Làng xã ở phương Đông
Làng họ:
Ở đây tôi không
dùng chữ làng xã tự trị mà
tôi dùng chữ làng họ. Sự tập trung chuyên chế thành thể chế chính trị
– xã hội như thế đã hình thành từ trước khi chế độ cộng sản nguyên thủy chưa
tan rã để đến mức ra đời hai giai cấp đối lập trong công xã là chủ nô và nô lệ.
Ở bên kia, ở phương Tây, chủ nô và nô lệ ra đời trên cơ sở sự tan rã công xã; ở
đây, ở phương Đông, quá trình đó chưa diễn ra trọn vẹn mà chỉ có một tình hình
được Dương Vinh Quốc gọi là “chế độ chủng tộc nô lệ”.
Cái này là cơ sở của vấn đề làng họ mà tôi nói. Tức là thế này: lúc bấy giờ, khi chưa phát triển thành sự đối lập giữa chủ nô và nô lệ thì ý thức về tư hữu chưa phát triển. Ý thức tư hữu chỉ phát triển với sự ra đời của hai giai cấp đối lập là nô lệ và chủ nô. Còn ở đây là chưa. Thế nhưng ông vua gọi là đế ấy cử quân đi chinh phạt một vùng đất, đánh chiếm một vùng đất và tuyên bố vùng đất đó là của mình. Chế độ chiếm hữu nô lệ bằng những cuộc chiến tranh, chiếm một vùng đất và chiếm cả người ở trên vùng đất ấy. Sau đó cử người cùng họ, nghĩa là người của tộc Ân đến thống trị. Chỗ này là chỗ sinh chuyện. Cử người cùng tôn tộc đi thống trị, người tộc Ân được cử đến phải xây thành tự bảo vệ và ở trong thành ấy. Xây thành cũng có nghĩa là lập quốc, lập quốc tức là chiếm một vùng đất mới mà xây thành và người ở trong thành là người của tộc Ân. Cho nên nô lệ ở đây, nô dịch ở đây là nô dịch của một chủng tộc, chủng tộc Ân đối với những tộc bị chiếm. Như thế giữa ông vua thiên tử với ông vua chư hầu có hai quan hệ: quan hệ vua tôi và quan hệ họ hàng, có duy trì được cả hai quan hệ thì mới bảo vệ được sự thống nhất. Ông vua chư hầu vừa là bề tôi của ông vua thiên tử về mặt chính quyền, vừa là con em của vua thiên tử về mặt họ hàng. Cho nên nhà Ân duy trì sự thống trị bằng hai quan hệ: quan hệ thiên tử – chư hầu và quan hệ tôn tộc. Và nhà Ân cường điệu: trung với thiên tử và hiếu với tổ tiên là một điều quan trọng để bảo vệ sự thống nhất. Và vì vậy, Trung Quốc là nơi tổ chức họ hàng rất chặt. Cái chuyện chia ra “cửu tộc” tức là tính từ mình mà đi lên bốn đời: cha, ông, cụ, kỵ và tính từ mình đi xuống bốn đời: con, cháu, chắt, chút, từ đó thành tổ chức cửu tộc. Tổ chức cửu tộc còn có thêm hàng ngang là hàng an hem, hàng chú bác nữa,… là tổ chức kiểu Trung Quốc, nó rất chặt, chứ ở các nước khác thoạt đầu không có tổ chức họ hàng chặt như vậy. Vì thế mà cách nhau bao nhiêu đời vẫn tìm ra được, vẫn truy ra được mình là anh hay là em. Ngày nay có nhiều người đi tìm gia phả và còn tìm ra được những gia phả cách đây 20 – 30 đời và vẫn nhận ra được tôi là em hay là anh của anh. Đó là căn cứ vào cái tổ chức cửu tộc và cái phả hệ. Ở Trung Quốc có chuyện rất thú vị là như thế này: 500 – 600 năm sau vẫn tìm ra được có họ với nhau hay không. Ai là anh, ai là em và điều đó được ghi trong sách Luận ngữ.
Cái này là cơ sở của vấn đề làng họ mà tôi nói. Tức là thế này: lúc bấy giờ, khi chưa phát triển thành sự đối lập giữa chủ nô và nô lệ thì ý thức về tư hữu chưa phát triển. Ý thức tư hữu chỉ phát triển với sự ra đời của hai giai cấp đối lập là nô lệ và chủ nô. Còn ở đây là chưa. Thế nhưng ông vua gọi là đế ấy cử quân đi chinh phạt một vùng đất, đánh chiếm một vùng đất và tuyên bố vùng đất đó là của mình. Chế độ chiếm hữu nô lệ bằng những cuộc chiến tranh, chiếm một vùng đất và chiếm cả người ở trên vùng đất ấy. Sau đó cử người cùng họ, nghĩa là người của tộc Ân đến thống trị. Chỗ này là chỗ sinh chuyện. Cử người cùng tôn tộc đi thống trị, người tộc Ân được cử đến phải xây thành tự bảo vệ và ở trong thành ấy. Xây thành cũng có nghĩa là lập quốc, lập quốc tức là chiếm một vùng đất mới mà xây thành và người ở trong thành là người của tộc Ân. Cho nên nô lệ ở đây, nô dịch ở đây là nô dịch của một chủng tộc, chủng tộc Ân đối với những tộc bị chiếm. Như thế giữa ông vua thiên tử với ông vua chư hầu có hai quan hệ: quan hệ vua tôi và quan hệ họ hàng, có duy trì được cả hai quan hệ thì mới bảo vệ được sự thống nhất. Ông vua chư hầu vừa là bề tôi của ông vua thiên tử về mặt chính quyền, vừa là con em của vua thiên tử về mặt họ hàng. Cho nên nhà Ân duy trì sự thống trị bằng hai quan hệ: quan hệ thiên tử – chư hầu và quan hệ tôn tộc. Và nhà Ân cường điệu: trung với thiên tử và hiếu với tổ tiên là một điều quan trọng để bảo vệ sự thống nhất. Và vì vậy, Trung Quốc là nơi tổ chức họ hàng rất chặt. Cái chuyện chia ra “cửu tộc” tức là tính từ mình mà đi lên bốn đời: cha, ông, cụ, kỵ và tính từ mình đi xuống bốn đời: con, cháu, chắt, chút, từ đó thành tổ chức cửu tộc. Tổ chức cửu tộc còn có thêm hàng ngang là hàng an hem, hàng chú bác nữa,… là tổ chức kiểu Trung Quốc, nó rất chặt, chứ ở các nước khác thoạt đầu không có tổ chức họ hàng chặt như vậy. Vì thế mà cách nhau bao nhiêu đời vẫn tìm ra được, vẫn truy ra được mình là anh hay là em. Ngày nay có nhiều người đi tìm gia phả và còn tìm ra được những gia phả cách đây 20 – 30 đời và vẫn nhận ra được tôi là em hay là anh của anh. Đó là căn cứ vào cái tổ chức cửu tộc và cái phả hệ. Ở Trung Quốc có chuyện rất thú vị là như thế này: 500 – 600 năm sau vẫn tìm ra được có họ với nhau hay không. Ai là anh, ai là em và điều đó được ghi trong sách Luận ngữ.
Có
một lần người ta hỏi Khổng Tử là vua nước Lỗ có biết lễ không? (Vua nước Lỗ là
vua nước quê Khổng Tử). Khổng Tử trả lời “biết lễ” thế nên cái ông hỏi ấy bực
mình lắm, ra ngoài nói với học trò của Khổng Tử: “Ai nói rằng người quân tử thì
phải nói trung thực?”. Ông ta nói thế vì vua nước Lỗ là người cùng họ với vua
nước Ngô, thế mà vua nước Lỗ lại đi hỏi con gái vua nước Ngô, gọi là Ngô Mạnh Tử.
Thế vua nước Lỗ mà biết lễ thì có ai là không biết lễ? Ở Trung Quốc xưa kia,
người “đồng tính” (cùng họ) là không được lấy nhau. Mặc dù vua nước Lỗ và vua
nước Ngô cùng họ đã hơn 600 năm rồi kể từ khi Chu Công phân phong. Nhưng dẫu là
cách nhau 600 năm cũng không được lấy nhau. Vua nước Lỗ đi hỏi lấy con gái vua
nước Ngô vốn là người cùng họ là trái lễ. Nhưng vì vua nước Lỗ là vua của Khổng
Tử nên Khổng Tử không dám nói vua của mình là vô lễ. Vì Khổng Tử nói là vua nước
Lỗ biết lễ nên ông kia mới ra ngoài bình luận là: “Ai bảo người quân tử là người
trung thực?”. Vua nước Lỗ lấy con gái vua nước Ngô là Ngô Mạnh Tử, vua nước Lỗ
mà biết lễ thì có ai mà không biết lễ? Học trò vào nói lại với Khổng Tử như vậy,
Khổng Tử trả lời rất hay. Khổng Tử nói: “Tôi thật là may mắn, có điều gì sai
thì người ta mách cho mà biết”. Nói như thế là thế nào? Khổng Tử vẫn không nói
vua nước Lỗ là trái lễ, Khổng Tử vẫn không nói mà lại nói tránh đi theo một
cách khác: “Tôi thật là may mắn, có điều gì sai thì người ta mach cho mà biết”.
Sáu
trăm năm sau vẫn còn biết được họ hàng, đó là điều quan trọng. Và một điều nữa
cũng không kém quan trọng là khi đã nô dịch bằng cách chủng tộc như vậy, chiếm
từng vùng như vậy, hay là thần dân hóa từng vùng như vậy thì điều nên chú ý là
cách nô dịch đã khác mà thân phận cũng đã khác. Cách nô dịch bằng quân sự và
nhà nước làm cho thân phận thần dân khác với thân phận nô lệ, nông nô. Là nô lệ
tức là biết rằng nhân cách bị mất, không còn là người nữa, đã bị tước đoạt quyền
làm người. Còn thần dân thì không bị mất cái đó. Từ cha vua trở xuống đều bị
coi là thần dân cả, có ai mất quyền đâu, chỉ có người trên người dưới thôi,
không có chuyện mất quyền làm người. Cho nên vấn đề quyền làm người là không
rõ. Là nô lệ thì không có quyền làm người, nên họ chống lại để giành quyền làm
người. Là nông nô cũng cảm thấy quyền làm người cũng bị mất đi phần lớn nên muốn
giành lại để có quyền làm người. Còn là thần dân thì không cảm thấy bị mất quyền
làm người. Bởi thế tôi mới nói là ở ta không có nên không mất. Có có đâu, nó có
quyền làm người đâu, nó là thần dân cả mà, làm gì có quyền làm người. Vì không
có nên không mất, vì không mất nên không đòi. Cho nên ở ta không có quyền đòi
cho nhân cách, không có. Ai cũng cảm thấy được cả, chỉ có ai trên, ai dưới
thôi, mà đâu chả có trên dưới. Anh đi đâu thì cũng có trên dưới. Bét ra thì anh
cũng có vợ con mà áp bức, cuối cùng ai cũng có trên có dưới cả thôi mà. Đó
chính là điều tôi muốn nói là khác nhau về cách nô dịch và khác nhau về thân phận.
Công xã trở thành một đơn vị phụ thuộc vào chủ, mà chủ ở đây là nhà nước cho
nên một mặt thì nó vẫn giữ là công xã, nhưng mặt khác nó là một đơn vị hành
chính và dần dần trở thành làng. Làng là đơn vị hành chính. Làng vừa là công xã
vừa có quan hệ chính quyền và thuộc trong phiên chế của chính quyền. Có một sự
kiện rất có ý nghĩa là ở Trung Quốc trải qua năm thế kỷ chiến tranh, từ thời
Xuân thu đến thời Chiến quốc và đến thời Hán, năm thế kỷ chiến tranh như vậy
cho nên dân lưu tán, bỏ chạy khỏi quê, mà khi chạy như vậy, thường thường là
người ta chạy theo họ, bà con chạy với nhau. Đến thời Hán Vũ Đế có một hiện tượng
được ghi nhận là hương đảng tộc cư (làng ở theo họ) và đó là một thực tế mà tất
cả các chính sách cai trị phải nhìn đến. Và ở nước ta, đến bây giờ cũng là kiểu
làng họ như vậy. Ngay đến bây giờ cũng thế, đi kinh tế mới thì bao giờ cũng đi
cùng bà con và cuối cùng, đến nơi thì người ta cũng lập cái làng y như cũ. Thế
mới có chuyện đùa, chuyện vui trong sử học là anh Bùi Văn Nguyên nói rằng An
Dương Vương gốc là ở Nghệ An, Loa thành là ở Nghệ An chứ không phải là ở ngoài
này! Là vì sao? Là vì tất tên vùng đó đều giống như vùng Cổ Loa của Đông Anh hết.
Tất cả các địa danh liên quan đến sự tích An Dương Vương đều có ở vùng Nghệ An
gần như không thiếu cái nào. Cho nên Bùi Văn Nguyên bảo tất cả di tích còn đủ
nguyên như vậy thì rõ là An Dương Vương ở Nghệ An và đền thờ An Dương Vương còn
đó. Tôi không làm sử để để trao đổi lại với anh, nhưng anh ấy quên mất một chuyện,
nếu như dân đã chạy khỏi quê đến một vùng đất mới toàn bộ thì họ sẽ lập lại
trên vùng đất mới ấy toàn bộ cái cũ và tên cũng gọi đúng như vậy.
Năm
kia ở Đà Nẵng, tôi có lên một xã thuộc Tam Kỳ, tôi thấy ở đó có tất cả y như
nhà tôi ở quê, từ cây râm bụt trồng thế nào, cây ngọc anh trồng như thế nào,
rào mạn hảo thế nào, tất cả đúng ý như ở Nghệ An. Tôi hỏi ra thì tổ tiên nhà đó
là người Nghệ An. Và các anh vào nhà cụ Hồ ở trong này cũng sẽ thấy như vậy,
nhà cụ Hồ trồng y như ở Nghệ An, vườn cây trồng giống Nghệ An lắm, là vì người
ta mang theo tất cả những cái đó vào. Cho nên chuyện qua loạn lạc, di tản, người
ta đi lưu tán, người ta mang theo cả làng cả họ và tổ chức là giống y như vậy,
đó là một điều nên chú ý.
Hiện tượng tổ chức
của chính quyềng trung ương chỉ với đến huyện cũng rất thú vị. Cái chế độ quận
huyện mà nước Tần tực hiện từ thế kỷ IV, trước Tần Thủy Hoàng. Trong từ điển định
nghĩa quận là gì? Quận là quần chi (là làm thành bầy), huyện
làhuyền chi (là
gắn bó lại). Thế thì quận là cái gì và huyện là cái gì? Quận huyện tức là kết hợp
các làng xã lại thành một đơn vị lớn hơn để bắt phu, bắt lính cho dễ, quận huyện
là như vậy. Ở bên dưới công xã là không thay đổi. Bộ máy trung ương dừng lại ở
quận huyện, còn bên dưới là làng xã tự trị. Đó là cái mà Mác nói: chế độ chuyên
chế chồng lên trên (superposer) các làng xã chứ không
phải thay đổi bên dưới.
Vì
cái cách quần tụ theo họ với tính tự trị như vậy, cho nên làng thành một tổ chức
rất bền vững.
Một số đặc
điểm của làng
Thứ nhất, về
kinh tế: làng có công điền và công quỹ.
Công điền là dấu
vết của công xã, tức là ruộng đất của công xã, nhưng khi nó thần thuộc vào vua
rồi thì vua tuyên bố đó là công điền, của vua. Tuy vua tuyên bố là công điền,
nhưng vua không lấy đi mà vẫn dể lại cho làng xã. Công điền này vẫn chia cho
dân cày như thời công xã, chỉ có điều là phải làm thêm nhiệm vụ tô thuế. Tức là
tổ chức vẫn giữ nguyên. Công điền từ ruộng công xã biến thành, thêm vào đó là
nhiệm vụ tô thuế. Đã là công điền của vua quân cấp cho dân làng thì lại có thêm
cái tiếng là ơn vua cấp ruộng, từ đó người dân thấy cơ sở tất yếu là phải nộp
thuế và đi phu! Công điền là của chung, của làng, nên chỉ cấp cho dân làng (dân
bản quán); những người ở nơi khác đến (dân ngụ cư) không được cấp. Ngay chính
dân bản quán cũng chỉ là những người đã được vào sổ làng mới được cấp, chưa vào
sổ làng là không được cấp. Nên đẻ con ra là phải biện lễ, mời làng ăn uống để
ghi tên vào sổ làng. Và khi đã có tên trong sổ thì mới được cấp công điền. Vì
như thế, mới sinh ra hai chuyện. Một là ngụ
cư. Dân ngụ cư là không được chia công điền, nhưng mà ngụ cư vẫn là thần dân
cho nên vẫn phải đi phu, vẫn phải đi lính, vẫn phải nộp thuế,… vì đây là nộp với
tư cách thần dân chứ không phải nộp với tư cách dân làng.Hai là vào
sổ cũng có chuyện vào chậm vào sớm. Những người có thế lực thì được vào sổ sớm,
nhưng có nhiều người nó cứ ỳ ra mãi, nó có vào sổ cho đâu. Anh biện lễ, rồi bao
nhiêu lần ăn uống thì hương lý nó mới vào sổ cho. Vì lẽ đó, việc hào lý ăn chặn
của dân chính là ăn chặn của dân ngụ cư và chuyện vào sổ chính là chuyện ăn tiền.
Cho nên trong đời sống làng xã, nhất là dân ngụ cư thì khổ vô cùng. Có người ở
xã đến năm đời rồi mà vẫn chưa được vào sổ.
Công quỹ thì
trích từ thuế và quyên góp của người làng. Vì làng có những công việc chung,
nên có thể quyên góp của người làng. Và cũng phải có những người chức dịch để
quản lý sổ sách, quản lý công điền, công quỹ. Chính đám đó mượn tiếng quyên góp
vào những công việc chung mà sinh ra những cái tệ trước kia hay nói đến là phù thu lạm bổ, tức
là thu nhiều hơn mức quy định là phù thu, lạm bổ giao cho người ta đóng góp quá
mức. Phù thu lạm bổ là việc làm của đám hương lý trong
làng đối với dân. Từ nền kinh tế có công điền nên nó đẻ ra những chuyện như vậy.
Điểm thứ hai về
chính làng xã. Vì là kiểu đơn vị hai “mang”, một “mang” là làng và một “mang”
chính quyền, là đơn vị hành chính của trung ương. Cho nên trong làng theo tôi
có hai thứ chính quyền. Một loại mang dấu vết công xã bao gồm bô lão, thân sĩ
và những người đàn anh có thế lực, có thể gọi là hào (thân sĩ, thân hào) – đó là dấu vết của
một bộ máy làng xã cũ, trong đó nên chú ý là đại biểu của các họ, tức là trong
bộ máy thân hào, bộ máy làng xã có bô lão, có các thân sĩ và có các bậc đàn anh
mà gọi chung là hào. Trong các bậc đàn anh này nên chú ý là có đại biểu của các
họ. Những người này quyết định mọi việc làng. Với tư cách là làng thì bộ máy đó
quyết định. Còn một thứ chính quyền thứ hai là gồm hương lý, tức là có
lý trưởng và những người có chức dịch, làm công việc chính quyền thực sự. Ví dụ
nhưhương bộ là
để giữ sổ sách, hương kiểm là
để làm công việc trị an,… tức là những người chức dịch do lý trưởng đứng đầu.
Đây là một bộ máy chính quyền thực thụ, được cấp trên công nhận. Người đến gặp
quan huyện là lý trưởng chứ không phải là tiên chỉ. Tiên chỉ không gặp quan huyện,
chỉ có lý trưởng đến gặp quan huyện. Tức là đại diện có tính chất nhà nước. Đó
là người thừa hành các công việc trên giao: trước hết là bắt phu, bắt lính, nộp
thuế, đôn đốc, giữ an ninh,… nghĩa là việc do bộ máy hương lý đảm trách. Theo
quan niệm trật tự, thì hương lý phụ thuộc trực tiếp vào nhà nước, nhưng công việc
gì ở trên đưa về, lý trưởng lại phải bẩm với tiên chỉ và tiên chỉ ra lệnh thực
hiện bằng cashc này hay cách kia, lý trưởng thường là phải thi hành theo. Cho
nên lệnh trên về chưa chắc đã được thực hiện, mà lệnh của thân hào mới có ý
nghĩa quyết định. Vậy là luật pháp và chỉ thị của cấp trên chưa chắc đã được thực
hiện, cho nên mới có chuyện “phép vua thua lệ làng”. Việc quốc gia đại sự được
vận hành đến đâu, việc cai trị người dân như thế nào trước hết phải thông qua bộ
máy cai trị làng xã, điều này gây cản trở rất lớn tới sự cai trị của chính quyền
trung ương. Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã nhận ra được tình trạng này nên họ
thiết lập một kiểu chính quyền địa phương kiểu mới: tập trung các thân hào vào hương hội trong tư cách là bộ phận có trách nhiệm
hợp sức, giúp việc cho lý trưởng và thực hiện quyền đã bị hạn chế.
Giúp
việc cho lý trưởng tức là nhất thể hóa chính quyền vào lý trưởng, và những bộ
máy làm việc của làng trở thành hội đồng. Nhờ vậy chính quyền thực dân Pháp mới
nắm được thôn xã, đây là điều khác với trước kia. Cho nên lúc bấy giờ mới có
tên chánh hương hội, phó hương hội. Đây chính là ông tiên chỉ, ông thứ chỉ đã
được chuyển hóa thành hội đồng giúp việc cho lý trưởng; đây là danh từ mới xuất
hiện thời Pháp thuộc chứ trước kia không có. Đó, bộ máy chính quyền thì có hai
cái như vậy.
Việc làng
Việc làng là một
việc hết sức phức tạp. Làng là một đơn vị gắn bó chặt chẽ, tổ chức ổn định và
lâu đời. Trong làng có họ, mà cũng là một tổ chức được xây dựng chặt chẽ theo
dòng máu, có nhà thờ họ, có trưởng tộc, có ruộng tự điền hương hỏa, có mồ mả
cha ông, có những lệ đóng góp,… mà tộc trưởng và cha chú ở trong họ là người chỉ
huy làm cho họ thành một đơn vị rất chặt chẽ. Trong làng có họ
to, họ nhỏ. Họ to hoặc vì thế lực này, thế lực kia hoặc là đông đinh tráng nên
có thế lực. Họ to có quyền hơn họ nhỏ. Một anh trung nông ở một họ nhỏ không có
thế lực bằng một anh bần nông ở họ to. Chẳng hạn một công việc ở làng mà người
ta coi là kém, mất giá trị nhất là mõ. Mõ ở làng xã là bị kinh nhất. Người của họ to thì
nghèo mấy cũng không bao giờ làm mõ, mõ thường đẩy cho các họ nhỏ. Hoặc là chuyện
bắt phu, nó cứ đè vào mấy họ nhỏ nó bắt, chứ họ lớn ít khi bị bắt phu. Quan hệ
giữa các họ trong làng là như vậy. Tình cảm máu mủ họ hàng gắn bó với nhau và
có trách nhiệm với nhau, do đó quan hệ trong làng thực tế có nhiều chỗ là quan
hệ giữa các dòng họ, nhiều chỗ thực tế là liên minh giữa các dòng họ (hoặc là
liên minh, hoặc là thù hằn). Dòng họ này với dòng họ kia liên minh với nhau, hoặc
đối địch với nhau. Và chính các chính quyền của xã điều tiết cái quan hệ đó. Điều
tiết cái quan hệ tộc họ rất quan trọng. Nhân tiện tôi nói một chuyện gần đây.
Năm ngoái tôi về một xã ở Thường Tín, thôi thấy có một bà làm bí thư mười năm rồi,
mà bà ấy không có năng lực; tôi mới hỏi thì được biết trong làng có ba họ to, một
họ làm chủ tịch xã rồi, một họ làm chủ nhiệm rồi, một họ làm công an rồi, bây
giờ mà một họ nào đó làm bí thư nữa thì trở thành thống trị làng, nên họ cử một
bà ở họ nhỏ. Bà ấy chỉ có năng lực là điều hòa được ba họ kia, thế thôi. Bà ấy
là người liên lạc giữa ba họ để mà điều chỉnh. Vì vậy là bà ấy làm bí thư mười
năm nay. Trong các làng xã hiện nay, quan hệ giữa các dòng họ vẫn rất quan trọng.
Năm kia tôi có một cậu học trò Khoa Văn, anh ấy kể cho tôi câu chuyện thế này:
họ của anh ta trước đây là một họ rất có thế lực, thế nhưng sau Cách mạng tháng
Tám thì những người có máu mặt lên Hà Nội hết, ở làng, họ này chỉ còn lại một số
gia đình nông dân. Thế nên là người của cái họ đó không bao giờ được đi học đại
học nữa, vì người ta bảo họ này có nhiều người đi học rồi, bây giờ để dành cho
người khác. Nên hễ có giấy gọi về là người ta cất, không cho đi nữa, thế là một.
Hai là cứ đến tuổi là phải đi bộ đội, rồi cuối cùng người họ ấy phải bỏ họ, bỏ
làng mà đi, rời đi nơi khác không dám ở đấy nữa.
Thế cho nên vấn
đề họ ở ta là rất quan trọng. Dân làng bị ràng buộc với nhau vì tình nghĩa, vì
quyền lợi, vì nghĩa vụ, không ai muốn bỏ làng mà đi, vì ở làng có họ hàng, có
láng giềng; đó là một sự thu hút. Nhưng cũng nên nhớ một điều nữa là nhà nước
phong kiến không cho bỏ làng. Đây là điều rất quan trọng. Ta hay khen Chiếu khuyến nông của Quang Trung, vì sao? Vì sau chiến
tranh người ta bỏ làng tan tác đi rồi, lấy dân ở đâu mà đi phu, lấy dân ở đâu
mà đi lính, cho nên phải lôi dân về, cấp ruộng cho họ cày để còn có chỗ bắt
phu, đi lính. Để khuyến nông, bắt lý, hương phải gọi dân về, ổn định sinh hoạt
là để làm nhiệm vụ đối với nhà nước. Cái đó ai cũng làm cả chứ không phải riêng
Quang Trung. Gia Long cũng làm, Tự Đức cũng làm, vì đó là một tất yếu, phải giữ
lấy làng, không cho dân đi khỏi làng. Trước đấy, sau khi chấm dứt chiến tranh,
loạn ly, bao giờ triều đình cũng có lệnh cho các làng chiêu tập những người lưu
tán về và vua ra chiếu khuyến nông để khôi phục lại làng.
Các làng đã từ
những công xã rất lâu đời mà thành nên thường có thờ thần Thành hoàng làng, thờ
như một thứ tôn giáo, thần Thành hoàng là thần của làng và thường là do thờ thần
Thành hoàng làng nên hình thành tục lệ của làng. Làng này có tục này, làng kia
có tục kia,… mà nếu như mình không biết thì cư xử rất phiền vì nhiều khi không
biết người ta kiêng cái này, cái kia. Vì có đền, có miếu, có Thành hoàng cho
nên có lễ hội của làng, từ đó mà có những tục lệ, những kiêng kỵ riêng. Nói đấy
là tôn giáo thì không đúng, nhưng nó có ý nghĩa như vậy. Cuộc sống chung đòi hỏi
có những nề nếp chung cho nên làng có lệ làng. Lệ có khi ghi thành hương ước,
nhưng cũng có khi không thành hương ước gì cả mà chỉ là cha truyền con nối, nói
với nhau thôi, truyền miệng nhưng mà rất nghiêm khắc; lệ làng rất nghiêm khắc,
anh trái lệ làng là không được. Cho nên ngoài phép vua, ở làng còn có lệ làng. Các bạn xem
chèo Quan Âm Thị Kính thấy có đoạn Thị Kính bị bắt vạ hay là
các bạn còn nghe nói những người chửa hoang bị gọt tóc bôi vôi, trôi sông,… đó
là lệ làng chứ không phải phép nước. Nhưng mà các bạn hình dung thử xem, cứ có
một lỗi mà bị tiên chỉ, thứ chỉ lên án thì coi chừng. Có hai hình thức nguy hiểm:
Một là phạt vạ, phạt vạ là cứ phải làm cỗ, mời làng đến ăn, ăn cho đến khi các
cụ tuyên bố tha mới thôi, nếu không thì cứ ăn mãi, đó là điều kinh khủng. Hai
là như kiểu rút phép thông công bên tôn giáo, là cấm người làng không được quan
hệ, tắt lửa không được cho lửa, ốm đau không được đến thăm,… có nghĩa là khai
trừ ra khỏi làng. Đó là lệ làng, cái lệ làng đó làm cho người ta rất sợ.
Việc
làng theo truyền thống công xã thường được đem ra bàn bạc trong các cuộc họp
làng. Ở đây cũng có vấn đề. Nhiều người nói ở phương Đông dân chủ hơn là vì
chuyện gì cũng đem ra làng họp bàn. Về nguyên tắc mà nói thì họp làng, trừ đàn
bà ra, đàn ông là được dự cả. Cứ có tên trong sổ đinh là được dự, trừ đàn bà. Bởi
vì việc làng, việc nước là của đàn ông chứ không phải việc của đàn bà. Nhưng
nên nhớ trong làng có sắp xếp ngôi thứ, thứ tự trên dưới, từ ông tiên chỉ, thứ
chỉ ngồi trên cùng rồi đến bàn hai, bàn ba, bàn bốn, bàn năm, bàn sau,… tức là
người nào cũng có vị trí của mình chứ không phải ai muốn ngồi đâu thì ngồi. Khi
phát biểu thì thực ra chỉ có mấy bàn trên phát biểu, mấy bàn dưới chỉ ngồi mà
nghe chứ không được nói, thường gọi là không được “vô phép nói leo các cụ”.
Chuyện là chuyện của các cụ, không được vô phép nói leo. Vì vậy làm gì có dân
chủ, thực ra là các cụ nói và anh em dưới này là trai tráng chỉ vâng dạ thôi.
Thế mà cũng được mang tiếng là dân chủ, thực ra làm gì có dân chủ. Nói cho đúng
thì đó cũng là chuyện bề ngoài, chứ bề trong là các họ, đại biểu các họ thương
lượng với nhau rồi, ra ngoài chỉ là công khai thôi. Việc làng là như vậy. Quyền
ăn nói, chỗ ngồi trên là thuộc về bậc cha chú, con em chỉ ngồi nghe và đồng ý.
Từ việc làng như vậy mới đẻ ra chuyện giành ngôi thứ. Anh có ngôi thứ anh mới
được ăn nói, cho nên anh phải giành ngôi thứ, mua ngôi thứ, ghi tên cho sớm rồi
thì làm cách này cách kia để có ngôi thứ và chờ đợi “sống lâu lên lão làng”, để
đến lượt mình ăn nói. Các bạn biết là trong giới khoa học ta ngày nay cũng có
chuyện đó, cũng “sống lâu lên lão làng”. Có người làm việc lâu năm nên phán như
trời như đất mà các anh em bên dưới trẻ tuổi hơn, hiểu đúng hơn cũng không dám
nói. Chính cái đó là lề thói từ việc làng của ta mà ra.
Trong
cuộc sống cộng đồng, làng luôn cần được bảo vệ chống lại thiên tai, chống lại địch,
cướp,… cho nên hễ mà bô lão đánh mõ lên thì trai tráng phải vác gậy gộc, giáo
mác ra để bảo vệ. Đó là điều bình thường, cứu trợ nhau là bình thường. Nhưng nếu
như các cụ bô lão thích đánh làng bên mà ra lệnh đánh thì người ta cũng đánh.
Các anh biết những làng có đất bồi, các bãi bồi, tức là một diện tích di động,
cần phải tranh nhau, hoặc là có những chỗ giáp ranh làng xã tranh nhau, thì chính
là chỗ để các làng huy động dân ra đánh nhau, có khi đánh nhau đến hai, ba mươi
năm mà vẫn chưa xong. Tôi nghe nói gần đây chuyện này lặp lại khá rộng rãi vì
sau khi hợp tác xã nông nghiệp xóa đi rồi, trả lại ruộng đất là dễ xảy ra tranh
nhau, thậm chí đem cả súng ra. Xã đội trưởng, bí thư chi bộ, chủ tịch đứng ra
chỉ huy hẳn hoi chứ không phải bô lão.
Tóm
lại, làng là một đơn vị có kinh tế riêng, có chính quyền riêng, có tôn giáo
riêng, có võ trang riêng và có tư pháp riêng.
Làng
như thế là làng tự trị. Thực ra bộ máy ở bên trên không thể khống chế nổi cho
nên phải dể cho làng quyền tự trị, tức là chỉ đòi hỏi đi phu, đi lính, nộp thuế
đủ, thế là được, còn ở dưới nó sắp xếp trong làng thế nào kệ nó.
Chính
quyền cấp trên dừng lại ở huyện và đó chính là vấn đề Mác nói: chính quyền
chuyên chế chồng lên trên các làng xã. Chính cái này mới là quy định sự phát
triển của các nước phương Đông. Sự phát triển của phương Đông không phải giống
nhau. Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và Triều Tiên không phải là giống nhau
hoàn toàn đâu… Ở Nhật Bản, từ thế kỷ VII, Thành Đức Thái Tử đưa mô hình Nho
giáo về là lập cái mô hình chuyên chế bên trên làng xã, nhưng không khống chế
được đám lãnh chúa. Từ thế kỷ VII cho đến khoảng thế kỷ XIII, các lãnh chúa trỗi
dậy và cuối cùng thực tế là nhà vua không làm được gì cả, chính quyền trung
ương không làm được gì hết, các lãnh chúa khôi phục ở bên dưới. Thế là làng xã
phụ thuộc vào lãnh chúa, lãnh ấp chứ không còn là của chính quyền trung ương, vốn
nắm đến huyện, được nữa. Và sự phát triển của Nhật Bản là đi theo một cách
khác. Còn ở ta thì sản xuất trồng lúa nước, mà trồng lúa nước thì không thể bỏ
mà đi được, anh phải ở bên cạnh mà trông nước, mà làm cỏ,… Ở ta là quần tụ theo
làng, mà quần tụ theo làng lâu đời thì nó sẽ ra làng họ rất rõ, giống như Trung
Quốc.
Tổ chức
làng họ
Cũng nên nhớ rằng
trong lịch sử có những cái làm như vậy, nhưng cũng có các yếu tố tự phát từ bên
trong. Nhà nước chuyên chế không chấp nhận chính quyền địa phương, không chấp
nhận hào trưởng. Nhưng hào trưởng cứ lên, gặp chiến tranh, nhà vua không khống
chế được thì hào trưởng nó cứ phát triển lên. Nhưng phải phát triển đến mức nào
đó, mới giành được quyền ngang với vua, chứ nếu không thì nó vẫn thuần phục
vua. Cái kiểu các ông tù trưởng ở Sơn La trước kia là như vậy. Họ là hào trưởng
nhưng họ không chống vua, họ chấp nhận chính quyền trung ương. Vua làm cách gì?
Vua phong tước, gả con, thưởng tước cho họ đồng thời họ vẫn làm nhiệm vụ thần tử.
Nhà Lý là triều đại đầu tiên ở ta làm giỏi cái việc “ky my” (ràng buộc lỏng lẻo)
như thế đối với các dân tộc thiểu số. Trong một vùng nội địa nào đó thì mình phải
thực hiện cách cai trị làng xã như thế này, nhưng đối với một vùng nào đó thì
mình lại phải thả. Quá trình từ Đinh Bộ Lĩnh cho đến nhà Trần là một quá trình
giải quyết các vấn đề phân tán. Nhưng giải quyết rồi thì ở các vùng miền núi,
hào trưởng vẫn lên được, ở các làng xã, cường hào vẫn mọc lên, không mọc ở mức
hào trưởng nhưng mọc ở mức cường hào. Như thế, thực trạng của ta về vấn đề quan
hệ giữa trung ương với địa phương là nảy sinh theo cách này. Bây giờ các tỉnh
mà trở thành vương quốc, các xã thành vương quốc chính là vì cái tổ chức làng
xã của ta không giải quyết được. Trong một bài về làng họ mà tôi đã viết và đăng trên tạp chí Xã hội học, tôi có
viết: “Nếu như tập trung làng có quyền chính trị, có quyền kinh thế, có quyền
công an, có quyền kiểm soát hộ khẩu, có quyền văn hóa,… tất cả như vậy thì đố
mà làm được, người dân bị cột chặt vào đấy. Chịu không làm được”. Cho nên cách
tổ chức làng theo kiểu mới như thế nào thật sư là một vấn đề.
Tôi cho rằng những
vấn đề của phương Đông là: Gia đình nên tổ chức như thế nào? Làng xã nên tổ chức như thế nào?
Các bộ máy nhà nước nên tổ chức như thế nào? Đó là những vấn đề phải đặt ra. Nên
chú ý là ta làm nhiều cái giống như cái cũ, nhà nước của ta thời gian vừa qua
là khôi phục lại cái nhà nước cống nạp và bao cấp như cũ. Làng của ta là khôi
phục lại cái làng tự trị cũ. Cái gia đình của ta một hồi phá đi và bây giờ nó
khôi phục lại như cũ, hiện nay gia đình là khôi phục lại như cũ. Đó chính là việc
phương Đông trước các vấn đề của nó. Thành thử là khi anh không ý thức được
trên một con đường anh gặp phải những cái gì và phải tránh những cái gì, thì
anh làm một hồi, nó sẽ trở lại đúng những cái anh chống nhất, đúng những cái anh
ghét nhất. “Ghét của nào trời trao của ấy” là thế.
Vấn
đề đô thị khó phát triển và khởi nghĩa nông dân, đó là hai vấn đề đặc thù mà
tôi cho rằng có ảnh hưởng lớn trong cách nhìn các vấn đề của phương Đông. Vì
như tôi đã phân tích ở trên, các vấn đề thuộc về gia đình, làng xã, nhà nước ở
phương Đông có cách tổ chức riêng chứ không giống với thế giới nói chung. Tức
là phương Đông có những đặc điểm riêng.
Bộ máy quan lại và đẳng cấp sĩ
phu
Nhà nước chuyên
chế có một đặc điểm là nó làm chủ một vùng lãnh thủ cực lớn mà sức nó không ôm
nổi. Các bạn thử tưởng tượng cái đế chế như cái đế chế nhà Hán, bao gồm từ vùng
Trung Á suốt đến giáp Triều Tiên, từ trên miền Bắc mà xuống đến nước ta dưới
này, nó to đến như vậy mà chỉ phụ thuộc vào chỉ có một người. Thế thì nhà nước
chuyên chế không thể nắm được cái sở hữu của nó. Chủ nô nắm được nô lệ, lãnh
chúa nắm được nông nô, chứ chuyên chế thì chịu, không thể nào nắm được cái sở hữu
của nó. Đó là một điều rất quan trọng, rất khác. Cho nên trong lịch sử nhân loại,
Trung Quốc là nước quan tâm đến chính trị sớm nhất. Lý thuyết từ đời Ân trở về
sau đã là nghĩ đến chuyện làm sao nắm được nước. Đến thế kỷ III trước CN, đã có
Hàn Phi. Ở phương Tây là phải đến thế kỷ XIII, XIV mới có Sứ quân (Le Prince) của
Machiavel (1469 – 1527). Cho nên phải biết là Trung Quốc là nước phát triển
chính trị cực sớm, bởi vì nó nắm trước cái tình hình như vậy. Từ đời Ân đến đời
Chu, người ta quản lý đất nước dựa vào họ hàng, tức là cho bà con làm chủ các
vùng đất mới và nắm qua hai quan hệ: Quan hệ thứ nhất là quan hệ vua tôi. Quan
hệ thứ hai là quan hệ họ hàng. Lập ra các nước để làm “phên giậu” (chữ của họ)
cho nhà nước trung ương. Cách làm như vậy đặt ra hai điều: Một là trung với
vua. Hai là hiếu với tổ tiên. Trung và hiếu là
hai yêu cầu để giữ cái thể chế như vậy. Nhưng trên thực tế lại có chuyện như thế
này:
Thứ
nhất là khi đã ra làm chủ cái nước của mình thì cuối cùng các vua chư hầu nghĩ
đến lợi ích bản thân chứ không nghĩ đến thiên tử nữa. Các nước đó đều có xu hướng
độc lập, tách ra, họ nghĩ đến quyền lợi của họ chứ không nghĩ đến quyền lợi của
thiên tử.
Một vấn đề khác
cũng đặt ra từ thế kỷ VII, VII trước CN mà cho đến thế kỷ IV, V trước CN ở
Trung Quốc là vấn đề hiền tài. Không phải con cái quý tộc đều giỏi cả. Cái đó Mặc
Tử nói rất rõ. Mặc Tử nói là vua chúa trọng con ngựa hơn trọng nước vì ngựa ốm
là biết mời thầy thuốc về chữa ngựa, chứ nước hỏng thì cứ giao cho con cháu.
Như thế tức là các ông vua chúa trọng con người hơn trọng nước. Cho nên cả học
thuyết của Khổng Tử, học thuyết của Mạnh Tử, cũng như học thuyết của các nhà
khác như Pháp gia đều đặt ra vấn đề hiền tài, phải chọn cho được người hiền
tài. Đây là một vấn đề đặt ra suốt nhiều thế kỷ, từ thế kỷ VIII trước CN trở về
sau đều đặt ra vấn đề hiền tài. Chọn hiền tài bằng cách nào? Nếu không dựa vào
việc chọn lựa chon cháu mà chọn hiền tài thì bằng cách nào? Đầu tiên người tat
hi hành chính sách là cử hiền tức
là giao cho mỗi người, mỗi ông quan hay là mỗi ông vua chư hầu đều tiến cử người
hiền tài mà mình biết cho vua. Ai tiến cử được người giỏi thì được thưởng, ai
tiến cử người bậy thì phải chịu trách nhiệm, đó cính là tiền hiền. Nhưng mà
cho đến thế kỷ V trước CN người ta mới phát hiện là té ra nó cũng tiến cử con
cháu nó cả thôi! Chỉ có điều là tôi tiến cử con cháu anh và anh tiếc cử con
cháu tôi; cũng là dân quý tộc ấy cả, không ai lọt vào được. Nên tiến hiền cuối cùng cũng không giải quyết được vấn
đề.
Đến
thế kỷ IV trước Công nguyên, chủ trương đề bạt tướng lĩnh là phải từ quân ngũ,
đề bạt quan là phải từ từ lại, tức là người làm việc, lấy tiêu chuẩn có thực tế,
có làm thì mới được đề bạt. Nhưng làm như thế lại chậm, từ lính mà leo lên tướng
thì lâu lắm, cũng như là từ lại mà leo đến quan thì lâu lắm, nên cái đó vẫn
chưa phải là cách hay. Và cuối cùng đến Hán Vũ Đế mới tìm ra cách là thi. Chọn
một tầng lớp quan lieu đảm bảo trung thành, đảm bảo làm được những điều vua muống
bằng cách thi. Như vậy khoa cử bắt đầu từ Hán Vũ Đế tức thế kỷ II, I trước Công
nguyên. Vì thi cho nên họ đặt những gì là yêu cầu của vua thì cho lại, và thi
là thi những cái đó. Người ta cho rằng làm như vậy sẽ đảm bảo chọn được đúng những
người cần thiết, đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai là sẽ không cha truyền con nối
nữa. Anh thi được nhưng đến thời con anh thi không được nữa thì thôi. Vì vậy đảm
bảo chọn được đám quan lieu đúng với yêu cầu và đồng thời không thể trở thành lực
lượng đối đầu đối với chế độ chuyên chế. Khoa cử là một biện pháp được dùng từ
đời Hán – thế kỷ II trước CN, cho đến cuối thế kỷ XX. Ở Việt Nam, khoa thi cuối
cùng là năm 1919. Ở Trung Quốc, cũng đến đầu thế kỷ XX mới bỏ khoa cử.
Đến vấn đề lấy
cái gì làm chuẩn để thi, thi bằng cái gì? Trước hết phải hiểu quan cai trị theo
chế độ chuyên chế là gì? Ta đừng nghĩ quan cai trị theo kiểu chuyên chế tức là
làm các công việc hành chính, hay là làm các công việc ích quốc lợi dân. Không
phải như thế, đó là điều hoàn toàn không phải. Người ta tìm cha mẹ cho dân chứ
không phải là tìm người cai trị. Vì sao? Nhà nước chuyên chế là một nhà nước
yêu cầu giữ yên chứ không yêu cầu thay đổi. Ông vua chuyên chế đồng tiên là ông
vua sáng nghiệp, là ông vua đặt ra chế độ này, chế độ kia, sắp xếp đất nước thế
này thế kia, rồi sau ông vua sáng nghiệp là ông vua thủ thành. Ông vua thủ
thành tức là giữ nguyên những cái mà cha ông đã đặt ra. Họ quan tâm đến vẫn đề
giữ nguyên, ổn định. Như Nguyễn Du viết: “Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững
vàng” tức là yên, không có chuyện gì hết, không thay đổi gì cả. Đó chính là yêu
cầu của chế độ chuyên chế. Và muốn làm được như vậy thì không cần đến người tài
năng để sửa đổi cái này cái kia mà cần người nào giữ yên được cho nhà vua. Mới
có chuyện quan là cha mẹ dân, tức là nói thế nào đó để dân phải đi phu, nộp thuế
đầy đủ, thế là ổn rồi, đảm bảo được ba cái đó là thái bình rồi, giữ yên được rồi.
Và vì vậy nhà nước đó có tình tuyên huấn, nhà nước đó là nhà nước tuyên truyền,
nhà nước đó là nhà nước giáo hóa, vận động chứ không phải là nhà nước làm việc.
HÌnh như là cách đây ít lâu, khoảng mấy chục năm, có người nói một cách hơi mỉa
mai là ở Việt Nam làm gì có Bộ Nông nghiệp, chỉ có Bộ Khuyến Nông thôi. Đó
chính là vấn đề, Nhà nước chỉ động viên tuyên truyền chứ không phải làm việc.
Các ông quan làm việc không nhất thiết phải có tài năng mà cần thiết hơn là được
dân nghe, nói cho dân nghe. Muốn được như vậy thì phải đào tạo theo cách như vậy.
cho nên đào tạo theo hai yêu cầu là minh kinh và năng văn.
Minh kinh là nắm vững kinh điển Nho giáo, hiểu rõ kinh điển Nho
giáo, biết kinh nghiệm cai trị theo đúng Nho giáo. Tức là đường lối chính trị,
đó là đường lối chính trị nên anh phải minh kinh.
Hai nữa là năng văn, anh phải
biết làm văn chương để mà động viên được dân. Các bạn nên biết ngày xưa các chiếu
chỉ của nhà vua đưa xuống cũng là văn chương, mà tờ bẩm của quan lại đưa lên
cũng là văn chương, vua quan đều viết văn chươgn. Các bạn đọc thử mà xem, những
bài chiếu như chiếu của Tự Đức, đọc rất xúc động, xúc động lắm. Không phải Tự Đức
tồi thì ta coi không ra gì đâu. Chiếu của Tự Đức hay lắm, động viên với tất cả
tinh thần thương dân, ta nói không bằng đâu. Đó là cái thứ văn chương cần được
dùng để động viên nhân dân. Cho nên đi thi là minh kinhvà năng văn. Các nhà nước chuyên chế đều coi việc bồi dưỡng
tài năng, bồi dưỡng nhân tài, việc tổ chức học hành và chọn được nhân tài là việc
lớn của đất nước. Vì vậy nhà vua rất coi trọng việc học. Các ông vua ngày xưa đều
thường làm mấy việc. Một là nhà vua phải nghe kinh diên, tức là phải nghe giảng, nghe giảng kinh điển
ở các trường quốc họ và vua đích thân chủ trì các cuộc thi, thì Đình là vua đích thân chủ trì. Như thế tức
là tỏ thái độ đề cao việc họ, đề cao việc chọn nhân tài.
Đất nước dưới chế
độ chuyên chế phương Đông gồm vua quan ở cung đình và lỵ trấn (tức là bộ máy
nhà nước được đóng ở cung đình – trung ương, còn lỵ trấn là ở tỉnh huyện). Ở
ngoài cung đình và lỵ trấn là nông thôn. Cung đình và lỵ trấn lọt thỏm giữa một
biển nông thôn. Một nước mà hầu như tất cả là nông thôn, tức là gồm các làng,
vô vàn các làng như vậy, trong đó chủ yếu là nông dân lao động. Người nông dân
trong các làng sản xuất tự túc và cống nạp. Tự túc là bởi vì tự trong cái ruộng
của anh phải đủ nuôi anh, nhưng đồng thời anh cũng phải làm nghĩa vụ đóng góp nữa.
Nên sản xuất đó là sản xuất tự túc và cống nạp. Phần cống
nạp thì đưa lên vua; vua phân phối lại cho các quan lại và binh lính, và
để cho vua tiêu dùng. Mong ước lớn nhất của nhà vua là thu đủ thuế, bắt đủ phu,
bắt đủ lính và ông quan phải làm nhiệm vụ đó, phải động viên tuyên truyền như
thế nào để dân vui lòng làm những việc đó. Trong cái thể chế như vậy, quan sống
bằng bổng lộc mà sân sống bằng của cải tự túc của mình. Ở đây nên phân biết bổng và lộc. Lộc là
cái vua cho, tức là như kiểu trả lương của ta hàng ngày, trả lương hoặc bằng
tháng hoặc bằng năm, đó là lộc. Nhưng thường lộc của phong kiến là “bạc”, không
nhiều, quan ngày xưa lương ít chứ không nhiều. Cho nên ngày xưa có ông tri phủ
vẫn chưa có dép để đi, ở nhà vợ vẫn phải cày cấy lấy mà ăn chứ lương bổng không
ăn thua gì. Có lẽ các quan ở triều đình thì khá hơn, cho nên Cao Bá Quát nói:
“Đỉnh chung chiếc rưỡi cái lương vàng” tức là lương tháng được mười lăm đấu gạo.
Ông quan huấn đạo dạy học ở một huyện nên được như vậy. Chắc cũng chỉ như giáo
viên cấp 1 của ta ngày nay, chứ không hơn gì đâu. Thế thì quan không thể sống bằng
lộc mà phải sống bằng bổng, người ta lấy bổng hậu bù cho lộc bạc. Bổng chủ yếu
là phần biến xén của cấp dưới và của dân. Dân đã đến quan thì phải có các lễ vật,
cái đó người ta không coi là hối lộ vì quan là cha mẹ dân, cho nên dân mà đến
quan là đến với cha mẹ, có biếu xén cha me thì không có chuyện gì là tham nhũng
cả! Vì vậy đã đến quan thì ít ra cũng có một cơi trầu, một be rượu, đó là những
thứ tối thiểu, mà không có những cái đó là vô lễ. Nhưng mà bên cạnh cơi trầu,
chai rượu thì cũng phải có cái gì nữa như mấy đấu gạo nếp, một con gà hay là gì
khác nữa. Còn quá hơn nữa thì mới là hối lộ. Và hình như ngày xưa quan cũng sợ
bị mang tiếng là hối lộ cho nên đưa cái gì thì cũng phải đưa có lễ ý, tức là đưa có
danh nghĩa họ mới nhận, chứ đưa không có danh nghĩa là họ cũng sợ, không dám nhận.
Cho nên quan sống bằng bổng và cái đó gọi là vi thiềng. Vi thiềng tức
là “lòng thành nhỏ mọn”, tức là biểu thị sự cung kính, lòng thành nhỏ mọn đối với
cha mẹ.
Ngày xưa nói
quan văn sống sướng hơn dân cày. Bởi vì kẻ sĩ chỉ có hai con đường: Một là ở
nhà cày ruộng, tự túc và cống nạp. Hai là làm quan. Vậy nên “Văn chương phú lục
chẳng hay – Trở về làng cũ học cày cho xong”. Chỉ có một cách là đi học làm
quan, hai nữa là đi cày. Giữa hai việc này thì làm quan dù sao cũng mát mặt
hơn, sống sung sướng hơn, sống vinh dự hơn. Bởi thế ở trong nước tạo ra một tình
hình là hiếu học, người nào cũng muốn cho con mình đi học, cho con được mát mặt
hơn, đó là một. Hai là thanh niên nào cũng cố gắng học, chỉ bất đắc dĩ lắm
không học được mới thôi, đây chính là sự hiếu học phương Đông, được đẻ ra trên
cơ sở này, cái cơ sở dựa trên một thực tế có thật. Cái thực tế đó làm cho số
người đi học ở trong nước rất đông nên khi người Pháp sang đây họ rất ngạc
nhiên là tại sao dân Việt Nam đi học đông như thế. Xóm nào cũng có người đi học,
ở nơi vắng vẻ nhất cũng có người đi học. Nó rất khác với phương Tây, ở phương
Tây người ta học phần nhiếu ở một số ít đô thì và ở trong nhà thờ, một ít chứ
không phải đông. Đa số người dân ở nông thôn là không biết chữ. Đó là một điều
người ta rất kinh ngạc. Vậy nó mới đẻ ra một đẳng cấp sĩ phu. Sĩ cũng
là dân nhưng là dân đặc biệt. Họ đặc biệt ở mấy chỗ: Thứ nhất, người nông dân
ít khi ra khỏi làng, người nông dân lên đến huyện là xa lắm rồi, là người được
mở mang trí tuệ ghê gớm lắm rồi. Sĩ thì đi nhiều, đi học chỗ này chỗ kia, bạn
bè nhiều, do đó quan hệ của sĩ rộng hơn chứ không phải chỉ sống trong làng. Thứ
hai, sĩ có tổ chứ xã hội. Nông dân thì không có tổ chức xã hội, nông dân chỉ sống
với làng thôi, họp làng thôi. Còn sĩ thì có văn hội, sĩ hội tức là các tổ chức
đoàn thể, phường hội của họ. Và tổ chức văn hội, sĩ hội có quan hệ rộng hơn
làng. Thứ ba là vận mệnh của họ khác.
Tôi
nói vắn tắt về chuyện thi cử. Ngày xưa có ba cấp thi: Một là thi Hương. Hai là
thi Hội. Ba là thi Đình.
Thi Hương nói là
hương chứ thực ra là thi liên tỉnh. Ở Việt Nam trước đây có bảy trường thi
Hương. Ở Hà Nội, ở Nam Định cho tất cả Bắc Bộ là hai trường; Thanh Hóa có một
trường, vì Thanh Hóa là quê hương của vua nên được tổ chức thi Hương riêng; Nghệ
An có một trường; Thừa Thiên một trường; Bình Định một trường và sau này Gia Định
một trường nữa. Như thế là liên tỉnh chứ không phải hương chỉ gồm một tỉnh. Thi
Hương có hai loại đỗ: tú tài và cử nhân. Tú tài là những người đỗ vớt, cử nhân
mới là đỗ chính thức (thường thì cứ một cử nhân thì có ba tú tài). Tất cả những
người đỗ cử nhân mới có quyền đi thi Hội, tức là phải vào học ở Quốc Tử Giám để
được thi Hội. Thi Hội không có danh vị gì. Thi Hội là thi với tư cách như là kiểm
tra chứ không có học vì. Tất cả những người đậu thi Hội mới được vào thi Đình.
Thi Đình mới chia ra các loại tiến sĩ. Có ba cấp tiến sĩ: Cấp thứ nhất là đệ nhất giáp tiến sĩ gồm có ba danh vị: một là trạng nguyên, hai là bảng nhãn và ba là thám hoa. Danh vị thứ
hai là đệ nhị
giáp tiến sĩ tức là hoàng giáp, chỉ có một
tên là hoàng
giáp, và đệ tam giáp tiến sĩ tức
là tiến sĩ. Tôi lưu ý, một là nhà Nguyễn không có
trạng nguyên. Nhà Nguyễn có một lệ là không đặt hoàng hậu, không đặt tể tướng
và không lấy trạng nguyên. Đó là những vinh dự gần ngang vua, mà quá to. Không
đặt hoàng hậu, chỉ đặt là phi; không lấy trạng nguyên, chỉ lấy bảng nhãn. Không
đặt tể tướng. Vì nhà nguyễn không muốn có người nào xấp xỉ quyền vua nên bỏ ba
chức đó. Nói đến trạng nguyên, các anh nhớ đấy là của triều Lê hay Trần chứ
không có ở triều Nguyễn. Hai là ở triều Nguyễn có đặt một danh vị nữa là phó bảng. Phó bảng
là người đỗ vớt ở thi Đình. Phó bảng lại chỉ có ở triều Nguyễn còn các triều
khác không có. Chẳng hạn cụ Phan Châu Trinh là phó bảng hoặc cụ Nguyễn Sinh Sắc
cũng là phó bảng.
Thi cử được tổ
chức như vậy dẫn đến tình trạng có người đi thi mà đỗ đạt, có người đi thi lại
không đỗ gì cả. Người thi đỗ được làm quan, nhưng tùy thuộc vào việc đỗ đến mức
nào. Đỗ càng cao chức quan càng lớn. Nếu người nào đó, vì lý do riêng mà không
muốn làm quan thì trở thành thân sĩ, về quê được cấp ruộng không phải đóng thuế,
có chỗ sang trọng trong “chiếu giữa làng”, thỉnh thoảng còn được biếu xén, nhìn
chung là được trọng vọng, kể cả quan hưu. Người không đỗ thường làm thầy thuốc,
thầy đồ, thầy địa lý, thầy tướng số (nho, y, lý, số) nhưng dường như không có
ai làm thầy phù thủy. Họ làm những công việc này vì họ là người hiểu được Kinh Dịch, họ tồn tại
tương tự các giáo sĩ ở phương Tây, và qua thực tế tồn tại của mình, họ góp phần
làm cho Nho giáo có màu sắc tôn giáo. Nguyễn người không đỗ đạt tạo ra trong xã
hội một lớp người là dân nhưng không là dân, nhiều người trong số họ tự cho
mình là thầy của dân, là lớp người trung gian giữa dân và vua. Tuy nhiên kẻ sĩ
– trí thức ở Việt Nam không giống như trí thức phương Tây trung cổ, trí thứ là
giáo sĩ của nhà thờ; khi đô thị ra đời thì có thêm tầng lớp trí thức tự do như
thầy thuốc, thầy kiện, nghệ sĩ, nhà báo. Còn ở phương Đông, kẻ sĩ không có quan hệ với
nhà thờ nên họ hoàn toàn tự do. Nhà nho ở làng xã trở thành một tầng lớp trí thức
nông thôn. Theo tôi, lớp trí thức này không gắn bó nhiều với đô thị. Mặt khác
do yêu cầu minh kinh và năng văn mà những nhà nho này không gắn bó với
khoa học tự nhiên, đẩy tới thói quen kinh viện, một kiểu nô lệ của sách vở, từ
chương. Cần lưu ý, gần 3000 tiến sĩ trong lịch sử thi cử ở Việt Nam trước đây
chủ yếu là người làm thơ, viết văn. Ngoài một số bậc túc nho nổi tiếng, còn lại
cũng không có gì ghê gớm lắm.
Quan niệm
của nhà Nho đối với việc tổ chức xã hội
Như
chúng ta đã thấy trong lịch sử dân tộc, Nho giáo giữ một vị trí quan trọng như
thế nào và Nho giáo còn in những dấu ấn sâu đậm trong đời sống chúng ta hôm nay
ra sao. Trong lịch sử của nó, Nho giáo có ảnh hưởng chủ yếu ở các nước Đông Á gồm
Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Hôm nay dù các nước Đông Nam Á đã
khá phát triển thì vẫn chưa thể bằng các nước Đông Á như Nhật Bản chẳng hạn.
Trong giới nghiên cứu gần đây đang đặt thành vấn đề trả lời câu hỏi là Việt Nam
chúng ta vừa là Đông Á vừa là Đông Nam Á. Trong thời hiện đại, các nước nằm
trong khu vực chịu ảnh hưởng của Nho giáo do những lý do lịch sử riêng mà phát
triển theo hai xu hướng: từ Nho giáo đi tới Maoisme và từ Nho giáo đi tới công
nghiệp hóa. Với một loạt các yếu tố khác hẳn so với mô hình phong kiến phương
Tây, thậm chí khác cả mô hình các nước cùng chịu ảnh hưởng của Nho giáo khác,
phải chăng mô hình xã hội truyền thống của chúng ta được cấu trúc theo nguyên tắc:
vua – thần dân, trong đó vua đứng đầu một hệ thống gồm vua – quan – lại – lệ,
còn thần dân nông sĩ – nông – công – thương; bộ phận sĩ trong thần dân là bộ phận
duy nhất có một sự gần gũi nào đó với hệ thống do vua đứng đầu. Tôi phác họa ra
mô hình này vì muốn qua đây phân tích tính chất quan liêu của bộ máy cai trị
Nhà nước do vua đứng đầu. Nếu nói quan liêu thì trước hết phải nói tới những
người lấy giấy tờ làm phương tiện làm việc chính, đó là những công thức, nhưng
xưa kia chúng ta không có công chức.
Trong
xã hội Việt Nam ngày trước, quan là cha mẹ dân, họ không cần phải làm nhiều,
công việc chính của họ là làm cho yên dân, thu phục dân bằng các biện pháp
tuyên truyền, dự bình văn, chủ tế lễ. Quan không làm hại dân, không để thư lại
làm bậy – được xem là quan thanh liêm. Cũng có những ông quan không lo làm việc,
không bày đặt việc phát triển kinh tế, thậm chí không biết làm việc hành chính,
không sành văn chương, không quen bắt cướp – những ông quan như thế gọi là quan
nhàn. Nếu quan phần lớn được tuyển dụng từ thi cử thì “lại” lấy ở địa phương vì
họ am hiểu địa phương, biết thảo giấy tờ. Những người này thường lắm mánh khoé,
chính họ là lớp người thao túng việc quan, trở thành bộ phận chủ yếu sách nhiễu
dân như kiểu “quan xa bản nha gần”. Nguyễn Du nói “Một ngày lạ thói sai nha –
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”. “Lại” không được làm quan, “lại” biến quan
thành cái bung xung cho “lại” kiếm ăn. “Lệ” là anh lính không ra trận, ở lại hầu
quan, chuyển thư tín, truyền lệnh, giữ cửa quan. Anh này cũng có tý chút “quyền
lực không thành văn” nên cũng dở thói hạch sách, ăn đút lót. Cơ chế này hoàn
toàn khác bộ máy cai trị kiểu phương Tây với thủ tướng và bộ trưởng là chính
khách, từ thủ trưởng trở xuống là công chức, dù thay đổi thủ tướng và bộ trưởng
thì bộ máy vẫn vận hành. Mặt khác, ở phương Đông, do có khuynh hướng giữ yên ổn,
Nhà nước phong kiến chuyên chế chủ trương “ức thương”, thương nhân bị khinh bỉ,
bị xếp vào hạng người cuối trong xã hội. Lớp cuối cùng trong bộ máy quan liêu
phong kiến phương Đông là “hào cường”, đây là lớp đàn anh trong làng, giữ vị
trí hào lý hoặc thân hào. Lớp này thường liên mình với quan lại. “Hào cường” kiếm
ăn bằng “phù thu lạm bổ”, bớt xén, vu oan giá họa. Trong điều kiện làng xã được
tổ chức như đã trình bày ở trên, làng xã sinh ra “hào cường” là tất yếu. Tôi
nghĩ tình trạng tham nhũng, sách nhiễu dân ở một số làng xã hiện nay thực chất
là sự mô phỏng trỏ lại mô hình làng xã kiểu cũ. Người ta “chửi” thì dễ nhưng chỉ
ra đâu là vấn đề cơ bản phải sửa thì không biết ở đâu, phải làm gì, hoặc nghi
ngại, có khi còn nghĩ là người ta nói xấu. Thiết nghĩ đây cũng là một trong những
vấn đề then chốt của Việt Nam và phương Đông.
Trước hết ta hãy xem, thái độ nhà nho đối với chế độ chuyên chế là như thế nào?
Tôi nhắc lại mấy đặc điểm của chế độ chuyên chế:
– Một là tập trung quyền vào một người: độc tài
– Hai là cha truyền con nối: dòng máu
– Ba là cai trị bằng bộ máy quan liêu
– Bốn là dùng một đội quân thường trực để thống trị.
Thế thì nhà nho tán thành cái gì và không tán thành cái gì?
Nhà nho không tán thành độc tài nhưng nhà nho cần xã hội thống nhất; nhà nho chủ
trương thống nhất vào một ông vua để đảm bảo tình trạng quy về một mối cho xã hội.
Vì vậy, nhà nho tôn trọng dòng chính thống nhưng lại phản đối độc tài.
Vua Lỗ Ai Công hỏi Khổng Tử: Có một câu nào nói ra có thể làm mất nước được
không? Khổng Tử trả lời: Nói ra mà để mất nước ngay thì cũng khó, nhưng nếu như
có một câu nói như vậy thì đó là “Anh hãy nghe ta”. Tức là vua mà bắt người ta
nghe mình thì mất nước. Mạnh Tử công kích các nhà vua dùng hiền tài mà lại bảo:
Anh hãy bỏ cái học của anh đi mà nghe.
Thế tức là nhà nho chủ trương thống nhất về một mối, nhưng nhà vua phải nghe hiều
tài. Nhà nho quan niệm rằng không phải họ chỉ giáo hóa dân mà họ còn giáo hóa cả
vua nữa. Mạnh Tử nói trách nhiệm của kẻ sĩ là “cách quan tâm chi phi” (sửa chữa
những sai lầm trong lòng vua). Nho giáo là học thuyết đặt ba ngôi quân, sư, phụ
(vua, cha, thầy) ngang nhau. Như thế có nghĩa nhà nho thấy độc tài là cần thiết
để thống nhất nhưng đồng thời nhà nho lại không muốn nền cai trị độc tài, đó là
một điều cần chú ý.
Thứ hai, nhà nho không ưng dòng máu; nhà nho chỉ ưng dựa vào tài năng, chứ dựa
vào dòng máu thì nhà nho không có phần gì cả. Cho nên nhà nho cũng không tán thành
dòng máu mặc dù tán thành dòng chính thống, nhưng cũng không tán thành giàu
sang. Phú quý mà dựa vào dòng máu thì nhà nho không tán thành.
Quan liêu chính là chỗ nhà nho thích, nhưng quân phiệt lại là cái nhà nho ghét.
Khi Khổng Tử sang nước Vệ. Vệ Linh Công hỏi Khổng Tủ về chiến tranh, sớm mai Khổng
Tử bỏ đi. Khổng Tử nói cái ông vua lần đầu tiên gặp người ta mà đã hỏi chuyện
chiến tranh thì ông vua ấy không có đức cho nên bỏ nước Vệ ra đi. Các nhà nho về
sau đều như vậy, hễ vua động binh là có vô số sớ can ngăn không nên động binh.
Thường thì nhà nho rất ghét chiến tranh và thường hay chế giễu quan võ. Quan
văn và quan võ ở ta luôn luôn trong tình trạng chê bai lẫn nhau. Nhân tiện tôi
đọc các anh nghe một bài thơ của Nguyễn Công Trứ rất thú vị. Đây là giai thoại
nên không biết đúng sai thế nào. Chuyện kể rằng khi Lê Văn Duyệt kéo quân ra Bắc,
là một vị tướng rất nghiêm khắc, nên hễ quân của Lê Văn Duyệt đi đến đâu thì dọc
hai bên lề đường một dặm ai nấy đều phải sơ tán. Người, chó, mèo đều phải sơ
tán. Thế mà Nguyễn Công Trứ không những không sơ tán mà lại nằm dưới đường. Người
ta bắt Nguyễn Công Trứ đến trước mặt Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt hỏi, Nguyễn
Công Trứ trả lời mình là học trò, ốm nên không đi được. Lê Văn Duyệt bảo nếu là
học trò thì phải làm một bài thơ về võ. Nguyễn Công Trứ có bài thơ thế này: Đoái xem văn võ sắp hai hàng – Bên văn sang bên võ cũng sang – Dù tía lọng xanh văn đủng đỉnh – Gươm vàng thẻ bạc võ nghênh ngang – Văn dìu cánh phượng yên trăm họ - Võ thét oai hùm dẹp bốn phương – Gặp hội thái bình văn trước võ – Võ nào dám sánh khách văn chương. Từ đầu bài thơ đã thấy
văn – võ không ngang nhau (câu một, câu hai) bên võ “cũng sang” là thấp hơn. Rồi
thì buông câu tán (câu 3, câu 4): chữ “đủng đỉnh” với chữ “nghêng ngang” thì “nghêng
ngang” là kém hơn; câu 6 thì một bên đẹp, một bên không đẹp. Hai câu cuối là
tâm trạng nhà nho, cách nghĩ của nhà nho đối với văn, võ là như vậy.
Vậy thì đối với chế độ chuyên chế, nhà nho tán thành tính thống nhất, tán thành
tính quan liêu của nó nhưng không tán thành tính độc tài của nó, tính dòng máu
của nó và tính quân sự của nó. Phải hiểu nhà nho là như vậy. Nhưng mà các bạn
nên biết nhà nho bảo vệ rất có hiệu quả chế độ chuyên chế là ở chỗ nào? Đó là:
1. Dòng thống nhất, 2. Sự thống nhất về tay vua, 3. Trung nghĩa. Dòng chính thống
là phải bảo vệ. Sự thống nhất của vua, cấm không được loạn, cấm không được tiếm
quyền vua. Coi trung nghĩa là một đạo đức lớn. Chỉ với ba điều đó mà nhà nho đã
bảo vệ được chế độ chuyên chế rất tốt. Ở đây phải nói thêm một điều nữa. Ta thường
nói nhà nho là “ngu trung”. Nhưng các bạn xem phim, các bạn sẽ thấy các ông
quan của các nước phong kiến phương Tây khi gặp vua thì quỳ xuống hôn gấu áo của
vua với một thái độ hèn hạ. Nhìn sẽ thấy thái độ hèn hạ. Còn ông nhà nho đứng
trước vua là cầm cái “hốt” (cái gương) nhìn mặt mình ở trong gương xem có
nghiêm chỉnh hay không nghiêm chỉnh chứ không có chuyện quỳ xuống hôn gấu áo,
đó là thứ nhất. Thứ hai, tôi kể chuyện Lý Trấn Quán tự chôn sống. Thử tưởng tượng
dễ gì chúng ta làm được như vậy? Khi chúa Trịnh Tông chạy ra khỏi Thăng Long, đến
Từ Liêm định sang bên kia sông thì xung quanh không còn ai nữa, mới hỏi ở đây
có ông tiến sĩ nào không? Người dân địa phương bảo rằng ở đây không có ông tiến
sĩ nào cả. Nhưng thực ra có một ông tiến sĩ là Lý Trần Quán, ông ấy đang ở đây.
Trịnh Tông cho mời lại và nói thật tình cảm. Lý Trần Quán là một nhà nho nên
ông không bảo vệ được nhà vua vì thế mới gọi một học trò của mình là một tay
đàn anh có thế lực, có tay chân và giao cho anh này bảo vệ chúa đi qua sông.
Anh này lại không bảo vệ chúa qua sông mà đem chúa nộp cho Tây Sơn. Dọc đường
đi, Trịnh Tông tử tự chết. Sự thật thì Lý Trần Quán không giết chúa, bản thân
ông không có ý định giết chúa. Nhưng vì học trò của ông giết chúa, vì ông giao
chúa cho người học trò. Thế nên ông bảo, ta không giết chúa nhưng trách nhiệm
chúa chết thuộc về ta, nếu ta không chết thì không rõ được tấm lòng của ta trước
hậu thế. Ông chọn con đường chết để tỏ ra ông không liên quan đến việc giết
chúa. Lý Trần Quán nhờ nhà chủ mua cho quan tài và vải rồi ông nằm xuống cho
người ta chôn sống mình. Xung quanh mọi người khuyên ông, nhưng khuyên can thế
nào cũng không được. Ông cảm ơn mọi người và khi nói lý do xong rồi, Lý Trần
Quán nằm xuống cho người ta chôn sống. Nhưng khi đã nằm xuống và người ta bắt đầu
đổ đất, ông lại bảo khoan đã, rồi ngẩng lên và bảo: đối với chúa chuyện chết
này là trọn nhưng đối với mẹ là chưa trọn bởi vì mẹ còn sống. Ông ngoảnh về
phía mẹ, lạy mấy lạy và làm một câu đối nói rõ chuyện mình chịu vì việc chúa mà
có lỗi với mẹ. Xong rồi, cảm ơn lần thứ hai, ông mới nằm xuống quan tài cho người
ta chôn.
Các
bạn thử tưởng tượng ta làm có dễ đâu! Không dễ mà làm được như vậy! Vì chỉ khi
mình biết cái hành động của mình là chính nghĩa thì mình mới làm được như vậy.
Chính nghĩa, người ta gọi là “vằng vặc như trăng sao” thì mới làm được như vậy,
chứ các anh thử liệu xem ta có mấy người bảo vệ sự nghiệp lớn của dân tộc được
như vậy? Không dễ đâu.
Cho nên chuyện tin ở chính nghĩa mới là động lực của trung chứ không phải là
cái hèn hạ làm tay sai đâu. Biết bao người được các tỉnh và trung ương gọi là
“ngôi sao đất nước” là đúng đấy. Họ là ngôi sao đất nước thật mà họ là nhà nho
thật. Mặc dầu họ trung thành với vua. Và cũng phải nói thêm điều này, là lúc
nào họ thấy họ làm việc với nhà vua còn đắc ý, tức là họ làm việc được thì học
làm, nếu không là họ bỏ về, họ không làm nữa chứ họ không chống lại. Cái điều
này rất quan trọng. Ở những nơi khác, cá nhân không đồng ý thì chống lại. Nhưng
ở đây không đồng ý thì rút lui chứ không chống lại. Đa số các danh nhân mà ta
biết, họ chỉ làm quan một thời gian rồi họ bỏ về, không làm nữa bởi vì họ gặp
những chuyện không bằng lòng. Mà không bằng lòng thì về nhà chứ không chống lại.
Không có cuộc nổi dậy nào chống lại triều đình cả, chỉ có rút lui không có chống
lại. Nhà nho không bao giờ chống lại triều đình, cho nên nhà nho bảo vệ chế độ
chuyên chế rất vững, đó là một.
Nhà Nho trong làng xã và gia
đình
Nhà
nho bảo vệ rất chắc tổ chức làng họ, gia đình (nông thôn) ở chỗ nhà nho đề cao
thờ cúng tổ tiên, đề cao họ hàng, tôn tộc. Nho giáo là một học thuyết bảo vệ sự
biết ơn tổ tiên, thờ cúng tổ tiên, tình họ hàng và nề nếp gia đình. Đó là những
điều nhà nho làm rất công phu. Nhà nho là người sống tiết kiệm, bản thân sống
cũng rất tiết kiệm. Nhưng có hai việc dù xa xỉ đến mấy cũng được nhà nho hoan
nghênh là: tang và lễ. Tức là cha mẹ chết thì bỏ bao nhiêu tiền ra để làm việc
tang cũng được hoan nghênh, không tiếc gì với cha mẹ. Hai là tế, cúng tế tổ tiên
thì xa xỉ mấy cũng được. Nhà nho ngày xưa trong nhà làm thịt một con gà mà ăn
cũng phải suy nghĩ, ăn gì qua quýt thế thôi chứ không dưng mà làm thịt con gà để
ăn, trừ khi có khách. Nếu không có khách mà tự dưng làm thịt gà ăn thì nhà nho
coi đó là xa xỉ, ít làm. Nhưng mà cúng tế thì dù là làm lợn, làm bò, làm gì
cũng được hết. Tức là đối với hai chuyện tân khách và tang lễ là không tiết kiệm,
không tiếc của. Cho nên việc xây mộ, chuyện làm từ đường, chuyện làm tang, làm
tế lễ, làm cho họ hàng thì nhà nho rất là chú tâm, là một.
Thứ hai là tình nghĩa, tình nghĩa với bà con. Tôi nghĩ là có lẽ là không có người
nào chu đáo với bà con như là các nhà nho. Tôi xuất thân trọng một gia đình nhà
nho, gia đình tôi là gia đình nhà nho mười mấy đời. Tôi có một ông bố, một ông
cậu mà tôi nghĩ rằng mấy ai có thể sống được như thế. Bố đối với con đến thế là
cùng, không có cách gì hơn nữa. Và tôi cũng có cháu, tôi cũng có con, nhưng tôi
không bao giờ làm nổi những điều bố tôi đã làm cho tôi, cũng như những điều mà
cậu tôi đã làm cho tôi, không có đâu. Cực kỳ chu đáo. Các anh để ý xem trong
gia đình các anh những ông bác, những ông chú, những ông cậu, những ông bố là
nhà nho thì đối với ta rất chí tình. Cái đó nó ràng buộc, nó làm cho tình cảm
trong họ hàng là rất lớn.
Cái thứ ba là nền nếp gia đình. Gia đình nhà nho bấy lâu nay ta tưởng nhầm, cho
rằng gia đình nhà nho là gia đình nam quyền, phụ quyền và đàn áp phụ nữ, đàn áp
mọi chuyện như vậy nên ta cho rằng gia đình nhà nho là gia đình tiêu cực. Nó là
cái đó, nhưng đồng thời nó cũng có những cái rất tốt mà ta không biết. Cái này
thì tôi không trình bày được đầy đủ. Các anh có thể đọc bài tôi viết Nho giáo và gia đình truyền thống trên tạp chí Xã hội học số 2 năm 1989. Tôi cho rằng Nho giáo
đã để lại rất nhiều kinh nghiệm về vấn đề xây dựng gia đình, giải quyết quan hệ
giữa cha và con thế nào; giải quyết quan hệ giữa vợ và chồng thế nào; giải quyết
quan hệ giữa anh và em thế nào; giải quyết quan hệ giữa bố chồng và nàng dâu,
giữa mẹ chống và nàng dâu thế nào, giữa chị em dâu thế nào?… Tất cả những cái
đó họ đều có kinh nghiệm. Tất nhiên trong những gia đình, thực tế không phải ai
cũng làm được như vậy. Có nhiều cái sau này không làm được bởi vì quyền lợi
kinh tế, tính cách… chứ còn chính họ nghĩ rất chu đáo về tất cả các chuyện này.
Tôi sống với bố mẹ tôi, tôi biết, bố tôi là nhà nho, mẹ tôi cũng là con nhà
nho. Nhà tôi là nhà cực kỳ nghèo mà thực ra bố tôi cũng không làm được gì cả, mẹ
tôi làm hết. Thế nhưng tôi thấy trong cách đối xử giữa mẹ tôi và bố tôi, không
bao giờ tôi thấy mẹ tôi phàn nàn về bố tôi mà tôi biết. Mà tôi là con một. Cũng
như không bao giờ bố tôi làm một chuyện gì để con cái nghĩ rằng mẹ có thế này,
thế kia. Tất cả đều giữ để trong gia đình ai cũng có vị trí của người đó và rõ
ràng. Mà mẹ bao giờ cũng nói là làm thế này là làm cho chồng. Mặc dầu tất cả mọi
việc, bà ấy làm cả chứ ông bố có làm gì đâu. Nhưng bao giờ con cái cũng hiểu rằng
mẹ làm là làm thay bố chứ không phải là mẹ có quyền, quyền này là quyền của bố
nhưng mẹ lại làm thay hết. Cho nên chữ “nội tướng” của ta là có ý nghĩa. Các bạn
biết trong gia đình có nhường nhịn nhau thì mới êm ấm được, tôn trọng nhau thì
mới êm ấm được, chứ lấy cái bình đẳng ngoài xã hội đem áp dụng vào gia đình là
rất dở, không hay. Chỉ có một điều là trong gia đình như thế thì thanh niên là
dễ bị “hy sinh”. Thanh niên không phát triển được vì trong quan hệ cha mẹ chú
bác như vậy thì thanh niên bao giờ cũng bị hy sinh. Giải quyết gia đình thế nào
đó để thanh niên có tự do và đồng thời thanh niên đến với xã hội một cách rộng
lượng, chứ nếu không ở trong một gia đình quá êm ấm thì thanh niên không muốn
đi ra ngoài xã hội. Thế thì phải làm thế nào để thanh niên được chuẩn bị vào xã
hội, có tự do, có nhân cách? Có một điều, không biết thế nào, cái này tôi chỉ nói
sơ sơ để sau này các anh nghiên cứu kỹ. Có một điều là tôi không bao giờ làm
cái gì xấu, thì đó không phải vì cái gì khác mà là vì tôi sợ bố mẹ tôi, tôi sợ
làm ảnh hưởng tới bố mẹ tôi chứ không phải vì cái gì khác. Không muốn làm cái
gì để bố mẹ mang tiếng, đó chính là điều quan trọng. Nếu như chúng ta biết tổ
chức một gia đình như vậy và đồng thời giải quyết một điều quan trọng nữa là
làm thế nào để thanh niên được tự do thì tôi cho rằng cái đó để lại rất nhiều
kinh nghiệm.
Có
một chuyện, cái này tôi nói cũng chưa được đầy đủ, cần được nghiên cứu nhiều nữa.
Các bạn biết ở các nước Tây Âu và các nước Bắc Âu là các nước phát triển cao hiện
nay, ba vấn đề khó khăn nhất là người già bơ vơ, cha mẹ già rồi thì con cái mặc
kệ, muốn đi vào câu lạc bộ, vào dưỡng lão đường mà sống thì đi, chứ con cái
không quan tâm, chỉ mươi mười lăm ngày chúng mới gọi điện một lần thế thôi chứ
đến thăm thì nó cũng không đến. Vì vậy họ sống rất bơ vơ, đó là điều thứ nhất,
không thiếu thốn nhưng mà bơ vơ. Thứ hai là cháu không sống với ông bà. Mà người
già khổ mấy thì khổ chứ sống với cháu là sướng nhất, tôi có cháu tôi biết. Thế
nhưng ở đấy, trẻ con lại không ở với ông bà, mà bố mẹ chúng đi làm nên chúng
thiếu tình cảm, cái đời sống tình cảm của chúng nghèo chứ không phong phú, đó là
cái thứ hai. Và cái thứ ba là ly dị lung tung, lấy nhau rồi ly dị, thậm chí người
ta tính ra ở các nước đó 80% là lấy vợ đến lần thứ ba, ít có trường hợp sống với
nhau chung thủy. Cho nên đấy là sự hỗn loạn, vì rằng những đứa con không có
tình cảm, sống trong những gia đình không êm ấm thì về sau không thể nhân ái được.
Cái quan trọng là nhân ái, con người khó có thể nhân ái được trong cuộc sống
như vậy. Cho nên cái tàn bạo là khó tránh được. Cái vấn đề gia đình mà chúng
tôi làm ở Viện Xã hội học được nhiều nước hoan nghênh, được nhiều nước đầu tư
chính là giải quyết những vấn đề như vậy. Châu Âu thấy rằng không biết thế nào
mà Nhật Bản là ít có chuyện ly dị nhất, Việt Nam cũng ít. Nhưng Việt Nam bây giờ
đô thị bắt đầu có nhiều rồi đấy. Tôi nói không biết có đúng không chứ Việt Nam
hay bắt chước cái xấu của người ta hơn là bắt chước cái tốt. Nhiều cái người ta
vứt đi thì mình học. Về chuyện xây dựng gia đình như thế nào, tôi cho rằng, Nho
giáo để lại rất nhiều kinh nghiệm, tất nhiên cũng có cái xấu, cái tốt chứ không
phải cái gì cũng tốt cả, nhưng điều đó để lại rất nhiều kinh nghiệm…
Như
vậy Nho giáo vừa củng cố họ bằng việc thờ cúng tổ tiên, vừa củng cố nề nếp gia
đình, và bằng cái nghĩa tình bà con họ hàng nên nó củng cố nề nếp gia đình rất
có hiệu quả.
Đối với gia đình thì như vậy, đối với làng, nhà nho cũng góp phần củng cố sự tồn
tại của nó. Nhà nho ở trong làng, họ là một thành phần của cộng đồng, nhưng là
thành phần ưu tú vì họ là những người có chữ nghĩa, sống thanh bạch, không tham
gia bóc lột. Họ thường được dân làng kính trọng, gửi gắm con cái để dạy bảo,
tham khảo ý kiến khi gia đình có việc cần, nhiều người còn đứng ra giúp giải
quyết những khúc mắc trong quan hệ làng xóm. Nhà nho chính là tầng lớp “sĩ” của
làng xã, họ tham gia vào cơ cấu tuổi tác hàng giúp, ở đó họ có một tiếng nói nhất
định. Các nhà nho ở làng xã kiêm luôn việc dạy học, mà quan hệ thầy trò xưa kia
rất tốt, học trò kính trọng thầy thực sự, người thầy cũng là tấm gương đạo đức
đáng để học trò noi theo. Đi tết thầy, thăm viếng thầy không chỉ là một thói
quen mà còn là một hành vi đạo đức của học trò, ngay cả cha mẹ học trò cũng ý
thức khá nghiêm túc về việc này.
Không đỗ đạt hoặc đỗ đạt mà không ra làm quan, trở về làng xã, các nhà nho quen
sống ở nông thôn, không quen, không thích sống ở nơi thành thị. Họ không thích
hợp với đô thị hóa, công nghiệp hóa. Thái độ của họ với chế độ chính trị được
xác định tuỳ thuộc vào việc nhà nước bảo vệ ai, đó là nhà nước nào. Tôi thấy
trước đây các nhà nho từng có vai trò quan trọng trong khi góp phần tạo ra những
điều kiện để du nhập chủ nghĩa Mác vào Việt Nam, nhưng khi xây dựng chủ nghĩa
xã hội thì họ có thể là một lực cản vì các nhà nho dễ sợ tự do, dân chủ, sợ đô
thị và công nghiệp hoá.
Từ
Hán Vũ Đế tức là khi Nho giáo được phục hồi và tồn tại đến nay, lịch sử phương
Đông đã trải qua những biến thiên dữ dội và hầu như trong những biến thiên ấy dấu
vết của Nho giáo hiện lên rất rõ. Văn học thành văn ở Việt Nam như chúng ta đã
biết, đã trải qua mười thế kỷ phát triển. Trong nền văn hiến của mình, trong
truyền thống của mình, chúng ta có một tinh thần hiếu học rất cao, nhưng dù sao
trong một số lĩnh vực chúng ta vẫn còn chậm hơn so với Nhật Bản, Trung Quốc. Đặc
biệt người Nhật Bản đã biết tận dụng khá tốt tinh thần hiếu học của truyền thống.
Vì coi học là tu dưỡng, học để làm người nên Nho giáo không quan tâm tới khoa học.
Trong quá khứ, con người Nho giáo mong muốn là trung với vua, ngoan ngoãn, nền
nếp, điều này không sai nhưng không đưa lại một nhân cách phát triển toàn diện.
Tuy vậy vẫn cần học tập ở họ tinh thần hiếu học, siêng năng, tiết kiệm. Ngay đạo
đức Nho giáo cũng không phải là cái đáng bị phủ định hoàn toàn. Những chuẩn mực
đạo đức như biết nghe lời, có trách nhiệm, biết vì nghĩa hy sinh cũng giúp cho
con người hiện đại biết sống không vô chính phủ, biết tự trách mình, biết xấu hổ
khi tranh phần của người khác. Mặt trái của việc học tập theo kiểu Nho giáo là
nghèo nội dung, dễ đưa con người tới động cơ chạy theo danh vị. Nhưng mặt khác
có thể tiếp thu ở đó việc học hành gắn với thi cử sẽ chọn được người tài, tránh
được cái lối cha truyền con nối.
Thực tế những năm gần đây làm cho tôi suy nghĩ và tự đặt ra câu hỏi phải chăng
người Việt Nam có học nhưng nhiều người còn thiếu văn hoá? Trong giờ làm việc ở
các nước công nghiệp, có khát đến mấy họ vẫn làm việc đều, có nơi tôi thấy họ
có thể làm việc bốn giờ liền mà không hút thuốc, không đi vệ sinh. Tôi thấy
trong xã hội có hai nhân vật chính là nhà nho và nông dân. Về nhà nho tôi đã đề
cập tới ở phần trên, ở đây tôi chỉ xin nói thêm là nhà nho không coi trọng lao
động sản xuất nên thường không chịu làm lụng, chỉ chăm học, trồng hoa, quét
nhà. Kẻ quân tử không muốn làm bếp thì có ngày chết đói. Nhà nho ghét giàu
sang, ghét bọn nói bậy, đứng về phía nhân dân, tiếp dân vui vẻ, nhưng dân phải
ngồi dưới, uống chén khác; nhà nho coi dân là ngu chứ không coi họ chỉ là nghèo
hèn. Mà dân thì bao giờ cũng là lực lượng chủ yếu của một xã hội. “Dân là gốc” ở
Kinh Thi đã nói ba mươi bảy thế kỷ rồi: “chèo thuyền là dân, lật thuyền cũng là
dân” cũng được Khổng Tử nói cách đây hai mươi hai thế kỷ. Khổng Tử thấy dân là
người làm ra tất cả, không bảo vệ dân là mất nước, nhưng ông lại xem dân không
đủ tư cách nên cần phải có người làm thầy để dạy dân, phải có vua cai trị dân.
Mạnh Tử là người rất thương dân mà ông vẫn cứ coi dân không đủ tư cách. Chúng
ta thương dân nhưng không thể quan niệm như các ông, điều quan trọng là phải
làm cho dân được ấm no, hạnh phúc.
Nhiều năm nay chúng ta hay nhắc tới vấn đề chống chủ nghĩa cá nhân, nhưng cái
quan trọng lại là trong xã hội đã có cá nhân hay chưa? Trong truyền thống và
cho tới cả ngày nay, chúng ta là con người của cộng đồng, là con người của gia
đình – họ – hàng. Cá nhân chỉ xuất hiện trong xã hội khi có đô thị. Đầu thế kỷ XX, chúng ta
mới có quốc dân chứ chưa phải là người công dân. Quan hệ của chúng ta mới dừng
lại ở quan hệ cha chú, anh em chứ chưa có quan hệ có tính Nhà nước, nghĩa là
chưa có con người độc lập. Tôi nghĩ thật ra chúng ta chưa có cá nhân nhưng lại
có tính ích kỷ, tiểu kỷ của người nông dân với cái tôi nhỏ bé. Xưa kia người
nông dân không có gì cả, thân thể của cha mẹ, tấc đất của cải thì của làng, của
nước, của vua, số phận thì do mệnh trời,… muốn tồn tại phải dựa vào làng, vào cộng
đồng để xin lòng thương của mọi người, ngõ hầu xà xẻo chút gì đó của cộng đồng
mà sống. Nhìn chung là xin sự cảm thông chứ có ai đòi được cái gì đâu, không có
nhân cách thì không nên đòi. Nỗi đau khổ của dân tộc là ở chỗ ấy. Tôi thấy việc
chúng ta cần hôm nay là phải có cá nhân và công dân thì mới có tự do, dân chủ.
Công dân là cá nhân về chính trị. Cá nhân ở phương Tây nó là nó, nó có gì nó biết
được nên nó dám mạo hiểm, nó dám làm. Cái dở của cá nhân phương Tây là nó tự do
quá trớn, nó tận dụng quyền cá nhân để làm những cái quá giới hạn, nó tự làm hỏng
nó. Còn anh tiểu kỷ thì không dám làm gì, tự sống hèn mình đi, tự hào về cái đó
là không đúng. Lúc này chính là lúc cần xem xét, đánh giá kỹ lưỡng về mình để
hiểu rõ mình hơn. Trước đây đã lâu, người Nhật Bản làm một cuộc điều tra xã hội
học rộng rãi xem trên thế giới người ta đánh giá người Nhật Bản như thế nào. Số
liệu thu được cho thấy có ba hiện tượng chủ yếu làm thế giới không thích người
Nhật Bản: Thứ nhất là người Nhật sống thu mình, ít tiếp xúc. Thứ hai là chỉ biết
làm kinh tế. Chỉ làm kinh tế thì chưa phải là con người. Chỉ biết làm kinh tế
như con vật (animal économique); không phải người, khó chơi vì chỉ làm kinh tế.
Và cái thứ ba là nói tiếng ngoại quốc dốt quá, thậm chí không nói được. Vì ba
cái lý do như vậy cho nên người Nhật đi ra nước ngoài không được kính trọng.
Các anh biết sau đó họ làm gì không? Họ đưa ra phát thanh 24/24 giờ trong một
thời gian dài các ý kiến của nước ngoài, của thế giới đối với nước Nhật. Phổ biến
cả ngày trên đài phát thanh những nhận xét của thế giới về Nhật Bản và đề nghị
người Nhật cần sửa chữa. Tác giả viết quyển sách đó nói rằng, năm năm sau trở lại,
tôi thấy có mấy đặc điểm: Thứ nhất là trên các ga quốc tế ai ăn mặc sang trọng
nhất đó là người Nhật, đi đứng oai phong nhất là người Nhật. Va li, quần áo của
người Nhật bây giờ đẹp, đàng hoàng, không phải là animal, không ai là động vật
nữa, mà là người đàng hoàng, cho puốcboa rộng rãi chứ không bủn xỉn, đó là điểm
thứ nhất người Nhật đã chữa được. Thứ hai là nói tiếng Anh, tuy chưa giỏi nhưng
đã nghe được. Và thứ ba là bắt đầu nói đến văn hóa, đến hội họa, chứ không chỉ
biết đến kinh tế. Bây giờ các anh tiếp xúc với người Nhật, các anh biết là ngày
nay họ đã rất khác với trước kia. Gần đây các tác phẩm hội họa đấu giá trên thế
giới thì hầu như người Nhật mua hết. Như thế tức là người Nhật muốn làm con người
văn hóa, muốn được người ta kính trọng, chứ không phải là chỉ biết làm kinh tế.
Nhân dây tôi nghĩ rằng nước ta cũng nên tự ý thức về mình, chứ đừng tự hào một
cách lố bịch. Cái gì sai thì mình phải nhận là sai, kém thì mình phải nhận là
kém, chứ theo cái thói tự thổi phồng nhau lên, không ra làm sao cả. Tôi có nói
với sinh viên Khoa Văn: ta cứ nói là văn học của ta cực kỳ phong phú thế này,
thế kia; thế thì các anh đem tất cả sách văn học Việt Nam đem in cho hết đi xem
có dày bằng của Tônxtôi không? Văn học cả nước ta mấy thế kỷ cũng chưa chắc dày
bằng Tônxtôi thì làm sao mà nói là ta cực kỳ phong phú được? Không nên nói như
thế. Nhưng ta cũng đừng nói ta chả là cái gì cả, nói như thế cũng không đúng.
Nhưng vừa vừa thôi chứ đừng có nói quá đi. Tôi cho rằng những người tự trọng và
những người biết trọng người khác, biết mình và biết người thì con người đó mới
lên được. Ta không biết tự trọng nhiều người rất hèn, không biết tự trọng, nhiều
người gặp người ngoại quốc hay xin xỏ rất hèn, không biết tự trọng; và có nhiều
khi mình cứ nói về người ta những chuyện rất là ngu ngốc. Thực ra, người ta
không phải như vậy. Nhưng mình nói như thế là mình không biết tự trọng, không
biết trọng người ta. Mà các anh biết là người mà không tự trọng và không biết
trọng người khác thì không ai muốn nói chuyện. Tôi cho là có rất nhiều chuyện về
văn hóa, chính các anh làm việc về văn hóa phải lo. Làm sao cho dân tộc có vị
trí xứng đáng về mặt văn hóa.
Nho giáo là học thuyết hay là
tôn giáo?
Nhiều
quyển sách viết về tôn giáo thì cũng có viết về Nho giáo trong đó. Nhưng lại
cũng có ý kiến cho rằng Nho giáo đâu phải là tôn giáo, nên đưa vào đó là vô lý.
Bây giờ người ta bàn chuyện dùng chữ Nho giáo hay Nho học, Nho giáo có phải là
tôn giáo không?… Đây là một vấn đề cần bàn bạc.
Có một điều nên chú ý thế này: Nho giáo là học thuyết khuyên con người “kính quỷ
thần nhi viễn chi” (câu này của Khổng Tử), khuyên kính quỷ thần, nhưng mà nên
xa lánh quỷ thần chứ không nên mê tín quỷ thần. Khổng Tử là người nói: Việc thờ
cúng để mà cầu phúc là xiểm nịnh, cho nên Nho giáo không khuyến khích mê tín và
không lợi dụng mê tín. Nhưng trong thực tế thì Nho giáo tồn tại vừa là một học
thuyết vừa là một tôn giáo. Có người vin vào câu nói của Khổng Tử nói với Tử Lộ
để cho rằng Nho giáo là vô thần. Có lần Tử Lộ hỏi Khổng Tử: Xin thầy cho biết về
thờ quỷ thần. Khổng Tử bảo rằng chưa biết thờ người thì học thờ quỷ thần làm
gì. Tử Lộ lại hỏi: Xin thầy cho biết về chết. Khổng Tử lại bảo: Chưa biết sống
thì biết chết làm gì? Như thế có nghĩa là Khổng Tử khuyên con người nên tập
trung sự suy nghĩ về cuộc đời, cõi đời chứ không nên quan tâm quá đến những
chuyện viển vông ở thế giới bên kia. Thái độ của Khổng Tử đối với quỷ thần là
như vậy: không khuyên con người ta theo quỷ thần, mê tín quỷ thần; bảo người ta
không nên thờ cúng để cầu phúc. Các nhà nho đời sau cũng vậy. Thế nhưng nói Nho
giáo là vô thần thì cũng không đúng đâu. Khổng Tử chủ trương có linh hồn bởi Khổng
Tử nói thế này: “Phi kỷ quỷ nhi tế chi siểm dã” (không phải hồn ma của người mà
mình mà thờ cúng, đó là siểm nịnh). Kỳ là của mình, phi kỳ quỷ tức là không phải
hồn ma của nhà mình. Nói như thế có nghĩa là có linh hồn. Thế nhưng, thế nào là
của mình? Theo Khổng Tử, thiên tử được thờ Trời, thờ thần núi và thần sông là lớn
nhất; vua chư hầu được tế thần sông, thần núi trong địa phương mình; còn dân
thì thờ cha mẹ, tổ tiên mình. Đó là kỷ quỷ. Có thể nói, Nho giáo là học thuyết
khuyến khích thờ cúng tổ tiên, ai cũng thờ cúng tổ tiên, tổ tiên là quỷ của
mình. Cho nên việc thờ cúng tổ tiên là một đặc điểm về tôn giáo của Nho giáo.
Ngoài tổ tiên còn chủ trương chính thần. Nho giáo phân biệt chính thần và dâm
thần. Chính thần là những ông thần đáng thờ. Còn dâm thần là những thần mà vì
mê tín nên thờ bậy bạ. Những người anh hùng dân tộc, những người có công với nước
thì các triều đại Nho giáo đền thờ biết và có tự điển hẳn hoi, tức là nhà vua
quyết định thờ người này người kia, đó là chính thần, những người có công được
đề cao. Ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, tất cả đều có những cái đền thờ như vậy.
Còn dâm thần là những thần mê tín, tự thờ bậy thì nói chung là các triều đại hoặc
là cấm không cho thờ, hoặc là phá đền. Các anh biết Địch Nhân Kiệt đi kinh lý một
vùng mà ông phá 800 dâm từ, 800 ngôi đền thờ các thần như thần rắn, thần cây
đa, cây đề, tất cả những thần mà ông cho thuộc vào hàng dâm thần thì ông cho
phá hết. Đứng về mặt tôn giáo mà nói thì Nho giáo chủ trương thờ Trời, thờ
chính thần, thờ thần sông, thần núi và thần tổ tiên. Bởi vậy nói Nho giáo là vô
thần là không phải đâu. Riêng Khổng Tử cũng trở thành một chính thần. Trong Văn
Miếu như Văn Miếu của ta là thờ Khổng Tử, thờ học trò của Khổng Tử và những nhà
nho nổi tiếng được đưa vào tế tại đó nữa, gọi là bồi hưởng. Nhưng có điều đáng
chú ý thế này: tế Khổng Tử một năm chỉ tế hai lần chứ không có chuyện cúng lễ
bái ngày rằm, mùng một, không có chuyện vào cầu, đi xin. Đó là một thứ tôn giáo
không khuyến khích mê tín, không khuyến khích cúng bái và cũng không lập giáo hội,
cử giáo hoàng gì cả. Tôi nói thêm điều này. Nghe câu nói của Khổng Tử : “Chưa
biết thờ người thì thờ quỷ thần làm gì? Chưa biết sống thì chết làm gì?” ta thấy
cực kỳ thú vị chứ gì? Tinh thần đó là tinh thần rất hay phải không? Thì quả thật
là như vậy. Thế nhưng trong đó hàm chứa một điều rất nguy về tư tưởng. Các anh
biết là phương Tây tôn trọng thần linh, tôn trọng thượng đế; khi con người nghi
ngờ thượng đế thì họ tìm lời giải về thượng đế, từ đây, mới đẻ ra nhiều chuyện.
Là vì sao? Là vì có rất nhiều chuyện mình không biết cho nên mình gán hết cho
thượng đế. Thượng đế, thần linh chính là cái túi để đựng những cái mà con người
không biết được. Cho nên khi người ta đi phát hiện thượng đế thì người ta phát
hiện được những chỗ không biết, phải giải thích nữa, vì thế đẻ ra triết học và
khoa học. Còn ở vụ thiết thực, gạt nó đi thì đồng thời các vấn đề khác cũng bị
gạt luôn, nên không có cái gì là không biết cả, cái gì cũng chỉ thiết thực là
xong hết. Do đó thiết thực là một cái hay, nhưng thiết thực cũng là cái chết,
chứ không phải thiết thực là hay cả. Có nhiều cái không biết thì để nó đấy rồi
chúng ta sẽ tìm biết sau, chứ thiết thực mà vứt hết, thì chẳng bao giờ đẻ ra
triết học và khoa học được. Có nhiều cái hiện nay như vấn đề tử vi, tướng số… lấy
óc duy vật mà gạt đi tất cả thì rất thiết thực thôi, rất đơn giản thôi. Nhưng
làm như vậy có hay không thì chưa chắc đâu. Tôi nghĩ là đối với những cái đó
chúng ta nên giữ thái độ là để lại đó. Tôi thì không biết gì về những cái đó,
ai hỏi, tôi cũng bảo là tôi không biết. Còn gạt phăng đi tất cả mọi cái thì
chưa chắc đã là thái độ hay. Đó, vấn đề tôn giáo là như vậy. Nhưng đồng thời
cũng nên nói thế này: các nhà nho ở nông thôn thì lại sống như các giáo sĩ. Hôm
trước tôi đã nói, người ta đẻ con thì nhờ thấy lấy cho lá số, đặt cho cái tên, ốm
thì thấy chữa thuốc, sáu tuổi thì thầy phóng cho học, chết thì thầy xem cho
ngôi mộ, xem cho cái giờ… Vì lẽ đó cho nên nhà nho sống ở trong nông dân giống
như một giáo sĩ và vì vậy có vai trò “chăn chiên” ở trong nông dân. Thế nên,
Nho giáo tồn tại như một tôn giáo theo kiểu như vậy. Chứ còn bản thân nó thì
không phải là một học thuyết tôn giáo.
Những nội dung cần nói là Nho giáo tôi trình bày đến đây chưa phải là đã hết. Vẫn
còn nhiều thứ lắm. Nhưng tôi nghĩ cũng không thể nào nói hết mọi chuyện được.
Có một vấn để lớn mà lần này tôi không nói vì đã nói là phải nói đến nơi đến chốn
là vấn đề đi lên hiện đại thì Nho giáo làm thế nào. Chúng ta đứng trước một thực
tế là từ giữa thế kỷ XIX cho đến nay, phương Đông đi vào quỹ đạo của thế giới
hiện đại, tất cả các nước phương Đông đi vào quỹ đạo của thế giới hiện đại từ
sau năm 1945 có sáu con đường. Con đường Nhật Bản, con đường Bắc Triều Tiên,
con đường Nam Triều Tiên, con đường Trung Quốc, con đường Bắc Việt Nam, con đường
Nam Việt Nam. Mấy con đường đó đều giải quyết những vấn đề như nhau. Các nước
xã hội chủ nghĩa trong khu vực này đẻ ra Maoisme (Maoisme là ở Trung Quốc nhưng
không phải không có những cái giống như vậy ở Bắc Triều Tiên và ở Việt Nam) đồng
thời cũng đẻ ra một con đường kinh tế Nhật Bản. Và cũng không phải không có một
cái giống như vậy ở Nam Triều Tiên và ở Đài Loan. Thề thì chúng ta nên có một
thái độ khôn ngoan, rút kinh nghiệm trên tất cả những cái đó để tìm con đường
cho ta. Tôi cho rằng ta có một nhược điểm, một sai lầm rất lớn là bấy lâu nay cứ
nghĩ ta là một nước xã hội chủ nghĩa và bao giờ sửa cũng là sửa trên tư cách là
một nước xã hội chủ nghĩa chứ ta không nghĩ đến hai điều: một, ta là nước kém
phát triển và hai, ta là một nước Đông Á. Vì các anh biết rằng từ năm 1945 đến
nay trên thế giới có bảy con đường sửa chữa, bảy con đường đi lên cho từng loại
nước: các nước Châu Phi Châu Phi, các nước chây Mỹ La tinh, các nước vùng Đông
Nam Á v.v… Người ta tính là có bảy con đường như vậy. Ta tưởng ta là nước xã hội
chủ nghĩa ta không thèm chú ý đến kinh nghiệm của bảy loại nước đó. Bây giờ thì
Thái Lan cũng đi lên được. Mã Lai cũng đi lên được, rồi các nước Mỹ La tinh
cũng đi lên được. Là vì mỗi nước đều xuất phát từ chỗ mình là một nước kém phát
triển và đi tìm con đường đúng với mình mà đi. Vì vậy, họ đi được, còn ta không
thèm chú ý đến họ. Ta tự nghĩ ta là nước xã hội chủ nghĩa, là một. Hai là ta
không biết ta là nước Đông Á, cho nên kinh nghiệm Nam Triều Tiên ta cũng không
biết; kinh nghiệm Trung Quốc ta cũng không biết; kinh nghiệm Nhật Bản ta cũng
không biết; kinh nghiệm Đài Loan ta cũng không biết. Tôi nghĩ rằng vấn đề ảnh
hưởng Nho giáo đến vùng Đông Á và những hậu quả mà nó để lại như thế nào là phải
giải quyết trên cơ sở ta phải tự ý thức rất rõ ta là một nước lạc hậu, kém phát
triển và ta là một nước Đông Á, cho nên ta phải học. Bây giờ học Nhật Bản. Ta
có nhiều người nói rất hăng về chuyện học Nhật Bản. Nhưng mà học thế nào được,
bởi vì bây giờ Nhật Bản tiến xa như thế, ngay cả các nước phát triển như Đức,
như Mỹ học Nhật còn khó nữa là. Nên vấn đề là nghĩ xem ta có học được Nam Triều
Tiên không, Nam Triều Tiên mới và có rất nhiều cái tôi cho rằng Nam Triều Tiên
giải quyết rất giỏi.
Năm kia, tức là năm 1989, tôi có một báo cáo bàn về con đường xã hội chủ nghĩa ở
phương Đông, trong đó tôi giải quyết các vấn đề như thế này trong thực tế hiện
nay. Khi phát triển cái đó thì anh Hoàng Tụy có nói với tôi một câu làm tôi giật
mình. Anh bảo với tôi thế này: Các nước Đông Á đều có ưu điểm là hiếu học, cần
kiệm, là dễ có kỷ luật và cái đó làm cho Nam Triều Tiên và Nhật Bản đi lên. Cái
đó đúng, thế giới người ta nói cả rồi. Nhưng anh nghĩ xem Việt Nam ngày nay có
như thế nữa không? Trước đây tôi đồng ý. Nhưng ngày nay có như thế nữa không?
Tôi thấy sinh viên của ta rất lười chứ không hiếu học, người Việt Nam tiêu bậy
tiêu hoang chứ không cần kiệm và vô chính phủ chứ không nghe trên. Anh xem thử
những thứ anh kết luận như vậy có đúng không? Thật là đáng sợ. Bởi vì có những
cái đã là truyền thống thật đấy nhưng ta phá mất rồi chứ không còn nữa đâu, đó
cũng là điều đáng suy nghĩ. Tất nhiên, khi nói như thế thì còn có nghĩa là khi
đã thành truyền thống thì còn có thể khôi phục được, mất đi nhưng mà còn phôi
phục được chứ không phải mất đi là mất hẳn. Con cái việc tự hào ta là hiếu học,
là cần kiệm… thì nên cẩn thận vì hiện nay quả thật những cái đó hình như là
không có. Đó là những vấn đề mà các bạn có thể suy nghĩ rất nhiều. Tôi cho rằng
đây là vấn đề lớn, có rất nhiều thứ để nói, rất nhiều thứ để quan tâm. Còn giải
quyết chúng là một việc cực kỳ khó chứ không phải dễ. Có lẽ cũng còn có nhiều
chuyện nữa, nhưng có khả năng hay không để trình bày tiếp thì tôi không biết.
Là vì hiện nay thời gian tôi không có nhiều.
Chúc các bạn cố gắng tìm đọc thêm và theo dõi thêm. Thế giới ngày nay người ta
nói những chuyện này còn nhiều lắm. Bởi vì Nhật Bản, Nam Triều Tiên ngày nay là
một sự uy hiếp đối với thế giới chứ không phải là đùa đâu. Chuyện thế kỷ XXI là
thế kỷ của vòng cung Thái Bình Dương mà vòng cung Thái Bình Dương là Trung Quốc,
Triều Tiên, Nhật Bản và đó là chuyện trước mắt của thế giới rồi chứ không phải
chuyện đoán mò. Cho nên bây giờ các nước phải lo đối phó với cái đó mà muốn đối
phó với cái đó là phải giải quyết cái này, chứ không coi thường được. Bây giờ
các nước viết về cái này nhiều lắm mà tôi cho rằng phương Tây viết hay hơn ta.
Ta đây có nghĩa là cả Trung Quốc, Trung Quốc viết kém. Nhật Bản thì họ làm chuyện
ấy dữ dội lắm. Tất nhiên tiếng Nhật thì ở ta ít người biết nhưng nếu các bạn biết
tiếng Anh thì nên theo dõi vì có nhiều thứ lắm. Mong rằng sau đây các bạn dành
thêm nhiều công sức tiếp tục nghiên cứu cùng tìm ra giải pháp chiến lược đúng đắn
đưa dân tộc ta đi
lên.
Nho giáo và H Ệ LUỴ
Ở nước
ta, Nho giáo đã có lịch sử rất lâu đời. Từ khi nước ta bị xâm lược và sáp nhập
vào Trung Quốc, từ đời Hán (206 trước Công nguyên đến 220 sau Công nguyên), Nho
giáo đã được du nhập vào Việt Nam. Sĩ Nhiếp (thế kỷ thứ II sau công nguyên) đã
được coi là An Nam học tổ, người mở đầu cho Nho học ở nước ta. Trong thời kỳ tự
chủ, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, Nho giáo cùng với Phật giáo và Đạo giáo có vai
trò quan trọng trong đời sống tinh thần nước ta. Cuối thế kỷ XIV, Nho giáo
giành được ưu thế so với Phật giáo, chi phối đời sống tinh thần nước ta. Đến tế
kỷ XV, sau khi Lê Lợi chiến thắng quân Minh (1428) nhà nước Lê sơ dành cho Nho
giáo địa vị độc tôn- học thuyết chính thống của nhà nước- cuối thế kỷ đó, vào
thời Lê Thánh Tông (làm vua từ 1460 đến 1497), nó đạt đến mức toàn thịnh. Từ thế
kỷ XV, cho đến giữa thế kỷ XIX, thậm chí đến đầu thế kỷ XX, trong đời sống tinh
thần của nước ta, Nho giáo vẫn giữ vai trò chủ đạo, chi phối. Ảnh hưởng của Nho
giáo, do thực tế lịch sử đó rất lớn. Nhưng nhìn nhận, đánh giá ảnh hưởng đó
tích cực hay tiêu cực đối với sự phát triển của nhà nước ta thì tuỳ theo thời
cuộc, tuỳ theo quan điểm mà đã thay đổi qua các giai đoạn lịch sử.
Trong
thời Hán học đang thịnh, các nhà Nho cõi chữ Hán là chữ ta, Khổng Tử, Mạnh Tử,
Trình Di, Chu Hy là thánh hiền, Nho giáo là đạo học ở nước ta và ai cũng nghĩ
như Phan Đình Phùng: “Nước mình mấy ngàn năm nay, đất nước chẳng rộng, quân
lính không mạnh, tiền của chẳng giàu; cái chỗ dựa để dựng nước là nhờ cái gốc của
vua tôi, cha con theo năm đạo cương thường mà thôi… cái ơn giáo hoá của Thi Thư
vốn là chỗ dựa cho mình đấy”[1].
Sau
khi phong trào Cần Vương thất bại, nước ta đã mất vào tay thực dân Pháp, đến đầu
thế kỷ này, các nhà nho yêu nước như Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh…, chịu ảnh hưởng của phong trào duy tân, Âu hoá của Nhật Bản,
Trung Quốc mới nhìn nhận cách khác. Họ lên án chế độ chuyên chế, lên án cách học
khoa cử, coi Hán học chỉ đào tạo ra một lớp hủ nho. Tuy các nhà nho duy tân
chưa lên án Nho giáo nhưng họ cũng thấy Nho giáo để lại hậu quả tiêu cực: làm
cho nước yếu dân hèn.
Xu hướng
phủ định Nho giáo còn tiếp tục và tăng cường trong lớp người chịu ảnh hưởng văn
hoá phương Tây, dù về tư tưởng họ theo quan điểm tư sản hay vô sản. Trong các
tôn chỉ của Tự Lực Văn đoàn có một điểm là:
“Làm
cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa”. Những người mác- xít cũng
coi Nho giáo là cốt lõi của tư tưởng phong kiến, coi nó là phản động vì đề cao
quân quyền, phụ quyền, nam quyền, chủ trương tam tòng tứ đức áp bức phụ nữ,
khinh lao động, đứng về phía giai cấp bóc lột…
Cho
mãi đến những năm gần đây xu hướng đánh giá đó đã thành định luận, trong sách
báo, trong nhà trường và trong dư luận xã hội. Nói quét sạch tư tưởng phong kiến
cũng tức là quét sạch Nho giáo.
Quãng
mươi năm gần đây, nhiều người đã bắt đầu nghĩ một cách khác. Vấn đề được đặt ra
một phần do những thực tế trong nước, nhưng phần quan trọng là do ảnh hưởng của
các nhà khoa học nước ngoài.
Vào
thập kỷ 60, Đảng Cộng sản Trung Quốc làm một chiến dịch tuyên truyền đưa chủ nghĩa Mao như một pháp bảo cho cả thế giới
ngày nay, và ở trong nước tiến hành cuộc Đại cách mạng văn hoá khốc
liệt. Việc làm của một nước có hàng tỉ người đó làm rung động cả thế giới. Hàng
trăm nhà nghiên cứu ở trên thế giới ở các nước xã hội chủ nghĩa cũng như tư bản
chủ nghĩa, bỏ công sức nghiên cứu chủ nghĩa Mao và đều đi đến kết luận: chủ
nghĩa Mao có nguồn gốc từ trong các hệ tư tưởng truyền thống của Trung Quốc;
cũng có thể nói là nếu trong truyền thống không có Nho giáo thì cũng không có
chủ nghĩa Mao, không có một thứ chủ nghĩa xã hội mao-ít. Ở nước ta lúc bấy giờ
cũng có người đặt vấn đề liệu một nước cũng có truyền thống Nho giáo lâu đời
như Việt Nam có ảnh hưởng chủ nghĩa Mao không? Nhưng vấn đề nêu ra
không được triển khai thảo luận.
Vào
cuối thập kỷ đó, năm 1968, Nhật Bản tổ chức Thế vận hội ở Tô-ki-ô, nhân đógiới thiệu cho
thế giới biết về thực trạng phát triển của Nhật Bản. Thế giới nhất là các nước
phát triển Âu- Mĩ kinh ngạc trước tốc độ phát triển của Nhật Bản mà coi họ là
“thần kỳ”. Nhật Bản thành một đối thủ cạnh tranh đáng gờm và họ không thể không
tìm hiểu. Sau Nhật Bản là bốn nước mà ngày nay báo chí quen gọi là “bốn con hổ
châu Á”: Nam Triều Tiên, Đài Loan, Hồng Kông và Xanh-ga-po cũng nhảy vào thị
trường thế giới với sự phát triển trong nước tăng tốc. Sự phát triển tăng tốc ở
các nước đó mở ra khả năng là trong cuộc cạnh tranh tương lai khối Đông Á có thể
chiếm ưu thế so với khối Bắc Mỹ và Tây Âu, không tính khối Đông Âu, Ấn Độ và
các khối có tốc độ phát triểm chậm khác, chưa đủ thế lực chen chân vào cuộc cạnh
tranh đó. Các nhà khoa học đi tìm bí quyết nhịp độ tăng tốc của Nhật Bản, tiến
hành đối chứng giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ, nước phát triển nhất ở Âu- Mỹ thì thấy
sự khác nhau rõ rệt giữa hai cách quản lý, hai con người; và đằng sau cách quản
lý và con người là truyền thống văn hoá: văn hoá Trung Hoa. Nhật Bản, Nam Triều
Tiên đều là những nước chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hoá Trung Hoa; Đài Loan, Hồng
Kông là đất Trung Hoa, còn Xanh-ga-po thì có đến 80 phần trăm cư dân là Hoa Kiều.
Trong truyền thống văn hoá đó, trước hết, phải nói đến Nho giáo. Vấn đề từ đó
được mở rộng hơn: văn hoá truyền thống Trung Hoa và triển vọng phát triển của
vùng Đông Á, vùng Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam từ nhiều
thế kỷ chịu ảnh hưởng Nho giáo (cùng với Phật giáo và Đạo giáo đều từ Trung Quốc
truyền sang).
Trung
Quốc là một trung tâm văn minh cổ của nhân loại. Từ thế kỷ VI- V trước Công
nguyên, Nho giáo và tư tưởng Lão Trang (về sau phát triển thành Đạo giáo) đã ra
đời từ đấy. Từ đời Hán (thế kỷ II trước Công nguyên đến thế kỷ II sau Công nguyên)
những học thuyết đó được truyền bá sang Triều Tiên và Việt Nam. Vào thế kỷ
IV từ Triều Tiên mà truyền bá sang Nhật Bản. Từ đời Đường (618- 906) về sau bốn
nước đó có quan hệ chặt chẽ hầu như thành một vùng văn hoá, cùng dùng chữ Hán,
cùng học những kinh truyện Tam giáo (Nho, Phật, Đạo), cùng viết những thể loại
văn học… Tuy thực tế cụ thể của từng nước, từng dân tộc có không ít những đặc
điểm khác nhau nhưng do ảnh hưởng văn hoá chung, con người và lịch sử, nhất là
lịch sử chính trị, tư tưởng có nhiều nét giống nhau, tạo ra một vận mệnh tương
đồng cho các nước trong vùng. Từ giữa thế kỷ XIX, trước thực tế các nước đế quốc
phương Tây xâm lược, các nước đó gặp những tình thế khác nhau, có thái độ khác
nhau và kết quả là giành được những vị thế khác nhau trong thế giới ngày nay.
Nhật Bản năng động và thức tỉnh trước nhất. Sau một trận giao chiến thất bại,
Nhật Bản chọn ngay con đường duy tân Âu hoá và ba mươi năm sau trở thành một nước
cường thịnh, tham gia vào hàng ngũ các nước đế quốc tranh giành thị trường trên
thế giới và thảm bại năm 1945. Sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, nó chọn con
đường phát triển kinh tế và cũng sẽ nhanh chóng trở thành một cường quốc kinh tế
như ngày nay. Trung Quốc cũng bị xâm lược còn sớm hơn và dai dẳng hơn. Nhưng vì
là nước quá lớn, các đế quốc cũng không chịu để cho ai một mình chiếm được, nên
Trung Quốc không bị mất nước thành thuộc địa, mà thành nửa thuộc địa, các nước
đế quốc chia nhau ảnh hưởng. Việt Nam như mọi người đều biết bị thực
dân Pháp xâm chiếm. Triều Tiên không bị mất nước về tay các nước đế quốc
phương Tây mà cuối cùng lại mất vào tay Nhật Bản (1910). Phong trào đấu
tranh giành độc lập, chống đế quốc liên tục và anh dũng cả ở Trung Quốc, Triều
Tiên và Việt Nam dẫn các nước đó đến với chủ nghĩa cộng sản. Kết thúc
chiến tranh thế giới lần thứ hai thì ở cả ba nước ấy đều thành lập chính quyền
cách mạng, đều xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cả
ba nước đều có tình trạng chia đôi: Trung Quốc và Đài Loan, Bắc và Nam Triều
Tiên, Bắc và Nam Việt Nam. Một phía là XHCN, một phía là TBCN. Trước thực
tế có tính toàn cầu của thế giới hiện đại, mỗi nước theo hệ thống này hay hệ thống
kia, gặp những vấn đề gần giống nhau và cách giải quyết cũng gần giống nhau. Do
truyền thống giống nhau nên những vấn đề bộc lộ ra ở nước này thì ở ba nước kia
cũng có cái tương tự. Giải quyết theo cách XHCN hay TBCN cũng là cùng những vấn
đề đó nên có những bài học có ý nghĩa chung. Đó là lý do để ngày nay nhiều người
nghĩ Việt Nam nên học kinh nghiệm Nhật Bản, Nam Triều Tiên để khắc phục
những khó khăn trước mắt. Nhưng trong thực trạng ngày nay nếu Nhật Bản, Nam Triều
Tiên, Đài Loan phát triển với nhịp độ tăng tốc nhanh nhất thế giới và là do ảnh
hưởng của truyền thống Nho giáo thì Việt Nam, ngược lại phát triển chậm nhất, tốc
độ thấp nhất so với mọi nước. Đó không chỉ là vấn đề người Việt Nam quan
tâm mà nhiều nhà khoa học trên thế giới cũng chú ý, muốn tìm hiểu, giải thích sự
khác nhau đó. Ở ta không ít người nói những khó khăn hiện nay là do quá
khứ, do truyền thống để lại. Quá khứ, truyền thống đó chắc chắn là gắn với Nho
giáo. Vậy, thứ Nho giáo nào làm thuận lợi cho sự phát triển của Nhật Bản, Nam
Triều Tiên, Đài Loan và thứ Nho giáo nào làm phát sinh chủ nghĩa Mao ở Trung Quốc,
gây khó khăn cho chúng ta ngày nay? Nho giáo ở Việt Nam có khác Nho
giáo Nhật Bản? Hay là cũng không phải không có người nghĩ như thế, truyền thống
là truyền thống dân tộc, hoàn toàn Việt Nam,
không có Đông Á mà cũng không có Nho giáo gì cả. Đó là cách nhìn lại vấn đề Nho
giáo do tác động từ bên ngoài.
Trong
nước, cách đây hơn mười năm, vấn đề Nho giáo được khơi lên từ hiện tượng trong
nhà trường học sinh vô lễ với thầy, cô giáo, nhà trường, lớp học hỗn loạn, học
hành kém kết quả. Một số người nghĩ cần trở lại nền nếp “tôn sư trọng đạo”,
cung cách sư phạm “tiên học lễ, hậu học văn” như ngày xưa thì mới cứu được sự
nghiệp giáo dục. Tiếp đó là trong xã hội có cảnh mất trật tự, cảnh ngược đời
“người lớn sợ trẻ con”, thanh niên nghênh ngang bừa bãi không nể nang người tuổi
tác, nói năng lấc cấc… Nhiều người lại nghĩ đến cảnh “trên ra trên, dưới ra dưới”
như ngày xưa. Và bên cạnh đó là cảnh xung khắc giữa hai thế hệ trong gia đình.
Giữa cha mẹ và con cái, nhất là những cha mẹ là cán bộ cách mạng và con cái có
văn hoá khá, lại đi học ở nước ngoài về thì thường xảy ra mâu thuẫn ý kiến về mọi
vấn đề. Điều đó làm chán nản, mệt mỏi cả hai phía. Nhiều người nghĩ ngay đến
tình cảm hiếu đễ ngày xưa, mong muốn khôi phục những cảnh gia đình êm ấm, cha
con, anh em, vợ chồng hoà thuận, không mỗi người một phách, cãi vã, ly dị…Tất cả
đặt thành vấn đề đánh giá lại nền nếp sống theo Nho giáo trong nhà, trong họ và
với xóm giềng làng nước. Ngày nay, những suy nghĩ như vậy đang biến thành hành
động. Ở nhiều địa phương, nhiều người rất quan tâm đến việc khôi phục họ hàng,
tìm gia phả, xây nhà thờ, mồ mả tổ tiên, họp họ, tế lễ và làm tộc ước. Và ở
trong nhà cũng vận động giữ gìn những tập tục ngày xưa trong các quan hệ cha
con, anh em, dâu rể… Làm như thế là tốt hay xấu? Có phải việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội đã làm hỏng hết và ngày nay phải trở lại, phải khôi phục nền nếp
văn hoá Nho giáo không?
Đúng
là Nho giáo đã ảnh hưởng đến nhiều mặt cuộc sống nước ta. Không chỉ là trong văn
hoá, tư tưởng mà cả trong chính trị, xã hội, trong học thuật, và vì vậy cũng ảnh
hưởng đến xây dựng kinh tế, xây dựng con người và nhiều mặt khác. Không phải vấn
đề chỉ liên quan đến quá khứ mà vấn đề còn kéo dài thành ra liên quan đến những
chuyện của ngày nay. Và liên quan đến những mặt cực cơ bản, cực quan trọng như
khuynh hưởng mao-ít trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc hay
khuynh hướng lợi dụng truyền thống để quản lý kinh tế tạo ra tốc độ phát triển
cao như ở Nhật Bản… Đó là những mặt mà vào hoàn cảnh của Việt Nam, chúng
ta không thể không chú ý.
Phải
hiểu Nho giáo và vai trò của nó trong lịch sử. Phải hiểu ảnh hưởng của nó trong
xã hội, trong văn hoá, trong con người phương Đông. Nhưng hiểu biết của chúng
ta về những chuyện đó còn rất mỏng. Và việc nghiên cứu về những vấn đề đó,
chúng ta làm chưa được bao nhiêu. Chưa nói là có một thời gian dài ta đã hiểu về
nó quá đơn giản, thậm chí là sai lạc.
Chúng
tôi cũng không dám tin là mình sẽ nói được đúng. Nho giáo đã tồn tại đến hơn
hai chục thế kỷ trên một địa bàn rộng. Trong sự phát triển của nó phải mang
theo nhiều đặc điểm dân tộc, thời đại và thực tế kinh tế- xã hội của các nước.
Nói cho chính xác, đạt đến chỗ tinh vi- có như thế mới có thể giúp ích cho hoạt
động thực tiễn- là một việc chúng tôi không dám hy vọng là có thể làm nổi.
Trong giới hạn của bài giảng này, chúng tôi chỉ giới thiệu khái
quát về vấn đề “Nho giáo và ảnh hưởng của nó. Vấn đề của ngày xưa và ngày nay”
để các đồng chí theo dõi và tìm đọc thêm khi gặp các vấn đề đụng đến nó trong
công tác thực tế.
Theo
chúng tôi nghĩ bất cứ hiện tượng nào, nếu chúng ta biết nó là thế nào, mô tả được
bộ mặt của nó, biết nó sinh ra, tồn tại và tiêu vong trong những điều kiện nào,
tức là cơ sở vật chất của nó, biết trong thời gian nó tồn tại, nó đã sinh ra
cái gì? thì chúng ta có thể hiểu nó là cái gì tương đối ít lầm lạc. Với Nho
giáo, chúng tôi chỉ nói một thứ Nho giáo nói chung, chưa phải phân biệt Trung
Quốc, Việt Nam hay Nhật Bản, thời cổ đại hay thời cận đại. Chúng tôi
cũng cố gắng trình bày theo cách như vậy thành ba phần:
1.
Nho giáo- học thuyết chính trị- đạo đức.
2. Cơ
sở kinh tế- xã hội làm điều kiện cho Nho giáo ra đời và tồn tại lâu.
3. Ảnh
hưởng của nhiều mặt của Nho giáo.
I. NHO
GIÁO- HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ- ĐẠO ĐỨC.
1.
Người đặt nền móng, vị tổ sư của Nho giáo là Khổng Tử. Vì vậy, Nho giáo cũng
còn gọi là Khổng giáo.
Khổng
Tử sinh năm 551 và mất năm 479 trước Công nguyên ở nước Lỗ, trung tâm văn hoá của
nền văn minh Trung Hoa cổ đại. Ông là người rất ham học, sớm nổi tiếng uyên
bác, thông hiểu văn hiến lễ nhạc nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu, tức là các vương
triều cổ đại Trung Hoa. Vừa ngoài năm mươi tuổi, lúc bấy giờ ông đang tạm thời
giữ chức tướng quốc nước Lỗ, ông đã bỏ quan cùng với học trò đi chu du các nước
và để đến hơn hai chục năm trời chuyên tâm vào việc sưu tầm văn hoá và dạy học
trò. Khổng Tử đã sưu tầm, chỉnh lý, lựa chọn dân ca và tụng ca nghi lễ các nước
mà soạn thành Kinh Thi; sưu tầm các tư liệu lịch sử, huấn lệnh các tiên vương
mà soạn thành Kinh Thư; sưu tầm tổ chức, chế độ, phong tục, nghi lễ các nước mà
soạn thành Kinh Lễ; soạn Kinh Nhạc (đã thất truyền từ lâu). Khổng Tử là người
có công giải thích Kinh Dịch và chỉnh lý bộ sử nước Lỗ viết thành Kinh Xuân
Thu. Đó là những cống hiến vĩ đại không chỉ cho Trung Quốc mà cho cả văn hoá
nhân loại. Năm bộ sách: Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu, gọi chung là Ngũ kinh do
Khổng Tử để lại là kinh điển của Nho giáo.
Khi
Khổng Tử mất, học trò ở lại để tang thầy, cùng nhau ôn lại và ghi chép các lời
thầy dạy làm sách Luận Ngữ. Luận Ngữ là tư liệu cơ bản để hiểu tư tưởng Nho
giáo.
Sau
khi Khổng Tử mất, học trò Khổng Tử vốn là người ở nhiều nước, đem tư tưởng của
thầy về truyền bá ở nhiều nơi khác nhau. Vì vậy, vài thế kỷ sau khi Nho gia- học phái tôn sùng Khổng Tử- đã chia ra làm tám
phái khác nhau, trong đó, nổi bật nhất là hai phái: Mạnh Tử và Tuân Tử. Về sau
phái Mạnh Tử được coi là chính truyền nên Nho giáo cũng thường gọi là học thuyết
Khổng Mạnh. Mạnh Tử (372- 289 trước công nguyên) được tôn là Á thánh. Tư tưởng
của Mạnh Tử được truyền bá rộng rãi ở Trung Quốc và cả ở Triều Tiên, Nhật Bản
và Việt Nam. Tư tưởng Mạnh Tử lưu truyền lại trong sách Mạnh Tử. Đó cũng
là một kinh điển quan trọng của Nho giáo.
Được
coi là kinh điển của Nho giáo không chỉ có các Kinh, tức là Ngũ kinh: Thi, Thư,
Dịch, Lễ, Xuân Thu, mà còn có cả các Truyện. Truyện là
sách để truyền kinh, thuyết minh nội dung và tinh thần, tư tưởng của các kinh.
Thành phần của các tác phẩm được coi là truyện có thay đổi ít nhiều qua các thời
kỳ, thay đổi thành phần và thay đổi vị trí quan trọng.
Các
nhà nghiên cứu lịch sử Nho giáo thường lưu ý đến sự khác nhau giữa Nho giáo thời
Tiên Tần (hay thời Xuân Thu- Chiến Quốc) tức là từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên
với Nho giáo đời Hán (từ thế kỷ II trước Công nguyên đến thế kỷ II sau Công
nguyên) với Nho giáo đời Tống- cũng gọi là Tân Nho giáo (Néo-Confucianisme)-
Nho giáo thế kỷ thứ XII và ảnh hưởng lớn về sau này. Trong ba thời kỳ đó, vai
trò xã hội của Nho giáo có khác nhau, cho nên cách hiểu, cách giải thích có
khác nhau. Tôi không đi sâu vào các vấn đề lịch sử triết học phức tạp mà chỉ
nói vấn đề thay đổi thành phần các truyện, thay đổi vị trí của các truyện.
Thời
Tiên Tần trong tình trạng “bách gia tranh minh”, các học phái tranh luận tự do,
Nho giáo cũng chỉ là một phái, thậm chí là một phái lép vế trước các học phái
khác, chưa thể nói đến kinh điển. Căn cứ lý luận của Nho gia lúc đó là Kinh
Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, là sách Luận Ngữ. Ngay đến sách Tuân Tử, Mạnh Tử cũng
chỉ là ý kiến của một phái, một người. Chưa có sách nào gọi là truyện.
Nhà
Hán, từ Hán Võ Đế (111- 87 trước Công nguyên) mới chủ trương độc tôn Nho giáo,
dùng Nho giáo để trị nước. Biến nó thành học thuyết chính thống của nhà nước, dựa
vào nó để cai trị và để thi cử, nên phải xác định thành phần kinh điển, xác định
cách giải thích kinh điển. Được dùng để biện minh cho chế độ chuyên chế, cho đế
chế nên Nho giáo được nhấn mạnh ở tư tưởng thiên mệnh, tư tưởng nghĩa và lễ, ở
tinh thần phục tùng của người dưới đối với người trên. Kinh chủ yếu được đề cao
là Kinh Xuân Thu và truyện chủ yếu là Tả Truyện và Hiếu Kinh. Nho giáo đời Hán
không những thành kinh viện, máy móc, khắt khe mà còn thành một lý thuyết tôn
giáo.
Đến đời
Tống (960-1297), đúng hơn là từ Hàn Dũ (768-824) đời Đường đã xuất hiện một
dòng tư tưởng chống đối Phật giáo, Đạo giáo và cả thứ Nho giáo chính thống được
triều đình nhà Đường (618-906) truyền bá. Hàn Dũ kêu gọi trở về với tư tưởng
nhân nghĩa của Khổng Tử, đề cao Mạnh Tử và trở thành một ngọn cờ tư tưởng có ảnh
hưởng lớn. Đến thế kỷ XII, đời Tống, dòng tư tưởng này được một loạt nhà nho
phát triển. Nổi bật trong tên tuổi các nhà nho, đó là anh em Trình Hạo
(1032-1085), Trình Di (1033-1107) và nhất là người học trò của họ là Chu Hy (1130-1200).
Các nhà nho đời Tống quan tâm đến các vấn đề triết học, chú ý giải quyết các vấn
đề vũ trụ quan, bản thể luận, làm cho học thuyết Nho giáo có hệ thống hoàn chỉnh.
Vì vậy, họ đề cao Kinh Dịch và tách hai thiên trong Kinh Lễ là Trung Dung và Đại
Học làm thành sách độc lập, coi đó là hai truyện quan trọng. Từ Trình Chu, bốn
bộ sách: Luận Ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung, Đại Học mới được gọi chung là Tứ truyện.
Vì công chú thích lại toàn bộ kinh, truyện, đến năm 1414 khắc in với tên Ngũ
kinh Đại toàn và Tứ thư Đại toàn, anh em học Trình và Chu Hy- gọi chung là
Trình Chu- được coi là bậc đại hiền và nhiều người gọi Nho học Khổng Mạnh Trình
Chu mặc dù trong Nho giáo đời Chiến Quốc, Mạnh Tử không phải là nhà tư tưởng xuất
sắc nhất và trong Nho giáo đời Tống, Trình Chu cũng không phải là xuất sắc nhất.
Nhưng lịch sử đã lựa chọn chính dòng đó để truyền bá rộng rãi, không chỉ ở
Trung Quốc mà cả ở Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam.
Đã
hai mươi lăm thế kỷ, kể từ khi Khổng Tử ra đời. Nho giáo thành một học thuyết
có ảnh hưởng lớn trong văn hoá các nước Đông Á. Tuy từng thời kỳ và từng nước
có những điều kiện thực tế khác nhau nên nội dung Nho giáo cũng được hiểu ít
nhiều có khác nhau. Có những xu hướng có ở nước này mà không có ở nước khác. Ví
dụ như “tâm học” của Vương Dương Minh, ra đời ở Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu
trong tư tưởng cận đại Nhật Bản, nhưng ở Việt Nam thì hầu như không ai chú ý.
Tuy vậy, cả ba thời kỳ và cả ở bốn nước, Nho học vẫn chỉ phát huy và không có
chút nghi ngờ nào về những điểm cơ bản đã được Khổng Tử đặt nền móng. Cả bốn nước
đều coi Ngũ kinh và Tứ thư là kinh điển.
Ở
Trung Quốc và Nhật Bản còn có những học phái bài bác Chu Hy, còn ở Việt Nam thì
từ thế kỷ XV cho đến thế kỷ XIX chỉ có tư tưởng Khổng Mạnh với cách giải thích
của Trình Chu là được lưu hành, không gặp sự dị nghị nào cả. Cho nên học thuyết
của Nho giáo, hiểu một cách tinh giản, chính là tư tưởng của Khổng Tử trong
sách Luận Ngữ được làm sáng tỏ hơn bằng cách đối chiếu với Ngũ kinh và Tứ truyện
do Tống Nho lựa chọn.
2. Khổng
Tử hoạt động vào cuối thời Xuân Thu. Mạnh Tử hoạt động vào giữa thời Chiến Quốc.
Xuân Thu- Chiến Quốc là một thời kỳ loạn lạc triền miên dài đến năm thế kỷ, biểu
hiện bằng những cuộc chiến tranh không ngớt giữa các nước chư hầu
nhà Chu để giành đất, giành dân của nhau. Muốn hiểu rõ hơn chúng ta
có thể đọc ĐôngChu liệt quốc, bộ tiểu thuyết nhiều chương, hồi, trình bày
lịch sử thời đó. Chiến tranh liên miên đưa đến kết quả là hầu hết các nước chư
hầu theo con số trong sử sách lên đến hơn tám trăm nước, đã bị tiêu diệt dể còn
lại vài chục nước thời Xuân Thu và bảy nước thời Chiến Quốc, cho đến năm 221, Tần
Thuỷ Hoàng đánh bại được tất cả để thành lập đế chế thống nhất. Với thực tế chiến
tranh, cuộc sống của nhân dân cực kỳ điêu đứng. Sử sách còn ghi là vào thời đó
người ta phải “đổi con cho nhau mà ăn thịt, chẻ xương ra làm củi đun nấu”. Khổng
Tử và Mạnh Tử rất đau xót trước tình trạng đó của đất nước và lập chí tìm đường
cứu đời ra khỏi cảnh loạn ly. Khổng Tử chê trách cả thời Xuân Thu không có cuộc
chiến tranh nào là chính nghĩa. Mạnh Tử tố cáo nỗi khổ của nhân dân phải lìa cửa
lìa nhà đi lưu lạc, bỏ xác nơi ngòi rãnh trong lúc vua chúa sống xa hoa và gây
chiến tranh, thế mà vua chúa vẫn tự xưng là cha mẹ dân. Khổng Tử cũng như Mạnh
Tử dành một quãng đời khá dài đi chu du các nước tìm một ông vua biết nghe lời
mình, thay đổi cách trị nước có lợi cho dân, nhưng chưa bao giờ họ tìm được.
Trong một chuyến đi sang nước Vệ, Khổng Tử chưa tìm ra đường đến bến để qua
sông. Ông cho học trò là Tử Lộ tìm người để hỏi. Có hai người ẩn sĩ đang bừa cỏ
nghe Tử Lộ nói người cần hỏi đường là Khổng Tử thì chế giễu “Ông Khổng Khâu thì
cần gì phải hỏi đường!”. Và họ không chịu chỉ. Tử Lộ về mách lại với thầy. Khổng
Tử ngậm ngùi mà nói: “Chim thì sống theo đàn, muông thú thì sống theo bầy. Ta
là con người. Ta không thể sống theo chim, theo muông thú được. Nếu con người
không gặp cảnh loạn ly thì ta có chạy vạy mà làm gì”. Mối quan tâm chi phối
hành động của vị tổ sư Nho giáo là cứu đời, là vì con người. Ông nói: “Người
nào lần đầu tiên nghĩ ra chuyện lấy hình con người mà tạc bù nhìn, người đó
không nên có con cái”. Theo ông, làm như thế là xúc phạm đến con người. Đó là
khuynh hướng nhân đạo chủ nghĩa xuyên suốt tư tưởng của Nho giáo.
Muốn
cứu đời thì phải chấm dứt sự loạn ly. Nhưng thế nào là loạn? “Loạn” theo Khổng
Tử là cảnh tranh giành, kiện tụng và chiến tranh, tức là con người giành giật,
giằng xé nhau đến mức “con giết cha, tôi giết vua” cũng không từ. Vậy cái gì
xui khiến con người đến nỗi như vậy? Theo Khổng Tử, đó là vì con người ai cũng
muốn giàu hơn, muốn sang hơn, không chịu bằng lòng với cái mình có, muốn vượt
phận vượt vị để giành cho được nhiều hơn. Xui con người tranh giành nhau là dục
vọng cá nhân. Khổng Tử không nói nhiều đến dục vọng, chưa lên án dục vọng.
Nhưng về sau thì Mạnh Tử đối lập dục vọng với bản tính theo điều thiện của con
người. Mạnh Tử nói tính con người theo điều thiện cũng như tính nước chảy xuôi,
như cây mùa xuân nảy mầm ra lộc. Dục vọng như trâu, dê cứ nhè mầm lộc ấy mà ngắt,
mà phá. Cho nên muốn chấm dứt loạn thì phải chấm dứt sự tranh giành, chấm dứt
kiện tụng và chiến tranh, phải làm cho con người không chạy theo dục vọng ích kỷ
mà lao vào con đường ấy. Khổng Tử bao giờ cũng nhìn việc tranh giành là chuyện
tiêu cực. Theo ông chỉ ngoại trừ hai trường hợp: ganh đua trong khi thi bắn
cung và ganh đua làm điều nhân. “Giành nhau làm điều nhân thì không nhường cả
thầy”.
Đối lập
với “loạn” là “trị”. Khổng Tử mong ước và tin tưởng có thể lập ra một xã hội
như vậy. Hơn thế ông còn nghĩ có thể lập ra một xã hội vĩnh viễn trị như vậy.
Khổng Tử nói: “Kẻ thiện nhân cai trị một trăm năm thì có thể khắc phục được sự
tàn bạo và xoá bỏ việc giết người”. Ông lại nói: “Xử kiện cho công bằng thì ta
cũng làm như người khác thôi. Cái ta muốn là không có kiện tụng kia”. Cho nên
lý tưởng của Nho giáo là xây dựng một xã hội- theo từ của họ là “một thiên hạ”-
hoà mục (hoà), ổn định (bình) và trật tự (tự). Trong xã hội đó, mọi người sống
yên vui với cảnh êm ấm như trong gia đình hoà thuận: cha thương con và con hiếu
thảo với cha, anh thương em và em nghe lời anh, chồng thương vợ và vợ phục tùng
chồng. Một xã hội tốt không chỉ là xã hội hoà mục thân ái, mà còn là một xã hội
ổn định ít xáo trộn, một xã hội có trật tự, không lộn xộn.
Muốn
xây dựng một xã hội như vậy cần phải:
- Đào
tạo một con người tốt.
-
Theo một biện pháp có hiệu quả nhất.
3.
Thiết lập một xã hội tốt.
Nói
xã hội là nói theo cách của chúng ta ngày nay. Lúc bấy giờ hình dung cuộc sống
xã hội qua cách tổ chức khác: không có đất nào là đất không có chủ. Đất đai dưới
trời là thiên hạ, thiên hạ thuộc về thiên tử; thiên tử cắt thiên hạ ra thành
nhiều nước giao cho các bề tôi của mình làm vua cai quản; vua làm chủ nước (quốc);
vua chư hầu lại cũng cắt một số vùng đất trong nước giao cho các quan khanh,
quan đại phu để làm thực ấp- gọi là gia (tức là nhà)- Đó vừa là tổ chức nhà nước
vừa là xã hội nội bộ của từng lớp quý tộc thượng lưu. Trong tổ chức đó người
này và người khác được phân biệt và ràng buộc với nhau theo các quan hệ chúa
tôi, họ hàng bà con và quan hệ tình nghĩa cố cựu. Bên ngoài tầng lớp thượng lưu
quý tộc đó là “dân” sống theo làng, theo họ thành các hộ gia đình. Chủ các thực
ấp, vua chư hầu và thiên tử thu cống phú hay là thuế của dân, đồng thời thường
điều động dân đi phục dịch (đi phu), điều động dân làm lính trong các cuộc chiến
tranh, đánh lẫn nhau.
Chủ
trương xây dựng một xã hội tốt, một xã hội bình trị của Khổng Tử có thể tóm tắt
thành các mặt:
a) Một
chính quyền thống nhất, một xã hội quy về một mối và đầu mối là thiên tử.
Muốn
mọi người không tranh giành nhau thì phải có người làm chủ, người chủ trì, người
trọng tài không để xảy ra tình trạng mọi người làm theo ý riêng, chạy theo quyền
lợi riêng. Thiên tử phải là người làm chủ. Cho nên Khổng Tử nói: “Khi nước có đạo
thì những việc lớn như lễ nhạc, đánh dẹp phải do thiên tử quyết định, việc
chính sự không do các quan đại phu quyết định và dân thường không bàn tán”; người
nào “không ở chức vụ nào đó thì không bàn công việc của chức vụ đó”. Biểu hiện
của việc thu về một mối là thiên tử nắm quyền sở hữu “đất đai dưới gầm trời” và
coi “tất cả những người ở trên đất ấy đều là thần dân”. Thiên tử cũng như người
cha chung của tất cả.
Vì
thiên tử là cha chung, là người thực hiện cục diện thống nhất nên thiên tử cũng
là người chịu trách nhiệm sắp xếp lại tật tự, phân phối quyền lợi cho mọi người.
Mỗi người đều có chỗ đứng (vị) trong xã hội.
Căn cứ vào chỗ đứng đó mà mỗi người đều có “quyền” và có “lợi” của mình. Mỗi chỗ
đứng (vị) đều phải được xác định rõ ràng bằng một tên gọi (danh). Cả tập hợp danh, vị, quyền, lợi cho mỗi người
là phận của người ấy. Thần dân bao gồm cả quan và
dân. Cho nên thiên tử định quan tước và cấp bổng lộc cho quan và cung cấp ruộng
cho dân. “Quan thì có tước và dân thì có ruộng”, tất cả đều do thiên tử ban
phát cho, đều là do ơn vua. Lợi là ruộng đất, bổng lộc. Còn quyền có cả về mặt
vật chất và tinh thần: quyền đi trước, đi sau, đứng trước, đứng sau, nói trước,
nói sau, ngồi trên, ngồi dưới, quyền mặc áo màu gì, bằng tơ hay bằng vải, thậm
chí ngắn hay dài, được đi giày hay dép hay chỉ được đi chân đất, làm nhà kiểu này
hay kiểu khác… Tất cả đều được quy định thành văn hay chỉ thành lệ, nhưng nếu
vi phạm thì hoặc là bị chê trách hoặc bị xử phạt. Đó là “lễ”. Lễ để phân biệt
trên dưới theo trật tự và làm cho mọi người ăn nói, đi đứng, hành động tương ứng
với danh vị được thiên tử sắp xếp: quan thì có tước mà dân thì có hạng. Tước, hạng
hay danh vị là cơ sở để tạo lập trật tự xã hội. Cái quan
trọng không phải là sở hữu mà mỗi người bằng cách này hay cách khác giành được
mà là danh vị do bề trên sắp xếp cho.
Nói
đến quyền lợi, tất nhiên phải nói đến quyền lợi vật chất, quyền lợi kinh tế.
Nho giáo cũng không phải hoàn toàn coi thường quyền lợi vật chất, quyền lợi
kinh tế. Khổng Tử rất coi trọng việc làm cho dân giàu. coi vịêc đó còn quan trọng
hơn cả việc giáo hoá, đồng thời coi việc ai cũng muốn giàu, muốn sang là chuyện
tự nhiên. Mạnh Tử đã ý thức được vai trò của hoàn cảnh. Ông nói năm mất mùa thì
con em nhiều người hung bạo, người có hằng sản thì dễ có hằng tâm, nếu con người
sống no đủ thì việc làm theo điều thiện cũng nhẹ nhàng hơn. Cho nên, Nho giáo,
bắt đầu ngay từ Khổng Mạnh đã quan tâm đến đời sống kinh tế. Nhưng họ lại còn
quan tâm hơn đến một trật tự hợp lý trong xã hội- hay đúng hơn là thiên hạ- thống
nhất. Vì vậy, đời sống kinh tế từng người phải tương ứng với danh vị hay phận vị
của họ. Đó là quan niệm xuất phát của chủ trương “chế dân sản”, tức quy định
tài sản của dân của Mạnh Tử. Mạnh Tử tính toán nếu mỗi gia đình (họ) có 100 mẫu
ruộng (mẫu Trung Quốc không rộng như mẫu Bắc Bộ) chăm lo cày cấy thì có thể
nuôi sống 9 người, năm được mùa có thể sống dư dật, còn năm mất mùa cũng không
đến nỗi đói khổ. “Mỗi hộ nếu có 5 mẫu vườn lo trồng dâu nuôi tằm, chăn nuôi gà
lợn thì “người già có lụa mặc, có thịt ăn, không phải vất vả đội vác ngoài đường”
đó là mức mà người dân có thể dựa vào đó mà “ngửng lên có thể phụng dưỡng được
cha mẹ, cúi xuống có thể nuôi nấng được vợ con”; và nếu được như vậy thì họ làm
theo điều thiện không có khó khăn gì. Cho nên đấng vương giả- người cai trị giỏi,
có đức, biết thương dân- phải tìm cách thoả mãn yêu cầu đó và đồng thời bảo đảm
tương quan hợp lý đúng với danh vị từng người: người có danh vị cao sang thì phải
có của cải nhiều hơn. Tương quan hợp lý như vậy Khổng Tử gọi là “quân” (thường
dịch là “đều” nhưng không thật chính xác). Khổng Tử nói “Bất hoạn quả nhi hoạn
bất quân, bất hoạn bần nhi hoạn bất yên. Cái: quân, vô bần; hoà vô quả; yên: vô
khuynh”. Dịch nghĩa là “Không sợ ít mà sợ không “quân” (đều); không lo nghèo mà
lo không yên. Bởi lẽ: đã quân (đều) thì không có nghèo; đã hoà thuận thì không
có ít (chuyện nhiều hay ít); đã yên, không rối loạn thì không có chuyện nghiêng
đổ”. Quân không phải là đều, không phải là cào bằng ai cũng như nhau mà là
không quá chênh lệch, bất hợp lý. Theo Mạnh Tử nếu như vua có 10, quan khanh có
1; quan khanh có 4, quan thượng đại phu có 1; thượng đại phu có 2, trung đại
phu có 1… tức là người trên hơn người dưới trực tiếp ở mức như vậyvẫn là quân,
là hợp lý. Đó là nói tước lộc cho quan. Còn dân cũng theo hạng mà nhận ruộng:
người ít nhất cũng ở mức 100 mẫu để đủ ăn và người đó được hưởng thụ ngang với
bậc hạ sĩ, thấp nhất trong quan chức. Chỉ khác là dân thì nhận ruộng cày để làm
ra, còn người hạ sĩ cũng như các quan chức khác thì được hưởng bổng lộc lấy từ
tô thuế do dân nộp. Để thực hiện sự phân phối ruộng đất cho dân và tước lộc cho
quan, Mạnh Tử đề xướng chế độ “tỉnh điền”, chia ruộng theo hình chữ tỉnh: 9 ô
vuông, mỗi ô 100 mẫu, 8 hộ nông dân cày các ô xung quanh tự thu hoạch và cũng
cày 1 ô ở giữa để nộp thuế cho vua. Như thế là thực hiện thuế suất một phần mười.
Thuế suất một phần mười, theo Khổng Mạnh là thuế suất hợp lý theo đúng thể chế
Tiên Vương, nặng hơn là tàn tàn bạo, bóc lột dân; mà nhẹ hơn là man mạch thiếu
văn hoá, nhà nước quá đơn giản chưa hình dung đến nhưng chi tiêu vì lợi ích
chung. Quốc gia thống nhất quy về một mối như vậy là một quốc gia có tổ chức từ
trên xuống dưới cả về mặt chính trị, cả về mặt xã hội; mỗi người đều có vị, có
phận rõ ràng không hề tranh giành nhau được. Cần nói thêm là phận tương ứng với
vị là bảo đảm cho sự hợp lý, sự công bằng (quân) nên mọi người phải tôn trọng,
không được tìm cách kiếm thêm, làm giàu ngoài phận vị. Cho nên Mạnh Tử lên án
việc khai thác đường thiên đường mạch, tức là đất để hoang, vì làm thế thì người
khai khẩn có thể có gấp mấy lần số ruộng đáng có!
Một lần
vua Tề hỏi Mạnh Tử: “Thiên hạ như thế nào thì ổn định?” Mạnh Tử trả lời: “Thống
nhất thì ổn định”. Vua hỏi: “Ai có thể thống nhất được?” Mạnh Tử trả lời: “Ai
không thích giết người thì sẽ thống nhất được”. Ở đây ngoài nội dung thống nhất
thì ổn định còn có nội dung là người cầm quyền phải có đức, không thích giết
người mới có thể thống nhất được. Theo tư tưởng truyền thống, ngôi vua là do mệnh
Trời; từ nhà Chu mới thêm Trời giao ngôi vua cho người có đức và đến
đây nói thêm nội dung của đức là lòng nhân. Từ tư tưởng dùng đức đó mà hình
thành quan niệm người cầm quyền tức vua và quan là cha mẹ dân, nhà nước với dân
có quan hệ cha con.
Tư
tưởng thống nhất về một mối là điểm xuất phát cho việc bảo vệ dòng chính thống,
có mệnh Trời. Cũng từ tư tưởng dó mà có việc giữ lòng trung nghĩa, không chấp
nhận sự phản nghịch, sự tiếm việt, xâm phạm đến ngôi vua. Khổng Tử là người
rất kiên trì tư tưởng “tôn vương” thể hiện thành nguyên tắc để biên soạn kinh
Xuân Thu và chống tội tiếm việt của nhiều nhà quý tộc đương thời. Về sau Hán
Nho và Tống Nho hoặc là theo hướng tôn giáo, hoặc là theo hướng triết học tìm mọi
cách phát huy tư tưởng tôn vương, chính thống đó. Nội dung nhất quán vẫn là thống
nhất về một mối thì tránh được loạn, giữ được trật tự, ổn định.
b) Một
xã hội khắp nơi có trật tự trên dưới:
Một
xã hội không loạn cũng là xã hội có trật tự, không lộn xộn. Vì vậy, các ông tổ
Nho giáo đã mong ước lập một tổ chức xã hội mà ở đâu cũng có trên, có dưới phân
minh phổ biến thì đó là trật tự của danh vị. Nhưng ngoài ra còn có những quan hệ
trên dưới khác không thuộc phận vị. Trong gia đình, đó là quan hệ cha và con,
anh và em, chồng và vợ. Trong xã hội căn cứ vào tuổi tác, chức tước, cha anh và
con em về họ hàng mà sắp xếp trên dưới. Tuy sách vở vẫn nói ai cũng là con người,
bốn bể là anh em, nhưng Nho giáo không tán thưởng sự bình đẳng mà ngược lại cường
điệu quan hệ trên dưới, đặt ra lễ tiết quy định cách ăn nói, đi đứng, thưa gửi
làm cho bất cứ ai ở trong hoàn cảnh nào cũng nhận ra ngay xung quanh mình ai là
trên ai là dưới để ứng xử đúng đắn. Là người trên thì phải thương yêu, bao dung
kẻ dưới, là người dưới thì phải kính nhường, nghe theo người trên. Cư xử không
đúng cương vị kẻ trên người dưới ít nhất cũng bị chê cười là thiếu hiểu biết.
Vi phạm trong những trường hợp trường hợp nghiêm trọng còn có thể bị xử phạt.
Giữ
gìn trật tự trên dưới là một cách tránh sự lộn xộn, sự tranh giành.
c) Một
thế giới hoà mục như trong gia đình:
Nho
giáo coi giữa con người và con người có năm quan hệ gọi là ngũ luân: cha- con, anh- em, vợ- chồng, bè bạn và vua-
tôi. Về sau được nhấn mạnh ba trong năm quan hệ đó được coi là cơ bản nhất, tức
là tam cương: cha- con, vua- tôi và vợ- chồng. Ngoài ra họ
cũng nói đến ba ngôi tôn quý là vua, cha và thầy. Theo Khổng Tử thì cách trị nước là làm cho
“vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”. Đó là cách quan niệm của một xã hội luân thườngvà một con người chức năng theo luân thường. Con người có
giá trị hay không là ở chỗ hoàn thành hay không hoàn thành chức năng là cha hay
là con, là vua hay là tôi, là anh hay là em.
Đáng
chú ý là tuy năm quan hệ đã đề cập đến con người trong đời sống gia đình, xã hội
và với nhà nước; nhưng quan hệ vua- tôi (nhà nước với dân) lại đồng nhất với
cha- con, quan hệ bạn bè (xã hội) lại đồng nhất với anh- em. Thế là các quan hệ
xã hội và với nhà nước đều quy về các quan hệ gia đình. Nho giáo lấy gia đình để hình dung thế giới: những cộng
động như họ, làng, nước, thế giới cho đến cả vũ trụ, tuy có phạm vi rộng hẹp
khác nhau nhưng đều được coi giống như gia đình, tức là với các quan hệ cha-
con, anh- em và vợ- chồng, có trên có dưới. Người trên (cha, anh và chồng) phải
thương yêu, chăm sóc người dưới và người dưới (con, em và vợ) phải thương yêu,
phục tùng và biết ơn người trên. Cách cư xử đúng chức năng như vậy làm cho gia
đình thuận hoà, êm ấm. Theo Nho giáo áp dụng cách thức như vậy trong quan hệ xã
hội và trong quan hệ nhà nước, giữa người cầm quyền và dân cũng tạo ra một cảnh
êm ấm thuận hoà. Đó là cách lấy gia đình thuận hoà làm mẫu để xây dựng xã hội
thái bình, hoà mục, trật tự và ổn định.
Lấy
gia đình làm mô hình hình dung thế giới, nên trong quan hệ xã hội và quan hệ giữa
dân với nhà nước ta cũng quen gọi bằng chú, bằng bác, bằng cô, tạo ra một thứ
chủ nghĩa gia đình nhiều khi cũng êm ấm, nhưng không bao giờ là rành mạch được
cả.
4. Ra
sức tu thân và làm cho mọi người đều thiện:
Nho
giáo mong có một xã hội tốt đẹp, nhưng không phải là bằng cách làm điều lợi, bỏ
điều hại, kinh doanh, làm cho phú cường… mà bằng cách làm cho mọi người đều nỗ
lực tu dưỡng đạo đức để tất cả đều thiện. Sách Đại học nói: “Từ thiên tử cho đến
người dân thường ai ai cũng lấy tu thân làm gốc”.
Nho
giáo quan tâm đến việc bồi dưỡng nên những người có đạo đức. Vậy Nho giáo quan
niệm thế nào là có đạo đức? Người “quân tử” mà Khổng Mạnh nói đến có rất nhiều
phẩm chất. Ở đây chỉ nói đến những mặt mà Nho giáo coi là cơ bản.
a)
Nói trung tín, làm đốc kính, tức là trung thực, có sao nói vậy, không giả dối
quanh co, đã nói là giữ lời; trong việc làm cẩn thận và hết lòng, không coi thường,
gặp sao hay vậy.
b) Hiếu
đễ. Nho giáo coi ăn ở hết lòng với cha mẹ và biết kính nhường anh, chị là điểm
cực quan trọng trong đạo đức vì đã ăn ở không tốt với cha, với anh mình thì
cũng không thể tốt với người khác được.
c)
Trung thứ, nhân hậu. Yêu quý người khác, coi người khác cũng như mình “cái gì
mình không muốn thì không làm cho kẻ khác”. Đòi hỏi ở mình trước rồi mới đòi hỏi
ở người khác . Sống hoà mục, trung hậu.
d)
Khiêm tốn, nhường nhịn. Người quân tử không bao giờ được kiêu căng, tranh giành
với người khác. Camchịu phần kém, không oán Trời, trách người, không giành
giật, không chê bai, châm chọc.
e)
Trong việc tang ma, thờ cúng nhưng chỉ là để tỏ lòng biết ơn tổ tiên chứ không
mê tín quỷ thần, cúng vái để cầu phúc.
Có thể
nói tóm tắt, con người có đạo đức theo Nho giáo là con người chăm lo tu dưỡng,
sống khiêm tốn, cẩn thận, nhân ái, có trách nhiệm kính trên, nhường dưới, sống
thân ái, hoà mục với người khác.
5.
Giáo hoá quan trọng hơn cai trị.
Nho
giáo từ Khổng Tử đến Mạnh Tử, vốn là một học thuyết rất coi trọng chính trị,
coi việc cầm quyền, làm vua hay làm quan là một cơ hội tốt, một phương tiện tốt
để hành đạo. Nhưng trong lý thuyết Nho giáo, trị nước bằng chính sách, bằng luật
pháp, bằng hình phạt không có hiệu quả tốt bằng cách giáo hoá cho dân. Khổng Tử
nói: “Dùng chính sách để hướng dẫn dùng hình phạt để mọi người nghe theo thì
dân (sợ hãi nên) tránh được tội nhưng không biết xấu hổ (vì làm bậy). Dùng đức
để hướng dẫn, dùng lễ để mọi người nghe theo thì người dân không phạm tội, biết
xấu hổ lại còn cảm kích sự dạy dỗ nữa”. Cho nên, Mạnh Tử nói: “Cai trị giỏi
không bằng giáo hoá giỏi. Cai trị giỏi lấy được của cải của dân, giáo hoá giỏi
mới lấy được lòng dân”. Khổng Tử rất quan tâm ở chỗ lòng dân vui theo nên nhấn
mạnh cách cai trị bằng đức (đức trị), tức là người
cầm quyền thương dân và làm gương cho dân theo. Khổng Tử nói: “Cai trị bằng đức
giống như sao Bắc thần đứng ở chỗ của nó mà các sao khác châu tuần xung quanh
nó”. Khổng Tử cũng nói đến cai trị bằng lễ, tức là đặt ra các việc phải làm,
nên làm, hợp với các vị trí, hợp với các trường hợp, hoàn cảnh, giáo dục cho mọi
người, biến thành phong tục, thành tập quán và người ta làm theo như một nền nếp
văn hoá, tự nguyện chứ không phải do bị cưỡng bức. Đức trị và lễ trị chú ý cảm
hoá mọi người, chú ý sự tự nguyện, khác với pháp trị dựa vào sự cưỡng bức bằng
thưởng và phạt, làm cho con người vì lợi (thưởng) hay sợ (phạt) mà làm theo.
Nho giáo coi trọng trật tự trên dưới, coi trọng vai trò người cầm quyền, việc
cai trị bằng người (nhân trị), coi trọng việc dân nghe theo người cầm quyền,
cho nên không tán thành pháp trị và cách cai trị bằng chính sách và hình phạt.
Cách cai trị tốt đẹp được Khổng Tử coi trọng còn là văn trị, tức là dùng lễ nhạc,
văn hiến để hấp dẫn làm cho người ở xa vui thích mà theo về. Đó là nội dung coi
trọng giáo hoá hơn cai trị, coi trọng theo gương hơn thưởng phạt, coi trọng lễ
nhạc hơn hành chính, coi trọng lòng dân, sự tự nguyện của dân hơn là sự cưỡng bức,
kể cả việc khuất phục bằng bạo lực hay khuất phục bằng của cải.
Nội
dung chuộng đức đó làm cho Nho giáo từ Khổng Mạnh cường
điệu nhân nghĩa, cường điệu đến đối lập nhân nghĩa với lợi.
Mạnh
Tử yết kiến Lương Huệ Vương. Vương nói: “Cụ không coi ngàn dặm là xa mà đến với
ta, chắc cũng có điều gì định làm lợi cho nước ta chăng?” Mạnh Tử nói: “Sao vua
lại nói lợi? Chỉ có nhân nghĩa mà thôi. Nếu vua nói có gì làm lợi cho nước ta
thì quan đại phu sẽ hỏi có gì làm lợi cho nhà ta; sĩ và thứ nhân sẽ hỏi có gì
làm lợi cho thân ta. Trên dưới đua nhau giành lợi thì nước nước nguy mất”.
6. Điều
cốt lõi của học thuyết Nho giáo: Nhân nghĩa. Nội dung và chỗ hạn chế.
Khổng
Tử hết sức đề cao đức “nhân”. Không phải đến Khổng Tử người ta mới nói đến điều
đó. Nhưng Khổng Tử đã đưa nhân lên thành đức mục cao nhất, coi đó là đích của sự
tu dưỡng, là tinh thần của lễ nhạc, là nội dung chính trị của thánh nhân. Bằng
cách đó, Khổng Tử đã mở đầu làm cho Nho giáo thành một học thuyết nhân đạo chủ
nghĩa (humaniste). Khổng Tử nói rất nhiều lần về đức nhân nhưng trong Luận Ngữ
lại không có một định nghĩa rõ ràng về đức mục trung tâm đó của Nho giáo. Khổng
Tử cũng nhiều lần nói đến “nghĩa” nhưng trong Luận Ngữ, nghĩa cũng chưa có nội
dung thật xác định. Chỉ hơn một thế kỷ sau khi Mặc Tử với thuyết “kiêm ái” công
kích chữ nhân của Khổng Tử là yêu lấy người của mình (biệt ái) và đưa ra nội
dung chữ nghĩa với nội dung vì người khác: có của đưa cho người khác tiêu, có sức
đem giúp người khác, thì Mạnh Tử kịch liệt chống lại và mới trình bày rõ nội
dung “nhân” và “nghĩa” theo cách hiểu của mình và cũng bắt đầu nói “nhân nghĩa”
với một nội dung đặc biệt có tính Nho giáo.
Theo
sách Luận Ngữ, Khổng Tử nói: “Nhân là yêu người”. Và ở một chỗ khác nhân là
trung thứ. Trung thứ là “cái mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác, cái mình
mong có thì làm cho người khác có”. Như thế là căn cứ vào chỗ mình và người
khác cũng giống nhau. Nhưng còn vấn đề con người được hiểu như thế nào? Giữa những
con người quan hệ với nhau theo cách nào? Khổng Tử nói: “Đạo của người quân tử
có bốn điều mà Khâu này (Khổng Tử tự xưng tên) chưa làm được điều nào. Cái mình
mong con mình làm cho mình thì mình làm cho cha mẹ mình. Cái mình mong em mình
làm cho mình thì mình làm cho anh mình. Cái mình mong tôi tớ của mình làm cho
mình thì mình làm cho vua mình. Cái mình mong bè bạn làm cho mình thì mình làm
trước cho họ”. Như thế thì tuy là con người ai cũng giống nhau nhưng họ không
chỉ là người với người mà còn có quan hệ cha- con, anh- em, vua- tôi, bè bạn,
và lòng trung thứ là đối xử theo các quan hệ như vậy. Cho nên yêu con người
theo Nho giáo, không nhấn mạnh cạnh khía ai cũng như ai, cạnh khía con người để
trở thành bác ái, kiêm ái mà yêu có phân biệt, phân biệt theo quan hệ của trật
tự xã hội: quan hệ sang hèn theo danh vị, quan hệ đẳng cấp quân tử và tiểu
nhân, quan hệ thân sơ theo họ hàng.
Nhân
cao hơn các đức mục khác, có phần bao gồm các đức mục khác, nhưng “nhân” cũng
có những tiêu chí riêng, khác với những đức mục khác, khác với có đạo đức nói
chung. Cho nên Khổng Tử khen Lãnh doãn Tử Văn trung, khen Trần Văn tử là trong
sạch mà không biết có nhân hay không, mặc dù hai người đó về mặt đạo đức được mọi
người đánh giá cực cao. Vậy tiêu chí để nhận diện là nhân là những gì?
Khổng
Tử nói: “Ai làm được năm điều này trong thiên hạ, người đó là nhân: cung, khoan, tín, mẫn, huệ”. Cung là khiêm tốn, biết
tôn trọng người và tôn trọng công việc, không coi thường thành ra kiêu ngạo,
thành ra không chu đáo. Khoan là rộng rãi, không riết róng, thu nhận của người
đến kiệt. Tín là nói sao làm vậy, coi trọng lời hứa. Mẫn là nhanh nhẹn, linh hoạt,
không lề mề, trì độn, ỳ ra. Huệ là rộng rãi, không bủn xỉn, keo kiệt, cho người
không tiếc rẻ, không bớt xén. Làm được năm điều đó thì dân vui lòng nghe theo,
dân tín, dễ sai khiến dân… Đó là đức mục của người cầm quyền trong quan hệ với
dân. Nhân như vậy đòi hỏi phải xuất phát từ lòng thương người, từ sự tôn trọng
con người mà làm việc có hiệu quả, có công ơn với dân.
Vì lẽ
đó có học trò hỏi Khổng Tử: “Có người thi ơn rộng rãi với người khác và giúp đỡ
được nhiều người, như thế đã là nhân chưa?” Khổng Tử trả lời: “Sao lại là nhân!
Đó là “thánh” kia! Nghiêu Thuấn cũng còn coi thế là khó”. Như thế là còn có bậc
cao hơn nhân là thánh, và tiêu chí để đánh giá hay nội dung thực chất là người
cầm quyền có lòng thương dân rộng rãi và có công trạng giúp ích cho dân.
Sau
khi Mặc Tử công kích nhân như Khổng Tử chỉ là biệt ái, yêu lấy người của mình
chứ không coi mọi người như nhau, đề ra thuyết “kiêm ái” và chủ trương: “Anh
hãy yêu cha mẹ người khác rồi người khác sẽ yêu cha mẹ anh. Như thế thì cha mẹ
anh sẽ được yêu nhiều hơn (vì được nhiều người yêu)”. Mạnh Tử chống lại kịch liệt,
lên án Mặc Tử là không có cha vì coi cha cũng như người dưng. Mạnh Tử để nhiều
công sức làm sáng tỏ học thuyết nhân nghĩa của Nho gia bằng cách:
Nhấn
mạnh sự phân biệt theo thân sơ, theo tước vị, theo đẳng cấp và chủ trương chia
ra thứ bậc: thân thiết với người thân (thân thân), nhân từ với nhân dân (nhân
dân) và yêu thương loài vật (ái vật).
Tìm
cho thuyết nhân nghĩa một cơ sở thiên đạo, một cơ sở triết học. Đó là thuyết
“tâm” và “tính”, thuyết “tính thiện”. Để đối địch với Mặc Tử, Mạnh Tử cũng nói
“nhân” và “nghĩa”, cũng nói “nhân nghĩa” bằng những nội dung rõ ràng và đối lập.
Mạnh Tử chủ trương con người có “tâm”. Đó là cái Trời ban cho con người, phân
biệt con người với chim muông. Cái nhận từ Trời đó là “tính”. “Cái Trời sinh ra
gọi là tính” (Trung Dung). Tính con người vốn thiện vì sinh ra ai cũng biết yêu
cha mẹ, ai cũng biết theo anh. Người nào thấy người khác sắp gặp nguy hiểm thì
cũng có lòng thương xót, làm điều gì sai trái thì cũng tự thấy xấu hổ. Thế là
ai cũng mang trong mình tính thiện, ai cũng mang trong mình “đầu mối của cái
thiện”. Nhân nghĩa chỉ là hình thức phát triển của cái thiện vốn có trong tính
con người. Con người ai cũng như nhau, ai cũng thích vị ngọt, ai cũng thích sắc
đẹp nhưng quan trọng hơn là từ lúc ấu thơ ai cũng biết yêu cha và theo anh. Cái
mầm mống của điều nhân là yêu thương cha mẹ. Cái mầm mống của điều nghĩa là
theo anh. Cho nên nhân là lòng (tâm) con người, nghĩa là đường đi của con người.
Không yêu mọi người như nhau vốn có cơ sở thiên lý.
Nhấn
mạnh lấy lòng nhân làm cơ sở chính trị, bàn về nhân chính- trị nước theo lòng
nhân- tức là suy từ lòng không thích giết người, từ lòng thương xót không muốn
người vô tội chịu chết, từ sự thích thú cùng vui với mọi người hơn là vui lấy một
mình… để đặt ra chế độ chính sách cai trị.
Trong
tám phái Nho gia, Mạnh Tử không phải là phái sâu sắc, tiến bộ nhất. Nhưng cũng
không nên nghĩ rằng Mạnh Tử đã giải thích sai học thuyết của Khổng Tử. Để bảo vệ
học thuyết của Thầy chống các luận địch (Dương Chu và Mặc Địch), Mạnh Tử cũng
chỉ làm rõ hơn một số điểm vốn đã có trong tư tưởng Khổng Tử:
Con
người xã hội và với các quan hệ với Trời, quan hệ vua- tôi, quan hệ cha- con, tức
là không có nghi ngờ nào với thể chế xã hội đã có sẵn lúc đó.
Tuy rất
quan tâm đến con người nhưng lại ít suy nghĩ đến các khía cạnh triết học, bản
thể luận mà chỉ nghĩ đến cuộc sống thực tế, đến trách nhiệm làm người…
Không
thoát quan điểm đẳng cấp, quan điểm chính trị vốn đã trở thành truyền thống và
mang tính bảo thủ lúc đó.
Trong
Luận Ngữ, Khổng Tử nói: “Kẻ quân tử mà bỏ điều nhân thì sao gọi là quân tử được”.
Lại nói: “Kẻ quân tử mà bất nhân thì cũng có. Chưa bao giờ kẻ tiểu nhân lại là
nhân cả”. Ở Khổng Tử sự phân biệt quân tử và tiểu nhân rất rạch ròi, nghiêm ngặt.
Ở đây nên lưu ý cách hiểu sự phân biệt đó. Quân tử và tiểu nhân, vào thời đại
đó không phải chỉ mang ý nghĩa phẩm hạnh như về sau, mà quan trọng hơn là mang
ý nghĩa phân biệt đẳng cấp. Trong cách tổ chức xã hội và nhà nước lúc đó, một
ông vua chư hầu có “nước” và ở trong “thành” hay “đô”. Thành tiêu biểu cho nước,
có thành là có nước, xây thành là lập nước. ở với vua trong thành có bà con
thân thích của vua cùng với các loại người giúp việc (bách chấp sự chi nhân hay
là hữu tư). Tất cả những người ấy đều gọi chung là quân tử. Thành sống bám vào
lao động ở nông thôn, qua việc thu cống phú (hay thuế). Nông thôn gọi là “dã”.
Người lao động sống ở đó gọi là “tiểu nhân” hay “dã nhân”. Cho nên sự đối lập
giữa quân tử với tiểu nhân, là sự đối lập đẳng cấp giữa dân lao động với tầng lớp
quý tộc. Chữ nhân của Khổng Tử có nội dung quân tử nhưng là với đòi hỏi người cầm
quyền hay đẳng cấp thống trị phải coi dân là con người và thương yêu họ. Cũng
nên nói thêm là khác với Mặc Tử, Khổng Tử không thấy sự phân biệt đó là bất
công, là trái nhân đạo. “Tiểu nhân không bao giờ nhân cả”.
Cách
hiểu nhân là lòng yêu thương của người cầm quyền đối với dân và nghĩa có nội
dung thực chất là em theo anh của Mạnh Tử là tiền đề cho các nhà nho đời Hán
phân biệt nhân là đức mục của vua, còn nghĩa là đức mục của bề tôi: vua thì
thương yêu dân còn bề tôi chỉ phục tùng vua.
- Một
chủ nghĩa nhân đạo đi vào ngõ cụt:
Không
thể nói khác được: tư tưởng nhân nghĩa là một thứ chủ nghĩa nhân đạo. Nói thế
không phải vì dịch ra tiếng nước ngoài bao giờ nhân nghĩa cũng chuyển dịch với
một từ tương đương với humanisme, mà vì nội dung của thuyết nhân nghĩa đặt trên
cơ sở thương yêu con người, mong muốn một cuộc sống tốt đẹp cho con người. Phát
sinh vấn đề là từ chỗ vì sao một chủ nghĩa nhân đạo ra đời sớm như thế, ở những
đất nước mà học thuyết đó ngự trị lâu đến vài chục thế kỷ lại chỉ thấy sự tàn bạo,
giữa các hàng chữ hoa mỹ chỉ có ba chữ “ăn thịt người” nói theo cách của Lỗ Tấn.
Tôi
nghĩ rằng trong chủ nghĩa nhân đạo của Nho giáo đã mang sẵn ba điều ngăn cản nó
phát triển thành chủ nghĩa nhân đạo chân chính. Đó là:
a) Hiếu đễ là gốc của nhân:
Trong
Luận Ngữ Khổng Tử nói: “Người quân tử chuộng cái gốc. Gốc có đứng vững thì đạo
mới nảy nở. Hiếu đễ là gốc của nhân”. Hiếu là đức của người con thương yêu và
ăn ở hết lòng với cha mẹ. Đễ là đức của người em sống hoà thuận và biết nghe
theo anh. Đó là hai đức mục trong đời sống gia đình. Còn nhân là lòng thương
yêu con người, nói về quan hệ giữa con người với con người, chủ yếu là nói
trong đời sống xã hội.
Con
người không phải sống lang thang vô định mà sớm biết tổ chức thành xã hội. Gia
đình là tổ chức đơn giản, có tính tự nhiên nhất của con người. Ngoài gia đình
con người còn có các loại tổ chức khác hẳn: nhiều cách tổ chức xã hội, tổ chức
cách cai trị giữa nhà nước với dân. Với xã hội và với nhà nước con người quan hệ
theo cách khác hẳn so với gia đình. Nói hiếu đễ là gốc của nhân hay gia đình là
gốc của xã hội, của nước, của nhà nước… cũng chỉ là nói một cách tương đối: con
người đã tốt trong gia đình thì ra xã hội cũng tốt hay gia đình nào cũng yên
vui thì xã hội cũng yên vui. Nhưng câu của Khổng Tử không nói với ý nghĩa như vậy.
Có hai nội dung cần lưu ý ở đây:
+ Nói
về một tác dụng chính trị. Chính Khổng Tử nói người đã cư xử có hiếu đễ trong
gia đình thì ra ngoài ít phạm thượng. Đã không phạm thượng thì không bao giờ
làm loạn. Sống hiếu đễ rèn luyện cho con người thành ngoan ngoãn, không chống đối,
làm rối loạn sự ổn định, trật tự trên dưới.
+ Gia
đình, họ, làng, nước, thiên hạ theo cách hình dung của Nho giáo là đồng dạng vì
đều có những quan hệ trên dưới giống như cha- con, anh- em, vợ- chồng. Nho giáo
không chú ý đầy đủ đến chỗ con người ngoài việc là cha, là con, là vua, là tôi,
còn là những cá nhân có đời sống riêng, có đòi hỏi phát triển độc lập, cần có tự
do và đòi hỏi sự bình đẳng, được tôn trọng theo lẽ công bằng trong đời sống xã
hội và trước nhà nước. Vì nghĩ như vậy nên sách Đại Học mới nói “Tu thân để tề
gia, tề gia để trị quốc, trị quốc để bình thiên hạ”. Tu thân để tề gia thì
không gây thắc mắc gì. Nhưng tại sao lại tề gia để trị quốc? Quan hệ trong gia
đình và quan hệ giữa dân với nhà nước là khác nhau; tổ chức gia đình và tổ chức
nhà nước là khác nhau. Nếu không hiểu các tổ chức xã hội và nhà nước đều tổ chức
theo lối gia trưởng, vua quan là cha mẹ dân; và không hiểu “tề”, “trị” và
“bình” đều cùng có một nội dung là xây dựng sự hoà thuận, sự êm ấm thì không hiểu
đúng chủ trương của Nho giáo và không hiểu đúng mệnh đề “Hiếu đễ là gốc của
nhân”.
Cách
hiểu như vậy làm mất nội dung xã của xã hội và nhà nước, thu hẹp sự phát triển
của con người thành con người của chỉ gia đình, không đòi hỏi phát triển cá
nhân, tự do, bình đẳng, sự công bằng, dân chủ xã hội… Chủ nghĩa nhân đạo do đó
bị hạn chế vì con người không ý thức được nhu cầu đấu tranh cho những mục tiêu
vừa nói, chỉ sống ngoan ngoãn, mong được thông cảm, được chiếu cố mà không đấu
tranh cho sự giải phóng, cho công bằng xã hội.
b) Khắc kỷ phục lễ là nhân:
Nhan
Uyên hỏi về nhân, Khổng Tử nói: “Khắc kỷ phục lễ là nhân. Một ngày nào đó mình
khắc kỷ phục lễ được thì thiên hạ sẽ coi mình là nhân. Làm điều nhân là do mình
chứ không phải di người khác đâu”. Nhan Uyên lại hỏi về các việc cụ thể phải
làm. Khổng Tử nói: “Đừng nhìn cái phi lễ. Đừng nghe cái phi lễ. Đừng làm cái
phi lễ”.
Trong
vịêc dạy học trò, Khổng Tử có thói quen trả lời sâu hay nông, cao hay thấp tuỳ
theo khả năng của người hỏi. Nhan Uyên là học trò giỏi nhất, nên câu trả lời
Nhan Uyên bao giờ cũng là nói đến chỗ cao sâu nhất. Đáng chú ý là Nhan Uyên hỏi
về nhân mà Khổng Tử lại nói về lễ và đòi hỏi theo lễ một cách nghiêm khắc. Như
trên đã nói, lễ là những quy định về đi đứng, ăn mặc, hành vi, cư xử mà cộng đồng
coi là thích hợp với từng người, từng trường hợp, tương ứng với phận vị của người
đó. Lễ vốn là những sự ràng buộc nên con người không dễ dàng tuân theo. Cái
“tôi” (kỷ) của mỗi người có xu hướng muốn sung sướng hơn, giàu hơn, sang hơn, tự
do hơn… tức là vượt lên trên mức mà lễ quy định và trong con người lòng dục
thúc đẩy con người không theo lễ, chạy theo “lợi”. Khắc kỷ phục lễ chính là kìm
chế cái “tôi”, trấn áp dục vọng, hoà mình vào cộng đồng. Kết cục là ở chỗ cộng
đồng thừa nhận “coi mình là nhân”, nhưng khởi thủy đó lại là một công phu tự
nguyện, chủ động. Lễ không có tác dụng cưỡng chế mà chỉ có tác dụng “ước thúc”.
Có một
đoạn khác trong Luận Ngữ nói về quá trình đó rất rõ. Khổng Tử nói: “Ta mười lăm
tuổi thì để tâm chuyên chú vào việc học. Ba mươi tuổi thì “lập”. Bốn mươi tuổi
thì “bất hoặc”. Năm mươi tuổi thì biết mệnh trời. Sáu mươi tuổi thì đã thuận. Bảy
mươi tuổi thì làm theo lòng mình muốn (dục) mà vẫn không xa rời khuôn phép…”.
Đó là công phu tu dưỡng và kết quả từng chặng trong cả cuộc đời, bắt đầu là học
(cũng là tu dưỡng) và kết thúc là giữa dục và lễ không còn gì vướng víu. Ba
mươi tuổi thì “lập”. Lập là gì? Là đứng thẳng. Khổng Tử nói: “Không học Lễ thì
lấy gì mà lập”. Như thế tức là nói nếu không biết cách cư xử đúng thì lúng
túng, không vững vàng. Biết lễ là giai đoạn máy móc làm theo những khuôn phép
quy định sẵn. Bốn mươi tuổi thì “bất hoặc”. Bất hoặc là không nghi ngờ, phân
vân vì biết rõ (trí giả bất hoặc). Đến đây không chỉ là làm theo máy móc mà biết
rõ vì sao phải làm như thế. Đây là đoạn học văn, thu nhận tri thức để tự giải
thích cho mình. Khổng Tử nói: “Tiên học lễ, hậu học văn” (Trước học lễ, sau mới
học văn). Nhan Hồi nói: “Thầy (Khổng Tử) làm cho ta hiểu biết rộng rãi bằng văn
và ước thúc ta bằng lễ”. Sách vở (văn) giải thích lý do, ý nghĩa của khuôn phép
(lễ). Năm mươi tuổi thì biết mệnh trời. Con người có thể biết vì sao phải làm
như thế mà vẫn ấm ức, không vui lòng. Tại sao mình lại chỉ được như vậy, không
phải sang hơn, giàu hơn? Đến năm mươi tuổi thì biết phận mình là do mệnh trời,
hiểu: “Chết sống là có mệnh, giàu sang là tại Trời”. Không còn uất ức mà “tri
túc” bằng lòng với cái mình có, không hầm hè làm việc vô ích là chống lại Trời
và mệnh. Đến sáu mươi tuổi “thì đã thuận”, tức là lòng dục hay cái “tôi” không
nổi lên gay cấn với phận mệnh, và đến bảy mươi thì hầu như không có mâu thuẫn
gì giữa dục và mệnh, giữa kỷ và cộng đồng; theo lòng mình muốn mà làm cũng
không bao giờ trái khuôn phép, tức là lễ nữa.
Cho đến
Khổng Tử vấn đề “dục” chưa được nêu ra, chưa bị lên án gay gắt. Khổng Tử nói:
“Giàu và sang là điều ai cũng muốn. Không theo nghĩa mà được nó thì không nhận.
Nghèo và hèn là điều ai cũng ghét. Không theo nghĩa mà bỏ nó thì không bỏ”. Hay
là “Thấy lợi thì nghĩ đến nghĩa”. Khổng Tử muốn đưa lễ và nghĩa ra làm chuẩn để
tiết chế dục vọng tức là ước thúc. Đến Mạnh Tử thì vấn đề này mới được bàn luận
nhiều. Con người, theo Mạnh Tử, được Trời phú cho “tâm”, “tính” mang “mầm mống
cái thiện” để phát triển thành nhân, nghĩa, lễ, trí. Còn “nhân dục” lại phá hoại
thiện tâm đó. Ông hình dung cái thiện như lộc mùa xuân, ngày ngày nở ra mầm mới,
mà dục vọng trong cái tôi như trâu, dê ngày ngày gậm hái hết mầm non ấy. Dục được
đem đối lập với tâm với tính, lợi được đem đối lập với nghĩa. Nhan Hồi được
khen là nhân, chính là ở chỗ nghèo hèn mà vẫn vui, ở tinh thần “lạc thiên yên mệnh”,
thái độ “an bần lạc đạo”. Cách quan niệm dục và lợi, nghĩa, lễ và mệnh như vậy,
cùng với việc đề cao tinh thần khắc kỷ, chịu đựng nghèo khổ, thậm chí là vui vẻ
với cảnh nghèo khổ đã làm cho nhà nho trở thành kiên cường, bất khuất, giữ được
đạo đức thanh cao. Nhưng đồng thời cũng mang sẵn một trở ngại lớn để trở thành
nhân đạo chủ nghĩa.
Con
người, trước khi là con người xã hội đã là một sinh vật, một con người tự
nhiên. Nói như Dương Chu, nhà triết học chống Nho giáo bằng thuyết “vị ngã” thì
con người có giác quan, có dục vọng và ai cũng có quyền và chỉ nên nghĩ đến quyền
thoả mãn dục vọng giác quan của mình. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, tức là con
người có đòi hỏi hưởng hạnh phúc và có quyền hưởng thụ hạnh phúc. Người minh
triết là người biết “vì mình” cũng tức là biết mưu cầu hạnh phúc. Nho giáo chỉ
chú ý con người xã hội mà không chú ý con người tự nhiên, không coi mưu cầu hạnh
phúc là mục đích của con người. Cho nên chịu ảnh hưởng của tư tưởng đó, các nhà
nho đã gắng tự kiềm chế, coi dục vọng là tội lỗi, tránh nói đến hạnh phúc, ra sức
coi khinh của cải, lợi ích vật chất để tỏ ra hơn người vì thanh cao…
Trong
lịch sử phát triển của loài người, hạnh phúc hay là sự thoả mãn các dục vọng,
nhu cầu đạt tới hạnh phúc càng ngày càng cao hơn và đấu tranh để được hưởng hạnh
phúc ở mọi thời đại đã thúc đẩy cho kỹ thuật, nghệ thuật, khoa học phát triển.
Đó chính là động lực của phát triển. Không quan tâm đến hạnh phúc con người thì
dù yêu thương, kính trọng con người vẫn không thể là con đường đi đến chủ nghĩa
nhân đạo chân chính.
c) Chuộng đức đi đến coi thường lao động và trí tuệ:
Khổng
Tử nói: “Người quân tử có ba đạo đức: trí, nhân và dũng. Người nhân không lo lắng,
ưu phiền, người trí không nghi hoặc, phân vân, người dũng không sợ”. Đã nói nhiều
về nhân, bây giờ nói về trí và dũng.
Tại
sao người trí lại không nghi hoặc, phân vân? Vì họ biết. Nho giáo kể từ Khổng Tử
là một học thuyết cực lực đề cao sự hiểu biết (tri) và cũng vì vậy hết sức coi
trọng sự học, tinh thần ham học. Khổng Tử là người nói: “Tôi không có gì hơn ai
cả. Tôi chỉ có học không biết chán và dạy người không biết mỏi thôi”. Ông cũng
khuyến khích người khác: “Buổi sáng nghe đạo (học), buổi chiều chết cũng là được
rồi”. Đề cao biết và học như vậy nhưng đối tượng của biết lại hạn chế, hạn hẹp:
+ Tri thức sản xuất không phải là cái mà người quân
tử đáng quan tâm. Tong Luận Ngữ có một đoạn: “Phàn Trì hỏi về việc cấy lúa. Khổng
Tử nói: “Ta không bằng người làm vườn già”. Phàn Trì ra về, Khổng Tử nói: “Phàn
Tu (tức Trì) mới tiểu nhân làm sao! Kẻ quân tử lo tu dưỡng đạo đức thì tiểu
nhân sẽ cõng con làm cho mà ăn, cần gì phải học cấy lúa và làm vườn”. Ở đây phải
nói đến một quan niệm phân công lao động xã hội, mà về sau Mạnh Tử gọi là
“thông công dịch sự” giữa người lao tâm và người lao lực. Người lao tâm hay đẳng
cấp quân tử lo việc trị nước và dạy người, không cần phải “cày lấy mà ăn, dệt lấy
mà mặc”. Họ phải được người dân lao động nuôi dưỡng. Người lao lực hay là đẳng
cấp tiểu nhân lo việc cày cấy và làm các sản phẩm khác. Họ được người quân tử dạy
đỗ, cai trị nên phải nuôi người quân tử. Vì lẽ đó Khổng Tử mới chê Phàn Trì là
“tiểu nhân”. Sản xuất không là đối tượng tri thức của quân tử.
+ Giới tự nhiên không bị Nho giáo coi là hư ảo không
thực. Khi nói về lợi ích học Kinh Thi, ngoài những chuyện đạo đức như thờ cha,
thờ vua còn có “biết nhiều tên cầm thú, thảo mộc”, tức là những tri thức về giới
tự nhiên. Khổng Tử cũng nổi tiếng là uyên bác, biết cả những vật không ai biết.
Nho giáo là một học thuyết thiết thực, coi trọng “sự” (việc) và “vật”. Khổng Tử
là người ham hiểu biết, không biết là hỏi, hỏi cả những người ở địa vị kém hơn
mình cũng không xấu hổ (bất sỉ hạ vấn), “biết thì nói là biết, không biết thì
nói là không biết thế là biết”. Khổng Tử ham hỏi người khác đến mức khi vào
Thái miếu nhà Chu, những người coi giữ đã nói: người ta cứ nói cái ông họ
Khổng ấy biết nhiều, thế mà vào Thái miếu gặp gì cũng hỏi!”. Tuy hết sức quý trọng
sự hiểu biết nhưng Nho giáo lại không coi trọng tri thức về giới tự nhiên, và
vì vậy ở các nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo, khoa học tự nhiên không phát triển.
Nguyên nhân một phần đáng kể là ở mục đích tìm hiểu và ở cách tìm hiểu của họ.
Khổng Tử nói học Kinh Thi thì biết nhiều tên cầm thú, thảo mộc nhưng cái đó
không quan trọng bằng học Kinh Thi để biết thờ cha và thờ vua. Biết nhiều tên
chim muông, cây cỏ chỉ là để “nói” cho văn vẻ thôi, vì “không học Kinh Thi thì
lấy gì mà nói năng” chứ không phải với sự tò mò đối với môi trường sống, không
gắn nhu cầu hiểu biết thế giới tự nhiên với hành động. Trong sách Đại Học trước
cả tu thân tề gia có hai khâu đầu tiên là cách vật trí tri- sau này được gộp lại
là cách trí để chỉ các tri thức khoa học tự nhiên theo khoa học phương Tây- đã
gây nhiều tranh cãi. Cách vật là đến tận cùng các vật, các hiện tượng. Trí tri
là đạt đến sự hiểu biết. “Đến tận cùng sự vật sự hiểu biết mới đến nơi, đến chốn”
(vật cách nhi hậu tri chí). Như thế thì sự hiểu biết phải bắt đầu từ vật, từ hiện
tượng tự nhiên và bằng cách thâm nhập tìm hiểu. Nhưng thâm nhập để tìm hiểu cái
gì trong đó? Theo cách hình dung của Khổng Mạnh, trong thế giới không những có
Trời (với mệnh trời) mà còn có Đạo. Đạo tồn tại vĩnh viễn và khắp nơi là sự hợp
lý, lẽ phải hay quy luật. Đạo không phải đối lập, ở ngoài mà như một thứ quy luật,
một ý chí của Trời. Đạo tồn tại trong tâm con người và có bàng bạc trong mọi vật,
mọi hiện tượng. Cách vật là nắm bắt được cái đó chứ không phải sự tồn tại của
chính vật hay hiện tượng. Vì vậy qua một số câu, không nhiều trong Luận Ngữ,
khi đề cập đến hiện tượng tự nhiên như nước chảy không ngừng hay sao trên trời
châu tuần xung quanh sao Bắc thần, cái mà Khổng Tử lưu ý chính là cái lẽ phải,
cái Đạo trong các hiện tượng đó. Đến Tống Nho thì mới bàn nhiều đến Lý (cũng là
Đạo) đối lập với Khí, tương đương với quan hệ giữa “vật chất” và “tinh thần”
trong triết học ngày nay. Tống Nho đặc biệt coi trọng Lý. Không có điều kiện để
nói kỹ hơn về vấn đề thế giới quan Nho giáo. Chỉ lưu ý ở đây là thế giới tự
nhiên không thành đối tượng quan trọng của tri thức.
Đời sống
xã hội được Nho giáo quan tâm hơn nhiều nhưng lại sơ lược hoá thành chỉ có năm
quan hệ cha- con, anh- em, vợ- chồng, bè bạn và vua- tôi. Tri thức về xã hội do
đó cũng là tri thức về đạo, về nghĩa, về lễ. Cần phải nói thêm cái “Đạo” ngự trị
trong trời đất, theo Nho giáo cũng chính là cái đạo tồn tại dưới dạng luân thường
đó. Không những con người được định tính bằng đạo đức mà cả thế giới, trời đất
cũng được định tính bằng đạo đức, bằng sự hoàn thiện về đạo đức.
Việc
Nho giáo không đối trí chủ thể với khách thể mà nhìn nó trong sự thống nhất ở Đạo,
hướng con người không phải tới sự hiểu biết khách thể mà tới sự đồng nhất với Đạo
(tâm của thánh nhân là toàn thiện là đồng nhất với Đạo) làm cho Nho giáo tuy đề
cao trí, tuy chú ý đến sự, đến vật, tức thực tế, mà lại không coi trọng vấn đề
nhận thức khách quan. Cũng vì coi nhẹ nhận thức nên Khổng Tử rất ghét “biện”,
ghét “nịnh” (nói khéo chứ không phải nịnh hót), tức là ghét những người giỏi
tranh luận, nói năng sắc bén. Nho giáo không coi trọng lô-gích. Mạnh Tử coi trí
là biết nhân, biết nghĩa và cũng cũng có thể nói thêm biết lễ, biết mệnh.
Ta
hãy nói tiếp đến “dũng”. Dũng là dũng cảm, dám đương đàu với khó khăn, nguy hiểm,
dám làm những việc lớn, phi thường. Theo Khổng Tử, người dùng không sợ. Nhưng
do đâu mà dũng cảm, mà không sợ? Không phải do khoẻ mạnh, cương cường. Nho giáo
không đề cao sức mạnh thể xác, không đề cao người có võ nghệ. Khổng Tử lại
không ưa những hành động táo bạo, mạo hiểm. Trong học trò của Khổng Tử có Tử Lộ
là một dũng sĩ. Ông này thường bị thầy răn đe về tính cương cường. Một hôm Tử Lộ
hỏi: “Thầy cầm quân thì sẽ lấy ai đi cùng?”, Khổng Tử nói: “Ta sẽ không lấy người
tay không mà bắt cọp, qua sông mà không dùng thuyền đâu”. Dũng cảm theo Nho gia
là tinh thần vì nghĩa, do thấy mình làm đúng không có sai sót gì. Tăng Tử nói:
“Nếu tự xét mình mà thấy có điều không phải thì dù trước thằng khố rách ta cũng
sợ. Nếu tự xét mình thấy mình không có lỗi lầm gì thì dù có ba quân trước mặt
ta cũng xông lên, không sợ gì”.
Trí,
dũng được coi là những đức mục. Con người được định tính bằng đức. Trí là biết
nhân biết nghĩa mà dũng cũng là dũng cảm làm điều nhân điều nghĩa. Trong quan
niệm đó tài bao giờ cũng kém đức. Nho giáo luôn luôn đề cao đức mà ít nói về
tài. Khổng Tử là người ham học, ham hỏi lại đi nhiều nên nổi tiếng là uyên bác
và nhiều tài năng. Có người khen ông về điều đó. Khổng Tử nói: “Ta lúc nhỏ
nghèo hèn nên giỏi nhiều việc vặt vãnh”. Tất nhiên đây là một cách nói khiêm tốn,
nhưng không phải là không có ý nói tài năng cũng không có ý nghĩa gì lớn.
Con
người tất nhiên đòi hỏi phải có phẩm chất tốt đẹp, tức là mình có đức, nhất là
lòng nhân ái. Nhưng trong lịch sử phát triển của mình, cái mà con người dựa vào
để tiến lên phía trước là lao động và trí tuệ. Không coi trọng hai năng lực đó
của con người thì chủ nghĩa nhân đạo cũng bế tắc.
Lâu
nay ta chỉ quen đề cao có lao động và là lao động chân tay. Đó là một sự thiên
lệch. Nhất là ngày nay khi chất xám có ý nghĩa rất quyết định cho sự phát triển
thì cách nhìn lệch lạc như vậy rất có hại.
Nho
giáo là một học thuyết nhân đạo chủ nghĩa, thương yêu con người, muốn cứu vớt
con người ra khỏi cảnh đói khổ, loạn ly và sống đầm ấm yên vui. Nhưng cách cứu
đời của nó, tức là chủ nghĩa nhân đạo của nó, không hướng tới con người đòi hỏi
hạnh phúc, tự do, bình đẳng, công bằng xã hội, tin ở trí tuệ và sức lao động để
giành được những cái đó. Vì vậy chỉ là đi vào ngõ cụt.
II. CƠ SỞ KINH TẾ- XÃ HỘI LÀM ĐIỀU KIỆN CHO NHO GIÁO RA ĐỜI VÀ TỒN TẠI
LÂU
1.
Nho giáo ra đời đã hai mươi lăm thế kỷ và tồn tại lâu đến chừng ấy thời gian
trên một vùng rộng bao gồm Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam.
Đó là một điều cần phải giải thích lý do. Giải thích điều này chắc chắn sẽ khó
thuyết phục nếu chỉ tìm ở chỗ học thuyết của nó phong phú và sâu sắc cao siêu.
Nó phải có những điều kiện để ra đời và tồn tại trong cơ sở kinh tế- xã hội của
vùng Đông Á, trước hết là ở Trung Quốc, nơi nó ra đời. Điều kiện để nó ra đời
thì chỉ có ở Trung Quốc, nhưng điều kiện để nó tồn tại lâu dài thì có cả ở ba
nước Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam và phải là tương đồng với ở Trung Quốc, ít
nhất là về đại thể. Nhưng nhu cầu thực tế tạo điều kiện cho Nho giáo ra đời ở
Trung Quốc không giống những nhu cầu thực tế làm điều kiện du nhập Nho giáo-
quan trọng hơn là để coi Nho giáo là chính thống- khi Nho giáo đã thành hệ thống
vào thời Hán Đường.
Khi
được du nhập vào một nước khác, có cơ sở kinh tế- xã hội khác, Nho giáo không
được tiếp thu trọn vẹn, và để thích ứng với hoàn cảnh cụ thế từng nước, nó
không khỏi biến dạng đi ít nhiều. Trong sự khác nhau như vậy có lẽ một điều hết
sức có ý nghĩa là nó nằm trong tay đẳng cấp nào? và được sử dụng nhằm mục đích
gì? Khi nó là công cụ của nhà vua chuyên chế thì nó được phát huy theo cách
khác so với khi nó là công cụ của đẳng cấp nho sĩ quan liêu hay khi nó là của đẳng
cấp võ sĩ. Cách truyền bá cũng có ý nghĩa không thể coi thường so với bản thân
học thuyết. Có thể Nho giáo ở Nhật Bản, Trung Quốc hay Việt Nam không
có ý nghĩa lớn như Nho học ở ba nước đó. Tuy vậy, Nho giáo, dù ở đâu cũng mang
sẵn những nét chung phản ánh cơ sở kinh tế- xã hội mà nó phụ thuộc, mà nó phục
vụ.
Cơ sở
chung của Nho giáo:
Nhiều
tài liệu khi nói đến Nho giáo thường nói đó là ý thức hệ phong kiến. Nói thế là
đúng nhưng không hoàn toàn chính xác. Đúng vì ở cả bốn nước vừa kể trên, Nho
giáo đã thống trị suốt trong thời kỳ trung cổ, tức là thời kỳ phong kiến. Nhưng
không hoàn toàn chính xác vì thời trung cổ hay phong kiến ở phương Đông có những
nét khác biệt rất đáng kể, đến mức có thể đặt câu hỏi là nó phản ảnh thể chế
phong kiến hay nó phản ảnh những nét đặc thù kia.
Theo
cách quan niệm lịch sử tiến hoá nhân loại qua năm phương thức sản xuất, ta hiểu
phong kiến là hình thái kinh tế- xã hội tiếp theo sau chế độ cộng sản nguyên
thuỷ và chiếm hữu nô lệ. Chế độ phong kiến có hai thời kỳ: phong kiến phân tán
và phong kiến tập trung. Phong kiến phân tán được đặc trưng bằng sự tồn tại của
những lãnh ấp, thường là kết quả của việc tan rã đế chế nô lệ, một hình thức đế
chế thường tồn tại không lâu cuối chế độ chiếm hữu nô lệ. Trong các lãnh ấp ngự
trị quan hệ lãnh chúa- nông nô; trong thể chế đó có ba nhân vật thống trị tiêu
biểu: lãnh chúa, người hiệp sĩ cầm gươm và người tu sĩ nắm tôn giáo bảo vệ cho
lãnh chúa. Lãnh ấp thuộc quyền sở hữu của lãnh chúa nên về kinh tế, chính trị,
tư pháp, đất nước chia cắt thành từng vùng, không thống nhất thành có chính quyền
chung, thị trường chung. Phong kiến tập trung thay thế và xoá bỏ tình trạng
phân tán, cát cứ như vậy. Tình trạng tập trung là kết quả của việc liên minh giữa
hoàng quyền- một lãnh chúa có thế lực nhất được công nhận là vua của các lãnh
chúa- với giai cấp tư sản, một lực lượng xã hội mới lớn dần lên ở các đô thị
(bourg) ngoài phạm vi quyền lực của lãnh chúa. Với chế độ phong kiến tập trung
lãnh thổ được thống nhất và bắt đầu địa vực hoá, tức là chia ra châu, quận, tỉnh,
huyện… quốc gia dân tộc ra đời với một nhà nước trung ương có thực quyền với
các địa phương. Với sự tập trung như vậy cũng phát triển sự giao lưu làm xuất
hiện thị trường chung, tạo ra khả năng phát triển lên chủ nghĩa tư bản. Trong
xã hội phong kiến tập trung tuy thế lực thống trị thuộc về hoàng đế và các vị
vương hầu của triều đình nhưng các nhân vật tư sản ở đô thị như các nhà buôn,
các chủ xưởng, các nhà trí thức tự do… đã có một vai trò xã hội và kinh tế rất
lớn. Ở Trung Quốc, nơi ra đời Nho giáo và các nước Đông Á nơi nó được du nhập
và tồn tại lâu, có những thực tế khác và trải qua một quá trình lịch sử khác:
a) Ở
Trung Quốc từ thế kỷ XVII trước Công nguyên tức đời Ân đã hình thành quan niệm
về một vị vua chung cai quản cả thiên hạ (dưới trời) gọi là “đế” hay “vương”. Để
nhận mệnh từ Trời có quyền chỉ định các vua nhỏ và xoá bỏ tước vị , đất nước của
họ. Đến thế kỷ XI trước Công nguyên đời nhà Chu, vị vua đó gọi là “thiên tử”,
số nước chư hầu do thiên tử phong đất cho, có đến hàng ngàn, quan hệ ngang dọc,
tức là vị thứ các vua đó đã khá rành mạch. Tiếp theo năm thế kỷ hỗn chiến thời
Xuân Thu- Chiến Quốc giữa các nước chư hầu kiêm tính đất đai và giành quyền bá
chủ. Tần Thuỷ Hoàng xưng “hoàng đế” (221 trước Công nguyên). Hoàng đế là một
thiên tử cai trị thiên hạ được chia thành quận, huyện và bằng một bộ máy
quan lại. Từ thế kỷ III trước Công nguyên cho đến thế kỷ XX, ở Trung Quốc tồn tại
hình thức đế chế như vậy. Không phải trong thực tế bao giờ cũng giữ được cục diện
tập trung không có tình hình phân tán cát cứ địa phương. Nhưng cần lưu ý là tư
tưởng “Đất đai dưới trời đâu đâu chẳng là của vua. Người trên đất ấy ai chẳng
là thần dân của vua” ra đời từ đời Ân vẫn là bất di bất dịch. Những lực lượng
phân tán cát cứ có nắm thực quyền cũng tìm nấp dưới danh nghĩa thần thuộc vào vị
vua chung và mục tiêu của các cuộc chiến tranh vô số trong lịch sử không nhằm
quyền sở hữu lãnh địa mà nhằm ngôi vua, quyền làm hoàng đế chủ thiên hạ.
b) Với
thể chế vương quyền thống nhất như vậy, co cấu kinh tế- xã hội khác với chế độ
phong kiến mà ta nói ở trên. ở đây không phải là quyền chiếm hữu tư nhân của chủ
nô hay lãnh chúa mà là sở hữu nhà nước thuộc ngôi vua, từ đó mà có chế độ cống
nạp, tô thu dưới hình thức thuế của nhà nước. Kết cấu xã hội cũng không gồm
lãnh chúa, hiệp sĩ, tu sĩ với nông nô hay hoàng đế, công, hầu, chủ xưởng,
thương nhân và trí thức tự do… với dân lao động. Từ trước cả nhà Tần người ta
đã hình dung xã hội theo mô hình via, quan lại và tứ dân (sĩ, nông, công,
thương). Kết cấu xã hội hình dung theo cách đó còn giữ nguyên cho đến thế kỷ
XX.
c) Một
việc rất có ý nghĩa là ý kiến các nhà sử học về thời điểm khởi đầu chế độ phong
kiến ở Trung Quốc. Phạm Văn Lan, Viện trưởng Viện Sử học Trung Quốc thì cho là
từ đời Tây Chu (thế kỷ XI trước Công nguyên). Petrov, Viện trưởng Viện Sử học
Liên Xô thì cho là từ thời Tam Quốc (thế kỷ II sau Công nguyên). Còn Quách Mạt
Nhược, nhà bác học đáng coi là có thẩm quyền nhất trong vấn đề này thì cho là
vào thế kỷ IV trước Công nguyên. Chắc chắn sự khác nhau kỳ lạ đánh giá thời điểm
ra đời cách nhau đến mười ba thế kỷ không phải do thiếu hiểu biết, thiếu phương
pháp hay do khác lập trường. Cái quan trọng là các nhà khoa học đáng kính đó đứng
trước một thực tế không bình thường, không hợp với các tiêu chí để phân loại,
đoán định, tức là ở đây có những hiện tượng không giống với chế độ phong kiến
nói chung. Trong các cuộc tranh luận về chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc và
ViệtNam cũng xẩy ra tình trạng ý kiến ngược nhau như vậy. Hình như chúng
ta đứng trước một con đường phát triểnkhông giống với
con đường của năm phương thức đã nói ở trên. Không phải là không có chiếm hữu
nô lệ, phong kiến, năm phương thức… nhưng hình thức cụ thể, quá trình cụ thể xảy
ra cách khác.
d) Gần
đây nhiều người đã chú ý đến ý kiến của Mác về phương thức sản xuất châu Á, về
chế độ chuyên chế phương Đông. Những ý kiến đó Mác chỉ mới nói qua, chưa có thì
giờ đi sâu, nhưng là những chỉ dẫn cho phép chúng ta nhìn ra nhiều vấn đề của
thực tế vùng Đông Á, trong đó có vấn đề cơ sở kinh tế- xã hội của Nho giáo.
Trước
hết ta hãy nói đến cơ chế của chế độ “chuyên chế chồng lên trên các
làng xã tự trị”[2] tức là
cách tổ chức đất nước của ông “hoàng đế Trung Hoa”,
trong đó đáng chú ý là chính quyền của một ông vua chuyên chế bên trên và cách
tổ chức cơ sở là làng xã tự trị ở bên dưới. Để làm rõ hơn về cơ chế đó, chúng
ta sẽ trình bày cụ thể dưới đây:
- Ông
vua chuyên chế.
- Làng-
họ và tính tự trị.
- Bộ
máy quan lại và đẳng cấp sĩ phu.
- Đô
thị khó phát triển. Các cuộc khởi nghĩa nông dân.
-
Ông vua chuyên chế:
Từ đời
Ân, qua đời Chu cho đến Tần, tức là từ thế kỷ XVII đến thế kỷ III trước Công
nguyên đã hình thành dần quan niệm về một ông hoàng đế chuyên chế, thể hiện đầy
đủ ở Tần Thủy Hoàng và bổ sung đầy đủ dưới đời Hán, làm thành mẫu mực cho các
triều đại từ Tần- Hán cho đến Minh- Thanh. Ông vua chuyên chế coi mình là người
có mệnh Trời, làm chủ cả thiên hạ, có quyền sở hữu về mọi nguồn lợi, coi tất cả là thần dân, có quyền và có trách nhiệm sắp xếp
mọi việc. Ông vua chuyên chế tập trung mọi quyền hành vào chỉ một mình.
+ Về kinh tế với quyền vương hữu*, sở hữu thuộc về vua, có
tính nhà nước về mọi nguồn lợi ruộng đất, núi rừng, sông biển và với quyền thần dân hoá* toàn thể, quyền sử dụng
sức lao động của mọi người và làm chủ thân phận mọi người, hoàng đế ban phát ruộng
đất (như chia công điền), thu thuế (thay cho địa tô), cấp bổng lộc cho quan lại,
tạo ra cái ơn “ăn cơm, mặc áo nhà vua” đối với quan lại và “tấc đất, ngọn rau
ơn chúa” đối với nhân dân. Đó là một nhà nước bao cấp, phân phối. Cũng có những
quý tộc được ban cấp cho hưởng vĩnh viễn, và nhân dân cũng có tư điền nhưng về
lý thuyết đó chỉ là quyền lĩnh hữu chứ không phải sở hữu. Hoàng đế không chia
quyền sở hữu cho quý tộc như đối với lãnh chúa ở phương Tây. Có quyền ban cấp
thì cũng có quyền thu hồi. Vì vậy ngoài hoàng đế không ai có quyền sở hữu
thiêng liêng. “Ở đời muôn sự của chung”.
+ Về chính trị, với mệnh Trời nhà
vua cầm quyền cai trị, lập ra và xoá bỏ các nước chư hầu, bổ nhiệm và cất chức
các quan cai trị ở trung ương và địa phương (dừng lại ở huyện). Hoàng đế quyết
định mọi chủ trương chính trị, tổ chức và điều khiển bộ máy quan lại thực hiện.
Vua còn làm chủ cả việc “chinh phạt, lễ nhạc” tức là hoạt động quân sự và hoạt
động văn hoá, học thuật, nghệ thuật. Chỉ có hoàng đế mới có quyền “chế lễ, tác
nhạc” tức là đặt ra các lễ nghi phong tục, các điệu múa, bài nhạc (chủ yếu là
nói vũ nhạc ở triều đường và để tế lễ).
+ Về tư pháp, hoàng đế là người đặt ra mọi luật
lệ và là người quyết định các bản án lớn. Ý của vua là luật.
+ Về quân sự, hoàng đế là người duy nhất cầm quyền
chinh phạt, điều động quân đội. Các tướng lĩnh tuy được giao cho cầm quân nhưng
phải có lệnh của hoàng đế cũng với cờ lệnh, kiếm, ấn, phù tiết vua ban mới chỉ
huy được. Hoàng đế không chia quyền quân sự cho các lãnh chúa và đẳng cấp hiệp
sĩ. Ở Trung Quốc từ thế kỷ IV trước Công nguyên đã thành lập đội quân thường trực
của hoàng đế.
+ Về tôn giáo, hoàng đế là người duy nhất được tế Trời, Đất,
và các thần sông, thần núi, nói cách khác hoàng đế là giáo chủ. Hơn thế, hoàng
đế cũng coi các thần linh là bề tôi của mình nên coi mình có quyền ban thưởng
và trách phạt đối với cả thần linh. Trong bộ máy nhà nước có bộ Lễ quản lý cả
thần linh, coi việc sắp xếp tước vị cho các thần giống như bộ Lại sắp xếp tướng
vị cho quan lại.
Ở đây
không có sự phân chia quyền tôn giáo cho giáo hoàng, giáo hội, không phải vua
chỉ coi phần đời, phần xác còn phần đạo, phần hồn thuộc giáo hoàng như ở phương
Tây.
Thế
là ông vua chuyên chế phương Đông nắm trọn trong tay mọi quyền hành, không phân
chia nó cho bất kỳ ai. Ngay cả cha mẹ, vợ con cũng không được chia quyền hành.
Hoàng hậu và thái tử đều ở cung riêng, có “chỉ” vua vời mới được vào yết kiến
và yết kiến theo nghi thức thần hạ. Vua cha khi đã nhường ngôi vua cũng phải
nghe theo vua con cầm quyền. Hoàng đế là ngôi thiêng liêng và chỉ thuộc về một
người. Đó là sự tập trung tuyệt đối.
Quyền
hành tuyệt đối của hoàng đế tất nhiên giành được bằng bạo lực, bằng lực lượng
quân sự nhưng lại giải thích bằng mệnh Trời, núp dưới lá cờ tôn giáo đó để duy trì. Cơ sở của sức mạnh của nó
là quyền Vương hữu vàthần dân hoá toàn thể,
núp dưới danh nghĩa nhà nước để thực hiện sự thống trị.
Ngôi hoàng đế là cha truyền con nối nên cũng thuộc về một giòng họ nhưng hoàng
đế chỉ trị nước một mình chứ không chia quyền cho bà con họ hàng. Đối với hoàng
đế, bà con họ hàng, tức quý tộc cũng là thần hạ, được ban thưởng tước lộc hậu
hĩnh, nhưng bị ngăn cách với quyền lực của hoàng đế để đề phòng cướp ngôi.
- Làng- họ và tính tự trị:
Sự tập
trung chuyên chế thành thể chế chính trị- xã hội đã hình thành sớm lúc xã hội
chưa trải qua chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến phân tán trọn vẹn để có những
đổi thay lớn trong kinh tế và đấu tranh xã hội. Chưa có ý thức phát triển về
quyền tư hữu mà cũng chưa có cách mạng xã hội sâu sắc. Nhưng sức sản xuất vẫn
phát triển nên trong lịch sử vẫn diễn ra một quá trình phát triển tư hữu, đấu
tranh giai cấp, một cách chiếm hữu, một cách cát cứ riêng thích hợp với điều kiện
của thể chế chuyên chế nói trên. Không có tư hữu lớn nhưng vẫn có ruộng tư.
Không có nô lệ thật điển hình nhưng vẫn có nhiều hình thức làm con ở, đầy tớ,
mua bán người. Không có lãnh ấp trọn vẹn nhưng vẫn có “giang sơn” của các lãnh
chúa có thế lực… Và những cái lưng chừng như vậy
không những tồn tại mà có khi còn được thừa nhận hẳn hoi.
Từ đời
Ân đã có hình thức nô dịch chủng tộc. Đế hay vương đem quân đánh mộ vùng nào đó
rồi cử người của bộ tộc mình đến xây thành, lập nước để thống trị. Vua chư hầu
mới lập nước đó vừa phụ thuộc vào trung ương về mặt chính quyền (quan hệ thiên
tử và chư hầu cũng gọi là quan hệ phân phong), vừa phụ thuộc về mặt họ hàng
tông tộc (đại tông và tiểu tông). Đế hay thiên tử vừa là vua chung vừa là trưởng
tông tộc. Để bảo đảm quan hệ chặt chẽ, ngoài đòi hỏi trung với vua còn đòi hỏi
hiếu với tổ tiên nữa. Chính vì nguyên nhân này mà ở Trung Quốc tổ chức tông tộc
rất rành mạch, thậm chí cách nhau hàng năm sáu thế kỷ vẫn xác định được quan hệ
anh em trên dưới theo phả hệ. Tông tộc hay họ có vai trò xã hội rất quan trọng.
Khi bị
nô dịch theo cách đó, các công xã bị nhập vào vùng đất của vua chư hầu và đồng
thời là thuộc sở hữu của thiên tử, mọi thành viên công xã nhất loạt thành thần
dân, có khác với hình thức bắt làm nô lệ, khác về hình thức nô dịch và
khác về thân phận. Công xã trở thành một đơn vị phụ thuộc vào
chủ, tức là chính quyền của vua chư hầu và thuộc thiên tử. Công xã trở thành
làng. Thành viên trong làng kết hợp với nhau vừa theo quan hệ công xã, vừa theo
quan hệ trong phiên chế của chính quyền. Trải qua nhiều thế kỷ chiến tranh,
nhân dân phiêu bạt cũng thường theo làng, theo họ tạo ra một thực tế được ghi
nhận đời Hán là “hương đảng tộc cư” tức là làng ở theo họ. Đặc biệt ở những
vùng trồng lúa nước thì sự định cư quanh đồng ruộng càng củng cố hình thức
làng- họ như vậy. Làng- họ là hình thức tổ chức vương hữu hoá và thần dân hoá
toàn thể của nhà nước chuyên chế. Trong cách chiếm hữu như vậy, người chủ sở hữu
như chủ nô hay lãnh chúa mà phải thu lợi qua tổ chức sẵn có là làng. Chính quyền
trung ương chỉ với tay đến huyện chứ không đến làng được. Nhà nước trung ương
chỉ thu thuế, bắt phu, bắt lính và giao cho làng phải nạp đủ số. Còn cách tổ chức
trong nội bộ làng thì ít xem xét tới. Đó là cách để cho làng tự trị. Chính quyền
do nhà vua bổ nhiệm chỉ dừng ở huyện nên nói như Mác là chính quyền chuyên chế chồng lên trên làng xã tự trị. Thực tế đó tạo ra tình hình “phép vua thua lệ
làng” khá lâu dài.
Làng
vì cách quần tụ theo họ, vì tính tự trị nên tổ chức chặt chẽ và rất bền vững
+ Về kinh tế, làng có công điền và công quỹ. Công
điền là dấu vết của công xã nhưng lại mang thêm ý nghĩa vua ban cho. Công điền
được quần cấp cho dân làng và vì ơn được cấp ruộng đó mà người dân phải làm
nghĩa vụ nộp thuế, đi phu và đi lính. Công điền là của chung của làng, nên chỉ
cấp cho dân làng. Người ở nơi khác đến “ở nhờ” (ngụ cư) không được cấp. Dân
làng cũng phải được ghi tên vào sổ làng rồi mới được cấp, cấp theo hạng. Dân ngụ
cư không phải là dân làng, không được cấp ruộng công nhưng là thần dân nên vẫn
phải đi phu, đi lính, nộp thuế. Công quỹ trích từ thuế và quyên góp của người
làng. Làng phải có những chức dịch quản lý sổ sách, công điền, công quỹ và
chính họ xà xẻo của cải chung, mượn tiếng quyên góp cho công việc chung mà “phù
thu lạm bổ” vơ vét của dân và làm tiền đám dân ngụ cư.
+ Về chính quyền, để trông coi việc làng và việc vua
quan, làng có thể coi là có hai thứ chính quyền. Một
loại mang dấu vết công xã gồm những bô lão, thân sĩ và những người đàn anh có
thế lực, những đại biểu cho các họ lớn. Đó là các thân hào đứng đầu họ là Tiên chỉ, Thứ chỉ. Những người này quyết định mọi
việc làng. Một loại khác là Lý trưởng và
các người chức dịch (như hương bộ, hương kiểm) tức bộ máy chính quyền thực thụ,
được cấp trên công nhận để thừa hành các công việc nhà nước, trước hết là bắt
phu, bắt lính, đôn đốc thuế khoá và giữ an ninh. Người ta gọi chung họ là lý hương. Theo quan niệm trật tự trong làng thì Lý
hương phải nghe theo Tiên, Thứ chỉ, tức là thân hào quyết định việc thi hành
các công việc trong làng chứ không hoàn toàn theo luật pháp và thị của cấp
trên. Ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, thời Pháp thuộc mới cải lương hương
chính, biến bộ máy thân hào thành hương hội, có Chánh hương hội đứng đầu. Hương
hội là một thứ hội đồng cố vấn cho Lý trưởng. Nhà nước qua bộ máy hương lý trực
tiếp chỉ đạo việc làng.
+ Việc làng là một chuyện hết sức phức tạp. Làng là
một đơn vị gắn bó chặt chẽ, một tổ chức ổn định và lâu đời. Trong làng có họ. Họ
cũng thành một tổ chức bền vững và lâu đời. Con cháu cùng giòng máu sống gần
nhau, dựa vào nhau, có nhà thờ, ruộng hương hoả, tự điền, có mộ địa cha ông
chung, có trách nhiệm với nhau và có tộc trưởng cùng những bậc cha chú đôn đốc
theo dõi. Tình cảm máu mủ, họ hàng khá gắn bó. Làng thực tế là nơi cộng cư của
một số giòng họ. Quan hệ giữa các giòng họ rất phức tạp. Có sự liên minh lâu
dài mà cũng có những thù hằn đời kiếp với nhau. Việc làng thực chất là điều chỉnh
quan hệ giữa các họ. Không chỉ có quyền lợi kinh tế mà còn cả thái độ cư xử, cả
tình nghĩa. Một việc nhiều khi rất nhỏ mà cũng thành chuyện ân oán lâu dài. Dân
làng bị ràng buộc với nhau vì tình nghĩa và vì cả quyền lợi, nghĩa vụ, Không ai
muốn bỏ làng đi tha hương làm dân ngụ cư mà vua quan, hương lý cũng không muốn
cho dân làng bỏ đi để bảo đảm đủ số dân đinh làm nghĩa vụ nộp thuế, đi phu, đi
lính. Trước đây, sau chiến tranh loạn ly bao giờ triều đình cũng có lệnh cho
các làng xã chiêu tập những người lưu tán và vua ra chiếu khuyến nông nhằm khôi
phục lại các làng. Các làng đã từ những công xã rất lâu đời mà thành nên thường
có thờ thần Thành hoàng, có đền miếu, có lễ hội của làng. Từ sự thờ cúng đó mà
cũng thường có những tục lệ, kiêng kỵ riêng. Hai làng ở cạnh nhau có khi cũng kỳ
thị nhau. Cuộc sống chung lâu dài đòi hỏi có những nền nếp chung, có khi viết
thành hương ước, có khi chỉ là truyền miệng, nhưng ai cũng phải biết, phải giữ.
Đó không phải là luật pháp mà là lệ làng. Lệ làng có khi còn nghiêm hơn phép nước.
“Phép vua thua lệ làng”. Vì vậy ai vi phạm thì bị trách mắng, xử phạt. Hình thức
xử phạt do các thân hào bô lão quyết định, thường là bắt làm lễ tạ lỗi, mời
làng ăn uống. Trong khi chờ đợi được làng tha thứ có khi cả làng cách ly, cắt đứt
quan hệ. Những hình phạt như chửa hoang bị gọt tóc bôi vôi, thả trôi sông hay đốt
nhà rồi đuổi đi là theo lệ làng, chứ không phải theo pháp luật.
Việc
làng theo truyền thống công xã thường được đem bàn bạc trong các cuộc họp làng.
Tất cả dân làng đều được họp, tất nhiên là không có phụ nữ. Việc làng việc nước
là của đàn ông. Chắc trước đây cũng đã có ngôi nhà chung cho làng họp. Ở Việt Nam từ
khi có đình thì họp làng ở đình. Trật tự trên dưới ở đây là rõ ràng. Không chỉ
trong họ mới có quan hệ cha chú và con em, ở ngoài làng cũng theo trật tự như vậy.
Quyền ăn nói, chỗ ngồi trên thuộc về bậc cha chú. Con em chỉ ngồi nghe và đồng
ý chứ không được vô phép “nói leo”. Họ phải tìm cách giành ngôi thứ, chờ đợi “sống
lâu lên lão làng” để đến lượt mình ngồi trên và ăn nói.
Trong
cuộc sống của cộng đồng làng cần được bảo vệ chống cướp, chống giặc, chống
thiên tai, hoả hoạn nên khi có lệnh của bô lão, trai tráng cần phải tề tựu với
cả gậy gộc hay giáo mác. Làng thành ra có thể có lực lượng võ trang. Những lúc
chống giặc thì làng có thể thành “pháo đài” mà trong việc tranh chấp ruộng đất
giữa các làng thì đám trai tráng võ trang huy động như thế cũng gây ra những vụ
đổ máu, những mối thù lâu dài giữa làng này và làng khác.
Không
phải chỉ bộ máy chuyên chế ở trên mà cả cơ sở làng- họ ở dưới, đúng hơn là cách
chồng bộ máy chuyên chế lên trên các làng- họ, không để nó phát triển tự nhiên
đã quy định sự phát triển về sau. Không phải chế độ chuyên chế và tổ chức làng-
họ như trên trình bày đã hình thành trọn vẹn một lúc mà nó được hình thành dần
dà và lâu dài trong lịch sử. Có điều nó hình thành một cách tất yếu, những vấn
đề nảy ra tất yếu và cách giải quyết nó cũng là như vậy. Tất cả vạch ra một con
đường phát triển có ý nghĩa đặc thù so với con đường phá triển điển hình là con
đường năm phương thức rõ rệt. Cũng nên nói ngay đây không phải là cả bốn nước
Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam đều có thực tế hoàn toàn là như vậy.
Nhưng những cơ sở gắn bó với Nho giáo cũng là cái hấp dẫn đối với các nước du
nhập Nho giáo, và thực tế từng nước khác với những điều đã nói cũng làm cho các
nước đó hiểu một số nội dung Nho giáo có khác nhau và quy định vận mệnh về sau
của các nước và của cả Nho giáo cũng ít nhiều khác nhau.
- Bộ
máy quan lại và đẳng cấp sĩ phu:
Với
chế độ chuyên chế, nhà nước tập quyền ra đời rất sớm, làm chủ một lãnh thổ cực
rộng lớn. Vấn đề tổ chức việc cai trị nó thành vấn đề lớn ngay từ đời xa xưa.
Trong lịch sử tư tưởng, Trung Quốc là một nước quan tâm đến chính trị sớm, sớm
hơn rất nhiều so với châu Âu.
Từ thời
Ân, Chu chỗ dựa của thiên tử là các chư hầu, họ hàng nhà vua. Con cháu
được phân phong làm chư hầu được coi là “phên dậu” che chắn cho trung ương. Các
đại thần gần vua cũng chọn trong hàng ngũ bà con thân thích. Chọn chỗ dựa như vậy
có thể đúng là vì ơn vua, vì lòng hiếu với tổ tiên mà họ sẽ rất trung thành.
Nhưng các vị quý tộc ấy phần lớn lại bất tài và hư hỏng, không cai trị nổi. Tiếp
đó vào thời Xuân Thu các học phái đều bàn vấn đề “hiền tài”, đều thảo luận cách
chọn người hiền tài. Một chính sách được chú ý là “tiến hiền”, đề cử người tài
giỏi cho vua, ai đề cử đúng thì được thưởng, ai đề cử sai bị trách phạt. Nhưng
cung cách đó cũng không tránh được những thực tế là quý tộc đề cử lẫn nhau, người
tài giỏi vẫn cứ bị lọt ra ngoài. Nhà Tần thi hành nguyên tắc chọn quan từ người
giúp việc, chọn tướng từ binh sĩ, tức là từ người đã được thử thách. Hiệu quả
rõ ràng tốt hơn. Cũng vào thời đó, các nhà tư tưởng Pháp gia như Thương Ưởng,
Hàn Phi vạch ra một sự thật cho vua chúa: người mong vua chóng chết nhất là
hoàng hậu và thái tử, người nuôi âm mưu và có khả năng thực hiện việc cướp ngôi
nhất là các đại thần quý tộc. Nhà Tần đã bỏ việc phân phong con cháu và chọn
người trong họ làm tướng quốc. Đến Hán Võ Đế mới quyết định dùng khoa cử thi chọn
người làm quan. Đến đời Đường thì chế độ khoa cử được hoàn thiện và tiếp tục thực
hiện cho đến đầu thế kỷ XX. Với chế độ đó giúp vua cai trị là quan lại được lựa
chọn qua các kỳ thi. Quý tộc được hưởng tước lộc nhưng không nhất thiết giữ việc
cầm quân và cai trị. Quan lại qua các kỷ thi được bổ nhiệm cầm quyền từ trung
ương cho đến huyện. Dưới huyện là làng xã tự trị. Nhà nước coi việc “bồi dưỡng
nhân tài” và “lựa chọn được nhân tài” là việc lớn của quốc gia. Vì vậy, việc học
hành và thi cử trở thành hết sức trọng thể: vua đích thân đến nghe giảng ở trường
Quốc học và chủ trì việc thi Đình chọn các tiến sĩ.
Đất
nước dưới chế độ chuyên chế phương Đông gồm vua quan sống trong cung đình và
các lỵ, trấn. Xung quanh cung đình, lỵ, trấn là vô vàn làng xã, trong đó dân
lao động- chủ yếu là nông dân- sản xuất để tự túc làm nghĩa vụ cống nạp. Nếu mùa
màng tốt, nhân dân yên ổn, làm đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế, đi phu và đi lính thì
nước nhà thịnh vượng thái bình. Bộ máy nhà nước như vậy mong ước không phải là
sự phát triển tiến bộ mà cảnh thái bình “bốn phương phẳng lặng hai kinh vững
vàng”. Trị nước là nhằm lấy được của dân, sức dân và lòng dân nữa. Cho nên chọn
quan là chọn người làm cha mẹ dân, công việc của quan trước hết là yên dân.
Tuyên truyền và giáo hoá được coi là quan trọng nhất. Nội dung yêu cầu đó được
quán triệt trong việc học và thi. Người đi học phải nắm vững kinh sử tức là nội
dung đường lối cai trị theo Nho giáo và kinh nghiệm chính trị các triều đại.
Ngoài ra phải có tài làm văn chương tức là khả năng tuyên truyền động viên, làm
xúc động người nghe, làm họ theo đạo nghĩa. Đó là nội dung minh kinh và năng văn của học
hành và thi cử.
Theo
thế chế kinh tế- xã hội vừa trình bày, làm quan sống bằng bổng lộc vừa sung sướng
vừa có danh vọng, hơn hẳn làm dân lao động sản xuất. mà mọi người cũng chỉ có
hai con đường để lựa chọn đi học, thi đỗ để làm quan hay ở nhà đi cày. Cũng chỉ
là bất đắc dĩ người ta mới chọn con đường làm nông dân: “Văn thơ phú lục chẳng
hay; trở về làng cũ học cày cho xong”. Trng xã hội vì vậy xuất hiện một lớp người
đông đảo lựa chọn con đường thứ nhất, tạo ra một từng lớp: từng lớp sĩ. Sĩ
không những có cơ may làm quan mà còn là một từng lớp được nhà nước ưu đãi, xã
hội trọng vọng nên ai cũng cố gắng đi học, cha mẹ nào cũng lo cho con đi học tạo
ra truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo ở các nước Đông Á.
Trong
kết cấu xã hội đó, sĩ cũng là dân, nhưng là một từng lớp dân đặc biệt. Họ giao
du rộng hơn, có tổ chức văn hội, sĩ hội, được mọi người kính nể. Vận mệnh của họ
cũng khác. Nếu thi đỗ, số này chỉ là rất ít, nên họ csó thể làm quan; hay nếu không làm quan thì họ thành thân sĩ, được hưởng ruộng biếu, được trọng vọng và tham
gia quyết định việc làng. Nếu thi không đỗ thì cũng làm thầy trong làng xã: thầy đồ dạy học, thầy thuốc,
thầy địa lý, thầy số. Những thầy này người dân cần đến họ giống như dân phương
Tây cần người giáo sĩ. Họ là người làm trung gian giữa dân và triều đình. Họ tự
coi là tiên tri, tiên giác, có trách nhiệm giáo hoá dân, đại diện cho dân tâm
sĩ khí. Mà vua quan cũng coi họ là người tuyên dương đạo thánh và ân đức của
triều đình xuống dân. Nhưng cũng nên chú ý là từng lớp trí thức đó không giống
trí thức ở phương Tây. Ở phương Tây, trí thức gắn với nhà thờ trong thời trung
cổ và về sau gắn với đô thị. Việc học của họ gắn chặt với nghề nghiệp, với kỹ
thuật, khoa học. Từng lớp sĩ đông đảo hơn không gắn với tôn giáo mà cũng không
gắn với đô thị. Họ là trí thức nông thôn, đi từ nông thôn vào cung đình và ngược
lại. Việc học của họ cũng khác. Họ học để làm quan, học kinh sử và văn chương
ít gắn với nghề nghiệp, kỹ thuật và khoa học. Đó là từng lớp trí thức gắn với chế
độ quan liêu mang nặng tính kinh viện và tính từ chương. Cho nên xã hội có nhiều
người đi học, nhiều người đậu đạt mà học thuật, khoa học vẫn kém phát triển.
Nhà
nước có tính quan liêu, sĩ phu đi học để làm quan, nặng tính nông thôn, kinh viện
và từ chương cũng là những nhân tố ảnh hưởng lớn đến tiến trình lịch sử.
- Đô thị khó phát triển. Khởi nghĩa nông dân:
Cái
phi lý nổi bật là sự tập trung mọi quyền lực vào chỉ một người, tạo ra mâu thuẫn
giữa tập trung và phân tán, đại diện cho đòi hỏi tập trung là bản thân hoàng đế.
Cùng với hoàng đế cũng có thể kể cả từng lớp quan liêu và sĩ phu, muốn làm quan
lại cho một triều đình chính thống hơn là làm tôi của các chúa địa phương. Lực
lượng phân tán thì đa dạng hơn: trước hết là các quý tộc công thần muốn có nước
riêng, các hào trưởng ở các địa phương muốn cát cứ xưng hùng ở địa phương mình.
Ngoài ra, làng xã cũng là một lực lượng phân tán, yếu hơn nhưng lại cực to, rộng.
Chế độ chuyên chế muốn tồn tại phải khắc phục sự phân tán, nhưng lại không thể
thanh toán cái đối lập. Cho nên đường lối của mọi triều đại chuyên chế là hạn
chế và lợi dụng. Dựa vào bộ máy quan lại và bộ quân thường trực, hoàng đế đàn
áp đẫm máu các âm mưu phản loạn, nhưng đồng thời cũng dùng chính sách tước cao
bổng hậu để ràng buộc quý tộc và hào trưởng. Dân ở làng xã, nguồn tô thuế và sức
lao động của hoàng đế được giành cho mọi điều tốt đẹp, được động viên khuyến
khích chăm việc nông trang và quan tâm việc giảm thuế, giảm sưu khi mùa màng thất
bát. Thân hào ở làng xã được rộng rãi trong sự tự trị của làng xã và vui
lòng với vai trò “đàn anh” ở chốn đình trung. Xu thế phân tán cát cứ vốn là tự
nhiên trong nền sản xuất nông nghịêp. Hoàng đế chỉ thành công khi chặn được
nó và chỗ phải để mắt tới là sự phản loạn của quý tộc và hào trưởng. Giành được
lòng dân có thể coi là một thứ “pháp bảo” của chế độ chuyên chế. Coi dân là “thần
dân” – phụ thuộc vào mặt nhà nước chư không phải là nô lệ, nông nô, phụ thuộc về
mặt cá nhân – thi ơn, tức là ruộng đất, tước lộc đều do vua cho và sự quan tâm
như giảm thuế, mở trường cho con em học hành… làm cho hàng đế thành xa vời và tốt,
còn mọi uất ức chỉ trút vào quan lại và cường hào mà không động đến vua. Thực tế
mọi cuộc chiến tranh nông dân ở Trung Quốc và ở Việt Nam đã chỉ rõ điều
đó.
Đó là
một mặt; mặt khác lựa chọn đường lối chính trị và lập pháp để bảo vệ chế độ
chuyên chế, bảo vệ hoàng đế chính thống: dựa vào tư tưởng thiên mệnh, quyền
vương hữu, thần dân hoá toàn thể đưa vào bộ máy quan lại, đội quân thường trực
để áp đặt sự thống trị.
Ở các
nước phương Tây, ngay trong thời kỳ phong kiến phân quyền đã có hiện tượng ra đời
các đô thị tự trị, ngoài sự khống chế của các lãnh chúa, về sau thành lực lượng
liên minh với hoàng quyền, xoá bỏ các lãnh ấp và phát triển dần thành lực lượng
tiêu diệt chế độ phong kiến. Khởi đầu là ở những vùng ven biển, xuất hiện “những
tên cướp biển phiêu lưu”, tức là những con buôn dùng tàu bè đi biển vừa bán
hàng vừa ăn cướp trở thành giàu có. Họ cần có hàng hoá để bán nên tập hợp quanh
mình những thợ thủ công, lập thủ công xưởng, với những ông chủ xưởng. Những
nông nô trốn lãnh chúa và nhà thờ tập trung về đây làm thuê cho họ, trở thành
thị dân. Khi đô thị đã đông đúc thì các người hát rong, những người chơi tạp kỹ
khác cũng bỏ kiếp làm hề cho lãnh chúa ra kiếm ăn trong đám thị dân. Đó là những
nghệ sĩ tự do. Những người làm kỹ thuật, khoa học lâu nay phụ thuộc vào nhà thờ
hay lãnh chúa cũng bỏ ra đây làm những người trí thức tự do. Với sự phát triển
của nghệ thuật, kỹ thuật, khoa học, triết học và tiếp đó là tư tưởng chính trị
dân chủ cũng được môi trường tự do của đô thị làm nảy nở. Đó là quá trình ra đời
các bourg và từ đó mà có bourgeoisie – giai cấp tư sản. Trong thể chế chuyên chế
không có những điều kiện thuận lợi như vậy cho giai cấp tư sản ra đời. Thứ nhất
là sự tồn tại các lãng xã tự trị sống bằng nền sản xuất nông nghiệp, tự túc và
cống nạp, trao đổi sản vật ở chợ quê và triều đình độc quyền ngoại thương, sử dụng
số tô thuế tích luỹ vào việc mua các hàng hoá xa xỉ, do đó, công thương nghiệp
khó phát triển. Hai là, không có đất trống ngoài lãnh thổ của thiên tử cho các
đô thị tự trị. Bộ máy quan liêu và đội quân thường trực quản chế khá chặt, cho
nên không phải không xuất hiện tình hình tương tự như phương Tây, nhưng thường
là sau một thời loạn ly, trung ương phải làm ngơ, cuối cùng những điểm phản loạn
như vậy cũng bị xoá bỏ. Hơn thế, tình trạng lưu dân ở đây thường chạy vào nhà
chùa hay vào lực lượng võ trang nhiều hơn là ra sống ở đô thị. Đô thị do đó khó
phát triển và không thành tự trị được.
Nông
dân là từng lớp đông đảo, nhưng thiếu ruộng đất bị sống bưng bít, cột chặt với
làng xã, sống khổ cực trong nền sản xuất tự túc và cống nạp. Trong làng xã, họ
là nạn nhân của cường hào và quan lại, nên lại càng hứng chịu nhiều bất công
oan trái hơn. Trên danh nghĩa nói “dân được cấp ruộng” nhưng thực tế là điều kiện
để cột chặt họ lại ở làng xã để làm nghĩa vụ chứ không cho họ đủ sống. Thường
thì nông dân phải làm thêm nghề phụ, dựa vào kinh tế tự nhiên như hái lượm và
đánh bắt hoặc lang thang kiếm việc làm thuê mới đủ sống. Những năm gặp thiên
tai, động rừng, động biển, gặp giặc giã, đi lại khó khăn thì hàng loạt người bị
rơi vào tình trạng nguy khốn không có lối thoát. Đây là những thời điểm dễ nổ
ra nông dân khởi nghĩa. Nông dân khởi nghĩa thường bắt đầu bằng một hành động
phạm pháp vì uất ức chống bất công mà đối kháng với cường hào, quan lại. Kẻ phạm
pháp, nhiều khi là không cố ý, và họ thường trốn tránh ở nhà người bạn kết
nghĩa. Nhưng cuối cùng thì bạn cũng không thể cưu mang nổi, hoặc sợ bị bắt nên
cùng nhau trốn lên núi làm cướp đón đường mại lộ. Cứ thế mà kết nạp thêm thành
toán cướp lớn. Những năm gặp thiên tai, địch hoạ số người đi theo toán cướp có
hàng ngàn, hàng vạn. Toán cướp phải tổ chức sơn trại, thuỷ trại làm căn cứ và
phải tổ chức trật tự sơn trại, thường gọi “tụ nghĩa đường” cử người lãnh đạo –
gọi là “đại ca”, anh cả – và sắp xếp ngôi thứ, chia hai bên văn võ giống như một
triều đình. Từ đó mới thành lực lượng chống triều đình chính thống, đánh phá
châu, quận, giao chiến với quân triều đình. Đáng lưu ý là lúc đầu khởi nghĩa
nông dân thường chỉ chống hào cường và quan lại, chỉ nêu khẩu hiệu lấy của nhà
giàu chia cho dân nghèo, thực hiện sự công bằng chứ không chống hoàng đế và tôn
giáo như ở phương Tây. Thường thường những cuộc khởi nghĩa như vậy đều thất bại.
Cách đánh dẹp của triều đình cũng thành bài bản: chiêu an đám dân nghèo, tha tội,
cấp ruộng đất, trâu bò về làng cày cấy và trừng trị những người cầm đầu. Đó là
cách Nguyễn Công Trứ dẹp khởi nghĩa nông dân của Ba Vành và đem dân Trà Lũ khai
khẩn Kim Sơn, Tiền Hải. Ở Tiền Hải ngày nay, dân thờ cả Phan Bá Vành và Nguyễn
Công Trứ như những người có công ơn với dân. Khởi nghĩa nông dân cũng có khi
thành công nhưng là rất ít. Lúc đó đại ca lên ngôi hoàng đế, hai ban văn võ
chuyển thành bộ máy quan lại tướng lĩnh. Tụ nghĩa đường chuyển thành triều
đình: một triều đại chuyên chế mới thay thế triều đại cũ. Nhà Minh ở Trung Quốc,
nhà Tây Sơn ở Việt Nam đã đi theo con đường như vậy. Đó là quy luật lặp
đi lặp lại của đế chế, dù có qua khởi nghĩa nông dân cũng không thoát ra ngoài.
Bốn
điều nói ở trên là nhằm trình bày, phân tích những điểm có quan hệ với sự ra đời
và tồn tại của Nho giáo. Nó không phải là hoàn toàn giống nhau ở Trung Quốc,
Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam.
Ở
Trung Quốc, nơi ra đời Nho giáo có những điều vừa phân tích (và cả những điều
khác nữa) đã làm cho Nho giáo ra đời và tồn tại lâu dài và đồng thời do tác động
tương hỗ giữa thực tế và ý thức hệ mà vạch ra con đường phát triển đế chế lặp
đi lặp lại. Các nước du nhập Nho giáo, lúc đầu không có điều kiện giống Trung
Quốc, nhưng khi du nhập đã đưa Nho giáo làm quốc giáo, do yêu cầu trước hết là để thực hiện sự lập trung chính quyền vào
trung ương, thống nhất đất nước. Đồng thời, ở các nước đó cũng đều
thực hiện những mô hình xã hội theo Nho giáo. Tuy vậy, việc áp dụng một mô hình
của nước ngoài không phải khi nào cũng thuận lợi. Nhà nước trung ương có thể khống
chế được các thế lực phân tán để cố định cục diện thống nhất, mà cũng có thể
không thực hiện được trọn vẹn. Thí dụ, ở Việt Nam, có lẽ là do quá trình
đã châu, quận hoá từ thời Bắc thuộc, do lực lượng các hào trưởng chưa phát triển
mạnh, do đòi hỏi thống nhất chống ngoại xâm mà tình trạng phân tán cát cứ bị dẹp
khá gọn (có thể là từ đời Đinh đến đời Trần). Còn ở Nhật Bản, tuy Thánh Đức
thái tử (thế kỷ VII) cũng đã theo Nho giáo, tổ chức sự thống nhất nhưng cục diện
đó không vững bền. Các lãnh chúa dần dần phát triển được thế lực và thực tế
chia nhau làm chủ đất nước, chỉ phục tùng trung ương về danh nghĩa.
Ở
Trung Quốc, thực hiện có hệ thống chế độ quan liêu và khoa cử vì có chế độ tập
trung ổn định. Việt Namcũng tổ chức bộ máy nhà nước theo kiểu Đường, Tống,
Minh, Thanh và áp dụng chế độ khoa cử giống như Trung Quốc (thi hương, thi hội,
thi đình), cho nên trong xã hội vai trò của đẳng cấp sĩ là lớn. Ở Nhật Bản cũng
có thời kỳ áp dụng cách tổ chức bộ máy quan liêu, nhưng khi các lãnh chúa đã
giành được quyền lực thì chỗ dựa của họ là quân đội, là đẳng cấp võ sĩ chứ
không phải là nho sĩ. Nho học vì vậy không phải học để thi cử mà học phải có ý
nghĩa học thuật tự do. Vì thế về sau, ở Trung Quốc và Việt Nam có
tình hình giống nhau hơn so với Nhật Bản.
Ở Nhật
Bản, do thực tế tồn tại các lãnh chúa Đại danh luôn luôn phải đương đầu với
nhau nên các lãnh đại được khai thác, ngoại thương được phát triển và cũng đã
xuất hiện đô thị giống như ở phương Tây (Đại Bản). Và ở đây có cả một xu hướng
thương nhân vận dụng Nho giáo với những thay đổi khá đặc sắc.
Thế
là Nho giáo gắn với thể chế chuyên chế, với cục diện quốc gia thống nhất. Nhưng
khi nằm trong tay đẳng cấp võ sĩ hay cả giai cấp thương nhân thì sự thống nhất
đó cũng đã hiểu theo một cách có khác hơn. Tuy vậy, vẫn có những thực tế giống
nhau biểu hiện con đường chung của phương Đông, vẫn có những nội dung giống
nhau biểu hiện một Nho giáo chung. Và cũng chính vì thế mà có những bước đi
tương đồng giữa bốn nước đó trên con đường hiện đại hoá, theo đường lối XHCN
hay TBCN.
III.
VỀ ẢNH HƯỞNG NHIỀU MẶT CỦA NHO GIÁO
1. Những
điều vừa trình bày ở phần trên là điều kiện cho Nho giáo ra đời, tồn tại và
phát triển. Nho giáo được hình thành dần và cũng có thay đổi trong những điều
kiện như vậy. Nó là con đẻ của thể chế đó, đồng thời cũng là kẻ bảo vệ thể chế
đó. Từ bước đầu tiên muốn chấm dứt chiến tranh, loạn ly, Khổng tử chủ trương
khôi phục quyền thiên tử nhà Chu, khôi phục lễ văn thời Tây Chu để thống nhất về
một mối. Về sau với tư tưởng thống nhất thiên hạ. Nho giáo mọi thời đại ra sức
đề cao lòng trung nghĩa, bảo vệ triều đại chính thống. Không những đó là thái độ
chính trị của từng nhà nho với triều đại cầm quyền, mà hoạt động giáo dục và học
thuật như viết văn, làm sử của họ cũng góp phần rất lớn vào việc bảo vệ sự tập
trung chuyên chế. Trong thể chế đó, gia đình và họ hàng có vai trò hết sức lớn.
Bằng việc xây dựng nền nếp gia đình, quan hệ họ hàng và coi trọng việc thờ cúng
tổ tiên, Nho giáo đã làm rất có hiệu quả, làm phổ biến không khí gia đình và biến
con người thành con người của gia đình, sống hiếu đễ, ngoan ngoãn và ít có hứng
thú với cuộc sống xã hội rộng lớn và tự do. Nho giáo đã thành công trong việc
đưa tình, nghĩa và Lễ để giữ gìn trật tự trên dưới, làm cho xã hội ổn định. Trật
tự mà Nho giáo xây dựng có lợi cho hoàng đế, thích hợp với làng xã, với đời sống
gia đình, họ hàng, nên nói chung dễ được chấp nhận là hợp lý. Do đó triều đại
nào muốn giữ vững tập trung chính quyền, dù nguồn gốc là quý tộc được truyền
ngôi hay là nông dân khởi nghĩa đoạt được ngôi báu. Ở Trung Quốc hay ở Việt Nam,
Nhật Bản, cũng thấy cần phải sử dụng Nho giáo, đều đưa Nho giáo làm quốc giáo.
Cũng vì vậy không phải vì Nho giáo là sản phẩm Trung Quốc, là ngoại lai mà các
triều đại Lý, Trần, Lê, Tây Sơn của ta vì căm ghét quân xâm lược Tống, Nguyên,
Minh, Thanh, vì lòng yêu nước, tự hào dân tộc mà chống Nho giáo. Ngược lại,
chính những triều đại ấy ngay sau khi chiến thắng quân xâm lược phương Bắc đã đề
cao Nho giáo.
Ở các
nước Đông Á cùng với Nho giáo, trong đời sống tinh thần còn có các tín ngưỡng bản
địa, các tôn giáo, học thuyết khác mà đáng kể nhất, và bao giờ cũng có là cả bộ
ba: Nho, Phật, Đạo, được gọi chung là Tam giáo. Đạo giáo, nhất là Phật giáo, có
ảnh hưởng khá lớn trong nhân dân, có khi còn lớn hơn cả Nho giáo. Nhưng trong
chính trị, trong học thuật, Nho giáo bao giờ cũng giữ địa vị chi phối. Nhà Đường
ở Trung Quốc tự nhận là con cháu Lão Tử, ông tổ của Đạo gia. Nhà Lý ở Việt Nam,
xuất thân từ nhà chùa lên ngôi vua; Nhật hoàng ở Nhật Bản, vốn coi Thần Đạo là
tôn giáo thờ tổ iên của Thiên hoàng song cũng đều dựa vào Nho giáo trong việc
trị nước.
Nho
giáo gắn bó với chính quyền tập trung và quan liêu. Do đó, muốn bảo vệ chính
quyền tập trung, dù trong điều kiện nào thì bằng cách này hay cách khác vẫn sử
dụng Nho giáo.
2. Ảnh
hưởng của Nho giáo mạnh hay yếu và cung cách tác động của nó đến đời sống xã hội
và con người như thế nào tuỳ thuộc khá lớn vào thể chế xã hội, tức là sự tập
trung chuyên chế thực hiện được đến mức nào, vào sự tồn tại của những thế lực
hào trưởng, quyền lực của bộ máy quan liêu, thực tế làng xã… Nó cũng tuỳ thuộc
khá lớn vào cách truyền bá của Nho giáo, tuỳ thuộc vào thể chế giáo dục, mà điều
khá quan trọng là có thực hiện được chế độ khoa cử hay không. Ở Việt Nam thể
chế chuyên chế cùng với tổ chức làng – họ ảnh hưởng rõ rệt đến kinh tế, đến sự
tồn tại lâu dài của công điền. Trên cơ sở côg điền, ở làng xã khó ra đời tư hữu
đủ lớn để kinh doanh nông nghiệp. Ruộng đất trong làng không nhiều nên đắt, khó
mua; ở làng này mua được ruộng ở làng khác lại càng khó; bỏ làng đi khai khẩn
nơi khác thì trái với tâm lý dân ở làng – họ. Điều ấy dẫn đến tình trạng ruộng
đất manh mún, mỗi người chỉ có ít ruộng để tiến hành sản xuất tự túc và cống nạp.
Người nông dân phải làm thêm nhiều thứ việc linh tinh mới đủ sống. Chính sách
kinh tế của nhà nước là trọng nông, ức thương. Nhiều chính sách xã hội, và văn
hoá cũng nhằm ngăn cản cách làm ăn “nhất bản vạn lãi”; cầu may, phá hoại nhận vị
đó. Việc truyền bá những quan điểm Nho giáo làm cho người dân tin tưởng ở “dĩ
nông vi bản”, khính những người chạy theo lợi, làm giàu, đối lập giàu với có đạo
đức “vi phú bất nhân, vi nhân bất phú”, coi thương nhân là dân hạng
bét. Trong danh vị, chuộng sự thanh nhàn, coi việc hưởng dụng của cải do thương
nghiệp đưa lại là bẩn thỉu.
Nho
giáo xây dựng trong thể chế đó một mô hình xã hội đối lập, trước tiên là vua và
dân. Vua thì có quan. Quan thì
có lại. Quan lại thì có lệ. Đó là phần trên
từ triều đình đến huyện. Trong làng xã thì đối lập với dân là thânvà hào. Dân chia ra bốn
hạng (tứ dân): sĩ, nông, công, thương. Nói là bốn hạng nhưng
chỉ có sĩ và nông mới là cơ bản. “Nhất sĩ nhì nông”. Sĩ tuy là
dân nhưng lại là loại dân đặc biệt: đội dự bị của quan thân, kẻ trung gian với
triều đình, kẻ đại diện cho dân và làm thầy dân lao động. Kết cấu xã hội đó
khác với kết cấu xã hội phong kiến phương Tây. Cho nên cần phải hiểu các nhân vật
của nó thật chính xác, hình dung họ thật cụ thể với những bộ mặt thực, cách “làm
ăn”, cách sống, cách ứng xử… không nhìn đơn giản bằng những khái niệm “bần
nông”, “trung nông”, “địa chủ”, “trí thức”.
Trước
hết, không nên đồng nhất “quan lại” với bọn quan liêu, “cường hào” với các loại
thôn trưởng, ấp trưởng ở các lãnh ấp. Có nhìn trong họ màu sắc của chế độ
chuyên chế, của làng xã tự trị, của cung cách các lực lượng phân tán vẫn nẩy nở
một cách tự phát, nhưng phải khép mình vào những điều kiện của cơ chế trên thì
mới nhìn ra cái đặc điểm của họ.
Vua
chuyên chế không thể trực tiếp điều hành đất nước quá rộng bằng những tay chân
sai phái trực tiếp mà gián tiếp qua một bộ máy quan liêu từ triều đình đến
châu, quận. Bộ máy đó gồm các “quan” to, nhỏ. Trong chế độ chuyên chế chỉ có
vua sáng nghiệp, có nhiều chủ trương đường lối, sắp đặt mọi việc thành chế độ,
điển chương, còn nói chung cả triều đại sau đó đều theo đường lối giữ vững điển
chương, chế độ của cha ông, “thủ thành” giữ yên không sinh chuyện, xáo trộn.
Công việc trị nước của vua quan như tổ chức bộ máy “lục bộ” ở triều đình và “ba
toà quan lớn” ở tỉnh, chú trọng giữ gìn an ninh, xử lý các vụ án kiện tranh chấp,
thu tô thuế và phân phối, để tâm đến giáo hoá, phong tục. Tất nhiên một việc
quan trọng có thể là quan trọng nhất, được nhà vua chú ý là lựa chọn, sắp đặt
các quan và kiểm tra, theo dõi họ, trước hết là về mặt trung thành. Do đó, quan
không phải là người giỏi một chuyên môn nào, mà là người được vua tin cậy và
giao cho làm “cha mẹ dân”. Công việc của quan là “cầm cân nẩy mực”, là hành hạt,
hiếu dụ, tức là tuyên truyền, giáo hoá, dự bình văn, tế lễ, tức là biểu thị
thái độ của triều đình tôn trọng việc học hành, lễ nghi và phong hoá. Những
công việc đó tất nhiên là hợp với những ông quan, vừa là quan, vừa là văn nhân,
cầm quyền cai trì, nhưng lại mơ ước “cầm đường ngày tháng thanh nhàn, sớm khuya
tiếng hạ tiếng đàn tiêu dao”. Nhưng đã là quan cai trị thì cũng không tránh khỏi
những công việc cụ thể: thu thuế, bắt phu, bắt lính, chống cướp, xử kiện… Những
công việc này thật ra không phải sở trường của các ông Nghè, ông Cử, chỉ học có
Kinh Truyện và văn chương. Vì vậy, quan phải dùng lại. Lại cũng không phải là những người công chức được
đào tạo về chuyên môn, hành chánh. Lại chỉ là những người thông thạo địa
phương, có nhiều mưu mánh và thạo việc giấy tờ. Họ cũng có học hành nhưng không
hy vọng đậu đạt. Và đã là lại thì không thể đề bạt làm quan phụ mẫu được. Cuộc
đời của họ là núp dưới bóng quan để kiếm ăn. Quan thì không thạo việc, không am
hiểu địa phương, cho nên “lại” thường mách nước cho quan thi hành công vụ. Thường
thì quan chỉ là người ngồi oai nghiêm ở công đường, còn lại mới là kẻ thao túng
công việc. Lại thường có quan hệ chặt với hào lý ở các làng xã, bày mưu lập kế
sinh chuyện kiện tụng, tống tiền, đưa hối lộ, thay đổi giấy tờ, đổi trắng thay
đen và lấy danh nghĩa quan để ra oai với dân, với làng xã. Quan nếu không liêm
khiết và có bản lĩnh thì dễ thành quân bài, dễ thành bung xung che đậy cho lại
kiếm chác. Vì vai trò nguy hại đó nên nhân dân ta mới nói “Quan xa nhưng sai
nha gần”, và Nguyễn Du mới viết:
Một
ngày lạ thói sai nha,
Làm
cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
Trong
hạng “sai nha” không chỉ có lại – loại thư ký văn phòng – mà còn có “lệ“. Lệ hay lính lệ ở trong biên chế làm binh dịch,
nhưng để phục vụ các quan ở địa phương, như một thứ đầy tớ làm đủ mọi việc, việc
công và việc riêng của quan. Lệ thường được sai đi tống đạt các công văn, các
trát đòi, tiếp nhận dân có việc đến yết kiến quan. Vì những công việc đó mà
lính lệ kiếm cớ sách nhiễu đút lót, cũng có khi làm ơn dắt mối cho quan lại ăn
hối lộ. Đó cũng là những nhân vật của một bộ máy quan liêu nhưng là quan liêu
theo một cách nhất định.
Trong
bộ máy cai trị của chế độ phong kiến, triều đình bao gồm cả đất nước, còn làng
xã lại là những thế giới. Trong làng xã có những nhân vật khác và có cách quan
hệ, làm ăn cách khác. Sự khác nhau giữa cung đình (kể cả dinh thự lỵ, trấn) và
làng xã là một cách đối lập không hoàn toàn giống đô thị và nông thôn, vì đô thị
ở đây cũng có khác.
Trong
làng xã nói chung mọi người đều sống dựa vào ruộng đất, vào sản xuất nông nghiệp.
Và cần nói thêm từ người không có ruộng phải đi làm thuê, phải đi ở đến người
thiếu ruộng (bần nông), đủ ruộng (trung nông), thừa ruộng (phú nông và địa chủ)
đều là dân. Trong một thể chế mà cái quyết định là danh vị chứ
không phải là sở hữuthì sự khác biệt giàu nghèo chỉ có ý nghĩa tương
đối, còn sự khác nhau về danh phận thì ảnh hưởng đến vận mệnh, đến cuộc đời, thậm
chí đến cả con cháu. Người “trọc phú”, giàu mà không có danh vị thường lại là đối
tượng bóp nặn, làm tiền của những người có danh vị. Cho nên ai đã giàu thì cũng
phải chuyển thành sang – có danh vị – mới được hưởng thụ, mới giữ được của.
Chuyện tìm cách cầu cạnh người quyền quý, chuyện bán quan mua tước là bắt nguồn
từ đó. Trong đời sống làng xã, người có của (phú nông hay địa chủ) chỉ sống “mát
mặt” hơn người khác chứ không phải có quyền lực. Quyền lực ở đây cũng không
hoàn toàn theo đúng nguyên tắc “triều đình trọng tước mà thôn xóm trọng tuổi
tác” như trong kinh điển. Ở đây đã hình thành một hình thức kết hợp tước (danh vị xã hội cao thấp) và xỉ (tuổi tác) chưa kể là thân (họ hàng) cũng có vai trò nhất định. Từ đó mà
có vai trò của thân và hào ở hương thôn. Hào thì khó xác định thường thì
để chỉ những người đàn anh hoặc là do của cải, hoặc là do gia thế, hoặc là do
chức vụ chính quyền, do uy tín từ những vị thế khác. Còn thân là những ông quan
về hưu, những người thi đỗ nhưng không làm quan và cả những ông thầy được cả
làng kính trọng nữa. Thân nằm trong đẳng cấp sĩ phu,
còn hào thì không nhất thiết như vậy. Ở hương thôn, hào chỉ làm người ta sợ,
thường chỉ có vai trò trong việc phân chia quyền lợi kinh tế. Còn thân thì được
kính nể, được nghe theo trong nhiều vấn đề có ý nghĩa thái độ chính trị, thái độ
sống. Trong cuộc xung đột giữa hào và hộ, tức là giữa dân – kể cả những người
giàu – và hào cường thì thân sĩ thường công khai hay ngầm đứng về phía dân chứ
không về hùa với hào cường. Điều đó, một cách khái quát cho ta hiểu vai trò của
nhà nho ở nông thôn.
Quan
lại thì được cấp lộc, cũng giống như lương tháng, lương năm, phát căn cứ theo
tước và chức vụ. Nhưng lộc vua ban tuy là một thứ thu nhập vinh dự nhưng thường
không nhiều. Ngoài lộc phải kiếm thêm bổng, phải lấy bổng hậu bù cho lộc bạc. Bổng
là những lễ vật biếu xén của cấp dưới và của dân. Quan hệ giữa quan lại, thân
hào với dân không phải là quan hệ nhà nước với dân sòng phẳng mà là quan hệ giữa
những người làm cha mẹ với con cái hay quan hệ giữa cha chú với con em. Người
dưới phải yêu thương, phục tùng với tấm lòng biết ơn nên đưa lễ vật để tỏ chút
“lòng thành nhỏ mọn” (vi thiềng) là chuyện tình nghĩa phải có, không đáng trách
mà chỉ đáng khen (!). Đám quan lại và hào lý ở địa phương lại còn một cách kiếm
chác là xà xẻo vào chỗ nhà nước bắt dân đóng góp tô thuế bằng sức người và bằng
hiện vật. Số nộp cho nhà nước thì đã có hạn ngạch nhưng quan lại và hào lý cấu
kết với nhau tăng mức đóng góp tức là “phù thu lạm bổ” hay giảm nhẹ cho người
này người khác để ăn của đút lót. Thậm chí họ còn dùng thủ đoạn vu oan giá hoạ,
kiếm chuyện để ăn tiền. Người dân chẳng có quyền gì cả, thậm chí chẳng có gì cả.
Thân thể là của cha mẹ, ruộng đất của cải là của làng nước, của vua, số phận là
của Trời. Có mà bị người ta lấy đi thì cũng phải chịu, không đòi vào đâu được,
có oan khuất thì “còn một kêu Trời nhưng xa”, (Nguyễn Du). Đó là thực tế biến
người dân thành những “cái tôi bé nhỏ” (tiểu kỷ), sống phận “con ong cái kiến”.
Sống trong cõi trời đất nhỏ hẹp là gia đình, họ hàng, làng xã họ cũng chỉ lo
vun quén, xà xẻo, nhặt nhạnh vụn vặt. Để được yên thân, họ phải cầu cạnh nhờ
che chở, xin thông cảm, xin chiếu cố. Đó là người dân làm “gốc nước”, người dân
“cao quý”, cao quý hơn cả đất nước và ngôi vua, người dân mà thánh hiền đòi vua
quan phải “yêu”, phải “thân”, phải coi là con như lòng mẹ chứ không được đầy đạo
làm họ khổ sở. Phải nói cho đúng là Nho giáo như trong kinh điển của nó nói,
không tán thành sự độc tài của vua, phản đối sự áp chế, vơ vét của quan lại. Khổng
tử nói: “Có một người bề tôi vơ vét của dân thì thà là có một bề tôi ăn trộm
còn hơn”. Nhiều nhà nho đời sau coi con đường làm quan là con đường bẩn thỉu,
phần nàn “trong đời việc không được như ý thường mười thí có đến tám chín”.
Nhưng thiện chí không thể làm lay chuyển được sự vận hành của cơ chế. Những sự
thật xấu xa trong xã hội như vậy là kết quả trái ngược nhưng là tất uyêú của chủ
trương thống nhất quy về một mói để chống loạn, của tư tưởng làm cha mẹ dân rất
nhân đạo, của tình nghĩa cha chứ và con em rất êm ấm. Cũng lại có một nghịch lý
nữa là lòng tin ngây thơ của người dân trưởng chỉ có quan lại, hào cường mới xấu
như vậy, còn vua thì tốt, chỉ vì ở xa nên không biết hết mà dân thì “thấp
cổ bé họng” không kêu thấu. Cho nên khi tức nước vỡ bờ nổ ra khởi nghĩa nông
dân thì cũng nhằm vào đánh hào cường, không đánh vào vua.
3. Một
nét rất nổi bật của ảnh hưởng Nho giáo là tình hình phát triển văn hoá. Nho
giáo vốn rất coi trọng văn, coi trọng văn trị. Cho nên các nước theo Nho giáo đều
đề cao lễ nhạc, văn hiến, đề cao việc giáo dục. Điều đó được đẩy mạnh đến mức độ
biến các nước đó thành đề cao người đi học, người biết chữ, người làm được văn
chương, thơ phú. Thậm chí điều đó còn dẫn đến thói quen sùng bái chữ viết, sùng
bái sách vở. Ngày xưa ai bắt gặp một tờ giấy có viết chữ rơi vãi ở đất thì lập
tức họ kính cẩn nhặt lên, đội lên đầu và đem đốt chứ không dùng nó vào những việc
thiếu kính cẩn. Nhưng việc đề cao văn hoá đó lại theo một hướng không hay là
khoa cử, học để làm quan, học viết văn chương, không chú trọng kỹ thuật, khoa học,
học thuật. Ở Việt Nam cũng giống các nước Đông Á khác đã từ rất sớm
việc học đã được phổ biến. Đến thế kỷ XI đã lập Văn Miếu, Trường Quốc Tử Giám,
trường đại học của cả nước. Từ thế kỷ XI cho đến thế kỷ XX, ngớt tổ chức các
khoa thi lấy đỗ đến ba bốn ông Tiên sĩ. Văn học thành văn văn cũng ra đời sớm.
Đến thế kỷ XV, với Nguyễn Trãi ta đã có thể nói là có nền văn học cổ điển của
dân tộc. Những bộ sử như Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu đời Trần, Ngô Sĩ Liên đời
Lê đã để lại cho đời sau hiểu biết hàng chục thế kỷ. Đó là những thành tích rực
rỡ về văn hoá, nếu không có sự truyền bá rộng rãi của Nho học thì không
thể có sớm như vậy.
Với
Nho giáo, học cũng có nghĩa là tu dưỡng đạo đức. Học trước hết là để hiểu các
làm người. Con người, như trên đã nói là con người trong quan hệ gia đình, họ
hàng, trong trật tự trên dưới của xã hội, trong quan hệ với vua quan, với Trời.
Làm người là cư xử đúng lễ nghĩa trong các quan hệ như vậy. Những người bất hiếu,
bất mục trong gia đình, vô lễ, vô phép, ngỗ ngược ngoài làng xóm, sống hám lợi,
ít tình nghĩa, không chất phác … không những bị chê trách mà còn bị xử phạt các
này hay các khác. Thái độ chuộng đức và đề cao tu dưỡng của Nho giáo một mặt
làm cho con người ngoan ngoãn dễ chấp nhận quân quyền, phụ quyền, và nam quyền
có tính áp bức. Nhưng mặt khác cũng làm làm cho con người ở đây có tinh thần hiếu
học, cầm kiệm, có trách nhiệm, biết tự trách mình, vì nghĩa mà hy sinh. Họ biết
nhường nhịn không tranh hơn trong đời sống cộng đồng, thường biết nghe theo người
cầm đầu, dễ có kỷ luật. Tất nhiên mỗi điểm như vậy cũng đều phải tính đến cả mặt
trái hạn chế sự phát triển của nhân cách.
Hình
thức học gắn với khoa cử cũng có mặt hay và mặt dở. Lựa chọn người làm việc qua
những kỳ thi, ai hơn thì lấy chứ không theo dòng máy cha truyền con nối, không
theo tài sản, không theo bè cánh, tất nhiên là có “dân chủ” hơn, coi trọng năng
lực bản thân hơn. Nhưng với cách chuyển yêu cầu của nhà nước chuyên chế thành nội
dung học và thi, chỉ đòi hỏi “minh kinh” và “năng văn” thì học thuật và cả văn
học nghệ thuật chịu ảnh hưởng rất tai hại.
Khi
trong nước, qua con đường thi cử mà chọn người làm quan thì nhiều cố gắng cho
con đi học, nhiều thanh niên đua nhau đi học, mong kiếm được một cuộc sống sung
sướng, thanh nhàn và vinh quan hơn là đi cày. Từ sáu tuổi đã bắt đầu đi học, học
cho đến thi đỗ hay nửa chừng bỏ cuộc. Có người cứ học như thế cho đến đầu bạc
răng long! Học nhằm thi đỗ và làm quan nên suốt cả cuộc đời đi học chỉ học có
kinh truyện, bắc sử và tập viết thơ, phú, tứ lục, văn sách. Họ học thuộc lòng hết
sách vở và những bài văn mẫu, mong thành hay chữ và viết văn nhanh. Học như thế
dù đỗ đạt cao, tri thức cũng không nhiều. Nhất là tri thức của họ chỉ liên quan
đến văn và sử, không hướng vào giới tự nhiên, vào xã hội hay con người trước mắt.
Cho nên đặc tính của loại trí thức đó là kinh viện và từ chương. Mở
miệng ra nói năng là chữ nghĩa, điển tích và suy nghĩ gì thì chủ yếu cũng ở cạnh
khía câu chữ. Tư duy thiếu thực tế và không sáng tạo. Tuy nói ra lời thì thường
khiêm tốn và cao thượng nhưng trong thâm tâm lại đầy óc danh vị và cao ngạo,
cao ngạo ở chỗ mình là kẻ sĩ tiêu biểu cho thế đạo nhân tâm, ảo tưởng đỗ đạt,
làm quan được thì lập nên sự nghiệp “tri quân trạch dân” làm cho dân đen được
nhờ.
Từ
sau cuộc cách mạng chống phong kiến ta thường quen nghĩ nhà nho là người lười
lao động, kinh lao động, là bọn ăn bám, bóc lột, ngu trung với vua chúa… Nói thế
không khỏi có chỗ thiếu chính xác. Đối với lao động, nhà nho tự coi mình là “kẻ
lao tâm làm công việc “lao lực” của tiêu dân. Nhưng trong công việc của họ, tức
là việc học hành, tu dưỡng thì họ không lười, chịu lao động một cách nghiêm chỉnh
cật lực. Cật lực đến mức coi chơi đùa, giải trí cũng là “tha thích” không tập
trung tư tưởng. Họ phó mặc việc sản xuất, giặt giũ, bếp núc… cho mẹ và vợ, coi
đó không phải là việc của mình. Mẹ và vợ vắng thì chịu đói chứ không chịu vào bếp
“Kẻ quân tử xa nơi bếp núc”. Nhưng với những công việc nhe quét tước nhà cửa, cổng
ngõ hay trồng hoa thì họ làm rất chu đao, chu đáo đến mức nghệ thuật. Phải hiểu
quan niệm của họ về lao động về phân công lao động, mới hình dùng được người
nhà nho. Đối với ta ngày nay thì nhà nho là lười, lười vì không
chuyên chú vào công việc, còn mê đá bóng, xem hát… Nhà nho không thuộc vào loại
được hưởng sự phân phối tô thuế, không thuộc giai cấp bóc lột, và họ cũng thường
khủng khỉnh với những kẻ giàu sang. Nhưng họ tuy là dân nhưng lại là dân được
ưu đãi, ưu đãi về tinh thần, hưởng sự kính nể và chút ít của biếu xén, sự giúp
đỡ. Cho nên đói với dân lao động, thái độ nhà nho không giống thái độ của đại
chủ, tư sản, những giai cấp bóc lột. Nhà nho cũng không coi nhân dân lao động
là bình đẳng, đồng đẳng với mình, nhưng chỗ họ tự phân biệt là có đức và có học,
coi dân lao động là “ngu dân” cần được che chở giáo hoá chứ không phải vì nghèo
hèn mà đáng khinh. Đối với vua, họ trọng sự trung nghĩa và nhiều người dám liều
chết để tỏ lòng trung nghĩa. Nhưng cũng nên chú ý là họ làm như vậy vì lý tưởng,
vì giữ chữ tín. đã ăn cơm, mặc áo của vua thì phải hết lòng vì vua. Ở trong đó
có sự mù quáng, sự hèn hạ. Những trường hợp được nhiều người nói đến như
Lý Trần Quán tự chôn sống để tỏ ra mình không phản bội Trịnh Tông hay Phan
Thanh Giản ký hoà ước nhường ba tỉnh miền Tân Nam bộ rồi uống thuốc độc
tự tử là những chuyện không dễ làm được, nếu không có ý thức cao về nhân cách.
Cũng nên nói thêm là ở nhà nho, trung vua thường là đi đôi với thân dân. Ngôi
vua là biểu hiện của sự thống nhất đất nước. Nhược điểm chính của nhà nho là ở
chỗ họ là một loại trí thức nông thôn hẹp hòi, thiển cận và bảo thủ, chỉ quen
nói suông những lời lẽ thánh hiền, bất tài, bất lực, không thiếu thiện chí
nhưng vô bổ. Còn trong môi trường của họ, tức là gia đình, họ hàng, làng nước
thì nhà nho lại có nhiều ưu điểm đáng kính: họ là những người giữ mình một cách
cẩn thận, có đức và có uy nghi không để người khác kinh nhờn, sống có tình
nghĩa và đáng tin cậy, đối với bà con, bạn bè rất chu đáo, với họ hàng con cháu
rất hết lòng. Trong những hoàn cảnh gian nguy họ dễ giữ được khí tiết cứng cỏi.
Khác
với tri thức phương Tây thời trung cổ gắn với nhà thờ và thời cận hiện đại gắn
với đô thị, nhà nho là nhân vật tri thức của họ hàng làng xã nông thôn. Với người
nông dân tiểu kỷ đã nói ở trên, nhà nho cũng vẽ thành nét đậm đời sống tinh thần
ở làng xã.
4.
Nho giáo là một học thuyết khuyên con người “kính quỷ thần nhưng nên xa lánh”,
coi việc cầu xin quỷ thần là “siểm nịnh” vô ích. Như thế là Nho giáo không khuyến
khích mê tín, không lợi dụng mê tín. Nhưng trong thực tế Nho giáo không chỉ tồn
tại như một triết thuyết mà còn như là một tôn giáo.
Có
người vịn vào chỗ Khổng tử bảo Tử Lộ: “Chưa biết thờ người thì biết thờ quỷ thần
làm gì?… Chưa biết sống thì biết chết làm gì?” mà cho rằng Nho giáo là vô thần.
Quả là Nho giáo khuyên con người chú ý đến đời sống trần thế mà không nên nghĩ
đến chuyện viển vông ở thế giới bên kia. Nhưng Nho giáo không trả lời trôi chảy
được mâu thuẫn mà Mặc tử đã đặt ra: chủ trương không có quỷ thần thì sao lại chủ
trương tế lễ trọng thể? Sự thực thì Nho giáo không phải vô thần. Họ cho là có
linh hồn nhưng chủ trương mỗi người tuỳ vị trí của mình mà chỉ tế lễ “linh hồn
thuộc về mình”. Khổng Tử nói: “Không phải quỷ thần của mình mà tế lễ là siểm nịnh”.
Theo Khổng tử chỉ có thiên tử mới được tế Trời Đất, thần núi cao, sông lớn. Chư hầu
tế thần sông núi của nước mình, còn mọi người thờ cúng linh hồn tổ tiên ông cha
mình. Đó là quỷ thần (linh hồn) thuộc về mình. Nho giáo coi trọng việc thờ
cúng tổ tiên nhưng là để tỏ lòng biết ơn tiên tổ chứ không phải là để cầu phúc.
Cho nên để tổ tiên không có người hương khói là tội lớn nhất. Ngoài linh hồn tổ
tiên của từng gia tộc còn có những thần linh chung mà Nho giáo khuyên tỏ lòng
kính trọng chứ không nên mê muội cúng bái. Học cũng phân biệt “chính thần” với
“dân thần” tức là những thần linh đáng thờ vì có công ơn, với những thần bậy bạ,
do nhân dân mê tín mà tôn làm thần. Trong những chính thần các nhà nho đời
sau đưa vào tự điển các vị anh hùng có công với đất nước. Chính Khổng tử và các
thánh hiền Nho gia cũng được thờ như vậy ở Văn Miếu. Chỉ có khác là trong Văn
Miếu chỉ có lễ tế hàng năm mà không có cầu cúng. Như thế là Nho giáo ngoài ý
nghĩa là học thuyết vẫn có ý nghĩa tôn giáo không có nhiều đền miếu, một thứ
tôn giáo không có nhiều đền miếu, không có tổ chức giáo hội và cũng không
có khuyến khích việc thờ cúng. Nhưng thờ Trời Đất, thờ chính thần và thờ tổ
tiên thì đúng là theo Nho giáo. Ngoài việc thờ cúng như vậy một điểm làm cho Nho
giáo có vai trò tôn giáo ở nông thôn chính là vai trò nhà nho giống vai trò tu
sĩ ở phương Tây. Ở phương Tây giáo sĩ nông thôn rất cần cho nhân dân thôn xóm:
để ra cha dặt tên thanh, đến tuổi cha bày cho học, ốm đau cha chữa thuốc, và
lúc chết cha rửa tội cho. Trong làng xóm của ta lúc đẻ ra thầy đồ cũng thường đặt
tên lấy số, ốm đau cũng nhờ thầy chữa, thầy cũng dạy cho học, xem giờ kiếm
đất chôn cất lúc chết. Và thường ngày những ngươig nông dân vẫn hỏi ý kiến các
thầy trong nhiều việc của bản thân và gia đình. Đạo Thánh hiển quá lời các thầy
mà đến với nông dân như một tôn giáo, một tôn giáo, lấy việc tỏ lòng biết ơn tổ
tiên, kinh sợ Trời Đất quỷ thần mà ăn ở có đạo lý, nhất là ở trong gia đình,
trong họ ngoài làng. Gia đình, họ, hàng vốn là những cộng đồng rất tự
nhiên trong đời sống ở nông thôn. Nông dân và nhà nho tuy vị trí xã hội có khác
nhau nhưng đều là nhân vật của cuộc sống ấy. Nho giáo vốn là tổng kết trong môi
trường gia đình, họ, làng ở nông thôn nên rất hợp ý của hai loại người đó. Và
cũng là tự nhiên khi Nho giáo là một học thuyết mong củng cố sự hoà thuận, sự
êm ấm theo kiểu gia đình, không quan tâm đến tiến bộ, phát triển, tự do, giải
phóng… Chế độ chuyên chế không chấp nhận cá nhân mà cuộc sống gia đình, họ,
hàng, làng xã cũng không làm ra đời cá nhân. Đô thị lại không phát triển để
kích thích một xu hướng như vậy. Nho giáo có một mảnh đất hết sức thuận lợi để
tồn tại lâu dài. Cho nên có thay đổi triều đại mà vị trí của Nho giáo vẫn
không thay đổi. Vào những lúc xã hội khủng hoảng Phật giáo, Đạo giáo và các tín
ngưỡng khác có nổi lên làm giảm vai trò đó. Ngay trong nhà nho cũng nảy sinh những
mầm mống “bội đạo, ly kinh”. Nhưng khi một triều đại khác lên thì họ lại khôi
phục lại cơ đồ cũ, tức là sự thống nhất quyền hành, ổn định các làng xã cùng với
nền nếp đã sẵn nên Nho giáo lại khôi phục, các nhà nho lại trở về vị trí
làm quan, làm thân sĩ và làm thầy. Nho sĩ như một đám bèo trong ao tù của thể
chế chuyên chế làng – họ; dù gió bão có đánh cho tan tác nhưng khi gió
yên bão hết nó lại phủ kín mặt nước. Trong Nho giáo có một phần cái gì đó tự
nhiên, là hợp lý mà cuộc sống ở nông thôn dễ tiếp nhận.
5.
Nói ảnh hưởng Nho giáo hay đánh giá Nho giáo tích cực hay tiêu cực là nói đến
vai trò của nó trong quá trình hiện đại hoá đất nước, hiện đại hoá cả
vùng. Nếu các nước Đông Á cứ phát triển cô lập, không có tác động của thế giới
từ bên ngoài vào thì vị tất đã không tiếp tục con đường lập đi lập lại đế chế.
Nhưng ở phương Tây chủ nghĩa tư bản đã phát triển cao lôi kéo cả thế giới vào
quỹ đạo của nó, phá thế cô lập của bất cứ vùng nào trên thế giới. Quá
trình hiện đại hoá ở các nước Phương Đông chính là bắt đầu từ sự tiếp xúc
với phương Tây TBCN. Cho nên đối với cả vùng Đông Á vào quãng giữa thế kỷ XIX,
bắt đầu bằng việc xâm lược của các nước TBCN phương Tây, bằng việc mở mang giao
lưu, buôn bán. Trong các cuộc đụng độ giữa hai nền văn minh, những nhà duy tâm
của Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam đã thấy Nho giáo – làm cho “nước yếu dân
hèn”, đúng ra là họ cũng chỉ mới nói đến Nho học, tức là thứ Nho giáo trong thực
tế gắn bó với chế độ chuyên chế. Với chế độ khoa cử, mới nói đến người “hủ nho”
mà không có dị nghị gì với khổng mạnh. Việc duy tân, âu hoá, làm cho nước phú
cường đều là những tư tưởng trái Nho giáo. Nhưng các nhà nho lại là người đề xướng
phong trào chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Phong trào cần vương, Duy Tân
đều là do nhà nho đề xướng và đi đầu. Yêu nước, gắn bó với dân tộc, liều chết
chống giặc là những việc nhà nho đã làm và làm với tinh thần đáng khâm phục. Những
người như Nguyễn Quang Bích, Phan Đình Phùng, Nguyễn thượng Hiền, Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh chắc chắn là những tấm gương yêu nước chống giặc cao cả.
Nho giáo ở đây không là cản trở mà ngược lại. Ta thường nghĩ nhân dân ta yêu nước,
nhân dân đó là nông dân chứ không phải nhà nho. Người nông dân vốn gắn bó với
quê hương, với nơi quê cha đất tổ, có mồ mả cha ông, có cây đa, giếng nước thân
thuộc, có họ hàng, làng nước đầy tình nghĩa. Nhưng vốn ít ra khỏi làng, họ cũng
không ý thức về đất nước. Nhà nho về những tình cảm vừa nói hoàn toàn không
khác nông dân mà do có học vấn, họ có thêm ý thức về đất nước, về chủ quyền
nên mới nâng được tình cảm quê hương thành lòng yêu nước. Trong cuộc số ở làng
xã, những công cuộc ứng nghĩa hành động cứu nước bao giờ cũng được cả làng hưởng
ứng, còn người xướng xuất thì thường là các thân sĩ. Điều đó được chứng minh đầy
đủ qua phong trào Cần vương cuối thế kỷ XIX. Nho giáo nói đến vua nhiều hơn nước,
nhưng nước với vua chỉ là một và từ tử Khổng tử, Mạnh tử đã cân nhắc nhiều khi
hành động có liên quan đến “nước của cha mẹ”.
Với
cách mạng XHCN, nói chung nhà nho hoan nghênh, nhưng hoan nghênh vì hiểu chủ n
ghĩa xã hội đồng nhất vơi tư tưởng “đại đồng” của sách Lễ ký. Đại đồng là một
thứ chủ nghĩa xã hội không tưởng, mơ ước một chế độ trong đó thiên hạ là của
chung, mọi người chọn lấy người có đức và có tài, sống với nhau bằng sự tin cậy
và hoà thuận, không ai ích kỷ chỉ lo cho cha mình, con mình mà lo chung cho mọi
người, làm cho những người goá vợ, goá chồng, mồ côi, không có con, những người
tàn tật đều được nuôi dưỡng. Ai cũng có điều kiện để sinh ra thì lớn lên, đến
tuổi thì có việc làm, già thì sống hết tuổi trời, trai thì có vợ, gái thì có chồng.
Mọi người vì lợi ích chung, không thu nhặt của cải cho riêng mình, ganh đua đua
sức mình góp vào việc chung. Trong xã hội đó không còn âm mưu giành giật, không
còn trộm cướp. Mọi người sống cảnh thái bình: “cửa ngoài không cần đóng”. Khi
chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá và Cách mạng tháng Mười Nga thành công thì ở
các nước Đông Nam Á, Đệ tam Quốc tế được hưởng ứng đặc biệt nhiệt liệt. Ảnh hưởng
đó to lớn và nhanh chóng hơn các vùng khác. Hai yêu cầu vốn là rất khó đối với
các vùng khác là quốc hữu hoa và chuyên chính vô sản thì ở đây được chấp nhận dễ
dàng. Người ta coi chủ nghĩa cộng sản là hiện thực của lý tưởng đại đồng mà
thánh hiền mơ ước. Trong các tài liệu tuyên truyền của Đảng Cộng sản lúc đó thường
dùng chữ “thế giới đại đồng” để nói chủ nghĩa cộng sản. Trên con đường hiện đại
hoá,phương Đông theo Nho giáo khó chấp nhận con đường TBCN hơn con đường
XHCN vì khó chấp nhận chủ nghĩa cá nhân, sự cạnh tranh, làm giầu, sự cách biệt giàu nghèo, chủ trương tự do,
bình đẳng, dân chủ… hơn là công hữu , vô sản chuyên chính, đấu tranh giai cấp
xoá bỏ bóc lột… Con đơờng đi từ chủ nghĩa dân tộc, từ yêu nước mà đến chủ nghĩa
cộng sản vốn là một con đường tự nhiên mà có thể nói Nho giáo đã tạo ra nhiều
thuận lợi. Cho nên không chỉ Hồ Chí Minh đã đi con đường đó mà Phan Bội Châu
cũng đã đi con đường đó. Chỗ khác nhau là cả về con đường cứu nước, cả về chủ
nghĩa xã hội, Phan Bội Châu còn vướng víu rất nhiều vỡi những quan niệm Nho
giáo.
Nho
giáo với con đường hiện đại hoá còn có một quãng thời gian cực quan trọng từ
sau Đại chiến hai, khi hình thành các nước tham gia vào hệ thống XHCN và TBCN,
làm nổi bật lên hai thực tế lớm mà tôi đã đề cập ở trên: chủ nghĩa Mao và cách
quản lý kinh tế của Nhật Bản, những thực tế mà chúng ta phải suy nghĩ nghiêm
túc.
LỜI
KẾT THÚC
Trọng
tâm của bài giảng được trình bày trên đây bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
- Nho
giáo là gì?
- Nó
sinh ra và tồn tại trong những điều kiện nào?
-
Trong thời gian tồn tại của nó, nó đã sinh ra cái gì?
Và
phân tích tác động tương hỗ giữa Nho giáo và cơ chế chuyên chế Làng- Họ với tác
động của nhà nước chuyên chế và chế độ khoa cử. Nhưng điều đó là nói về quá khứ.
Nhưng ảnh hưởng của Nho giáo lại không chỉ dừng lại ở quá khứ. Nhiều vấn đề
ngày nay vẫn còn gắn bó với quá khứ đó. Và trong tương lai cũng còn nhiều ràng
buộc với truyền thống, một truyền thống mang nhiều dấu ấn của Nho giáo. Từ bước
đi đầu tiên, dù rất ngắn cũng mang ý nghĩa định hướng về sau. Tất nhiên một con
đường dài như con đường của lịch sử, không khỏi có những bước ngoặt, những sự đổi
hướng. Nhưng dù vậy, bước đi đầu tiên cũng mang nhiều ý nghĩa. Cơ chế chính trị
– xã hội phương Đông và Nho giáo không chỉ có ý nghĩa bước đi ban đầu, mà còn
có ý nghĩa là một con đường dài trong lịch sử của các nước Đông Á, trong đó có
nước Việt Nam chúng ta.
Ngày
nay, chúng ta đã có hơn một thế kỷ đi vào quỹ đạo của thế giới hiện đại và hơn
nửa thế kỷ hiện đại hoá đất nước. Đối với lịch sử Việt Nam cũng như
các nước Đông Á theo Nho giáo, đó là một bước ngoặt, một sự đổi hướng phát triển.
Điều đó là do ảnh hưởng từ ngoài, chịu sự tác động của sự phát triển của thế giới,
của thời đại và là một sự tất yếu. Với sự đổi hướng đó, ai cũng đã thấy
Nho giáo không còn thích hợp với sự phát triển. Những lời phê phán Nho giáo từ
một thế kỷ nay, căn cứ vào thực tế đó không phải là không đúng, không có cơ sở.
Nhưng
một mặt khác, bước đi trên con đường mới đó lại chịu sự quy định của những điều
kiện có sẵn, do lịch sử để lại. Đó cũng là một tất yếu. Quên điều đó thì trong
thực tế sẽ gặp nhiều khó khăn, có khi không lường hết được. Nhưng khi nhìn nhận
những cái lịch sử để lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng ta phải
có thái độ phên phán và thừa kế. Về vấn đề này chúng ta làm chưa được nhiều. Đối
với Nho giáo lại càng ít và còn sơ lược. Chúng ta đã phê phán Nho giáo, nhưng
không nhìn thẳng khả năng của nó sống lại trong chủ nghĩa Mao.
Qua
kinh nghiệm phát triển kinh tế của Nhật Bản, Nam Triều Tiên…, chúng ta cần phải
lưu ý đến những mặt sau:
1. Ý
thức rõ ràng về điểm xuất phát.
2. Lợi
dùng những điều kiện sẵn có.
Hiện
đại hoá đất nước là con đường đi đến tương lai. Trên con đường đó, chúng ta có
biết rõ đi từ đâu, đến đâu thì mới có thể vạch ra được con đường sẽ đi với bước
đi và nội dung thích hợp; đồng thời mới chủ động được những gì sẽ gặp dọc đường.
Điểm đến của mình là trong thế giới thế kỷ XXI. Tuy vậy, cũng có chưa đựng
nhiều điều chưa biết. Điểm xuất phát của ta là một nước chậm phát triển, một nước
Đông Á, có quá khứ theo Nho giáo và ngày nay phát triển trì trệ, trong lúc các
nước Đông Á khác đều phát triển nhanh. Vì không xác định rõ điểm xuất phát như
vậy, cho nên ta không vạch được đường đi rõ ràng và nhất là không rút được những
bài học kinh nghiệm từ các nước có hoàn cảnh giống ta.
Ở đây
cần nói đến một điểm mà ngày nay nhiều nhiều người hay nói tới: con đường của
chủ nghĩa xã hội. Tâm lý của nhân dân các nước chịu ảnh hưởng của Nho
giáo là dễ thích thú chủ nghĩa xã hội, một xã hội không có áp bức, bóc lột, sống
với nhau hoà mục, tin cậy như lý tưởng đại đồng. Cho nên chủ trường xây dựng chủ
nghĩa xã hội là một sự lựa chọn hợp ý dân. Nhưng để thực hiện phải chú ý.
1. Tư
tưởng chịu ảnh hưởng Nho giáo thường hiểu chủ nghĩa xã hội ở mức độ là tư tưởng
đại đồng chứ không phải là một thể chế xã hội của thời đại hiện đại.
2. Một
xã hội còn có ảnh hưởng của Nho giáo sẽ là cản trở lớn cho việc hiện đại hoá.
Chỉ xin nêu một vài sự đối lập: xã hội hiện đại có tính đô thị chứ không phải
nông thôn; là xã hội phát triển dựa vào kinh tế, khoa học kỹ thuật chứ không phải
dựa vào đạo đức; một thể chế đa dạng về xã hội chứ không phải chỉ có nhà nước
và gia đình; một xã hội dân chủ chứ không phải theo quan hệ gia trưởng.
Có lẽ
cũng không chỉ phân biệt phê phán và kế thừa. Ngoài những cái nên bỏ hay nên
phát huy, còn có cả những cái đã là như vậy, muốn bỏ cũng không bỏ được. Phải
chú ý đến nó, những nên để nó như vậy hay tốt hơn là lợi dụng nó và hướng
nó vào cách phát triển mới, Ví dụ, Nhật Bản sử dụng quan hệ gia trưởng vào quản
lý công nghiệp là loại như vậy.
Cõ lẽ
cũng không nên nghĩ là mọi cái Nhận Bản, Nam Triều Tiên đã làm là tốt đẹp cả,
đã vận dụng hết tất cả mọi cái tốt của Nho giáo và tránh hết mọi mặt tác dụng
tiêu cực của nó. Vả lại, nếu kiên trì chủ nghĩa xã hội, coi nó là hợp nguyện vọng
của nhân dân thì chắc chắn cách phê phán, kế thừa và lợi dụng của ta cũng khác.
Trong công cuộc hiện đại hoá của ta, chúng ta phải chú ý đến không chỉ bản thân
học thuyết Nho giáo, mà cả những cơ sở cho nó tồn tại như gia đình, họ hàng,
làng xã, chế độ thi cử, nhà nước tập quyền… nhiều mặt cụ thể của nó nhiều khi lại
có ảnh hưởng tốt đến công việc của ta hơn là những điểm trong lý thuyết.
Một
điều cũng cần nói là sự khác nhau giữa lý tưởng xã hội êm ấm, học mục hay đấu tranh
sòng phẳng để có công bằng, thái bình hay phát triển, cá nhân tự do hay cộng đồng
lễ nghĩa… cũng cần phân tích thật thấu đáo các mặt lợi hại.
Quả
thật Nho giáo đang còn là một mảnh đất chờ khai thác để tìm nhiều câu trả lời
cho công cuộc xây dựng đất nước của ta.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen