏ, chỉ còn tiểu khu trực thuộc quân khu.
Vùng I CT (bộ chỉ huy ở Đà Nẵng) được chia thành Khu 11 CT (Quảng Trị và Thừa Thiên, bộ chỉ huy ở Huế), Khu 12 CT (Quảng Ngãi) và Biệt khu Quảng Đà (Quảng Nam). Khu 11 CT do Sư đoàn 1 Bộ binh phụ trách. Khu 12 CT do Sư đoàn 2 BB phụ trách. Biệt khu Quảng Đà do Trung đoàn 51 BB phụ trách. Quân đoàn I lúc đầu có 2 sư đoàn 1 và sư đoàn 2. Về sau, có thêm sư đoàn 3 BB đóng ở Quảng Trị. Vùng II CT (bộ chỉ huy ở Pleiku) gồm Khu CT 22 (Bình Định, Phú Yên, Phú Bổn, bộ chỉ huy ở Quy Nhơn); Khu 23 CT (Darlac, Tuyên Đức, Quảng Đức, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Bình Thuận, Ninh Thuận, Cam Ranh, bộ chỉ huy ở Ban Mê Thuột). Quân đoàn II có hai sư đoàn là Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23. Vùng III CT (bộ chỉ huy ở Biên Hòa), gồm Khu CT 31 (Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An, bộ chỉ huy ở Tây Ninh); Khu 32 CT (Bình Long, Phước Long, Bình Dương, bộ chỉ huy ở Bình Dương); Khu 33 CT (Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy, Biên Hòa, Biệt khu Thủ đô, bộ chỉ huy ở Biên Hòa). Quân đoàn III có ba sư đoàn là Sư đoàn 5, Sư đoàn 18 và Sư đoàn 25. Vùng IV CT (bộ chỉ huy ở Cần Thơ) gồm có Khu 41 CT (Châu Đốc, An Giang, Sadec, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, bộ chỉ huy ở (Mỹ Tho); Khu 42 CT (Kiên Giang, Phong Dinh Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu An Xuyên, bộ chỉ huy ở Cần Thơ); Khu CT Định Tường (gồm Định Tường, Kiến Tường, Kiến Hòa, Gò Công, bộ chỉ huy ở Định Tường). Quân đoàn IV gồm ba sư đoàn là Sư đoàn 7, Sư đoàn 9 và Sư đoàn 21.

NGÀY THỨ 1 – TRẬN CHIẾN BAN MÊ THUỘT - 10-3-1975.
2 giờ sáng ngày 10 tháng Ba năm 1975, Cộng quân mở cuộc tấn công cường tập vào thị xã Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Darlac. Khi trận chiến xảy ra, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh là Chuẩn tướng Lê Trung Tường đang chỉ huy mặt trận Pleiku, do đó Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, đã chỉ định Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh, chỉ huy mặt trận Ban Mê Thuột với sự hợp lực của Tiểu khu trưởng Darlac là Đại tá Nguyễn Trọng Luật.
Cộng quân mở đầu cuộc tấn công bằng những đợt pháo kích vào thị xã, các vị trí quân sự trọng yếu như Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, Bộ Chỉ huy Tiểu khu Darlac, doanh trại của các đơn vị thống thuộc Sư đoàn 23 Bộ binh. Đến 4 giờ sáng, Cộng quân đã sử dụng mở cuộc tấn công chiếm kho đạn Mai Hắc Đế ở phía Tây thị xã. Đơn vị trú phòng đã bảo vệ được kho đạn. Đến 7 giờsáng Cộng quân ngưng pháo kích, chuyển sang tấn công bằng bộ binh và thiết giáp vào thị xã.Các đoàn chiến xa của Cộng quân đãõ bị các đơn vị của Tiểu khu Darlac đánh chận lại.
Trưa ngày 10/3/1975, Cộng quân mở đợt pháo kích dồn dập vào Bộ Chỉ huy Tiểu khu, bản doanh bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. 13 giờ 30, Cộng quân tập trung hỏa lực pháo binh bắn vào doanh trại Bộ Chỉ huy Tiểu khu. 2 giờ chiều , Cộng quân tràn ngập vào doanh trại. Vào lúc 18 giờ, Liên đoàn 21 Biệt Động Quân được thả xuống trong khu vực Bộ Chỉ huy Chi khu Buôn Hô rồi từ địa điểm này, khai triển lực lượng tiến vào thị xã Ban Mê Thuột.
Tại phi trường Phụng Dực, Cộng quân điều động 2 trungđoàn thuộc sư đoàn 320 và 1 tiểu đoàn chiến xa tấn công vào tuyến phòng thủ của Trung đoàn 53 Bộ binh/Sư đoàn 23 Bộ binh. Lực lượng phòng thủ đã ngăn chận được cuộc tấn công của địch quân. Tính đến 6 giờ chiều ngày 10/1975, các đơn vị Quân lực VNCH tại mặt trận Ban Mê Thuột đã loại ra ngoài vòng chiến khoảng 300 Cộng quân, bắn cháy 12 chiến xa T-54.

NGÀY THỨ 2 – BAN MÊ THUỘT THẤT THỦ - 11-3-1975
-Vào 7 giờ sáng ngày 11/3/1975,Cộng quân bắt đầu nả pháo binh vào Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 BB, một số quân xa đậu ở gần Trungtâm hành quân bị trúng pháo nổ tung ra. Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Darlac, đi thẳng ra cửa bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh và lên 1 chiếc M 113 để quan sát, ông thấy cách đó 300 mét, hàng chục chiếc T 54 của CQ đang bao vây bộ Tư lệnh. Cùng lúc đó, CQ đang tấn công và bắn trực xạ vào lầu tư dinh Tỉnh trưởng. Trung đội phòng thủ đã bắn cháy 2 chiến xa địch ngay trước cổng bằng súng M 72. Ngay sau đó, Trung đội này ra khỏi tư dinh.
-Khoảng 10 giờ sáng, pháo binh CQ ngưng tác xạ. Đại tá Luật nhảy lên pháo tháp của chiến xa M113 quan sát và thấy chiến xa CQ đang chuyển bánh. Ông nhảy vào xe và la lớn: "Sẵn sàng ứng chiến". Chiến xa đầu của CQ chầm chậm tiến thẳng vào chiếc thiết vận xa M 113.Khi chiến xa địch còn cách 100 mét, Đại tá Luật ra lệnh cho xạ thủ đại bác 106 ly không giựt đặt trên xe khai hỏa. Ông hét lớn"bắn". Thay vì nghe một tiếng nổ lớn của viên đạn ra khỏi nòng nhưng chỉ có một tiếng "cóc" phát ra. Binh sĩ xạ thủ báo cho ông biết súng bị trở ngại tác xạ. Sau một phút bàng hoàng,Đại tá Luật đã nghĩ ngay đến các phản lực cơ A 37. Ông liên lạc với phi tuần L 19 quan sát và yêu cầu A 37 dội bom ngay vào cácchiến xa của CQ đang tiến vào bộ Tư lệnh, ông nói với quan sátviên L 19 là chấp nhận nguy hiểm vì chỉ có cách đó thì mới chậnđứng được cuộc tấn công của CQ.
-Hơn 10 giờ sáng ngày 11/3/1975, thình lình mọi người nghe một tiếng nổ ầm thật kinh hoàng. Trung tâm Hành quân Sư đoàn 23 Bộ binh đã bị Không quân ném nhầm. Trung tâm hành quân bịsập và các hệ thống liên lạc đều bị hư hại toàn bộ. Một số lớn sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ chết vàbị thương. Trước tình thế đó, Đại tá Luật bàn với Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 BB, kiêm Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột,nên rút khỏi bộ Tư lệnh Sư đoàn ngayđể bảo toàn lực lượng. Đại tá Vũ Thế Quang đồng ý và ra lệnh rút quân.Lực lượng trú phòng lúc bấy giờ khoảng 100 người mở đường máu rakhỏi hàng rào và hướng về phía Tây tức là suối Bà Hoàng, cách BộTư lệnh Sư đoàn 250 mét.
- 11 giờ 50: Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 mất liên lạc với Đại tá Quang và Đại tá Luật.

NGÀY THỨ 3 – QUÂN ĐOÀN 2 CHUẨN BỊ TÁI CHIẾM BAN MÊ THUỘT – 12-3-1975.
-Ngày 12 tháng 3/1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, quyết định tổ chức cuộc đổ quân tăng viện để tái chiếm Ban Mê Thuột. Theo kế hoạch của bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, lực lượng chính của cuộc phản công là Trung đoàn 45 Bộ binh (BB) và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 BB đang phòng ngự tại Pleiku. Về phía Không quân VNCH tham gia cuộc đổ quân, ngoài các phi đoàn của Sư đoàn 6 Không quân mà bộ tư lệnh đặt tại Pleiku, còn có các phi đoàn trực thăng của Sư đoàn 1 Không quân (Đà Nẵng) và Sư đoàn 4 Không quân (Cần Thơ), với hơn 100 trực thăng đủ loại kể cả các loại Chinook.
-Theo lịch trình đổ quân, hai tiểu đoàn của Trung đoàn 45 BB và đại đội Trinh sát Sư đoàn 23 BB được trực thăng vận trước tiên. Tiếp đến, các Chinook móc theo các khẩu đại bác 105 thả xuống khu vực đổ quân của lực lượng đặc nhiệm tại quận lỵ Phước An.
-1 giờ 10 trưa ngày 12 tháng 3/1975, Thiếu tướng Phú rời bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đến Ban Mê Thuột trên một chiếc phi cơ nhỏ để trực tiếp điều quân. Tới Ban Mê Thuột vào khoảng 2 giờ chiều, Tướng Phú đã liên lạc với đơn vị trưởng của các đơn vị đang chiến đấu ở quanh Ban Mê Thuột như trung đoàn 53 BB ở phi trường Phụng Dực, Liên đoàn 21 Biệt Động Quân, các tiểu đoàn Địa phương quân Darlac. Cùng nhảy theo cánh quân cứu viện còn có Đại tá Trịnh Tiếu, trưởng phòng 2 Quân đoàn 2, được Tướng Phú chỉ định giữ chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Darlac thay thế Đại tá Nguyễn Trọng Luật được ghi nhận là mất tích. Cùng đi theo Đại tá Tiếu, còn có bộ chỉ huy lưu động của Tiểu khu Darlac vừa thành lập.
-Chiều 12/3, sau khi hoàn tất việc điều động đợt đổ quân đầu tiên, Thiếu tướng Phú giao trách nhiệm chỉ huy trực tiếp các cánh quân tái chiếm Ban Mê Thuột cho Chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 BB, rồi ông trở lại Pleiku.
Cũng trong chiều ngày 12 tháng 3/1975, cùng lúc gia tăng áp lực tại chiến trường Ban Mê Thuột, thì tại -Pleiku, từ những đỉnh cao phía Tây Bắc của thị xã này, Cộng quân đã pháo kích bằng hỏa tiễn vào phi trường quân sự Cù Hanh và bộ Tư lệnh Quân đoàn 2. Một binh sĩ tài xế đang ở gần cột cờ Bộ Tư lệnh đã trúng đạn pháo kích và bị tử thương.

NGÀY THỨ 4 – DI TẢN MIỀN TRUNG – 13-3-1975.
Những sự kiện chiến sự xảy ra từ ngày 10-3-1975, ngày Cộng quân mở cuộc tấn công cường tập vào Ban Mê Thuột, đến ngày 30 tháng 4/1975, ngày Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử.
* Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu họp Hội đồng An ninh Quốc gia duyệt xét kế hoạch bỏ 6 tỉnh miền Trung, từ Quảng Trị đến Bình Định.
-Ngày 13 tháng Ba năm 1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 được gọi về Sài Gòn để tham dự cuộc họp mật tại Dinh Độc Lập do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chủ tọa. Cuộc họp hôm ấy có sự hiện diện các nhân vật cao cấp nhất trong chính phủ gồm có Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng: Đại tướng Trần Thiện Khiêm; Tổng tham mưu trưởng QL.VNCH: Đại tướng Cao Văn Viên; Phụ tá An ninh và Quân sự của Tổng thống: Trung tướng Đặng Văn Quang.
-Tại cuộc họp, Trung tướng Trưởng trình bày trước Hội đồng An Ninh Quốc gia về tình hình tại chiến trường Quân khu 1, sau đó Tổng thống nói chuyện với mọi người bằng một vẻ nghiêm trọng. Tổng thống phân tích tình hình chung và nêu ra những khó khăn mà chính phủ đang gặp phải khi thiếu quân viện. Tổng thống nhìn nhận rằng không hy vọng Không quân Hoa Kỳ sẽ can thiệp trong trường hợp Việt Nam Cộng Hòa bị tổng tấn công. Tổng thống thông cảm với những khó khăn thiếu thốn của các tư lệnh Quân khu. Cho đến giờ phút đó, Tổng thống nhìn nhận rằng dù ông có ra lệnh đi nữa thì lệnh đó khó có thể thi hành được.
-Theo lời kể của Đại tướng Cao Văn Viên, thì trong buổi họp, Tổng thống nói rằng trước tình hình như vậy thì chỉ còn một cách duy nhất là thay đổi chiến lược để giữ vững những nơi hiểm yếu có nhiều tài nguyên quốc gia. Tại Quân khu 1 (có 5 tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi, 2ø thành phố Huế, Đà Nẵng), khu vực trù phú cần phải giữ là Đà Nẵng.
-Chi tiết mà Đại tướng Viên kể lại ở trên khác với nội dung lời kể của Trung tướng Trưởng, theo đó, trong buổi họp ngày 13/3/1955, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Tướng Trưởng lập kế hoạch rút toàn bộ lực lượng VNCH khỏi Vùng 1 (Quân khu 1) và rút về tỉnh Phú Yên, VNCH thu gọn từ tỉnh Phú Yên đến Hà Tiên. Như thế lãnh thổ VNCH bị mất 6 tỉnh miền Trung, từ Quảng Trị đến Bình Định.

NGÀY THỨ 5 – DI TẢN CAO NGUYÊN VÀ HỌP TẠI CAM RANH – 14-3-1875.
Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc phòng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa; hồi ký của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, một số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và tài liệu riêng của Việt Báo.
*Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra quân lệnh triệt thoái lực lượng VNCH khỏi Cao nguyên
Sau cuộc họp với Hội đồng AnNinh Quốc gia tại Dinh Độc Lập ngày 13/3/1975 có sự tham dự củaTrung tướng Ngô Quang Trưởng-Tư lệnh Quân đoàn 1- để bàn về kếhoạch tái phối trí lực lượng trong tình hình mới, sáng ngày 14tháng 3/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng Thủ tướng TrầnThiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang,Phụ tá an ninh của Tổng thống đến Cam Ranh để họp với Thiếutướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2& Quân khu 2. Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, Tổnthống Thiệu ra lệnh cho Tướng Phú phảirút toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 tại hai tỉnh Pleiku và Kontumvề khu vực duyên hải miền Trung (Phú Yên và Khánh Hòa) để táiphối trí lực lượng phản công chiếm lại Ban Mê Thuột.
Khi được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu hỏi nên rút quân theo trụclộ nào, Tướng Phú đã trình bày với Tổng thống Thiệu rằng các quốclộ chính nối trong khu vực Cao nguyên đã bị Cộng quân cắt đứt,chỉ còn liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ Quốc lộ 14 rẽ raphía nam cách thị xã Pleiku chừng 32 km, chạy theo hướng đông nam, xuyên qua Hậu Bổn về Tuy Hòa (tỉnh lỵ Phú Yên). Kế hoạchchọn liên tỉnh lộ 7B đã không được sự đồng ý của Đại tướng Viên vì ông cho rằng đưa một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đườngdài hơn 250 cây số mà không rõ tình hình an ninh là một việc "quásức liều lĩnh", tuy nhiên cuối cùng Tướng Viên cũng không tìm ra được một con đường nào khác nên kế hoạch của tướng Phú đã đượcchấp thuận.
* Một chi tiết đặc biệt về lệnh triệt thoái Cao nguyên: Chủ lưc quân rút, Địa phương quân ở lại...
Trên đường trở lại Pleiku, Tướng Phú đã tâm sự với thiếu tá Phạm Huấn-sĩ quan Báo chí của tư lệnh Quân đoàn 2, là trong buổi họpông đã khẩn khoản xin Tổng thống Thiệu cho ông được tử thủ giữPleiku, nhưng đề nghị của ông đã không được chấp thuận. Một chitiết đặc biệt đã được Tướng Phú kể lại cho Thiếu tá Phạm Huấn vớinội dung như sau: Trong cuộc họp, Tổng thống Thiệu căn dặn tướngPhú rằng lệnh triệt thoái là tối mật, từ cấp tỉnh trưởng/tiểu khutrưởng trở xuống không được biết, có nghĩa là các lực lượng Địaphương quân vẫn ở lại chiến đấu, vẫn tiếp tục làm việc với tỉnhtrưởng, quận trưởng. Chỉ có toàn bộ chủ lực quân gồm Bộ binh,Pháo binh, Thiết giáp, Công binh, Không quân là phải triệt thoái.
Trước quyết định của Tổng thống Thiệu, Tướng Phú đã lo lắng vàhỏi lại: Thưa Tổng thống, nếu Chủ lực quân, Thiết giáp, Pháo binhrút đi, làm sao Địa phương quân chống đỡ nỗi khi Cộng quân đánh?Hơn 100 ngàn dân hai tỉnh Pleiku, Kontum, và gia đình anh em binhsĩ? Tổng thống Thiệu trả lời: Thì cho thằng Cộng sản số dân dó.Với tình hình nặng nề hiện tại, mình phải lo phòng thủ, giữ được những vùng dân cư đông đúc...mầu mỡ hơn là bị kẹt quá nhiều quâtrên vùng Cao nguyên! (Cuộc triệt thoái Cao nguyên, tác giả PhạmHuấn, xuất bản 1987, dòng thứ 1 đến dòng thứ 6, trang 86).
Về phần Đại tướng Cao Văn Viên, khi về đến Sài Gòn, ông đã chomời Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng phòng 3 bộ Tổng Tham Mưu(TTM) và báo cho vị trưởng phòng này về các chi tiết đã được bàntrong buổi họp tại Cam Ranh. Tham mưu trưởng Bộ TTM là trungtướng Đồng Văn Khuyên lúc ấy đang công tác ở ngoại quốc. Cuộchành quân cũng được giữ bí mật tối đa do chính Tổng thống ra lệnh trực tiếp cho viên tư lệnh chiến trường nên Bộ TTM không đượcquyền ra lệnh làm gì hết, kể cả việc tái phối trí các đơn vịKhông quân và lực lượng tăng phái cho Quân đoàn 2 tại Pleku và Kontum.
Vào thời gian này, tại vùng Kontum và Pleiku chỉ còn 1 tiểu đoàncủa Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 BB, 5 Liên đoàn Biệt Động QuânQK 2, thiết đoàn 21 M 48, hai tiểu đoàn pháo binh 175 mm và cácđơn vị yểm trợ như Liên đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu, Liên đoàn231 Yểm trợ Tiếp Vận, kho đạn của Không quân và Lục quân vớikhoảng 20 ngàn tấn đạn, kho tồn trữ nhiên liệu với trữ lượng dùngtrong 45 ngày và nhu yếu phẩm và thực phẩm đủ dùng trong haitháng. Nhiệm vụ của Tướng Phú là làm sao đưa hết được các đơn vịvà tiếp phẩm này về Nha Trang và để từ đó mở cuộc phản công táichiếm lại Ban Mê Thuột.
* Cuộc họp của Thiếu tướng Phú về kế hoạch rút quân:
Theo lời ban tham mưu của Tướng Phú kể lại, vào lúc 5 giờ 10chiều ngày 14 tháng 3/1975, khi vừa từ Cam Ranh trở về, Tướng Phú triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại chiếc bunker của ông, vớithành phần tham dự gồm có: Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hànhquân; Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân,Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 1(gồm 5 liên đoàn Biệt động quân), Đại tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 & Quân khu 2. Mở đầu cuộc họp đặc biệt này,tướng Phú đã thừa lệnh Tổng thống VNCH gắn cấp Chuẩn tướng choDại tá Phạm Duy Tất. Ngay sau đó, ông trình bày tóm tắt nội dungcuộc họp tại Cam Ranh và chỉ định chuẩn tướng Trần Văn Cẩm và tânChuẩn tướng Phạm Duy Tất chỉ huy tổng quát cuộc rút quân khỏi Cao nguyên.
Kế hoạch cuộc chuyển quân được phổ biến vắn tắt: Tướng Phú và Bộ tư lệnh nhẹ sẽ đi Nha Trang trước bằng trực thăng. Chuẩn tướngTất chỉ huy toàn bộ các đơn vị tham gia cuộc triệt thoái từKontum và Pleiku về Tuy Hòa theo tỉnh lộ 7 B. Đại tá Lê Khắc Lýđược giao trách nhiệm điều động bộ tham mưu quân đoàn và các đơnvị yểm trợ. Toàn bộ cuộc hành quân đặt dưới sự giám sát của chuẩntướng Trần Văn Cẩm.
Theo kế hoạch do Tướng Phú đề ra, Liên đoàn 20 Công binh chiến đấu sẽ cho một đơn vị đi đầu để làm thành phần tiên phong cónhiệm vụ sửa chữa cầu cống, đường sá khi cần thiết. Các đơn vị thiết giáp được giao nhiệm vụ yểm trợ đoàn xe vận tải. Các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân trong khu vực đoàn quân đi qua chịu trách nhiệm an ninh trục lộ. Đi cuối cùng là hai Liên đoàn Biệtđộng quân và 1 đơn vị thiết giáp. Các đơn vị cuối cùng này sẽ rờiPleiku vào ngày 19/3/1975.
Do cuộc chuyển quân rầm rộ với nhiều đơn vị và hàng trăm xe vậntải cùng nhiều quân cụ nặng nên thời gian chuẩn bị phải mất hết 4ngày liên tiếp, bắt đầu từ ngày 16 tháng 3/1975.
Sau khi họp với các đơn vị trưởng, sáng ngày 15 tháng 3, Thiếutướng Phú cùng với một số sĩ quan được chọn lựa trong ban thanmưu bay về Nha Trang để tái tổ chức lại bộ tư lệnh Quân đoàn ở đây. Cũng trong ngày này, Chuẩn tướng Cẩm và vài sĩ quan thân cận bayđi Tuy Hòa để chuẩn bị đón đoàn quân di chuyển từ Pleiku về. Cũngtrong ngày này, đã có một số quân xa bắt đầu rời Pleiku theo cáctoán nhỏ. Như đã trình bày ở trên, từ khi có cuộc tái phối tríđược nêu ra trong cuộc họp cho đến khi bắt đầu thực hiện, tất cảđều tiến hành một cách bí mật, không một lời nào được tiết lộ, kểcả không cho các tỉnh trưởng của hai tỉnh Kontum và Pleiku biết.
Tỉnh trưởng Pleiku nhờ ở gần bộ Tư lệnh nên được biết trước, còntỉnh trưởng Kontum thì đến phút chót mới biết được và ông đã tháptùng theo đoàn quân, nhưng giữa đường thì bị CQ bắn chết.
Ngày 16 tháng 3, đoàn xe đầu tiên của Quân đoàn 2 khởi hành rakhỏi thị xã Pleiku như đã trù liệu. Nhưng khi chiếc xe cuối cùngvừa rời khỏi bến thì tin này được dân chúng biết. Vậy là mọi người vội vàng bỏ thành phố bằng bất cứ phương tiện nào sẵn có,ngay cả chạy bộ, và mang theo bất cứ thứ gì có thể mang theođược. Sau đó đoàn người từ Kontum cũng nhập vào thành một đoànngười cả quân lẫn dân kéo dài dọc theo liên tỉnh lộ 7B đầy nguy hiểm. Cuộc chuyển quân của Quân đoàn 2 khỏi Pleiku bắt đầu...

*Hội đồng An ninh Quốc gia họp tại Cam Ranh
-Trưa ngày 14 tháng 3/ 1975, trong khi Sư đoàn 23 BB đang khai triển các cánh quân để tiến về Ban Mê Thuột, tại Cam Ranh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang-phụ tá An ninh Quân sự của Tổng thống, đã họp mật với Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2-Quân khu 2.
Tại cuộc họp, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ lực lượng của Quân đoàn 2/Quân khu 2 khỏi Cao nguyên, di chuyển về các tỉnh duyên hải miền Trung thuộc lãnh thổ Quân khu 2. Về lộ trình rút quân, vị Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 đã trình bày với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về tình hình các quốc lộ chính tại Cao nguyên Cao nguyên đã bị Cộng quân kiểm soát, chỉ còn liên tỉnh lộ 7B, con đường đá từ Quốc lộ 14 rẽ ra phía nam cách thị xã Pleiku chừng 32 km, chạy theo hướng Đông Nam, xuyên qua tỉnh Phú Bổn về Phú Yên). Đại tướng Cao Văn Viên không đồng ý kế hoạch chọn liên tỉnh lộ 7B, nhưng cuối cùng Đại tướng Viên cũng không tìm ra một lộ trình nào khác, nên kế hoạch của Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 được chấp thuận.
*Trung tướng Ngô Quang Trưởng tái phối trí lực lượng bảo vệ Huế
Cũng trong ngày 14/3/1975, sau khi nhận chỉ thị của Tổng thống về kế hoạch tái phối trí quân, dù tình hình quân sự tại Quân khu 1 trở nên rất đáng ngại, thế nhưng Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 vẫn muốn giữ Huế và một số vị trí trọng yếu tại Quân khu 1. Sau khi suy nghĩ và phân tích tình hình, tướng Trưởng đã gọi điện thoại theo đường dây đặc biệt trình bày ý kiến với đại tướng Cao Văn Viên nhờ xin với Tổng thống cho ông được tận dụng mọi cách để giữ Huế và Vùng 1. Cuối cùng Tổng Thống chấp thuận.
Được sự đồng ý của Tổng thống, Trung tướng Trưởng bay ra Huế họp với Trung tướng Lâm Quang Thi, tư lệnh phó Quân đoàn 1, chỉ huy bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn, về kế hoạch phòng thủ Huế. Tướng Trưởng ra lệnh phải giữ Huế thật vững vàng.

NGÀY THỨ 6 – TỬ CHIẾN Ở QUẢNG NAM – 15-3-1975.
*Cộng quân tấn công nhiều khu vực tại phiá Tây tỉnh Quảng Nam
-Ngày 15-3-1975, Cộng quân mở các cuộc tấn công vào một số vị trí đóng quân của lực lượng Địa phương quân, Nghiã quân trên địa bàn các quận Duy Xuyên, Quế Sơn, Đức Dục, Đại Lộc của tỉnh Quảng Nam. Kịch chiến đã diễn ra tại khu vực Gò Nổi, cầu Bà Rén và Nam Phước. Tại Gò Nổi, lực lượng Địa phương quân đã đẩy lùi cuộc tấn công của Cộng quân, loại ngoài vòng chiến hơn 20 Việt Cộng, bắt 2 tù binh, thu gần 20 cây súng.
-Cũng trong ngày 15/3/1975, Liên đoàn 915 Địa phương quân Quảng Nam với sự yểm trợ của 1 chi đoàn thiết giáp thuộc Thiết đoàn 11 Kỵ binh/Sư đoàn 3 Bộ binh, đã giải tỏa áp lực của Cộng quân tại Bà Rén, và một đoạn của Quốc lộ 1 ở phía Nam tỉnh Quảng Nam.
* Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 dời về Nha Trang
-Sáng ngày 15- 3-1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 cùng với một số sĩ quan trưởng phòng và sĩ quan tham mưu của đã bay về Nha Trang để tái tổ chức Bộ Tư lệnh Quân đoàn2/Quân khu 2 tại đây.
-Cũng trong ngày 15-3-1975, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá hành quân Tư lệnh Quân đoàn 2 và vài sĩ quan tham mưu bay đi Tuy Hòa(tỉnh lỵ tỉnh Phú Yên) để chuẩn bị đón đoàn quân của Quân đoàn 2 di chuyển từ Pleiku về. Cũng trong ngày này, một số quân xa bắt đầu rời Pleiku theo các toán nhỏ. Do kế hoạch triệt thoái tiến hành một cách bí mật theo lệnh của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, nên không một thông tin nào được tiết lộ, ke åcả không cho các tỉnh trưởng của hai tỉnh Kontum và Pleiku biết.Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng tỉnh Pleiku nhờ ở gần bộ Tư lệnh nên được biết trước, còn vị Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Kontum, theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, viết cho Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, thì đến phút chót mới biết được và ông đã tháp tùng theo đoàn quân, nhưng giữa đường thì bị CQ bắn chết.

NGÀY THỨ 7 – QUÂN ĐOÀN 2 TRIỆT THOÁI – 16-3-1975.
* Ngày 16/3/1975: Chuẩn tướng Phạm Duy Tất tổng chỉ huy cuộc triệt thoái của Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên.
Ngày 16/3/1975, thi hành quân lệnh của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã ban ra tại cuộc họp lịch sử ở Cam Ranh ngày 14-3-1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, đã cho lệnh triệt thoái toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 khỏi 2 tỉnh Pleiku và Kontum của Cao nguyên Trung phần.
Theo phân nhiệm của Thiếu tướng Phạm Văn Phú, tân Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2, được ủy nhiệm tổng chỉ huy toàn bộ các đơn vị triệt thoái.
(Trước đó, vào sáng ngày 15 tháng 3, Thiếu tướng Phú cùng với một số sĩ quan trong Bộ Tư lệnh bay về Nha Trang để tái tổ chức lại Bộ tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 ở đây. Cũng trong ngày này, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành quân Tư lệnh Quân đoàn 2 và vài sĩ quan thân cận bay đi Tuy Hòa để chuẩn bị đón đoàn quân triệt thoái từ Pleiku và Kontum về) .
Theo lịch trình triệt thoái khỏi Cao nguyên, ngày 16 tháng 3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo binh,Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự yểmtrợ của một đơn vị Thiết Giáp, đã khởi hành ra khỏi thị xãPleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái.
Sau thành phần đi đầu, lịch triệt thoái của các ngày kế tiếp như sau: vào ngày 17-3. các đơn vị Công binh, Pháo binh còn lại cùng Quân y với trên 250 xe sẽ di chuyển vào ngày 17/3/1975 và cũng do Thiết giáp tháp tùng bảo vệ. Ngày 18/3/1975: Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, đơn vị Quân cảnh, một phần của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, cùng khoảng 200 quân nhân của Trung đoàn 44 Bộ binh triệt thoái, và cũng được Thiết giáp đi theo bảo vệ. Ngày 19/3/1975: lực lượng đoạn hậu gồm có Biệt động quân và đơn vị thiết giáp cuối cùng.
Theo lộ trình, đoàn quân sẽ từ Pleiku di chuyển về phía Nam củaQuốc lộ 14 để đến giao điểm QL 14 và Liên tỉnh lộ 7 cách thị xãPleiku khoảng 33 km đường chim bay về phía Nam, từ giao lộ này đoàn quân sẽ tiếp tục di chuyển dọc theo liên tỉnh lộ 7 B vềhướng Đông Nam, xuyên qua tỉnh lỵ Phú Bổn để về Tuy Hòa.
* Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên phân tích về liên tỉnh lộ 7B và cuộc rút quân của Quân đoàn 2.
Trong phần trình bày về cuộc họp tại Cam Ranh, VB đã lược trình về quyết định của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ra quân lệnh cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt thoái Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên. Sau đây là những ghi nhận chi tiết về quân lệnh này.
Tại cuộc họp Cam Ranh, khi nghe Thiếu tướng Phú chọn Liên tỉnh lộ 7B làm trục lộ rút quân, Đại tướng Cao Văn Viên không đồng ý, vị Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH cho rằng đưa một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số mà không nắm rõ tình hình an ninh lộ trình là "quá sức liều lĩnh", tuy nhiên cuối cùng Đại Tướng Viên cũng không tìm ra được một trục lộ nên kế hoạch của Thiếu tướng Phú đã được Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và Hội đồng Quốc gia chấp thuận.
Nhận định về địa hình liên tỉnh lộ 7 B, Đại tướng Cao Văn Viên phân tích rằng ngoài trừ khúc từ Quốc lộ 14 đi Hậu Bổn còn dùngđược, đoạn còn lại không biết tình hình giao thông như thế nào.Tuy nhiên, có một điều mà Quân đoàn 2 biết trước là cầu bắc quasông Ba về phía nam Củng Sơn đã bị phá hủy hoàn toàn, không thểsửa chữa được, và đoạn đường chót đến phía tây Tuy Hòa thì nhữngvào năm trước 1973, lực lượng Đại Hàn hoạt động tại đây đã gài mìn dày dặc.
Trong khi Đại tướng Viên lo ngại về lộ trình rút quân, thì Thiếu tướng Phú lại tin tưởng về kế hoạch chuyển quân theo Liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ quốc lộ 14 đi Hậu Bổn (có đèo Cheo Reo) về Tuy Hòa sát biển. Đường này rất ghồ ghề, đá lởm chởm và bị bỏ lâu không dùng đến. Giải thích về sự chọn lựa này, Thiếu tướng Phú trình bày rằng yếu tố bất ngờ đã khiến ông có dự tính như thế.
Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu Bộ Tổng tham mưu cung cấp phương tiện cầu nổi để qua sông mà thôi. Với quyền hạn của một Tổng tham mưu trưởng, Đại tướngViên chấp thuận ngay lời yêu cầu của Thiếu tướng Phú.
Nhận định về quyết định của Tổng thống Thiệu và kế hoạch chuyển quân của Thiếu tướng Phú, Đại tướng Viên cho rằng "đưa một lực lượng cỡ quân đoàn với đầy đủ quân cụ, quân xa và nhiều thứ khác trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số qua núi cao và rừng già trên vùng Cao nguyên mà không biết tình hình an ninh con đường đó ra sao quả là một việc quá sức liều lĩnh. Có tạo được yếu tố bất ngờ haykhông là do khả năng di chuyển nhanh gọn. Nhưng là một người chỉhuy sáng suốt thì lúc nào cũng phải có sự cẩn trọng trước tình trạng là địch đang có mặt hầu như cùng khắp tại khu vực đó".
Cũng trong buổi họp tại Cam Ranh, Đại tướng Viên đã nhắc nhở Thiếu tướng Phú về những khó khăn và nguy hiểm sắp đến, cũng như biện pháp an ninh cần chuẩn bị. Đại tướng Viên cũng đã đề cập đến sự thất bại của quân Pháp khi muốn rút quân từ Lạng Sơn về đồng bằng trong năm 1947. Ông cũng nhắc đến hai cuộc chuyển quân của hai binh đoàn Pháp trước năm 1954, theo đó một binh đoàn từ Thất Khê lên hướng Bắc và một binh đoàn từ Cao Bằng di chuyển về hướng Nam, tất cả đều bị đánh tan nát tại chân núi xung quanh Đông Khê, dọc theoQuốc lộ Thuộc Địa số 4. Về địa thế và con đường mà Thiếu tướngPhú chọn để di chuyển quân đoàn 2 thì vào tháng 6/ 1954, Lựclượng Cơ động 100 nổi tiếng của quân đội Liên Hiệp Pháp tại ĐôngDương đã bị thảm sát trên Quốc lộ 19 gần An Khê và số sống sót còn lại cũng bị tiêu diệt tại Đeo Chu-Drek trên Quốc lộ 14. Theo Đại tướng Viên, đó là "những bài học máu xương và thảm khốc nhất mà bất cứ vị chỉ huy nào cũng phải biết rõ vì địa thế hiểm trở củavùng Cao nguyên là vậy".
Về tình hình Ban Mê Thuột sau khi thất thủ vào ngày 11/3/1975, Đại tướng Viên cho biết thêm: tại cuộc họp ở Cam Ranh, Tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu quan trọng nhất liên quan đến số phận của Ban Mê Thuột, đó là Thiếu tướng Phú có thể chiếm lại Ban Mê Thuột không. Những người tham dự đều biết trước là Thiếu tướng Phú không khẳng định được điều này nên không có câu trả lời dứt khoát. Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu tăng thêm viện binh. Quay sang Đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu hỏi xem còn lực lượng nào có thể tập trung đưa lên giải vây không. Hỏi vậy nhưng chắc chắn ông biết rõ câu trả lời. Đại tướng Viên cho biết đơn vị cuối cùng là Liên đoàn 7 Biệt Động Quân đã được phái lên Vùng 2 theo yêu cầu của Thiếu tướng Phú. Lực lượng chủ chốt là Sư đoàn Nhảy Dù và Sư đoàn Thủy quân lục chiến thì đều ở Quân khu 1 từ năm 1972.
Theo lời Đại tướng Viên thì vào giờ phút nghiêm trọng như vậy mà Bộ Tổng Tham Mưu không thể nào tăng viện cho Quân khu 2 được. Tổng thống Thiệu hỏi như vậy là để cho mọi người cùng hiểu thực trạng của quân đội như thế nào, và biết được bước kế tiếp ông phải làm gì.Khi cuộc họp chấm dứt, thì Tướng Phú xin riêng với Tổng thống Thiệu bằng một giọng khẩn khoản rằng ông xin Tổng thống thăng cấp chuẩn tướng cho Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2. Kể lại sự việc này, Tướng Cao Viên ghi lại như sau: "Tôi không quen thân với Đại tá Tất nhưng được nghe ông là người có khả năng, nhưng làm tư lệnh chiến trường thì không có bằng chứng nào chứng minh ông ta có khả năng. Tôi liền phản đối ngay và nói rằng khi nào tái phối trí xong rồi mới nói đến. Tổng thống Thiệu tỏ ra do dự nhưng thấy tôi nói có lý nên không đồng ý việc thăng cấp. Thế nhưng, Thiếu tướng Phú khẩn khoản xin cho bằng được. Cuối cùng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng đồng ý thăng cấp Chuẩn tướng cho Đại tá Phạm Duy Tất.

CÙNG NGÀY THỨ 7 – TRẬN CHIẾN QUẢNG TÍN – 16-3-1975.
-Trong ngày 16/3/1975, tại miền Trung, lực lượng Cộng quân tại tỉnh Quảng Tín đã tung quân tấn công cường tập khu vực Bình Tú, thuộc quận Thăng Bình và nhiều vị trí đóng quân của Địa phương quân tại khu vực Tây Nam và Tây Bắc của tỉnh Quảng Tín. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh(trách nhiệm chiến trường Quảng Nam- Đà Nẵng; tùy theo tình hình, đảm trách thêm khu vực phía Nam tỉnh Quảng Tín), đã điều động Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 2 Bộ binh tăng cường 1 chi đoàn của Thiết đoàn 11 Kỵ Binh giải tỏa áp lực Cộng quân. (Trước đó, Cộng quân đã tràn chiếm các quận Tiên Phước, Hậu Đức, liên đoàn 916 Địa phương quân của tỉnh Quảng Tín bị tổn thất nặng sau những trận kịch chiến với Cộng quân).
* Đoàn quân đầu tiên của Quân đoàn 2 rút khỏi Pleiku
Cũng trong ngày 16 tháng 3, đoàn xe đầu tiên của Quân đoàn 2 khởi hành rakhỏi thị xã Pleiku như đã trù liệu. Nhưng khi chiếc xe cuối cùngvừa rời khỏi bến thì tin này được dân chúng biết. Mọi người vội vàng bỏ thành phố bằng bất cứ phương tiện nào sẵn có,ngay cả chạy bộ, và mang theo bất cứ thứ gì có thể mang theođược. Sau đó đoàn người từ Kontum cũng nhập vào thành một đoànngười cả quân lẫn dân kéo dài dọc theo liên tỉnh lộ 7B đầy nguyhiểm. Cuộc chuyển quân của Quân đoàn 2 khỏi Pleiku bắt đầu...
-Theo lịch trình, ngày 16 tháng 3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo binh, Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự yểm trợ của một đơn vị Thiết Giáp, đã khởi hành ra khỏi thị xãPleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái.





2 Kommentare: