“… Còn em, một học trò, mà tàn ác nhất là
học trò trường cô dạy, hai bàn tay trắng không biết đếm tiền, chỉ biết đánh lộn,
đánh vỡ hết những gì làm mình thất vọng khổ đau, với vòng tay học trò không bao
giờ ôm giữ nổi đời cô”.
(Thư
của học trò Nguyễn Duy Minh
gửi
cho cô giáo Tôn Nữ Quỳnh Trâm
trong Vòng
tay học trò)
Gần 70 tuổi đầu mà còn ngồi đọc
lại Vòng tay học trò (VTHT) của Nguyễn Thị Hoàng kể ra thì
cũng hơi lạ. Tôi biết nhiều người sẽ nhíu mày khi đọc cái tít của entry này, thậm
chí có thể còn phê phán:‘Ông già không nên nết!’. Xin hiểu cho tôi, đọc lại VTHT vào lúc
này không phải đơn thuần để giải trí, mục đích chính là vì muốn tìm lại hình ảnh
của Mai Tiến Thành, bạn học của tôi từ năm Đệ Ngũ trên Ban Mê Thuột.
Gia đình tôi phải di chuyển từ
Đà Lạt sang Ban Mê Thuột vì lý do thuyên chuyển công vụ của bố. Chúng tôi ở căn
nhà số 31 Lý Thường Kiệt, gần ngã tư Lý Thường Kiệt - Ama Trang Long. Ngay góc
đường có tiệm ăn Tàu tên Mỹ Cảnh và phía đối diện bên kia đường Lý Thường Kiệt
là tiệm bán đồ phụ tùng xe hơi mang bảng hiệu Lê Đức Viên. Thực ra
thì ngay trên đường Lý Thường Kiệt có tới 3 tiệm bán phụ tùng xe hơi nằm kế
nhau: Lê Đức Viên, Tô Hoa và Quảng Thành.
Tô Hoa là tiệm của người Tàu
còn Lê Đức Viên và Quảng Thành lại là của hai chị em ruột chọn cùng nghề cung cấp
phụ tùng xe hơi. Chắc chắn giữa 3 cửa hàng cửa hàng gần sát bên nhau đã có một
sự cạnh tranh gắt gao trong việc cung cấp đồ phụ tùng xe hơi ở một tỉnh nhỏ như
Ban Mê Thuột.
Tiệm Quảng Thành do hai ông
bà chủ mang cùng tên Huệ đứng kinh doanh. Họ có 4 người con (3 gái 1 trai) và cậu
con trai thứ duy nhất là Mai Tiến Thành, nhân vật chính của entry này. Sinh trưởng
trong một gia đình tương đối khá giả ở tỉnh lẻ, Thành thuộc loại ‘quý tử’, tư
chất khá thông minh nhưng sức học trung bình. Riêng về việc ăn chơi, Thành được
xếp vào loại ‘xuất sắc’ nếu so với các bạn đồng trang lứa đệ nhất cấp mới lớn.
Thành có khuôn mặt ‘không được
đẹp trai cho lắm’. Trong lớp chúng tôi vẫn thường gọi đùa hắn là Fernandel, một
danh hài trong các phim của Pháp được ưa chuộng vào thời đó. Fernandel có khuôn
mặt… dài như mặt ngựa, chỉ cần nhìn vào khuôn mặt đó cũng đủ làm người ta phải
cười. Thậm chí có người còn kể khi Fernandel đi dự đám tang người bạn, ông giữ
khuôn mặt buồn bã nhưng những người xung quanh phải bấm bụng cười thầm vì càng
làm nghiêm ông càng biến bộ mặt thành hài hước.
Có kể hết cái xấu của Thành mới
làm nổi bật lý do tại sao cậu học trò Nguyễn Duy Minh lại được cô giáo Tôn Nữ
Quỳnh Trâm để mắt đến và thành công trong chuyện tình cảm. Thành còn có tướng
đi ‘chữ bát’ nên bạn bè thường gọi là Thành ‘dẹo’. Mai Tiến Thành ngày còn ở
Ban Mê Thuột là thế đấy nhưng lên đến Đà Lạt lại trở thành ‘guest star’ trong
cuốn phim VTHT.
Chúng tôi ở phố nên hàng ngày
phải đi xe đạp đến trường. Con đường từ trường về nhà có một con dốc thoai thoải
đổ xuống ngã sáu, vòng xuay lớn nhất Ban Mê Thuột, nơi được người địa phương gọi
là Cột đèn ba ngọn. Đơn giản chỉ vì ở đó có một cột đèn với 3 ngọn
đèn neon tỏa sáng các hướng mỗi khi thành phố lên đèn.
Thành luôn là kẻ thích ‘chơi
trội’ trong đám học sinh chúng tôi. Trên đường từ trường về thả dốc hắn thường
không dùng hai tay cầm guidon mà cứ để chiếc xe tự nhiên trôi và khi cần điều
chỉnh chỉ dùng thân mình nghiêng qua, nghiêng lại! Có hôm cao hứng Thành còn đứng
thẳng trên yên xe, hai tay dăng ngang giữ thăng bằng, cứ thế chiếc xe đạp trôi
dốc chẳng khác gì diễn viên xiếc.
Trò suspense này chỉ riêng
Thành có thể biểu diễn được trước những con mắt “trầm trồ” xen lẫn “hồi hộp” của
đám bạn cùng lớp và cả người đi đường. Tôi chưa bao giờ thấy Thành gặp tai nạn
trong những màn biểu diễn ngoạn mục này. Tôi cũng chưa bao giờ dám đi xe đạp bỏ
hai tay chứ không nói gì đến việc dám dứng trên yên xe như làm xiếc!
Thành thuộc loại nhỏ con
nhưng không nể một ai, dù đó là kẻ to xác. Hắn sẵng sàng đánh lộn với những bạn
cùng trường chỉ vì địch thủ… nhìn thấy ghét! Nhiều khi hắn chỉ cố đấm địch thủ
một quả đích đáng rồi sau đó bỏ chạy vì biết còn đứng lại thì thế nào cũng no
đòn. Võ thì chẳng có miếng nghề nào để phòng thân nhưng lại ưa đánh lộn! Nhân vật
Minh trong VTHT cũng là tay giỏi đánh lộn. Nguyễn Thị Hoàng mô tả một cuộc đánh
lộn như sau:
“…Gần đến nhà, dưới chân đồi,
Minh bị một bọn choai choai chận đường. Một thằng trong bọn nghênh chiến trước:
-- Ê, Minh, mày bao nhiêu tuổi?
Minh ném sách vở xuống bãi cỏ,
tóm lấy ngực thằng kia:
-- Bằng tuổi cha mày.
Minh tát thằng kia một bạt
tai và rút cái khóa xe bằng sắt quay một vòng vù vù:
-- Tao làm gì thấy kệ tao, mắc
gì đến tụi bây? Đồ chó săn.
Rồi Minh bỏ đi. Nhưng thằng
kia ngáng chân Minh lại. Cuộc vật lộn xảy ra. Hai đứa ôm nhau quật túi bụi giữa
sườn đồi đầy rác thông và cỏ ướt cho đến khi có bóng giáo sư trực thấp thoáng ở
sân cỏ. Chúng nó buông nhau ra, làm ra vẻ tỉnh bơ và mỗi đứa đi về một phía…”.
Ngoài bản tính hiếu động,
Thành cũng có những nét đặc biệt của một cậu học sinh với những mơ mộng của
thời mới lớn. Hắn có cả một quyển sách chép lại các bài thơ trữ tình của các
nhà thơ tiền chiến như Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Hồ Dzếnh, Tế Hanh… Bên cạnh đó
là những bài thơ của các tác giả đương thời như Nhất Tuấn, Nguyên Sa, Nguyễn Tất
Nhiên…
Một đặc điểm nữa của Thành là
tài ăn nói: thao thao bất tuyệt mà lại có duyên, nhất là với phái yếu. Thế
nhưng, kiểm điểm lại thành tích khi còn ở Ban Mê Thuột, tôi có thể quả quyết
Thành chưa có một mối tình nào để… vắt vai. Các cô nghe Thành nói chuyện thì
thích nhưng có lẽ chọn làm người tình thì họ e ngại cái miệng dẻo quẹo. Phải
lên đến Đà Lạt Thành mới lọt vào mắt xanh của cô giáo Trâm và có thể coi đây là
mối tình đầu.
Chúng tôi học chung với nhau
từ lớp Đệ ngũ (lớp 8 ngày nay) tại trường Trung học Ban Mê Thuột. Năm Đệ tứ có
lần tôi thấy trên bàn học của Thành treo tấm ảnh hình chiếc xe Puch, một loại
xe gắn máy ‘thời thượng’ vào lúc đó. Hỏi ra mới biết cu cậu được treo giải 1
chiếc Puch nếu thi đậu Trung học đệ nhất cấp.
Năm ấy Thành đỗ nhưng không
thấy chiếc xe ở đâu, thay vào đó hắn được gia đình gửi lên Đà Lạt tiếp tục học
Đệ tam tại trường Trần Hưng Đạo. Và đó cũng là nơi Thành bước vào tiểu thuyết
VTHT dưới cái tên Nguyễn Duy Minh qua ngòi bút của Nguyễn Thị Hoàng.
VTHT là một tiểu thuyết gồm
11 chương, dựa vào những tình tiết có thật giữa cô giáo Tôn Nữ Quỳnh Trâm (Nguyễn
Thị Hoàng) và cậu học trò Nguyễn Duy Minh (Mai Tiến Thành). Dĩ nhiên trong tác
phẩm này có những đoạn văn được ‘cường điệu hóa’, những cảnh được ‘thi vị hóa’
và những đối thoại được ‘tiểu thuyết hóa’. Những chương đầu tiên của VTHT được
in trên Bách Khoa năm 1964 và sau đó được chính thức xuất bản năm 1966.
Nguyễn Thị Hoàng (NTH), sinh
ngày 11.12.1939 tại Huế. Theo học trường Đồng Khánh, năm 1957 vào Nha Trang,
1960 vào Sài Gòn học Đại học Văn khoa và Luật. Học hành dang dở, NTH bỏ đi làm
và rồi tìm lên Đà Lạt xin dạy học đệ nhất cấp tại trường Trần Hưng Đạo cho đến
năm 1966.
VTHT trở thành một trong những
best seller khi vừa xuất bản và được dư luận người đọc đương thời chú ý. Nhiều
ý kiến phê phán tác phẩm này có nội dung ‘vô luân’ do viết về quan hệ tình cảm
giữa một cô giáo trẻ và cậu học trò đệ nhị cấp cùng trường nhưng trên thực tế
cô giáo Trâm chỉ dạy đệ nhất cấp còn anh học trò Minh đang học năm cuối lớp Đệ
Nhị A (trong VTHT Thành học Đệ Nhất A).
Dưới ngòi bút của NTH, cô
giáo Trâm được mô tả là đã từng có một cuộc sống rất ‘hiện sinh’ tại Sài Gòn
hoa lệ. “Một tuần như có cả bảy ngày chủ nhật. Một năm vui chơi chỉ như một
mùa hè. Nàng thấp thoáng khắp nơi, từ những đám phong lưu phá sản bằng ăn chơi
đủ điệu cho đến những bọn nhỏ tuổi bất chấp cuộc đời, hối hả sống, vội vàng
yêu, hăng hái nhập cuộc mê cuồng theo kẻ lớn”.
Ngay từ Chương 1, cô giáo
Trâm đã có lúc ngồi ‘nhớ lại những tên người trong ký ức như người lính thắng
trận kiểm điểm xác chết của phe địch bỏ lại ở chiến trường’. Những người
tình lần lượt đến rồi đi như Văn tỉ phú, Marc giáo sư đại học, John sĩ quan Mỹ,
Tuấn phi công, Francois ký giả, Hồng nhà văn, Linh con nhà giàu phá sản… Bên cạnh
đó còn có ‘một khối thằng sinh viên, một khối thằng học trò choai choai mới
lớn say mê của cấm như khoái làm chuyện siêu phàm’.
Họ đều là ‘những xác chết’ khi Trâm bỏ Sài Gòn lên Đà Lạt dạy học.
Mỗi tình yêu là một bông hoa đã úa tàn. Mỗi ngày vui là một chiếc lá vàng rơi rụng.
Trâm đã chán ngán, đã mệt mỏi, đã lìa xa một nửa con đường lang bạt đó. Trâm đã
bỏ cái thành phố Sài Gòn hai mặt sống và chết, mê và chán, xấu và tốt đó. Nàng
bỏ đi như một từ khước và lẩn trốn. Từ khước những thú vui buông thả đưa tới lỡ
lầm cay đắng, đưa tới trống không giằng dặc tủi hờn. Lẩn trốn những đòi hỏi xôn
xao của chính mình, của một bản chất sôi nổi thèm sống, thèm yêu đến tột cùng,
đến vô bờ, vô bến.
Tại Đà Lạt, Trâm thuê được
ngôi nhà cũ của một linh mục người Pháp gần Viện đại học. Biệt thự hư nát đến độ
không ai nghĩ đến chuyện thuê và sửa chữa lại. NTH viết: “Nhưng hôm đến xem
nhà, bị mê hoặc bởi vẻ hoang vu và bí mật của tòa nhà với những đám cỏ dầy cao
quá đầu, với những cánh cửa hư nát, tường loang lổ, mái sụp nhiều nơi làm nước
mưa dội xuống ào ào như thác, Trâm bằng lòng làm ngay tờ giao kèo bỏ tiền ra sửa
chữa lại tòa lầu và giá tiền thuê sẽ được trừ dần vào số tiền phí tổn đó. Một
mình Trâm tìm thầu khoán, đứng ra điều khiển, sắp đặt mọi việc. Rồi nàng dọn về
đó cũng một mình”.
Chương 2 bắt đầu bằng buổi cô
giáo Trâm đi coi cấm túc tại trường vào cuối tuần. Học trò bị phạt là những
gương mặt các lớp Đệ Nhị, Đệ Nhất thuộc loại ‘đầu
trâu, mặt ngựa’ được tác giả
mô tả như sau: “…Không thể dùng cử chỉ thường lệ với những đứa học trò đầu
trâu mặt ngựa to lớn thế này. Nhưng nếu dùng lời nói, lại rắc rối trong cách
xưng hô. Trong đám học trò này, có đứa bằng Trâm, có đứa lớn hơn Trâm nữa về tuổi
tác, nhân dáng mà biết đâu về kinh nghiệm sống nữa. Học trò bây giờ, mới nứt mắt
đã thuốc lá, cà-phê, rượu trà, đàn bà. Tụi nó khoe khoang và hãnh diện về cái sớm
biết của mình, ngang nhiên sống buông thả và bất chấp như một tay chơi sõi đời
thực thụ. Vậy Trâm không thể gọi chúng nó là các em như đối với bọn học trò nhỏ
của nàng. Nhưng chúng không lớn hơn nàng bao nhiêu nên gọi bằng các anh có vẻ
thân thiện và tâng bốc quá… nhanh trí và vui tính, Trâm tìm ngay ra một lối
khác, vừa giễu cợt, vừa vô hại:
-- Mời… các ngài ngồi xuống”.
…
“…Gần hai tháng đến dạy
trường này, hôm nay là lần đầu tiên nàng không mặc áo len trước mặt học trò. Lần
đầu tiên chúng trông thấy thân hình thật của nàng. Không có cái áo khoác ngoài,
vẻ nghiêm trang già dặn cũng mất đi. Ở Trâm toát ra cái vẻ trẻ trung tươi mát của
trái cây vừa chín, vẻ dịu dàng gợi cảm của người đàn bà trẻ con. Mái tóc đen mướt
chải bồng vấn thật cao, chiếc áo màu rêu đá bó sát thân hình thon nhỏ, đôi giày
mule trắng gót nhỏ thanh thanh. Trâm biết lối phục sức đó không thích hợp với
vai trò mình. Nhưng nàng không thể làm khác. Xõa dài mái tóc, mang guốc hay dép
nàng còn cỏ vẻ đơn sơ và bé bỏng hơn nữa. Phải làm cho roam lên, cho già đi một
tí. Nhưng nụ cười. Nụ cười thoáng qua đôi môi nhỏ đều, hàng răng nở trắng, qua
đôi mắt đen kẻ đuôi vừa tinh nghịch vừa mơ màng. Trong cái lốt ấy, Trâm có tác
phong tài tử hơn là giáo sư. Tất cả tố cáo cái vẻ đẹp trẻ trung non nớt và vui
tươi không thể nào che giấu của một cô giáo nhỏ tuổi dạy trường con trai của
nàng”.
Lần đầu tiên cô giáo Trâm gặp
anh học trò tên Minh được người bạn tên Thức dắt đến xin ở trọ: “…Có tiếng
xì xào to nhỏ của hai người. Trâm nhận ra giọng Bắc âm ấm của Thức, tên học trò
đệ nhất ở nhà đầu kia đường thường đến chơi và mượn sách:
-- Gì mà sợ. Cứ tỉnh lên. Tớ
nói cho, cậu cứ việc ngồi im.
Giọng kẻ lạ:
-- Nếu cô không bằng lòng thì
sao?
-- Đã biết đâu mà đoán trước.
-- Moa ngại làm sao ấy. Cậu
có thân với cô không đã?
-- Suya mà. Nào, moa gõ cửa lần
nữa đây”.
…
“…Thừa lúc Trâm nghiêng
mình sửa một cành glaieul trong bình thủy tinh, Minh ra hiệu bằng mắt với Thức.
Thức trở lại vấn đề:
-- Thưa cô, xin cô cho biết
cô có thể nhận anh bạn đây ở trong nhà được không…
-- Nếu chọn, có lẽ tôi sẽ chọn
một người vào tuổi em đấy. Nhưng phải giáo sư nào trên trường giới thiệu và người
nhà đến gửi gắm đã. Em từ xa lạ đến, biết đâu vào đâu. Phải có người lớn đến
nói với tôi một tiếng, rồi sẽ liệu.
…
“Minh hấp tấp:
-- Thưa cô, em sẽ đưa bác em
lại xin cô…
-- Thế gia đình em ở đâu?
-- Dạ, ở trên Kontum kia.
-- Xa thế, mình em xuống học
đây… Vậy ra…
Trên tực tế, gia đình Thành ở
Ban Mê Thuột, xứ Buồn Muôn Thuở, chứ không phải ở Kontum. Không biết vì lý do
gì NTH đã đổi ‘xuất xứ’ của Minh nhưng điều đó không quan trọng. Cô giáo Trâm
có những nhận xét ban đầu về tên học trò xin được ở trọ nhà cô:
“…Trông nó có vẻ bạo dạn
quen thuộc với không khí phòng khách và lối nói chuyện vui vẻ của cô giáo.
Nhưng hai bàn tay nó cứ hết đặt lên nhau lại để duỗi trên mặt bàn rồi buông xuống.
Có lúc Trâm chợt thấy ngón tay cái và ngón giữa của nó chụm lại, như sắp sửa
búng tróc một cái. Nhưng khi nó nhìn lên Trâm, hai ngón tay nó rời nhau ra
ngay. Trâm nghĩ, lỏi con này thuộc loại nghịch đây. Nhưng nét mặt nó có vẻ dại
khờ, non choẹt và ngơ ngẩn thế nào. Thỉnh thoảng nó lại lắc mạnh đầu để hất mấy
vệt tóc lòa xòa xuống như vừa dưỡng rẽ. Chiếc áo chemise màu xanh nhạt hơi ngắn,
trên túi áo có thêu tên trường bằng chữ đỏ. Những dấu hiệu đó làm nó có vẻ trẻ
con hơn trước mắt Trâm. Nó thuộc loại mới bỏ thời thơ ấu để bắt đầu làm con
trai vừa lớn, Trâm nghĩ…”.
Trâm cần gì ở Minh? Có lần cô
nói với Ngữ, người tình cũ ở Sài Gòn theo Trâm lên tận Đà Lạt: “Tôi đã nói,
tôi không cần gì cả. Đia vị. Tiền bạc. Bề ngoài. Không. Tôi chỉ cần một thứ, một
thứ tìm mãi không hề có, hoặc có mà không thể giữ mãi được với mình: tình
thương...”.
Tôi nghĩ, đối với Trâm cũng
như NTH, tình yêu mà họ cần không phải là thứ tình ‘hai chiều’, họ chỉ ‘yêu’
tình yêu của họ mà không cần biết đến phía bên kia. Họ là típ phụ nữ thích làm
collection về tình yêu. Thế cho nên, những người tình dù có yêu họ thắm thiết
nhưng đến một lúc nào đó họ cũng lạnh lùng chia tay để tìm một đối tượng khác
cho “bộ sưu tập tình yêu”.
Người phụ nữ thường chưng diện
để kẻ khác chiêm ngưỡng, nhất là để thu hút sự chú ý của đàn ông. Ở nột loại phụ
nữ thứ hai, họ lại quan niệm làm đẹp chỉ để phục vụ cho chính bản thân mình. Cô
giáo Trâm thuộc loại thứ hai, cộng thêm với quan niệm yêu chỉ để là giàu cho bộ
sưu tập tình cảm của mình, tôi nghĩ những người như cô thuộc loại ‘vị kỷ’. Hóa
ra cô giáo Trâm, hay NTH, là một típ phụ nữ rất khó để đàn ông chinh phục, trừ
khi chính đương sự… bị khuất phục.
Ngữ tìm đến Trâm đúng vào lúc
cô đang ở phòng Minh để săn sóc anh học trò đang say rượu. Trên giường,
Minh nằm thiêm thiếp, cả thân hình lấp dưới những lớp chăn dày, chỉ còn cánh
tay trái vươn ra ngoài, buông thõng xuống đất. Đôi mắt Minh nhắm nghiền, nhưng
làn mi còn nhẹ nhàng rung động trong trạng thái chập chờn mê tỉnh.
“…Trâm trút dầu vào lòng
bàn tay, gỡ nhẹ mền chặn trên ngực Minh và cúi xuống. Nàng mở hạt nút ở cổ áo
chemise của Minh và luồn bàn tay tẩm dầu vào trong đó. Minh chợt mở mắt. Hai
con ngươi sáng dịu ánh lên một thoáng rồi làn mi cong đen từ từ khép lại. Minh
mấp máy môi muốn nói điều gì, nhưng rồi nó xoay người, quay mặt vào vách, dúi đầu
vào mặt gối.
“Trâm lần nhẹ bàn tay trên
làn da ngực nóng rực của người con trai. Rồi Trâm nhìn thấy mơ hồ và kỳ lạ, từng
ngón tay mình chập chạp rời khỏi khuôn ngực áo trắng nõn đó. Rồi cũng bàn tay
nàng mà trong phút đó Trâm tưởng như của một người thứ hai cài kín hột nút áo
Minh và kéo chăn đắp lại như cũ. Trâm cúi xuống gọi nhỏ:
-- Minh, em khoẻ chưa?”
…
“Ngữ đứng lặng người một lúc
trước cảnh tượng êm đềm đột ngột đó. Lâu lắm, anh mới lắp bắp:
-- Sao thế chị Trâm?
Trâm gật đầu đáp lại cái chào
của Biên nhưng không quay lại nhìn Ngữ, cười gượng:
-- Nó… bị trúng gió lúc đi học
về. Trời đổi mùa, gió máy thật độc địa”.
Trâm nói dối tỉnh bơ, bàn tay
cô đang ở trên bờ vai Minh với hơi ấm từ da thịt người con trai thoát ra từ tấm
áo len: “Trâm nghĩ mãi, không hiểu vì sao nó đã uống gần nửa chai rượu. Vì
sao nó muốn say, nó tự hành hạ như vậy ngay trong nhà này, nhà của một cô giáo.
Có thể Minh buồn vì một chuyện riêng không liên hệ đến nàng. Nhưng vô lý. Tại
sao mắt Minh nhìn Trâm kỳ lạ thế. Trong vẻ đau xót. Trâm hiểu cái nhìn đó. Vì
đã bao nhiêu đôi mắt con trai, đàn ông nhìn nàng như thế. Nhưng Minh chưa là
đàn ông, cũng không còn là một đứa con trai. Dưới mắt Trâm, trong ý nghĩ Trâm,
nó chỉ là một đứa bé khác thường, nghịch ngợm mà lãng mạn. Trâm vẫn nhìn và tưởng
như thế từ khi nó đến xin ở trọ. Nhưng chiều nay, trước mắt Trâm, nó biến đổi
vô cùng nhanh chóng. Chỉ vì một chai rượu…”
Bọn học trò trêu chọc Minh.
Các giáo sư cũng bắt đầu ‘truy’ Minh kỹ hơn từ ngày hắn đến ở nhà Trâm. Minh bị
‘truy’ và ‘trù’ đủ mọi cách, về những việc nhỏ nhặt, ti tiện đến việc học, những
hành vi của Minh, như Minh là một kẻ có trọng tội giữa một hàng rào thù nghịch
bao vây. Đến nỗi nhiều khi Minh tưởng như người ta đang tìm một tội nào đó gán
và buộc hắn nhận để dễ truy tố, hành hạ. Minh đã có lần tức tối, nói với bọn Lộc,
Hải, tao có làm gì đâu? Có làm gì bọn họ đâu? Bọn họ tức tao cái gì vậy? Hải cười: Thì tại họ xin chia nhà cô Trâm
không được, mà mầy lại được. Đang
tức, Minh nói liều, ‘tức vì không được ở trong nhà cô Trâm, hay không được ở
với cô ấy?’.
Trong VTHT, Giám thị của trường
Trần Hưng Đạo là ông Dụ, thật ra, trên thực tế thì ông tên Bửu Vụ, một hung thần
đối với học sinh trong trường. Năm Đệ nhất tôi quay lại học Trần Hưng Đạo, thầy
tổng giám thị Bửu Vụ, người Huế, vẫn còn, ông được học sinh gọi lén là ông ‘cai
dù’. Tôi không nghĩ cái tên ‘cai dù’ có ý nghĩa nói lái vì ông cũng đã khá lớn
tuổi lấy đâu mà… dài. Bọn học trò chúng tôi đặt ông là ‘cai dù’ cho bõ ghét cái
tính hắc ám của ông chuyên dùng roi mây xử phạt những đứa học sinh ngỗ nghịch.
NTH cũng có ít dòng mô tả về
ông Dụ với những thuật ngữ không lấy làm ‘thân thiện’ cho lắm. “Trâm nghĩ thầm: Chắc là lão vừa 'nạo'
học trò trước sân cờ xong tạt qua ngay đây 'điều tra' mình. Trâm cũng biết ông
ta dò xét chuyện gì rồi, nhưng vờ ngớ ngẩn để xem ông Giám Thị khởi đầu công
tác ra sao. Trâm yên lặng chờ đợi những câu chất vấn ngang phè, như nàng đã
quen nghe những lần hân hạnh được ông ta đến viếng vào giờ bất thường…”
…
“Mình có làm gì phạm pháp
đâu. Lão ta chỉ có quyền kiểm soát ở trường thôi. Đây là thế giới mình. Nhà này
là của mình. Đời sống này là của mình. Không có ai có quyền xâm lấn hay sửa chữa,
can cớ gì đến lão ta đâu mà xía vô. Tôi ngủ trong phòng, bên lò sưởi, dưới bếp,
ở nhà xe, hay đâu mặc xác tôi chứ, miễn là tôi không ngủ gục trong khi giảng
bài, không ngủ quên trong lớp khi tan học. Trong bản nội qui nhà trường không
thấy buộc giáo sư phải ngủ trên giường, cấm giáo sư nằm giữa sàn nhà, trước lò
sưởi. Cũng như pháp luật không cấm đoán đàn bà sống độc thân. Vậy thì tôi muốn
sống như thế đó. Và tôi có quyền sống như thế. Có hại gì ai không? Có làm mất
mát gì của ông đâu?”.
NTH cũng có những tư tưởng đả
phá nền giáo dục của VNCH trong thập niên 60s. Tác giả dùng những cụm từ rất sắc
sảo: « Giảng giải lý thuyết,
áp dụng những nguyên tắc cổ điển sáo hủ. Như người ta lơ đễnh rải lá dâu cho tằm
ăn trong khi tằm đã biến hình thành con nhộng trong cái kén. Học trò cứ ngồi
đó, thờ ơ chép bài, lơ đãng nghe giảng, tìm cách này hay cách khác, tiết kiệm
những suy tư về học tập, để chín phần mười tâm trí phiêu du theo những thắc mắc
riêng tư. Thầy giáo cứ viết, cứ nói, cứ lập đi lập lại như cái máy hát bị hỏng
một điệp khúc nhàm chán về những qui tắc mà chính mình cũng không muốn áp dụng
trong đời sống. Những vấn đề đạo đức, những bài học công dân, giáo sư thao thao
bất tuyệt, khoác cho mình vẻ đạo mạo của người truyền giáo mà không bao giờ nhận
định rằng trong đám người nghe còn phải có cả chính mình. Sự giả dối quen thuộc
đến nỗi không ai chú ý đến hiện diện trơ tráo của nó, và vô tình, người mang mặt
nạ với kẻ khác và với chính mình nữa ».
Chương 4 bắt đầu bằng không
khí Noel trên Đà Lạt. Đó là thời điểm ở Sài Gòn người ta vui chơi tưng bừng, những
người trẻ tuổi vui cười say đắm bên nhau. Còn ở Đà Lạt, cô giáo Trâm tự hỏi: “Bây
giờ… em làm gì? Em vui với ai đó Minh?”.
…
“Trâm bàng hoàng thức giấc
trong vùng ánh sáng vàng hoe từ khung cửa sổ hắt vào lò sưởi. Nghe tiếng chìa
khóa lách cách dưới lầu, nàng đoán là Minh về. Rã rời, mệt mỏi, đầu nặng như một
khối đá. Trâm cố tỉnh trí nhìn quanh. Mọi vật hình như thay đổi hẳn sau giấc ngủ
dài bằn bặt. Gió sớm lay cánh màn cửa bay phấp phới như những trướng liễn sắp
hàng đi theo sau một đám tang yên lặng…
…
-- Cô.
Trâm yên lặng nhìn lên, không
đổi dáng điệu. Minh đứng khoanh tay ở cửa phòng, tựa lưng vào vách. Mái tóc rũ
che vầng trán da trắng xanh, hai con mắt ngái ngủ lờ đờ, Minh như sắp ngã xuống
một khoảng trống không nào đó. Trâm nhìn cái cravate lỏng lẻo ở cổ áo Minh, vụt
nhớ lại những phút giây đơn độc ghê gớm mình chịu đựng đêm qua, nhớ đến vẻ hí hửng
của Minh lúc ra đi, nhớ đến nỗi bứt rứt vô lý và đáng thương của mình.
-- Suốt đêm, cô không ngủ
sao?
Chương 5 là những màn ‘ghen
tuông’ của Minh đối với thày Lưu (mà Trâm gọi là… Lưu manh): “Mặt Lưu cũng có vẻ lì lợm và đểu
cáng thế nào, nhưng hắn đã có lần nhe răng tuyên bố với Trâm, tôi mất một cái
răng mà không muốn trồng lại, để sún thế này mỗi khi cười trông có vẻ đểu đểu
hay hay phải không chị?.
…
“Khi Lưu về rồi, chị người
làm dọn cơm lên, Trâm cho gọi, Minh không lên ăn. Và bỏ luôn cả buổi học chiều.
Hai ba ngày liên tiếp, cậu bé cứ lầm lì với Trâm ra mặt, hỏi gì cũng nói nhát gừng
và chỉ ra khỏi phòng mỗi khi không có mặt Trâm. Cho nên Trâm định không tiếp
Lưu nữa. Không phải vì nàng ‘sợ’ ai, nhưng để tránh hiểu lầm của thiên hạ và những
cơn lẫy hờn vô lý của Minh. Nếu như nàng thật yêu Lưu thì không có gì đáng nói.
Nhưng nàng không ‘như thế’ với Lưu, tuy rằng nàng có vẻ thân Lưu, coi Lưu như một
người bạn không hơn không kém.
…
“Trâm nhìn Minh một thoáng
nhanh rồi cúi xuống:
-- Minh, em có khinh tôi
không…
-- Cô hối hận, phải không…
-- Có gì mà hối hận, chỉ cảm
thấy bứt rứt khó chịu. Vì em có thể hiểu lầm và khinh tôi.
-- Tại sao cô lại hỏi em như
thế.
-- Không biết nữa. Đáng lẽ
tôi không hỏi, không nói gì với em cả. Nhưng tôi quí tình cảm của tôi, mỗi kỷ
niệm, mỗi rung động có một vẻ đẹp. Tôi nuôi vẻ đẹp đó trong hồn và sợ người
khác phá vỡ, nhưng em nói thật đi, như em nói với chính mình, em có khinh tôi
không?...
Hai cái nhìn tê dại gặp nhau.
Minh cười thật nhẹ và Trâm cảm thấy niềm vui như một sự ban ơn thầm lặng trôi
vào lòng mình:
-- Ở trường cô là giáo sư,
nhưng về nhà cô vẫn là đàn bà, chỉ là đàn bà…
Đó là những gì diễn ra trong
đêm giao thừa dương lịch, sau khi Minh đã dọn về ở trọ tại nhà cô giáo. Trong
giây phút đó, Trâm có màn độc thoại rất ư là ‘tiểu thuyết’: “Chỉ một nghiêng mình, chỉ một vẫy
tay là tất cả sẽ xoay chiều, sẽ thay đổi hết. Đời em. Đời tôi. Và nhiều cuộc đời
liên hệ nữa. Dừng lại nghe em. Vì hồn tôi là những nan xe gãy đổ. Vì lòng em là
con ngựa chứng lạc loài”.
Và cô giáo nói những lời
thành thật nhất với anh học trò: “Dù
sao đi nữa, em cũng phải khinh tôi. Tôi muốn được khinh thành thực hơn là bị
tôn quí giả dối. Tôi cũng biết, tôi chỉ là đàn bà, chỉ là con người. Nhưng tôi
muốn em khinh tôi. Thà như vậy, dễ sống hơn. Được người khác tôn quí, cứ phải
giữ gìn, phải lo sống cho xứng đáng… tôi mệt mỏi lười biếng lắm rồi. Không muốn
phấn đấu nữa, trên mọi bình diện, nhất là cho một tiếng tốt hão huyền. Không,
tôi không muốn tốt để được khen. Chỉ thích xấu để bị chê. Như vậy tôi sẽ không
về phe với đời. Tôi đối lập. Tôi thuộc về phe phản kháng với tất cả, tất cả. Có
lúc em cũng cảm thấy thích như thế nhất là sau một hận thù, công phẫn, thất vọng
nào đó, phải không Minh?”.
NTH viết, “liều mới thực là yêu”, nhưng tác giả lại tự đính chính “yêu
không phải là liều”. Trong một lần từ Sài Gòn về Đà Lạt thăm em, chị Trúc
đã đã ‘đánh hơi’ được sự thay đổi trong cuộc đời cô giáo Trâm, nột cuộc cách mạng
hay là một cuộc nổi loạn. Thế cho nên, không bao giờ Trúc tìm thấy lại ở em, vẻ
hồn nhiên thơ dại và bón dáng hiền dịu của người học trò Đồng Khánh mười năm về
trước. Áo tím, nón bài thơ, mái tóc dài óng ả. Tôn Nữ Quỳnh Trâm ngày xưa như
thế đó. Bây giờ thì hết rồi, mất rồi:
-- Trâm này, thằng Minh nó có
vẻ… sành sõi quá.
Trâm xoa ngón tay lên thành
ly:
-- Em đoán lầm về nó. Cũng
không biết tính sao.
-- Lôi thôi quá…
-- Chị để em liệu lấy, đừng
nói gì hết.
…
“Có tiếng Minh trở mình rất
nhẹ. Rồi Trâm có cảm giác rờn rợn như Minh vừa ngẩng đầu lên và thân hình người
con trai như một loài rắn đêm, rướn lên trong bóng tối. Trâm nhẹ nhàng xoay
mình, nhìn lại phía Trúc, se sẻ kéo cái mền đắp thêm lên mình chị. Lắng nghe tiếng
thở đều đều của chị trong giấc ngủ bình yên, tự nhiên Trâm thấy ngượng về cử chỉ
âu yếm của mình. Rồi nàng cũng không hiểu thật ra mình muốn tỏ vẻ săn sóc chị
hay dò xem Trúc đã ngủ chưa. Nghĩ thế, Trâm vừa bứt rứt khó chịu vừa lâng lâng
thú vị với mặc cảm tội lỗi của một tên trộm rình chủ nhà ngủ say để đánh cắp
báu vật.
…
“Trong mê sảng, Trâm có cảm
giác như một đôi môi nóng bỏng nào chồm lên mái tóc, mình xõa dài sông đêm trên
mặt gối. Bàn tay Trâm chới với níu lấy tóc mình. Nhưng bàn tay Minh như vòi mực
biển khổng lồ đã quấn chặt lấy tay nàng, dìm xuống, cho khuôn mặt Minh phủ lên
trên như một phiến san hô nồng ấm. Những ngón tay Trâm bất động thiếp mê một
phút trong tay Minh rồi trở mình xoay nhẹ, xoay nhẹ như tiếng trục đổi chiều của
1 bánh xe hốt hoảng đuổi theo cái bóng lờ mờ thoắt hiện lên một ở ngã ba đời
huyền hoặc…
Người đọc thực sự không biết
chuyện gì đã xảy ra trong đêm chị Trúc lên Đà Lạt thăm em nhưng kỳ thực là để
dò xét tình hình của Trâm. Sang đến Chương 6, cũng là sáng hôm sau đêm ‘nổi loạn’
của Trâm là một buổi cắm trại của lũ học trò từ Trạm Hành, Trại Mát, Cầu Đất và
một vài thôn ấp khuất tịch xa xôi của Đà Lạt.
Thực ra, Trâm chán chuyện đi
cắm trại với học trò, muốn ở nhà, không phải vì chị Trúc, mà vì Minh. Không còn
tự dối mình mãi được, Trâm phải nhận rằng cơn bệnh tình cảm đã đến hồi trầm trọng
và sự hiện diện của Minh biến thành một thói quen, một cần thiết hiển nhiên
không thể thiếu vắng. Nhưng Trâm cũng thẳng thắn hiểu rằng mình không bao giờ
có thể vượt qua biên giới để chiếm đoạt vũ trụ ngăn cấm bên kia.
Nếu cả hai người - nàng và
Minh - đều đồng ý nhận chịu khoảng cách đó, nếu cuộc đời cứ thế trôi đi, nếu
tâm hồn vẫn mãi là một cánh đồng hoa thơm ngát, Trâm nghĩ mình có thể sống mãi
mãi như thế, và nguồn tình êm ái mơ hồ đó sẽ không bao giờ cạn vơi. Không cần
gì cả, ngoài sự hiện diện của một người. Có một người để âu yếm gọi tên. Một bước
chân quen để chờ đợi mỗi chiều về. Một khuôn mặt làm gương soi cho cảm xúc mình
phản chiếu. Thế thôi. Không giao nối. Không gởi trao, không được gì để chẳng
bao giờ phải mất.
Minh hiện đến trong đời Trâm
như một biểu tượng hoàn toàn cho những bước chân vu vơ tìm kiếm đó. Nàng đã gặp
ở Minh không những một phần tuổi nhỏ của mình đã tàn phá theo năm tháng, mà còn
một tâm trạng mênh mang khắc khoải giữa cuộc đời.
Minh đã âm thầm đi theo Trâm
trong buổi cắm trại với đám học trò đệ nhất cấp. Theo tôi, dưới đây là một
trong những đoạn văn thơ mộng nhất trong VTHT với ‘kỹ thuật cường điệu của tiểu thuyết’:
“…Rồi tiếng kêu của nàng bật
lên, ứ nghẹn:
-- Trời ơi, Minh!
Từng chòm hoa nắng lả tả rơi
xuống dòng suối biếc lấp lánh dưới kia. Trâm tưởng mình lao đao ngã xuống chìm
lấp trong đáy nước. Minh gỡ một cọng cỏ khô vướng trên giày, ném xuống dòng suối
trôi lặng lờ trong nắng, nhẹ nhàng hỏi Trâm:
-- Em ngồi đây lâu lắm, cô
không biết sao?
Miệng Trâm cười bát ngát niềm
vui:
-- Không, nhưng biết cũng
không tin.
-- Sao vậy cô?
-- Làm sao em biết tôi đến
thung lũng nầy?
-- Ban sáng em nhìn thấy đoàn
quân của cô đi về hướng này. Trưa em cứ theo dấu mà tìm.
-- Dấu gì?
-- Không có dấu gì cả. Nhưng
khi đi về phía này, có cảm tưởng là đi trên con đường cô đã đi qua.
-- Mỗi người có một lối riêng
chứ. Vì mỗi người nghe theo một nhịp điệu để dấn thân tiến tới.
-- Cô nói gì vậy?
-- Không.
-- Phải rồi, em có nghe,
nhưng không phải nhịp điệu mà tiếng gọi…
-- Tiếng gọi nào?
-- Tiếng gọi từ thung lũng
này. Cô có gọi em không? Em nghe như cô gọi em văng vẳng và em đi tìm…
Và cuộc picnic của cô giáo
Trâm với đám học trò kết thúc: “Trâm
cúi xuống lòng mình thầm như nhủ: ừ, mình bị thương. Đời mình thêm một vết
thương. Nhưng vô lý, vô lý quá…”.
Chương 8 tiếp nối cuộc gặp gỡ Tuấn, phi công Air Vietnam, ở cuối
Chương 7. Tuấn là bạn của anh trai Trâm, quen Trâm từ ngày cô còn đang ‘ăn
chơi vung vít’ ở Sài Gòn. Khi gặp lại Tuấn trên chuyến bay Nha
Trang-Đà Lạt sau khi về nhà nghỉ Tết, Trâm giữ một khoảng lặng với Tuấn cũng tựa
như Trâm giữ một khoảng cách giữa Sài Gòn của quá khứ và Đà Lạt của hiện tại.
Dù từ chối không cho Tuấn biết địa chỉ nhưng Tuấn vẫn tìm đến Trâm qua danh
sách hàng khách Air Vietnam. Câu chuyện trong cuộc tái ngộ được kết thúc bằng
đoạn văn:
“Chiều xuống thấp trên những đồi cỏ già. Hơi lạnh vì gió ấm ngất ngây
tỏa xuống. Tự nhiên Trâm nhìn Tuấn và nhìn quanh. Im lặng đè nén như báo trước
một tàn phá bão táp nào. Mắt người đàn ông nhìn nàng mỗi lúc một chăm chú hơn,
và giọng nói chàng dịu xuống như sắp sửa chỉ còn là hơi thở.
-- Mấy giờ máy bay về Sàigòn?
-- Anh không cần máy bay nữa. Trâm đuổi anh thật à?
-- Chiều rồi, anh về thôi. Anh làm Trâm sợ. Trâm hét lên cho xem.
-- Hét đi, chỉ có anh nghe thôi mà.
-- Minh ơi!
-- Ai vậy?
-- Một người đi vắng rồi.
-- Thảo nào Trâm đuổi anh.
-- Không phải
lý do ấy. Vả lại không đuổi, chim trời cũng lại bay”.
Trâm đã gọi tên Minh với một
khuôn mặt buồn ngơ ngác. Nàng cảm thấy bơ vơ lạc lõng trong một nỗi buồn chán
mênh mông vô cớ. Trâm không biết mình muốn gì. Cuộc đời như dài ra trước mặt. Dĩ
vãng lại vây kín sau lưng. Đi đến đâu? Trâm không biết. Chờ đợi, đòi hỏi gì?
Trâm không biết. Chỉ biết sự hiện diện của một người đàn ông tên Tuấn làm nàng
mệt mỏi, khó chịu vào lúc này. Những bước chân đàn ông lạc vào thềm đời người
đàn bà rồi cũng chỉ là những đợt sóng, thoáng qua một lần rồi mất hút.
Trâm nhận ra mình thích cô
đơn vì chỉ ‘yêu mình’, yêu chính bản thân mình. Tình yêu vị kỷ
đó là một điều kỳ lạ không thể hiểu được. Chỉ vì vậy mà từ trước đến giờ Trâm
chưa đích thực yêu ai. Trâm từ chối hết, Trâm đùa cợt và lãnh đạm với tất cả những
cơ hội có thể làm cho nàng không là nàng nữa.
NTH đã để cho Trâm độc thoại
trong những ngày Minh về nhà nghỉ Tết: “…Nhưng sao bây giờ với Minh. Minh
như một hiện hữu thiết yếu trong đời sống. Tôi thích gì ở Minh. Người con trai
đó không có gì cả. Không là gì cả. Một khuôn mặt. Một giọng nói. Một hiện diện
thản nhiên và lạc lõng, không thay đổi, không thêm bớt, không dự phần gì vào những
dự định đời tôi. Thế mà tôi không thể thiếu vắng. Lúc này tôi cảm thấy thế từ
những ngày về nhà nghỉ Tết…”.
Tôi còn nhớ, năm đó Thành từ
Đà Lạt về Ban Mê Thuột ăn Tết. Trong một lần đi chơi, chúng tôi ghé qua tiệm
sách Cao Trí trên đường Tôn Thất Thuyết (?). Chủ hiệu sách là một người gốc Thượng,
có vợ người Việt, một cuộc hôn nhân khá đặc biệt và cũng là một trường hợp kinh
doanh thành công duy nhất của người thiểu số tại một tỉnh lẻ.
Vào đến Cao Trí, Thành mới
ngỏ lời nhờ tôi tìm hộ trong đống bản nhạc để mua tất cả những bản nào có tựa đề…
Hoàng. Một thoáng ngạc nhiên vì Thành vốn không phải là dân ca hát hay chơi nhạc…
nhưng sau đó tôi hiểu ngay, chỉ vì Nguyễn Thị Hoàng. Như vậy, nhà văn và đồng
thời là cô giáo đã chiếm một chỗ đứng nhất định trong con người của Thành, vốn
là một kẻ… bất cần đời.
Trong lần tái ngộ sau kỳ nghỉ Tết, Minh và Trâm có những lời gay gắt với
nhau. Minh thì ghen với anh chàng phi công ở Sài Gòn còn Trâm thì bực với cô bạn
cũ của Minh ở Ban Mê Thuột. Có điều, tôi biết chắc chắn chẳng có cô nào ở Ban
Mê Thuột để Thành vui chơi theo như lời Minh nói. NTH đã để cô giáo Trâm thốt
lên những lời trách cứ mà chỉ những người đang yêu nhau mới có thể ‘thanh
minh thanh nga’:
“…Thôi, thôi đừng nói càn, hắn là bạn anh tôi, hắn tìm thăm, tôi nói
chuyện với hắn, rồi hắn bỏ đi, thế là quan trọng? Còn Minh, Minh làm gì, trong
lúc tôi ngồi bãi biển, tôi nghĩ đến những điều thật đẹp, thật hay, thật trong sạch,
thật dễ thương về Minh, về tôi, về chúng mình, thì Minh lại… với một người con
gái. Không sao, ừ phải, cậu quen quá những trò đùa ấy, những thói chơi ấy, nên
có thấy sao đâu”.
…
“Vòng tay Minh là vòng tay học trò. Vòng tay khoác kín bao nhiêu hy vọng
tương lai, bao hoài bão của một đời mê say vươn lên sự sống. Vòng tay đó không
có quyền sớm mệt mỏi buông xuôi. Nếu coi Minh như một người đàn ông, tôi cũng
đã điên cuồng, đã chán mứa, đã cùng cực hoài nghi. Cuộc đời tàn phá tôi. Còn
Minh, Minh đã sống những gì, đã làm gì đến nỗi phái chán chường bê tha đến thế…
Chuyện tình của họ đến Chương 7 thì cả trường Trần Hưng Đạo đều biết, gần
như một nửa Đà Lạt cũng biết. Còn Sài Gòn, Nha Trang cũng nghe phong phanh và
lan tới tận Ban Mê Thuột ở đó bố mẹ và bạn bè Minh đều nghe những tin đồn. Thậm
chí ngay trên cửa nhà Trâm tại Đà Lạt có những dòng chữ viết bậy về Trâm và
Minh. Trong giây phút hoảng loạn Minh đã đề nghị mình phải ra đi nhưng Trâm có
những suy nghĩ của mình:
“Nếu vì dư luận, vì ngại cho tôi mà bỏ đi, tôi sẽ ngăn Minh lại. Nhưng
nếu vì tự ý Minh muốn đi vì một lẽ khác, cứ đi đi, tôi đưa Minh về đời sống cũ,
còn tôi, có lẽ cũng thế thôi. Tôi đã nghĩ đến điều đó rồi từ bao giờ. Bao giờ
tin yêu và hy vọng bỏ đi, tôi lại lao mình vào vùng trời bão tố xưa kia phung
phá và quên sống. Sẽ không còn cảm thấy gì nữa cả. Rồi tôi lại trôi trong đời sống
đó, như một cành củi mục vật vờ theo sóng nước thiên tai định mệnh. Ừ, nếu Minh
muốn đi, cứ đi đi, không nói gì với tôi. Mình không cần giải thích gì với nhau cả.
Có gì đâu mà giải thích kia chứ. Tôi lầm lẫn. Tôi uống và say với một cái cốc
không, tưởng đầy tràn rượu trong đó. Phải , Minh cũng nên đi, thay đổi không
khí, có lẽ Minh cũng lầm lẫn như vào một chợ phiên không tìm thấy trò giải trí…
Qua Chương 8, Minh quyết định dọn đi sau một buổi chiều say sưa tại Café
Tùng, không biết anh chàng đã uống bao nhiêu ly Johnny Walker và cả Ballantine.
Đối thoại này xuất hiện trong một lần Minh trở lại đến thăm Trâm kể từ lúc chia
tay mới có một ngày:
“-- Đêm rồi, nhớ cô quá.
Giọng nàng lạc đi:
-- Tôi cũng thế. Tưởng điên lên mất. Bỗng dưng Minh bỏ đi.
-- Đến thế này, cô còn nói thế được sao? Cô không chịu hiểu sao phải đi,
vì sao phải xa nhau.
-- Từ hôm qua, tôi bỗng thấy mình hoàn toàn tự do, không phải kịch nữa.
Và vai trò cũ mất rồi. Nhưng vì thế tôi mất Minh, tôi đang mất Minh đây. Tôi
không chịu được. Thèm đập phá. Đập phá hết cả đời mình còn lại...
Tình cờ gặp nhau trên phố, như không hề có chuyện gì xảy ra, họ đến Ngọc
Lan xem phim Les chemins de la haute ville. Trâm chỉ còn nhớ khuôn
mặt khoắc khoải, tuyệt vọng của Simone Signoret từ khung cửa lầu cao nghiêng xuống.
Khuôn mặt Minh chập chờn hiện lên rất gần và rất xa trong bóng tối của rạp hát.
Đầu Minh nghiêng xuống vai Trâm. Cánh tay nàng như một con trăn lớn quấn chặt
trên lưng ghế Minh cho tiếng nói chỉ còn là hơi thở:
“-- Em biết từ ngày em đi, tôi như thế nào không. Hôm thấy tôi
trên trường sao Minh quay mặt đi?
-- Bọn họ săn và truy kinh khủng, em phải tránh cô.
-- Chỉ vì thế thôi phải không.
Minh cúi đầu vào vai nàng:
-- Ừ. Cô
không tin gì em.
Trâm cười
trong màu tối mê hoặc của không gian đồng lõa.
-- Nếu tin
Minh, tôi sung sướng. Vì vậy tôi vẫn cố tin, cố tin cho đến ngày… Thôi không
thèm nói đến ngày mai.
Tan phim, Trâm rủ Minh đi
ăn tại một nhà hàng, một thái độ ‘coi như không có thiên hạ’ và ‘Đà
Lạt là của riêng mình’. Chân dung của Minh trong cuộc sống hàng ngày ngoài
xã hội được NTH phác họa một cách tỉ mỉ: “…Dáng ngồi lạc lõng trong khung cảnh
một nhà hàng ăn đó làm Trâm nhận ra vẻ trẻ con giấu kín của Minh thường che lấp
dưới những cử chỉ thành thạo của kẻ sỏi đời. Trâm kéo ghế ngồi xuống và chăm
chú kín đáo theo dõi Minh. Những lúc ở nhà, lẽ ra phải trẻ con, hồn nhiên, Minh
lại xử sự như người lớn, đủ ‘khả năng’ điều khiển Trâm, đến nỗi biên cương tuổi
tác giữa hai người gần như bị xóa bỏ hẳn. Lẽ ra Minh phải kéo ghế cho nàng ngồi
xuống. Hỏi nàng uống gì. Ăn gì. Lau cái muỗng. Đẩy cái cốc lại gần trước mặt
nàng hơn, như thường lệ những người đàn ông ‘phục dịch’ cho đàn bà, không phải
vợ, trong nhà hàng. Minh không là đàn ông như vậy, nhưng Trâm chờ đợi những cử
chỉ săn sóc nhỏ nhặt đó, để quên đi trong một lúc vai trò thực sự của mình,
quên thế chủ động làm cho nàng chợt mệt mỏi, chán ngán và bực tức vô lý…”.
Khung cảnh nhà hàng làm
Trâm nhớ đến những bữa ăn thân mật, chỉ có hai người tại nơi tổ ấm của họ. Bút
pháp của NTH mô tả từng chi tiết một bữa ăn đêm của hai người: “Trâm lễ
mễ bưng dĩa lên lầu. Gì thế cô. Thức giấc tự nhiên thấy đói quá lấy xúp ăn. Minh
cầm hộ một tay nào. Rồi hai người lúi húi hâm thức ăn ở réchaud điện cạnh lò sưởi.
Dưới ánh nến hồng lay lắt, hai khuôn mặt chỉ cách nhau dĩa xúp còn bốc hơi thơm
ngát. Làm biếng đến nỗi mỗi lần lấy thêm muỗng dĩa hai người phải ‘oẳnh tù tì’
xem ai bị xuống bếp. Nhiều lúc lại làm biếng kinh khủng hơn, cóc cần nhúc
nhích, họ ăn chung với nhau một muỗng một dĩa…
Chương 9 là bức thư Minh viết
cho Trâm đêm hôm trước khi nàng rời Đà Lạt. Trâm đọc thư trên chuyến xe chở
khách ra phi trường Liên Khương: “Mai cô đi rồi để lại em những lo lắng
không nguôi, đầu óc trống rỗng, ý nghĩ khô khan, chữ nghĩa thiếu hụt. Biết lấy
gì viết để cô hiểu và tin em yêu cô, yêu cuồng dại, yêu tha thiết, yêu với niềm
lo sợ mất cô yêu bất chấp cả mấy thằng giáo sư trù mạt, yêu say mê, yêu liều
lĩnh đến cùng. Mai cô đi rồi, để lại em với bao điều hối hận dày vò, tự trách
đã si mê cuồng dại, đặt tình yêu không đúng chỗ, trót đã trèo cao. Vì dù sao, dù
sao cô còn trẻ đẹp quí phái biết bao người âm thầm hay bộc lộ tình cảm đối với
cô. Tỉ phú, giáo sư đại học, phi công, bạn đồng nghiệp hiện tại và còn nhiều,
nhiều lắm… Còn em, một học trò, mà tàn ác nhất là học trò trường cô dạy, hai
bàn tay trắng không biết đếm tiền, chỉ biết đánh lộn, đánh vỡ hết những gì làm
mình thất vọng khổ đau, với vòng tay học trò không bao giờ ôm giữ nổi đời cô…”.
Trâm như muốn gục xuống
trên ghế. Những giọt lệ âm thầm đang chảy ngược vào tim. Trâm ước gì mình
có thể chạy về Đà Lạt ngay lúc đó để ôm Minh trong vòng tay, bất chấp mọi điều
có thể xảy ra. Trâm chỉ muốn ‘…Minh hiểu lòng một người đàn bà cô đơn,
tình yêu còn mãnh liệt gấp trăm nghìn lần tình yêu của một người con trai vừa mới
lớn’.
Đã có lần Trâm hỏi Minh bằng
một câu trống không: Bắt đầu từ bao giờ? Minh cười: Từ
đêm giao thừa… Những câu đối thoại trống không như đồng lõa với một tình
yêu ngang trái. Trâm cũng tự hỏi mình từ bao giờ, quả thật nàng cũng không biết.
Tình yêu thường đến và đi trong đời người như một chiếc bóng, xuất hiện dưới
nhiều khuôn mặt khác nhau nhưng vẫn chỉ là những cái bóng, không hơn không kém.
Những mảnh ký ức rời rạc không thể là những bằng chứng xác thực khi người ta
không còn tin tưởng ở tình yêu.
Khi phi cơ đáp xuống phi
trường Nha Trang, Trâm bỗng tự hỏi mình về đây làm gì. Thế mà hôm Minh hỏi vì
sao lại phải bỏ Đà Lạt trong mấy hôm, Trâm lại nói, « mỗi lần cảm thấy
tuyệt vọng, tôi lại bỏ đi »… Trâm bỗng thấy chính Minh gợi nên niềm
tuyệt vọng, ngao ngán và vô lý đó : « em là người duy nhất trong
suốt đời tôi, cho tôi niềm đau đớn kỳ diệu đó. Em không hiểu. Không ai hiểu. Và
suốt đời tôi độc thoại dưới một vùng trời tâm thức lạnh lẽo này ».
Sau ba ngày ở Nha Trang tựa
như một tháng lưu đày, Trâm trở về Đà Lạt với Minh trong tâm trạng của một “con
thú dữ bị thương kiệt sức trở mình phủ phục trước người săn đuổi”. Chỉ
mới ba ngày xa nhau mà Trâm thấy Minh hoàn toàn thay đổi khi gặp lại nhau tại
phi trường Liên Khương: “…Từ đứa bé đến con trai. Từ con trai đến đàn
ông. Già dặn. Đỏm dáng. Và thành thạo trong cách hiên diện trước mặt đàn bà”
…
-- Chân Minh
làm sao thế?
Trâm trở lên
nhìn vệt bẩn ở quần Minh gần đầu gối.
-- Hình như
chảy máu. Không sao.
-- Đánh nhau
nữa rồi phải không?
-- Ngã xe,
không tin hỏi thằng Hải xem.
-- Xức thuốc
cho Minh nhé?
…
“Trâm cúi xuống vết
thương, vừa xoa nhẹ miếng bông nhúng thuốc lên đùi Minh vừa nghiêng đầu thổi
nhè nhẹ. Cử chỉ dịu dàng và lòng thương âu yếm vô tư bỗng đuổi xa trong Trâm những
dày vò mệt mỏi, những xao xuyến khát khao. Chỉ còn lại tình cảm dạt dào bao
dung của người mẹ đón tiếp đứa con trai phung phá trở về. Và người chị ân cần
săn sóc đứa em hoang đàng ngổ ngáo. Trâm buông miếng bông đẫm thuốc xuống, xoa
nhẹ ngón tay buồn quanh vết thương và nhìn lên. Hai mắt Minh lúc đó như hai vệt
sáng lờ mờ vừa cuồng dại vừa não nùng của tia nắng quái chiều hôm…”
Sinh nhật Minh được Trâm tổ
chức tại nhà, thêm sự hiện diện của Hải, một người bạn và cũng là chủ nhân chỗ
trọ mới khi Minh ra khỏi nhà Trâm. Trong hơi men chếnh choáng, Trâm có một cái
nhìn rất rõ ràng về Minh: “Nó không đẹp. Không dễ thương. Không một đặc
điểm nào hết. Nhưng một cái-gì-đó, cái-gì tôi không bao giờ níu giữ được dù đuổi
bắt đến hết đời, cái-gì-đó mê hoặc tôi, đảo lộn tôi, biến cải tôi hoàn toàn. Hoàn
toàn về ý nghĩ, suy tư, đời sống. Với nó, tôi vừa tìm gặp vừa mất tăm tôi. Nhưng
điều khó hiểu và vô lý đó có thực. Có thực như tôi ngồi khoanh tay tượng đá đêm
nay nhìn xuống nó…”.
Chuyện tình đang đi vào đoạn
kết không lối thoát:
-- Em quyết định
rồi. Đến gặp cô lần cuối chiều nay. Mai đi.
-- Minh.
-- Đi xa hẳn
không ai biết đến nữa, cả cô, bè bạn, gia đình.
Trâm giật mớ
tóc trong tay Minh:
-- À, ra thế.
Sao không nói ngay còn quanh quẩn. Minh tưởng tôi đi tìm đấy hẳn. Việc gì phải
đi đâu xa. Ở đâu thì ở, nếu Minh đã muốn vậy thì mình coi nhau là người lạ, khó
gì. Muốn tránh tôi, việc gì phải trốn cả gia đình, bạn bè. Thật tiếc đã làm
Minh vướng víu bao lâu nay.
-- Ai vướng
víu ai? Chính em làm mất tự do của cô, mất liên lạc của cô với thiên hạ, những
người khác.
Trâm hét lên:
-- Thiên hạ,
kẻ khác nào? Thôi đi, đừng gán ghép liều mạng như thế. Đối với tôi, chúng nó
không bằng một sợi tóc của Minh. Trong đời sống này tôi như con ma chập chờn giữa
những xác chết. Minh đi đi là phải.
Khuôn mặt của Trâm nhợt nhạt
rồi nàng mím môi:
-- Nếu vậy, sáng
mai tôi cũng nghỉ dạy. Bỏ trường, bỏ học trò, bỏ nghề nghiệp, bỏ hết, bỏ hết. Tôi
cũng cần đi, cần phải đi, đi theo con đường khác hẳn của Minh, thế là xong, quyết
định cả rồi. Minh đừng tưởng tôi mê đời sống này đến nỗi trơ lì gan góc ở lại với
khoảng không trống lốc. Mình vô trách nhiệm với nhau. Tôi đi vì tôi muốn đi. Minh
đi vì Minh muốn đi. Vậy thôi. Giờ thì Minh có thể về, thu xếp cho xong…
Minh ra đi thật. Từ ngày
Minh đi, Trâm thích đứng sau khung cửa kính nhìn xuống con đường học trò. Trạng
thái đau đớn mơ hồ dần dần biến thành một cảm xúc nhẹ nhàng quen thuộc, và Trâm
im lìm nhận chịu như một vết thương êm ái.
“…Nàng ở lại,
đau xót ở lại, như con dã tràng loay hoay vô ích trên bãi cát tan hoang những lớp
sóng đời không ngừng tàn phá. Nàng sẽ nghĩ là Minh trưởng thành biến đổi, trong
suốt những ngày tháng qua, bằng trái tim và tâm hồn nàng. Để rồi con chim sẻ cất
tiếng hót ở một vòm trời xa lạ khác. Để rồi mỗi lần nàng thức giấc trong khoảng
trống đời mình, cất lời gọi kêu, không một tiếng gió lời chim nào đáp lại”.
Khi người phụ nữ còn trẻ đẹp,
họ có thể sống trong niềm kiêu hãnh vì được đàn ông quấn quýt xung quanh. Nhưng
đến lúc xế chiều, dung nhan tàn tạ, thì chỉ có tình thương thắm thiết và dịu
dàng mới giúp trái tim cằn cỗi gượng lại chút hơi tàn thoi thóp. Trâm ý thức được
một điều, đám đàn ông vây quanh mình chẳng khác gì diều quạ vỗ cánh xuống một
xác chết… chúng chỉ thèm rỉa thịt nhưng lại sợ phải tha theo xương!
Chương 10 có rất nhiều chuyện
xảy ra, dồn dập như để đi đến những nút thắt cuối cùng của câu chuyện tình
ngang trái. Một trong những biến cố quan trọng là cuộc gặp gỡ giữa ông Hân, ba
của Minh, và cô giáo Trâm. NTH viết:
“-- Nó
ở trong nhà hẳn là phiền cô nhiều chuyện lắm?
-- Thưa ông,
có gì là phiền. Chỉ sợ em ở với ông sung sướng đã quen, nay trọ nhà tôi cái gì
cũng khác, đâu có đầy đủ được cho bằng ở nhà.
-- Sướng mới
hư thân mất nết. Chúng tôi thật khổ theo nó nhiều quá rồi.
-- Ở với tôi,
Minh lo học hành, cũng ngoan lắm, có gì đâu thưa ông.
Tuy nhiên, màn đóng kịch của
Trâm phải nói là… quá dở vì: “…Ông Hân nhìn Trâm chăm chú và mỉm cười. Trâm
chợt lặng người như ông đang cười nhạt vào mặt mình, này cô kia không qua mắt
tôi nổi đâu đừng biện bác vô ích”. Tiếp theo đó là bữa ăn tối giữa 3
người rồi lại còn đi xem phim, chi tiết này tôi thấy NTH lồng ghép có vẻ không
được tự nhiên làm mất kịch tính của diễn biến. Để ba người chui vào rạp hát
trong một hoàn cảnh căng thẳng là điều không hợp lý, ngay cả Tây cũng không làm
như vậy, không nói gì đến Ta!
Trên đường vào nhà, Trâm và
Minh bước đi lần lũi trong bóng đên, “Hai bàn tay lạnh buốt tìm nhau. Một
hòn sỏi lăn nhẹ xuống bậc thềm đá. Dưới cỏ, một con vật không tên nào tìm đường
lẫn trốn, tiếng động nhỏ, buồn mà vang xa như một lời van xin yếu đuối tuyệt vọng.
Trâm nghiêng người bước hụt bậc thềm cuối. Cánh tay nàng chạm vào ngực áo len mềm
dịu ấm áp của người con trai. Nàng nhắm mắt, mặc cho Minh dẫn đường. Thôi thôi
tôi sống cho đời đã quá nhiều, đã quá lâu, giờ xin một phút cho tôi. Một phút
mong manh đem trải dài khắp thời gian mai sau cao rộng. Cho tôi sống một lần dù
phải chết một đời. Thôi tôi không còn quá khứ không còn tương lai không còn phải
trái tốt xấu tội phúc…”.
NTH dẫn người đọc đến một
phiên họp của hội đồng kỷ luật nhà trường xét xử một trường hợp học sinh ‘có vấn
đề’. Một số giáo sư (đa số là nam) cho rằng dù tên học trò đó có đủ điểm trung
bình hàng tháng nhưng nhà trường không thể chấp nhận một học sinh có hạnh kiểm
xấu. Một số khác lại cho rằng, theo nội qui thì hắn không hội đủ điều kiện để bị
đuổi học vì không đủ số cấm túc, số ngày nghỉ không phép. Lại có ý kiến cho rằng
đây là một trường hợp ngoại lệ, không thể hoàn toàn xử theo đúng nội qui mà nên
tìm cho nó một tội nào đó. NTH viết tiếp:
“Ông Hiệu trưởng
ghi vài chữ lên giấy rồi hỏi:
-- Như vậy
không thể đuổi hoặc thi lại tất cả các môn. Nhưng thằng đó tên gì?
Trâm nắm chặt
tay vào mép bàn. Giọng Trâm:
-- Nguyễn Duy
Minh.
-- Được, tôi
ghi tên nó đây, có thể xét lại sau.
Trâm cảm thấy nhiều cặp mắt
của các giáo sư lặng lẽ quay về nàng. Trâm hoàn toàn thản nhiên như giữa nàng
và cái tên của bị cáo không một liên lạc nào. Nàng nhìn rất lâu vào từng nét mặt
xung quanh, thầm đoán một chiến trận sẽ tiếp diễn ở thời gian và địa điểm khác,
không có nàng tham dự. Nàng nghĩ đến rất nhiều vấn đề rắc rối gay go sẽ xảy ra,
nhiều bàn cãi sôi nổi sẽ khuấy động bầu không khí bình lặng của đời sống Đà Lạt.
“Trâm bỗng cảm
thấy kiêu hãnh một cách rởm đời và ngu ngốc: trong khi mọi người đều khúm núm,
sợ sệt, chiều chuộng để bám chặt lấy mảnh vỏ đời như một loài sên giữ lấy thân
cây, thì nàng không cần gì cả, ngẩng đầu lên cao, khăng khăng bước theo một lối
riêng của mình và sẵn sàng rời tay khỏi sự sống đang nhìn mình gầm gừ, xua đuổi.
…
“Vòng đai kín đặc của dư
luận sẽ không gây một tác dụng nào trong đời sống nội tâm của tôi. Tôi đánh liều
cả đời mình vào một canh bạc lớn. Tôi biết là cuối cùng sẽ rỗng túi, đứng lên,
ra khỏi cuộc tranh chấp đó, thật dửng dưng và nhẹ nhàng. Tôi không cần, tôi đã
nói và đã sống không cần như thế. Mọi trường hợp kết án, ân xá hay giảm khinh của
những phiên tòa đời trở thành vô ích hoàn toàn đối với một tử tội đã âm thầm dự
định tự tử. Tôi muốn chết, không phải chán đời, nhưng vì tôi yêu đời vô cùng mà
cuộc đời đã phản bội không bao giờ như ý tôi”.
Minh đón Trâm sau phiên họp
ở trường. Một bữa ăn ‘thịnh soạn’ đã dọn sẵn trên bàn do chính tay Minh vào bếp.
Nhưng chỉ ăn được vài miếng, Trâm buông chén đũa ngồi lặng người một lúc lâu,
Minh ngơ ngác nhìn vào hai con mắt ngấn lệ của Trâm. Nàng nhìn lại Minh thật
lâu, mỉm cười, chớp nhẹ hàng mi và giọt nước mắt rụng xuống gò má thoáng hồng:
“-- Tự
nhiên tôi cảm thấy sung sướng vô cùng, cảm thấy… khó diễn tả được tình trạng
này, nhưng một đời người nhiều lắm cũng một đôi lúc được cảm thấy như thế. Đến
hôm nay tôi mới cảm thấy, mới nhận ra điều ấy. Thật muộn. Vì vậy mà tôi chợt thấy
lo sợ mông lung, như có một mất mát đổi thay nào sắp đổ ào tới. Và mình cũng
không còn đủ thì giờ để cảm thấy, nhờ nhau mà sung sướng nữa Minh à. Cũng không
còn trở lại những ngày qua được. Điều đó thật dĩ nhiên, nhưng phút này tôi thật
đang cảm thấy điều đó, như có thể chạm được bàn tay vô hình của số mệnh. Minh
ăn đi chứ, tự nhiên tôi nghẹn và no, và thế nào ấy, như bữa ăn này là bữa ăn cuối
cùng có em hoàn toàn…
…
Giọng Minh vẫn
hồn nhiên:
-- Sao thế, bữa
nào mình cũng ăn cơm với nhau mà.
-- Có thể vẫn
còn, nhưng không vui nữa, tôi linh cảm như thế.
Trâm kể lại chuyện họp hội
đồng kỷ luật, lập tức Minh phản ứng: “Trường làm như vậy, nếu học trò
căn cứ theo nội qui Bộ ấn định mà phản đối và khiếu nại, họ sẽ bị lật tẩy. Thế
nào cũng có đứa làm như thế. Nhiều chuyện vô lý đã xảy ra, bọn nó công phẫn lắm
rồi. Em thì không cần, cóc thèm học trường này nữa, sẽ rút học bạ xin thôi trước
khi họ tìm cách tống khứ. Bọn hèn!”
Tôi thấy bút pháp của
NTH đã trở nên ‘rối loạn’ ở Chương 11, chương cuối cùng của VTHT. Không
gian và thời gian hình như bị rối tung khi người đọc theo dõi đến đoạn chót. Chỗ
nào cũng thấy nói đến ‘ngày mai phải xa nhau’ nhưng hình như ‘ngày mai’
đó không khác gì cách quảng cáo của một tiệm ăn với tấm bảng ‘Ngày mai
ăn khỏi trả tiền’ khiến cho khách cứ dài cổ chờ một ngày mai không đến.
Chuyện tình đã lên đến ‘đỉnh
điểm’, hay xuống ‘đỉnh đáy’, nên tác giả bị lạc mất phương hướng thời gian và
không gian chăng? Chuyện Minh rời xa Trâm, nói dối là đi Blao, nhưng kỳ thật là
đi với diễn viên Bích Phương khi đoàn Anh Vũ lên diễn tại Đà Lạt cũng làm cho
người đọc bất ngờ về hành động của Minh đang yêu Trâm tha thiết.
-- Em xin lỗi cô,
xin lỗi cô…
-- Sao lại
xin lỗi tôi?
-- Như vậy là
em có lỗi với cô.
-- Tôi chỉ buồn
em đã nói dối. Còn chuyện em đi chơi không sao cả. Nhưng sao em lại nói dối tôi
thế Minh. Sao thế Minh?
-- Em sợ… sợ
mất cô.
Trâm thẩn thờ:
-- Em mất tôi
à. Tôi mất em chứ. Mất còn mà làm gì. Mai em đi rồi.
Mai tôi đi rồi.
Minh được mô tả là ‘trên
môi lúc nào cũng có một điếu thuốc’. Tuy nhiên, NTH đã để cho Minh lúc buồn
thì hút Bastos, lúc vui thì hút Salem rồi lại có lúc lại hút Winston…
Hóa ra tác giả muốn xây dựng một Minh ‘nghiện thuốc’ qua từng trạng thái tâm hồn.
Đây cũng là một điểm yếu của nhà văn nữ NTH. Khi người đàn ông nghiện thuốc, họ
rất trung thành với loại thuốc đang hút chứ không đổi gout soành soạch.
“Đâu đó phảng phất mùi khói
thuốc. Nàng nhìn lên môi Minh tìm ánh lửa cháy đầu điếu bastos. Nhưng Minh
không hút, không xoay trở, không tỏ một vẻ gì nôn nao hay vội vàng, bực tức hay
khó chịu như thường lệ. Cả khuôn mặt Minh tắm đẫm màu hồng diễm ảo của ánh sáng
từ chao đèn tỏa xuống.
Bỗng VTHT đột ngọt chuyển sang
không gian mới khiến người đọc đi từ ngỡ ngàng này đến ngỡ ngàng khác. Minh đã
bỏ Đà Lạt và về Sài Gòn sống trong tuyệt vọng, ám ảnh với Bích Phương: “Vì
sao mình sống thế từ một tháng nay về Sài Gòn mất hút tin Trâm, từ khi cơn ám ảnh
về Trâm trở nên một đam mê tuyệt vọng không thể nào khuây lãng, lẩn trốn và tìm
quên chỉ thêm rõ nét ảnh hình xa cách. Khắp những miền phung phá ban đêm, phòng
trà, quán rượu, vũ trường, đến đâu rồi Minh cũng nhìn thấy lãng đãng yêu ma
khuôn mặt đó. Vầng tóc đó. Ngôi nhà hoang lạnh đó.
…
“Mười giờ, cả bọn kéo đến vũ
trường Tự Do. Nhảy mấy bản twist, mồ hôi ra khắp người, chân tay lạnh giá, Minh
trở về chỗ ngồi trong ghế tối nhìn ra sàn nhảy. Phương quay cuồng với Khang ở
đó. Rồi với người khác. Với những người khác. Cơn chán ngán nghẹn ngào dâng
lên, Minh châm thuốc thở khói vào âm u của nỗi buồn đêm, và nhớ lại. Thế giới rộn
ràng nhỏ bé của Sài Gòn thu hút rất mau những ai mới bỡ ngỡ tìm đời và làm chán
ngán rã rời những tâm hồn đã tìm thấy một tình yêu, một thiên đường, đã được và
mất ở một nơi nào khác”.
Sài Gòn ăn chơi là Sài Gòn hai
mặt: điên cuồng, háo hức bên ngoài và chán chường, tức tủi bên trong. Đây là
nơi tìm sự sống và cũng để quên mình phải sống. Đây là nơi thoát ly của những
người chán ngấy dư luận hẹp hòi, nọc độc ở các tỉnh nhỏ. Những anh trốn vợ, những
chị trốn chồng đi tìm tình yêu khác. Những kẻ sợ hãi cô đơn sau một thất bại
tuyệt vọng của đam mê cùng cực hoan lạc hay não nùng. Tất cả đều đổ xô về bám
víu lấy những vĩa hè Sài Gòn và trong đó có Minh.
Trâm cũng bỏ Đà Lạt. “Tuần
sau tôi trở về, tôi trở về với em”, Trâm đã nói thế buổi cuối cùng khi
Minh đưa tiễn nàng về Nha Trang. Nhưng ngày thứ ba tuần đó Minh ra Air Việtnam
chờ chuyến bay Nha Trang lên Đà Lạt, cho đến mười một giờ chuyến đưa hành khách
về hãng mà bóng Trâm vẫn biệt tăm.
“Minh lang thang từ con đường
này sang đường khác. Con phố nhấp nhô heo hút quay cuồng đảo lộn lùi dần về
phía sau. Hồ im thoi thóp nhớ mặt trời. Con đường ẩm ướt dưới chân như chạy dài
vô tận. Điếu thuốc cháy đỏ đầu môi phảng phất hơi ấm một ngày đầu họp mặt. Cái
tàn dài lả tả rung trong mưa bay. Búng mẫu thuốc ra xa, Minh nghĩ thế là hết. Nhưng
còn phảng phất mơ hồ an ủi và hy vọng. Có thể vì một lý do nào đó, Trâm về muộn.
Thôi chờ đến thứ sáu.
…
“Nằm im, nằm chết, nằm mê thiếp
một tuần, hai tuần nhà thằng bạn. Minh chờ khắc khoải một dòng thư, một tiếng vọng
đáp lời. Thiên đường im tiếng. Không ai đáp lời và Minh lầm lũi bỏ đi, đớn đau
mỏi mệt ngã vào vòng tay niềm nở của Sàigòn…
Tại Sài Gòn, Minh đã có lần
tâm sự với một người bạn: tình yêu đã đi vào ngõ cụt, bài toán của cuộc đời sẽ
không bao giờ tìm ra đáp số. Gia đình đã đưa ra ‘tối hậu thư’, hoặc tiếp tục gặp
Trâm hoặc trở về cuộc sống bình thường với gia đình. Minh đã chọn ở lại theo bản
năng của tuổi trẻ. Bây giờ Trâm lại bỏ đi nên sự hy sinh trở thành vô ích. Như
một con chim chưa đủ lông, đủ cánh, Minh chưa đủ sức để bay một mình nên vất vưởng
giữa Sài Gòn muôn màu và nhiều cám dỗ.
Nhưng định mệnh đã đưa đẩy họ
nhìn thấy nhau tại Sài Gòn và NTH kết thúc câu chuyện tình với những dòng cuối:
“Nàng đi ngược lại Brodard,
qua phía Tự Do tìm người mù bán thuốc. Cửa vũ trường bỗng mở nhẹ nhàng. Trâm
nhìn lên. Minh. Trái đất quay một vòng trong chớp mắt im sửng. Dưới ánh đèn màu
khuya, muộn hắt hiu, Trâm nhận ra mái tóc bồng bềnh, hai con mắt thờ ơ, đôi môi
tràn đầy của mùa tình Đà Lạt. Trong bóng dáng tình khuya đó, Trâm thoáng thấy
hình ảnh xa lạ của chính mình chập choạng lung linh. Tia nhìn bỗng lạc mất
nhau. Nàng đi qua, đi qua, đi qua không một bước chân dừng lại. Con đường bỗng
lún xuống phía sau, Trâm nghe tiếng rơi vỡ của một tượng đen vào quá khứ…. Kim
đồng hồ nhà bưu điện tìm nhau trên số hai. Chiếc Sport lao vút về xa lộ. Tựa đầu
vào thành xe, hàng mi khép kín, Trâm thì thầm trong khoảng không, đêm ơi, đêm
ơi.
***
Trong một cuộc phỏng vấn của Tố
Tâm trên tạp chí Ðất Mới (số 4, bộ 2, tháng 4/1990), Nguyễn Thị Hoàng tâm sự: “Từ
năm 1966 đến 1969, mình viết liên tục theo những ‘đơn đặt hàng’. Trong thời
gian này mình viết rất nhanh, có khi viết hai, ba truyện cùng một lúc... rồi
thì lại buồn chán, mệt mỏi, kiệt sức và mất hoàn toàn tinh thần làm việc vì
trong suốt những năm dài liên tục mình chỉ sống với bổn phận làm vợ, làm mẹ và
gánh vác kinh tế gia đình. Cái nguồn sống riêng phải nín lại, bị khô héo đi. Sau
một chuyến đi xa vào năm 1970 mình lấy lại được hứng khởi và phần không nhỏ
cũng vì năm đứa con, một đòi hỏi lớn về kinh tế gia đình nên phải tiếp tục viết...
Do đó mà chưa có quyển nào coi như được viết từ tim óc của mình.
…
“Truyện mình viết thường là
truyện tình bế tắc và đi xuống. Trong đó những vai nữ bao giờ cũng khát khao đi
tìm một đời sống thật của mình, nghĩa là tìm kiếm chính mình. Những nhân vật nữ
lang thang bất định, và xa rời với phận sự gia đình. Chất liệu lấy từ những năm
bất ổn lênh đênh trong cuộc đời đã qua của mình, đôi khi được ráp nối với những
câu chuyện thời sự, cộng với một phần tưởng tượng, phóng tác, vẽ vời... rồi ráp
thành chuyện. Không biết bên đàn ông thì sao, chứ cánh đàn bà thường mắc phải
cái này là có những nét của nhân vật hoặc chính, hoặc phụ, thế nào cũng hắt
bóng cá tính thói quen, đường nét và vóc dáng của tác giả. Riêng về Vòng Tay Học
Trò, nếu bảo đó là thực thì cũng không hẳn là thực mà bảo là không thực thì...
cũng chẳng phải là thế. Dư luận trộn lẫn tiểu thuyết của mình với đời sống thật.
Cũng vì thế mà có những tiếng ác ý lao xao về đời sống của mình. Cho nên chỉ có
cách là... phải thản nhiên.
***
Sau cơn bão tình tại Đà Lạt,
tôi tình cờ gặp lại Mai Tiến Thành tại Sài Gòn, hai đứa lúc đó đều đã khoác áo
lính. Thành là lính báo chí Quân đoàn II đóng tại Pleiku còn tôi quanh quẩn ở
trường Sinh ngữ Quân đội. Làm báo, dù là báo quân đội, Thành cũng có một tác phẩm,
nếu so với VTHT của NTH thì chỉ là ‘anh tí hon’ bên cạnh ‘người
khổng lồ’ cả về hình thức cũng như nội dung. Thành tặng tôi cuốn Tiếng
nói học trò nhưng đến nay cuốn truyện này đã thất lạc. Tôi chỉ còn nhớ
đại khái cuốn truyện xoay quanh thế giới học trò với những từ ngữ quậy phá,
châm chọc qua những tình tiết khôi hài trong trường, trong lớp.
Sau 1975, chúng tôi đều đi học
tập cải tạo nhưng cuộc đời Thành gặp nhiều may mắn: đi vượt biên chỉ một lần là
tới nơi và chỉ vài tuần sau lại được hội ngộ với vợ con ngay trên đảo. Bẵng đi
một thời gian, chúng tôi lại gặp nhau ở Sài Gòn trong chuyến về thăm lại Việt Nam.
Mai Tiến Thành khi đó đã hoàn toàn thay đổi, khác hẳn Minh của thời Đà Lạt và
Thành của thời mặc áo lính. Thành lúc này là một người đàn ông chững chạc, ăn
nói điềm đạm, cử chỉ từ tốn và có vẻ như an phận, khác hẳn với Thành của tuổi
trẻ bão táp.
Không ngờ lần gặp nhau tại Sài
Gòn là lần cuối trong đời. Năm 2008, Mai Tiến Thành đã từ trần tại Hoa Kỳ trong
sự thương tiếc của gia đình và bạn bè. Tôi viết lại những dòng hồi ức này thay
cho một một nén hương lòng để tưởng nhớ một người bạn thân thiết từ thời trung
học.
William Shakespeare viết:
“Tuổi trẻ hoang dại, tuổi già
thuần tính
Hỡi tuổi già, ta thù ghét
ngươi; hỡi tuổi trẻ, ta quý mến ngươi”
(Youth is wild, age is tame
Age, I do abhor thee;
youth, I do adore thee)
***
Tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng:
Vòng tay học trò (truyện
dài, Kim Anh,1966)
Tuổi Sàigòn (truyện
dài, Kim Anh, 1967)
Ngày qua bóng tối (truyện
dài, Văn, 1967)
Trên thiên đường ký ức (tập truyện, Hoàng Đông Phương, 1967)
Vào nơi gió cát (truyện
dài, Hoàng Đông Phương,1967)
Mảnh trời cuối cùng (truyện
ngắn, Hoàng Đông Phương,1968)
Cho những mùa xuân phai (tập truyện, Văn Uyển, 1968)
Về trong sương mù (truyện
dài, Thái Phương, 1968)
Cho đến khi chiều xuống (truyện dài, Gió, 1969)
Đất hứa (truyện
dài, Hoàng Đông Phương, 1969)
Tiếng chuông gọi người tình trở về (truyện dài, Sống Mới, 1969)
Vết sương trên ghế đá hồng (truyện dài, Hoàng Đông Phương,1970)
Tiếng hát lên trời (truyện
dài, Xuân Hương, 1970)
Trời xanh trên mái cao (truyện dài, Tân Văn, 1970)
Bóng người thiên thu (truyện
dài, Hoàng Đông Phương,1971)
Bóng tối cuối cùng (truyện
dài, Giao Điểm, 1971)
Tình yêu, địa ngục (truyện
dài, Nguyễn Đình Vượng, 1971)
Định mệnh còn gõ cửa (truyện
dài, Đồng Nai, 1972)
Bây giờ và mãi mãi (truyện
dài, Đời Mới, 1973)
Bóng lá hồn hoa (truyện
dài, Văn, 1973)
Năm tháng dìu hiu (truyện
dài, Đời Mới, 1973)
Trời xanh không còn nữa (truyện dài, Đời Mới, 1973)
Tuần trăng mật màu xanh (truyện dài, Đồng Nai, 1973)
Buồn như đời người (truyện
dài, Đời Mới, 1974)
Chút tình xin lãng quên (truyện dài, Trương Vĩnh Ký, 1974)
Cuộc tình trong ngục thất (truyện dài, Nguyễn Đình Vượng, 1974)
Dưới vầng hoa trắng (tập
truyện, Sống Mới, 197?)
Nhật ký của im lặng (Đồng
Nai, 1990)
Nguyễn Thị Hoàng, quê Quảng Điền, Triệu Đại, Triệu Phong, còn là một nhà
thơ và dưới đây là một bài thơ đặc biệt mang âm sắc miền Trung:
CHI LẠ RỨA
Chi lạ rứa, chiều ni tui muốn khóc
Nhìn chi tui - đồ cỏ mọn hoa hèn
Ngó chi tui - đồ đom đóm trong đêm
Cho thêm tủi bên ni bờ cô tịch
Tui ao ước có bao giờ tuyệt đích
Tui van xin răng mà cứ làm ngơ
Rồi ngó tui, chi lạ rứa: hững hờ
Ghép yêu mến, vô duyên và trơ trẽn
Tui đã tắt nỗi ngại ngùng bẽn lẽn
Bởi vì răng? Ai biết được người hè!
Nhưng mà chiều đã rủ bóng lê thê
Ni với nớ có khi mô mà gần gũi
Chi lạ rứa! Răng cứ làm tui tủi
Tàn nhẫn chi với một đứa thương đau
Cảm tình câm nên không sắc không màu
Và vạn thuở chẳng nên tình luyến ái
Chi lạ rứa? Người cứ làm tui ngại
Biết sông sâu hay cạn giữa tình đời
Bên ni bờ vẫn trong trắng chơi vơi
Mà bên nớ trầm ngâm mô có kể
Tui không muốn khóc chi những giọt lệ
Đọng làn mi ấp ủ mối tâm tình
Bên ni bờ hoa thắm hết tươi xinh
Mà bên nớ huy hoàng và lộng lẫy
Muốn lên thuyền mặc sóng cuồng xô đẩy
Nhưng thân đau nên chẳng dám đánh liều
Đau chi mô! Có lẽ hận cô liêu...
Mà chi lạ rứa hè? Ai hiểu nổi!
Tui không điên, cũng không hề
bối rối
Ngó làm chi cho tủi nhục đau
thương
Tui biết tui là hoa dại bên đường
Không màu sắc, chi lạ rứa hè, người hí
Tui cũng muốn có một người tri kỷ
Nhưng đường đời như rứa đó, biết mần răng?
Tui muốn kêu, muốn gọi, muốn thưa rằng
Chờ tui với! A, cười chi lạ rứa?
Tui không buồn, răng mắt mờ lệ
ứa!
Bởi vì răng tui có hiểu chi mô
Vì lòng tui là mặt nước sông hồ
Chi lạ rứa, bên ni bờ tui
khóc...
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen