Dienstag, 2. Februar 2021

Lịch sử Trường Đại học Y Hà Nội qua các giai đoạn:

 


Chương III
THỜI KỲ MƯỜI NĂM HOÀ BÌNH (1955 - 1965)
 

Mẫu thuẫn giữa lượng và chất ở thời kỳ này vẫn là vấn đề nổi lên, nhưng không giống trong thời kỳ chống Pháp. Các thầy lão thành sau thời gian thực hiện chương trình thời chiến đã suy tính đến chất lượng. Các thầy không chỉ mong muốn chất lượng cao hơn thời chống Pháp mà còn phải theo kịp thế giới nhưng trong khi đất nước còn đang thiếu bác sĩ. Đối tượng đào tạo có sự khác biệt giữa sinh viên nội thành và sinh viên kháng chiến. Chính quyền miền Nam cự tuyệt Tổng tuyển cử và miền Bắc đang tiến hành sửa sai cải cách ruộng đất. Nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm có những hoạt động chống đối; chiến tranh lạnh trở nên căng thẳng; Những hiện tuợng này ít nhiều đã ảnh hưởng đến trường ta. Sự quy tụ lúc này là vận mệnh đất nước bị đe doạ trước sự xâm lược của Mỹ.

Thời kỳ này có một số diễn biến và sự kiện đáng chú ý:

1954-1955: Năm học đầu tiên sau hoà bình: Đây là năm học hết sức quá tải vì bộ khung giảng dạy nhỏ bé còn số đối tượng phải đào tạo lại quá nhiều (cả trung cấp và sơ cấp. Công sức bỏ ra của đội ngũ thầy hết sức to lớn.

Hai năm 1955-1957: Các giáo sư lâu năm của trường muốn xoá bỏ hẳn chương trình thời chiến, thực hiện một chương trình chính quy, đầy đủ, ngang tầm thế giới và phù hợp với Việt Nam. Nhưng cấp trên quyết định áp dụng chương trình do nhóm chuyên gia Liên Xô soạn giúp. Toàn trường dành ra hàng tháng để chỉnh huấn và học tập Hai văn kiện Mascơva.

1958-1960: Chỉnh huấn nhiều đợt. Xác định vai trò lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng Bộ. Xác định đường lối tuyển chọn công nông vào trường. Xác định dùng lao động công nghiệp và nông nghiệp để tăng cường giáo dục tư tưởng thầy và trò.

1960-1964: Do thiếu bác sỹ ở các tuyến nên thay chương trình Liên Xô bằng một chương trình giản lược (học 4 năm) để đào tạo “nhanh, nhiều, tốt, rẻ” một số lớn bác sĩ phục vụ các kế hoạch 5 năm nhằm đưa Miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ Nghĩa Xã Hội, làm cơ sở đấu tranh thống nhất nước nhà bằng con đường hoà bình.

Năm học 1964-1965: Sửa chữa, điều chỉnh chương trình học. Đề ra mục tiêu đào tạo. Chuẩn bị sơ tán và bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Những bài học lịch sử: thành công và không thành công

Trong 10 năm (1955-1964) tình hình thế giới và trong nước có rất nhiều biến động. Điều đáng lưu ý là chúng có ảnh hưởng rất lớn tới trường Y Dược và các trường đại học nói chung.

1954-1955: NĂM HỌC ĐẦU TIÊN SAU TIẾP QUẢN THỦ ĐÔ

Năm học này với đặc điểm chuyển tiếp: từ vùng rừng núi trong kháng chiến chống Pháp, trường dời về thủ đô tiếp quản cơ sở, trang thiết bị và nhân sự của trường Y Dược trong Hà Nội tạm chiếm. Từ chương trình thời chiến, chuyển sang chương trình đầy đủ (6 năm) mà các thầy Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng và mọi thầy khác đều muốn nó phải hệ thống, đầy đủ, ngang tầm quốc tế và phù hợp với Việt Nam. Có nhiều sự kiện và xáo trộn mở đầu cho một số sai lầm tả khuynh, nôn nóng tiếp theo. Do vậy, xứng đáng được nêu tương đối đủ trong lịch sử của trường để có những bài học bổ ích.

Tiếp quản Trường Y - Dược trong Hà Nội tạm chiếm

Sau khi hiệp định Geneve (1954) được ký kết, đất nước chia làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Chính quyền kháng chiến do Đảng lãnh đạo sẽ tiếp thu những vùng trước đây do Pháp chiếm đóng (chủ yếu là đồng bằng Bắc Bộ), gọi là vùng bị địch tạm chiếm, Theo đó, trường Y Dược kháng chiến được lệnh về tiếp quản các cơ sở y tế lớn trong Hà Nội. Trước khi về lại Hà Nội, tuyệt đại bộ phận trường Y-Dược kháng chiến đã dời bỏ Chiêm Hoá và Thái Nguyên để tập trung về địa điểm rộng hơn: Lang Quán, cách Chiêm Hoá về phía nam không xa. Trường trung cấp của bác sĩ Hoàng Đình Cầu với hai khoá đang học gồm hàng trăm học sinh cũng được lệnh từ Thanh Hoá “hành quân” gần 200 km bằng đi bộ lên Lang Quán. Học sinh, sinh viên đông như vậy, nhưng cả tháng chẳng học hành gì được, phần vì cơ sở tạm bợ, phần vì quá phấn khởi do kháng chiến thắng lợi, phần nữa vì hầu hết các thầy bị huy động vào nhiệm vụ “tiếp quản thủ đô”. Do vậy, tốt nhất là cho sinh viên học tập về “tình hình và nhiệm vụ”; đồng thời “xác định tư tưởng” cho họ trước khi về Hà Nội. Bài bản này tiếp thu từ các chuyên gia Trung Quốc, đã được áp dụng phổ biến trong nhiều năm trước đó và sau đó.

Giáo sư Hồ Đắc Di, đương chức giám đốc Nha Đại học vụ, được cử làm trưởng ban tiếp quản toàn ngành đại học đồng thời trực tiếp tiếp quản cơ sở, tài sản và nhân viên trường Y Dược của Pháp để lại. Theo hiệp định, công chức ở vùng tạm chiếm được tuỳ ý ở lại với chính quyền mới hay di cư theo chính quyền thân Pháp vào miền Nam. Ta vận động họ ở lại, tốt hơn nữa là họ đấu tranh với Pháp không cho phá hoại tài sản, máy móc hoặc di chuyển những thứ đó vào miền Nam. Tuy nhiên sự tuyên truyền chỉ tác động chủ yếu đến một số viên chức cấp thấp. Còn những công chức cấp cao (bác sĩ, dược sĩ) nếu trốn ra vùng giải phóng trước khi ta tiếp quản Hà Nội phải là những người có quyết tâm cao ở lại miền Bắc.

Cùng giáo sư Hồ Đắc Di tiếp quản trường Y-Dược có bác sĩ Đặng Văn Ngữ, với các sinh viên phụ tá là Đinh Văn Chí, Nguyễn Văn Phan. Nhiệm vụ đã được hoàn thành tốt đẹp. Các cơ sở liên quan mật thiết với trường (như các bệnh viện Bạch Mai, Phủ Doãn, Mắt, viện Vi Trùng...) cũng được những đoàn do các thầy trường ta tiếp quản một cách suôn sẻ (đó là các vị Trần Hữu Tước, Tôn Thất Tùng, Nguyễn Xuân Nguyên và Hoàng Tích Mịnh).

Trong số 9 giáo sư và 13 giảng viên người Pháp của trường Y Dược vùng tạm chiếm, chỉ có hai giáo sư Huard và Blondel nấn ná ở lại nhằm duy trì một số quan hệ sau khi Pháp rút và sau một thời gian ngắn sau cũng đi nốt. Những giáo sư này đã trên 25 năm làm việc ở đây. Trong tổng số 33 viên chức người Việt có bằng đại học (có 4 thạc sĩ, bằng cao cấp nhất của ngành Y nước Pháp) thì chỉ có 2 giáo sư thạc sĩ ở lại với chế độ ta là Vũ Công Hòe và Đặng Văn Chung - hai ông đã lánh ra vùng tự do từ trước khi ta vào tiếp quản Hà Nội - và 4 người khác là bác sĩ Trịnh Ngọc Phan, 2 dược sĩ Vũ Văn Chuyên, Nguyễn Đức Trang và nha sĩ Dương Thị Hiền (tỷ lệ ở lại 6/33=18%). Số nhân viên ở lại là 48 trong tổng số 66 viên chức của trường đại học Y Dược trong Hà Nội tạm chiếm (48/66=72%).

Với kết quả vang dội của chiến thắng Điện biên phủ, chế độ thực dân cũ và gắn với nó là hệ thống thuộc địa có nguy cơ tan rã trước phong trào cách mạng dân tộc đang dâng cao. Cuộc chiến tranh lạnh giữa 2 phe Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa do vậy rất căng thẳng, đe doạ nổ ra chiến tranh nóng toàn cầu. Vấn đề “ai thắng ai” luôn luôn được Đảng đặt ra. Sự mâu thuẫn trong phong trào Cộng sản quốc tế giữa hai xu hướng “hữu khuynh” và “tả khuynh” có lúc rất căng thẳng, với 2 đại diện là Liên Xô và Trung Quốc, gây những suy nghĩ phân tán và không lợi trong giới trí thức và văn nghệ sĩ nước ta. Tại Mascơva, 81 đảng Cộng sản đã họp tại để củng cố phong trào và ra được hai văn kiện chung, lấy đó làm cơ sở để vãn hồi đoàn kết. Trong nước, sai lầm tả khuynh trong cải cách ruộng đất được công khai thừa nhận và đang tiến hành sửa sai. Một số trí thức dao động. Đúng lúc này, một nhóm nhỏ văn nghệ sĩ đòi được tự do tư tưởng, tự do sáng tác, chống quan liêu độc đoán... hoàn toàn không phù hợp với hướng lãnh đạo tư tưởng của Đảng khi đó. Diễn đàn của nhóm văn nghệ sĩ này là tờ báo Nhân Văn, các tác phẩm Đất Mới và Giai Phẩm mùa xuân - được sinh viên các trường tò mò tìm đọc. Trước nguy cơ kẻ thù mưu đồ gây rối nhằm lật đổ chế độ, Đảng ta tiến hành các biện pháp để ổn định tình hình các trường đại học; sau dó dùng lao động trong nông nghiệp và công nghiệp và chỉnh huấn để giáo dục sinh viên và các thầy. Ngoài xã hội, Đảng tiến hành cải tạo để tiến tới xoá bỏ giai cấp tư sản (sau khi đã xoá bỏ giai cấp địa chủ bằng cải cách ruộng đất). Như vậy, các giai cấp bóc lột ở miền Bắc đã bị thủ tiêu, chỉ còn lại ba giai cấp: Công, Nông và Tiểu tư sản.

Tại các cơ sở khác mà trường có sinh viên thực tập tình hình cũng vậy, số bác sĩ và dược sĩ ở lại không nhiều (ở bệnh viện Bạch Mai là 8/18=44% tổng số bác sĩ; ở bệnh viện Phủ Doãn là 3/11=27% bác sĩ; và ở Viện Mắt là 2/5=40% bác sĩ). Nhưng nhân viên thì ở lại nhiều hơn rõ rệt (60-75%), chẳng hạn ở bệnh viện Bạch Mai, số nhân viên ở lại là 226/331=68% tổng số nhân viên.

Đến cuối tháng 12.1954, số viên chức cũ làm việc ở trường ta thống kê được là 83 người. Theo chính sách, họ được giữ “nguyên chức, nguyên lương”. Trong số này có một số y tá ở Viện Quân Y Võ Tánh (gồm hai địa điểm nay là đại sứ quán Cộng hòa Liên bang Nga [Nội khoa] và Viện Phụ Sản trung ương [Ngoại khoa]) chuyển sang; ngoài ra còn 24 người từ các nơi khác. Họ được gọi là viên chức "lưu dụng" (nghĩa là giữ lại để dùng) để phân biệt với viên chức "kháng chiến". Một số do quyết tâm ở lại với chế độ mới đã trốn ra vùng tự do trước khi ta vào tiếp quản. Có người tham gia đấu tranh giữ lại tài sản, máy móc, không cho địch mang đi (ông Nguyễn Trí Đức) hoặc đem được một xe ô tô ra vùng kháng chiến (ông Đỗ Hữu Thuyết, lái xe).

Viên chức lưu dụng đều được học chính sách: đó là không bị phân biệt đối xử, lương cũ của họ được chuyển đổi từ đồng Đông Dương của Pháp sang đồng Ngân hàng của ta theo tỷ giá 1/30 và sẽ được duy trì đến khi vê hưu. Họ được giải thích là sẽ nâng lương cán bộ kháng chiến lên ngang với lương của họ, chớ không hạ lương của họ xuống mức lương các cán bộ kháng chiến. Vì vậy, lương bác sĩ Vũ Công Hòe là 784.670đ, bác sĩ Đặng Văn Chung là 759.170đ, bác sĩ Trương Cam Cống 407.900đ, bác sĩ Trịnh Ngọc Phan 275.640đ, trưởng phòng Nguyễn Trí Đức 291.650đ, lái xe Đỗ Hữu Thuyết 186.670đ, v.v... Y tá, dược tá “lưu dụng” được lĩnh từ 150.000 đến 200.000đ, nhân viên 100.000 - 150.000đ. Giá gạo lúc đó khoảng 400đ/kg ở thị trường tự do. Trong khi đó lương của hiệu trưởng Hồ Đắc Di (viên chức kháng chiến) chỉ có 72.000 đồng.

Từ Chiêm Hóa và Lang Quán, hầu hết viên chức trường Y Dược kháng chiến đã lên đường về Hà Nội từ 21.10.1954 theo nhiều hướng và có mặt ở Thủ đô ngày 27.10, chia làm các bộ phận: về bệnh viện Phủ Doãn, về trường và đi nơi khác. Đến cuối tháng 12 năm đó, số viên chức kháng chiến có mặt tại trường là 47 người.

Việc tiếp quản cơ sở vật chất và trang, thiết bị diễn ra thuận lợi với sự cộng tác của các ông Nguyễn Trí Đức, Đỗ Hữu Thuyết và một số khác. Tài sản được kê biên khá đầy đủ với giá trị khác “một trời, một vực” tài sản ở Chiêm Hóa. Tuy nhiên, cũng thấy rõ: trang, thiết bị cho giảng dạy, nghiên cứu khá sơ sài để có thể nói là của một trường đại học. Thậm chí cả mấy chiếc xe đạp cũng được coi là tài sản quý, có ghi đầy đủ số khung, số biển và nhãn hiệu xe... ở trong sổ. Tổng số sách đếm được ở thư viện là 5.500 cuốn.

Số sinh viên ở lại miền Bắc không nhiều, với trường Y Dược cũng như mọi trường khác. Theo ước tính, chỉ còn độ 1/3. Các trường nhận được chỉ thị phải tuyển sinh và khai giảng càng sớm càng tốt, không muộn hơn 15.11.1954 nhằm thu hút sinh viên ở lại miền bắc.

Làn sóng di cư vẫn tiếp tục diễn ra (theo Hiệp định Genève, Pháp sẽ rút khỏi Hà Nội sau 80 ngày và Hải Phòng sau 300 ngày kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Đây là thời gian di cư tự do). Nhiều sinh viên tiếp tục bỏ Hà Nội vào miền Nam do lo sợ cuộc sống mới có nhiều khó khăn, ít điều kiện vươn lên.

Tổng số sinh viên ghi tên vào các trường đại học cả cũ (từ năm thứ hai trở lên) lẫn mới (tức là xin vào học năm thứ nhất) là trên 1.000, nhưng được ước đoán là 600-700, vì có nhiều người ghi tên vào 2-3 trường.

Một số ít đi ca nô đến bến Phà Đen. Lợi dụng mùa nước cạn, một số đã đóng mảng, thả trôi theo sông Lô, sông Hồng đến chân cầu Long Biên thì lên bộ. Một số khác đi bộ về Phú Thọ, Trung Hà rồi đi ô tô bus qua Sơn Tây về Hà Nội (lúc này các chủ hãng ô tô ở Hà Nội đã mở rộng kinh doanh ra vùng tự do cũ). Bộ phận bệnh viện thực hành của bác sĩ Tôn Thất Tùng chủ yếu về bệnh viện Phủ Doãn; Viện nghiên cứu của bác sĩ Đặng Văn Ngữ về bộ môn Ký sinh trùng, viện Vi trùng học và một số nơi khác; số còn lại về trường. Một số đang làm công tác Cải cách ruộng đất thì chưa về trường.
Nhiều người công tác ở trường từ thời Chiêm Hóa cho đến khi về hưu tại Hà Nội. Khi trường kỷ niệm 50 năm phục vụ cách mạng thì hầu hết số này đã về hưu hoặc đã quá cố. Có thể kể ra đây một số tên rất quen thuộc: ông Đỗ Đình Thành (với tên gọi thân mật là ông Thành thiếc), bà Đỗ Thị Vượng (vợ ông Thành), ông Lê Văn Lợi, ông Ngụy Như Kontum Em (thường gọi là ông Hai), v.v...
Về đãi ngộ, viên chức kháng chiến có bước cải thiện rất lớn so với hồi ở Chiêm hoá, nhưng còn kém xa viên chức lưu dụng. Hiệu trưởng trong kháng chiến lĩnh 60kg gạo, nay lĩnh 72.000đ (tương đương 180kg gạo), tạp vụ từ 36kg gạo hồi kháng chiến, nay lĩnh 33.000đ (tương đương 82 kg gạo). Nếu ăn tập thể với khẩu phần khoảng 2.000 calo/ngày phải đóng số tiền là 18.000đ (300 đồng/bữa). Một thống kê 6 tháng đầu năm 1955 cho thấy: lương trung bình của viên chức lưu dụng là 119.560đ, còn của viên chức kháng chiến là 39.420đ (trung bình chênh lệch nhau 3 lần, nhưng ở bậc lương giáo sư thì chênh lệch nhau tới 10 lần).

Có 69 người xin học trường Luật nhưng trường này không mở (hơn 30 năm sau mới được mở lại). Lúc này, ta có 4 trường đại học thì Sư Phạm tuyển sinh sớm nhất (2.11.54), rồi đến Văn Khoa (8.11) và Khoa học (15.11). Có tới trên 300 học sinh Hà Nội và vùng tự do xin thi vào ban Sinh-Lý-Hóa của trường Đại học Khoa học để sau 1 năm sẽ dự thi lấy chứng chỉ - điều kiện phải có để xin vào học Y khoa.

Việc mà trường Y Dược phải khẩn trương thực hiện là sắp xếp và ổn định tổ chức để guồng máy có thể khởi động. Công việc phải làm ngay là: 1) tuyển sinh vào Y1 và vào lớp tập sự Dược; 2) gọi sinh viên các lớp cũ (Y2-Y5 và D1-D4) nhập học; 3) tập hợp đội ngũ thầy, cho tới lúc đó chỉ mới có 6 người, rồi sau lên 10 người... Số sinh viên vùng tạm chiếm và vùng kháng chiến khoảng 500, gồm tới 14 đối tượng khác nhau, không thể học chung.

Ngày 12.11.1954, bác sĩ Hồ Đắc Di (với tư cách giám đốc vụ Dại học và trưởng ban tiếp quản ngành đại học) gửi một số đề xuất và câu hỏi lên Bộ Giáo Dục, vì ông không rõ mình có còn phụ trách “đại học vụ” nữa hay không (!), đồng thời đề xuất việc thành lập Viện đại học. Đến ngày 20 có công văn trả lời: 1) Việc lập một Viện Đại học Việt Nam thì Bộ còn nghiên cứu; 2) ủy ban tiếp quản đại học xem như đã giải thể, ủy viên phụ trách trường nào cứ điều hành trường đó trong khi chờ đợi được bổ nhiệm chính thức; 3) Bộ nào quản lý trường chuyên ngành đó (nghĩa là trường Y Dược từ 1945 thuộc Bộ Giáo Dục, nay về Bộ Y Tế).
Sau đó, mọi việc ngã ngũ: sẽ không có Viện Đại học (và bắt đầu quá trình xé lẻ hệ thống đại học), bác sĩ Hồ Đắc Di vẫn kiêm nhiệm một chức vụ hành chính: giám đốc Đại học Vụ (sau đổi thành Vụ trưởng Vụ Đại học và Trung học chuyên nghiệp).

Ngày 28.1.1955, bộ trưởng Bộ Y Tế bổ nhiệm Ban Giám Hiệu trường Y Dược gồm 3 người: bác sĩ Hồ Đắc Di (giám đốc), bác sĩ Đặng Văn Chung và bác sĩ dược khoa Trương Công Quyền (phó giám đốc). Trường thay con dấu: đường kính 3,6 cm (thay vì 3,4 cm), có hàng chữ Bộ Y Tế ở vành ngoài (thay vì Bộ Giáo Dục) và ở giữa là trường Đại học Y Dược khoa (thay vì trường Đại học Y khoa).

Khai giảng các lớp cũ ở nội thành. Tuyển sinh. Gọi các lớp ở vùng kháng chiến về học.

Đến 15.11 trường vẫn chưa thể tuyển sinh (theo chỉ thị của bộ Giáo Dục) vì dự tuyển vào Y1 là 150 nhưng chỉ có 77 người ghi tên.

Dẫu sao, đến ngày đó trường cũng làm lễ khai giảng cho các lớp từ Y2 đến Y5 và từ Dược 1 đến Dược 4 đúng hạn định. Đó là ngày mà đúng 9 năm trước (15.11.1945), trường khai giảng năm học đầu tiên dưới chính thể mới. Số sinh viên Y vùng tạm chiếm còn ở lại là 59, còn sinh viên Dược là 39 người (chia thành 7 lớp).

Lớp Y2 ở lại 31 người (Trịnh Văn Minh, Vũ Văn Đính, Nguyễn Đình Kim..., có người hoạt động kháng chiến nội thành như Dương Thị Cương, Nguyễn Hữu Hồng...), lớp Y3 còn ở lại 13 người (Trần Phi Liệt, Bùi Trọng Hoàn, Bùi Mẫn Học...). Lớp Y4 cũng còn 13 người (Phạm Quốc Cầm, Nguyễn Thị Thế...) và Y5 là một cặp vợ chồng (Trần Văn Sáng, Nguyễn Thị Trúc). Không có Y6. Các lớp từ Dựoc 1 đến Dược 4 còn 39 người, có 13 nữ. Sinh viên còn tiếp tục di cư vào Nam, ví dụ các lớp Dược đến cuối năm học chỉ còn 32 người.
Trường ta còn tiếp quản 2 lớp nữ hộ sinh, khóa sơ cấp 3 năm; lớp năm thứ 2 có 11 người (cuối năm học còn 4), lớp năm thứ 3 có 4 người cuối năm học đều tốt nghiệp ra trường với trình độ tay nghề rất cao.

Trong ngày khai giảng, còn có mặt các lớp học sinh y sĩ trung cấp - trước đây học ở Thanh Hóa, được sáp nhập vào trường này ở Lang Quán trước ngày giải phóng Thủ đô, gồm lớp y sĩ khóa V (tức là đang học năm thứ 2) và khóa VI (năm thứ nhất). Lớp khóa V về tới Hà Nội tháng 1.1955. Họ chỉ học vài tháng tại Hà Nội, sau đó, do thiếu chỗ ở, thiếu thầy dạy, thiếu giảng đường và nơi thực tập, nên cách giải quyết tốt nhất là cử họ đi công tác để đến tháng 6.1955 mới về trường từng bộ phận, học tiếp và thi tốt nghiệp: 43 người ra trường đợt I, 15 người học tiếp để thi đợt II và 37 người còn chờ đợi được về Hà Nội học để thi đợt III. Còn lớp Y sĩ khóa VI vừa tuyển tháng 9.1954 tại Thanh Hoá; đến tháng 2.1955 mới khai giảng tại Hà Nội, có 129 người (19 nữ). Điều kiện học tập rất thiếu thốn, chương trình chắp vá, học ghép, đến năm sau việc học của họ mới thuận lợi hơn.

Đây là đối tượng mà trường Y Dược buộc phải tiếp nhận. Một số học sinh y sĩ bỏ lớp, xin thi vào Y1 và tốt nghiệp bác sĩ năm 1962 (Đinh Văn Tài, Hà Huy Khôi, Nguyễn Việt Cồ...), lẽ ra nếu học đại học từ đầu thì họ tốt nghiệp năm 1960 (tuy nhiên, sau này họ đều thành đạt về sự nghiệp). Dẫu sao số phận các lớp Y này vẫn hơn số phận lớp Dược 2 (cũng trung cấp, cũng bị ghép vào trường này): tới tháng 5.1955 mới được gọi về trường (khi năm học đã kết thúc). Họ học thêm một học kỳ rồi thi tốt nghiệp.

Ngày khai giảng không có mặt các sinh viên kháng chiến lớp trên (vào trường từ 1945 đến 1950), vì họ đang đảm nhiệm nhiều chức vụ ở các đơn vị quân y và dân y. Họ lần lượt được gọi về trường vào các thời điểm khác nhau trong năm 1955-1956 hoặc muộn hơn. Số sinh viên quá niên hạn tốt nghiệp được ưu tiên về sớm để bổ túc, chuẩn bị luận án và thi tốt nghiệp. Thời gian dành để bổ túc các môn cũ và học thêm các môn mới dài hay ngắn tùy theo năm họ vào trường. Nói chung, đa số họ học các môn cơ sở mà hồi kháng chiến họ mới chỉ được học sơ sài, và học các môn chuyên khoa (ở lâm sàng).

Mọi người thấy hình ảnh những sinh viên mặc quân phục vào học. Buổi sáng, ở bệnh viện, họ khám bệnh và điều trị cùng với lớp với sinh viên Y4, Y5 “nội thành”. Buổi chiều, ở giảng đường, họ ngồi lẫn với sinh viên Y1, Y2 (tuổi như em họ) để học lại về Giải Phẫu, Sinh lý, Giải phẫu bệnh, Sinh lý bệnh.... Nhiều kỳ thi tốt nghiệp và bảo vệ luận án đã được tổ chức trong năm học này cho những sinh viên vào trường từ 1948 về trước (có người vào trường từ trước 1945: Trương Công Trung). Lần đầu tiên và có lẽ là lần cuối cùng, trường ta có sinh viên Y7 - Y11 và D7 - D9.

Tuyển sinh vào lớp Y1 không thể làm đúng thời gian qui định như chỉ thị đã nêu. Cuối cùng, lớp này vào trường tháng 1.1955 gồm 3 đối tượng:
1) sinh viên vùng tạm chiếm cũ (đã có chứng chỉ PCB);
2) cán bộ và bộ đội được cơ quan cho đi học, hưởng lương;
3) học sinh miền Nam tập kết ra Bắc (theo Hiệp định Genève). Cả thảy 116 người, đều không phải thi tuyển.

Theo qui chế hồi đó, chỉ những sinh viên có chứng chỉ Sinh-Lý-Hóa ( PCB ) do trường Đại học Khoa học cấp mới được vào Y1 để khỏi phải học lại những môn này. Những sinh viên này có Lê Thành Uyên, Nguyễn Vượng, Nguyễn Khắc Liêu, Đào Văn Chinh, Nguyễn Văn Thành...v.v. Trường cũng tuyển cả một số cán bộ, bộ đội như Nguyễn Cước, Trần Ngọc Can, Bùi Nghĩa, Lê Điềm..., và cuối cùng là một số học sinh miền Nam tập kết: Phan Thị Phi Phi, Nguyễn Thị Xiêm... (đều được miễn chứng chỉ PCB). Tháng 6.1955, lớp này thi lên Y2, chỉ còn lại 97 người. Giáo sư Hồ Đắc Di phàn nàn rằng các thầy chấm thi đã quá “nới tay”. Khi thi ra trường (tháng 1.1960) lớp này còn gần 90 người.
Lớp tập sự Dược có 200 đơn xin, đều được nhận cả, trong đó có một số cán bộ và bộ đội. Đây là con số chưa từng có với khoa Dược vì nó gấp hàng chục lần những năm trước (cả ở vùng kháng chiến và ở vùng tạm chiếm).
Thật ra, số tốt nghiệp trung học thời đó không nhiều đến thế. Lợi dụng việc cơ quan giáo dục trong vùng tạm chiếm đã chuyển vào Nam, nhiều học sinh Hà Nội đã làm bằng giả để xin học, sau đó đã bị phát hiện và đuổi học, trường còn tuyển được 104 có bằng cấp hợp lệ. Theo chương trình từ thời Pháp, họ chỉ học vài ba môn ở trường, còn lại thì “tập sự” ở các phòng bào chế, hiệu thuốc để quen pha chế. Lớp này bỏ học, thi rớt rất nhiều, cuối cùng chỉ còn 61 người thi được lên năm thứ nhất (gọi là D1), có 16 nữ. Đến năm D4, số tốt nghiệp ra trường còn giảm nữa. Theo chương trình từ thời Pháp thuộc, năm “tập sự Dược” là năm để sinh viên tập làm quen với kỹ thuật dược (như tên gọi của nó). Lúc này (1955), sinh viên quá đông, các cơ sở Dược chưa phục hồi mà còn bị thu hẹp, các hiệu thuốc tư không còn sản xuất và bào chế mà chỉ thuần túy buôn bán thuốc tây, do vậy kết quả “tập sự” tỏ ra rất thấp. Mặt khác trường khó quản lý sinh viên. Cũng do vậy, từ năm sau trường bỏ lớp này mà tuyển thẳng sinh viên vào D1, nên lớp cao nhất của khoa Dược lẽ ra là D4 thì từ nay sẽ là D5 (dù vẫn học 5 năm như trước).
Cùng thời gian này, số thi vào lớp Sinh-Lý-Hóa (thuộc đại học Khoa Học) - để chuẩn bị vào Y - cũng lên tới trên 300 nhưng do nhiều nguyên nhân, sau một năm số xin vào học Y chỉ khoảng một nửa.

Cuối năm học, sinh viên chính qui Y và Dược giảm 84 người vì nhiều lý do: khó khăn kinh tế, sang trường khác, bị đuổi học; còn số di cư vào Nam chỉ 15 người. Nói chung, sinh viên Y1 thuộc thành phần nghèo, có lòng yêu nước và in tưởng vào chế độ mới. Những người không có tiêu chuẩn được đãi ngộ (như cán bộ, bộ đội và học sinh miền nam tập kết ra bắc) thì đều xin học bổng và có tới 57/62 đơn xin đã được đáp ứng. Mức học bổng toàn phần là 22.000đ, dưới đó là các mức 3/4, 1/2 và 1/3.

Mức ăn tập thể của sinh viên là 16.000 đ/tháng, nếu được học bổng toàn phần thì còn lại 6.000 đồng, tạm đủ tiêu vặt. Quà sáng chỉ cần một trăm đồng là có thể ăn xôi, bánh mì hay cháo sườn. Nhiều sinh viên nghèo kiếm thêm bằng đưa báo, kèm trẻ tư gia, làm thư ký...

Thi tốt nghiệp và bảo vệ luận văn

Trong kháng chiến chống Pháp, một số sinh viên đủ niên hạn và có hoàn cảnh thuận lợi hơn bạn bè cùng lớp đã về trường thi tốt nghiệp. Năm 1954 cũng có hai kỳ thi và có 16 người tốt nghiệp, nhưng tất cả đều "nợ" luận án do khó khăn về in ấn.

In ấn quả là khó khăn không thể vượt qua trong kháng chiến chống Pháp. Vô số tài liệu cấp Nhà Nước còn phải in bằng kỹ thuật rất thô sơ, nom rất xấu. Tuy vậy, mọi người cũng chưa quan niệm đầy đủ những khó khăn về đề tài, nội dung luận án, phương pháp và kỹ thuật tiến hành; và cuối cùng là vấn đề sao đủ thầy để hướng dẫn luận án tiến sĩ cho mấy trăm sinh viên cùng một lúc?. Tuy nhiên, theo quan niệm và qui định hồi đó, các trường đại học khác học 3-4 năm lúc thi ra không cần luận án và có học vị cử nhân. Riêng trường Y phải học 7 năm, kể cả năm học P.C.B. (Sinh-Lý-Hóa), thi ra phải có luận án và học vị được gọi là bác sĩ (docteur = tiến sĩ). Do vậy, các thầy trường Y luôn luôn tâm niệm và coi luận án là điều bắt buộc đối với sinh viên Y để đảm bảo danh hiệu đào tạo. Các năm 1955 và 1956, giáo sư hướng dẫn luận án nhiều nhất cho sinh viên kháng chiến là thầy Tùng và thầy Chung. Số luận án đã bảo vệ ngay trong năm 1955 đã tới con số 66. Do vậy không tránh khỏi một số luận án sơ sài, bên cạnh những luận án được đánh giá “xuất sắc” và thậm chí “rất xuất sắc”. Về sau, chính các thầy cũng bị quá tải và đành cho sinh viên thi tốt nghiệp không cần luận án. Lúc này, xu hướng thế giới cũng bỏ luận án vào năm thứ 6 Y khoa (mà thực hiện vào năm thứ 8 hay thứ 9 của chương trình học)

Từ năm 1945 đến năm 1952 có 7 khóa vào trường (khóa 1951 và 1953 không tuyển) với 237 sinh viên. Đã tốt nghiệp, hi sinh, bị địch bắt... là 30 người, còn lại 207 người thì có 66 đã thi và bảo vệ luận án trong năm 1955. Đa số bảo vệ năm 1956. Còn khóa 1952 thi tốt nghiệp vào các năm 1958 và 1959, không luận án, cũng không bị kéo dài khoá học.

Đợt đầu tiên thi tốt nghiệp của năm học này được tổ chức từ 31.1.1955 đến 15.3.1955 gồm 3 kỳ cho 20, 16 và 21 sinh viên (vào trường từ 1948 trở về trước, có người từ trước 1945). Kết quả: 3 người đạt mức "rất xuất sắc" (Trương Công Trung, Trần Lưu Khôi, Nguyễn Văn Nhân), 20 người “xuất sắc” (Nguyễn Huy Phan, Phạm Văn Phúc, Lê Văn Lợi, Trịnh Kim ảnh, Vũ Trọng Kính, Nguyễn Bửu Triều, Vi Huyền Trác...), 13 người hạng ưu (Vũ Triệu An, Bùi Đại, Phạm Thụy Liên, Đỗ Dương Thái...) v.v... Ngày 6.7.1955 có 4 luận án thuộc khóa vào trường năm 1949 đều xuất sắc (Trịnh Bỉnh Di, Hoàng Thủy Nguyên, Đặng Đức Trạch, Nguyễn Văn Phan) và 8 ngày sau thì 5 sinh viên khóa 1948 thi (Hoàng Kỷ, Nguyễn Xuân Huyên, Ngô Văn Quỹ...). Con số 66 người đạt danh hiệu bác sĩ y khoa năm 1955 rất có ý nghĩa trong bối cảnh lúc đó. Nó tương đương với tổng số bác sĩ mà ta có trong tay khi bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhớ rằng, năm 1955, hầu hết các tỉnh chưa có bác sĩ, thậm chí nhiều khu cũng không có bác sĩ.

Một thống kê năm 1955 của Bộ Y Tế cho thấy: cả khu Việt Bắc gồm 6 tỉnh chỉ có 1 bác sĩ (và chỉ dám xin bộ Y tế bổ sung thêm 1), khu Tây Bắc có 1 (xin thêm 1), khu Tả Ngạn không còn bác sĩ nào (xin 5), khu III hiện có 2 bác sĩ (xin 5) và cuối cùng là khu IV có 2 (xin thêm 1). Y tế Thủ đô chỉ có 3 bác sĩ và 3 y sĩ Đông Dương (được coi là đứng đầu cả nước về số lượng cán bộ y dược cao cấp). Các tỉnh chỉ có y sĩ Đông Dương, thậm chí phải lấy cả y sĩ trung cấp làm trưởng ty Y tế (hồi đó chưa gọi là “sở y tế “ như bây giờ). Hội nghị lãnh đạo Bộ (1955) nhận định: số cán bộ cao cấp của ngành đã gấp đôi so với năm 1949. Đó là công sức của các thầy trường này, trước hết là công thầy Di và thầy Tùng.

Nhiều khoá, có người tốt nghiệp sớm hơn bạn cùng khoá tới 5 năm, do có hoàn cảnh thi sớm ngay từ hồi kháng chiến; người khác thì tới 1956 hay 1957 mới có điều kiện về thi. Điều thú vị là trường ta đã thực thi trách nhiệm công nhận tốt nghiệp đúng niên hạn cho tất cả các sinh viên do nhiệm vụ kháng chiến mà phải thi rất muộn.

Ví dụ, công nhận tốt nghiệp kể từ 1.9.1951 cho 5 bác sĩ thuộc khóa vào trường năm 1945, (Nguyễn Cận, Vũ Đình Tuân, Phạm Văn Phúc, Trịnh Kim ảnh...), mặc dù thực tế đến năm 1955 họ mới thi ra; công nhận một số sinh viên khóa 1946 tốt nghiệp kể từ 1952, khóa 1948 tốt nghiệp kể từ 1954 (Hoàng Kỷ) và khóa 1949 tốt nghiệp kể từ 1955 (Nguyễn Đình Hường, Đỗ Quang...). Từ khóa 1950 (Vũ Thị Phan, Trần Đỗ Trinh, Trịnh Thị Mão...) thì thi tốt nghiệp tương đối đúng niên hạn, hoặc ít bị muộn.

Năm học 1954-1955 còn có 18 sinh viên Dược và 6 Dược sĩ Đông Dương thi tốt nghiệp, cũng phải lập các hội đồng chấm thi, cũng chia ra các loại xuất sắc, ưu, thường (Lê Quang Toàn, Nguyễn Hưng Phúc, Đàm Trung Bảo, rồi đến Hà Như Phú... và Lê Đức Trình, Hoàng Tích Huyền...). Điều đặc biệt là các vị y sĩ Đông Dương cũng thi để lấy bằng bác sĩ. Đây là những vị đã cao tuổi, rất giỏi tiếng Pháp (vì học bằng tiếng Pháp từ thời Pháp thuộc), có nhiều kinh nghiệm chuyên môn, đã và đang đảm nhiệm các cương vị cao trong ngành. Khóa ra trường cuối cùng của họ là năm 1936 (sau 4 năm học ở trường Y Dược Đông Dương). Trong kháng chiến, mặc nhiên họ được gọi là bác sĩ, nhưng để chính thức có bằng cấp thì tất cả 41 vị đều phải qua kỳ thi. Luận án của họ đa số là "rất xuất sắc", còn bài thi tốt nghiệp được các thầy đánh giá cao.

Ngày 6 và 9.6.1955 có 10 y sĩ Đông Dương thi lên bác sĩ: Hoàng Sử (lúc đó đang là chủ nhiệm bộ môn Y-Vật lý), Nguyễn Đức Khởi (khi đó đang là Giám đốc sở Y Tế Hà Nội), Ngô Đâng Ngạnh (Chánh Văn phòng Bộ), Nguyễn Hữu Giới, Vũ Trọng Từ... Ngày 29.7.1955 có 21 người thi: Lê Văn Cơ (58 tuổi, y sĩ năm 1924), Trịnh Đình Cung (50 tuổi, y sĩ năm 1930, từng là Giám đốc Y tế Bắc Bộ), Hoàng Lẫm (50 tuổi, y sĩ 1930, đang là Giám đốc Y tế khu Việt Bắc), Nguyễn Kính Chi (57 tuổi, y sĩ năm 1922, đang Thứ trưởng Bộ Y Tế), Bạch Như ấp (50 tuổi, y sĩ năm 1930, đang trưởng Ty Y tế Phú Thọ).... và trẻ nhất là ông Vũ Tiến Thọ (45 tuổi, y sĩ khóa cuối, 1936)...

Thời Pháp thuộc, còn có chức danh "y sĩ xã hội" do một trường ở Sài Gòn đào tạo. Ngày 7 và 9.6.1955 có 10 người thi lên bác sĩ. Các y sĩ xã hội còn lẻ tẻ thi nhiều năm sau, khi hoàn cảnh cho phép.

Ví dụ, năm 1955 có các ông Huỳnh Viết Cường, Tô Như Khuê, Nguyễn Sỹ Lâm (tức Y-Tlam), Trịnh Phúc Nguyên..., thi lên bác sĩ. Những năm sau có các ông Phạm Duy Thoan, Đỗ Bạt Tụy (1959, thi chuyên khoa X quang, trước 1975 là phó chủ nhiệm bộ môn X quang của trường), Y-ngông Niekdam (1962, thi chuyên khoa Chấn thương), v.v... Trường không có chuyên khoa “Xã Hội”, do vậy, các y sĩ xã hội đã bỏ chuyên khoa cũ, thi lên bác sĩ bằng một chuyên khoa mới.

Chương trình. Tình hình học tập

Chương trình cho các đối tượng học sinh sơ cấp, trung cấp, mà trường tạm thời còn phải đảm nhiệm, rõ ràng là một chương trình đối phó, không đầy đủ, mặc dù có sự cố gắng cao độ của cả thầy và trò. Chất lượng được đâu hay đó. Thời gian để đào tạo một khoá y sỹ chỉ có 2 năm; vậy mà cuối 1954 và nửa năm 1955 phải di chuyển nhiều, thiếu thốn đủ thứ. Điều may là học sinh y sỹ tuyển vào trường hồi đó đều có trình độ văn hoá tương đối vững, ít nhiều đã đọc được sách tiếng Pháp ngay từ khi học trung học. Do vậy họ có thể nỗ lực tự học để bổ khuyết, kể cả sau khi ra trường.

Các sinh viên kháng chiến được học bổ túc nhiều môn mà trong hoàn cảnh chiến tranh họ chưa được học hoặc học sơ sài. Nói chung, họ rất biết cần học gì và dành nhiều công sức cho các môn cơ sở và các môn chuyên khoa lâm sàng mà họ muốn theo đuổi lâu dài. Thực tế, trong kháng chiến họ học ngoại khoa chấn thương là chủ yếu.

Các lớp chính quy vẫn học theo chương trình của Pháp, nhất là các lớp từ Y3 trở lên vì đã đi được nửa đoạn đường. Tâm niệm của các nhà soạn thảo chương trình lúc đó là muốn có một chương trình thật hệ thống, đầy đủ, có chất lượng cao và phù hợp với Việt Nam (sau thời gian suốt 8 năm phải thực hiện “chương trình thời chiến”, thiếu thốn mọi điều kiện).

Chương trình thực thi của trường Y Dược ở Hà Nội tạm chiếm vẫn là "chương trình Pháp", nhưng được áp dụng khá tùy tiện, ở chỗ các môn cơ sở được dạy rất sơ sài, trừ môn Giải Phẫu lại kỹ quá mức cần thiết. Y học dự phòng hoàn toàn bị xem nhẹ. Những điều đó, giáo sư Hồ Đắc Di đã nhiều lần nhận xét và trăn trở. Trong hoàn cảnh bề bộn công việc của năm học đầu, thiếu thầy, thiếu giảng đường nghiêm trọng (có tổ, được thầy giảng ở ...vườn hoa Pasteur, trước Viện giải phẫu) thì việc để cho lớp Y1 và Y2 (mà năm học chỉ dài 6 tháng) học theo chương trình nào là điều chưa cần vội giải quyết ngã ngũ. Thực tế họ đã được học mọi môn mà hầu hết các nước phải dạy cho những lớp vỡ lòng của đại học Y - dù đó là nước tư bản hay xã hội chủ nghĩa.

Điều đáng nói là môn Chính trị đã được dạy cho mọi lớp, từ Y1-Y5 và từ lớp tập sự Dược đến D4, tuy có hơi muộn. Tuy nhiên, đây là những bài giảng chung cho toàn khối đại học (nhiều trường), tiến hành ở đại giảng đường (phố Lê Thánh Tông). Sinh viên viên đến nghe giảng rất đông, vì muốn biết Chính Trị là gì; do vậy rất thiếu chỗ ngồi, phải đứng và thậm chí không chen vào nổi để nhìn thấy giảng viên. Chỉ sau vài buổi, họ thấy nội dung ít hấp dẫn, trình độ thầy bất cập, vì vậy môn này ít cuốn hút sinh viên. Về sau, một số buổi giảng rất đặc sắc của thầy Trần Văn Giàu đã mang lại hứng thú cho sinh viên khi học môn này.

Tuy nhiên, điều rõ ràng là khi đó chưa có một chương trình ổn định áp dụng cho môn này. Theo quan niệm, môn này có thể hoàn toàn thay cho môn Đạo đức Y học, thậm chí còn đem lại tác dụng cao hơn, sâu sắc hơn, toàn diện hơn, vì nó xác định lập trường giai cấp, quan điểm phục vụ công nông binh cho người thầy thuốc.

Lần đầu tiên, sinh viên vùng tạm chiếm được nghe giảng bằng tiếng Việt, thay vì tiếng Pháp. Lúc đầu có bỡ ngỡ vì những danh từ rất hay dùng như “hưng phấn”, “ức chế”, sau quen dần và rất hoan nghênh. Họ cũng có thói quen bỏ giờ giảng nếu thầy giảng không hay (theo phong thái dự lớp tự do của trường đại học cũ), vì họ có thể tham khảo sách Pháp ở thư viện. Phòng Giáo vụ đối phó bằng cách cử người đến lớp điểm danh nhưng ít có kết quả. Sinh viên vùng tạm chiếm cũng rất không quen học tổ, học nhóm (coi là mất thì giờ) dù được phòng Giáo vụ khuyến khích và hướng dẫn. Sau này, khi thành phần công nông vào trường với tỷ lệ rất cao và đảm nhiệm các cương vị nhóm trưởng, tổ trưởng thì việc học tổ, học nhóm mới rộng khắp.

Học nhóm là vài ba sinh viên học chung, giải đáp thắc mắc cho nhau, kiểm tra nhau xem đã hiểu và thuộc chưa. Bao giờ cũng sắp xếp để trong nhóm có người khá giỏi để hỗ trợ người kém. Học tổ là khoảng 10-20 người cùng thảo luận một vấn đề; tuy nhiên dần dần “học tổ” chỉ còn là sự nhắc lại bài, thậm chí cử một sinh viên học khá thuyết trình lại toàn bài để các bạn kém được nghe lần thứ hai, hy vọng sẽ nhập tâm nhiều hơn so với trực tiếp nghe thầy giảng ở lớp. Đó là nguyên nhân để một số sinh viên rất thích học tổ, học nhóm.

Sinh viên có quyền thi mỗi môn 2 lần, tỷ lệ không đạt ở lần 1 tới gần 50%, chủ yếu rơi vào các lớp dưới (năm thứ nhất và thứ 2, cả Y và Dược). Thầy Hồ Đắc Di vẫn phàn nàn là các thầy chấm quá dễ dãi: kỳ thứ nhất cứ phải chấm điểm đúng học lực; bây giờ hoà bình rồi, điều kiện học tập hơn hẳn trước đây... Nhưng sau này các thầy bị phê phán là thiếu lập trường giai cấp, vì số phải thi lại chủ yếu rơi vào thành phần cơ bản, đã được chiếu cố khi tuyển sinh nên các thầy lại phải chấm điểm hết sức “nới”.

Vài nét về tổ chức nhà trường năm 1955

Vẫn mang những nét lớn như khi trường ở Chiêm Hoá. Bộ phận giáo vụ (lúc gọi là ban, lúc gọi là phòng) do ông Vũ Văn Yến đứng đầu (gọi là chủ nhiệm - một chức danh có từ thời ở Chiêm Hóa). Chủ nhiệm giáo vụ lo việc sắp xếp, bố trí và quản lý về giảng dạy, kể cả in sách. Bộ phận hành chính cũng có một chủ nhiệm đứng đầu, lo mọi công việc còn lại, kể cả tài chính, nhân sự, quản trị. Tổ chức gọn nhẹ này thích hợp với trường có ít viên chức, việc điều hành chưa phức tạp.

Cuối năm học, bộ Y tế có thông tư qui định bộ máy của trường gồm có: 1) Giám đốc và hai cấp phó; 2) Ban giáo vụ (có 2 tiểu ban: tiểu ban đại học và tiểu ban trung cấp); 3) Ban hành chính-quản trị; 4) Các lớp Y và Dược. Như vậy, trong quan niệm của các vị lãnh đạo Bộ, trường ta không có khối các bộ môn, không có bệnh viện thực hành và các viện nghiên cứu thuộc trường.

Tuy nhiên, năm 1955 trường vẫn nhận được các bản báo cáo công tác của bệnh viện Mắt, Viện Vi trùng học... gửi về. Đó là các cơ sở xưa nay vẫn thuộc trường, có nhiệm vụ báo cáo công việc hàng tháng với hiệu trưởng. Nay các cơ quan đó vẫn quen nếp cũ mà không biết rằng Bộ đã cho phép họ tách khỏi trường và có vị thế ngang với trường. Còn Viện Giải phẫu không còn là viện thuộc trường nữa, chỉ còn là bộ môn nhưng mọi người vẫn quen gọi địa điểm này là "viện" cho đến tận bây giờ.

Theo mô hình đại học Y của Pháp, người đứng đầu bộ môn là giáo sư, nếu thiếu thì lấy giảng viên (phó giáo sư) tạm phụ trách. Một cán bộ giảng dạy được chọn ra giúp giáo sư tổ chức và quản lý việc dạy thực hành gọi là trưởng labô hoặc trưởng khoa lâm sàng (tùy theo đó là bộ môn cơ sở hay bộ môn lâm sàng).

Chẳng hạn, hồi 1955 giáo sư Đặng Văn Ngữ là chủ nhiệm bộ môn Sinh lý học, còn trưởng labô của ông là bác sĩ Trịnh Bỉnh Di; giáo sư Đặng Vũ Hỷ (Da Liễu) đã chỉ định trưởng khoa lâm sàng là bác sĩ Huỳnh Kham... Mô hình trên bị phá vỡ khi bệnh viện thực hành không còn thuộc trường, khi đó trường không có quyền bổ nhiệm các chức vụ trưởng khoa nữa. Sau này, khi chỉnh huấn và áp dụng chương trình Liên Xô thì mô hình này còn bị phê phán bằng những từ khá nặng nề, gay gắt...

Sinh viên học ở bệnh viện còn phải nhận những nhiệm vụ theo chức danh dành cho họ trong bậc thang điều trị: Y2 được gọi là sinh viên thực tập; Y3 là sinh viên thường trực; Y4 là sinh viên điều trị, còn Y5 nếu qua được kỳ thi tuyển thì gọi là sinh viên nội trú, có trợ cấp và có chỗ ở trong bệnh viện. Năm 1955 không kịp có kỳ thi tuyển chọn sinh viên nội trú mà phải tới 1958. Năm đó, nhiều sinh viên trúng tuyển: Phạm Song, Nguyễn Văn Đăng, Nguyễn Việt ... (khóa 1952, ở vùng kháng chiến về), Trịnh Văn Minh, Nguyễn Hữu Hồng, Dương Thị Cương, Vũ Văn Đính... (lớp Y5, trước đó học ở trường trong Hà Nội tạm chiếm). Năm sau, chế độ nội trú bị bãi bỏ và sau 30 năm mới được phục hồi.

Trường rất quan tâm việc sắp xếp đội ngũ thầy vào các chức danh, để bảo đảm kỷ cương, tránh tình trạng cá mè một lứa. Ngày 22.5.1955 trường có công văn chính thức đề nghị Bộ Y Tế công nhận các vị chủ nhiệm (hoặc phụ trách) của 17 bộ môn Y và 4 bộ môn Dược hiện có nhưng không được đáp ứng.

Xây dựng đội ngũ thầy.

Trong năm học, trường có nhiều bảng danh sách thầy với sự thay đổi, thêm, bớt, theo thời gian; chứng tỏ việc xây dựng đội ngũ thầy được tiến hành suốt năm. Dù có tên trong danh sách từ đầu năm học nhưng thầy Đặng Vũ Hỷ đến tháng 6 (cuối năm học) mới có mặt ở trường. Danh sách cuối cùng được lập ngày 11.7.1955 gồm có 12 giáo sư, 15 giảng viên, 5 trưởng khoa lâm sàng, 13 trợ giáo, cộng 45 người, nhưng phần lớn không thuộc biên chế trường, kể cả một số giáo sư. Dẫu sao, đó là danh sách đầy đủ nhất.

Qua các bảng danh sách thầy, có thể thấy đội ngũ này bị quá tải đến mức nào khi họ phải gánh trên vai 15 đối tượng học sinh và trên 30 môn học khác nhau mà họ phải dạy. Dường như không ai nhận được sự biểu dương nào về công sức đã bỏ ra. Đã vậy, họ tốn không ít thời gian vào việc chỉnh huấn, học văn kiện và các việc không tên khác. Tình trạng kéo dài khá lâu, đến nỗi Bác Hồ có thư cho giáo sư Tôn Thất Tùng khi biết giáo sư bị huy động tham gia “tổng vệ sinh” ở bệnh viện (đại ý) “chú mà lao động chân tay hôm sau chú mổ run tay làm chết bệnh nhân thì ai chịu trách nhiệm...”.

Tuy vậy, bản danh sách nào cũng có tên 11 hay 12 vị được ghi rõ học hàm giáo sư. Trong số này có 9 vị được bầu chọn từ trong kháng chiến chống Pháp theo các tiêu chuẩn:
1) Năm 1945 đã được bổ nhiệm là "quyền giáo sư" (sau gọi là giảng viên, và nay hiểu là phó giáo sư);
2) Từ thời gian đó vẫn làm đúng chuyên khoa và có tham giảng dạy;
3) Có uy tín chuyên môn. Đó là các vị: Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Đỗ Xuân Hợp, Hoàng Tích Trý, Trần Hữu Tước, Đặng Vũ Hỷ, Nguyễn Xuân Nguyên, Trương Công Quyền. Còn hai vị có bằng thạc sĩ và chính thức được phong học hàm trong Hà Nội tạm bị chiếm nay coi như "nguyên chức, nguyên lương" theo chính sách, là Đặng Văn Chung và Vũ Công Hòe. Cuối cùng, bác sĩ Đinh Văn Thắng thì có bản danh sách để là giảng viên, có bản lại để là giáo sư.

Bác sĩ Đinh Văn Thắng dạy ở trường từ hồi Pháp thuộc, sau cách mạng tháng 8.1945 ông đã được bổ nhiệm “quyền giáo sư” và giám đốc bệnh viện Bạch Mai. Sau ông vào quân đội, làm hiệu trưởng trường Trung cấp quân y đóng ở Vĩnh Yên, rồi bị địch bắt đưa về Hà Nội (phong ông hàm đại tá, giám đốc bệnh viện quân y Đồn Thuỷ - nay là 108). Ông vẫn liên hệ với tổ chức kháng chiến của ta ở nội thành và khi Hà Nội sắp được giải phóng thì ông trốn ra vùng kháng chiến (cùng với GS Đặng Văn Chung, Vũ Công Hoè và nhiều người khác). Rắc rối ở chỗ, khi bị địch bắt vào Hà Nội, chúng mua chuộc bằng cách trọng dụng ông, nhưng không để ông dạy đại học nữa; do vậy ông không có học hàm.

Ngày 21.1.1955, chín giáo sư đầu tiên mà trường “tạm bổ nhiệm sớm” đã được bổ nhiệm chính thức và đến tháng 10.1955 thêm ba giáo sư vùng tạm chiếm cũ cũng được bổ nhiệm.

Đó là 12 giáo sư đầu tiên, có công lao rất lớn trong sự nghiệp xây dựng trường từ những ngày trường ta còn trứng nước, sẽ mãi mãi được lịch sử trường ghi công và biết ơn.

Hồ Đắc Di
Tôn Thất Tùng
Đặng Văn Ngữ
Đỗ Xuân Hợp
Hoàng Tích Trý
Trần Hữu Tước
Đặng Vũ Hỷ
Nguyễn Xuân Nguyên
Trương Công Quyền
Đặng Văn Chung
Vũ Công Hòe
Đinh Văn Thắng

Đến tận 24.11.1955 Bộ Y Tế mới có quyết định công nhận 7 giảng viên - tương đương phó giáo sư (trong số 15 người mà trường đề nghị): Nguyễn Trinh Cơ, Hoàng Tích Mịnh, Phạm Khắc Quảng, Hoàng Sử, Đỗ Tất Lợi, Huỳnh Quang Đại, Vũ Văn Chuyên. Dù rất nhiều công việc, trường ta vẫn kiên trì việc tuyển lựa các học hàm và chức danh giảng dạy bằng cách tổ chức thi cử. Đầu tiên là thi chọn các chức danh trợ giáo, phó labô, phó khoa lâm sàng.

Ngày 6.5.1955, trường gửi Bộ Y Tế và Bộ Giáo Dục bảng tiêu chuẩn (soạn từ 1953, nay có bổ sung) để tuyển chọn các chức danh giảng dạy.

Có lẽ đây là bảng tiêu chuẩn đầu tiên của trường và của toàn ngành đại học Việt Nam, nếu được thực thi sớm thì sẽ tạo ra nền nếp chọn lựa chức danh một cách khách quan, theo tài, đức và sự nỗ lực bản thân .Do vậy, lịch sử trường và lịch sử ngành đại học cũng cần phải thừa nhận trường Y-Dược đi đầu cho dù một cách đơn độc trong việc sắp xếp và tuyển chọn chức danh khoa học. Sở dĩ như vậy là vì các trường bạn mới thành lập về sau nên chưa đủ điều kiện để làm điều này. Ví dụ thâm niên giảng dạy của họ còn quá mỏng, công trình nghiên cứu chưa đủ dày.

Theo bảng tiêu chuẩn, phụ đạo viên (tức trợ lý, trợ giáo), phó labô và phó khoa lâm sàng đều phải qua kỳ thi chuyên môn, sư phạm, rồi phải xem xét về tư cách và đạo đức nghề nghiệp. Dù trúng tuyển, sau một năm vẫn phải được đánh giá là "có thể giữ lại" hay "phải chuyển đi". Còn phụ giảng, trưởng labô, trưởng khoa lâm sàng thì chọn trong số cấp phó đã có ít nhất 2 năm công tác và phải qua một kỳ thi. Sau 3 năm, họ có quyền thi giảng viên. Giáo sư được chọn trong số giảng viên có thâm niên ít nhất 6 năm, không thi, nhưng phải trình bày thành tích đào tạo, nghiên cứu và năng lực cá nhân trước Hội đồng giáo sư. Quả thật, tiêu chuẩn khá chặt chẽ và khá khó.

Đây cũng là theo quan niệm Pháp mà các thầy tiếp thu từ xa xưa, chỉ Hội Đồng gồm toàn giáo sư mới đủ thẩm quyền xét học hàm giáo sư, nếu lẫn thành phần thấp hơn thì không hợp thức và có thể xảy ra tình trạng người chưa là giáo sư lại “chấm điểm” cho người có năng lực cao hơn mình; thậm chí có người bỏ phiếu cho chính mình. Nó đơn giản như hiện nay không để người chưa có học hàm, học vị trên đại học lại ngồi trong hội đồng chấm luận án tiến sĩ.

Theo bảng tiêu chuẩn do trường ta soạn thảo 1955-1956, bác sĩ ra trường có thể trở thành giáo sư sớm nhất sau 12 năm.

Sau 1 tuần trình lên hai Bộ, trường thông báo rộng rãi việc thi tuyển phụ giảng với nội dung và thể thức rất cụ thể cho từng chức danh: phó khoa, phó labô, phụ đạo viên; trưởng khoa, trưởng labô, giải phẫu viên. Đến nay chưa tìm được danh sách trúng tuyển và chưa biết có được cấp có thẩm quyền công nhận hay không.

Những sinh viên có năng lực nhất có thể dự thi tuyển Trợ thủ giải phẫu với nhiệm vụ phẫu tích tử thi và hướng dẫn các nhóm sinh viên Y1 thực tập. Các sinh viên (học xong Y2) trúng tuyển năm đó là Trịnh Văn Minh, Nguyễn Hữu Hồng, Dương Thị Cương, Nguyễn Đình Kim, Trần Thị Mai, Nguyễn Thị Liên... tất cả 13 người. Đến nay chỉ còn Trịnh Văn Minh tiếp tục theo đuổi chuyên ngành Giải phẫu, trở thành người có thâm niên cao nhất hiện đang làm việc về chuyên khoa này.

Các kỳ thi tuyển vào các chức danh trong hệ đào tạo như nói trên là những kỳ thi đầu tiên của trường ta và cũng là của ngành đại học, lẽ ra nó phải là sự khởi đầu cho một nền nếp lành mạnh, khoa học và tiến bộ. Phải có một Hội Đồng hợp thức và đủ uy tín về học hàm để xét chọn học hàm.
Một số giáo sư trường ta (thầy Ngữ) giải thích cho các thầy trẻ ra trường 1960: những tiêu chuẩn không liên quan đến học thuật (vẫn cần phải có, ví dụ: đạo đức, tư cách, lập trường...) phải được các bộ phận chức năng rà soát và thẩm định trước, rồi mới đưa danh sách ứng viên cho Hội Đồng Giáo Sư, để Hội Đồng này chỉ còn một nhiệm vụ xét một tiêu chuẩn tối hậu (học thuật) mà thôi. Phiếu của Hội Đồng không phải phiếu "bầu" mà là phiếu "xét chọn" của những người có học hàm cao hơn bày tỏ ý kiến có tán thành người học hàm thấp hơn mình đã xứng đáng được học hàm cao như mình, hay chưa.

Các hoạt động khác

- In ấn. Sách học bằng tiếng Việt rất thiếu. Bộ sách Giải phẫu của giáo sư Đỗ Xuân Hợp năm đó được xuất bản tập Bụng, 300 trang, 250 cuốn, in typo. Các sách khác chỉ in rônêô: Sinh lý học, 43 trang, 412 cuốn (Đặng Văn Ngữ), Vật lý Y học, 115 trang, 125 cuốn (Hoàng Sử), Bệnh học Nội khoa tập I, 95 trang, tập II, 84 trang và Cấp cứu Nội khoa 21 trang (Đặng Vũ Hỷ) in từ 100 đến 600 cuốn...

- Một số buổi báo cáo khoa học mang tính "hữu nghị Việt - Pháp" của các giáo sư Huard, Blondel và các bác sĩ Besanỗon, Valette... có rất ít người dự, phải huy động cả sinh viên đến nghe cho đỡ vắng. Do ngại bị quy kết về lập trường, nhiều thầy không muốn tiếp xúc với các thầy người Pháp, dù cách đây chục năm đã cộng tác với họ, hay đã học họ.
- Về nghiên cứu, chưa có một chủ trương chính thức nào nhưng nhiều thầy vẫn công bố những công trình riêng của mình: Nguyễn Trinh Cơ (gây tê), Vũ Công Hòe (dịch than ở súc vật), Đặng Vũ Hỷ (eczema, tình hình mại dâm, chẩn đoán giang mai), Nguyễn Xuân Nguyên (mắt hột và dự án tiêu diệt)... Thầy Tôn Thất Tùng có công trình công bố ở Đức, Anh, Pháp, Nga.
- Mô hình bệnh viện thực hành và viện-trường bị phá vỡ bằng quyết định ngày 19.7.1955 của Bộ Y Tế, coi các bệnh viện Bạch Mai, Phủ Doãn... là đơn vị trực thuộc Bộ, độc lập với trường. Lúc này, việc thực tập của sinh viên chưa gặp khó khăn vì số lượng sinh viên còn ít và bác sĩ ở bệnh viện rất thiếu, nhất là bác sĩ giỏi, còn các thầy biên chế trường vẫn nắm các cương vị chủ chốt về chuyên môn (không thể thay thế) ở mọi bệnh viện lớn.

Các thầy ở trường đảm nhiệm hầu hết chức vụ chuyên môn chủ chốt của bệnh viện. Sinh viên của trường thực sự đảm nhiệm các chức năng trong điều trị. Chẳng hạn, để trực đêm ở liên khoa Nội-Nhi-Lây-Thần kinh chỉ cần 1 bác sĩ (tại nhà), 1 sinh viên nội trú (Y5), vài sinh viên diều trị (Y4) và thực tập (Y3), rất ít khi cần đưa ô tô đến nhà mời bác sĩ trực đêm giải quyết các cấp cứu, kể cả phẫu thuật, vì sinh viên đã giải quyết tốt mà không sợ mắc sai lầm.

Thi đua. Các bản thành tích của các đơn vị gửi lên kể rất tỉ mỉ những cố gắng và sáng kiến của tập thể và cá nhân, nói lên tinh thần thi đua sôi nổi, lành mạnh. Nó thể hiện lòng tự hào với nền độc lập vừa giành được và trách nhiệm với công cuộc xây dựng đất nước, đấu tranh thống nhất tổ quốc. Tuy vậy, có một số ít báo cáo đã bộc lộ những mầm mống phô trương, hình thức và thành tích chủ nghĩa. Một số "sáng kiến" rất gượng ép.

- Tháng 2.1955 Bộ Y Tế dự thảo kế hoạch công tác, có nhiều vấn đề liên quan tới trường: lập Hội đồng Y học quốc gia và Hội Y học Việt Nam (2/3 thành viên là các thầy của trường); giải quyết bệnh mắt hột, sốt rét, hoa liễu (đều do các thầy của trường đứng đầu); xuất bản tạp chí Y học (các thầy của trường được bổ nhiệm vị trí lãnh đạo cao nhất), chấn chỉnh và nâng cấp trường đại học (phát triển labô, mời và chọn ban giáo sư), và kế hoạch đào tạo cán bộ cao cấp của ngành (vẫn phải giao cho trường)...

- Đợt học tập chính trị cuối năm 1955, trung ương chỉ đạo, do vậy các thầy đều phải tham gia, kể cả hiệu trưởng. Mục đích: nhằm phê phán tư tưởng hữu khuynh, "hòa bình chủ nghĩa", tư tưởng tư sản và tiểu tư sản...

1955 - 1958: BA NĂM CÓ NHIỀU BIẾN ĐỘNG

Ba năm học này trường ta có những xáo động, đáng nhớ như những bài học.

Một chương trình chính qui và hệ thống được soạn thảo và áp dụng trong hoàn cảnh nhà trường đã ổn định, được làm nhiệm vụ đào tạo trong hòa bình. Tiếp đó, những biến cố về xã hội, chính trị đã ảnh hưởng tới trật tự, ổn định trong khối đại học nói chung, rồi việc áp dụng chương trình Liên Xô ở trường ta thay cho chương trình cũ diễn ra không suôn sẻ. Cuối cùng, các biện pháp hành chính và tư tưởng cứng rắn hơn đã đưa trường ta vào quỹ đạo mong muốn.

NĂM HỌC 1955-1956

Trên thế giới, có vụ bạo động cướp chính quyền ở nước bạn Hungari. Ngoài xã hội, có sự thừa nhận sai lầm tả khuynh trong Cải cách ruộng đất; một số nhà văn và nghệ sĩ ra báo Nhân Văn và các tác phẩm mang tên Đất Mới, Giai Phẩm mùa Xuân... đòi thoát khỏi sự lãnh đạo của đảng dưới chiêu bài tự do tư tưởng, tự do sáng tác... Điều đó cũng ảnh hưởng đến tư tưởng sinh viên trong học tập.

Sinh viên chính qui từ Y2 đến Y6 và sinh viên Dược từ D2 đến D5 (trước đây gọi là D1 - D4) tổng cộng là 169. Trường tuyển được 73 sinh viên D1 (năm trước còn gọi là Tập sự Dược) và 157 sinh viên Y1. Vào Y1 là những sinh viên đã học 1 năm ở trường Đại học Khoa học để thi lấy chứng chỉ Lý-Hóa-Sinh (PCB), và là năm cuối cùng trường ta đòi hỏi chứng chỉ này để vào Y1. Như vậy, riêng sinh viên chính qui đã tăng lên 2,36 lần, còn đội ngũ thầy thì từ 45 tăng lên thành 47 người, vẫn gồm 4 cấp chức danh: giáo sư (12 vị), giảng viên (7 vị đã được công nhận và 8 vị khác do trường tạm công nhận), trợ giảng và phụ trợ giảng (20 vị). Trong đó hai phần ba cán bộ vẫn không thuộc biên chế trường. Rõ ràng sự quá tải là rất nặng nề, mặc dù trường ta có mời được 11 bác sĩ tham gia giảng hợp đồng. Môn Chính Trị được học ngay từ đầu năm, nhưng 100% thầy là mời giảng, đúng giờ đến lớp, giảng xong về ngay, do vậy chưa có "bộ môn" kể cả tên và địa điểm của bộ môn. Nội dung giảng dạy Chính trị chẳng mấy hấp dẫn nhưng sinh viên đi học khá đều vì được thông báo rằng nó quan trọng bậc nhất khi thi lên lớp và thi tốt nghiệp. Cụ thể, thi tốt nghiệp chỉ gồm hai bài: bài chuyên môn và bài chính trị. Chính trị không học Triết, lý luận, mà chủ yếu học đường lối, chính sách, quan điểm. Đôi khi học cả Thời sự...

Trường mở thêm một số labô ở ban Dược, còn số labô ở ban Y vẫn là 6, tuy trang thiết bị còn thiếu nhưng lần đầu tiên trong suốt 10 năm qua (cả ở Chiêm Hóa và Hà Nội), sinh viên được thực tập một chương trình đầy đủ và thích thú nhất, với sự cố gắng rất lớn của giảng viên và kỹ thuật viên. Bản thành tích thi đua của bộ môn Sinh lý học và các labô khác đã minh họa cho điều này. Môn Giải Phẫu vẫn rất nặng, ngay đầu năm, sinh viên Y1 đã kháo nhau điều đó, và họ đã rất chật vật qua các kỳ thi. Các môn cơ sở khác đều học trung bình mỗi tuần 2 tiết lý thuyết, tính ra mỗi năm đã học tới 72 tiết cho một môn, riêng giờ của Sinh Lý Học gấp đôi. Các nhà soạn thảo chương trình (Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Đỗ Xuân Hợp...) hài lòng vì sinh viên Y1, Y2 bắt đầu được học một chương trình chính qui, hệ thống, tương đương chương trình của Pháp mà trước đây chính các vị đã được đào tạo ra. Các môn cơ sở được coi trọng đúng mức. Môn Bệnh Học thực nghiệm và Bệnh Lý đại cương (chương trình Pháp) được thay bằng môn Sinh Lý Bệnh học do chuyên gia Liên Xô giúp đỡ xây dựng (phó giáo sư Pulin), môn Sinh Lý Học có một số bài giảng của nữ giảng viên Bêlikôva (qua phiên dịch của chị Bích Hường). Do không cần học lại Lý-Hóa-Sinh nữa, nên sinh viên Y1 được học ngay các môn Y học cơ sở, và dự kiến năm Y2 sẽ học xong môn Triệu Chứng Học (học các buổi sáng, tại bệnh viện) và buổi chiều sẽ thanh toán môn Giải Phẫu Bệnh, Sinh Lý Bệnh, Dược Lý và Phẫu Thuật Thực Hành; mỗi môn đều gồm 70 tiết lý thuyết và trên 50 tiết thực hành. Đây là lớp đầu tiên sau kháng chiến và cũng là lớp cuối cùng sau hoà bình phải dành ra tới 7 niên khóa để thanh toán chương trình Y.

Trong ngày gặp gỡ sinh viên mới vào trường, giáo sư Hồ Đắc Di đã nhận xét về chương trình mà Pháp áp dụng ở Việt Nam: Còn nhiều chỗ không sát với tình hình đất nước chúng ta, đồng thời “họ” tự ý cắt xén nội dung các môn cơ sở (so với chương trình ở chính quốc). Chúng ta sẽ áp dụng một chương trình vừa chất lượng, vừa phù hợp... Ông hi vọng từ nay các lớp Y1 vào trường với trình độ khoa học cơ bản tương đối vững, chương trình của trường sẽ được thực hiện tốt đẹp. Giáo sư cũng căn dặn các lớp Y1, Y2 phải bám sát bệnh viện, lăn lộn với thực tiễn lâm sàng thì mới có thể hoàn thành được luận án. Thời nay, Y học đã tiến bộ rất nhiều, không dễ gì hoàn thành luận án trong một năm Y6. Vài năm sau, chương trình này được thay thế bằng chương trình Liên Xô.

Hầu hết sinh viên Y1 đã tham khảo được sách của Pháp ở các mức độ khác nhau và họ hay mượn thư viện nhất cuốn Giải Phẫu của Rouvière, rất khâm phục khi thấy nhiều công trình của thầy Hợp được trích dẫn trong sách này. Chưa có bộ môn Ngoại ngữ. Các bài giảng đã ít xen tiếng Pháp, trừ khi cần chú thích. Một số sách Bệnh học Nội khoa và Điều trị học do thầy Chung viết rất được hoan nghênh vì chất lượng cao và vì văn phong sáng sủa, súc tích. Và rất thực tiễn.

Tại Viện Giải phẫu, đã phá tường ngăn 2 giảng đường nhỏ để tạo thành một giảng đường lớn đủ cho 100 người học (dành cho Y2) và cải tạo một phòng thực tập giải phẫu thành giảng đường 200 chỗ (dành cho Y1). Chính ở đây, sinh viên Quân Y cùng học những môn cơ sở (mà họ chưa được học hồi kháng chiến chống Pháp) với Y1, Y2. Việc tạo ra những “hội trường” rộng lớn chứa hàng trăm người chính là để chuẩn bị cho sự mở rộng đào tạo sắp tới, giống như khẩu hiệu “nhiều, nhanh, tốt, rẻ” du nhập từ Trung Quốc..

Ngày 27.10.1955, Bộ Y Tế phê duyệt “Chế độ thực tập của sinh viên ở bệnh viện”, phương châm nêu lên là: 1) Kết hợp lý thuyết đã học vào thực tiễn lâm sàng; 2) Sinh viên không phải chỉ học mà còn có nhiệm vụ và phải coi mình là cán bộ tập sự, 3) Ngoài thực hành, phải phục vụ người bệnh như "từ mẫu", không coi họ là công cụ và vật thí nghiệm. Ngoài ra, vẫn chia ra 4 cấp sinh viên: tập sự (Y2), thường trực (Y3), điều trị (Y4) và nội trú (Y5). Còn Y6 thì làm luận án. Chế độ thực tập qui định rất cụ thể: sinh viên phải đạt đến yêu cầu nào (mục tiêu) và có nhiệm vụ chức năng gì, kể cả với sinh viên Y2 (đã có nhiệm vụ).

Sinh viên không nhiều, cũng như số nhân viên bệnh viện. Do vậy, thực sự bệnh viện cần sự có mặt của sinh viên. Khi bệnh nhân mới nhập viện, sinh viên Y3 hay Y4 phải làm xong bệnh án, cho thuốc ngay ngày đầu, ghi xét nghiệm và sau đó trình với bác sĩ, xin khám kiểm tra, cho hướng chẩn đoán và hướng điều trị.

Ngày 14.11.1955, Hồ Chủ tịch đến thăm khu Đại học (Lê Thánh Tông), bất ngờ, nên sinh viên tập trung không đông lắm ở sân trường để nghe nói chuyện (đếm trên tấm ảnh còn lưu giữ, có khoảng 100 người). Sau đó, Chủ Tịch thăm bộ môn Ký Sinh Trùng và vài nơi khác của trường. Chưa tìm được bài nói chuyện của Hồ Chủ Tịch ngoài một số dòng tin đăng trên báo Nhân Dân. Tấm ảnh thứ hai còn lại là giáo sư Đặng Văn Ngữ đang trình bày với Chủ Tịch nước về các thí nghiệm của mình.

Một sự kiện là Bộ Y Tế thành lập Hội đồng Nghiên cứu Y học (sau đổi là Hội đồng Cố vấn Y học) do Bộ trưởng làm chủ tịch, giám đốc trường làm tổng thư ký và 18/26 ủy viên là các thầy của trường. Hội đồng đã có một phiên họp tới 3 ngày liền, góp ý với Bộ về phương án và kế hoạch phát triển trường cho đúng vị trí, chức năng của trường Y Dược duy nhất này.

Hội đồng nhận định: trường Y Dược vẫn là cỗ máy hành chính khổng lồ (mà chưa phải cỗ máy cái) vì chỉ có 41 thầy trong tổng số 259 viên chức (tỷ lệ 15%); đã vậy, qui chế của trường chưa làm nổi rõ chế độ thủ trưởng. Về bậc thang chức danh giảng dạy, vẫn nên có 4 nhưng nên đổi tên gọi: trợ lý, giảng viên, phó giáo sư và giáo sư. Có ý kiến đề nghị bỏ luận án vì khó thực hiện trong 1 năm, mà dùng năm Y6 để học thêm chuyên môn, vì: 1) các môn khoa học cơ bản từ nay sẽ không học trước khi vào trường Y, mà “nhét” tất cả vào năm Y1; 2) môn Chính trị - Thời sự chiếm tới 12% tổng số giờ học, tương đương số giờ của 6 hay 8 môn cơ sở cộng lại.
Để tuyển chọn trợ lý, Hội đồng trên yêu cầu ứng viên phải làm nghiên cứu sinh 2 năm (sau khi tốt nghiệp bác sĩ) và sau 8 năm nữa, trợ lý có thể ứng cử phó giáo sư. Quan niệm chung được nhắc lại là: chỉ có giáo sư mới tham dự hội đồng xét chọn giáo sư, chưa có học hàm giáo sư thì không thể đủ hợp thức để ngồi trong hội đồng xét chọn và người ứng cử không bao giờ ngồi trong hội đồng để tự bầu mình. Hội đồng cũng đưa ra phương châm "khoa học hóa Đông Y", sau này bị thay bằng "kết hợp Đông-Tây Y" (và được hiểu rất khác nhau về khái niệm "kết hợp". Cho đến tận bây giờ vẫn chưa ai giải thích đầy đủ về khái niệm kết hợp này)...
Lúc này, trên thế giới do sự phát triển nhanh của khoa học, nhiều trường trước kia chỉ cần học 3 năm là đủ để có bằng cử nhân, nay đã phải tăng lên 4 hay 5 năm mới đủ. Còn để làm luận án tiến sĩ thì 6 hay 7 năm như cũ cũng không đủ, phải hơn nữa. Do vậy mới có ý kiến: học trường y 6 năm là đủ công tác độc lập nhưng không coi là tiến sĩ như trước đây nữa. Muốn có bằng tiến sĩ, sau khi ra trường phải làm nghiên cứu sinh 2 năm và đó là một điều kiện để ứng cử chức danh trợ lý giảng dạy. Quả vậy, ít lâu sau ở Pháp, sau khi học 6 năm có thể ra công tác, còn muốn có bằng tiến sĩ thì phải “thi vào”, sau 3 năm nghiên cứu một đề tài do giáo sư hướng dẫn thì phải “thi ra” tức là bảo vệ luận án. Các ngành khác cũng tốn số thời gian tương tự. ở Mỹ, để có bằng tiến sĩ y học cũng phải mất 8 năm học ở trường đại học, còn tiến sĩ triết học phải 8 hay 9 năm. Rõ ràng, các thầy ở trường ta cũng phải giải quyết vấn đề này. Có thể nói, từ nay danh hiệu bác sĩ ở Việt nam (cũng như thế giới) thực chất không còn là danh hiệu tiến sĩ như trước nữa. “Bác sĩ” chỉ còn nghĩa là người có nghề thầy thuốc sau khi học 6 năm đại học Y, đúng như quan niệm hiện nay.

Cuối năm học, hàng trăm tấn hàng viện trợ từ Liên Xô đã từng chuyến về trường, chủ yếu là hóa chất, trang thiết bị cho các bộ môn cơ sở, khiến cho bộ mặt của trường có sự thay đổi lớn. Đúng với quan niệm của các nhà soạn thảo chương trình, các bộ môn cơ sở được đặt đúng vị trí, có vai trò ngày càng quan trọng trong đào tạo và nghiên cứu, từ đó nâng cao thêm chất lượng giảng dạy, chẩn đoán, điều trị của các bộ môn lâm sàng. Thầy Di từng nói: “trường đại học Y Dược khoa chỉ có thể tự hào chính đáng nếu có các bộ môn cơ sở vững mạnh, đạt trình độ hiện đại”. Một chuyên gia y tế Bungari cho rằng thiết bị của trường Hà Nội còn hơn của trường Sôphia. Tuy vậy, không rõ do nguyên nhân nào mà trong số hàng viện trợ có hàng chục tấn cacbônat, bicacbônat chưa biết sẽ dùng làm gì, không có kho chứa và phí vận chuyển từ biên giới về rất đắt. Mấy năm sau vẫn không ai làm rõ nguyên nhân, nhất là khi trường ta bị cuốn hút vào cuộc vận động chính trị rất sôi động, việc giảng dạy phải đình hoãn lại trong nhiều tháng mỗi năm học.

Một sự kiện lớn đối với ngành đại học là ngày 6.3.1956, Bộ trưởng Bộ Giáo Dục ký nghị định thành lập 5 trường đại học. Năm trường có tên trong Quyết Định thành lập là: Bách Khoa, Nông Lâm, Sư Phạm, Tổng Hợp và Y Dược. Tuy nhiên đối với trường ta, sự kiện không gây những tác động to lớn về tổ chức, suy nghĩ, tình cảm như đối với các trường bạn. Không có mít tinh đón mừng, không có liên hoan, không treo cờ, chăng biểu ngữ...

Với tư liệu hiện có, điều khác lạ là một Bộ lại có thẩm quyền ra quyết định thành lập một lúc 5 trường đại học (khác hẳn khi thành lập trường Y Đông Dương). Sau đó 3 tháng (cụ thể là ngày 4.6 năm đó) lại có công văn số 2183/TC của thủ tướng “cho phép” (bộ Giáo Dục làm việc trên?). Đến nay, có vài trường trong khối đại học khi kỷ niệm 35 năm thành lập (1991) cũng coi ngày 4.6.1955 là ngày ra đời, chứ không lấy ngày 3.3.1955. Bách khoa và Nông-Lâm có thể coi là các trường mới (mặc dù thời Pháp thuộc đã có các trường Công Chính, Canh Nông, Lâm nghiệp...; nhưng sau cách mạng tháng Tám và nhất là suốt trong 8 năm kháng chiến các trường đó không tồn tại nổi, do vậy hai trường này cắt được cái đuôi quá khứ, và là trường “mới”). Còn đại học Sư phạm thực chất là sự hợp nhất, mở rộng và nâng cấp các trường đang có sẵn (bắt nguồn từ thời Pháp thuộc); trường Tổng Hợp cũng là sự hợp nhất, mở rộng các trường Văn Khoa và Khoa Học hiện có (và tiếp quản các trường này của Hà Nội tạm chiếm). Nhưng do muốn cắt đứt với quá khứ (bị coi là do đế quốc thành lập nhằm nô dịch dân ta) nên hai trường này cũng coi năm 1956 là năm khởi đầu và đã tổ chức các lễ kỷ niệm lớn sau đó 30, 35 và 40 năm (1986, 1991, 1996). Với trường Y Dược, hai năm có ý nghĩa là 1902 và 1945, còn năm 1956 chỉ là năm "nhắc lại sự tồn tại", không gây bất cứ ấn tượng gì với thầy trò nhà trường - ngay hồi ấy, cũng như bây giờ. Chính vì vậy, đội ngũ giảng dạy ở 4 trường bạn còn quá mới mẻ vào những năm 1960 nên rất lâu về sau, việc phong học hàm mới đặt ra cho toàn ngành đại học. Việc này, trường Y Dược mong muốn làm sớm, và đã thử làm, nhưng trở thành việc làm đơn độc; cuối cùng bị phê phán nặng nề ngay từ trong nội bộ.
Nhân đây, cần ghi nhận sự sáng suốt khi năm 1962, ông Phan Huy Chữ, bí thư đảng uỷ, chỉ thị viết lịch sử 60 năm của trường nhưng chưa nhìn nhận được một cách toàn diện về Trường trong giai đoạn thuộc Pháp.

NĂM HỌC 1956-1957

Số bác sĩ ra trường là 60, gồm các sinh viên kháng chiến vào trường từ năm 1950 hay trước đó không lâu và 2 sinh viên Y6 học trong nội thành từ trước; số dược sĩ ra trường là 30, gồm các lớp “quân dược” và lớp D4 trong nội thành cũ (nay gọi là D5). Ngày nay đây là con số quá nhỏ bé, nhưng hồi đó ý nghĩa của nó được thể hiện đầy đủ trên báo chí. Còn số tuyển sinh thì tăng vọt: 308 vào Y1 và trên 100 vào D1, nâng tổng số sinh viên chính qui lên tới 720, nếu kể các đối tượng khác thì có lúc lên tới 897, gấp 2,25 lần năm học trước. Việc xây những “hội trường” lớn (không gọi là giảng đường hay đại giảng đường) là dành cho các lớp mới tuyển. Trên 300 sinh viên Y1 được học chung trong một lớp mà không chia nhỏ thì khó tránh khỏi những lúc lộn xộn. Lớp Y1 đông chưa từng có đã gây nhiều khó khăn cho việc tổ chức học tập và gánh nặng quá tải vẫn đè nặng lên vai đội ngũ giảng dạy và khối hậu cần.

Số thầy thuộc biên chế trường đã đạt 41 nhưng số thầy ngoài biên chế lên tới 73, có lúc tới 86 và giữ vững tới cuối năm (tổng cộng 127 người theo thống kê ngày 4.6.1957).

Về các thầy, đông đảo nhất là bộ môn Ngoại của giáo sư Tôn Thất Tùng (lúc ấy vẫn còn làm thứ trưởng) cả thảy 10 người, rồi đến bộ môn Nội (giáo sư Đặng Văn Chung) tới 7 người. Cũng có bộ môn chỉ có 1 người như bộ môn Tinh-Thần kinh (bác sĩ Nguyễn Quốc ánh), thậm chí đó là một người ngoài biên chế trường, như bộ môn Nhi (bác sĩ Chu Văn Tường), Sản Phụ (giáo sư Đinh Văn Thắng), Y Pháp (bác sĩ Trương Cam Cống), Tổ chức Y tế (bác sĩ Phạm Ngọc Thạch). Bộ môn Chính trị mới thành lập do ông Nguyễn Yến phụ trách, có các ông Võ Thuần Nho, Lê Thanh Phong, v.v.. Bộ môn Y học Thể dục do bác sĩ Nguyễn Văn Tín phụ trách, có lực sĩ (y sĩ) Vũ Quang Tiệp trợ giúp nhưng thực chất chỉ dạy các bài thể dục thường, rất ít dính dáng tới y học. Ngoại ngữ chưa thành bộ môn, trường mời linh mục Nguyễn Văn Vinh, dược sĩ Nguyễn Sĩ Dư dạy tiếng latinh và ông Vân Lăng dạy tiếng Nga.

Số sách 5.000 cuốn do Liên Xô tặng đã khuyến khích sinh viên học tiếng Nga, kết quả đạt tốt nhất là số sinh viên Y2 (Nguyễn Đức Phúc, Nguyễn Ngô Kiêm, Đỗ Đình Hồ, Lê Nam Trà...).

Số bộ môn ở “ban” Y lên tới trên 20, do có nhiều bộ môn mới thành lập: Tinh-Thần Kinh, Chính Trị và Sinh Lý Bệnh. Môn Sinh Lý Bệnh là nét đặc trưng của chương trình Liên Xô, kế thừa từ thời Nga hoàng, có nội dung tương tự các môn bệnh lý học chức năng, Y học thực nghiệm và Bệnh lý đại cương trong chương trình Pháp. Chỉ có thế, nhưng khi trường áp dụng chương trình Liên Xô thì môn này rất được coi trọng. Khá nhiều triết lý được vận dụng khi nói về bệnh và cơ chế sinh bệnh (nhất là phần đại cương).

Năm học này (1956-1957) có nhiều biến cố ảnh hưởng tới các trường đại học: sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất được thừa nhận công khai; bạo động ở Hungari; chính quyền Sài Gòn cự tuyệt tuyển cử, hô hào "Bắc tiến"; đê sông Hồng bị vỡ ở Mai Lâm, gây ngập lụt một vùng; một số văn nghệ sĩ, một số học giả và sinh viên khoa Văn đã xuất bản báo Nhân Văn và các ấn phẩm Giai Phẩm mùa Xuân, Đất Mới, trong đó phê phán lãnh đạo, đòi mở rộng dân chủ, tự do... được sinh viên tò mò tìm đọc. Trong bối cảnh đó, có sự bàn tán xôn xao ở các trường, phát ngôn tùy tiện và đả kích lãnh đạo, khá lộn xộn. Nhưng ảnh hưởng tới trường Y lại không lớn so với ở các trường khác. Tuy nhiên, đúng lúc này, việc áp dụng chương trình Liên Xô thay cho chương trình Pháp ở trường ta đã diễn ra không suôn sẻ. Nay xem lại, điểm khác nổi bật chỉ là “chương trình Pháp” (mà thầy Di đã sửa đổi nhiều) thì cho sinh viên đi bệnh viện rất sớm, còn chương trình do chuyên gia Nga soạn giúp (ta gọi đó là chương trình Liên Xô) thì năm thứ ba sinh viên mới tới bệnh viện. Phản đối mạnh nhất là các lớp Y1, Y2 (là những lớp áp dụng từ đầu chương trình Liên Xô) với kiến nghị: xin đi bệnh viện từ Y2 chứ không đợi đến từ Y3 như chương trình Liên Xô qui định : vì họ lo luận án.

"Chương trình Liên Xô" do nhóm chuyên gia Kupaxôp vạch ra theo yêu cầu của trường; còn “chương trình Pháp” do các thầy trụ cột của trường vạch ra, bằng cách cải tiến chương trình cũ (tăng cường các môn cơ sở) và có thêm môn Chính trị, Vệ Sinh. Đến nay, rất khó thấy có sự khác nhau căn bản nào giữa hai chương trình trên. Chúng có cùng một mặt bằng kiến thức, trong đó, đa số các môn học truyền thống có tên giống nhau và nội dung cũng tương tự nhau. Có lẽ điều khác nhau cơ bản là “chương trình Pháp” đòi hỏi sinh viên phải sớm đi bệnh viện, còn “chương trình Liên Xô” thì để việc đó đến năm thứ 3. Việc để sinh viên Y3 mới đi bệnh viện là phù hợp với tình hình Liên Xô đã đủ bác sĩ, và bác sĩ của họ ra trường không phải công tác độc lập nữa. ở Pháp, lúc đó cũng có xu hướng như vậy, kể cả xu hướng bỏ luận án, nhưng ta không có thông tin. Sinh viên Y1, Y2, khoảng 18-21 tuổi, không thể biết nội dung hai chương trình khác nhau đến đâu. Điều họ thấy trước mắt là nếu không được đến bệnh viện từ Y1 hay Y2, thì chất lượng luận án sẽ giảm và lo lắng khi công tác độc lập ở tuyến tỉnh. Sự lo lắng này rất có cơ sở. Suốt từ năm 1956 đến 1960, bộ trưởng Hoàng Tích Trý, và sau đó là bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch, vẫn phải bổ nhiệm hàng chục y sĩ (và người ngoài ngành Y) làm trưởng hoặc phó ty Y tế các tỉnh, nhiều tỉnh chưa có bác sĩ nào.
Vài ví dụ: năm 1960, phó trưởng ty Y tế các tỉnh Bắc Cạn, Hải Dương, Phú Thọ, Thái Nguyên, Hòa Bình, Nam Định, Ninh Bình, Sơn Tây... đều là y sĩ mới được bổ nhiệm. Các trưởng ty Y tế Hà Đông, Bắc Ninh, Hồng Quảng... cũng là y sĩ hoặc người ngoài ngành Y. Chẳng hạn ngày 30.3.1960, ông Phạm Ngọc Lan, chủ tịch huyện và ông Phạm Hữu Quý (ngoài ngành) được bổ nhiệm phó và trưởng ty Y tế Hưng Yên, Hà Đông. Ngày 21 và 26.9.1960, ông Đặng Văn Sâm (chủ tịch thị xã), ông Phạm Khang (ở ủy ban tỉnh) được cử làm phó và trưởng ty Y tế Vĩnh Yên, Hồng Quảng. Đến 1960, tỉnh Lạng Sơn mới có một bác sĩ về công tác (ra trường 1960, được uỷ ban tỉnh đưa xe về tận Hà Nội “rước” về). Lớp Y2 niên khóa 1956-1957 khi ra trường (1960) đã đảm nhiệm chức vụ trưởng khoa, kể cả khoa Ngoại-Sản của bệnh viện tỉnh.
Do vậy, việc họ xin đi bệnh viện sớm là rất đúng và rất phù hợp với tình hình thực tế hồi đó, nhất là khi họ đã thanh toán các môn Lý, Hóa, Sinh trước khi vào Y1.

Năm học này, trường được cấp kinh phí 507.888.883 đồng, tính ra mỗi đầu sinh viên có khoản kinh phí tương đương 1.000kg gạo. Tuy nhiên, giá cả ở thị trường tự do đang tăng nhanh chóng, càng về cuối năm học số kinh phí trên càng không còn giữ được giá trị ban đầu nữa. Ngoài ra còn có thêm khoản tiền 150 triệu đồng để xây hai hội trường lớn ở hai bên cánh Viện Giải Phẫu, chứa được 300 và 700 người sắp được thực thi nhưng hội trường 700 chỗ bị phá bỏ năm 1992 để xây Viện Dinh Dưỡng, còn hội trường 300 nay là toà chung cư của đại học Dược. Chưa có đất xây ký túc xá, sinh viên Y Dược vẫn ở chung với sinh viên nhiều trường tại khu Việt Nam Học Xá cũ, sau đó ở chung ký túc xá với sinh viên Tổng Hợp ở cuối phố Lò Đúc, gần “cây đa nhà bò”.

Giá cả thị trường bắt đầu tăng. Một số mặt hàng trở nên khó mua: xi măng, sắt, gạch men (để làm bàn cho labô), hàng hóa xấu đi, đời sống nhân dân và trí thức khó khăn hơn. Người trí thức vẫn mặc cảm khi bị xếp trong thành phần tiểu tư sản.

Các bài chính trị nói rõ giai cấp tiểu tư sản là bấp bênh, giao động, “tự phát lên tư sản”, do vậy cần được công nông cải tạo. Trí thức, cán bộ, viên chức, tiểu thương, thầy giáo, học sinh, thợ thủ công... bị gộp chung là tầng lớp tiểu tư sản. Dẫu sao, trí thức trường Y vẫn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ năm học đầy biến động và rất quá tải này. Một số thầy được bổ nhiệm viện trưởng các viện Sốt rét, Mắt, chống Lao... và lãnh đạo các chương trình tiêu diệt các bệnh hoa liễu, sốt rét, mắt hột, lao... trên phạm vi toàn miền Bắc (Đặng Vũ Hỷ, Đặng Văn Ngữ, Nguyễn Xuân Nguyên, Phạm Ngọc Thạch...).

Việc giao lưu khoa học với nước ngoài rất ít ỏi và hạn hẹp, ngay cả với các nước thuộc phe ta. Thủ tục khó khăn, phải xin phép cấp chính quyền cao nhất từ nhiều tháng trước, phải được học tập nội qui và căn dặn trước khi lên đường, kể cả đoàn của thầy Hồ Đắc Di (gồm thầy Tước, thầy Cơ) đi Pháp, hoặc đoàn các thầy Hoàng Sử, Đặng Vũ Hỷ, Đỗ Tất Lợi đi Liên Xô... Cũng do vậy, việc tiếp xúc trực tiếp với người nước ngoài rất bị hạn chế.

Các lớp thi lần đầu đạt 69%, được lên lớp, còn 224 người phải thi lại. Trong báo cáo tổng kết, giáo sư Hồ Đắc Di lại một lần nữa đặt vấn đề: phải chăng các thầy quá dễ dãi, chưa kiên quyết duy trì chất lượng, đã để cho sinh viên qua được các kỳ thi một cách không đúng sức học? Và nhắc nhở: phải thấy rằng đồng bào sẽ chịu những hậu quả do sự dễ dãi của các thầy.

NĂM HỌC 1957-1958

Số sinh viên vào Y1, D1 chỉ gần bằng 60% số tuyển sinh của năm học trước mà lý do chủ yếu là sự quá tải đối với đội ngũ thầy, cũng như cơ sở vật chất của trường không sao kham nổi. Tiêu chuẩn tuyển chọn có thay đổi: không chỉ thuần túy học lực (lúc đó gọi là văn hóa), mà còn tiêu chuẩn chính trị. Do vậy thành phần sinh viên đã rất khác trước, với tỷ lệ cán bộ, bộ đội đi học rất cao. Bỏ hẳn lệ công khai công bố điểm thi, ai nhận được “giấy gọi” thì biết mình “đỗ”, chờ lâu không thấy giấy gọi thì tự suy ra mình không đậu. Nhiều người không biết vì sao mình trượt và đỗ.

Đặc biệt, nhiều sinh viên vào trường đã là y sĩ, có quân hàm trung úy, thượng úy (Ngô Thế Phương, Nguyễn Hữu Chấn, Dương Hữu Lợi...), nghĩa là học trung cấp mà lại có quân hàm cao hơn BS quân y tốt nghiệp đại học trước đó. Năm 1957, nói chung bác sĩ mới ra trường được xếp cấp bậc trung úy, về sau còn hạ xuống thiếu uý; do vậy số sinh viên nói trên sau 6 năm học tập, ra bác sĩ, lại bị... tụt lương; khá lâu về sau mới được “điều chỉnh” lại.
Cũng từ năm 1957 này, bác sĩ ra trường không phải làm luận án nữa. Trên thế giới, nhiều nước cũng như vậy; bằng bác sĩ chỉ còn giá trị như bằng cử nhân.

Tổng số sinh viên là 912, tăng hơn năm trước 200 người. Có thêm các bộ môn: Lao (bác sĩ Phạm Khắc Quảng, Đào Đình Đức), Phẫu thuật chung (bác sĩ Nguyễn Trinh Cơ, Đặng Kim Châu, Nguyễn Thường Xuân, Nguyễn Bửu Triều...), tách Vệ sinh - Vi trùng thành hai bộ môn riêng (bác sĩ Hoàng Tích Mịnh, giáo sư Hoàng Tích Trý). Đặc biệt, môn Chính trị (tên gọi hồi đó) được củng cố, có thêm biên chế (ông Lê Thanh Phong) và sinh viên bắt đầu được học chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, kinh tế-chính trị học... thay cho đường lối, chính sách, thời sự. Đây là một bước tiến lớn, cần ghi nhận.

Sinh viên vẫn rất sợ môn Chính trị vì khó ghi, thầy giảng như một buổi nói chuyện nhưng lại không có sách. Tuy vậy, cán bộ đi học và công nông ít lo trượt môn này, mà chỉ lo trượt chuyên môn. Phương pháp sư phạm của nhiều thầy còn yếu, tuy nhiên, sinh viên vẫn rất khen các thầy Võ Thuần Nho, Trần Văn Giàu, Việt Phương... (đều là các thầy ngoài biên chế, được mời giảng). Do vậy, những sinh viên được điểm 9 về môn này trở thành "nổi tiếng" trong trường (Nguyễn Ngọc Lanh, Đỗ Nguyễn Phương...), nhưng cạnh đó, nhiều sinh viên không hiểu vì sao mình không đạt 5 điểm. Từ năm học này, môn Chính trị chiếm 10 - 12% số giờ toàn khóa, chính thức trở thành 1 trong 2 môn sinh viên phải thi trong kỳ thi tốt nghiệp; đến thời kỳ đổi mới mới thay đổi được.

Tổng số bộ môn của khoa Y là 23, với 87 thầy nhưng đa số vẫn không thuộc biên chế trường, có bộ môn 6, 7 thầy mà không ai thuộc biên chế trường (Giải phẫu, Ngoại, Vệ sinh, Sinh lý bệnh...).

Năm học 1957-1958 là năm toàn ngành đại học có những biện pháp mạnh mẽ về hành chính, tổ chức, tư tưởng, nhằm dẹp bỏ tình trạng lộn xộn trong phát ngôn và trong ý thức; đấu tranh mạnh mẽ với các tư tưởng không phù hợp và trấn áp những người phá rối. Sau khi tập hợp tình hình tư tưởng sinh viên, phòng Tổ chức cán bộ của trường đã báo cáo lên cấp trên (Công văn 467 YD-TCCB ngày 10.12.1957); theo đó thì tình hình tư tưởng ở trường Y Dược tuy có vấn đề nhưng không quá nghiêm trọng.

Ngày 6.1.1958, trường lập ban Điều chỉnh biên chế, với nhiệm vụ rà soát, sắp xếp biên chế các đơn vị, thuyên chuyển một số đi nơi khác, trong đó có một số về hẳn nông thôn để xây dựng hợp tác xã nông nghiệp (mà khi đó ta bắt đầu phát triển đại trà, ồ ạt). Tháng 2, Đảng bộ (90 đảng viên) chuẩn bị cuộc chỉnh huấn trong toàn trường. Tháng 3, toàn thể thầy và sinh viên ngừng dạy, ngừng học trong 3 tuần lễ để học tập hai Văn kiện của các đảng Cộng sản (họp và ký ở Mát-xcơ-va; nên gọi tắt là “Hai Văn kiện Mascơva”). Mục đích của chỉnh huấn là để mọi người thấy rõ sự đoàn kết và lớn mạnh của phong trào cộng sản quốc tế, là lực lượng lãnh đạo nhân loại đánh đổ vĩnh viễn chế độ bóc lột của chủ nghĩa đế quốc và chế độ thực dân, lúc đó đã phát triển đến tột cùng và đang suy tàn, tan rã từng mảng. Phe xã hội chủ nghĩa lớn mạnh trở thành nhân tố quyết định xu hướng phát triển của thời đại, của loài người.

Một số sự kiện trong nước và quốc tế giúp cho các cuộc chỉnh huấn 57-58 đạt kết quả mong muốn: cuộc chính biến ở Hungari bị đè bẹp; những người liên quan vụ "Nhân Văn - Giai phẩm" bị phê pháp rộng khắp trên các báo, bị xử lý; các dược sĩ sản xuất tư bị kiểm tra, kỷ luật, đình chỉ kinh doanh vì vi phạm qui chế; các bác sĩ mở phòng mạch tư bị phê phán gay gắt... Trường ta có 4 thầy là dược sĩ do liên quan đã bị kỷ luật nặng ở các mức: đi cơ quan khác, hạ bậc lương, có người bị hạ ba bậc lương, hoặc bị đuổi khỏi biên chế.

Năm đó, báo cáo tổng kết năm học (đọc ngày 3.7.1958) có nội dung và lời văn khác hẳn các năm trước. Nội dung không chỉ bó hẹp trong năm học 57-58 mà là 3 năm (1955-1958); còn lời văn rất đanh thép, gây ấn tượng rất mạnh. Phần giảng dạy, nghiên cứu chỉ nhắc sơ sài mà tập trung chủ yếu vào tình hình tư tưởng: tư tưởng đế quốc, tư sản còn rơi rớt cần đả phá quyết liệt; cần phê phán mạnh mẽ tư tưởng tiểu tư sản để tư tưởng mới chiếm lĩnh vị trí thống trị trong trường.

Nói tóm tắt, báo cáo tổng kết 3 năm (1955-1958) cho biết: đường lối giáo dục của tư sản, đế quốc và thực dân để lại ở trường ta là một di sản nặng nề. Các biến cố vừa qua đã tạo ra những khó khân, bị các phần tử lạc hậu trong trường lợi dụng để “ngóc đầu dậy”, phá rối lãnh đạo. Các nước bạn đã viện trợ ta tuy về vật chất rất to lớn, nhưng quí báu nhất là các kinh nghiệm cho một chương trình đào tạo theo đường lối, phương châm xã hội chủ nghĩa. Tàn tích xấu xa của chế độ cũ bắt đầu bị phá sản. Toàn trường ta kiên quyết tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Các phần tử không chịu cải tạo đã bị đuổi khỏi trường. Tuy nhiên, về lập trường, chúng ta còn nhiều thiếu sót. Đó là: chưa hiểu sâu sắc, toàn diện về bản chất, nội dung và đòi hỏi của giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay; chưa phân định ranh giới giữa tư tưởng đế quốc, phong kiến, thực dân với tư tưởng xã hội chủ nghĩa; còn hoài nghi, cho là chế độ hiện nay chưa thật dân chủ, chưa coi trọng trí thức, đời sống thấp hơn trước; còn hoài nghi năng lực lãnh đạo của Đảng, còn nghi ngờ vai trò lãnh đạo của Liên Xô; cho là ta tiến lên chủ nghĩa xã hội quá vội, chưa tin chúng ta hoàn toàn có thể thống nhất nước nhà bằng con đường hòa bình. Còn về tư tưởng, chưa tích cực chống và quét sạch tàn dư tư tưởng đế quốc, phong kiến, tư sản Tiếp đó báo cáo dành 7 trang nói rõ những việc phải làm để sửa chữa. Như vậy, đây là một báo cáo đề dẫn đến một cuộc chỉnh huấn lớn thứ hai trong năm học.

Toàn trường đã tập trung học tập, thảo luận báo cáo nói trên, mỗi người đều tự liên hệ và tự kiểm điểm. Hầu hết ai cũng muốn chứng minh sự chuyển biến lớn trong tư tưởng mình. Sinh viên, cán bộ rất lạc quan, phấn khởi là sẽ được chứng kiến tận mắt sự sụp đổ của hệ thống tư bản chủ nghĩa, cùng góp công xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa thành hiện thực một ngày không xa. Cũng có nhiều người lo lắng, sợ bị thành kiến và sẽ qui chụp sau này - do một vài phát ngôn và hành động thiếu suy nghĩ trước đây.

Lớp Y2 năm đó (lớp trưởng: Trương Văn Hợi) bị đuổi học một số khá lớn và tiếp tục bị đuổi học trong cả những năm về sau, kể cả tuy không đuổi học nhưng không công nhận tốt nghiệp. Khi vào trường, lớp này có 306, ra trường chỉ còn 224. Lớp Y3 khi tốt nghiệp xong, có 12 người không được công nhận (sau này đã được công nhận lại gần hết, trừ một người mất sớm). Lớp Y4 cũng bị đuổi một số. Riêng lớp Y1 năm đó, do tăng cường tuyển chọn thành phần công nông nên hầu như lên lớp và tốt nghiệp nguyên vẹn.

1958 - 1960: NHỮNG BIỆN PHÁP XÂY DỰNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THEO CON ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.

Ngoài xã hội, sau vài năm khuyến khích kinh doanh, giai cấp tư sản bị nhận định là đã hết vai trò tích cực và cần thi hành chính sách cải tạo: đưa các xí nghiệp, cửa hàng của họ vào hợp doanh, sau ít lâu thì chuyển thành sở hữu Nhà nước. Nhiều nhà tư sản lo cho tương lai con cái đã xin hiến tài sản, nhà cửa. Cuộc đổi tiền bất ngờ (theo tỷ giá một đồng tiền mới giá trị bằng 1.000 đồng Ngân hàng cũ) đã được tiến hành nhằm khắc phục lạm phát và đồng thời hỗ trợ cuộc cải tạo tư sản. Thị trường tự do bị xoá bỏ, trong đó có khám bệnh tư, hiệu thuốc tư nhân, kể cả thuốc gia truyền.

Trong trường, ngay từ đầu năm học đã có cuộc chỉnh huấn mới kéo dài hơn một tháng (thực tế là gần hai tháng) nhằm xác định trường đại học là pháo đài và công cụ của chủ nghĩa xã hội, là bộ phận của chuyên chính vô sản... Phải thấm nhuần phương châm giáo dục và y tế của Đảng. Sinh viên Y1, với 70% là công nông, số còn lại là tiểu tư sản (con cái gia đình công chức, thợ thủ công, dân nghèo, buôn bán nhỏ) cũng chưa được học chuyên môn mà vẫn phải tham gia chỉnh huấn.

Một mục tiêu của cuộc chỉnh huấn là “quét sạch tư tưởng đế quốc, phong kiến, chống tư tưởng tư sản, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, xác định vững chắc tư tưởng xã hội chủ nghĩa và các phương châm giáo dục, y tế”
Phương châm giáo dục gồm có: 1) giáo dục kết hợp với lao động sản xuất nhằm tạo ra của cải vật chất; 2) lý luận kết hợp với thực tiễn (câu nói nổi tiếng phê phán lý luận không đi đôi với việc làm của chủ tịch Mao Trạch Đông luôn luôn được nhắc lại.
Các phương châm y tế là: 1) y tế phục vụ công nông và nhân dân lao động; 2) phòng bệnh là chính; 3) chữa bệnh toàn diện; 4) kết hợp Đông-Tây Y; 5) Y tế đi đường lối quần chúng.
Toàn trường được nghe báo cáo về hành vi phản động của nhóm "Nhân Văn - Giai phẩm", những người thuộc nhóm này bị vạch mặt, đả kích và xử lý nặng: Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Phan Khôi, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm... Một số học giả cũng bị phê phán nặng nề trên báo (Trương Tửu, Trần Đức Thảo), hoặc bị kiểm điểm (Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh...)

Sau gần hai tháng học tập, kết quả chỉnh huấn được đánh giá chính thức là tốt đẹp; trường Y Dược quí tộc đã trở thành trường của công nông; vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng (kể cả trong chuyên môn) được xác lập

Song song với chỉnh huấn cải tạo tư tưởng, thành phần sinh viên cũng được cải tạo (tuyển 320, trong đó 70% là công nông, chia thành 2 lớp, 16 tổ). Cũng từ năm học này, ngoài việc không công khai điểm thi tuyển sinh, trường còn thành lập "Hội đồng thẩm định tư cách chính trị", tồn tại và hoạt động song song với Hội đồng giám khảo. Đến nay chưa tìm được tư liệu cho biết Hội đồng nào trong hai hội đồng trên có vai trò quyết định tối hậu khi tuyển sinh. Phải hai chục năm sau Bộ trưởng Tạ Quang Bửu mới phục hồi lại việc công khai hoá điểm thi tuyển sinh, do vậy thí sinh mới có quyền khiếu nại.

Trường cũng thay đổi đội ngũ giảng dạy: đưa trả về bệnh viện một số thầy và đưa về trường nhiều thầy từ quân y, cán bộ kháng chiến và các bác sĩ trẻ mới ra trường. Số lượng thầy trong biên chế trường tăng lên mạnh mẽ. Cụ thể, năm 1959 có 5 bác sĩ khóa 1952 về trường (Nguyễn Thấu, Phạm Phan Địch...), 6 bác sĩ khác là sinh viên "nội thành" đã đi thực tế 6 tháng cũng được nhận (Nguyễn Hữu Hồng, Dương Thị Cương, Trịnh Văn Minh, Vũ Văn Đính, Nguyễn Quang Quyền...). Cuối năm (9.12.1959) nhận 15 bác sĩ quân y từ khóa 1945 đến khóa 1950, gồm 12 đại úy (Bạch Quốc Tuyên, Vi Huyền Trác, Đỗ Doãn Đại, Lê Kinh Duệ, Phạm Văn Phúc, Nguyễn Bửu Triều, Vũ Triệu An,...), 2 thượng úy (Lê Vĩ Hùng, Đặng Hanh Phức) và 1 trung úy (Vũ Đình Hải). Ngày 31.12.1959, 5 thầy kỳ cựu được chuyển hẳn biên chế về trường: Đinh Văn Thắng, Phạm Khắc Quảng, Trương Cam Cống, Nguyễn Văn Thủ, Hoàng Sử.

Nói thêm: Khóa ra trường tháng 1.1960 được giữ lại gần 30 người (Lê Thành Uyên, Đào Văn Chinh, Nguyễn Văn Thành, Ninh Đức Dự, Phan Thị Phi Phi, Nguyễn Thị Xiêm...) và khóa tốt nghiệp tháng 10.1960 được giữ lại 65 người (Phạm Hoàng Thế, Trần Đức Thọ, Phạm Gia Khải, Dương Chạm Uyên, Đỗ Đức Vân, Đỗ Nguyễn Phương, Nguyễn Ngọc Lanh, Ngô Đình Mạc, Nguyễn Chương, Ngô ngọc Liễn, Đào văn Phan, Đỗ Kính, Nguyễn Đình Hối, Võ Phụng, Đặng Hanh Đệ, Trần ngọc Ân, Nguyễn Khánh Trạch, Lê Đăng Ha...). Họ trở thành lực lượng chủ yếu hướng dẫn các tổ sinh viên thực tập, ở lâm sàng cũng như ở labô, từ Y1 đến Y4. Các thầy trẻ này đang trong quá trình phấn đấu mọi mặt, nhiều khi rất kiêng dè một số sinh viên là cán bộ, đảng viên đi học vì sự kiêu ngạo, công thần và ỷ lại lý lịch, thành phần... của các sinh viên đó.

Học kỳ I, năm học 1958-1959 vừa bắt đầu chưa lâu thì Chính phủ, Bộ Y Tế chủ trương đưa sinh viên về nông thôn (lúc này vừa hoàn thành cải cách ruộng đất, đang xây dựng tổ đổi công, để tiến lên hợp tác xã) để rèn luyện thực tế.

Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch gửi thông tư đi 4 tỉnh, nói rõ 3 mục đích của sinh viên y khoa về nông thôn, gồm: 1) học tập thực tế và bồi bổ tri thức và quan điểm; 2) học tập nông dân trong lao động để xây dựng tư tưởng, lập trường; 3) góp phần tích cực phục vụ sản xuất nông nghiệp. Trước đó, từ tháng 8.1958, Bộ Y Tế cũng qui định sinh viên Y Dược phải đi thực tế trước khi thi tốt nghiệp hoặc trước khi làm luận án, do vậy khóa sinh viên 1952-1958 đã ra trường muộn hơn dự định gần một năm, một số đến giữa năm 1959 mới nhận công tác ở trường.

Đợt lao động này, trường Y Dược được phân về huyện Kim Thành, Hải Dương, với hàng ngàn sinh viên từ Y1 đến Y5 và nhiều thầy. Số kinh phí bỏ ra không nhỏ. Thầy trò đã thấy được mức sống thấp kém của nông dân (khoảng 300-350kg thóc mỗi đầu người), bệnh tật rất phổ biến, văn hóa thấp, tập quán lạc hậu, vệ sinh rất kém. Đã thu được một số thành công trong vận động giữ vệ sinh, làm hố xí, uống nước sôi... nhưng thất bại trong vận động nông dân cấy dày, cày sâu 50cm theo các bài học từ Trung Quốc do báo chí đưa tin và giảng viên chính trị Việt Phương hướng dẫn trước khi đi. Nói chung, sinh viên rất thích thú khi toàn trường được tạm ngừng học tập, thay đổi môi trường, nhất là những người xưa nay chỉ ở trong thành phố. Tổng kết đợt lao động, mọi người đều viết bản thu họach; qua đó có sự đánh giá là thắng lợi lớn về tư tưởng và dự định mỗi năm sẽ đi lao động 2 tháng. Nhưng học kỳ I bắt đầu rất muộn, lúc này đã sắp tết âm lịch. Thời khóa biểu sắp xếp khó khăn, nhiều chỗ bị đảo lộn, dồn nén; thi cử rất cập rập, chất lượng chuyên môn bị ảnh hưởng nặng nề, nhưng theo báo cáo sơ kết thì chất lượng toàn diện được đánh giá rất cao.

Cuối cùng, có hai nhận định khi tổng kết năm học: 1) các thầy chưa tham khảo được sách y học tiên tiến của Liên Xô mà vẫn dựa vào tài liệu tư bản để soạn bài; 2) đồng thời chưa kết hợp được Đông-Tây Y. Nhận định thứ nhất được khắc phục tốt khi nguồn sách từ các nước tư bản không còn, chỉ còn nguồn chủ yếu là sách Nga; còn nhận định thứ hai vẫn tiếp tục tồn tại cho đến nay.

Năm học này, ông Phan Huy Chữ, bí thư Đảng ủy (và là chủ nhiệm Hành Chính cũ, một chức danh từ hồi trường ở Chiêm Hoá) được bổ nhiệm phó giám đốc trường. Một phó giám đốc chính trị nữa là ông Mai Văn Bộ, phó bí thư đảng uỷ. Ông vốn cựu sinh viên Y, bỏ học đi hoạt động cách mạng từ trước 1945, nay được coi là nhân vật chủ chốt, là linh hồn của các cuộc chỉnh huấn và cải cách ở trường. Ông chủ trì một đề án lớn về sắp xếp, chấn chỉnh lại tổ chức nhà trường, sao cho từ 33 bộ môn và 4 môn học (là Thể dục, Ngoại ngữ, Tổ chức Y tế và Tổ chức Dược chính: chưa được coi là bộ môn) biến thành một đơn vị có tổ chức gọn nhẹ, hiệu lực. Nhưng sau 1 năm, thậm chí 2 năm, kết quả vẫn không như ý.

Phương hướng, nội dung của đề án do ông soạn thảo và chính ông trực tiếp chỉ huy sự thực hiện là: 1) xoá bỏ một số đơn vị, trước mắt là bỏ Hội đồng giáo sư (được xem là chịu ảnh hưởng cách tổ chức tư sản, có quyền quá lớn về học thuật); 2) nhập một số bộ môn (Hóa sinh-Hóa lý-Hóa giao-Hóa phân tích thành một đơn vị; Dược liệu-Thực vật thành một đợn vị khác; Hóa dược-Hóa hữu cơ-Hóa vô cơ cũng gộp lại để thành đơn vị thứ ba; Bào chế-Vật lý-Toán-Dụng cụ y học; rồi Sinh lý-Sinh lý bệnh; Y pháp-Mô phôi-Giải phẫu bệnh là một đơn vị; Nội cơ sở-Nội lâm sàng, ...); 3) tách và nhập một số phòng; 4) lập thêm: tổ bảo vệ; tổ đánh máy (bằng cách tập trung máy chữ và nhân viên đánh máy các bộ môn lại); lập tổ chân nuôi (cũng như cách trên); bỏ tổ vệ sinh quét dọn (mà huy động viên chức và sinh viên làm thay hàng ngày); bỏ nhân viên y công ở các đơn vị (lấy sinh viên, viên chức luân phiên làm thay); 5) bỏ chức danh chủ nhiệm hành chính, chủ nhiệm giáo vụ (thay bằng chức danh phó hiệu trưởng đặc trách). Ngoài ra, để gọn nhẹ, đề nghị chuyển bộ môn Ký sinh trùng về Viện Sốt rét để trường khỏi phải quản lý nó...

Sau một năm thực hiện đề án, bản sơ kết rút ra các bài học: 1) đây là một cuộc đấu tranh tư tưởng gay go, phải thường xuyên phát động vì sức ỳ rất lớn khiến việc thực hiện đề án chậm chạp; 2) phải chống nóng vội, tránh việc chỉ muốn đạt đến sự đơn giản hóa mà bất chấp các mâu thuẫn có tính nguyên tắc, v.v... Kết quả cuối cùng là với biên chế 282 đã chuyển đi được 24 nhưng lại có 15 người chuyển đến và 20 người chuyển chéo trong nội bộ trường. Số bộ môn, phòng, ban... không giảm, mà tăng lên; rốt cuộc, chỉ xóa được Hội đồng giáo sư (tất cả thành viên đều không phải đảng viên).

NĂM HỌC 1959-1960

Có thể coi năm học 1959-1960 bắt đầu bằng một cuộc họp lớn chưa từng có (4.7.1959) với thành phần tham dự là toàn thể các thầy (biên chế ở trường và kiêm nhiệm, hầu như không vắng ai), đại diện Bộ Y Tế, đại diện các đơn vị trường gửi sinh viên thực tập (bệnh viện, xí nghiệp dược). Dù là chiều thứ Bảy, số người dự vẫn đông chật “hội trường 700” ở cạnh Viện Giải Phẫu để nghe dự án sửa đổi chương trình. Phó giám đốc Mai Văn Bộ, trưởng Ban chuyên môn Đảng ủy, có vai trò trung tâm trong buổi họp, sau khi Giám đốc (hiệu trưởng) lên khai mạc.

“Chương trình Pháp” trước đây (hay đã cải tiến gần đây) được đánh giá là chương trình tư sản, cần bãi bỏ. Phải sửa chữa để người học có giác ngộ xã hội chủ nghĩa (Đức), có kiến thức (Tài) và có sức khỏe. Phải có sự chuyển biến rất lớn về tư tưởng ở tất cả các thầy, cô, kể cả ở các cơ sở đào tạo (không thuộc sự quản lý của trường) và toàn thể sinh viên.

Tính chất tư sản trong chương trình Pháp thể hiện bằng: yếu về khoa học cơ bản, cơ sở; tự do vô trách nhiệm cao độ (ý nói: sinh viên có thể tuỳ tiện bỏ giờ học); học 7 năm (cả PCB, luận án) là quá lâu; đặt ra thi "ngoại trú", "nội trú" làm phân hóa sinh viên thành giỏi, kém là không phù hợp; sinh viên học xong phải tự lo tìm việc, tự hành nghề là sai trái với đường lối XHCN... Còn “chương trình Liên Xô” áp dụng từ năm 1956 đến nay có các ưu việt: dạy cho sinh viên thời sự, chính sách và các môn cơ sở Mác-Lênin; chỉ học 6 năm, bỏ ngoại trú, nội trú, luận án; lại có tính kế hoạch cao. Để sửa chữa, phải kết hợp các phương châm của Đảng về giáo dục và y tế: chính trị phải đi đầu, áp dụng duy vật biện chứng rộng rãi; cả giáo dục, y tế phải phục vụ chính trị; kết hợp với lao động sản xuất...

Rồi số lượng đào tạo phải tăng, chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mỗi năm phải có 600 bác sĩ ra trường để sau 5 năm có 3.000. Do vậy, chương trình có thể rút ngắn. Chống bảo thủ, chậm trễ, đồng thời chống nóng vội. Bác sĩ ra trường phải nhiều, đồng thời phải giỏi (làm được nhiều chuyên khoa ở trình độ có thể độc lập công tác) với lập trường chính trị vững vàng. Muốn vậy, số giờ chính trị, thời sự phải chiếm tới 1/6 chương trình, thay vì 1/8 như năm vừa qua...

Học tập Trung Quốc, dự án đưa ra sự phân bố thời gian cụ thể: mỗi tuần học và tự học 54 giờ, trong đó lý thuyết (gồm cả chính trị), không quá 18 giờ. Mỗi ngày ngủ 8 giờ, ăn và nghỉ 4 giờ, thể dục-quân sự 1 giờ, sinh hoạt đoàn thể, văn nghệ, việc riêng 2 giờ, học 9 giờ, cộng 24 giờ. Mỗi năm học tối đa 540 giờ lý thuyết (tức 30 tuần), còn lại dành cho lao động sản xuất 1,5 tháng, chỉnh huấn mỗi năm 3 tuần, ôn thi và thi 3 tuần; còn nghỉ hè, nghỉ lễ, nghỉ Tết cả thẩy 1 tháng.

Như vậy từ năm học này đã thấy được sự lớn mạnh và trưởng thành của Đảng Bộ nhà trường thông qua việc lãnh đạo toàn diện của Đảng Bộ trong hoạt động nhà trường, không chỉ trong công tác tư tưởng mà cả mọi hoạt động đào tạo.

Năm học 1959-1960, miền Bắc hoàn thành cách mạng dân chủ, các giai cấp bóc lột và thị trường tự do đã căn bản bị xóa bỏ, chỉ còn 3 giai cấp: công, nông, tiểu tư sản. Bắt đầu kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, và hi vọng sau một số kế hoạch 5 năm, ta sẽ có chủ nghĩa xã hội hiện thực.

Tuy một số khó khăn vật chất xuất hiện (gạo, vải, thịt phân phối theo tem phiếu) nhưng được nhận định chỉ là tạm thời, do vậy thầy trò đều lạc quan. Các buổi mít tinh, biểu tình đều đông đảo, sôi nổi, khẩu hiệu được hô vang. Các buổi lao động tập thể, vệ sinh tập thể, thể dục tập thể nhằm dành danh hiệu thi đua cuốn hút rất đông người. Hoạt động nào cũng được đưa thành các phong trào rầm rộ, ồn ào.

Chương trình năm học được sắp xếp lại, khi báo cáo lên Bộ Y Tế đều có so sánh với “chương trình năm ngoái” để thuyết minh sự cải tiến. Và nó không còn dấu vết gì của “chương trình Liên Xô” nữa, mà là chương trình hoàn toàn Việt Nam, với 8 tháng học, mỗi tuần dành riêng một tối cho họp hành, cả thảy có 3 tháng để lao động và chỉnh huấn, nghỉ tết; và có 1 tháng hè. Thi ra trường bằng hai môn: Chính trị, chuyên môn. Tuy nhiên, điều hiển nhiên được chính thức nhận định là “điểm thi chính trị chưa nói lên chất lượng chính trị”, hơn nữa các thành phần cơ bản tuy không thể “rớt” do môn này, nhưng cũng rất khó đạt điểm cao. Do vậy, có bổ sung: còn phải nhận xét cả quá trình học 6 năm, mới đánh giá được phần “đức”. Nhưng ngược lại, điểm thi thể dục thì lại được coi là phản ánh sức khỏe.

Đường lối công nông được thực thi triệt để trong tuyển sinh: ưu tiên cho gia đình công nông, một số học sinh có thành phần, lý lịch phù hợp được tuyển chọn như hình thức cử tuyển, có người từ cấp I sau 2 năm học cấp tốc đã hoàn thành chương trình cấp III để vào trường.

Biên chế trường lên đến 427 (với 106 cán bộ vừa xin thêm, trong đó có 30 bác sĩ mới tốt nghiệp đầu năm 1960). Số bộ môn của khoa Y lên đến 25. Tuy nhiên, tổng số cán bộ giảng dạy, cả Y và Dược chỉ đạt con số 89, tức 1/5 tổng biên chế, nói lên công sức chủ yếu của đội ngũ này trong việc gánh vác nhiệm vụ của trường. Trường còn được bổ sung lớp kỹ thuật viên I gồm 42 người (Lê Kim Minh, Nguyễn Mai Khanh, Nguyễn Vi Khải,...). Lần đầu tiên trường ta có kỹ thuật viên, có vai trò lớn trong phục vụ giảng dạy và nghiên cứu mà trước đó, việc này do anh chị em y tá, dược tá đảm nhiệm.

Sự kiện lớn là nhà trường đã tổ chức cho 2.000 thầy trò đi lao động thực tế ở vùng than Hồng-Quảng. Sự hào hứng khi được đến miền đất lạ càng làm không khí thêm náo nức, phấn khởi. Sau gần hai tháng trực tiếp lao động giản đơn với công nhân, kết hợp triển lãm, biểu diễn văn nghệ và tổ chức các buổi nói chuyện về vệ sinh phòng bệnh, còn có cả vài điều tra nhỏ về nhiễm giun sán và sốt rét..., thu hoạch về tư tưởng được đánh giá rất cao: thấy được đời sống, trình độ văn hóa và vệ sinh của công nhân và nhân dân còn thấp kém, lạc hậu, trách nhiệm của ngành y tế còn nặng nề. Tuy nhiên, nhiều việc khác có hiệu quả rất thấp so với công sức và thời gian bỏ ra, chẳng hạn tổ chức 3.667 cuộc nói chuyện với 24.557 người nghe, tính ra trung bình mỗi cuộc chỉ có 6, 7 thính giả. Quỹ thời gian của năm học bị hao hụt quá nhiều, sắp xếp việc học rất cập rập, nhiều chỗ đảo lộn (cứ đi thực tập chuyên khoa, mặc dù chưa học lý thuyết môn đó). Ngay số giờ chính trị được tôn trọng nhất cũng chỉ chiếm 1/8 chương trình, khác với dự án đầu năm. Công sức hoàn thành năm học chủ yếu thuộc về đội ngũ 89 thầy, cô và trên 50 kỹ thuật viên. Sinh viên rất muốn năm nào trường cũng tổ chức một đợt rầm rộ như vậy, nên rất nhiều bản thu hoạch đều nhấn mạnh “đi” như vậy rất có ích; đề nghị duy trì mãi mãi.

1960-1964: ĐÀO TẠO PHỤC VỤ KẾ HOẠCH 5 NĂM XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU, CHUYỂN SANG ĐÀO TẠO THỪI CHIẾN

Việc cải tạo tư sản đã căn bản hoàn thành, giai cấp bóc lột cuối cùng ở miền Bắc bị xóa bỏ. Đại hội Đảng III quyết định đưa miền Bắc tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà bước đầu tiên là kế hoạch 5 năm lần thứ Nhất với tất cả ý nghĩa trọng đại của nó. Tiền lương được cải cách, viên chức "kháng chiến" được cải thiện lớn, còn viên chức "lưu dụng" thì giảm thu nhập đột ngột để hưởng cùng thang bậc lương với viên chức kháng chiến. Tên gọi công chức "lưu dụng" đã đi vào lịch sử.

Tem phiếu đã sử dụng phổ biến nhưng giá thực phẩm còn khá rẻ: một bát phở giá 3 hào nhưng hàng công nghiệp thì rất đắt, ví dụ quạt "tai voi" do Liên Xô sản xuất giá trên 100 đồng, còn đồng hồ đeo tay Liên Xô 70 đồng - bằng lương một bác sĩ mới ra trường. Lương hiệu trưởng và các giáo sư Trần Hữu Tước, Nguyễn Xuân Nguyên, Đặng Văn Ngữ,... là 160 đồng. Giáo sư Vũ Công Hoè và và Đặng văn Chung hưởng “lương mới” là 145 đồng. Ông Nguyễn Trí Đức còn 64 đồng. Các đại úy về trường được xếp 100 đồng, y tá 47 đồng. Thấp lương nhất là bà Lê Thị Chương (29 đồng) và Nguyễn Thị Chút (32 đồng)....

Nhiệm vụ mà toàn trường phải học tập để thực hiện là đào tạo bác sĩ “nhanh, nhiều, tốt, kiệm” phục vụ cho kế hoạch 5 năm 1960-1965. Bộ Y Tế chỉ thị phải nhanh chóng cấp bằng cho tất cả các y sĩ cao cấp với thủ tục đơn giản để có thêm bác sĩ và xóa hẳn chức danh y sĩ cao cấp trong ngành. Phải rút đến mức ngắn nhất thời gian đào tạo bác sĩ và dược sĩ, đồng thời tuyển sinh tăng gấp bội số lượng hàng năm theo chỉ tiêu cấp trên giao. Mặt khác, trường còn phải bổ túc 2 năm cho các y sĩ trung cấp lên bác sĩ. Để phối hợp, Bộ Y Tế sẽ mở một loạt trường trung cấp ở các tỉnh, học tối đa 2 năm, tuyển sinh mỗi năm hàng ngàn. Vậy mà các cấp lãnh đạo vẫn lo không đủ số bác sĩ như kế hoạch đòi hỏi.

Một thống kê và dự báo năm 1960 cho biết: đến lúc này, toàn miền Bắc có 404 bác sĩ, đã tập trung tới 1/5 ở trường nhưng nhiệm vụ số thầy, cô này vẫn quá nặng vì họ phải đào tạo ra trường 1154 bác sĩ hệ chính qui và 705 hệ bổ túc, với thời gian eo hẹp mà Bộ trưởng đã tuyên bố là 4,0 năm cho bác sĩ chính qui (3,5 năm cho dược sĩ). Đây là lúc mà các thầy, cô được nghe câu "yếu còn hơn thiếu" vì ta đang quá thiếu cán bộ y tế. Sau đó, số bác sĩ dự kiến đào tạo trên vẫn không đủ. Bộ trưởng đích thân về trường đả thông tư tưởng và chính thức giao nhiệm vụ đào tạo nhiều hơn nữa.

Trong dịp kỷ niệm 15 năm (1945-1960), bản báo cáo dày 26 trang ở buổi lễ đã nêu con số phải đào tạo mới 3.000 bác sĩ với các giải pháp như đã nói trên. Cụ thể: trường sĩ quan quân y (trung cấp) đã liên tục gửi y sĩ ra cho trường ta dạy bổ túc và cấp bằng: năm 1959, cấp bằng cho khóa Lê Thế Trung, năm 1960 chuyển lên bác sĩ các y sĩ cao cấp khóa I, II,... liên tục cho đến 1968, 1969 (là năm trường quân y được nâng cấp lên đại học). Năm 1960, từ một trường y sĩ trung ương, Bộ Y Tế mở thêm 3 trường trung cấp ở Thanh Hóa, Nghệ An, Nam Định (ngày 8.7.1960), sau 3 tháng lại mở liền 7 trường nữa (Thái Bình, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Hà Đông, Phú Thọ...) với số tuyển sinh là 784 (có 400 y tá xã), kinh phí 600 đ/năm cho mỗi đầu học sinh. Cán bộ giảng ở mỗi trường là 2 - 5 bác sĩ, số thầy còn lại toàn là y sĩ. Sau khi ra trường vài năm, họ học thêm 2 năm (cả văn hóa, lẫn chuyên môn) để thành bác sĩ, tính ra tổng cộng chưa hết 6 năm mà lúc vào chỉ cần trình độ văn hóa cấp II.

Các lớp bổ túc y sĩ đầu tiên do trường ta mở (2 năm) có chất lượng tương đối tốt. Những người được giữ lại ở trường đều có trình độ (Phạm Kim, Phan Dẫn,...) nhưng về sau, chất lượng các lớp này cứ giảm dần, và giảm nhanh, đến mức phải có những hội nghị chuyên đề về vấn đề này, nhất là thời kỳ sơ tán chống Mỹ.

Năm 1960-1961, 340 sinh viên Y1 vào trường (có rất nhiều y tá từ trình độ cấp II học bổ túc 3 môn Toán Lý Hoá lên trình độ cấp III) được nghe tuyên bố là chỉ học 4 năm sẽ thành bác sĩ nhưng chất lượng không thua kém học 6-7 năm. Thực tế về sau, chương trình 4 năm, mà nhiều thầy cao tuổi và một số giáo sư gọi thẳng là "chương trình y sĩ Đông Dương" đã bị phá sản, do vậy giữa chừng phải điều chỉnh rất vất vả, công phu. Toàn bộ gánh nặng lại dồn lên vai đội ngũ thầy.

Lớp Y1 này đã phải học 5,5 năm để ra trường. Đó là lớp của Trần Văn Liễu, Đỗ Trung Phấn, Võ Đức Quê, Phùng Xuân Bình, Lê Đình Roanh... Lớp Y2 (vào trường năm học 1959-1960) dự định học 4,5 năm (vì đã chót học 1 năm theo chương trình 6 năm) thực tế cũng phải học 5,5 năm với một chương trình khá chắp vá vì sự sửa sai. Ví dụ khi đã học Vi sinh, Sinh lý bệnh mà vẫn phải quay lại học thêm Hóa, Lý (lớp Lê Thị Oanh, Phạm Hoàng, Lê Đình Cầu, Bùi Thanh Tâm,...). Còn lớp Y3 (Trịnh Quang Huy, Phan Sỹ An, Phan Hiếu,...) đã dấn sâu vào chương trình 6 năm nên được dự kiến học 5 năm thì cũng phải ra trường sau 5,5 năm. Các lớp khác, từ Y4 trở lên, ra trường đúng 6 năm. Như vậy, chương trình Liên Xô vừa thực hiện được 2 năm 1957-1958 cho Y1, Y2 năm đó, thực tế không có gì khác biệt rõ ràng với chương trình nhiều nước, kể cả Pháp, đã mặc nhiên bị loại bỏ bỏ để học chương trình 4 năm do tự ta soạn thảo, rồi đến lượt chương trình này cũng bị phá sản, vứt bỏ, để quay về chương trình 6 năm.

Người chủ chốt thực hiện chương trình 4 năm là ông Phan Huy Chữ và bác sĩ Nguyễn Trinh Cơ (ông Mai Văn Bộ đã đi khỏi trường để nhận công tác khác). Hai ông chủ trương tinh giản bài học, tránh trùng lắp, tìm cách mô tả cụ thể những nhiệm vụ mà một bác sĩ ở tuyến huyện phải làm - từ đó ra đời khái niệm mục tiêu - để soạn thảo chương trình cho phù hợp. Mỗi bộ môn được thảo luận kỹ mục tiêu, bàn cách thực hiện phần của bộ môn mình, trong đó lớp bác sĩ mới ra trường (1960) chiếm 2/3 số cán bộ giảng dạy tỏ ra rất hâng hái, sôi nổi. Hàng năm đều có hội nghị giáo dục cấp bộ môn và cấp toàn trường để cải tiến phương pháp dạy cho đạt kết quả. Trong các lớp, ngoài số sinh viên đủ chất lượng, bao giờ cũng có tỷ lệ lớn sinh viên kém do nhiều tuổi và do sự tuyển chọn văn hóa không chặt chẽ. Vì vậy, bác sĩ Nguyễn Trinh Cơ đã đề ra phong trào "cán bộ giảng dạy là tiểu đội trưởng", nghĩa là phải bám sát tổ sinh viên của mình, phụ đạo từng cá nhân rất tỉ mỉ. Việc này, lớp bác sĩ ra trường đầu và cuối 1960 gánh vác hoàn toàn và rất hâng hái. Bác sĩ Nguyễn Trinh Cơ còn đề ra 4 "tính" của bài giảng, gồm: tính tư tưởng, tính kinh điển, tính hiện đại và tính thực tiễn. Các bàì giảng “mẫu” trong Hội nghị giáo dục toàn trường (do các thầy, cô Trần Thị Ân, Nguyễn Trinh Cơ, Nguyễn Ngọc Doãn,... thực hiện) đều được bình và góp ý theo 4 tiêu chuẩn đó. Ngày nay, đọc lại những tham luận trong Hội nghị giáo dục có thể thấy hội nghị khá bổ ích về sư phạm.

Sau 2 năm nỗ lực thực hiện chương trình 4 năm (ít hiệu quả), cộng thêm sự góp ý thẳng thắn của lớp thầy nhiều kinh nghiệm (từ bác sĩ Vũ Triệu An trở lên), hai ông Phan Huy Chữ và Nguyễn Trinh Cơ thấy rõ: không thể đào tạo bác sĩ trong 4 năm, thậm chí 5 năm, và không thể bổ túc lên bác sĩ trong 2 năm cho các y sĩ mà trình độ văn hóa và chuyên môn đều bất cập. Kiên trì, khéo léo, và cả cương quyết, hai ông đã thuyết phục Bộ trưởng Bộ Y Tế cho quay lại chương trình 6 năm, đồng thời dũng cảm và tỉ mỉ sửa chữa các sai lầm, hậu quả. Mục tiêu đào tạo tiếp tục được hoàn thiện và được Đại hội Đảng bộ lần thứ Mười (X) thông qua. Điều đặc biệt là ngay trong thời kỳ chống Mỹ xâm lược, trường ta vẫn đào tạo 6 năm.

Khóa sinh viên ra trường 1965 và 1966 sau 5,5 năm học tập được giữ lại trường rất đông, trở thành lớp thầy, cô đảm nhiệm chủ chốt việc hướng dẫn sinh viên thực tập, thay cho lớp trước đã trở thành lực lượng chủ chốt dạy lý thuyết. Họ đều đóng góp công sức rất lớn trong thời kỳ chống Mỹ và sau này họ đã trở thành lớp cán bộ chủ chốt của trường. Có thể kể: Đỗ Trung Phấn, Trần Văn Liễu, Nguyễn Văn Nguyên, Thái Doãn Sơn, Phan Thu Anh, Phạm Gia Khánh, Phạm Thị Minh Đức, Trần Văn Dần, Ma Thị Huế, Phạm Khánh Hoà... Còn lớp sinh viên vào trường sau "sửa sai" chương trình 4 năm thì lại học đủ 6 năm, ra trường 1968 (Phạm Mạnh Hùng, Nguyễn Gia Khánh, Lê Văn Khang, Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Chí Phi, Lê Huy Chính,...). Do vậy, trường không có khóa tốt nghiệp năm 1967.

Năm 1960, đoàn kiểm tra do thứ trưởng Vũ Văn Cẩn dẫn đầu làm việc tới 8 ngày ở trường với ban giám đốc, các phòng, bộ môn, đã kiến nghị với Bộ Y Tế 6 điểm: sửa đổi tổ chức và phương pháp lãnh đạo để thực hiện nguyên tắc “Đảng bộ lãnh đạo, thủ trưởng phụ trách”; củng cố lại ban giám đốc để chuẩn bị tách trường (hiện đang có 2 cấp phó chuyên môn và 2 cấp phó chính trị),.. Đáng chú ý là điểm thứ 6: nghiên cứu lại cơ cấu và tổ chức của bệnh viện Bạch Mai để nó thành bệnh viện của trường vào năm 1961. Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ, đã thay mặt đoàn, lập ra một văn bản gửi Bộ. Cả trường vui mừng phấn khởi, nhưng rốt cuộc các dự định đều không thành.

Năm 1960, Bộ củng cố tổ chức dạy văn hóa trong nội ngành. Trung tâm khoa học như trường ta mà trình độ văn hóa trung bình là cấp II (không kể số có bằng đại học) và khoảng 30% viên chức trình độ là cấp I thì thật khó chấp nhận. Trường Bổ túc Văn hóa thuộc đại học Y Dược được mở. Hiệu trưởng lúc đầu là thầy Trương Công Quyền, sau là Nguyễn Ngọc Lanh. Ngoài các lớp cấp I và cấp II, còn có 12 lớp cấp III (vì cán bộ Y tế toàn Hà Nội cũng xin học).

Đặc biệt có lớp dành cho cán bộ lãnh đạo với giảng viên là Phan Văn Duyệt, Đỗ Đình Hồ, Đào Ngọc Phong, Nguyễn Ngô Kiêm.... Học sinh gương mẫu và thực chất của lớp này là ông Phan Huy Chữ, bí thư Đảng ủy, đã nêu gương sáng về học tập cho tất cả. Xong cấp III, ông học cả chương trình đại học một số môn. Tất cả các thầy chính trị của trường đều phải học bổ túc cấp III (có thầy phải học cấp II) cũng vào lớp nói trên, nhưng nhiều người rất vất vả và bỏ cuộc. Vậy mà nhiều y sĩ, kỹ thuật viên nhờ học ở đây sau này đã thi được vào đại học (Phạm Đình Thẩm, Nguyễn Mạnh Chính, Nguyễn Mai Khanh, Nguyễn Vi Khải...).

TÁCH TRƯỜNG

Ngày 27.1.1961, để chuẩn bị tách 2 trường, trường Y (tương lai) đã được Uỷ ban hành phố Hà Nội cho phép sử dụng 30,6516 hecta đất thuộc cánh đồng hai thôn Trung Tự và Khương Thượng để xây dựng cơ bản theo thiết kế năm 1960, được niêm yết cho mọi người góp ý. Một số đã chỉ ra tính chất lạc hậu, thiếu hợp lý của bản vẽ. Kinh phí về muộn, thiếu, và sau đó do chiến tranh nên sau 30-40 năm, trường Y chưa hoàn thành kết cấu hạ tầng. Đất bị chiếm dụng không sao đòi lại được.

Đề án tách trường Y và Dược được Hội đồng Chính phủ duyệt ngày 20.9.1961, dự định thực hiện làm 3 bước, nhưng thực tế làm rất chậm. Năm học 1961-1962, hai trường vẫn là một. Đến năm 1964, hai trường vẫn chung con dấu cho tới khi chuẩn bị sơ tán chống Mỹ.

Lý do để tách trường được nêu trong văn bản chính thức là: 1) do học thuật khác nhau nên nội dung chương trình và việc tổ chức giảng cũng khác; 2) Dược là cơ sở của Y, do vậy việc vận dụng phương châm giáo dục và y tế cũng khác nhau (ví dụ nêu lên để thuyết phục người đọc là: Y phải đến tận nơi để dập tắt dịch, còn Dược thì ngồi tại chỗ lo pha chế thuốc chống dịch); 3) Vận dụng kết hợp lao động sản xuất cũng khác nhau (Y về nông thôn, còn Dược tới xí nghiệp); 4) Nhiệm vụ trường Y ngày càng nặng, cán bộ và sinh viên ngày càng đông, phải tách ra (xem ra, chỉ điểm này là tạm hợp lý).

Ngày 15.3.1961 thành lập Hội đồng khoa học thay thế cho Hội đồng giáo sư trước đây. Ngoài 12 giáo sư (vẫn trong hội đồng), còn có 24 vị khác trong đó có một số đảng ủy viên, các chủ nhiệm bộ môn và đặc biệt có 3 người mới ra trường được 4 tháng đến 1 năm (Nguyễn Quang Đạt, Nguyễn Trung Chính, và Nguyễn Văn Xang).

Năm 1962, trường cho tốt nghiệp 224 bác sĩ mà lẽ ra họ phải ra trường 1961, sau khi học đủ 6 năm. Đây là khóa vào trường tháng 9.1956 gồm 308 sinh viên. Từ 1962, lương khởi điểm bị hạ thấp 1 bậc, họ chịu thêm một thiệt thòi so với sinh viên các trường khác cùng vào đại học (1956) nhưng chỉ học 3-4 năm. Có 13 người được giữ lại trường (Trương Văn Hợi, Đào Ngọc Diễn, Nguyễn Công Khanh, Đỗ Kim Sơn, Trần Quỵ, Trần Thúy, Chu Văn ý, Vũ Xuân Uông...). Cuối năm đó, khóa 1957 ra trường sau 5,5 năm học tập (Nguyễn Hữu Chấn, Ngô Thế Phương, Hà Huy Khôi, Dương Hữu Lợi, Vũ Duy San, Lê Hùng Lâm, Ngô Gia Thạch, Nguyễn Đoàn Hồng...).

Đặc biệt năm 1962 có báo cáo 18 trang gửi Bộ Y Tế về tổng kết rút kinh nghiệm đào tạo bác sĩ hàm thụ 2 năm. Trong 14 tháng học các môn cơ sở tại chức, học viên có được tập trung về trường vài lần: đó là thời gian quan trọng nhất để phụ đạo, ôn thi... còn thời gian tự học ở cơ quan rất ít hiệu quả. Sau đó, họ học thêm 5 tháng chuyên ngành và thi tốt nghiệp, “đạt” toàn bộ 107 người vào tháng 8.1962 (Đặng Hồi Xuân, Nguyễn Kim Phong, Nguyễn Nghinh, Lã Vĩnh Quyên,...). Phải nói rằng do trình độ khởi đầu của học viên rất khá, nhiều người thông thạo tiếng Pháp nên khi ra trường họ vẫn có trình độ tương xứng với bằng cấp. Ba khóa tiếp theo với 319 học viên thì trình độ và chất lượng sút kém rõ ràng, lại có cả chuyên khoa Tổ chức Y tế. Cách đào tạo này rất khó đảm bảo chất lượng, do vậy trường không định tiếp tục nữa.

Như vậy, dù đã mở hết công suất, trường Đại học Y Dược Hà Nội cũng không sao đào tạo đủ số bác sĩ, dược sĩ như chỉ tiêu cấp trên dội về. Số lượng tuyển sinh cao nhất chỉ đạt 420, thay vì 650 như mong muốn. Chất lượng sinh viên không đồng đều do có lẫn sinh viên dạng cử tuyển vì vậy trong cùng một lớp có người rất giỏi, có người lại quá kém.

Hội đồng tuyển sinh có 4 bộ phận:
1) Xét duyệt chính trị
2) Tổng hợp
3) Hậu cần, và cuối cùng là
4) Bộ phận Giám thị - giám khảo.

Chương trình 4 năm, sau hai năm thực hiện đã phải điều chỉnh lại rất vất vả. Việc mở trường Vinh không thành, cán bộ được cử đi Vinh (Cao Quốc Việt...) phải xin trở lại bộ môn Nhi tại Hà Nội. Việc mở trường Hải Phòng chậm chạp và phân hiệu này chỉ thực tế hình thành sau 1975. Các trường khác (Thái Bình, Bắc Thái) cũng mở rất muộn, vậy mà vẫn bất cập từ cơ sở, trang, thiết bị và đội ngũ. Trường Thanh Hóa mở lớp đầu bổ túc y sĩ lên bác sĩ đều do các thầy trường ta đảm nhiệm, và chỉ được một khóa rồi giải thể. Hiện tượng “sinh non” của các trường trên quá rõ. Đó là do muốn có rất nhiều bác sĩ trong thời gian ngắn nhất.

Biên chế chuẩn bị cho trường Hải Phòng lúc đó gồm bác sĩ Nguyễn Trinh Cơ (dự kiến hiệu trưởng), bác sĩ Bùi Đồng (phó hiệu trưởng), bác sĩ Nguyễn Hữu Hồng (Giáo vụ), bác sĩ Lê Quang Cát (Giải phẫu), dược sĩ Lương Tấn Thành (Hóa sinh), bác sĩ Trịnh Bỉnh Di (Sinh lý học), bác sĩ Trịnh Kim ảnh (Nội khoa)... Đây là phân hiệu mà trường ta dự định xây dựng thật đúng nghĩa thì lại không thành.

Trong tình hình như vậy, nguy cơ Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc hiện rõ dần. Tháng 6.1962, một hồ sơ đóng dấu "Tuyệt mật" được soạn thảo ở Bộ Y Tế theo chỉ thị từ một cấp cao hơn, gọi là: "Kế hoạch động viên trong năm đầu chiến tranh". Đã thống kê: số y, bác sĩ trước 1954 là 121, sau 1954 thêm được 349 y, bác sĩ và đến 1962 là 816 bác sĩ, 3018 y sĩ, 662 dược sĩ (trung-cao). Điểm liên quan đến trường ta là: phải tổ chức gọn nhẹ, chương trình rút gọn như thời kháng chiến chống Pháp, nội dung dạy phải phục vụ thời chiến thật hiệu quả, số sinh viên giảm đi...

Tuy vậy, trường vẫn soạn thảo tiêu chuẩn giáo sư, phó giáo sư, dưới nữa là giảng viên, trợ lý (vẫn gồm 4 bậc, nhưng tên gọi thay đổi). Tiêu chuẩn chính trị lần này được nêu lên hàng đầu, gồm: lập trường, tư tưởng, đạo đức cách mạng xã hội chủ nghĩa, có thành tích xây dựng ngành... (đối với giáo sư thâm niên trong ngành ít nhất 15 năm, có 3 năm là phó giáo sư hoặc đã được cử phụ trách bộ môn). Danh sách gửi lên Bộ Y Tế để trình Thủ tướng gồm 8 giáo sư (Hoàng Đình Cầu, Trương Cam Cống, Nguyễn Trinh Cơ, Nguyễn Ngọc Doãn, Nguyễn Văn Hưởng, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ, Huỳnh Quang Đại), 23 phó giáo sư (Trần Thị Ân, Nguyễn Dương Hồng, Hoàng Tích Mịnh, Nguyễn Dương Quang, Phạm Khắc Quảng, Hoàng Sử, Nguyễn Tấn Gi Trọng, Lương Tấn Trường, Đặng Hanh Khôi, Đỗ Tất Lợi,...). Các trường khác chưa đến thời điểm để tiến hành phong học hàm, vì vậy việc làm của trường ta rất đơn lẻ, chưa được sự quan tâm của cấp có trách nhiệm. Mặt khác, bộ Y tế cũng không đủ quyền hạn làm việc này. Tuy nhiên, bộ Y tế vẫn có Thông tư ngày 21.6.1963 gửi các Sở, Ty và các cơ quan trực thuộc để ai muốn thì về dự thi trợ lý và giảng viên. Thực tế, không có ai ở các địa phương nộp đơn, cuối cùng thí sinh toàn là các thầy ở trường. Năm sau, trường tổ chức thi tuyển trợ lý và giảng viên theo thông tư nói trên (thi trợ lý có Đào Văn Phan, Phạm Đình Lựu... ở khóa ra trường 1960; thi giảng viên có Trịnh Bỉnh Di... ở khoá ra trường 1955). Rồi cũng chẳng ai công nhận họ.

Chưa bao giờ các biện pháp thực thi để níu kéo chất lượng (nhất là chất lượng toàn diện) lại nhiều như hồi đó. Sự giảm sút chất lượng đã quá rõ. Vài ví dụ. Nội qui thực tập được ban hành ngày 21.8.1962 cho sinh viên thực tập ở phòng khám khu phố đã qui định chức trách và nội dung thực tập cho Y2-Y5, thay cho chế độ, chức trách của Bộ Y Tế ban hành trước đó. Một đề án 12 trang (ký ngày 6.10.1962) về việc đưa sinh viên đi thực tế ở các tỉnh từ 16-17 tuần (tương đương một học kỳ, thay cho 21 tuần như dự định) để: 1) nâng cao nghiệp vụ; 2) học quản lý, tổ chức; 3) học thực tế Việt Nam; 4) học lập trường, tư tưởng và quan điểm. Dẫu vậy, các yêu cầu nghiệp vụ nêu rất cụ thể, chủ yếu là Ngoại-Sản vì ở Hà Nội không dủ bệnh nhân. Tỉnh định đi (vì ở đó có bệnh viện lớn), là: Hải Phòng, Thanh Hóa, Nam Định, Thái Bình, Hà Đông. Thầy hướng dẫn: Dương Chạm Uyên, Lê Văn Điển, Phạm Hoàng Phiệt, Dương Thị Cương.... Năm 1963 đã có 120 sinh viên Y5 do 5 thầy đưa đi, kinh phí 25.435 đồng; dự kiến 1964 sẽ cho 160 sinh viên Y5 (từ Y4 mới lên lớp), kinh phí 56.954 đồng.

Sinh viên các lớp dưới thì đi thực tế lao động sản xuất. Điều quả nhiên là không thể tổ chức cho cả trường rầm rộ về nông thôn hay vùng mỏ gần 2 tháng trời: vì thiếu tiền. Trường đã lập một nông trường ở Thái Nguyên (Phấn Mễ) với mục đích chính là để sinh viên rèn luyện (chân tay), còn cải thiện là thứ yếu. Lớp sinh viên đi đầu tiên là Y1A, Y1B và Y3A, Y3B (năm học 1962-1963). Cùng đi, có hai thầy (kiêm cả công tác y tế nội bộ). Ban chỉ huy nông trường thành lập ngày 17.12.1962 có ông Trần Ngọc Phượng, bác sĩ Đỗ Nguyễn Phương, ông Nguyễn Chí Thành. Năm sau, nếu không xảy ra chiến tranh, sơ tán, chắc hình thức này cũng không thể tồn tại lâu vì rất ít hiệu quả kinh tế, thiếu kinh phí, còn ý thức và “khí thế” cũng rất hạn chế.

Mặc dù đã đưa nhiều lớp sinh viên đi khỏi Hà Nội nhưng số sinh viên vẫn rất đông so với cơ sở, trường lớp, nơi thực tập và số thầy, cô. Chẳng hạn, năm học 1962-1963 ngoài 400 sinh viên Y1 mới tuyển (Phạm Mạnh Hùng, Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Văn Dịp, Nguyễn Gia Khánh, Lê Huy Chính...), còn có 1485 sinh viên chính qui, 59 sinh viên hàm thụ khóa II và 160 sinh viên khóa III, 37 sinh viên lớp Tổ chức Y tế. Số ra trường gồm: 155 Y6 (tốt nghiệp 145) và 59 hàm thụ. Mặt khác, hai trường Y và Dược đã có một số hoạt động tách rời, dù con dấu và hiệu trưởng vẫn là một. Tổng biên chế trường Y lúc đó là 374, sẽ sang Dược 15 còn 359, trong đó có 2 bác sĩ về thường trú Hải Phòng để đón sinh viên Y4, Y5 về thực tập ở bệnh viện Việt-Tiệp (sáng kiến của bác sĩ Nguyễn Trinh Cơ). Tỷ lệ cán bộ giảng dạy chiếm 46,5%, trong đó, Mác-Lê chiếm 7,8%. Thời điểm chia trường cũng là lúc bộ môn Đông Y và bộ môn Thể dục - Quân sự (ghép) được thành lập.

Đề án thừa nhận những sai sót lớn trong chủ trương học 4 năm và các sửa chữa, bổ khuyết được soạn thảo (19.6.1963), tác giả là hai vị có công lớn đề xuất mục tiêu đào tạo: Phan Huy Chữ và Nguyễn Trinh Cơ.

Lý do xin Bộ Y tế cho tăng thêm 1,0 - 1,5 năm, để Bộ Y Tế có thể chấp nhận, hai tác giả đề án đã nêu: 1) để tăng cường môn chính trị, 2) để tăng thêm giờ các môn cơ bản, cơ sở, vì thực tế là học lướt các môn này đã khiến cho việc tiếp thu các môn sau khó khăn hơn, 3) để thực hiện ý định 2 tháng lao động và 4 tháng quân sự, 4) để tăng cường học Đông Y, Thể dục là 2 môn vừa thành lập trước đó, và 5) để sinh viên có thể nghỉ hè.
Trên thực tế, thời gian 1,0 - 1,5 năm xin kéo dài chương trình chủ yếu dành cho các môn cơ sở (lớp Y2 phải học lại Hóa, Y3 đã học Hóa sinh vẫn phải quay lại học thêm 66 giờ Hóa...).

Về nghiên cứu khoa học, thời kỳ 1960-1965 đánh dấu bước tiến lớn của trường. Lúc này, Thư viện Y học trung ương được thành lập, đặt dưới quyền Hiệu trưởng. Đầu năm 1961 có một hội nghị khoa học toàn trường, lần đầu tiên, cán bộ, sinh viên được nghe các kết quả nghiên cứu giải phẫu gan (Tôn Thất Tùng), báo cáo về sinh tổng hợp prôtêin, để gián tiếp nói về sự đúng đắn của "học thuyết di truyền tư sản" đối lập với học thuyết Mítsurin ((Đặng Văn Ngữ, lúc này, ông là chủ nhiệm bộ môn Sinh Học trường ta).

Năm 1963, Hội nghị Khoa học lần thứ II diễn ra vào các ngày 26 và 27 tháng 3. Có 13 đề tài tiêu biểu ở hội trường lớn, trong đó có đề tài của một thầy trẻ (Nguyễn Quang Quyền) về phân chia các thùy phổi. Các thầy trẻ đã báo cáo công trình đầu tiên của mình, mặc dù họ mới ra trường 3, 4 năm, khiến số đề tài tăng gần gấp đôi so với hội nghị khoa học lần thứ nhất.

Trong số 11 đề tài ở Hội trường I, có 7 của các thầy trẻ (Phạm Gia Khải, Đào Văn Chinh, Trần Ngọc Ân,...), ở Hội trường II, họ chiếm 50% số đề tài (Trịnh Văn Minh về đường mật trong gan...). Tối 26 và hôm sau cũng vậy. Theo tờ TIN Y DƯợC (số 3), một tờ nội san mà người góp công sức lớn nhất là các bác sĩ Phan Văn Duyệt, Nguyễn Ngọc Lanh, năm đó đã sơ-tổng kết 313 đề tài, gấp 1,5 lần năm 1961. Đề tài phản ánh tình hình bệnh tật đa dạng và đặc trưng cho Việt Nam, có nhiều đề tài về vệ sinh phòng bệnh, dược. Một số đề tài sau này phát triển khá cao (cắt gan, cắt khối u hạ họng, giải phẫu gan, phổi...). Hướng nghiên cứu mà Đảng ủy và Hội đồng Khoa học đề ra và được hưởng ứng nhiều là: Đặc điểm tình hình bệnh tật, chẩn đoán, điều trị; điều tra cơ bản; khắc phục khó khăn trong chuyên môn...Còn hướng "Chế biến lương thực" và hướng "phục vụ sản xuất công-nông nghiệp" thì rất ít người làm; chỉ có Ngô Gia Thạch nghiên cứu về sự hấp thu của ngô (Nhà Nước đang thay một phần gạo bằng ngô trong bữa ăn của viên chức); như vậy bị nhận định là chưa thực hiện tốt phương châm giáo dục.

Từ đầu năm 1964, trường Y và Dược có con dấu riêng. Khóa bác sĩ vào trường năm 1959 thi tốt nghiệp. Đây là khóa dự định học 4,5 năm, nay thành 5,5 năm. Trong ban giám khảo có một số bác sĩ quân y hỏi thi, báo hiệu trường ta bắt đầu phải cung cấp bác sĩ cho quân đội một cách hệ thống, mặc dù từ khóa ra trường 1960 đã có người vào quân y (Phan Đình Kỷ...).

Ngày 5.8.1964, không quân Mỹ bắt đầu đánh phá một số địa điểm trên miền Bắc nhưng sau đó, tình hình lại tạm yên cho đến khi lớp này thi tốt nghiệp.

Rồi chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ bắt đầu ác liệt. Đợt đầu đã có 48 bác sĩ thuộc khoá trên đi phục vụ chiến đấu ở đảo Cồn Cỏ, Quảng Bình và nhiều nơi khác. Người hi sinh đầu tiên là bác sĩ Tuấn (tại Quảng Bình). Đây cũng là lớp đầu tiên được lấy đi chiến trường miền Nam với số lượng rất đông. Dù vậy, trường ta vẫn kiên quyết giữ chương trình 6 năm, vì: 1) số bác sĩ phục vụ nhu cầu chiến đấu đã tạm đủ, sẽ tiếp tục có nhiều khóa ra trường, 2) trường xác định vai trò đầu đàn trong quá trình hình thành các trường đại học Y khác, kể cả khi thống nhất đất nước (chi viện giảng dạy, cung cấp cán bộ...). Kết quả của Hội nghị Khoa học được phát huy: năm 1964, tổng kết được 198 đề tài của 24 bộ môn. Một số tiến sĩ, phó tiến sĩ sau 12 năm liên tục học ở Liên Xô (1952-1964) đã bắt đầu làm việc ở trường: Lê Văn Phước, Nguyễn Năng An...

Điều thú vị là Phủ Thủ tướng chỉ thị khen thưởng sinh viên hàng năm, căn cứ vào kết quả học tập, phấn đấu, kết quả thi, và bình bầu, đặc biệt là nhận xét của các thầy trực tiếp phụ trách tổ (thầy Phạm Gia Khải, Vũ Văn Đính, Trần Ngọc Ân, Đỗ Đức Vân, Nguyễn Đình Hối, Nguyễn Ngọc Lanh....). Bộ Y Tế đã chuẩn y đề nghị của trường, khen thưởng 34 sinh viên (ký ngày 1.10.1964).

Lớp Y1 có 8 sinh viên được khen (Quan Lệ Nga, Đinh Thị Bích Thu,...), Lớp Y2 có 14 sinh viên (Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Chí Phi, Nguyễn Gia Khánh, Phạm Mạnh Hùng, Trần Phú Nhiên,...), lớp Y3 có 8 sinh viên (Trần Văn Dần, Phạm Thị Minh Đức, Hoàng Hữu Đốc, Bạch Vọng Hải,...), lớp Y4 có Văn Đình Hoa, Đinh Thế Bản, Nguyễn Duy Toàn...

Trường bắt đầu tìm nơi sơ tán. Khóa bác sĩ ra trường năm 1965 (và sau đó là 1966) được giữ lại trường rất đông và đóng góp lớn đầu tiên của họ là di chuyển tài sản, trang thiết bị, đào hầm, ổn định cơ sở nơi sơ tán và bắt đầu giảng dạy thực tập cho các tổ sinh viên. Trong khi đó, trường vẫn lập Hội đồng Giáo dục - Khoa học, thay cho Hội đồng Khoa học trước đây. Phiên họp đầu tiên (20.2.1965) đi đến quyết nghị:

1) Lập 3 tiểu ban (Giáo dục: Nguyễn Trinh Cơ; Khoa học: Đặng Văn Chung và Cán bộ: Phan Huy Chữ),
2) Định ra hình thức thi tuyển giảng viên,
3) Đề ra mục tiêu đào tạo, nghiên cứu khoa học và đào tạo sau đại học Quả là không lúc nào trường không nghĩ đến chất lượng và tương lai, dù là đang bước vào cuộc chiến tranh mới, hết sức ác liệt để bảo vệ đất nước.

Giai đoạn 1955-1964 cho dù với nhiều bài học về ấu trĩ, tả khuynh, nóng vội, gây những thiệt hại nhất định; nhưng cũng mang lại rất nhiều kết quả tốt đẹp: sự trưởng thành của Đảng Bộ nhà trường, sự hoàn thiện về cơ cấu tổ chức nhà trường cũng như sự tạo dựng đội ngũ các thầy trẻ trong hoàn cảnh quá tải về chỉ số đào tạo, chất lượng tuyển sinh tuy bất cập với những tiêu chuẩn rất khó định lượng, nhưng đã đạt được mục tiêu cung cấp một số lượng lớn bác sỹ cho cả nước và họ đều hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.


Chương IV
THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ (1965 - 1975)
 

Sau giai đoạn chấn chỉnh một số lệch lạc do ấu trĩ, tả khuynh, duy ý chí từ ngoài xã hội ảnh hưởng vào, trường đại học Y khoa dần dần ổn định và lớn mạnh để có thể đảm nhận những nhiệm vụ nặng nề của thời chiến.

Do không đàn áp được cuộc nổi dậy của dân chúng miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mỹ đánh phá bằng không quân ra miền Bắc để “ngăn chặn sự chi viện”. Sự đánh phá này mang tính “leo thang” - nghĩa là ngày càng ác liệt - để thăm dò dư luận quốc tế và phản ứng của đối phương. Đối phó lại, một trong những khẩu hiệu phổ biến hồi đó đề ra cho toàn dân miền Bắc là “Vừa chiến đấu, vừa sản xuất”. Trên báo chí cũng như trên áp phích, khắp nơi, người ta thấy hình ảnh nông dân đi bừa có súng trường trên vai, công nhân đứng cạnh máy với khẩu súng dựa bên. Tuy vậy, trong những năm miền Bắc bị máy bay Mỹ đánh phá, trường ta vẫn tiếp tục đào tạo ra những bác sĩ với số lượng cao hơn mọi thời kỳ trước đó góp phần đáp ứng cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước thống nhất tổ quốc.

Sáu nhiệm vụ chính của trường trong thời kỳ này, gồm:

1- Phải tổ chức sơ tán và phân tán toàn bộ để đảm bảo an toàn cho công tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu, đồng thời sẵn sàng phục vụ cấp cứu phòng không; trước sự đánh phá rộng khắp và ác liệt của không quân Mỹ.

2- Phải mở rộng cả qui mô lẫn đối tượng đào tạo, để đáp ứng yêu cầu về số lượng cho ngành Y, cho nhu cầu miền Nam và cho quân đội.

3- Phải đào tạo sau đại học, dù Bộ Đại Học chưa có chủ trương; nhưng do ngành Y đã có sản phẩm đại học trước các ngành khác tới 15 năm nên đến nay số bác sĩ có thâm niên cao đã tích luỹ lại rất lớn, cần đào tạo tiếp để họ đảm nhiệm được những nhiệm vụ mới, cao hơn.

Đây cũng là việc làm đơn độc của riêng trường Y trong ngành đại học nói chung, giống như trước đây trường Y tiến hành sắp xếp đội ngũ thầy vào thang bậc. Suốt thời kỳ chống Mỹ, bộ Đại học chưa có chủ trương gì về đào tạo sau đại học ở trong nước (do đa số các trường trong ngành này chưa có yêu cầu, cũng như năng lực chưa cho phép; từ năm 1960 trở đi các trường trên mới có các khoá tốt nghiệp; do vậy, số cán bộ tốt nghiệp đại học ở các ngành khác chưa có đủ thâm niên đến mức đòi hỏi đào tạo sau đại học). Còn với ngành Y, từ thập niên 70 đào tạo sau đại học bắt đầu trở thành một yêu cầu bức xúc.
Sở dĩ trường Y phải làm, và làm được, nhiệm vụ đào tạo sau đại học thì một trong những nguyên nhân là do nó trực thuộc Bộ Y Tế, được Bộ yêu cầu làm và khuyến khích làm. Nguyên nhân khác, hồi đó ngành y có số giáo sư chiếm quá bán hay chính xác hơn là ba phần tư tổng số giáo sư của miền Bắc.
Các chức danh sau đại học được đặt ra khi đó của ngành Y là: Bác sĩ chuyên khoa cấp I, Bác sĩ chuyên khoa cấp II, sau đó có thêm Bác sĩ Nội trú và một số đối tượng thử nghiệm khác. Công lao thuộc về các thầy Nguyễn Trinh Cơ (khi đó là phó hiệu trưởng phụ trách đào tạo, rồi hiệu trưởng) và Hoàng Đình Cầu (vụ trưởng, rồi thứ trưởng phụ trách Đào tạo).

4- Phải làm nhiệm vụ trường trọng điểm.

Khi đó (1968) các “phân hiệu” Y địa phương đã được thành lập; trường Y Hà Nội có nhiệm vụ phải chi viện trong nhiều năm về giảng dạy, phải đào tạo thầy, kể cả phải san sẻ đội ngũ thầy cho các phân hiệu đó.

5- Phải hoàn chỉnh mục tiêu đào tạo.

Đến năm 1959, các nhận định được phát ngôn chính thức ở trường Y vẫn khẳng định chất lượng toàn diện của bác sĩ ra trường đang tăng lên. Chất lượng toàn diện phải gồm 3 tiêu chuẩn; trong đó tiêu chuẩn Chính trị-Tư tưởng đứng hàng đầu, kế đó mới đến tiêu chuẩn Chuyên môn và Sức khoẻ.

Nói như trên, có thể hiểu là những biện pháp đã thực thi những năm trước đó (như tăng giờ Chính Trị lên 12% và hơn nữa, chỉnh huấn dài ngày liên tiếp, lao động hàng tháng ở nông thôn và vùng mỏ...) đã bù đắp hoàn toàn - mà còn bù đắp vượt mức - những thiệt hại do xáo trộn học tập, cắt giảm chương trình...

Sự giảm sút về chất lượng chuyên môn đã được nhìn nhận và nhà trường khắc phục bằng cách đề ra những “yêu cầu tối thiểu” mà một bác sĩ ra trường công tác độc lập phải đáp ứng. Đó là tiền đề cho ngày nay ta gọi là “mục tiêu đào tạo”, mặc dù lúc ấy trường Y cũng như toàn ngành đại học chưa ai có khái niệm gì về nó cả. Trong quá trình thực hiện các “yêu cầu đào tạo”, trường có bổ sung, tu sửa, nên đến 1962 thì chính thức hình thành “mục tiêu đào tạo”, tên gọi mà nay được dùng phổ biến.

Việc làm của trường Y là tự phát và đơn độc - do những bức xúc của chính trường này. Năm 1966, đại hội đảng bộ trường Y lần thứ 10 chính thức xác định các mục tiêu cụ thể trong đào tạo bác sĩ (gồm Chính trị-Tư tưởng, Chuyên môn và Sức khoẻ) mà tác giả thật sự là thầy Nguyễn Trinh Cơ và ông Phan Huy Chữ. Nay xem lại, nội dung thì cả 3 phần của mục tiêu đều quá cao và còn trừu tượng hoặc chung chung. Tuy nhiên, có nhiều nội dung và ý tưởng vẫn còn được giữ lại tới bây giờ.

Sơ tán và phân tán trường
Tổ chức sơ tán

Từ 5.8.1964, khi không quân Mỹ lần đầu tiên đánh ra vùng Hồng Gai, Quảng Ninh, rồi sau đó là Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, chiến tranh thật sự bắt đầu lan toả trên khắp miền Bắc. Trung ương có chủ trương sơ tán các trường đại học và chuyên nghiệp.

Đó là việc trường di chuyển người, phương tiện, tài sản... khỏi nơi đông dân, đô thị, nơi có các trung tâm sản xuất công nghiệp, khu quân sự, đường giao thẳng, cầu, bến... (là những mục tiêu đánh phá của không quân Mỹ) tới những nơi có thể nguỵ trang để tránh bị phát hiện, sống và làm việc phân tán để tránh thiệt hại nếu lỡ bị máy bay Mỹ tìm ra và oanh tạc. Phải thấy khả năng trinh sát của không quân Mỹ không thấp kém. Kiếm được một địa điểm thoả mãn các điều kiện như vậy cho vài ngàn con người không dễ. Nơi sơ tán còn phải có một số điều kiện tối thiểu cho cuộc sống lâu dài, không tạm bợ, lại thuận tiện đi lại (để tiếp tế, để sinh viên di chuyển tới những địa điểm học tập khác nhau...).

Trong một chỉ thị khẩn và tối mật ký ngày 5.5.1965, Bộ Y Tế phải chuẩn bị kế hoạch sơ tán cơ quan Bộ và các đơn vị trực thuộc, trong đó có trường Y Hà Nội. Dựa trên các kinh nghiệm rút ra từ hồi kháng chiến chống Pháp, đồng thời đề phòng địch có thể đưa cả lục quân ra miền Bắc, Bộ Y tế dự kiến đưa các lớp đầu tiên (năm thứ nhất, hai và ba) của hai trường Y, Dược sơ tán lên huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang), còn các lớp trên (năm thứ 4-6) đã có khả năng nhận một số nhiệm vụ thì ở lại Hà Nội và một số địa phương, nhưng dưới dạng phân tán để vừa học tập, vừa phục vụ chiến đấu.

Sơ tán, nhưng vẫn phải duy trì đào tạo. Sơ tán chính là để duy trì đào tạo và đào tạo an toàn. Theo hướng như vậy, một vài trường đại học định tìm địa điểm gần biên giới phía Bắc để khi cần có thể rút sang đất Trung Quốc - giống như trường sư phạm hồi chống Pháp đã làm. Trường này được nước bạn cho phép đóng ở Nam Ninh (hồi đó gọi là “khu học xá Nam Ninh”) và được bạn hỗ trợ đủ thứ. Còn trường Y, ngay từ hồi chống Pháp đã không thể làm như vậy, thì nay càng không thể làm như vậy. Bởi lẽ, nó phải tồn tại và hoạt động ngay giữa lòng cuộc kháng chiến để phục vụ cuộc kháng chiến.

Trường Y cũng khẩn trương tự tìm địa điểm sơ tán. Lần này Chiêm Hoá - địa điểm lý tưởng thời chống Pháp - đã không được chọn, vì không hội đủ các điều kiện đề ra. Đường giao thông lên Chiêm Hoá khá xa (cách Hà Nội tới 200 km; rất không dễ đi, lại còn nhiều lần phải qua cầu, rất dễ bị cắt đứt. Nơi chứa được hàng ngàn con người cũng không tìm ra. Bởi vậy, từ tháng 3 đến tháng 7.1965 những người có trách nhiệm của trường đã đi tới nhiều địa điểm thuộc các tỉnh Phú Thọ, Bắc Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn... nhưng đều không có kết quả. Tới tháng 8.1965 thì chọn được địa danh "Khe nước lạnh" thuộc xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Sau gần hai tháng chuẩn bị (thủ tục xin mặt bằng, san nền, mua nguyên vật liệu...), công việc xây dựng cơ sở được tiến hành với lực lượng sinh viên của các lớp Y khoa năm thứ hai (Y2, khóa 1964-1970, gồm gần 500 người). Mới làm được hơn chục nhà tranh tre thì đến 10.9.1965 có lệnh ngừng lại. Lý do là sau hai lần khảo sát kỹ, nhà trường thấy đường đất vẫn quá xa xôi, việc vận chuyển tiếp tế của trường và việc đi lại của thầy và sinh viên sẽ gặp nhiều khó khăn. Cuối cùng, một đoàn do hai vị phó hiệu trưởng dẫn đầu (ông Phan Huy Chữ và ông Thẩm Trọng Tảo) đã tìm được một nơi gần hơn, ở các xã Hợp Thành, Tân Thành và Phủ Lý huyện Phú Lương, tỉnh Bắc Thái, cách quốc lộ 5-7 km (không quá xa và đủ an toàn), và con đường nhỏ từ quốc lộ dẫn vào địa điểm sơ tán rất tiện để xe ô tô có thể rẽ vào tận nơi. Đây lại là quê bác sĩ Nhâm Kim Duyệt, hồi đó là thầy ở bộ môn Sinh Lý Học, cũng là một thuận lợi vì thầy Duyệt có quan hệ rất tốt với chính quyền địa phương (sau này, ông xin chuyển công tác về trường Y Bắc Thái, khi trường này thành lập). Từ cuối tháng 9.1965, trường Y bàn giao cơ sở “Khe nước lạnh” (Vũ Lễ) cho một cơ quan khác để chuyển về xây dựng ở địa điểm mới từ ngày 16.10.1965.

Lực lượng huy động cho việc xây dựng và vận chuyển các phương tiện từ Hà Nội lên chủ yếu dựa vào gần 1000 sinh viên các lớp năm thứ hai ( khoá 1964-1970 )và năm thứ ba ( khoá 1963-1969 ) đảm nhiệm công việc xây dựng và Y1 ( khoá 1965-1971 ) đảm nhiệm vận chuyển, cùng 200 các thầy cô thuộc các bộ môn khoa học cơ bản, y học cơ sở, chính trị, ngoại ngữ, thể dục quân sự và nhân viên các phòng, ban, thư viện... Lực lượng này sau khi xây dựng xong cơ sở thì ở lại, khai giảng luôn; do vậy họ phải cố hoàn thành trong vòng hai tháng để khỏi quá muộn.

Có thể kể tên một số sinh viên từng là nòng cốt hoặc tham gia tích cực lực lượng đó: Y1 (khóa 65-71): các anh Bùi Hữu Chuân, Vương Tiến Hòa (cả hai sau làm ở trường), Lê Phúc Cầu (hiện là trưởng khu khám bệnh viện Hữu Nghị)..., các chị Nguyễn Thị Giỏi (sau là giáo viên nhà trường, hy sinh đêm 22.12.1972 khi máy bay B52 ném bom bệnh viện Bạch Mai), Đoàn Hạnh Nhân (sau làm ở bộ môn Ký sinh trùng và công tác thanh niên của trường), Tôn Kim Thanh (nay là viện trưởng Viện Mắt Trung ương), Nguyễn thị Lạc Hồng (con một gia đình Việt kiều ở Marốc gửi về học trong nước); Y2 (khóa 64-70, đã học ở Hà Nội một năm): có các anh Ngô Toàn Định, Nguyễn Thế Hiệp, Trương Văn Việt, Nguyễn Tiến Lương, Lê Xuân Lan, Tôn Thành Minh, Nguyễn Tiến Nạo... Bốn sinh viên Lương, Lan Minh, Nạo sau đó là đoàn trưởng và đoàn phó của hai đoàn sinh viên gồm 95 người gia nhập quân đội cuối 1968, khi họ lên Y5. Còn Y3 (khóa 63-69): sau này ra trường có một số về các bộ môn như các anh, chị Tôn Thất Bách (Ngoại), Đặng Văn Tằng và Nguyễn Văn Ngọc (Sản), Nguyễn Hữu Toản và Đinh thị Bích Thu (Nhi), Bùi Tố Nga (Mắt), Nguyễn Văn Bảo, Nguyễn Viết Thiêm (Tâm Thần)... hoặc công tác ở nơi khác như các anh Lại Phú Thưởng, Lê Ngọc Trọng (sau làm Hiệu trưởng trường Y Bắc Thái rồi Thứ trưởng Bộ Y Tế)...

Cơ sở sơ tán của trường là một khu vực khá rộng thuộc phạm vi 3 xã kề nhau là Hợp Thành, Tân Thành, Phủ Lý (huyện Phú Lương), sau này thêm một xã thứ tư là Phấn Mễ, nằm tách riêng nhưng cũng không xa lắm (thuộc khu mỏ than gần ngã ba Bờ Đậu, cách thành phố Thái Nguyên khoảng 20 km). Mật danh trường lúc này để giao dịch thư từ là Trường Bổ Túc Văn Hoá Hoàng Hoa Thám. Để đề phòng thiệt hại lớn khi bị đánh phá, các bộ phận cấu thành đã đóng rải rác thành nhiều cụm theo “khối” lớp và bộ môn, trải dài khoảng 10 cây số; có đủ hầm hào. Khu sơ tán được chia thành các khối với tên gọi: K1 có các lớp và bộ môn thuộc năm thứ nhất; K2 là năm thứ hai; K3 chỉ có nửa số lớp năm thứ ba, nửa còn lại luân phiên về học lâm sàng ở Hà Nội hoặc ở các nơi sơ tán khác; K4 lúc đầu ở gần ngay đấy (hồi đó còn có một số sinh viên Lào), sau rời xuống Phấn Mễ, là chỗ dành riêng cho khối chuyên tu, hàm thụ, dự bị đại học, kỹ thuật viên, v.v...; còn K5 là khối điều hành trung tâm (gọi là “Đoàn bộ”) có vị trí gần như cách đều các khối khác, gồm các phòng, ban (kể cả thư viện, ban in, các kho tàng, khu máy phát điện) thuộc bộ phận quản lý, lãnh đạo. Trong một khối, lớp nọ nằm cách xa lớp kia; và ngay trong một lớp, nhà ở của mỗi tổ sinh viên cũng cách nhau khá xa. Tất cả nằm dưới tán lá cây kín đáo, có đủ hầm hào trú ẩn được nguỵ trang cẩn thận. Nhiều lớp, nền được đào sâu dưới mặt đất khoảng một mét, bao quanh có tường đất dầy cao khoảng nửa mét; như vậy, vẫn đủ ánh sáng ban ngày nhưng người ngồi học thì được che chắn an toàn. Từ mỗi lớp, có nhiều hào giao thông toả ra xung quanh, đảm bảo phân tán cả trăm con người chỉ trong chốc lát.

Ổn định đời sống nơi sơ tán

Mỗi lớp có một tổ cấp dưỡng, bếp và nhà ăn riêng. Mỗi khối hình thành một đơn vị quản lý, chỉ đạo và gồm đầy đủ các bộ môn cũng như các lớp sinh viên của một niên khoá. Trong học kỳ đầu của năm học 1965-1966 số sinh viên ở nơi sơ tán là 1.340 với gần 200 thầy và nhân viên; tới năm học 1967-1968, số sinh viên dã lên tới 1.770 với gần 400 cán bộ, nhân viên (số liệu tính đến tháng 6.1968). Đó là vì năm sau đã tuyển sinh nhiều hơn năm trước.

Các phó hiệu trưởng lên thường trú để phụ trách khu vực sơ tán là ông Thẩm Trọng Tảo (từ 1965 đến 1967) và ông Đỗ Doãn Đại (lên thay thế được một năm thì đến thời điểm Mỹ tuyên bố ngừng đánh phá miền Bắc). Theo cách tổ chức hồi đó, mỗi lớp năm thứ nhất (do còn bỡ ngỡ) có một thầy giữ chức “chủ nhiệm”, với nhiệm vụ lo toan mọi mặt công tác, gồm cả giáo vụ, quản lý sinh viên, quản trị, để bảo đảm cho sinh viên ăn ở và học tập tốt. Đó là những cán bộ đi học, mới tốt nghiêp BS, nên vừa có kinh nghiệm quản lý, lại rất gần gũi sinh viên (dù không dạy, vẫn được sinh viên coi như thầy) và thật sự là cái cầu nối để cấp cao nhất hiểu rõ tình hình chung. Khi lên Y2 thì sinh viên không cần có “thầy chủ nhiệm” nữa. “Thầy” lại đón nhận một lớp của khối Y1 mới vào trường. Có thầy đã làm chủ nhiệm nhiều năm, công sức đóng góp không phải nhỏ.

Sau này khi trường trở về Hà Nội (1973), các thầy “chủ nhiệm” đã chuyển sang làm cán bộ giảng (như thầy Trần Kỷ sang bộ môn Sản Phụ (đã mất), thầy Nguyễn Thản sang bộ môn Lao (mới nghỉ hưu), hoặc sang cơ quan khác (như các thầy Trần Quê (đã mất), Phạm Quang Y, Hồ Ngọc Kê, Nguyễn Hữu Nam, Nguyễn Tiến Chúc...).

Những “thợ xây” sinh viên phần lớn chưa quen lao động nặng, chưa hề biết làm lán, nhưng dưới sự hướng dẫn của nhân viên Ban Kiến Thiết, đã xắn tay áo chặt cây, san nền, khai thác và vận chuyển tranh, tre, nứa, lá... rồi khẩn trương đục đẽo, dựng khung, đan liếp, lợp mái. Do tuổi còn trẻ, hăng hái, hiểu biết, họ quen việc rất nhanh. Quả thực, trường còn phải trau dồi cho họ những kỹ năng nghiệp vụ cao gấp trăm lần việc lao động chân tay, như dựng lán. Cứ như thế, sau hơn 3 tháng, từ cuối tháng 10.1965 đến tháng 2.1966 ở nơi trường sơ tán đã mọc lên 153 “công trình” đầu tiên với tổng diện tích 9.420 m2, bảo đảm kỹ thuật và chất lượng cho kịp khai giảng năm học. Khối nào cũng có ít nhất vài ba “giảng đường”, loại to nhất có khoảng 100-150 chỗ ngồi, còn loại nhỏ thì vài chục chỗ. Các bộ môn đều có nhà thực tập, phòng thí nghiệm, văn phòng và nơi ăn ở cho nhân viên và các thầy. Lúc mới lên, sinh viên còn phải ở nhờ nhà dân, sau đã xây dựng từng dãy nhà tập thể cho mỗi lớp và cho riêng nam, nữ. Mọi chỗ, gồm bếp, nhà ở, nhà thực tập và lớp học... đều có đủ hầm hào; do vậy đến nay chưa ai tính nổi số hầm hào đã được sinh viên đào, đắp, và tu sửa hàng năm. Các lớp của năm học sau còn tiếp tục công việc xây dựng, đến cuối năm 1966, đã hoàn thành 343 “công trình” với 22.526 m2 diện tích sử dụng. Những nhà làm sau đều đẹp hơn, chắc chắn hơn. Như vậy, đến 1966 đã hoàn tất việc xây dựng; sinh viên các khoá sau chỉ việc “hưởng” di sản do đàn anh để lại và chỉ bỏ sức tu sửa nó.

Nước dùng trong sinh hoạt rất sẵn vì ở vùng núi hầu như chỉ khoét sâu chút ít xuống đất là có giếng, nước rất trong (giặt được cả quần áo trắng). Nhiều lớp có sáng kiến làm giếng ngay trong nhà tắm, có thể ngồi mà múc dễ dàng, được các bạn nữ rất hoan nghênh. Chất đốt chưa thành vấn đề vì sinh viên tự đi kiếm củi với mức qui định cho mỗi đầu người là 50kg/tháng. Những người quen lao động chân tay chỉ dành ra vài giờ là nộp đủ số củi quy định, lại còn tương trợ được các bạn nữ. Ngày đó rừng còn chưa bị chặt phá tàn hại tới mức báo động như bây giờ.

Việc chuyển nhà trường lên "định cư" tại khu sơ tán với qui mô lớn thực sự là một công tác to lớn, nặng nhọc và đột xuất, kéo dài nhiều tháng, với phương tiện chuyên chở từ Hà Nội lên (đường xa 120 km) cho tất cả các khu vực mà chỉ gồm có hai chiếc xe tải Gaz 53 ("Molotova") với sức chở mỗi chiếc khoảng 4 tấn.

Những người lái là các ông Hoàng Minh (đã mất) và Nguyễn Ngọc Sinh (người trở thành kỳ cựu nhất trong tổ lái xe còn làm việc đến cuối năm 2000). Gì chứ lái xe ban đêm thì họ đã quá quen thuộc; nhưng để đi quãng đường từ Hà Nội lên địa điểm sơ tán thì họ mất gấp đôi hay gấp 3 thời gian so với bây giờ, vì đường và xe đều rất xấu.

Những trang, thiết bị của các bộ môn, ngoài đồ gỗ, chủ yếu gồm dụng cụ thủy tinh và máy móc nhỏ, đã được chuyển lên đầy đủ. Có một thứ không thể thiếu ở nơi sơ tán, đồng thời cần bảo vệ tránh bom đạn là hàng vạn cuốn sách, báo y học đã được mang theo cho kỳ hết, được phân loại và xếp ngay ngắn vào các giá trong hai căn nhà sàn, và luôn luôn phải lo đề phòng hai kẻ thù nguy hiểm trước mắt là mối và lửa. Chế độ cho mượn sách tương đối dễ dàng vì không có chỗ cho mọi người ngồi đọc tại chỗ.

Có một loại học cụ buộc phải có, nhưng lại "cấm mọi người ngoài trường không ai được biết” ở bất cứ nơi sơ tán nào của trường. Đó là những bộ xương người của bộ môn Giải Phẫu. Nếu đồng bào trong xóm phát hiện được thì khó bề yên ổn.

Nặng nề nhất là những cỗ máy phát điện cổ lỗ hồi đó (càng cồng kềnh bao nhiêu thì công suất càng thấp đi bấy nhiêu), nhưng rất đắc dụng trong phục vụ cho sinh hoạt hoặc cho hoạt động của một số bộ môn.

Việc tiếp tế hàng tháng cho hàng ngàn con người, không phải chỉ có ân, ở, mà còn làm việc, học tập là mối lo toan thường trực của các phòng hậu cần. Gạo còn có thể mua ở kho Đu, nhưng bột mỳ và các nhu yếu phẩm khác đều phải chuyển từ dưới xuôi lên. Tem phiếu mua hàng của sinh viên thì tập trung vào phòng Quản trị; tiêu chuẩn giấy viết thì phòng Giáo Tài phải lo mua cho các “em”.

Khẩu hiệu của trường: “Tất cả vì sinh viên thân yêu” khiến dần dần sinh viên được gọi là “em” từ lúc nào không hay. Những chuyến hàng lương thực, thực phẩm, dụng cụ, hóa chất, súc vật thí nghiệm cùng thức ăn nuôi chúng và "một trăm thứ bà dằn" mua theo tem phiếu hàng tháng của sinh viên và cán bộ gặp khi đường trơn, xe không leo nổi "Dốc Cọ" bất hủ thì anh chị em phòng Quản trị đành ghé vai khiêng vác. Mùa Xuân tuy mưa lầy nhưng xe còn cố vào được tận nơi, dẫu không tránh khỏi phải dùng sức người qua những đoạn đường mệnh danh “cơ giới thua đi bộ”. Nhưng mùa lũ thì khu sơ tán hầu như bị cách ly với thế giới bên ngoài. Dốc Ao Dài xe leo ỳ ạch, cứ như người hen bị đứt hơi. Vậy mà, mùa lũ năm 1968, ở tận trên đỉnh dốc Ao Dài nước còn ngập đầu người, sinh viên nam nữ các lớp phải rồng rắn men theo sườn đồi ra Đu vác bột mỳ với mức 10kg mỗi đầu người. Vậy mà, có tổ lúc về bị lũ cuốn, đành bỏ mỳ để chạy thoát thân.

Sau, để cải thiện sinh hoạt và phần nào đỡ khó khăn về vận chuyển, nhà trường đã xây lò bánh mỳ với công suất khoảng 2.000 chiếc/ngày, chấm dứt món bánh bao "nắp hầm" rắn đặc và cứng gần như ổi xanh. Món “đặc sản” này của các bếp ăn sinh viên mà chính sinh viên cũng khó nhằn nổi.

Bột mỳ nhào nước, nắm lại hình khum khum như chiếc nắp của hầm trú ẩn cá nhân rồi đem hấp cho chín: ăn rất cứng; sinh viên nói đùa là nếu “địch” lên đến đây thì dùng nó để ném thay lựu đạn. Thức ăn đạm bạc, sức trẻ còn cố nuốt được, nhưng các thầy già thì nuốt không trôi cái món nắp hầm này. Bộ môn Sinh lý học khi giảng về phản xạ “cái gì thế” đã được sinh viên thêm thắt vào để thành “cái gì thế, ăn được không”... nói lên mức ăn hồi đó khi chưa có lò bánh và chưa tăng gia sản xuất để tự cải thiện.
Về sau, tại nơi sơ tán đất rộng, người thưa, sinh viên và cán bộ có thể chân nuôi, trồng trọt thoải mái. Các bà, các chị phòng Quản trị có những nương sắn mà ai cũng có thể nhổ “vô tư” luộc ăn. Bác Đôn, bộ môn Sinh lý học nuôi gà gần như thành một trại với hàng trâm con; nhưng chẳng may gặp “mùa toi” thì ăn vội cũng không kịp. Bác Bảng ở Ban in còn có cả "nhà ngói, cây mít", hàng ngày đạp xe đi làm như ở Hà Nội. Thầy L. ở Nga vừa về đã lên ngay nơi sơ tán (bộ môn Sinh Lý Bệnh, K3) được sinh viên Y3 đem tặng rất nhiều thứ “cây nhà, lá vườn” tự tăng gia được; hôm đó thầy được ăn canh rau đay-mướp, nấu với... thịt ếch.

"Thủ đô" K5 là nơi “giao lưu văn hóa” giữa các khối. Mỗi khi có việc lên đó là một dịp gặp nhau, nói cười hể hả, nhận thư, nhận báo từ Hà Nội gửi lên. Mỗi khi có xe dưới xuôi lên là nhộn nhịp người ra đón hàng, đón người.

Xe tải tất nhiên chở hàng là chính nhưng không chuyến nào không chở cả người, có chuyến chở kỷ lục là 63 hành khách không vé (!). Còn xe con do các ông Thuyết, ông Thuần lái thì chở người là chính nhưng cũng không chuyến nào không kèm hàng, kể cả hàng tươi sống (như ếch và chuột nhắt trắng cho các bộ môn làm thí nghiệm). Các thầy già, như thầy Vũ Công Hòe, thì được tặng vé hạng nhất, nghĩa là được ngồi cabin xe tải, nếu không thu xếp được xe con chở thầy.

Có lần Thầy Hoè lên khu sơ tán đi cùng ông Phan Huy Chữ (bí thư Đảng uỷ); sắp tới nơi thì cả hai phải xuống xe đi bộ vì đường trơn, lầy lội. Mỗi vị được “ưu tiên” cấp một chiếc gậy chống để đi bộ cho an toàn; nhưng không hiểu sao chỉ đi một quãng ông Chữ đã trượt chân, chới với suýt ngã. Vốn giỏi thơ và thâm thuý, Thầy đã ứng tác tại chỗ hai câu thơ

Tay cầm chiếc gậy “chủ quan” Chân chưa chạm đất, tay toan với trời

Mọi người cười vui, quên cả mệt. Ông Chữ cứ gật gù khen thơ hay và xin tiếp thu, như em tiếp thu lời răn bảo của anh trong công tác và trên đường đời. Không ai ngờ ông mất trước thầy Hoè tới 20 năm. Trong số giáo sư lão thành của trường ai cũng biết Thầy Hoè lên khu sơ tán nhiều hơn cả và luôn luôn đem theo niềm vui dí dỏm và lạc quan cho mọi người.

Trong không khí hào hùng chung của cuộc kháng chiến mà ai cũng biết rằng sẽ tất thắng, đời sống trên khu sơ tán với những thanh niên trẻ măng, đầy nhiệt huyết, dù khó khân, thiếu thốn nhưng vẫn vui nhộn mà chẳng cần phải có những quán nước vỉa hè như ở giữa Hà Nội bây giờ.

Đôi khi không bị ho, họ cũng cố dặn ra vài tiếng để lên trạm y tế xin lọ xirô "Bổ phế" về chấm bánh mỳ. Nếu nhận được vài viên Terpin thì họ bỗng hết ho và xin trả lại thuốc. Và đời vẫn cứ tươi như thường.
Ông Nguyễn Phong (cán bộ Văn phòng Đảng ủy hồi đó) đã đầu têu kê chiếc bàn nhỏ trong sân nhà thầy Tảo, bày đèn hoa kỳ, khay chén trà, điếu cày, chung quanh có ít chiếc ghế gỗ thấp. Ai đi qua, thấy vị phó hiệu trưởng Tảo khoác áo bông ngồi thu lu cạnh bàn cũng liên tưởng đến ông già hàng nước ở một góc phố nào đó của Hà Nội. Thế là tất cả sà vào và chuyện bắt đầu nở như pháo ran, thường xoay quanh đề tài ăn uống để đỡ thèm và đỡ nhớ Hà Nội. Thầy Tảo chỉ cười hiền lành và rộng lượng khi nghe bọn đàn em ăn nói quá “bốc”. Cán bộ và sinh viên nhà trường có “phong trào” uống chè xanh chính là bắt đầu từ xứ chè Bắc Thái.
Điều thú vị là tại khu sơ tán bỗng “nổ” ra một đám cưới, mở đầu cho các đám cưới khác. Rất vui, rất đông, tuy rất đơn giản mà vẫn đủ mọi thủ tục và lệ bộ cơ bản của một đám cưới. Quần áo cô dâu chú rể thì thua quá xa hiện nay (không áo vét, tuy xơ mi trắng bong nhưng không cravat, quần thẳng nếp là nhờ “vuốt” kỹ (không có bàn là); cô dâu mặc quần “tây”, xơ mi màu), nhưng mức độ vui vẻ, náo nhiệt, chân thành thì gấp mấy lần các đám cưới tại nhà hàng hiện nay. Một trong những đám cưới đó là của thầy Đái Duy Ban, làm ở bộ môn Hoá Sinh. Bạn cùng khoá đặt cho thầy một cái tên rất ấn tượng, chỉ cần được nghe một lần là nhớ mãi.
Về việc đặt tên mới (rất gần tên thực khi phát âm) thì thầy Ninh Đức Dự cũng rất được đồng nghiệp “chiếu cố”, nhưng người ta nhớ thầy vì ai có đồng hồ hỏng lập tức thầy chẩn đoán ra bệnh và điều trị khỏi trong chớp mắt, trả lại cho chủ nhân chiếc đồng hồ chạy nghiêm chỉnh (!); mặc dù nghề chính của thầy là giảng dạy và nghiên cứu Vi Sinh.

Điều kiện sân bãi cũng khá thuận lợi cho các môn bóng, nhất là ở địa điểm được đặt tên một cách ngẫu hứng là “Bãi bằng”, ở K1. Các giáo viên thể dục thể thao như các thầy Hưng, Lâm, Hùng, Thường và cô Nghi hầu như lăn lộn suốt ngày với sinh viên. Đội bóng rổ nhà trường luôn luôn được gửi đi thi đấu. Hồi đó đi đâu được sử dụng ô tô là quá hạnh phúc, nhưng đội bóng rổ đi thi đấu lại chẳng sung sướng gì, vì ngồi như nêm cối. Có lần xe bị phạt ở đầu cầu Long Biên, cảnh sát trố mắt không hiểu làm thế nào mà chiếc xe con lại có thể nhét nổi chừng nấy con người.

Phong trào văn nghệ rất sôi nổi, nhiều hội diễn được tổ chức với lực lượng hùng hậu của sinh viên, sự góp sức của các thầy và nhân viên. Khỏi nói mức độ say mê của sinh viên, nhưng cán bộ, nhân viên các phòng, ban đều còn khá trẻ nên cũng hăng không kém. Có lần, một ban đồng ca lên góp vui với cái tên khi giới thiệu làm ngơ ngác khán giả: tốp ca Y-Thể-Kiến-Hành-Tài-Lò (tên tắt của các đơn vị góp ca sĩ: Phòng Y Tế, bộ môn Thể dục Thể thao, ban Kiến thiết, phòng Hành chính, phòng Tài vụ và Lò bánh mỳ).

Tổ chức mạng lưới Y tế khá chu đáo vì đó là thế mạnh của trường. Nhiều đơn vị bạn muốn học tập nhưng rồi phải “chào thua” vì không lấy đâu ra đội ngũ bác sĩ hùng hậu đến như vậy. Mỗi khối có một trạm y tế do y tá phụ trách, nhưng người khám bệnh lại là các thầy ở bộ môn luân phiên làm nhiệm vụ. Sinh viên, cán bộ và cả dân chúng đều tin tưởng và không quá lo lắng khi ốm đau. Bệnh xá của trường đóng ở gần K5, có 20 giường bệnh và có cả phòng mổ dã chiến, làm nhiệm vụ "tuyến trên" cho các trạm. Trong năm 1968, không kể các trường hợp ốm đau thông thường, bệnh xá đã nhận hơn một chục trường hợp đẻ thường của nhân dân và hai trường hợp mổ ruột thừa (do các bác sĩ Đỗ Nguyễn Phương và Nguyễn Gia Đồng làm phẫu thuật), chưa kể các tiểu phẫu. Việc đồng bào thiểu số không đẻ ngoài vườn như tục lệ mà tìm đến trạm xá của trường là điều rất có ý nghĩa. Điều áy náy là sau khi trường rút về xuôi thì liệu trạm xá xã có làm được tốt việc này hay không. Những thực tế tương tự đã giúp các thầy rà lại mục tiêu đào tạo cho sát hợp hơn nữa. Sức khỏe của sinh viên và cán bộ được duy trì tốt; điều lạ là nữ sinh viên phần nhiều còn lên cân.

Mặc dù câu nói cửa miệng của dân miền xuôi trước đó là “lử khử, lừ khừ, chẳng ở Đại Từ thì ở Vũ Nhai” để nói lên hai huyện thuộc Thái Nguyên và Lạng Sơn là hai cái ổ sốt rét; vậy mà mấy năm sơ tán ở vùng núi Thái Nguyên không có trường hợp sốt rét nào khiến mọi người càng nhớ đến công trình tiêu diệt sốt rét trên toàn miền Bắc của thầy Đặng Văn Ngữ. Huân chương và danh hiệu nào cho xứng với công lao và tâm huyết của Thầy họ? Lúc này, cả trường đều tự hỏi, thầy Ngữ thân yêu của mình nay đang ở địa danh nào và đang làm gì trong miền Nam mênh mông khói lửa?. Và ngay sau đó càng bàng hoàng và đau đớn khi nhận được tin Thầy (và Thầy Thạch) đã hy sinh.

Phong trào trồng cây thuốc nam do phòng Y Tế phối hợp với bộ môn Đông Y phát động năm 1968 được các thầy thuốc tương lai hưởng ứng sôi nổi. Mỗi lớp có một vườn thuốc Nam và ít nhất là một bộ kim châm cứu. Thời kỳ ở Bắc Thái, thuốc nam và châm cứu có tác dụng khá tốt, kể cả về mặt dân vận. Hầu như lớp nào cũng có vài “thầy lang sinh viên” - cả nam và nữ - luôn luôn sẵn lòng giúp đỡ bà con địa phương trong điều trị những bệnh thông thường. Chẳng hiểu đâu là tác dụng thật sự của châm cứu, đâu là tác dụng tâm lý, nhưng bà con thì rất tín nhiệm các “thầy lang” và các “cô lang”, vừa trẻ đẹp, lại vừa “mát tay”.

Có cả một số sinh viên Lào theo học. Họ được tổ chức thành một tổ, bên cạnh các tổ người Việt vì họ hoà nhập rất tốt, cả về ngôn ngữ, cách sinh hoạt. Ngày tết cổ truyền của họ, họ tưới nước cho mọi người khó ai chạy trốn nổi. Có thầy cô bị tưới nước ướt như chuột lụt, nhưng đó sẽ là người may mắn nhất trong năm. Lại có một nhóm 6 y sĩ Lào bổ túc lên bác sĩ, được xếp học chung với lớp chuyên tu người Việt. Các bạn Lào cũng lấy tên, họ Việt Nam để gọi cho thân thiết và hoà đồng; nhưng nếu gọi họ bằng tên Lào thì họ càng thích thú: Vy-lay-văn, Xom chay, Bun-tơm, Bun Um... Chính số các bạn Lào này đã đem lại cho các tối hội diễn những tiết mục đặc sắc và bất ngờ nhất.

Hội diễn còn có sự tham gia của lớp H. Đó là lớp các sinh viên dân tộc ít người. Lần đầu các thầy và sinh viên được biết thế nào là tiếng khèn, tiếng đàn môi... Anh chị em sinh viên Campuchia cũng được xếp vào lớp H này và cũng tham gia biểu diễn, mặc dù họ chưa thạo tiếng Việt lắm. Sau này, khi về nước hình như số phận của họ khá bi thảm dưới bàn tay sát nhân của Pôn Pốt, nhưng tin tức cụ thể về họ thì không ai rõ.

Một số nhà báo nước ngoài có dịp đi thăm "Trường đại học trong rừng" này đã thích thú khi bắt gặp những cái chòi xinh xắn và cheo leo ở trên 5, 7 cây to, với vài thanh niên da nâu nâu, tóc hơi xoân, ngồi đọc sách. Đó là sinh viên dân tộc ít người, được tập trung riêng thành lớp H để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho họ trong học tập (năm học 67-68 có tới 8 lớp Y2, đánh số A, B, C, D, E, F, H, K, mỗi lớp khoảng 100 người. Sau này, một số vào công tác ở Tây Nguyên đã là chủ tịch tỉnh hay bí thư tỉnh uỷ. Gần đây, Đài TNVN trong phóng sự về thủy điện Yali có nói tới bác sĩ Sô Lây Tăng ở thị xã Pleiku. Đó là một cựu sinh viên của lớp H, nay là bí thư tỉnh ủy. Sinh viên lớp K rất dễ nhận ra bởi bộ đồng phục có chiếc áo bông màu xám, hoặc xanh tím: đó là lớp đã học năm thứ nhất tại Trung Quốc, sau về tập trung vào lớp Y2K, khi lên tới Y3 thì hòa chung vào các lớp khác.

Học tập ở nơi sơ tán

Việc học tập nhanh chóng đi vào nền nếp. Năm học đầu tiên ở nơi sơ tán khai giảng muộn mất hơn 2 tháng vẫn được đánh giá là thành công vì sự nỗ lực cao độ của thầy trò và nhân viên toàn trường trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất tại chỗ và vận chuyển trang thiết bị từ Hà Nội lên.

Rõ ràng, chương trình các môn lý thuyết phải tinh giản bớt cho phù hợp với quỹ thời gian còn lại; nhưng phần nào có thể tinh giản thì phải do cả tập thể các thầy trong mỗi bộ môn quyết định. Bù lại, sinh viên khá đủ sách giáo khoa (nghĩa là vài người chung nhau một cuốn). Họ nghe giảng và cố ghi chép tại lớp; về nhà đối chiếu với sách để bổ sung bài cho đủ. Những người học giỏi chưa thỏa mãn với sách thì đến hỏi thêm thầy. Thì ra, ở nơi sơ tán quan hệ thầy trò rất gần gũi, việc gặp thầy rất dễ dàng so với khi còn ở Hà Nội, tội gì chẳng tranh thủ. Mặt khác, các thầy trẻ cũng thường xuyên xuống các lớp sinh viên với nhiệm vụ là “bám sát” và giải đáp thắc mắc bài học. Nhưng bên cạnh những sinh viên rất giỏi, thì nhiều sinh viên “đánh vật” với bài ghi ở lớp không xong. Điều này nói lên trình độ sinh viên trong một lớp cũng rất chênh lệch nhau. Mỗi lần lên lớp, thầy đứng trước 100 sinh viên say sưa thuyết trình bài giảng, với phương tiện chỉ có phấn, bảng. Sinh viên nhận ra rất nhanh thầy nào giảng “dở”, thầy nào giảng “hay”. Giảng “hay” tức là trình bày sáng sủa, mạch lạc, nhưng chủ yếu là nhiều thông tin, nhiều điều bổ ích, thiết thực.

Thầy V. khi giảng về cơ chế tác dụng của thuốc cứ như đọc lại từng chữ bài đã in ở sách (sinh viên gọi là “đọc chính tả”); làm thế, quả là rất thích hợp với lớp H, nhưng với các lớp khác thì sinh viên lại chán. Thế là họ tìm cách “lỉnh” khỏi lớp (vào thời gian nghỉ giữa buổi), giống hệt như các lớp sinh viên “cha ông” họ từ hồi Pháp thuộc, như thứ bệnh di truyền không thể chữa nổi. Việc này đến tai bác Tư (phụ trách giáo vụ khối Y3) khiến bác phải chấn chỉnh - mà bước đầu tiên là rình để bắt quả tang ai hay trốn. Cách quản lý sinh viên cổ lỗ này rất ít hiệu quả; và nói chung là thua “trí tuệ” (vốn rất ranh ma) của sinh viên. Về sau thầy V. (ra trường 1965) tự xin đi khỏi trường (và một số thầy cùng khoá cũng làm như vậy).

Đoàn Thanh niên rất hay tổ chức các buổi nói chuyện khoa học, mời các thầy làm diễn giả. Số sinh viên đến dự rất đông: ngoài nguyên nhân chính là lòng ham mê, đề tài hấp dẫn và bổ ích; còn nguyên nhân phụ là ở nơi sơ tán có ngồi nhà với ngọn đèn dầu hoả leo lét thì cũng buồn, trong khi ở hội trường có đèn măng-sông, đèn điện, có hát hò trong giờ giải lao.

Các buổi thực tập với dụng cụ thí nghiệm, súc vật, hoá chất... không thua khi còn ở Hà Nội. Tuy nhiên khi chiến tranh càng ác liệt thì các buổi thực tập càng đơn sơ hơn; mặc dù sự nỗ lực của khối hậu cần bao giờ cũng hết sức đáng biểu dương. Bộ môn Sinh Lý bệnh có lần thầy đang trình diễn thí nghiệm gây sốc chấn thương trên chó (phục vụ thời chiến) bằng cách đập vồ liên hồi vào đùi con vật bị trói ngửa trên bàn. Chó đang kêu la ầm ĩ bỗng im bặt. Thì ra nó chết do đói khát và mất sức trong những ngày bị vận chuyển từ Hà Nội lên, không sao gượng nổi để hợp tác với thầy cho đến đầu đến đũa. Hôm đó, không có chó thay thế, hoặc giờ học đã quá muộn, thầy đành “nói” thí nghiệm (thay cho làm thí nghiệm). Những trường hợp như vậy không quá hiếm ở mọi bộ môn; và có một từ ai cũng biết để gọi hiện tượng này: giờ thực tập “chay”. Nhưng “chay” còn hơn là cho sinh viên về sớm.

Khoá ra trường năm 1965 và 1966 được giữ lại trường rất đông, đã trở thành chủ lực trong việc giảng các bài thực tập cho sinh viên Y1, Y2, Y3 ở khu sơ tán. Khi họ bước lên bục giảng lần đầu, “thâm niên” công tác của họ mới vẻn vẹn có vài tháng để “kinh qua” khuân vác dụng cụ, đào hầm, làm lán... nên khi đứng lên bục giảng lần đầu khó tránh khỏi lúng túng. Nhưng đa số thích nghi và trưởng thành rất nhanh. Việc giữ họ lại trường dựa vào “chất lượng toàn diện”, do vậy lực lượng này có nhiều người đã từng ở bộ đội, y tá, hộ sĩ, nhân viên... trước khi vào trường Y, nên đã phát huy sở trường rất tốt trong hoàn cảnh sơ tán cần khắc phục vô số khó khăn trong điều kiện thời chiến (chỉ huy làm lán, đào hầm, tổ chức tăng gia, ổn định cuộc sống...); nhưng lại gặp nhiều khó khăn khi cần đi sâu vào chuyên môn vì tuổi không còn trẻ nữa.. Khoá 1966 có khá hơn rõ rệt, vì trẻ hơn.

Khoá này vào trường năm 1961 có khoảng hơn 300 sinh viên với ba đặc điểm chính: thứ nhất hơn một nửa khoá là học sinh Miền Nam, họ học bổ túc công nông ( một năm ba lớp ) hoặc cán bộ đi học. Thứ hai ngay khi vào học, khoá này được công bố đây là khoá đào tạo cấp tốc phục vụ cho chiến trường nên chương trình rút ngắn, bỏ bớt các môn cơ bản, nặng về học thực hành và đến bệnh viện thực tập ngay từ ngày đầu mới nhập trường. Thứ ba là sau khi học xong ba năm đầu, khoá được chia làm hai loại: hơn một phần ba số sinh viên được chọn chiến trường miền Nam học thêm một năm và lên đường ( Trịnh Bình, Phương Liên, Phương Dung ... ); số còn lại học hết năm thứ 5 thì một nửa vào quân đội và một nửa học tiếp chuyên khoa hoặc đa khoa đồng thời được bổ sung một số môn cơ bản như hoá vô cơ, hoá hữu cơ vào năm thứ năm và tốt nghiệp vào tháng 12 năm 1966. Khoá này được giữ lại trường khá đông và sau này họ trở thành những cán bộ chủ chốt của các bộ môn như Phan Thị Thu Anh, Phạm Thị Thu Hồ, Phạm Thị Minh Đức, Phạm Khánh Hoà, Nguyên Xuân Nghiên, Nguyễn Thị Hảo, Ma Thị Huế, Nguyễn Minh Nguyệt, Nguyễn Hoàng Sơn ... ).

Dù sơ tán, môn ngoại ngữ vẫn được học, nhằm đảm bảo cho sinh viên khả năng “tự học vươn lên” và đây là điều tự hào của trường khi nêu thành tích của ta với các đoàn quốc tế đến tham quan, ý nói: “dù trước mắt khó khăn mọi bề nhưng trường Y vẫn không quên lo cho tương lai”. Tuy vậy kết quả học ngoại ngữu của sinh viên nhìn chung không mấy khả quan.

Sinh viên vào trường chưa có chút vốn liếng ngoại ngữ nào từ bậc phổ thông, mà số giờ ngoại ngữ quy định ở đại học lại rất hạn chế (lại còn bị cắt xén theo tình hình chung, giống như các môn học khác) nên kết quả học tập còn quá xa mới đạt mức mong muốn. Một số sinh viên đạt được kết quả rất đáng khen về ngoại ngữ, nhưng chỉ là con số rất ít. Theo điều tra, họ là học sinh có năng lực cao nên không phải dành quá nhiều thời gian cho các môn Y học; ngoài ra, do họ đã có chút vốn ngoại ngữ từ trước, nên nay càng nỗ lực, lại được thầy cô khuyến khích. Trái lại, tuyệt đa số học ngoại ngữ đã “trả hết chữ nghĩa cho thầy” khi không học tiếp nữa. Ai nhìn thấy sinh viên dân tộc vã mồ hôi ngồi “đánh vần” tiếng Nga ở bờ suối mới thấy thương họ biết dường nào. Thì ra, có người nói tiếng Kinh chưa thạo, bất cứ từ Mô học, Vi Sinh hay Dược lý nào đối với họ cũng là... ngoại ngữ, nay lại phải học thêm Nga văn.
Những năm sơ tán, các trường đại học thiếu nguồn tuyển sinh. Số học sinh học hết cấp III chưa dồi dào, lại vào quân đội một số lớn, do vậy nhiều năm số xin vào trường thấp hơn số định tuyển. Hồi đó, chẳng trường đại học nào là không mở rộng đào tạo. Trường Y, năm học 67-68 có tới 8 lớp Y2, đánh số A, B, C, D, E, F, H, K, mỗi lớp khoảng 100 người. Chất lượng “đầu vào” ắt là rất thấp. Có người không sao học nổi Giải Phẫu, Sinh Lý... với quỹ thời gian hạn hẹp của mình thì lại phải chia xẻ cho môn ngoại ngữ để sau này có “chiếc chìa khoá vàng mở cửa vào lâu đài khoa học”.
Có thầy đã đề nghị: miễn ngoại ngữ cho số sinh viên kém để họ có thể học tốt các môn khác; tập trung công sức thầy ngoại ngữ bồi dưỡng cho số ít sinh viên giỏi để có thể “ăn chắc” môn ngoại ngữ... nhưng chẳng ai nghe, vì “đây là quy định có tính pháp lệnh do Bộ Đại Học ban hành. Phải thực hiện. Miễn bàn”. Tính ra, số giờ lãng phí ở hàng ngàn sinh viên, lại kéo dài nhiều năm, là con số hổng lồ, tương đương kiếp sống của hàng trăm con người.

Các kỳ thi hết môn được tổ chức đúng như quy định. Về hình thức thi, tất cả đều là vấn đáp, vì sự gọn nhẹ của nó. Dùng vấn đáp, thầy có thể hỏi kỹ để kiểm tra sự hiểu biết thấu đáo hay hời hợt của thí sinh, căn vặn những chỗ còn nghi ngờ để yên tâm trước khi cho điểm. Tuy nhiên, do giao tiếp trực diện nên thầy cũng dễ “thông cảm” khi họ tỏ ra đau khổ và vật nài thầy châm chước. Đây là một trong những nguyên nhân khiến sự phân bố điểm thi ở trường này không theo quy luật Gauss.

Với trình độ sinh viên khi vào trường đã quá chênh lệch, học sinh trình độ dưới trung bình cũng được tuyển hết vào trường do giai đoạn này không phải thi, điều kiện để dạy tốt và học tốt quá thiếu, số thời gian học bị chia xẻ cho nhiều việc phải làm, ta có thể đoán chắc chất lượng học tập phải giảm sút - mà sự nỗ lực cao độ của cả thầy và trò chỉ bù đắp được một phần.

Tuy nhiên, căn cứ vào điểm thi hết môn, với tỷ lệ “khá, giỏi” rất cao thì “chất lượng học tập thời chiến lại cao hơn thời bình”. Kết luận này được lặp đi lặp lại vài năm sau đó, mặc dù đa số thầy “chép miệng, lắc đầu”.

Nhưng đến năm 1968, khi bản báo cáo gửi lên ban Thi Đua trung ương đã bị đồng chí trưởng ban Nguyễn Văn Tạo chất vấn: dùng phép thần nào mà được kết quả như vậy?. Từ đó, bắt đầu có sự chính thức thừa nhận chất lượng đang giảm sút. Ông Phan Huy Chữ đã dùng hình tượng “mùa màng có thất bát”, vì trước đó ông ví thi cử như “thầy trò cùng đi thu hoạch vụ mùa”. Và cũng từ đó đến nay, chất lượng luôn luôn được nhắc tới, nhưng chưa khi nào được các thầy vừa ý. Cố nhiên, bao giờ cũng vẫn có những sinh viên thật sự giỏi, nhưng tỷ lệ không cao như ở các báo cáo thành tích thi đua hồi trường sơ tán.

Sở dĩ sinh viên đạt điểm “khá, giỏi” chiếm tỷ lệ rất cao là do:
1) Các thầy không nỡ mạnh tay với những sinh viên là cán bộ đi học hoặc cử tuyển;
2) Một số thầy khi còn là sinh viên đã học hành quá chật vật, nay được làm thầy thì “thông cảm” với trò;
3) Thật sự, sinh viên rất cố gắng trong hoàn cảnh quá gian khổ, thiếu thốn, nên các thầy cũng “thương” mà chiếu cố.

Để kết luận, phải nói rằng kết quả học tập trong những năm sơ tán là do sự cố gắng cao độ của cả thầy, trò và sự phục vụ hết lòng của khối hậu cần. Nhờ vậy lẽ ra chất lượng còn giảm hơn nữa, nhưng đã níu kéo lại được ở mức có thể chấp nhận.

Về xuôi

Cứ thế, cho tới cuối năm học 1968-69, sau khi Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, nhà trường quyết định chuyển khu sơ tán về xuôi. Việc chuẩn bị của các đơn vị đang còn lề mề, vì quyến luyến và vì “kềnh càng” đồ ăn thức đựng... thì mùa hè 1969, một cơn lốc đã phá sập hầu như toàn bộ nhà cửa tại các khối. Thế là khỏi cần phải thúc giục, mọi người đều thu vén ra về. Những cán bộ ăn cơm tập thể thì chẳng có gì cần bàn, chỉ chiếc ba lô lên vai là xong, gọn nhẹ; nhưng số có gia đình, con cái là cả một cuộc di chuyển lớn, thậm chí có người định ở lại vĩnh viễn, không về. Các phòng, ban thì lo vận chuyển nguyên, vật liệu để tiếp tục xây dựng cơ sở mới ở dưới xuôi. Thông báo đã nói rõ: chỉ về “gần” Hà Nội, chứ không phải về “hẳn” Hà Nội.

Toàn khu sơ tán đã nhổ neo rời Phú Lương, về xuôi.

Hai khối Y1 và Y2 không về Hà Nội, vì chưa có chỗ nên họ về tiếp quản những cơ sở của Viện Quân Y 103 nhượng lại thuộc hai xã Cao Viên và Thanh Cao, huyện Thanh Oai, Hà Tây, chỉ cách Hà Nội 20 km. Khối Y3 về xã Ninh Sở, huyện Thường Tín và khối K4 gồm các lớp chuyên tu, hàm thụ về một làng thuộc huyện Đan Phượng, gần cầu Phùng trên đường Hà Nội -Sơn Tây. Giữa Hà Nội và Phùng, từ ngã tư Nhổn vào, còn có cơ sở ở xã Tây Tựu của một vài bộ môn, nhưng chủ yếu dành làm địa điểm đón tiếp các khóa sinh viên mới tuyển để giữ bí mật, an toàn cho cơ sở chính.

Lại sơ tán :

Mùa xuân năm 1972, sau một thời gian ngừng 4 năm, không quân Mỹ trở lại đánh phá miền Bắc, ác liệt nhất là Hải Phòng, Hà Nội, vì vậy từ tháng 6.1972, một bộ phận của trường lại phải ngược lên huyện Thanh Thủy, tỉnh Vĩnh Phú, nay là Phú Thọ. Lần sơ tán này có tính chất tạm thời hơn nên chỉ xây dựng rất ít, chủ yếu là ở nhờ nhà dân. Cho tới sau khi Hiệp Nghị Paris ký kết được vài tháng, tới giữa năm 1973 trường mới dần dần dọn hẳn về Hà Nội, kết thúc một thời gian sơ tán cũng dài gần bằng thời gian sơ tán của nhà trường trong kháng chiến chống Pháp.

Nửa thế kỷ nữa nếu ai viết lại lịch sử trường này thì những điều mô tả dài dòng trên sẽ được thay bằng câu ngắn gọn (đại khái như): Trong thời gian Mỹ đánh phá miền Bắc bằng không quân, thầy trò trường Y Hà Nội sơ tán lên một địa điểm ở Thái Nguyên (1965-1969), tuy gian khổ, nhưngđã tổ chức cuộc sống an toàn, lạc quan và đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tuy nhiên, về truyền thống thì trường này sẽ nhớ mãi các xã ở Phú Lương đã cưu mang hàng ngàn thầy trò trong 4 năm chống Mỹ, coi đó như “Chiêm Hoá thứ hai” của mình, với biết bao kỷ niệm thân thiết và biết ơn. Từ năm 1994, một đoàn các vị lãnh đạo mới của trường, thuở nào còn là sinh viên làm lán và đào hầm ở “Chiêm Hoá thứ hai”, đã về thăm lại nơi xưa chốn cũ đã xây dựng trạm xá, công trình vệ sinh, tặng bàn ghế cho trường tiểu học, trường cấp III và quần áo cho các cháu... Có thể tin rằng các thế hệ sau của trường này dù chưa hề bước chân tới Phú Lương vẫn không quên Phú Lương - như đã không quên Chiêm Hoá.

Phân tán

Như trên đã nói, trong khi các lớp thuộc hai năm rưỡi đầu đi sơ tán thì các lớp trên, từ nửa năm Y3 đến hết năm Y6, được chia làm hai bộ phận: ở Hà Nội và ra khỏi Hà Nội, nhưng tất cả dều phải phân tán.

Số sinh viên các lớp cao, do đã có năng lực phục vụ, nên không đi sơ tán, nhưng cũng không tập trung tất cả ở Hà Nội mà phân tán trong Hà Nội và xa Hà Nội (tới Thanh Hoá); nhằm các mục đích sau; 1) tránh thiệt hại lớn khi bị đánh phá; 2) có thể tham gia công tác cấp cứu trên phạm vi địa dư rộng (ứng cứu tại chỗ); 3) vẫn học tập đưọc theo chương trình định sẵn và thi lên lớp, thi tốt nghiệp đúng niên hạn. Còn nhớ, thời chống Pháp, có sinh viên vào trường 1945, đến 1955 mới có điều kiện thi tốt nghiệp, tính ra đã có 11 năm mang danh hiệu sinh viên, quá niên hạn tới 5 năm.

Địa bàn phân tán

Một phần nhỏ sinh viên ở lại Hà Nội, được gửi học tại các bệnh viện lớn, như Bạch Mai, Việt Đức và các bệnh viện nhỏ, như Xanh Pôn, Bích Câu, Mai Hương... Số lượng sinh viên ở mỗi bệnh viện chỉ 1 hay hai tổ (thay vì 5 - 10 tổ trong thời bình. Không thể để bệnh viện “trống” sinh viên, vì ngoài nhiệm vụ học tập, họ còn nhiệm vụ vừa phục vụ bệnh nhân thường ngày, vừa sẵn sàng phục vụ cấp cứu phòng không khi xảy ra sự việc. Với số lượng nhỏ và luôn luôn sẵn sàng, những sinh viên này có thể nhanh chóng sơ tán khỏi Hà Nội khi cần thiết.

Một phần đông hơn đã phân tán đến học chủ yếu tại những bệnh viện huyện đã được trường lựa chọn theo các tiêu chuẩn đáp ứng được yêu cầu của học tập: vị trí, nguồn bệnh nhân, trang bị, nơi ăn ở... Tiêu chuẩn đặt ra là 1) các bệnh viện đó không quá xa nhau (tốt nhất là theo các tuyến đường liền, không cách sông, cách cầu), để sinh viên khi cần luân chuyển địa điểm học tập thì đi lại dễ dàng; và 2) việc tiếp tế lương thực, thực phẩm thường kỳ không quá khó khăn, cách trở, trong điều kiện địch đánh phá. Ai cũng nhớ rằng toàn bộ sinh viên thời chống Mỹ được nhà nước nuôi ăn học.

Sau khi trường sơ tán và phân tán được hơn một năm, ngày 14.12 năm 1966, ký túc xá Khương Thượng bị máy bay Mỹ bắn phá; hậu quả là ba giảng đường một tầng bị sập mái, nhà ở 4 tầng bị vỡ kính, 45 gian nhà lá của cán bộ, nhân viên bị hư hại. May, không có thiệt hại về người. Do đó, sinh viên đang ở đây phải đến ở nhờ ký túc xá Kim Mã của trường Cán bộ Y tế và cả ở một số trụ sở bộ môn đang “đóng cửa” (vì người đã đi sơ tán), như Viện Giải Phẫu, 5 Quang Trung và cả 13 Lê Thánh Tông.

Tính đến 1.6.1968, số sinh viên ở lại Hà Nội là 586 người (Khương Thượng 275, Kim Mã 150, số còn lại ở các nhà tư, còn số ở tạm các bộ môn đã rút hết, trả lại trụ sở cho bộ môn), số phân tán đi các địa phương (bệnh viện các huyện) là 1.254 người.

Tại các nơi phân tán ở huyện, hồi đầu vì bản thân các thầy cô cũng có con cái, gia đình đi sơ tán, nên chỉ thay nhau đến giảng theo bài được phân công, rồi rút ngay. Cách này thầy cô cũng khổ, vì giống như đi lưu động. Sau một thời gian, phương thức phổ biến được áp dụng là một thầy, hoặc một cô, thu xếp được gia đình, gửi gắm con cái, đến phụ trách toàn bộ đợt thực tập của một tổ, thường kéo dài 1-2 tháng, đảm nhận giảng toàn bộ phần lý thuyết và hướng dẫn thực hành, kể cả thi kết thúc môn học cho một tổ sinh viên ở một bệnh viện huyện nào đó. Ngoài ra, vì có điều kiện ở lâu nên thầy hoặc cô còn tự nguyện lo luôn cả việc quản lý toàn diện sinh viên trong tổ, thay mặt nhà trường liên hệ với cơ sở đến thực tập và cả với địa phương nơi ở. Tại hầu hết các cơ sở thực tập, thầy trò đều gặp thuận lợi vì họ đều năng nổ, ngoài việc chăm nom bệnh nhân, trực đêm, sẵn sàng tham gia cấp cứu khi địch oanh tạc, còn đóng góp công sức xây dựng cơ sở về mặt tổ chức, quản lý, giúp đỡ về kỹ thuật, về thiết bị phòng xét nghiệm, bồi dưỡng cán bộ, nhân viên, coi cơ sở như nhà của mình. Như vậy, địa phương thực tế được tăng cường lực lượng kỹ thuật để mở rộng diện phục vụ, hạn chế việc chuyển tuyến trên. Đáp lại những cố gắng thiện chí ấy, các cơ sở sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi về ăn ở, học tập, công tác cho cán bộ và sinh viên nên thầy trò lại có thêm điều kiện nâng cao chất lượng dạy và học.

Để có thể giảng toàn bộ lý thuyết, hướng dẫn lâm sàng, và làm các công việc kết hợp với địa phương, rõ ràng các thầy cô phải tự trau dồi cho đủ khả năng các làm việc đó. Thâm niên giảng dạy của họ cũng không thể quá mỏng. Các thầy ra trường 1960 (và xung quanh khoá này) là lực lượng chủ yếu đảm nhiệm công việc này, được sinh viên rất quý trọng và biết ơn. Một chi tiết đáng nói: nhiều thầy đang dạy sinh viên lúc đó là “thầy cũ” của lãnh đạo y tế huyện, nên mối quan hệ bước đầu đã rất tốt đẹp.

Theo phương thức trên, vào những năm 1969, 1970 nhà trường đã đưa trên 2.000 sinh viên về hơn 50 địa điểm; ngoài các địa điểm của hai thành phố (Hà Nội, Hải Phòng), còn rất nhiều địa điểm thuộc 5 tỉnh: Hà Tây, Hải Hưng, Nam Hà, Ninh Bình và Thanh Hóa.

Những nơi gần nhất, ngoài các bệnh viện lớn nội thành, là các bệnh viện huyện thuộc Hà Nội (như Gia Lâm, Từ Liêm, Thanh Trì), hoặc thuộc Hà Tây (như Đan Phượng, Hoài Đức)... Còn thì phần lớn trải suốt các tỉnh nói trên: Thanh Hóa (có Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Hà Trung, là những huyện có phong trào y tế loại khá), Nam Hà (có Kim Bảng, Lý Nhân, Duy Tiên, Bình Lục, bệnh viện Nam Hà II ở Phủ Lý), Ninh Bình (có Kim Sơn, Gia Viễn, Gia Khánh, Nho Quan...), Hà Tây (ngoài những huyện gần nói trên, còn có các huyện xa hơn như Phú Xuyên, ứng Hòa, Mỹ Đức, bệnh viện thị xã Sơn Tây sơ tán về Mía), Hải Hưng (có Tứ Lộc, Yên Mỹ, Văn Giang, kể cả bệnh viện tỉnh hoặc thị xã ở nơi sơ tán như bệnh viện Dâu). Cố nhiên, rất nhiều bệnh viện huyện không ở vị trí cũ của nó mà cũng đi sơ tán: thầy và sinh viên phải đến đó.

Riêng Hải Phòng từ lâu vẫn là một cơ sở rất tốt cho học tập, được đánh giá gần tương đương với Hà Nội, lại dung nạp được nhiều sinh viên. ở nội thành, ngoài bệnh viện Việt-Tiệp là chủ yếu, còn các bệnh viện Phụ Sản, Nhi, các bệnh viện khu phố như Lê Chân, Hồng Bàng... nên nhà trường tổ chức hẳn một ký túc xá cho sinh viên Y4, Y6 xuống thực tập, lúc đầu còn ở nhờ ký túc xá trường trung học y tế, sau mua hẳn một dãy nhà lắp ghép ở khu Đồng Bớp (hiện nay đã xây dựng thành phân hiệu Đại học Y Hải Phòng). Các huyện ngoại thành của Hải Phòng như Kiến An, Thủy Nguyên, An Hải, Đồ Sơn... cũng đã từng có sinh viên đến học tập. Có thể nói đây là cách làm rất sáng tạo trong hoàn cảnh khó khăn do chiến tranh gây ra. Trường có chỗ thực tập cho sinh viên, với mô hình bệnh tật rất gần thực tế; còn cơ sở y tế mà trường chọn làm nơi thực tập cũng rất có lợi, như trên đã phân tích. Nhiều sinh viên khi tốt nghiệp được phân về những huyện tương tự (như huyện trước đó đã được thực tập) nên thích nghi rất nhanh và sớm phát huy hiệu quả. Đây không chỉ là kinh nghiệm thời chiến mà vẫn rất có ý nghĩa trong thời bình. Điều trái khoáy là thời chiến đưa sinh viên vào thực tiễn lại có vẻ dễ dàng hơn: cả về tư tưởng lẫn tổ chức.

Thực hiện giảng dạy trong điều kiện phân tán, phải nói là công sức của các thầy ỏ các bộ môn lâm sàng, trước hết là các thầy trẻ (nếu gọi 30-35 là trẻ): họ có sức khoẻ và điều kiện hơn các thầy cao tuổi, đồng thời đang độ “chín” về chuyên môn. Dẫu sao, chính gia đình và con cái họ cũng đang sơ tán khỏi Hà Nội, với trăm thứ việc phải lo toan; họ phải thu xếp cho ổn để có thể “nằm” ở bệnh viện huyện cả tháng trời. Một bộ môn giảng rất ít giờ như Thần Kinh mà thầy Nguyễn Chương (ra trường 1960) cũng phải rất nhiều lần “cắm” ở các bệnh viện huyện. Về sau thầy phải nỗ lực bản thân ghê gớm mới có được học hàm cao nhất bộ môn và được nhà trường phân công làm việc dưới quyền một học trò thầy. Sinh viên sẽ nhớ mãi và có nhiều kỷ niệm với các thầy ra trường 1958-62 là lực lượng chủ đạo trong công tác này.

Tuy nhiên chỉ có hai nơi trường “bám” lâu nhất và sinh viên đến nhiều nhất: đó là bệnh viện huyện Thường Tín, ven đường số 1; và bệnh viện thị trấn Bần Yên Nhân (Hải Hưng) trên đường 5 (nhưng lúc đó đang sơ tán về Tân An). Đây là hai bệnh viện mà trường Y có ý đồ xây dựng thành điển hình cho bệnh viện tuyến huyện vùng đồng băng - nơi đa số sinh viên tốt nghiệp trong tương lai sẽ được cử về công tác (xem phần sau).

GẮN VỚI THỰC TẾ XÃ HỘI. VỪA HỌC, VỪA PHỤC VỤ

Phục vụ sản xuất và đời sống qua nghiệp vụ y tế

Bất cứ sơ tán hay phân tán đến địa phương nào để học tập và đào tạo, thầy trò đều dành thời gian dân vận (tham gia giúp dân làm mùa, gặt hái)... Dân vận tốt là để sau đó dễ dàng tuyên truyền, giáo dục cho dân biết phòng bệnh, biết sống hợp vệ sinh; chứ không phải dân vận để mà dân vận.

Khi nào có tình hình khẩn cấp (vỡ đê, cứu hoả...) thì ai cũng phải tham gia khi được huy động. Không thể kể hết những dịp thầy trò trường này được huy động đi làm nhiệm vụ trong điều kiện khẩn cấp. Ví dụ, khi vỡ đê Cống Thôn, 200 sinh viên năm thứ sáu lập tức lên đường, dùng cơ bắp của sức trai cùng mọi người ngăn chặn dòng nước, quyết tâm hàn gắn chỗ vỡ trong thời gian ngắn nhất. Công sức bỏ ra không nhỏ, cá nhân và trường đều có thành tích. Cố nhiên, nếu trường có lực lượng lao công đi làm việc này thì hiệu suất cao hơn, mà thành tích vẫn là của trường Y.
Có lần cần tu bổ đê ở sông Đáy, “cấp trên” huy động gần sáu trăm thầy trò trường Y đi lao động “đào và đắp” mấy tháng liền, được biểu dương về năng suất, được giấy khen, được Ban chỉ huy công trường nhận xét là “bác sĩ mà chẳng khác gì nông dân” (đến nay chưa rõ thế là khen hay chê !)... Nhưng đợt lao động vất vả ấy chẳng để lại ấn tượng gì, vì nó không liên quan đến nghiệp vụ, không thu hoạch được gì đáng kể về chuyên môn; ngoại trừ những cái rất trừu tượng gán ép cho “tư tưởng”. Điều áy náy còn lại cho đến bây giờ là “cần gì phải học tới 6 năm mới làm nổi những việc đó” (!). Vậy mà những lần về huyện vài tuần vận động nhân dân làm “ba công trình” lại khiến thầy trò có những thu hoạch lớn lao và quan trọng nhất. Và cũng nhớ lâu nhất.

Đi vận động nông dân làm ba công trình được thầy trò trường Y rất coi trọng. Nói gọn, đó là: 1) làm hố xí để thanh toán thói quen rất lạc hậu là “bạ đâu ỉa đấy”, rất mất vệ sinh; và phải là hố xí hai ngăn, đúng quy cách; 2) làm nhà tắm để khỏi lười tắm, đồng thời phụ nữ có thể vệ sinh kinh nguyệt đúng cách, do đó giảm mắc các bệnh ngoài da và phụ khoa; 3) làm giếng nước hợp vệ sinh để có nước sạch sử dụng trong sinh hoạt - giảm được vô số bệnh đường tiêu hoá. Đây là cách rất tốt để sinh viên áp dụng bài học, sâu sát thực tế và rèn luyện y đức.

Ba “công trình” té ra chỉ gồm “hố xí, nhà tắm và giếng” nhưng sinh viên phải thuộc biết bao điều đã học trong sách, và khó nhất là vận dụng sáng tạo chúng cho từng vùng quê, từng gia đình, từng thửa vườn. Hồi đó đồng bào nông dân ta rất nghèo, tập quán rất lạc hậu; họ chưa thấy cần 3 thứ trên, vì nó chẳng sinh ra chút “của cải vật chất” nào; sinh viên phải làm thế nào tuyên truyền giáo dục cho từng gia đình hiểu ra (công sức bỏ ra và kinh nghiệm thu về cũng đáng là “công trình” vì mỗi gia đình một hoàn cảnh, một lý do để từ chối). Đến khi họ nghe ra, muốn làm thì nhiều nhà không có tiền để làm. Đối với họ, những thứ đó cũng tốn tiền ngang với những “công trình”. Phải tìm ra giải pháp phù hợp nhất cho họ. Họ muốn đào giếng, phải chỉ cho họ đào ở đâu thì hợp vệ sinh (mỗi nhà mỗi hoàn cảnh) và ở đâu thì có nước. “Đất nhà tôi chật hẹp thế này thì nên đặt hố xí ở đâu”. Giao chỉ tiêu loại này cho sinh viên thì họ khó “gặm” gấp trăm lần so với khoán cho họ phải đào bao nhiêu mét khối đất.

Tại Phú Lương, nơi trường sơ tán, trường có nghĩa vụ tuyên truyền giác ngộ để dân sống hợp vệ sinh. Cuối cùng, khi trường rút về xuôi, huyện đã trở thành nơi có phong trào vệ sinh tiên tiến của tỉnh Bắc Thái. Công sức bỏ ra của thầy trò không nhỏ. Đó là cách học tốt nhất. Và đó cũng là cách trả ơn dân tốt nhất. Với các tỉnh đồng bằng, ở đâu có yêu cầu dứt điểm ba công trình cũng được trường hết sức quan tâm, khiến công việc này của y tế và chính quyền địa phương rất thuận lợi. Để cuộc vận động nếp sống vệ sinh duy trì được lâu dài, trường còn khuyến khích các đơn vị kết nghĩa với các hợp tác xã nông nghiệp, các xí nghiệp, nông trường. Nhiều bộ môn đã kiên trì gắn bó với các cơ sở kết nghĩa 4 - 5 năm liên tục sau khi đã chấm dứt chiến tranh, như Ngoại, Nhi, Vệ sinh - Dịch tễ...

Tăng cường tuyến y tế địa phương, phục vụ cấp cứu phòng không

Thế mạnh của trường là đào tạo bác sĩ phù hợp nhất để họ giải quyết tốt các việc trên. Trường không thể làm thay việc đó cho cả ngành y tế. Tuy nhiên, bản thân việc phân tán các tổ sinh viên về trên 50 bệnh viện huyện để học tập chuyên môn, có thầy đi kèm, đã có hai tác dụng: 1) hỗ trợ y tế địa phương về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ; 2) đồng thời tạo ra lực lượng tại chỗ sẵn sàng ứng cứu nếu xảy ra oanh tạc. Có huyện, chỉ nhờ sự có mặt của thầy trò mà tất thảy nạn nhân chiến tranh được giải quyết tại chỗ, không phải chuyển lên tuyến cao hơn. Lực lượng sinh viên còn rất đắc lực trong huấn luyện cấp cứu phòng không và tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh tới tận màng lưới y tế các xã trong huỵện.

Ngoài hình thức trên, trường còn chủ động cử các đoàn lớn, gồm sinh viên sắp ra trường, có thầy giỏi hướng dẫn, tới những nơi trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ trong thời gian nhiều tháng để làm công tác thường trực cấp cứu, đồng thời học tập trong thực tế.

Liên tục từ 1965 đến 1972, thầy trò trường Y đã đặt chân đến rất nhiều huyện, xã (không tính xuể) trên toàn miền Bắc; trong dó chủ yếu là 10 tỉnh trọng điểm (khu Vĩnh Linh và các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Hà, Hà Tây, Vĩnh Phú, các thành phố Hải Phòng, Hà Nội), đến các tuyến đường số 1, 5 để cùng với các cơ quan y tế địa phương cấp cứu nạn nhân do bom đạn Mỹ. Ngay từ tháng 2.1965, trường đã gửi vào Vĩnh Linh và Quảng Bình trên 200 sinh viên Y6 đa khoa sắp tốt nghiệp, cùng nhiều giáo viên có kinh nghiệm chuyên môn chia nhau xuống tận các thôn, xã, vừa huấn luyện, vừa xây dựng và củng cố cơ sở y tế để nâng cao trình độ phục vụ sức khỏe nhân dân, đồng thời đủ khả năng đối phó với hậu quả chiến tranh phá hoại.
Năm học 1966-1967 có 163 sinh viên Y5 (khóa 1962-1968) rời trường đi thực tế “vừa học vừa làm” tại Nam Hà và Ninh Bình suốt từ 10.5 đến 16.9.1967. Đoàn đi Nam Hà do cô Dương Thị Cương lãnh đạo gồm 60 sinh viên Y5 Đa khoa 1 (với hai sinh viên phụ trách lớp là Nguyễn Huệ và Nguyễn Bá Nghị), chia nhau đi làm việc tại bệnh viện Nam Hà 1 (Nam Định) và bệnh viện các huyện Duy Tiên, Nghĩa Hưng. Hải Hậu. Tại Ninh Bình. Lớp Y5 Đa khoa 2 gồm 60 người do thầy Nguyễn Đoàn Hồng lãnh đạo (với hai sinh viên phụ trách lớp là Hồ Ngọc Kê và Phạm Nguyên Tiêu), chia nhau làm việc ở bệnh viện tỉnh và bệnh viện các huyện Gia Khánh, Yên Khánh, Nho Quan. Lớp Y5 chuyên khoa A2 với 43 người thì chia nhau đi hai nơi: Kim Bảng (Nam Hà) và Thường Tín (Hà Tây). Cùng đi với đoàn 163 sinh viên này có hơn chục thầy của các bộ môn Nội, Ngoại, Sản, Nhi, Đông Y, Vệ sinh Dịch tễ, Tổ chức Y tế. Trên thực tế, các đoàn không chỉ “học”, “làm” mà còn “dạy”. Phụ trách bệnh viện huyện vẫn chỉ là cựu sinh viên của trường, nay chẳng mấy khi có thầy về tận nơi, tội gì chẳng nhờ thầy “dạy” cho. Nhiều khi, nhân thể, họ dự lớp với đàn em họ sắp ra trường.
Thành tích cụ thể có thể thống kê được (mổ bao nhiêu, cứu sống bao nhiêu), nhưng bài học vô giá là đúc rút kinh nghiệm (hay gặp loại vết thương nào, xử trí ra sao thì phù hợp nhất, tổ chức sơ cứu và chuyển thương thế nào...); đồng thời dào tạo cán bộ y tế tại chỗ. Điều này trường không bao giờ quên làm, do vậy thầy, trò và địa phương đều có lợi trong giảng dạy và thực hành sau này.

Chưa kể rất nhiều các đoàn nhỏ nhưng trình độ chuyên môn cao, với nhiệm vụ hỗ trợ và đào tạo kỹ thuật cho địa phương.

Năm học 1965-1966, một đoàn 3 người, có 2 bác sĩ, trong đó có thầy Trần Quán Anh bộ môn Ngoại, đã vào làm việc tại bệnh viện tỉnh và bệnh viện thị xã Quảng Bình gần 3 tháng (23.10.1965 - 15.1.1966). Cuối 1966, đến đầu 1967, một đoàn gồm 20 bác sĩ ra trường 1959-1962 (Nguyễn Văn Xang, Nguyễn Hữu Hồng, Nguyễn Ngọc Lanh, Phạm Phúc Sinh....) đã “cắm” ở Nghệ An hai tháng làm công tác cấp cứu và huấn luyện cho y tế cơ sở, lúc đó phải huấn luyện cả chống vũ khí vi trùng và hoá học... Nhưng nhiệm vụ cao nhất được Bộ giao là phản ánh tình hình y tế địa phương và đề xuất ý kiến với Bộ. BS trưởng ty Y tế khi đó là ông Quới, một cái tên rất dễ nhớ. Có lần, bộ trưởng Phạm Ngọc Thach đi dọc khu 4 đã rẽ vào làm việc với Ty và gặp gỡ đoàn BS trên.

Các thầy có tuổi cũng “đòi” vào khu 4. Trong tháng 7.1967, một đoàn các thầy chủ nhiệm và phó chủ nhiệm bộ môn, cả thảy 10 người - toàn xấp xỉ tuổi 50, có thầy đã quá 60 - do thầy Thẩm Trọng Tảo, phó hiệu trưởng dẫn đầu, đã cùng nhau mang xe đạp lên tầu hỏa đi đến Ninh Bình, rồi từ đó đạp xe vào Thanh Hóa đi thực tế trong vòng nửa tháng. Các thành viên là: GS Đặng Vũ Hỷ, chủ nhiệm bộ môn Da Liễu; GS Đinh Văn Thắng, chủ nhiệm bộ môn Phụ Sản; BS Hoàng Sử, chủ nhiệm bộ môn Y vật lý-X quang; BS Nguyễn Quốc ánh, chủ nhiệm bộ môn Tinh Thần Kinh; BS Trịnh Ngọc Phan, chủ nhiệm bộ môn Truyền Nhiễm; BS Võ Tấn, phó chủ nhiệm bộ môn Tai Mũi Họng; BS Bửu Triều, phó chủ nhiệm bộ môn Ngoại; BS Phạm Khuê, phó chủ nhiệm bộ môn Nội. Anh Nguyễn Vi Khải, kỹ thuật viên bộ môn Giải Phẫu đi theo "hộ tống" các thầy. Đưa các thầy cỡ này vào tuyến lửa không phải để các thầy “nếm mùi bom đạn” hay “rèn luyện tư tưởng” mà mục đích chính của Trường giúp các thầy sẽ có thêm thực tế để cải tiến giảng dạy.

Ban ngày, đoàn đến thăm các cơ sở y tế địa phương tìm hiểu tình hình chuyên môn và tổ chức, góp ý giải quyết khó khân. Chiều tối khi không còn máy bay đe doạ, lại đạp xe đến địa phương khác. Trời khuya, đường nông thôn gập ghềnh, dùng đèn bấm phải chụp vải xanh che bớt sáng mà vẫn còn bị người đi đường kêu la than phiền khi có tiếng máy bay xa. Mắt không còn được tinh tường nên đi đêm hay bị ngã xe, đứt dép, phải mò dép rơi xuống hố cá nhân, núp tránh máy bay khi trời còn sớm... nhưng tất cả các thầy đều rất vui vẻ, lạc quan, trêu chọc nhau, trước khi ngủ còn kể chuyện tiếu lâm như hồi còn trai trẻ.

Các năm tiếp sau đó, năm nào cũng có các lớp đi thực tế như vậy.

Như năm học 1968-1969, một đoàn 146 sinh viên Y6 (khóa 1963-1969) trước khi thi tốt nghiệp đã đi thực tế 7 tháng trời, từ 1.11.1968 tới 30.5.1969 tại các vùng chiến sự ác liệt nhất ở miền Bắc. Thời gian hơi dài, có lẽ dài nhất trong các đợt đi thực tế và gần bằng một năm học, nhưng như thế mới đạt phương châm “vừa học, vừa làm”, thực hành được nhiều. Nhớ lại, trong số 52 sinh viên lớp Đa khoa (2) và Chuyên khoa sơ bộ (2) ấy có các anh, chị Lê Ngọc Trọng, Tôn Thất Bách, Bùi Tố Nga... Trong số 47 người đi Quảng Bình có Võ Lương Mưu, Nguyễn Quí Sơn (lớp phó), Hạ Bá Miễn (nay làm ở bệnh viện Hữu Nghị). Còn 46 sinh viên lớp Đa khoa 1 “cắm lâu dài” lại Vĩnh Linh là lớp của Hồ Xuân Nghinh, Trần Văn Thạch, Nguyễn Quang Phúc...; vân vân...
Nhiều địa phương rất hoan nghênh các đoàn của trường, kể cả yêu cầu ở lại thêm một thời gian.
Tuy nhiên, điều rút ra là đi thực tế như vậy, nếu không có mục tiêu rõ ràng, tổ chức và chuẩn bị kém chu đáo, chưa tìm hiểu kỹ tình hình và nhu cầu nơi đến, thì có thể gây những lãng phí, do hiệu suất phục vụ không cao, chồng chéo, kể cả không sát yêu cầu địa phương. Có người với tâm lý đi để chứng tỏ mình đã có mặt ở “tuyến lửa”, như cái vốn chính trị ban đầu. Có người khi về Hà Nội chỉ chủ yếu khoe đã nhìn thấy tên lửa Mỹ, bom ném, lửa cháy... vì họ hiểu sai mục tiêu của chuyến đi. Rõ ràng, họ thu được rất ít kết quả. Nếu số này hơi đông thì chuyến đi coi như thất bại.

Năm 1967 cũng một mốc ấn đáng ghi nhớ của nhà trường vì nó là năm thầy chủ nhiệm bộ môn Ký Sinh Trùng và bộ môn Sinh Học Đặng Văn Ngữ vào miền Nam nghiên cứu chống bệnh sốt rét và bị trúng bom B52 rải thảm nên đã hy sinh tại chiến trường.

Trong đợt phục vụ 12 ngày đêm trận "Điện Biên phủ trên không" tháng 12.1972, lực lượng tham gia tại Hà Nội là gần 100 bác sĩ có kinh nghiệm và trên 500 sinh viên Y4, Y6 tại các bệnh viện Việt-Đức, Bạch Mai, Xanh Pôn, Đống Đa, Mai Hương và trạm vận chuyển cấp cứu 05. Tại Hải Phòng có 5 cán bộ và 83 sinh viên Y4, Y6 chủ yếu ở bệnh viện Việt Tiệp và bệnh viện khu phố Lê Chân. Trong thời gian này còn có đoàn sinh viên Y5 đang phục vụ cấp cứu phòng không tại cục vận tải đường biển. Cuối tháng 11-1972, sau khi thi xong Y5, toàn bộ sinh viên khoá 1967-1973 lên đường đi phục vụ giao thông vận tải trên các tuyến đường bộ, đường sắt, đường thuỷ từ Lạng Sơn cho đến Vĩnh Linh. Sau đợt phục vụ này, Ban Chấp Hành TW Đoàn đã tặng hai cờ Nguyễn Văn Trỗi cho Đoàn Trường ta và chi đoàn Y5D về thành tích xuất sắc. Tại Hà Tây có 6 cán bộ và 162 sinh viên Y5 chi viện cho các huyện Quốc Oai, Thạch Thất, ứng Hòa, Phúc Thọ, Đan Phượng. Đấy là chưa kể lực lượng hơn 1.000 cán bộ, sinh viên đã bố trí sẵn tại các huyện trên và các địa phương khác của tỉnh.

Riêng ở Hà Nội, tại bệnh viện Việt Đức có 19 bác sĩ của trường chia làm 3 kíp thường trú đã cùng với 117 sinh viên phục vụ suốt ngày đêm từ 18 đến 30.12.1972. Chỉ riêng đêm rạng ngày 27.12.1972 khi địch ném bom phố Khâm Thiên, trong khoảng 1 giờ đầu tiên đã có tới 85 nạn nhân đã được đưa vào viện, sinh viên thường trực đã khiêng cáng vào phòng chọn lọc, chụp X quang, khiêng lên nhà mổ, rồi lại từ nhà mổ về phòng hậu phẫu. Kíp trực của các thầy với 8 bàn mổ, đã phẫu thuật liên tục từ 1 giờ đến 4 giờ sáng được 21 trường hợp trên 8 bàn mổ. Trưa 29.12, máy bay Mỹ ném bom khu Mai Hương, kíp mổ đó đã lại giải quyết 29 trường hợp nặng trên 11 bàn mổ từ 14 đến 17 giờ. GS Tôn Thất Tùng nhận định: nếu không có lực lượng sinh viên thì sẽ bế tắc trong chuyển thương và chăm sóc ban đầu. Cố nhiên, không có các thầy thì tình hình còn xấu hơn nữa. Trong đợt ném bom ác liệt này của địch, trường đã kịp đưa các thầy lão thành và cao tuổi ra khỏi Hà Nội, chỉ riêng thầy Tùng ở lại, vì vị trí chiến đấu của thầy là ở đây.

Trường cũng có nhiều thiệt hại khi bệnh viện Bạch Mai trúng bom .

Đó là lúc 4 giờ sáng ngày 22.12.1972.
Bác sĩ Nguyễn thị Giỏi, cán bộ bộ môn Da Liễu cùng 6 sinh viên trong kíp trực đêm đó đã hi sinh, gồm: sinh viên Y4 có các anh Trần Hữu An, Phạm Vy (con độc nhất của một liệt sỹ), Đặng Văn Nghiệp, Đặng Xuân Hòa, Nguyễn Văn Điền, sinh viên Y6 có chị Đinh Thị Thúy. Ngoài ra còn một bác sĩ mới tốt nghiệp chờ sáng hôm sau đi nhận công tác là anh Lâm Duy Kế (cùng lớp với bác sĩ Trần Văn Tài, một thời gian dài thuộc phòng Giáo vụ, nay phụ trách Ban in) cũng hy sinh. Các thầy và sinh viên có mặt tại bệnh viện đã phối hợp với bác sĩ và nhân viên bệnh viện khẩn trương cứu sập, cấp cứu nạn nhân suốt ngày hôm đó. Từ đêm hôm sau, trường đã rút các sinh viên Y3 về cơ sở 11 Lê Thánh Tông.

Cuộc cứu sập :

Sáng 22.12.1972, trời rét như cắt ruột. Đội cấp cứu khẩn trương làm nhiệm vụ tại đầu nhà B bị đánh sập. Phải huy động cả kích ô tô, bình dưỡng khí. Sau nhiều cố gắng, mới bới được một khe hở mà chỉ có thầy Chu Văn ý, tuy nhỏ người vẫn phải cởi bỏ áo bông mới chui lọt. Thầy cố gắng bò vào, sau mỗi 10 phút lại phải lui ra thở vì thiếu không khí. Người ta đã đưa được ống dẫn ô xy và sữa vào cho chị Thúy và nghe thấy tiếng kêu yếu ớt của chị. Đến nửa buổi sáng thì đào được vào nhưng thật bất hạnh, do chệch hướng nên đã đi vào bên này tường, trong khi Thúy nằm bên kia tường. Công việc hầu như phải làm lại từ đầu. Đến trưa mới mang được ra, đúng lúc Thúy trút hơi thở cuối cùng. Có người bị giường sắt đè không rút chân được, đội cứu sập phải luồn kích ô tô để nâng chiếc giường lên một chút mới mang được người ra.. Xin nhớ rằng tất cả công việc khẩn trương và đồng thời phải rất thận trọng để khỏi gây thêm nguy hiểm cho nạn nhân, được tiến hành trong suốt buổi sáng, dưới điều kiện luôn bị địch uy hiếp đánh phá trở lại và trời rất rét.

Khi các khu dân cư Phương Liệt, đường Láng, Khâm Thiên, Mai Hương bị đánh phá, lực lượng cán bộ và sinh viên trường đã luôn luôn có mặt ngay từ những phút đầu, cùng với y tế cơ sở và công an địa phương tổ chức cấp cứu. ở Phương Liệt và đường Láng, suốt cả đêm tổ 13 lớp Y4D đến bới sập, cấp cứu, chuyển nạn nhân về bệnh viện, ngày hôm sau lại tiếp tục công việc Khâm Thiên. Đêm 26.12.1972 tại ngõ chợ Khâm Thiên, TS Phạm Phúc Sinh, cán bộ bộ môn Vi Sinh cùng với bao nhiêu người dân khác đã là nạn nhân của bom B52.

Tại các điểm bị đánh phá khác, dứt loạt bom là đã có những đội cấp cứu của sinh viên (tăng cường cho trạm vận chuyển cấp cứu 05) đến ngay tại chỗ tìm bới nạn nhân, sơ cứu, phân loại và chuyển về đúng các tuyến.

Tại Hải Phòng, cán bộ và sinh viên nhà trường đã bám trụ ở bệnh viện Việt-Tiệp (tổ 12 Y6C) và bệnh viện khu phố Lê Chân (tổ 16 Y4D). Có lần bom Mỹ ném cách hầm bệnh viện Việt-Tiệp có 30 mét, cán bộ nhà trường cùng bác sĩ chủ nhiệm khoa Ngoại đảm đương hầu hết các trường hợp lớn nhỏ để các bác sĩ bệnh viện đi tăng cường cho các tuyến dưới. Có lần họ thức suốt 3 đêm liền, mổ 15 trường hợp, trong đó có tới 7 ca sọ não.

Cố giáo sư Tôn Thất Tùng hồi đó phát biểu với phóng viên báo Nhân Dân ngày 3.1.1973: "Lực lượng sinh viên trường Đại học Y khoa có một vai trò quyết định trong việc góp phần hoàn thành nhanh chóng các khâu mổ xẻ...". Kết thúc đợt phục vụ chiến đấu 8 năm ấy, nhà trường được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, riêng bộ môn Ngoại được thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Hai. Nhiều cán bộ, sinh viên được bằng khen của Bộ Y Tế hoặc giấy khen của các cơ quan y tế địa phương, chi đoàn sinh viên Y4C được Trung ương Đoàn tặng bằng khen.

Ngày 27.1.1973, hiệp định Paris được ký kết, quân Mỹ phải rút khỏi Việt Nam. Cơ quan T72 được thành lập để đón nhận hơn 3.000 đồng bào và chiến sĩ ta bị địch bắt giữ, nay trao trả ở Quảng trị.

Trường ta có hai đoàn, đoàn 1 vào Thạch Hãn, Quảng Trị từ tháng 1 năm 1973 đến 30 tháng 3 năm 1973 gồm các thầy cô Nguyễn Xuân Thụ (Thụ A ) Trưởng Đoàn, Nguyễn Văn Xang Bí Thư Chi Bộ, Nguyễn Khánh Trạch, Phạm Thị Minh Đức, Phan Sỹ An, Nguyễn Vi Khải, Nguyễn Phương Mỹ, Hoàng Công Đắc ... và hai lớp sinh viên Y5 thực hiện nhiệm vụ đón tiếp, chăm sóc sức khoẻ và vận chuyển tù nhân được trao trả từ Thạch hãn ra Sầm Sơn. Có một sự kiện xảy ra là trong số các tù nhân được trao trả, có 5 người từ chối ra miền Bắc để ở lại miền Nam vì lý do hoàn cảnh gia đình. Nếu họ ở lại thì sẽ gây ảnh hưởng lớn đến uy tín miền Bắc XHCN. Ban Chỉ Huy chiến dịch đã giao nhiệm vụ này cho 5 thành viên trong đội cấp cứu đặt tại nơi trao trả. Thông qua công tác chăm sóc sức khoẻ 5 người này, dưới sự kiểm soát rất chặt chẽ của an ninh nguỵ quyền Sài Gòn và đội ngũ nữ Phượng Hoàng, các thành viên của đoàn đã thuyết phục 5 tù nhân này tự nguyện ra bắc. Đây là một thắng lợi mang tính chất chính trị quan trọng đã được Ban Chỉ Huy chiến dịch ghi nhận. Đoàn thứ hai gồm các thầy Đinh Văn Tài, Nguyễn Thản, Vũ Duy San, Nguyễn Ngọc Lanh... cùng lớp Y5D đã được cử đi Quảng trị để đón tiếp, chăm sóc và phân loại sức khoẻ. Khi anh chị em tù binh do địch trao trả được chuyển về Sầm Sơn (Thanh Hóa), nhà trường đã cử hàng chục cán bộ và hàng trăm sinh viên các lớp Chuyên tu 1 và Y5 tham gia công tác này từ đầu tháng 2.1973 và kết thúc vào tháng 8.1973, được Ban đón tiếp của Quảng Trị đánh giá rất cao (trong thư gửi Bộ Y Tế).

Chống địch và khắc phục hậu quả lũ lụt

Công tác thực tế này thuộc loại rất đột xuất của thầy trò nhà trường, không bao giờ được ghi trước trong kế hoạch và dự kiến, nhưng lại phải được đáp ứng rất khẩn trương và kịp thời. Lũ lụt dài ngày là điều kiện rất thuận lợi để suy giảm sức khoẻ, các bệnh mạn tính trở thành bột phát. Bài học này nhiều dịp sinh viên được kiểm nghiệm và được áp dụng khi trường luôn luôn bám sát thực tế xã hội.

Mùa lũ năm 1969 xảy ra khi trường chưa chuyển xong từ Phú Lương về xuôi. Nước sông Hồng và sông Đuống lên rất nhanh và rất to. Từ Thái Nguyên về, qua cầu Đuống có thể trực tiếp nhận ra được cường độ lũ: cây cầu, dù đã có đoàn tầu chở đá chặn trên suốt chiều dài, vẫn rung lên bần bật với dòng lũ mấp mé mặt cầu; nước xô vào thành cầu tung lên mù mịt như mưa rào xối xả. Hơn 1.000 cán bộ và sinh viên tổ chức thành từng đoàn khẩn trương chi viện cho các cơ sở y tế Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Thái Bình, Hải Hưng, Nam Hà, ngày đêm phục vụ công tác chống lụt của các địa phương. Đợt lũ chưa qua lại tiếp một dịch sốt xuất huyết (đúng như điều các thầy đã dạy cho sinh viên) trên một vùng rộng lớn với hàng chục ngàn bệnh nhân, khiến nhà trường phải dồn hầu như toàn bộ lực lượng để đối phó, cả với con lũ và cả với vụ dịch này.

Hai năm sau lại xảy tiếp trận lụt lịch sử năm 1971. Ngay ngày 22.8.1971, khi có yêu cầu, trường đã cử 312 cán bộ và sinh viên tham gia lao động hộ đê bằng cơ bắp của lớp trẻ. Nhưng việc chủ yếu của trường là bảo vệ sức khoẻ cho những người đang trực tiếp vật lộn với thuỷ thần. Do vậy, theo yêu cầu, trường đã thành lập 12 đội ứng cứu gồm 60 sinh viên Y5 và 8 thầy để Bộ Y Tế có thể điều động “khẩn” tới những nơi cấp bách nhất. Ngày 23.8.1971, khi vỡ đê Cống Thôn, 200 sinh viên Y6 đã lập tức lên đường tham gia hàn gắn. Tuần tiếp theo, một đoàn 500 sinh viên và cán bộ lên đường đến các nơi úng lụt ở Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh Phú, Hải Hưng, Tuyên Quang. Bước sang đợt khắc phục hậu quả lũ lụt, trường đã huy động một lực lượng tới 2.834 người, gồm 2.550 sinh viên và 284 cán bộ đi phục vụ ở 2 thành phố, 5 tỉnh, 44 huyện, 2 khu phố, 2 thị xã, 5 nhà máy. Tập trung nhiều nhất là ở Hà Bắc và ở hai xã bị nặng nhất. Tại đây, ngoài việc ngày đêm lênh đênh trên thuyền chèo đi khắp các xóm thôn đang ngập sâu trong nước, giải quyết hậu quả, châm sóc sức khỏe trẻ em, phụ nữ, người già, điều trị và tiêm phòng những loại dịch thường vẫn xảy ra sau những trận lụt lớn, cán bộ và sinh viên còn dành khá nhiều thời gian cùng với y tế địa phương tiến hành một số công trình nghiên cứu dự đoán về qui luật diễn biến của dịch và tình hình sức khỏe nhân dân, nhằm giúp cho ngành y tế có cơ sở chuẩn bị tốt hơn trong những tình huống đột xuất tương tự.

Trong thời gian chống lụt, nhà trường đã có một tổn thất lớn. Khi lụt xảy ra, ông Phan Huy Chữ, phó Hiệu trưởng nhà trường, Bí thư Đảng ủy, đang đi nghỉ tại Quảng Ninh đã vội vã trở về, dùng xe máy riêng đi kiểm tra, đôn đốc các đoàn công tác. Do liền nhiều ngày quá sức, với cơn cảm lạnh vì đợt gió mùa sớm kéo theo mưa tràn về đột ngột, bệnh phổi mạn tính của ông chuyển biến trầm trọng và ông đã không qua khỏi. Là một trong những người đóng góp nhiều công sức trong việc xây dựng và lãnh đạo Đảng bộ và chính quyền nhà trường suốt 14 năm với cương vị bí thư, ông có khả năng thay mặt Đảng, tiếp xúc và làm việc được các nhân sĩ trí thức (với cụ Hiệu trưởng và các giáo sư, trí thức lớn tuổi ngoài Đảng). Nhưng ông lại từng nói: vấn đề là phải kết nạp thật nhiều trí thức tiên tiến vào đảng, chứ không phải cử đảng viên “làm việc được” với trí thức. Ông xứng đáng với tâm huân chương Độc Lập hạng II.

CẢI TIẾN VÀ PHÁT TRIỂN ĐàO TẠO

Hoàn chỉnh mục tiêu đào tạo đại học

Mẫu người bác sĩ muốn đào tạo đã được nghĩ đến và đặt ra ngay từ 1959 với cách nói khiêm tốn hồi đó là những "yêu cầu đào tạo".

Mầy mò thực hiện, bổ khuyết, cho đến 1962, đã hình thành dần dáng dấp một mục tiêu đào tạo. Nhưng cũng phải tới tháng 6.1966, thông qua Đại hội Đảng bộ lần thứ X của trường (ngày 6, 7 và 8.6.1966), mục tiêu đào tạo này mới lần đầu được hoàn chỉnh.

Cụ thể, có những điểm quan trọng như ..."người bác sĩ phải được đào tạo một cách toàn diện, nghĩa là về cả ba mặt tư tưởng chính trị, trình độ chuyên môn và mức độ sức khỏe; đối trượng chủ yếu vẫn là đào tạo bác sĩ đa khoa là chính mà địa chỉ phục vụ chủ yếu vẫn là tuyến huyện.
Còn về chuyên môn, yêu cầu phải có một trình độ khoa học cơ bản, y học cơ sở, ngoại ngữ, đủ để sau khi ra trường có thể tiếp thu đựơc y học hiện đại, tự học vươn lên và phải có khả nâng thực hành về các mặt vệ sinh phòng dịch, nghiên cứu Đông y và kết hợp Đông-Tây y, về tổ chức quản lý, Nội, Ngoại, Sản, Nhi, cấp cứu phòng không, cấp cứu Ngoại-Sản".

Năm 1966, tuyến tỉnh đã tạm đủ bác sĩ (nếu thiếu, thường đó là bác sĩ chuyên khoa), trong khi nhiều huyện chưa có bác sĩ nào thì bác sĩ đầu tiên về huyện ắt phải là bác sĩ đa khoa và nhu cầu là rất lớn. Do vậy, việc xác định mục tiêu là đào tạo “bác sĩ chung” (chưa chuyên khoa) là một phương hướng rất đúng, thể hiện cách nhìn toàn diện và chú ý đến lâu dài. Nhưng trong thực tế vẫn luôn luôn cần một số bác sĩ chuyên khoa để bổ sung cho tuyến trung ương và tuyến tỉnh (ngoài Nội, Ngoại, Sản, Nhi), vậy nên bên cạnh bác sĩ đa khoa, vẫn phải dành một số cho đào tạo chuyên khoa sơ bộ (trong đại học) để đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của đời thường như răng, mắt, tai mũi họng, lao, truyền nhiễm, ung thư, v.v...

Ngày nay, vấn đề giải quyết rất đơn giản bằng cách đào tạo đại trà đa khoa, sau khi ra trường sẽ đào tạo tiếp chuyên khoa theo nhu cầu. Đó là vì bác sĩ cho huyện đã tạm đủ. Nhưng cách đây 30-40 năm, lại là thời chiến, không thể làm như vậy, vì bác sĩ còn quá thiếu, không thể tốn thêm tới 1 năm sau khi đã tốt nghiệp đại học để đào tạo chuyên khoa. Chuyên khoa phải học “trong” đại học - gọi là chuyên khoa sơ bộ - chứ không thể học sau khi tốt nghiệp. Vậy thì tỷ lệ bao nhiêu là hợp lý giữa đa khoa và chuyên khoa sơ bộ; đó là vấn đề luôn luôn được đặt ra.

Từ thực tế này, năm nào cũng có sự cân nhắc về tỷ lệ đa khoa và chuyên khoa, trong đó nhà trường phải nhân nhượng trước nhu cầu bức bách ấy, như thấy rõ trong bảng theo dõi tỉ lệ phân khoa các khóa học từ 1961 đến 1982.

Qua 16 khóa học thì có đến 8 khóa tỉ lệ đa khoa chỉ chiếm 30-40%, có 4 khóa tỉ lệ này từ 55 đến 65% và chỉ có 4 khóa là đạt được trên 80-90%. Chính sự đấu tranh giằng co này là biểu hiện của mâu thuẫn giữa "trước mắt và lâu dài", một trong hai mâu thuẫn kinh niên lớn nhất của chiến lược đào tạo.
Hồi đó là chiến tranh, rất khó dự báo nhu cầu chuyên khoa và đa khoa của ngành dân y. Không thể điều tra khoa học nhu cầu đa khoa và chuyên khoa để có những dự báo sát hợp, vì sự trưng dụng bác sĩ mới tốt nghiệp (thậm chí cả sinh viên lớp cuối) cho nhu cầu quân đội và miền Nam là rất lớn và nhiều khi đột xuất. Trên thực tế, số người phải chuyển đổi chuyên khoa là khá lớn.

Với con mắt hôm nay, người ta dễ dàng nhận định nội dung của các mục tiêu cụ thể đề ra là quá cao, không thực tế. Ví dụ, đòi hỏi bác sĩ thời chiến khi ra trường phải thành thạo ngoại ngữ để (khi về huyện) có thể tự học vươn lên và phải làm được 4 khoa (đa khoa).

Ở nhiều điểm, nó là kỳ vọng hơn là những kỹ năng mà bác sĩ huyện phải làm được. Mục tiêu Chính trị-Tư tưởng khá trừu tượng tuy viết rất dài (...”phải là người bác sĩ xã hội chủ nghĩa”) chỉ liên quan lập trường, nhưng không có điểm nào liên quan y đức. Tuy nhiên, đây là mục tiêu sớm nhất được đề ra ở một trường duy nhất trong toàn ngành đại học, do sự bức xúc của chính trường đó.
Khi một bác sĩ đầu tiên về huyện thì ở huyện đó đã có các y sỹ chuyên khoa Răng, Mắt, Tai-Mũi-Họng, Sản, Nhi... nếu có gì “bí” nhất nhất họ sẽ xin quyết định tối hậu của bác sĩ. Vậy thì, trường phải đào tạo bác sĩ như thế nào? Chính suy nghĩ đó đã khiến các bậc tiền bối viết mục tiêu như ta đã thấy. Trên thực tế, khó có bác sĩ đa khoa nào dám đưa ra “quyết định tối hậu” khi y sĩ chuyên khoa đã bó tay (trừ quyết định “kính chuyển” bệnh nhân lên tỉnh). Một thầy ở bộ môn SLB khi góp ý vào chương trình đào tạo bác sĩ huyện, còn đề nghị dạy kỹ cho họ môn Giải Phẫu Bệnh, cách mổ xác, cách xem đại thể... để sau này bác sĩ đa khoa ở huyện có thể tự mổ xác bệnh nhân (để tự rút kinh nghiệm chẩn đoán của mình). Đó là một biện pháp giúp họ “tự học vươn lên”. May, trường không đưa đề nghị này vào mục tiêu.

Xây dựng điển hình tuyến huyện

Vì địa chỉ phục vụ chủ yếu của bác sĩ ra trường hồi đó là tuyến huyện mà "tuyến 3" này lại có vị trí rất quan trọng trong hệ thống tổ chức y tế thời chiến nên qua nhiều năm liên tục, nhà trường đã dày công tìm kiếm và xây dựng một cơ sở y tế huyện làm nơi thực tập tổng hợp vùng nông nghiệp cho sinh viên. Nhằm mục đích đó, nhà trường đã tổ chức khảo sát nhiều huyện đồng bằng, để xây dựng một bệnh viện huyện tiêu biểu. Sinh viên thực tập ở đó sẽ nhanh thích nghi khi được phân công sau tốt nghiệp. Có nơi, cơ sở y tế rất tốt nhưng lại quá xa hoặc cách sông, cách phà; những nơi gần thì cơ sở và phong trào quá yếu, rất khó vực lên; hoặc sản xuất và kinh tế ở đó nhẹ về nông nghiệp mà nặng về chạy chợ, làm hàng. Cho nên cuối cùng dừng lại ở huyện Thường Tín thuộc tỉnh Hà Tây, là một huyện liền đường, cách Hà Nội không xa, thầy trò đạp xe đi về chủ động, lại đại diện được cho một huyện nông nghiệp đồng bằng miền Bắc ít lai tạp nhất, với những nét đặc trưng về xã hội-kinh tế, đời sống, sức khỏe và bệnh tật chung cho nhiều huyện khác. Hơn nữa, cơ sở bệnh viện vào loại trung bình khá, phong trào y tế không quá yếu, địa phương sẵn sàng tiếp nhận và hợp tác. Bởi vậy, nhà trường đã “cắm” ở bệnh viện Thường Tín khá lâu, đóng góp nhiều công sức, đưa nhiều thầy năng nổ và giỏi chuyên môn về phụ trách điều trị, giảng dạy, xin thêm một số trang thiết bị cần thiết, nhận một số cán bộ của bệnh viện về trường học thêm kỹ thuật mới. Tại chỗ, trường còn cho xây dựng cả nhà cửa để thuận tiện cho việc ăn, ở của thầy trò.

Bệnh viện Bần Yên Nhân sơ tán về Tân An có cơ sở tốt, đáp ứng cho học tập, nhất là về sản phụ khoa, cán bộ lại nhiệt tình, nên trường và bộ môn cũng đóng góp thêm trang bị xét nghiệm, dụng cụ, mô hình sản khoa, đào tạo y sĩ gây mê, cùng cán bộ bệnh viện làm chung mọi việc. Vì vậy trong thời gian địch đánh phá, hai bệnh viện Thường Tín và Bần Yên Nhân đã giải quyết tốt hầu hết nạn nhân đưa tới, mà không phải chuyển lên tuyến cao hơn.

Hai bệnh viện này đã đóng trọn vai trò lịch sử của nó đối với trường.

Mở rộng qui mô. Vấn đề chất lượng

Yêu cầu cấp thiết về tăng số lượng đào tạo với những chỉ tiêu do Bộ qui định cho “kế hoạch 5 năm” (1961-1965) vẫn tiếp tục có hiệu lực cả về đối tượng lẫn số lượng, dù khi bước vào thời chiến đã không còn “kế hoạch 5 năm” nào nữa. Có năm toàn trường có tới 4.000 sinh viên, với 7 đối tượng đào tạo (ngoài đa khoa và chuyên khoa sơ bộ của hệ 6 năm; còn: hàm thụ, chuyên tu Vệ sinh Phòng dịch và Tổ chức Y tế, kỹ thuật viên trung cấp, dự bị đại học); nhưng chỉ có gần 300 thầy. Đã thế, từ 1967, Bộ Y Tế còn giao cho trường Đại học Y khoa Hà Nội đỡ đầu các lớp đại học Y mở tại các địa phương Việt Bắc, Thái Bình và Thanh Hóa kể từ năm học 1967-1968, và cũng từ đó, hàng năm nhà trường vẫn cử giáo viên đến giảng tại chỗ, hỗ trợ các đồng nghiệp về chương trình, giáo trình, kinh nghiệm.

Những thầy từng đi giảng ở các trường địa phương (diễn ra suốt 4 hay 5 năm liền) đều có nhận xét: đó là các trường chưa đủ điều kiện chín mùi để ra đời; mặc dù ngay từ đầu nó chỉ được gọi là “phân hiệu” (nhưng không thuộc một trường chính nào hết). Khốn nỗi, không thể trưng dụng một số thầy của trường Hà Nội về công tác dài hạn ở địa phương để xây dựng trường cho đến khi nó tự đứng được; vì: 1) số thầy ở trường Hà Nội đã quá thiếu so với số sinh viên và đối tượng được giao; 2) bộ Y tế không đủ quyền hạn tự ban hành các chế độ chính sách ưu đãi các thầy để khuyến khích họ dời bỏ Hà Nội về địa phương; 3) Bộ Y tế “nghèo” nhất trong các bộ (về ngân sách), không thể lấy đâu tiền để trang bị các trường địa phương cho “ra trường”. Ngay trường Hà Nội khi đó xuống cấp rất rõ, Bộ biết nhưng đành chịu.

Tình hình quá tải ở trường Hà Nội đã được Thứ trưởng Bộ Y Tế Vũ Văn Cẩn nói rất rõ trong một báo cáo đặc biệt của ông sau khi đến kiểm tra 2 trường Đại học Y và Đại học Dược trong tháng 5 và 6.1969.

Riêng về trường Y, ông đã đề cập tới những khó khăn như:
1. Số lượng sinh viên tăng quá nhanh và trình độ học sinh phổ thẳng tuyển vào giảm sút. Riêng năm 1969 sinh viên trường Y tăng 127% và tổng số tới 4.091;
2. Quá nhiều đối tượng đào tạo mà có loại có thể giao bớt cho trường khác (như Dự bị Đại học thực chất chỉ là bổ túc Văn hóa, hoặc như kỹ thuật viên trung cấp);
3. Số giáo viên chỉ có 298, tính ra 1/13,7 sinh viên (mức bình thường của nhiều trường khác thấp hơn 1/10);
4. Cơ sở thực tập, thực hành (không phải chỉ trong sơ tán) thiếu nghiêm trọng, nhất là không có bệnh viện thực hành;
5. Biên chế khung phục vụ không đủ: trường có 632/4.091, tính ra 1 phục vụ 6,4 (theo Bộ Đại học là 1/5);
6. Nhìn đời sống cán bộ, sinh viên, nhất là sinh viên nữ (chiếm 56%) thì đời sống sinh viên Y quá cực...

(báo cáo ngày 15.7.1969, xem L37-47)

Theo báo cáo kiểm tra cũng như thông báo nhận định của tập thể lãnh đạo Bộ Y Tế ngày 28.8.1969 thì tất cả các nguyên nhân trên đã khiến cho:
- Chất lượng chuyên môn đang có chiều hướng giảm sút rõ rệt trong mấy năm chiến tranh.
- Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học chưa được thực hiện cân đối với nhiệm vụ huấn luyện

Dù chất lượng giảm từ trước 1965, nhưng từ lúc đó đến cuối 1968 vẫn được chính thức nhận định là “tăng”. Đã có nhiều tranh cãi, cuối cùng được thừa nhận “giảm” trong các Đại hội Đảng bộ XII (2.1969) và XIII (2.1971).

Vì vậy, từ năm 1970, Bộ Y Tế đã cho chuyển bớt các lớp hàm thụ về “lớp” đại học Thanh Hóa và Phân hiệu Đại học Y khoa Thái Bình, chỉ để lại Hà Nội các lớp Chuyên tu Vệ sinh phòng dịch và Tổ chức y tế. Và đến 1971, với sự thỏa thuận của Bộ Đại học, Bộ Y Tế đã ra quyết định giao cho Phân hiệu Đại học Y khoa Thái Bình đào tạo bác sĩ hệ dài hạn tập trung từ năm học 1971-1972 để trường Hà Nội giảm bớt được số lượng đại học mà dành công sức cho bậc Sau đại học mới được thành lập.

Một điều quan tâm và có ý kiến chỉ đạo rất cụ thể của Bộ Y Tế trong dịp này là vấn đề cơ sở thực hành của 2 trường. "Thông báo nhận định..." nói trên (có sao gửi tất cả các Vụ, Cục và báo cáo lên nhiều cơ quan trung ương) đã ghi rõ: "... ngoài cơ sở thực tập tổng hợp mà trường đã có công xây dựng ở bệnh xá huyện Thường Tín.... còn thiếu cơ sở trong biên chế nhà trường, do trường chủ động xây dựng theo yêu cầu huấn luyện. Số lượng và biên chế nhiều hay ít tùy điều kiện, khả năng cụ thể, nhưng nhất thiết phải có mới đảm bảo được yêu cầu mẫu mực thị phạm. Các cơ sở này ở 2 trường đều chưa có. Cần tập trung xây dựng bệnh viện thực hành cho trường Y, nghiên cứu việc xây dựng xưởng sản xuất và cửa hàng cho trường Dược..."

Đây là vấn đề tồn tại từ nhiều năm trong công tác đào tạo của ngành mà chính Bộ Y Tế cũng chưa gỡ ra được, tuy ngay từ tháng 5.1969, Bộ và nhà trường đã đi bước đầu tiên cho việc này bằng quyết định ngày 3.5.1969 tạm cử bác sĩ Đỗ Doãn Đại, phó Hiệu trưởng đến giữ chức quyền bệnh viện trưởng bệnh viện Bạch Mai. Sau đó, trường lại biệt phái ông Phạm Kim Huyên, ủy viên thường trực Đảng ủy nhà trường sang nhận chức bí thư Đảng ủy bệnh viện để dần dần thực hiện ý định về bệnh viện thực hành. Nhưng rồi không biết do đâu mà ý định ấy vẫn không bao giờ trở thành hiện thực mặc dù là ý định tốt lành, có sự chỉ đạo từ trên chứ không hề do một ý đồ "thôn tính" như hồi đó có số người nào đó ở bệnh viện Bạch Mai đã nghĩ.

ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

Bộ Y Tế có một Quyết Định đầy ý nghĩa, mở ra con đường tiến bộ về chuyên môn cho đông đảo bác sĩ và dược sĩ trong ngành. Đây là bậc đào tạo Sau đại học tại trường Đại học Y khoa Hà Nội, sớm nhất trong mạng lưới các trường đại học của cả miền Bắc và cũng là của cả nước. Trường Y được giao chuẩn bị nhiệm vụ này từ tháng 1.1970 để có thể mở thí điểm vào năm học 1972-1973.

Người có công lớn nhất trong việc làm tiên phong này là GS Hoàng Đình Cầu (ở bộ Y tế) và GS Nguyễn Trinh Cơ (ở đại học Y).

Bậc học này có ý nghĩa trước hết là nâng cao chất lượng phòng và chữa bệnh ở các cơ sở y tế thông qua nâng cao tay nghề cho các bác sĩ thực hành. Đối với số anh chị em này, từ trước chưa có một qui chế nào về việc bồi dưỡng nâng cao trình độ sau khi tốt nghiệp bác sĩ, ngoài một số ít ỏi may mắn được cử đi học ở nước ngoài. Do vậy, đây sẽ là một chế độ thúc đẩy việc học tập liên tục, thường xuyên, sau tốt nghiệp đại học, nâng cao tay nghề theo hướng chuyên khoa hóa ngày càng sâu, ngoài ra còn giúp cho việc tiêu chuẩn hóa cán bộ.
Vì bậc học này ra đời sau một thời gian dài đào tạo đại học nên số lượng bác sĩ đang hành nghề đã rất đông, số có thâm niên công tác cao chiếm tỷ lệ rất lớn. Tổ chức bồi dưỡng cho anh chị em là một nghĩa vụ và cũng là chính sách đối với cán bộ, nhưng do việc "trả nợ lịch sử" thực hiện muộn nên chỉ có thể làm dần dần và phân biệt theo thâm niên: người ra trường trước phải được bồi dưỡng trước, phải học tập trung trước để có kinh nghiệm rồi mới tổ chức học tại chức sau, mà tại chức là chính thì mới phát triển rộng rãi được.

Với ngành Y, thực hành và “tay nghề” là điều có ý nghĩa hàng đầu; đó cũng là điều người dân đòi hỏi trực tiếp nhất. Bởi vậy bằng sau đại học của ngành Y có tên là bác sĩ Chuyên khoa cấp I và bác sĩ Chuyên khoa cấp II.

Năm 1972 bắt đầu chiêu sinh học Chuyên khoa cấp 2, hệ tập trung (2 năm), dành trước tiên cho số bác sĩ ra trường đã lâu. Riêng số có thâm niên rất cao và tay nghề thật sự đã vững vàng chỉ cần tập trung 6 tháng (rõ ràng, phải cảm ơn các vị bác sĩ này vì công tự học vươn lên của họ). Những bác sĩ khác đều có thâm niên cao khi bước vào lớp chuyên khoa đầu tiên. Tất cả đều đã đọc tốt tiếng Pháp (do được học từ tiểu học), được công tác ở những nơi đủ sách tham khảo, khả năng tự học rất tốt. Họ học không mấy khó khăn, kể cả việc trinh bày luận văn trước hội đồng giám khảo. Năm 1974, chiêu sinh thêm một khoá chuyên khoa cấp II nữa. Đến nay các vị ở cả hai khoá đã đủ tuổi hưu.

Khoá đầu gồm các vị:
Ngoại khoa: Đỗ Quang, Đỗ Phú Đông,...
Nội khoa: Vũ Đình Hải, Nguyễn Văn Tân, Hà Văn Ngạc, Hoàng Nguyên Dực,...
Sản khoa: Lê Điềm, Trần Phi Liệt, Nguyễn Thị Ngọc Toản,...
Tai Mũi Họng: Nguyễn Thị Liên, Nguyễn Thị Mai,...
Khoá II, hệ tập trung 2 năm có 13 vị.
Nội khoa: Nguyễn Đức Thanh, Nguyễn Văn Tân, Lê Đức Chính. Ngoại khoa: Trần Gia Khánh, Đỗ Phú Đông, Nguyễn Mậu Anh, Đinh Đăng Bảng, Phạm Lộng Chương.
Sản khoa: Bùi Trọng Hoàn, Phó Đức Nhuận, Hoàng Thế Cường, Hoàng Bội Hoàn, Chu Kiện Sơn.
Hệ 6 tháng có 2 vị: Hoàng Tích Tộ (Ngoại) và Nguyễn Văn Tiệp (Nhi)

Hai năm sau, từ 1974, mới tổ chức thí điểm lớp Chuyên khoa cấp 1 tập trung đầu tiên. Chưa gọi các bác sĩ thâm niên cao về học, mà học viên lấy từ sinh viên đã học hết Y5, rất trẻ, có thành tích học tập tốt, rồi phải qua thi tuyển chặt chẽ, để đào tạo chuyên khoa từ năm thứ sáu. Sau khi thi tốt nghiệp, họ học tiếp ba năm chuyên khoa nữa (cộng cả thảy 9 năm). Họ sẽ thành cốt cán xây dựng ngành chuyên khoa sau này.

Ở Pháp, sau khi học 6 năm, sẽ thi ra để đi làm. Nhưng nếu lại qua được kỳ thi tuyển rất chặt chẽ thì sau 3 năm nghiên cứu sẽ là tiến sĩ. Còn những bác sĩ nói trên ở Việt nam cũng học 9 năm, nhưng 3 năm cuối dành cho lý thuyết chuyên khoa sâu, thực hành kỹ thuật cao và làm một luận văn nên trình độ thực hành vững hơn so với dành cả 3 năm cho một đề tài nghiên cứu.

Về sau, loại hình đào tạo này chia ra làm hai:

1) Nếu vẫn đào tạo như trên thì gọi là chế độ nội trú, bằng cấp cũng gọi là bác sĩ “nội trú” vì học viên được cấp một chỗ ở, trong bệnh viện, để ngày đêm “lăn lộn” với bệnh nhân. Sau này, thấy tuyển chọn từ Y5 là không cần thiết, đã đổi sang tuyển bác sĩ mới tốt nghiệp. Mỗi người chỉ được phép thi ‘nội trú” một lần ngay sau khi tốt nghiệp. Do thi tuyển rất chặt chẽ nên khoá I và khoá II chỉ chọn được cả thảy 25 người.

Chế độ nội trú rất đặc trưng cho ngành Y, có ở trường Y từ thời thuộc Pháp. Hầu hết các thầy lão thành của trường đều đã thi tuyển để được học theo chế độ này. Chỉ có điều, hồi xưa khoa học chưa phát triển nên bậc nội trú nằm ở “trong” đại học; nay phải đặt ra ‘sau” đại học; và thời gian học cũng phải tăng lên: 3 năm thay vì 1 năm.

2) Nếu chọn bác sĩ thâm niên cao (do vậy tuổi cũng cao), thi tuyển không ngặt nghèo lắm, cho học: a) 2 năm tập trung, hoặc b) 4-5 năm tại chức (tổng số thời gian tập trung chỉ 1,0 hay 1,5 năm), thì gọi là bác sĩ chuyên khoa cấp I. Đây là cách mở ra con đường tiến bộ cho đa số bác sĩ trong ngành. Đến nay chưa một ngành nào khác làm được như vậy. Tất cả trông vào dịp may được học Cao học.

Song song với việc tuyển "Nội trú", còn có một tiêu chuẩn nữa để sinh viên phấn đấu, để khuyến khích học giỏi và cũng phần nào để việc phân phối nơi công tác được công bằng: đó là tổ chức thi "Viện-Trường". Cùng dự thi tuyển Nội trú nhưng nếu không đạt Nội trú thì ở một chuẩn mực nào đó được học theo chế độ “Viện-Trường”, nghĩa là khi tốt nghiệp bác sĩ sẽ được phân phối về Viện nghiên cứu hay trường (Đại học/Cao đẳng), hoặc cấp tỉnh.
Sau những bước đầu thử nghiệm này, bậc học dần dần được hình thành, và được triển khai rộng rãi, có thêm chế đọ Trợ lý giảng dạy (để tuyển thầy cho các môn y học cơ sở).
Tới 1993 đã mở được được 17 khóa nội trú với 436 bác sĩ.
Đến lúc này bộ Đại Học mới ban hành chế độ Cao Học. Trường Y thích ứng bằng hai cách:
1) Vừa đào tạo nội trú (như cũ, kinh phí do bộ Y tế cấp), vừa đào tạo cao học (kinh phí và chỉ tiêu do bộ Đại học cấp)
2) Tạo sự liên thông giữa bằng nội trú và bằng cao học. Cụ thể: bác sĩ nội trú học thêm 1-2 chứng chỉ thì được cấp bằng cao học.

Vài nhận định: đã xác lập được nhiều loại hình đào tạo phù hợp, vừa có bác sĩ trẻ và giỏi (nội trú), vừa có bác sĩ tay nghề cao công tác ở khắp mọi vị trí trong màng lưới y tế rộng lớn (tuyến tỉnh và trung ương có bác sĩ chuyên khoa cấp II (và cấp I); ở huyện có bác sĩ chuyên khoa cấp I. Nếu chờ đợi thụ động chế độ của bộ Đại Học thì mất thêm 17 năm (và số cao học được tuyển chọn hàng năm cũng rất hạn chế). Mặt khác, nay cao học chỉ học 2 năm, khả năng thực hành không thể bằng nội trú (học 3 năm). Do sự liên thông, đến nay 100% bác sĩ nội trú đã có luôn cả bằng cao học. Khi tuyển chọn công chức, bác sĩ nội trú thường được các cơ quan y tế hoan nghênh hơn.

PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

Chi viện chiến trường miền Nam

Chiến tranh làm cho trường Y Hà Nội, ngoài nhiệm vụ cung cấp bác sĩ cho màng lưới dân y, còn phải cung cấp cả thầy và trò cho quân đội và cho chiến trường miền Nam.

Việc huy động các thầy đi chiến trường miền Nam (hồi đó gọi tắt là đi B) được thực hiện từ rất sớm và thành nhiều đợt, với yêu cầu luân phiên nhau vào trao đổi kinh nghiệm về khoa học kỹ thuật và về tổ chức với cán bộ đang ở chiến trường, đồng thời khảo sát để đề xuất với Bộ những nhu cầu cần thiết. Trường hợp đi B sớm nhất là vào năm 1963: bác sĩ Huỳnh Văn Phan, chủ nhiệm bộ môn Y học Thể dục (đã hy sinh vài năm sau). Tiếp đó, đầu năm 1966 bác sĩ Phan Thị Phi Phi, cũng quê miền Nam, làm việc ở bộ môn Sinh lý bệnh học, được gọi tập trung, dù chồng là bộ đội và con mới hơn 1 tuổi. Mấy năm sau, tháng 4.1971, Bộ lại báo cho 27 cán bộ chuẩn bị, là những người thuộc hầu hết bộ môn cơ sở và một số bộ môn lâm sàng, với ý định vào miền Nam làm công tác đào tạo. Tình hình chiến sự ở miền Nam khi đó khiến không thể mở được một trường đại học. Do vậy trong số 27 thầy nói trên, chỉ có một số thầy được gọi đi B (tháng 7.1971): 4 thầy lâm sàng là Đỗ Nguyễn Phương, Đỗ Đức Văn, Nguyễn Mễ (cả 3 là Ngoại khoa) và Đào Văn Chinh (Nội khoa) vào làm việc tại các cơ sở y tế thuộc Trung ương Cục miền Nam; và 4 thầy ở các bộ môn cơ sở là Đỗ Đình Hồ, Nguyễn Chí Phi (Hóa Sinh), Phạm Hoàng Thế (Ký sinh trùng), Lê Huy Chính (Vi Sinh) cùng với một bác sĩ chuyên khoa huyết học (thuộc biên chế B) vào thành lập một tổ xét nghiệm, vừa trực tiếp phục vụ, vừa đào tạo cán bộ tại chỗ cho một bệnh viện địa phương. Cũng trong thời gian này, có một đoàn cán bộ khác của trường được cử vào "Công trường T.71" để phục vụ việc chuẩn bị hành lang cho cuộc chiến đấu mới (trong số này có thầy Nguyễn Hoàng Sơn, ở bộ môn Tai Mũi Họng).

Những đợt sau, vào tháng 2.1973, đến lượt các bác sĩ Võ Thế Quang, người miền Nam, phó chủ nhiệm bộ môn Râng Hàm Mặt (trong diện dự kiến đề bạt phó Hiệu trưởng) và Đoàn Trọng Hậu, bộ môn Mắt. Hai ông đã có vinh dự tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh rồi tiếp quản trường Đại học Y Dược Sài Gòn ngay từ ngày đầu, sau đó đã ở lại xây dựng nhà trường cho đến tận ngày nay.

Riêng trước đó, vào năm 1967, một trường hợp không trong diện huy động mà hoàn toàn do ước nguyện là giáo sư Đặng Văn Ngữ, chủ nhiệm bộ môn Ký sinh trùng và bộ môn Sinh học. Mặc dù tuổi không còn trẻ, ông đã xin kỳ được ra tiền tuyến để nghiên cứu tại chỗ sự lưu hành bệnh sốt rét, một bệnh rất nguy hại cho sức khỏe bộ đội và nhân dân các vùng đang chiến đấu mà nhờ nỗ lực của ông và các cộng sự, bệnh này đã coi như bị tiêu diệt trên miền Bắc. Trong khi tiến hành nhiệm vụ cao quý đó, ông đã hy sinh tại chiến trường, để lại nỗi tiếc thương vô hạn cho đồng sự và học trò. Nhà nước đã truy tặng ông danh hiệu Anh hùng Lao động.

Về sinh viên, bộ Y tế đã chọn ra hàng trăm người chủ yếu có quê quán ở miền Nam, giao cho trường đào tạo nhanh, để “đi B”.

Từ khóa 1961-1966, Bộ đã chọn ra một số sinh viên Y5, phần nhiều quê miền Nam, lập thành một lớp riêng, giao cho trường Y đào tạo khẩn trương (lấy tên: Y5C), đến 7.2.1966 Bộ đã công nhận tốt nghiệp trước thời hạn 47 người để đi công tác B thuộc 6 chuyên khoa, như Huỳnh Phương Liên (Vi sinh), Đào Hoàng Thư, Nguyễn Thị Lài (Tai Mũi Họng), Lê Hồng Quang (bí thư chi bộ lớp) cùng Phùng Ngọc Ân (trong số này, chuyên khoa Ngoại đông đảo nhất gồm 29 người).
Từ khóa học này, đến 10.8.1966 còn có một lớp chuyên khoa 52 người, cũng phần lớn quê miền Nam, dành cho diện B sau khi tốt nghiệp, cũng gồm 6 chuyên khoa: Ngoại khoa 27 người (như Cáp Sinh Cung, Tô Văn Nhiên, Huỳnh Văn Phước), Nội khoa 10 người (có Huỳnh Tấn Cảnh, lớp trưởng), Phụ Sản 9 người (như Phan Tuyết Đông, Phan Thị Ngọc Mai...), Gây mê-Hồi sức 3, Tai Mũi Họng 2, Mắt 1 người.
Khóa học tiếp sau (1962-1968) có 82 bác sĩ thuộc 20 chuyên khoa có đủ cả cơ sở và lâm sàng, để tổ chức đào tạo về Y, đã được Bộ điều động cho chiến trường B theo quyết định ngày 9.5.1968, trong đó gồm: Ngoại khoa 13 người (như Hồ Đăng Thới, Nguyễn Tấn Khởi, Đặng Tấn Tài...), Gây mê Hồi sức 4 người (như Tô Văn Có, Đinh Văn Khi...), Lao 7 người (như Trương Minh Vuông, Lê Bá Kiều...), Huyết học 2 người (có Trần Văn Bé, hiện là Viện trưởng Viện Huyết học - Truyền máu thành phố Hồ Chí Minh), Nhi 8 người (có Huỳnh Thị Xuân...), Dược lý học 2 người (có Lâm Hồng Tường..), Sinh lý bệnh 4 người (có Nguyễn Phụng Tiên, Phạm Như Đài, Nguyễn văn Thân, Trần Trạng...), Nội khoa 6 người (có Tăng Ngọc Minh...), Răng Hàm Mặt 2 người (có Thời Thị Tại...), Sản Phụ 5 người (có Nguyễn Phụng Hoàng).

Tới năm 1970 có thêm một hình thức nữa là Bộ Y Tế giao cho trường chỉ tiêu đào tạo cán bộ chuyên khoa “cho chiến trường B, C”. Thông báo ngày 28.8.1970 giao cho trường đào tạo 31 người, thời gian 1 năm, với nhiều chuyên khoa theo yêu cầu của Vụ 1.

Năm 1971, theo lệnh Tổng Động Viên, Bộ điều động một số sinh viên Y2, Y3 vào mặt trận Quảng Trị phụ trách quân y đại đội (cương vị y tá), có một số đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Sau chiến dịch này có một số trở về trường học tiếp như Đỗ Hán, Nguyễn Quốc Triệu, Nguyễn Hữu Cốc, Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Văn Khanh, Phùng Ngọc Hoàn,Lê Lương Đống, Nguyễn Trọng Thông, Nguyễn Trần Quýnh, Trần Văn Tài..., một số khác về Học viện Quân Y. Trong 8 năm chống Mỹ cứu nước, từ 1965 đến 1972, nhà trường đã cử 241 cán bộ và sinh viên lên đường chi viện miền Nam, cung cấp cho chiến trường B tới 516 bác sĩ mà tới nay, nhiều người đã ở những cương vị chủ chốt của y tế miền Nam; nhiều người đã hy sinh, như bác sĩ Tâm đã ngã xuống giữa đường phố Sài Gòn trong dịp tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968. Nếu kể cả các bác sĩ khi ra trường được phân về các cơ sở y tế miền Bắc, rồi từ đó được cử đi B, thì trường này đã cung cấp cho nhu cầu giải phóng miền Nam hàng ngàn bác sĩ.

Nhập ngũ và đào tạo Bác sĩ cho quân đội

Ngoài các đợt nhập ngũ theo nghĩa vụ quân sự trong cán bộ, công nhân, viên chức, thì các đợt điều động thầy vào quân đội cũng được thực hiện vào thời gian chống Mỹ, bổ sung chủ yếu cho Đại học Quân Y, sau khi trường này từ trung cấp chuyển thành đại học trong quân đội.

Những đợt sớm nhất bắt đầu với việc điều hai giáo viên bộ môn Y Vật Lý (Nguyễn Xuân Giao và một người phụ trách kính hiển vi điện tử của trường để làm việc đó trong quân đội), cùng giáo viên tiếng Pháp Nguyễn Văn Cư và một số anh em khác. Sau đó là đợt các bác sĩ Vương Tiến Hòa, Đặng Văn Tằng... Những năm về sau, thường nhằm vào số thầy có năng lực cao như Nguyễn Văn Nguyên, Vũ Dương Quý (bộ môn Sinh lý bệnh), Phạm Quang Ngọc (Mô học), Hoàng Văn Lợi (Nội khoa) rồi sau đó là Đào Văn Phan (Dược Lý)... Đến nay những người tiếp tục ở lại quân y đều có những đóng góp lớn và cương vị cao ở Học viện quân y.

Đối với sinh viên, trong thời gian này chủ yếu là gọi nhập ngũ theo chỉ tiêu hàng năm (100 bác sĩ mới tốt nghiệp), sau khi được đoàn cán bộ quân lực và quân y đến nghiên cứu chọn trước (dựa trên lý lịch và học bạ). Ngoài ra còn hình thức điều động sớm sinh viên Y4, Y5 vào Đại học Quân Y học tiếp 1, 2 năm cuối cho phù hợp với yêu cầu phục vụ quân đội. Năm 1967, ở khóa 1962-1968 có 25 sinh viên được chọn chuyển vào học năm cuối, thi tốt nghiệp tại Đại học Quân Y nhưng vẫn do Bộ Y Tế công nhận, như các anh, chị Ngô Quang Chanh, Nguyễn Trọng Thuấn, Đỗ Thị Kim Chi, Hồ Tư Lĩnh, Trần Công Duyệt... Ngày 30.11.1968, từ khóa 1964-70 đã chọn ra 95 sinh viên đưa vào Đại học Quân Y học tiếp, phiên chế thành 2 đoàn nhập ngũ mà đoàn trưởng, đoàn phó là các anh Nguyễn Tiến Lương, Lê Xuân Lan, Tôn Thành Minh và Nguyễn Tiến Nạo. Đến năm 1969, các Bộ Y Tế và Quốc Phòng còn có yêu cầu chuyển giao 100 sinh viên ngay từ cuối năm thứ tư sang học tiếp ở Đại học Quân Y bắt đầu từ tháng 7.1969.

Như vậy, cũng từ 1965 đến 1972, theo Bản tổng kết 8 năm chống Mỹ cứu nước, trường ta đã chuyển vào Đại học Quân Y 332 sinh viên Y5 và Y6, và bổ sung cho quân đội 679 bác sĩ, tổng cộng trên 1000 người.

Trong số này, có người đã lập được thành tích phục vụ chiến đấu ngay sau khi mới ra trường như bác sĩ Huỳnh Ri ở Cồn Cỏ, bác sĩ Nguyễn Thị Chuân, chiến sĩ thi đua của đơn vị mới nhập, bác sĩ Trần Công Duyệt ở Khe Sanh, Quảng Trị được thưởng huân chương và được kết nạp Đảng ngoài mặt trận v.v.. Đông đảo anh chị em đã làm tốt hoặc xuất sắc nhiệm vụ ở tất cả các cơ sở điều trị, nghiên cứu, giảng dạy ở các quân khu từ Bắc chí Nam, từ quân y ở các đơn vị quân đội đến các cơ sở quân y trung ương và không ít người đã đảm nhận những vị trí chủ chốt hoặc trọng yếu hiện nay ở các đơn vị công tác (tạm kể các anh, chị như Nguyễn Kim Nữ Hiếu, Nguyễn Huệ, Trần Công Duyệt, Nguyễn Phong Tuyết... (ở Viện Quân Y 108), Phạm Mạnh Hùng, Hoàng Văn Lợi, Đinh Thị Đán, Nguyễn Thị Tỵ... (ở Học viện Quân Y và Viện Quân Y 103), v.v...

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHỦ YẾU

(a, b, c)
* Bibliographie des Thèses de Médecine - Université de Saigon - 1972
* Các văn bản của trường và văn bản gửi đến trường (từ thời Pháp thuộc, thời kháng chiến chống Pháp và gần đây: bản photocopy lưu ở Ban Tư liệu - Lịch Sử trường Đại Học Y Hà Nội) Các văn bản khai thác ở Trung tâm Luư trữ Quốc gia (bản photocopy lưu ở Ban Tư liệu - Lịch Sử, trường Đại Học Y Hà Nội)
* Đinh Xuân Lâm (chủ biên), và nhiều tác giả. Đại học tổng hợp (lược sử), 1991.
* (Henri Galliard: Yersin và việc thành lập trường Y Hà Nội - Kỷ yếu trường Đại học Y Dược khoa Đông Dương, Hà Nội.- Tập 9.- 1944, tr 1).
* Hồi ký viết tay và phỏng vấn ghi âm của các thầy trường Y (Hồ Đắc Di, Vũ Công Hoè, Vưu Hữu Chánh): Đặng Vũ Viêm và Trương Văn Hợi thực hiện
* Hồi ký viết tay và phỏng vấn ghi âm của các vị cựu sinh viên Y và Dược thời kỳ chống Pháp (Nguyễn Xuân Ty, Nguyễn Dương Quang, Nguyễn văn Nhân, Nguyễn văn Âu, Nguyễn Bửu Triều, Phạm Văn Phúc, Nguyễn Hữu Thiệu, Nguyễn Văn Bảy..., từ khoá vào trường năm 1943 đến 1952).
* Hồi ký viết tay của các vị cựu sinh viên Nguyễn Văn Vân, Đặng Kim Châu, Nguyễn Thường Xuân, Nguyễn Như Bằng, Đỗ Bá Hiển
* Lamb H.B.: The Vietnam's will to live.- Ncew York, 1972
* Lê Văn Khải. Truyện y sỹ, Truyện y khoa (hồi ký) 1971
* Nguyễn Dương Quang và cộng sự. Sơ lược lịch sử 90 năm Bệnh viện Hữu nghị Việt-Đức Hà Nội. Nhà Xuất bản Y Học, 1996.
*Nguyễn Bắc. Giữa thành phố bị chiếm - Nhà xuất bản Hà Nội 1994
* Nguyễn Ngọc Lanh, Trương Văn Hợi, Đặng Vũ Viêm. Sơ thảo lịch sử 50 đại học Y khoa Hà Nội (1945-1995; lưu hành nội bộ).
* Nhiều tác giả. Các sách về Cuộc đời và sự nghiệp (các vị: Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước, Đặng Văn Ngữ, Đỗ Xuân Hợp). Nhà xuất bản Y học. 1999 -2000
* Nhiều tác giả. Sơ lược lịch sử y tế Việt Nam - Nhà xuất bản Y học - 1999
* Nhiều tác giả. 45 năm phục vụ chiến đấu xây dựng và trưởng thành - Quân Y Viện 103
* Nhiều tác giả. Alexandre Yersin: Un demi-siècle au Vietnam. Hanoi (seminaire sur A. Yersin, Nha Trang ), 1992.
* Nhiều tác giả. Sơ thảo lịch sử trường Đại học Dược khoa.
* Phỏng vấn ghi âm nhóm cựu sinh viên kháng chiến năm 1950 - 1954 (Trần Quán Anh thực hiện)
*Tôn Thất Tùng (Hồi ký). Đường vào khoa học của tôi. NXB Thanh Niên, 1973)
* Trường Y Dược toàn cấp Đông Dương - L'Ecole de plein exercice de Médecine et de Pharmacie de l'Indochine.- Nha Học chính Đông Dương xuất bản.- Hà Nội, 1931)
* Tạp chí hàng năm của trường Đại học Y Dược (Annales các năm 1940-1944)
* Tôn Thất Tùng, cuộc đời và sự nghiệp - NXB Y Học, 1997).
* Việt Nam Dân Quốc Công Báo (tiếng Việt, các số 1945 và 1946) và Journal officiel de l’ Indochine francaise (các số 1902, và các số sau đó)
* Võ Nguyên Giáp. Chiến đấu trong vòng vây. NXB QĐND, 1998


 THỐNG NHẤT (1975 - 2002)
 

Lịch sử trường trong thời kỳ đất nước thống nhất có thể chia làm hai giai đoạn: trước và sau khi có Nghị quyết Đại hội VI (1986).

- Từ 1975 đến 1986 (trước khi có Nghị quyết Đậi hội VI. Đây là giai đoạn nhân dân nô nức vui mừng vì đất nước sạch bóng quân thù, hy vọng sẽ tiến nhanh, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội với ấm no, hạnh phúc.

Tên nước, tên Đảng, rồi tên Đoàn thanh niên và Đội thiếu nhi cũng được thay đổi để nói lên quyết tâm xây dựng nhanh một nước Việt Nam phồn vinh, ấm no, hạnh phúc. Khầu hiệu bao trùm khi đó là “Tất cả vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”. Quyết tâm trên đã được thể chế hoá trong bản Hiến pháp hồi đó.

Nhưng đây cũng là giai đoạn đất nước có rất nhiều khó khăn do cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp không còn thích hợp, lạm phát tăng cao, ảnh hưởng tiêu cực tới trường đại học Y Hà Nội.

- Từ 1986 trở đi (sau khi có Nghị quyết Đại hội VI): thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, các mặt dần dần có sự tăng trưởng và phát triển; nhờ vậy đã có tác động rất tích cực đối với trường đại học Y Hà Nội.

Tuy nhiên, dù giai đoạn mới đã mở ra, nhưng quán tính của nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp vẫn tồn tại một số năm nữa: phải đến năm 1990 trở đi các tác dụng tích cực mới thật sự phát huy. Bởi vậy giai đoạn này có thể chia thành hai giai đoạn nhỏ:
a) Từ 1986 đến 1990: Phục hồi
b) Từ 1990 đến nay: Khởi sắc và phát triển

Giai đoạn phục hồi vẫn là thời kỳ khó khăn do quán tính của thời kỳ quan liêu bao cấp để lại nên không khác nhiều so với thời kỳ 1975-1986 do vậy chúng tôi tạm chia thời kỳ 1975-2002 thành hai giai đoạn: giai đoạn khó khăn 1975-1990 và giai đoạn khởi sắc 1990-2002.

Giai đoạn Từ 1975 đến 1990.

Sau chiến thắng vĩ đại 1975, đất nước thống nhất, nhưng hậu quả chiến tranh còn rất nặng nề, thì tiếp đó lại thêm 2 cuộc chiến tranh biên giới (phía Tây Nam và phía Bắc) khiến ta phải huy động nhiều sức người sức của, cộng với những trì trệ về kinh tế cùng với những thiệt hại do những sai lầm trong chính sách “ giá - lương - tiền”... nên đất nước vẫn còn nghèo nàn, khó khăn, do vậy kinh phí hoạt động của trường rất eo hẹp, đời sống thầy cô và sinh viên rất gieo neo. Xuất hiện làn người di tản với hy vọng tìm được cuộc sống no đủ hơn.

Năm 1986, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra các nghị quyết về công tác đổi mới nhưng phải một thời gian sau Nghị Quyết của Đại Hội Đảng VI mới thật sự đi vào cuộc sống. Do vậy, giai đoạn 1975-1986 vẫn là giai đoạn rất khó khăn của trường. Tham khảo về sự mất giá đồng tiền trong giai đoạn khủng hoảng: Thiếu gạo trầm trọng, khiến giá gạo ở thị trường tự do lên rất cao; do vậy nếu tính quy đổi tiền mặt từ tem phiếu, thì lương của y công cao hơn lương bác sĩ không công tác trong ngành ngoại sản và độc hại: y công được hưởng 21 kg gạo, còn bác sĩ chỉ được 13,5 kg.

Quy định ngày 3-5-1985 hiến máu được bồi dưỡng 500 đồng/100ml, trong khi đó lương phó giáo sư 463 hoặc 505 đồng, đến 15-9-1990 quy định lại về giá máu truyền: đã là 15.000đ (gấp 30 lần) và ngày 12-2-1991 tăng thành 32.000đ ( 64 lần) mà vẫn khó tìm ra người cho máu. Cán bộ trường đại học Y Hà nội đành vi phạm lệnh của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội (số 113/QĐ-UB, ngày 02-3-1970) nghiêm cấm nuôi lợn trong nội thành.

Trong tình cảnh khó khăn như vậy, trường đại học Y Hà Nội với kinh phí hạn hẹp vẫn hoàn thành nhiều việc to lớn và có ý nghĩa. Có lẽ không ai có thể đánh giá công sức của thầy trò nhà trường cùng với các trường đại học khác đóng góp vào sự nghiệp y tế và giáo dục để đất nước Việt Nam lẽ ra xếp gần cuối bảng (dựa trên chỉ số thu nhập đầu người) lại vươn lên tới vài chục bậc (dựa trên chỉ số phát triển con người ), nhờ vậy giảm đáng kể sự yếu kém của nước ta trước con mắt quốc tế.

Năm 1978, GS. Nguyễn Trinh Cơ mời đồng chí Đỗ Mười, hồi đó là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tới thăm Trường. Đồng chí Đỗ Mười chính là người giới thiệu GS. Nguyễn Trinh Cơ ra nhập Đảng năm 1946 tại mặt trận Nam Định. Thông cảm vơớinhưũng khó khăn về chỗ ở của cán bộ công nhân viên nhà trường. Đồng chí đã quyết định cho Trường một khu nhà lắp ghép 5 tầng và giao cho Bộ xây dựng thực hiện ngay. Sau một năm, các khu nhà B1, B2, B3 đã được hoàn thành. Ngày 2 tháng 9 năm 1979, gần 200 hộ gia đình CBCNV của nhà trường phấn khởi đón nhanạ những căn nhà mới.

Một sự kiện quan trọng trong giai đoạn này là chính phủ chính thức công nhận trường đại học y Hà Nội là trường trọng điểm quốc gia.Trong quyết định về việc tổ chức lại một bước công tác đào tạo của ngành Đại học số 110/HĐBT ngày 8 tháng 4 năm 1985 do Phó Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Võ Nguyên Giáp ký, tại điều II, mục 1 và 1.5 đã quyết định Trường Đại Học Y Khoa Hà Nội là trường trọng điểm cho cả nước của ngành y. Chúng ta có quyền tự hào vì Đảng và nhà nước đã đánh giá cao sự đóng góp của trường.

Có thể tóm tắt các công tác lớn của trường lúc đó như sau:

1- Phải đáp ứng yêu cầu rất cao về số lượng bác sĩ ở cả hai miền. Địa chỉ của bác sĩ ra trường khi đó vẫn là tuyến huyện; thời điểm mới thống nhất đất nước, mỗi huyện miền Bắc có trung bình 2-4 bác sĩ, còn lại là y sỹ các chuyên khoa; còn ở miền Nam nhiều huyện chưa có bác sĩ nào. Thời điểm đó, số bác sĩ của Việt Nam vẫn chủ yếu do trường Y Hà Nội đào tạo. Cơ chế thị trường chưa xác lập, do vậy Nhà Nước vẫn bao cấp cho từ khi vào đại học cho đến khi phân công công tác cho bác sĩ mới ra trường.

2- Phải vực dậy hai trường Y ở miền Nam mới giải phóng. Không thể đơn độc làm nhiệm vụ đào tạo như trên, trường Y Hà nội đã có những đóng góp chủ yếu để hai trường Y miền Nam (Huế và Sài Gòn) có thể hoạt động trở lại, đồng thời vẫn phải tiếp tục hỗ trợ hai trường Y ở miền Bắc (Thái Bình, Bắc Thái), gồm: chi viện giảng dạy, tiếp tục san sẻ và đào tạo cán bộ, hỗ trợ sách giáo khoa... Ngoài ra, còn bắt tay xây dựng Trường Y Hải Phòng (lúc đầu, trường Y Hải Phòng được gọi là “phân hiệu”, thuộc trường Y Hà Nội).

3- Phải thực hiện vai trò trường trọng điểm:

Cũng trong giai đoạn này, Trường bắt đầu có những cố gắng trong mở rộng đối ngoại do chính sách mở cửa mang lại.

Nghiên cứu. Thầy cô toàn trường, trong hoàn cảnh ngặt nghèo về cuộc sống và về kinh phí, vẫn cố gắng nghiên cứu khoa học mặc dù đề tài còn hạn hẹp và chưa có điều kiện đi sâu. Kết quả nghiên cứu ngoài những ứng dụng thực tiễn và báo cáo ở các hội nghị, còn giúp cho nhiều thầy cô đạt được các chức danh khoa học. Gần tám chục luận án phó tiến sĩ được bảo vệ. Trong quá trình phát triển, hàng chục đơn vị chuyên môn được thành lập. Thầy cô của trường vẫn tiếp tục được bổ nhiệm vào các chức vụ khoa học và quản lý ở các viện, bệnh viện (dù không thuộc trường).

Nhờ nghiên cứu, trong 15 năm đó trường có thêm 60 giáo sư bậc I và bậc II (nay là phó giáo sư và giáo sư). Đồng thời cũng vắng bóng nhiều thầy có công lao lớn: thầy Di, thầy Tùng, thầy Nguyên, thầy Tước, thầy Hợp, thầy Hoè là những GS đầu tiên của trường; rồi tiếp đó là các thầy Cơ, thầy Doãn, thầy Thái....

Nhờ đổi mới cách nhìn, trường ta đã kỷ niệm 80 năm thành lập. Điều này tạo tiền lệ để trường kỷ niệm 90 năm thành lập. Thời kỳ 1902 - 1945 được thừa nhận là thời kỳ trường này có những đóng góp nhất định cho đất nước.

a) Trường Y Hà Nội hai lần cải cách giáo dục: lần 1, để chương trình phù hợp với mục tiêu mới (bác sĩ về huyện, thay vì bác sĩ cho chiến trường và cho quân đội, như trước đó). Mục tiêu này chung cho cả các trường y khác: đó là bác sĩ đa khoa, để trên cơ sở này sẽ đào tạo tiếp chuyên khoa (sau đại học); lần 2, khi tuyến huyện đủ bác sĩ, trường đào tạo bác sĩ đa khoa định hướng cộng đồng, với nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu.
b) Nhiệm vụ đào tạo sau đại học phải trở thành nhiệm vụ chính, quan trọng như (hoặc hơn) đào tạo đại học. Sau 15 năm nỗ lực thí điểm đào tạo sau đại học, khi sắp bước sang thập kỷ 90 trường đã đủ khả năng mở rộng mọi loại hình. Đã tổ chức đào tạo bác sĩ chuyên khoa cấp I tại một số địa phương. Ngoài ra, nhờ chủ trương đưa bằng cấp vào các tiêu chuẩn chức danh, việc đào tạo SĐH phát triển mạnh từ 1990 - 1992, kể cả đào tạo NCS. Hội nghị tổng kết ba năm đào tạo SĐH (1989 - 1992) đã quyết định tìm biện pháp làm “liên thông” giữa các bằng cấp nội ngành với bằng cấp quốc gia.

Người đề xuất và đứng ra tổ chức lễ kỷ niệm 80 năm thành lập trường là giáo sư Nguyễn Năng An, khi đó đang là phó hiệu trưởng, làm việc dưới quyền của giáo sư hiệu trưởng Nguyễn Trinh Cơ. Chúng ta cũng giữ lại được Viện Giải phẫu lịch sử, lẽ ra đã bị mất. Và cũng trong giai đoạn này, lần đầu tiên Bộ Y tế dựa vào kết quả bầu hiệu trưởng để ra Quyết định bổ nhiệm.

MỤC TIÊU, CHƯƠNG TRÌNH GIAI ĐOẠN 1975 – 1990.

Tóm tắt giai đoạn đào tạo bác sĩ trước 1975

Từ thập kỷ 60, trường bắt đầu đào tạo bác sĩ đa khoa cho tuyến huyện, với những mục tiêu sau này bị nhận xét là quá cao (có tính chất là những “kỳ vọng” hơn là mục tiêu). Thực ra, nếu một huyện chưa có bác sĩ nào, thì bác sĩ đầu tiên về đó phải là đa khoa, phải giải quyết rất nhiều vấn đề thuộc các chuyên khoa khác nhau.. Ngoài đa khoa ra, vẫn phải đào tạo một tỷ lệ bác sĩ chuyên khoa sơ bộ (tức là chuyên khoa trong đại học) cho tuyến tỉnh và tuyến trung ương - vì sự phát triển tự nhiên của các tuyến này.

Tuy nhiên, số bác sĩ về huyện không nhiều như dự định - vì chiến tranh đã xảy ra. Riêng số bác sĩ đi chiến trường miền Nam và vào quân đội đã tới trên 2000. Ngoài ra số chuyên khoa sơ bộ bổ sung cho tuyến trung ương và tỉnh theo thống kê sơ bộ cũng khoảng gần 1000; trong đó, riêng số bác sĩ được giữ lại trường Y Hà Nội từ 1965 đến 1975 không dưới 200 (trong đó có khoảng 2/3 trụ lại được, số còn lại, vì nhiều lý do, đã xin đi khỏi trường: đa số lại trở về đa khoa).
Ngày nay, bác sĩ chuyên khoa được đào tạo sau khi tốt nghiệp đa khoa, nhờ vậy sẽ có nền tảng vững chắc. Nhưng cách đây 30-40 năm vấn đề không đơn giản như vậy. Số bác sĩ còn rất thiếu so với nhu cầu, y sĩ trung cấp vẫn phụ trách cả một buồng bệnh, thậm chí là trưởng khoa, thì không thể dành ra 2 năm sau khi tốt nghiệp để đào tạo chuyên khoa. Vậy, chỉ có thể chuyên khoa trong đại học. Cũng hồi đó, có sự giằng co giữa tỷ lệ đa khoa và chuyên khoa và nếu tỷ lệ này quá xa thực tế thì sẽ gây lãng phí, vì phải đào tạo lại mới làm được việc. Nói chung, bác sĩ về huyện phải là đa khoa nếu như mỗi huyện chưa có, hay mới có 1-2 bác sĩ; còn ở tuyến trên (tỉnh, trung ương) thường phải là chuyên khoa.

Năm 1966, tuyến tỉnh mới gần đủ bác sĩ, nhưng đã bắt đầu có bác sĩ về huyện, do vậy khóa sinh viên vào trường năm 1966 (ra trường năm 1972) chỉ có 2,6% chuyên khoa, còn lại là đa khoa. Khoá này có một tỷ lệ cao về huyện và đi B, do vậy đa khoa là thích hợp. Nhưng do nhiều yếu tố tác động vào, tỷ lệ chuyên khoa cứ tăng nhanh, cho đến khoá vào trường 1971 (ra trường 1977), tỷ lệ chuyên khoa đã là 66,6%, tức 2/3.

Một bác sĩ chuyên khoa sản đi B, hoặc một bác sĩ chuyên khoa thần kinh về huyện hẳn là sẽ ít phù hợp trong tình hình và đặc điểm bệnh tật của thập kỷ 60, do vậy gây những lãng phí nhất định. Nhưng điều đó thực tế đã xảy ra thông qua phiếu điều tra. Nguyên nhân làm cho tỷ lệ chuyên khoa cứ tăng cao hàng năm, trái với chủ trương ban đầu, là:
1) do các cơ sở y tế ở tỉnh và trung ương yêu cầu (trực tiếp lên bộ Y tế), làm cơ sở cho Vụ Kế Hoạch áp đặt cho trường;
2) tâm lý không thích đa khoa, mà thích chuyên khoa hơn (có cả hy vọng được làm việc ở các tuyến cao, hơn là về huyện), do vậy người học dùng các mối quan hệ để đạt được mong muốn.

Vụ Kế hoạch của Bộ Y tế hàng năm giao cho trường những tỷ lệ đa khoa và chuyên khoa rất ít phù hợp với thực tiễn, vì số bác sĩ ra trường theo tỷ lệ này phải làm trái chuyên khoa (theo điều tra) lên tới trên 50%.

Ví dụ, năm 1968 trường được giao đào tạo 10 bác sĩ chuyên khoa Sinh Lý Bệnh cho các trường dịa phương và cho miền nam, cuối cùng chỉ có 3 người được làm đúng chuyên khoa. Điều này cũng có những nguyên nhân: 1) rất nhiều “chỉ tiêu theo kế hoạch” do cấp trên áp đặt cho cơ sở là không có cơ sở, nặng về cảm tính (đó là tình hình chung của thời kỳ bao cấp, hành chính); sự lãng phí không được rút kinh nghiệm để sửa đổi kịp thời. 2) chiến tranh diễn ra khiến các dự định bị thay đổi, đảo lộn.

Từ năm 1975: Giai đoạn trung gian

Năm học 1974-1975, qua điều tra bằng phiếu, đồng thời xem xét các số liệu có sẵn, trường muốn điều chỉnh mục tiêu cho phù hợp với tình hình mới.

Tình hình khi đó là hàng ngàn bác sĩ đi B trở về bổ sung cho màng lưới y tế ở tỉnh và huyện; rất nhiều người ở lại miền Nam nhờ vậy màng lưới y tế ở đó không đến nỗi quá mỏng manh như trước 1975. Một lượng lớn bác sĩ từ quân đội phục viên trở về dân y, phân bố cho y tế cả miền Bắc lẫn miền Nam. Các trường Y Thái Nguyên và Thái Bình đã có một số sản phẩm phục vụ xã hội. Do vậy nhu cầu bác sĩ đa khoa tuy vẫn còn, nhưng không còn gay gắt như trước. Đã có thể tăng tỷ lệ chuyên khoa, nhưng vấn đề đặt ra là chuyên khoa trong đại học hay sau đại học?.

Điều thống nhất qua các hội nghị về đào tạo của trường là về lâu dài, phải đào tạo bác sỹ chuyên khoa trên cơ sở đã tốt nghiệp đa khoa, và đó chính là chuyên khoa cấp I một hình thức đào tạo sau đại học. Thời điểm thích hợp là lúc tuyến huyện và tuyến tương đương ở cả hai miền đã tạm đủ bác sĩ.

Lúc này trong giai đoạn trước mắt được coi là giai đoạn trung gian, trường chủ trương đào tạo loại bác sĩ gọi là chuyên khoa diện rộng, hoặc gọi là đa khoa diện hẹp, nhưng vẫn là đào tạo trong đại học. Đối tượng này gồm 2 loại: Nội-Nhi-Lây và Ngoại-Sản. Điều này được coi là sáng kiến, vừa không mất nhiều thời gian đào tạo, vừa đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Sáng kiến được phản ánh đầy đủ ở báo cáo Cải cách giáo dục 1977-1978 và sau đó còn đăng ở Tập san Đại học & Trung học Chuyên nghiệp (số 2.1981).

Tuy nhiên, chưa ai đánh giá sự đáp ứng thực tiễn của sản phẩm đào tạo ra, cụ thể là không thể tìm được văn bản chính thức đánh giá tác dụng của số bác sĩ “đa khoa diện hẹp” hay “chuyên khoa diện rộng” này. Qua một phần tư thế kỷ, trường vẫn không rõ các bác sĩ trên phát huy tác dụng ra sao và chuyên khoa cuối cùng của họ là gì, mặc dù đến nay họ vẫn đang làm việc. Dẫu sao, chuyên khoa “diện rộng” đến nay vẫn phát huy tác dụng ở vùng sâu hay miền núi - nơi còn thiếu bác sĩ nói chung và bác sỹ chuyên khoa nói riêng.

Khó khăn về nơi thực tập, điều kiện ăn ở của sinh viên tăng lên trường phải tìm cách khắc phục. Từ 14-10-1977, hàng năm trường gửi 70 sinh viên Y4 về đào tạo tiếp ở Hải Phòng cho đến hết Y6. Đó là những sinh viên quê ở vùng quanh Hải Phòng, khi tốt nghiệp sẽ phân phối công tác tại các địa phương đó. Bằng cách này, trường tận dụng được cơ sở thực tập, ăn ở và từng bước xây dựng một trường đại học y khoa ở đây.

Nhiều người còn nhớ rằng, dự kiến thành lập Trường Đại học Y Hải Phòng có từ những năm cuối của thập kỷ 60 với hiệu trưởng dự kiến là BS. Nguyễn Trinh Cơ; nhưng đến năm đó vẫn bất thành - một trong các lý do là trường này quá gần trường Thái Bình.

Tiếp đó, với vai trò trường trọng điểm, trường đại học Y Hà Nội đã đề xuất sự thống nhất chương trình đào tạo bác sĩ trong cả nước: gồm một thân chung (phần cứng) và phần mềm phù hợp với tình hình sức khoẻ và bệnh tật mỗi vùng. Đáng chú ý là chương trình đào tạo bác sĩ ở miền Nam hầu như rập theo chương trình nước ngoài.

Để thống nhất chương trình y khoa trong cả nước, từ 10 đến 16.6.1980, trường ta (đoàn bác sĩ Trương Văn Hợi) và trường thành phố Hồ Chí Minh (đoàn giáo sư Phạm Biểu Tâm) đã bàn chi tiết chương trình và đi đến 4 kết luận:
1) sau 5 năm, khi đã tạm đủ bác sĩ cho huyện thì chuyển hẳn sang đào tạo bác sĩ đa khoa, lấy đó làm cơ sở đào tạo tiếp chuyên khoa;
2) Trước mắt, tỷ lệ hai loại bác sĩ giữ tương đương, nhưng bác sĩ chuyên khoa sơ bộ sẽ giảm dần, thay bằng bác sĩ chuyên khoa cấp I;
3) Kê ra các môn bắt buộc, với số giờ tối đa, tối thiểu để mỗi trường tùy chọn. Đi bệnh viện từ Y2 để tăng cường khả năng thực hành; không học Đông Y quá sớm, khi chưa có hiểu biết nhất định về y học hiện đại;
4) Tổng số giờ giao dộng trong khoảng 5.835 - 6.875 cho 6 năm, trong đó thực hành labô và bệnh viện là 64%.
Có thể thấy rằng, ngoài một số thay đổi theo chiều hướng tích cực, thì về cấu trúc chung, đây vẫn là chương trình in đậm dấu ấn thời chiến: các môn cơ sở bị cắt giảm giờ; số giờ chính trị rất cao, quân sự tới 13 tuần, lao động chân tay tới 3-4 tuần. Theo chương trình công bố tháng 8.1979 thì các môn học Chính trị, Ngoại ngữ, Thể dục chiếm 16% tổng số giờ học của 6 năm (bằng cả 1 năm học), trong khi giờ của tất cả các môn khoa học cơ bản chỉ chiếm 9%.

Cho đến hơn 10 năm sau (bước sắp vào thập kỷ 90), các nhà làm chương trình vẫn tính toán rằng tất cả số bác sĩ đào tạo ra sẽ được thu hút vào biên chế, tức là hành nghề trong hệ thống y tế công lập. Tính chủ quan, duy ý chí trong lập kế hoạch ngày càng rõ, do vậy tính bất khả thi ngày càng cao.

Thực tế cho thấy trong giai đoạn thập kỷ 80 và 90 kinh phí cho ngành Y tế và Giáo dục thuộc loại thấp nhất vì bị coi là 2 ngành “phi sản xuất”. Lương Y tế và Giáo dục cũng thuộc loại thấp nhất nhưng cũng đã chiếm tới 60 hay 70% tổng linh phí. Tương tự như vậy tại các cơ sở khám chữa bệnh, kinh phí chi cho trang thiết bị và thuốc men cũng rất nghèo nàn nên hết sức khó khăn trong điều trị người bệnh. Chưa bao giờ cả thầy thuốc và bệnh nhân khổ như lúc đó. Hiến pháp ghi rõ “chữa bệnh không mất tiền” càng làm cho ngành y tế lúng túng và bế tắc.

Thực hiện mục tiêu đào tạo bác sĩ chăm sóc sức khoẻ ban đầu

Từ 1985-1986, tám trường Y trong cả nước hàng năm đã đào tạo đều đặn trên 1000-1500 bác sĩ, nhờ vậy tuyến huyện về cơ bản đã đủ bác sĩ. Nhưng cũng thời điểm này khó khăn của đất nước lên đến đỉnh điểm. Trường Y Hà Nội, nhận thức được cần có bác sĩ về tuyến cơ sở, nên đã đề xuất mục tiêu bác sĩ đa khoa thực hành, hướng về chăm sóc sức khỏe ban đầu, nơi làm việc của họ là tuyến cơ sở (tuyến phổ cập), và cố nhiên là trong biên chế (như chế độ bao cấp quy định hồi đó).

Thống kê tháng 1.1981 cho thấy: năm 1979 ta có 12.260 bác sĩ (ở cả hai miền), trong đó 2/3 do trường Hà Nội đào tạo, nhưng tuyến huyện mới chỉ nhận được 3030 bác sĩ. Tính ra huyện miền Bắc trung bình có 7,5 bác sĩ, còn huyện miền Nam là 4,6. Đến 1985, số bác sĩ cả nước tăng lên gấp rưỡi (cụ thể là 18.875 người), số về huyện tăng rất đáng kể. Như vậy, về cơ bản, có thể chuyển sang đào tạo 100% bác sỹ đa khoa cho tuyến cơ sở (tuyến phổ cập) và trên cơ sở này chọn ra một tỷ lệ đào tạo chuyên khoa sau đại học (tức Chuyên khoa cấp I: cho tỉnh, sau đó sẽ cho huyện). Do vậy, mục tiêu đào tạo phải thay đổi.

Giáo sư Hoàng Đình Cầu, tác giả đề án này, nêu rõ: bác sĩ đa khoa thực hành trường ta sắp đào tạo là bác sĩ gia đình, biết điều trị bệnh thông thường, biết áp dụng các biện pháp vệ sinh cho cộng đồng, biết vận động nhân dân, có khả năng cộng tác với đồng nghiệp và huấn luyện cấp dưới. Tóm lại, đây là bác sĩ công lập, có giác ngộ cao, có trình độ chuyên môn phù hợp, làm việc trong một tổ chức và toàn tâm toàn ý phục vụ cộng đồng.

Để thực hiện cải cách giáo dục, ngoài sự thay đổi mục tiêu, còn phải thay đổi chương trình, viết lại sách giáo khoa, cải cách sư phạm, cải tiến thi cử và nhiều việc khác cho phù hợp với mục tiêu, mà việc nào cũng đòi hỏi kinh phí cao và tiến hành đồng bộ; do vậy rất dễ thất bại nếu không đủ các nguồn lực. Nhưng nếu thực hiện được sẽ đưa lại hiệu quả cao gấp bội so với số kinh phí đã bỏ ra.

Trong chương trình cải cách lần này, các môn y học cơ sở được dồn nén vào 2,5 năm đầu (trước là 3 năm) để dôi ra một học kỳ dành các buổi sáng cho sinh viên đi bệnh viện sớm để tăng khả năng thực hành. Các môn y học xã hội được tăng cường, hi vọng sẽ trở thành một vế cân bằng với các môn y sinh học và sẽ có tác dụng giúp ích thiết thực cho bác sĩ làm việc ở cộng đồng Đáng chú ý là tiêu chuẩn về chính trị và đạo đức cách mạng lại khá cao, với tính toán là tất cả bác sĩ đào tạo ra sẽ là cán bộ nhà nước, có lập trường và quan điểm phục vụ, có tinh thần tập thể và khả năng hợp tác với đồng nghiệp, làm việc trong biên chế Nhà nước, ở tuyến cơ sở.

Trường có thể tự hào đã rất sớm đề ra mục tiêu đào tạo từ năm 1966 trong lúc ở Việt Nam chưa trường nào tiến hành. Do chưa hiểu thấu đáo về mục tiêu nên nhiều khi ta viết mục tiêu như là sự “kỳ vọng”, hoặc như những “yêu cầu” của nhà trường mà bác sĩ phải có, chứ không phải những kỹ năng nghề nghiệp mà nhà trường phải dạy kỳ được cho sinh viên, thể hiện ở nội dung chương trình và cách đánh giá. Điển hình nhất là khi viết mục tiêu về lập trường, đạo đức cách mạng.

Mở đầu cuộc cải cách với mục tiêu mới là các buổi khai giảng lớp sư phạm y học. Ví dụ, lớp 20-10-1986, kéo dài 10 ngày, giảng viên là các thầy Lê Nam Trà, Phạm Gia Khải, Đào Xuân Tích... Sau lớp này, còn những lớp “vét” để đảm bảo hầu hết các thầy cô trong trường được học.

Ngày 20, 21, 22 học về mục tiêu; 3 ngày sau dành cho các bài về phương pháp lượng giá. Theo hướng dẫn, sau khi đề ra mục tiêu, phải đề ra ngay cách lượng giá’ Khi dạy và học một mục tiêu nào đó, cả thầy và trò đều biết rõ mục tiêu đó sẽ được đánh giá kết quả dạy và học như thế nào và phải có ngay thang điểm cho mục tiêu đó. Đã là mục tiêu, nhất thiết phải được học, phải thi và phải có điểm thi. Do vậy khó nhất là đánh giá mục tiêu về lập trường, đạo đức. Bốn ngày sau dành cho phương pháp dạy và học bằng môđun.

Trong 4 ngày cuối, có một ngày (28-10-1986) dành riêng để giáo sư hiệu trưởng Hoàng Đình Cầu thuyết trình về mục tiêu của ngành Y tế đến năm 2000. Hồi đó, ai cũng thấy năm 2000 còn rất xa và các mục tiêu là hơi thấp đối với một nước đang tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội.

Đây là nội dung thầy Cầu kiên nhẫn trình bày trong mọi dịp, để những người dù ít liên quan cũng nên biết. Như vậy chỉ có lợi. Cụ thể, đến năm 2000, ngoài 8 điểm tuyên ngôn Alma Ata khuyến nghị (giáo dục sức khoẻ; cải thiện ăn uống; cung cấp nước sạch và thanh khiết môi trường; sinh đẻ kế hoạch và bảo vệ bà mẹ trẻ em; tiêm chủng mở rộng; khống chế các bệnh dịch lưu hành; khám và chữa bệnh thông thường; cung cấp thuốc thiết yếu), ngành Y tế ta còn đề thêm hai điểm: 1) Toàn dân có hồ sơ sức khoẻ, được theo dõi định kỳ; 2) Xây dựng y tế cơ sở rộng khắp và quản lý tốt nó. Bác sĩ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, công tác ở cơ sở chính là lực lượng sẽ thực hiện 8 điểm đầu và 2 điểm cuối cùng này - với điều kiện phải có đủ biên chế thu nhận họ vì thu nhập chung của người dân ở cộng đồng chưa cho phép có hệ y tế dân lập.

Thời gian này, rất nhiều ý kiến trong ngành và ngoài ngành Y phát biểu trên báo chí và đài phát thanh về tỷ lệ bác sĩ quá thấp của nước ta - một nước xã hội chủ nghĩa - (so với các nước tư bản, thậm chí với các nước quanh vùng). Nhưng rất ít ai nghĩ rằng đào tạo bác sĩ chưa khó bằng kiếm ra kinh phí nuôi họ đủ sống để họ yên tâm làm việc trong hệ thống công lập. Quỹ lương trả cho bác sĩ thực chất là do dân đóng góp, nhưng kinh tế nước ta còn nghèo, nhất là những năm 80 dân ta đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn, do vậy quỹ lương đã không kham nổi số bác sĩ đào tạo ra. Đã vậy, tư tưởng bao cấp vẫn rất nặng nề, sự hiểu biết về nền kinh tế thị trường vẫn phiến diện và nông cạn. Hồi đó, người ta không thể quan niệm bác sĩ nước ta một nước đã được đổi tên là nước xã hội chủ nghĩa lại có thể khám bệnh tư.

ở Sài Gòn, khi xét một bác sĩ vào Đảng hay đi nước ngoài, bao giờ cũng thẩm tra xem “có khám tư hay không”. Ngày 14-4-1984, bộ trưởng Đặng Hồi Xuân ký chỉ thị (số 48/YK/TC) gửi toàn ngành Y về việc cấm làm tư, cấm bỏ việc, không nhận sự phân công... (chỉ thị này căn cứ vào thông tư của Hội đồng bộ trưởng chủ trương không khám chữa tư, vì nó trái Hiến Pháp (chữa bệnh và đi học không mất tiền). Khám bệnh tư và dạy học tư bị đặt trong khái niệm bóc lột. Bộ trưởng đã vào tận Sài Gòn để chấn chỉnh tình hình. Còn ở trường Y Hà Nội, tới tận năm 1992 mà bài kiểm tra viết Chính Trị cho sinh viên Y6 (sắp ra trường) còn có câu hỏi ‘Bác sĩ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa khác bác sĩ dưới chế độ tư bản như thế nào. Thật khó trả lời; tuy nhiên, nếu bài nào đưa ý “không khám tư” vào, sẽ đúng đáp án.

Ngày 27 và 28-11-1986 tại Đại hội công nhân viên chức, tình hình đào tạo đại học được nhận định như sau: chất lượng thực hành và chất lượng chính trị đều giảm, các điều kiện vật chất phục vụ giảng dạy đều bất cập, nhất là kinh phí.

Báo cáo của bác sĩ Hoàng Hữu Đốc, phó hiệu trưởng phụ trách hậu cần, rất được chú ý. Riêng khoản lương, phụ cấp, học bổng đã chiếm 68% tổng kinh phí của trường. Cụ thể: lương, bảo hiểm, học bổng là 7.439.000 đồng, còn số tiền được cấp là 11.037.000 đồng. Đây là số tiền gấp đôi kinh phí năm 1985, nhưng vật giá ở thị trường lại tăng gấp 5 hay 10 lần (xem bảng dưới)

MẶT HÀNGMỨC TĂNG GIÁ SO VỚI NĂM TRƯỚC (số lần)
Hoá chất, thiết bị, máyHàng trăm lần
Súc vật15 lần
Giấy, phấn nội địa8 lần
Xà phòng6 lần
Bóng đèn16-28 lần
Gỗ, đồ gỗ20 lần
Xi măng4 lần
Vôi9 lần
Sắt thép xây dựnghàng trăm lần35 lần

Trường thu được 10.000 U$D tiền tổ chức hội nghị quốc tế, Bộ Y tế trích lại 10%; số còn lại đổi sang tiền Việt (bằng cách mua hàng ở cửa hàng quốc tế Giảng Võ để bán cho được giá hời) được 1.349.000 đồng. Tính ra, 1 U$D giá trị bằng 150 đồng. Từ đó suy ra tổng kinh phí của trường tương đương 74.600 U$D, và lương phó giáo sư (505 đồng) tương đương 3,7 U$D. Thực ra, phó giáo sư còn được mua 13,5 kg gạo, 1 kg đường và 1,5 kg thịt theo giá tem phiếu; do vậy nếu kể cả hiện vật thì lương ông ta khoảng 10-12U$D chưa kể bao cấp về tiền nhà và tiền điện.
Một năm sau, tại Hội nghị công nhân viên chức, tình hình kinh phí không cải thiện mà còn xấu đi. Được cấp 16.758.000 đồng, riêng chi cho lương, phụ cấp, công tác phí, y tế, bảo hiểm, học bổng, điện, nước, ... đã hết gần 90% kinh phí. Chi cho giảng dạy và nghiên cứu khoa học chỉ có 1.861.000 đồng, chiếm 7% tổng kinh phí. Lương quá thấp, nên cần nhắc lại công sức rất lớn của ông Trần Văn Luận và nhất là ông Trương Xuân Ngọc đã bỏ ra khi phụ trách xưởng sản xuất thuốc Philatốp để đem lại cho trường số tiền phúc lợi rất lớn, bù đắp vào lương (và cả kinh phí chung).
Tiến hành cải cách giáo dục trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn như vậy nhưng đa số vẫn rất nhiệt tình, hăng hái thực hiện không tiếc công sức.

Ngày 7-4-1987 trường có cuộc họp về chất lượng thực hành của sinh viên. Những người quan tâm nhất và có trách nhiệm thừa hành đã tới dự và góp ý. Cuộc họp đã đi đến thống nhất là không nên coi các giờ thực tập Giải Phẫu, Mô Học, Hoá Sinh, Sinh Lý, Sinh Lý Bệnh là “thực hành”, mà chỉ là để minh hoạ lý thuyết. Nhưng nếu sinh viên vận dụng tốt lý thuyết vào thực tiễn thì lại được coi là khả năng thực hành. Mặt khác, ở bệnh viện Bạch Mai và Việt Đức không còn bệnh thông thường giống như bệnh lý ở tuyến cơ sở nữa. Phải xây dựng thực địa, nhưng lại không có kinh phí. Ngay súc vật thực tập cũng sẽ bị cắt giảm. Giáo sư hiệu trưởng chủ trương coi ký túc xá cũng là thực địa cộng đồng để thầy trò tham quan và cải tạo nó.

Ngày 05-9-1988 có cuộc họp về súc vật thực tập, mời bác sĩ phụ trách giáo vụ của các bộ môn cơ sở tới dự. Riêng chó, năm vừa qua (1987-1988) đã dùng hết 361 con (thành tiền 9.025.000 đồng); 213 thỏ (1.278.000 đồng); ếch 252 kg, gà 80 con (400.000 đồng); chuột nhắt 424 con (212.000 đồng)... Tổng cộng 11.001.000 đồng. Kinh phí được cấp không thể kham nổi, nếu năm học tới các bộ môn cứ dự trù như năm qua. Chính thời gian này bộ môn sinh lý bệnh có sáng kiến thay các bài thực tập phải dùng súc vật bằng các bài phân tích kết quả xét nghiệm (phân tích huyết đồ, niệu đồ, ion đồ...), tuy nhiên, tại hội nghị bàn về chất lượng thực hành này, phó giáo sư Dương Chạm Uyên đã phát biểu: không nên tốn thì giờ dạy sâu vào phân tích các xét nghiệm, vì về cộng đồng không thể có...

Ngày 21-10-1987, Hội nghị công nhân viên chức họp vào giai đoạn cuộc cải cách giáo dục đang được đẩy mạnh tới cao trào. Mọi người thấy năm học này đầy khó khăn, đời sống vẫn còn phải bươn chải, nhưng có thể hi vọng vào phúc lợi vì việc sản xuất Philatốp được chú ý đúng mức.

Giáo sư hiệu trưởng phát biểu: Hội nghị quốc tế ở Tokyo về đổi mới đào tạo y tế để chuẩn bị cán bộ cho thế kỷ 21; nó phù hợp với yêu cầu của chúng ta, nhưng phải có nỗ lực rất lớn mới thực hiện được. Cải cách giáo dục ở trường đã được đề ra từ 3 năm nay, đến lúc này phải tích cực đẩy nhanh tiến độ. Phải sớm áp dụng phương pháp sư phạm mới để tăng tính chủ động học tập của sinh viên. Phải có mục tiêu và kiên quyết thực hiện: bác sĩ ra trường sẽ làm việc ở tuyến phổ cập, miệng nói tay làm, phải quản lý sức khoẻ và chăm sóc ban đầu, chữa bệnh ngoại trú. Điểm dân cư 30.000 dân phải có một phòng khám đa khoa. Sinh viên cần có đủ tài liệu học tập và phải được phát từ trước. Mỗi sinh viên có chương trình của cả 6 năm học để tự lập lấy kế hoạch học tập của mình...

Cũng do quá eo hẹp về kinh phí, suốt quá trình đào tạo theo mục tiêu mới, hầu như không có cuốn sách giáo khoa nào được viết ra theo mục tiêu, nhất là những sách về y học xã hội. Hầu hết các thầy tuy đã được học phương pháp sư phạm mới, nhưng chủ nhiệm các bộ môn lại không học, hoặc chỉ học qua loa, không quan tâm, nên không đứng ra tổ chức áp dụng điều đã học. Mặt khác, không phải cứ từng bộ môn muốn áp dụng phương pháp sư phạm mới mà được, vì đây là việc phải làm dưới sự tổ chức, chỉ đạo, giám sát chặt chẽ của hiệu trưởng. Điều không được phép quên là phải có dủ kinh phí, ví dụ kinh phí để ngăn các giảng đường lớn chứa cả trăm người như hiện nay thành các giảng đường nhỏ để dạy theo phương pháp sư phạm mới...

Tới 1992, có 2 khóa bác sĩ ra trường theo mục tiêu này nhưng rất khó đánh giá chất lượng; thứ nhất, vì điều kiện tối thiểu để thực hiện mục tiêu cũng không đủ (ví dụ, không có thực địa cho họ học); thứ hai, vì họ không làm việc ở đúng địa chỉ mà ta mong muốn. Có hai nguyên nhân cụ thể: 1) đa số bác sĩ tân khoa không tìm được biên chế 2) nhiều người hoàn toàn không tự nguyện làm việc ở cơ sở, nhưng nguyên nhân chính là lương không đủ sống lại phải đi vùng xa. Số bác sĩ thất nghiệp có chiều hướng tăng. “Nguyên nhân của nguyên nhân” vẫn là ngân sách quá thấp, không đủ quỹ lương để thu nhận họ vào biên chế; nếu thu nhận được thì trả lương ở mức không thích hợp.

Người ta nhớ đến kinh nghiệm của thế giới mà UNESCO tổng kết: Cải cách giáo dục ở các nước nghèo hầu hết thất bại chủ yếu do duy ý chí và thiếu tiền (chứ không phải kế hoạch đặt ra có sai sót về chuyên môn, kỹ thuật) vì vậy chỉ làm được ở mức nửa vời, đưa đến lãng phí lớn cho các nước đó.

Thời điểm 1985-86, ăn no mặc đủ luôn là mối lo hàng ngày của thầy cô. Sinh viên là lớp người sống khổ nhất, dù 100% có học bổng. Thù lao giờ giảng của giáo viên, do tiền mất giá, phải đối phó bằng cách cho phép họ khai tăng giờ thực giảng lên gấp 2, 3 hay 4 lần; sau dần dần dẫn đến chỗ vô lý (một buổi sáng có giáo sư già có thể giảng 8, 10 hay 12 giờ).) Để đối phó với tình trạng mất giá quá nhanh của đồng tiền cũng như giờ giảng lại phải qui ra gạo (2kg/giờ nên không hiếm bộ môn đã khai tăng giờ gấp đôi. Cũng 1986, chính phủ ra hai văn bản (ngày 29-6) đảm bảo học bổng, sinh hoạt phí, đời sống tối thiểu cho sinh viên, nhưng ít mang lại hiệu quả vì sự điều chỉnh không theo kịp tốc độ đồng tiền mất giá.

Việc phân công bác sĩ bắt đầu khó khăn, số nơi nhận ít hơn so với con số đào tạo.

Ngày 10-7-1987, chính phủ ra Quy Định mới về phân phối:

1 - Ưu tiên quân đội (nhưng lúc này quân đội đang cho chuyển ngành bớt)
2 - Trả về địa phương sử dụng (nhưng lúc này địa phương không có biên chế để nhận, nhất là khi hệ thống y tế xã xuống cấp và tan rã hàng loạt vào những năm đó).

Sinh viên rất khó có biên chế sau khi tốt nghiệp.Ngay nội trú cũng bắt đầu khó tìm chỗ làm việc. Ngoài con đường vào biên chế, họ không được phép hành nghề ở đâu khác và dưới hình thức nào khác vì lúc này chưa chấp nhận hành nghề y tư nhân.

Xuất hiện mâu thuẫn mới: Đào tạo thực tiễn và đào tạo tiềm năng.

Tổ chức Y tế Thế giới luôn luôn khuyến nghị các nước nghèo đào tạo nhân viên y tế phải sát với thực tiễn - mà trong kế hoạch đào tạo “bác sĩ chăm sóc sức khoẻ ban đầu” trường đang cố áp dụng, thì Bộ Giáo Dục-Đào Tạo và Bộ Y Tế lại chỉ đạo toàn ngành đào tạo cán bộ tiềm năng. Chủ trương này hai Bộ không gọi là “cải cách giáo dục” mà chỉ là “cải cách đào tạo”, nghĩa là đã khiêm tốn hơn nhiều.

Đào tạo sát thực tiễn gồm: dạy theo vấn đề, giảm thiểu lý thuyết, tăng cường thực hành để có thể thực sự làm việc được ngay sau khi ra trường. Chính đề án cải cách giáo dục của trường ta áp dụng cách này, có sự giúp đỡ của một số dự án quốc tế. Do vậy, chúng ta có phần cân nhắc thi hành sự chỉ đạo của Bộ Giáo Dục-Đào Tạo và Bộ Y Tế.
Đào tạo tiềm năng gồm hai giai đoạn, mỗi giai đoạn chia ra thành học phần, học trình. Các môn cơ bản và cơ sở được học đầy đủ và hệ thống (tạo tiềm năng), các môn nghiệp vụ không quá sâu, nhưng rộng (để linh hoạt thay đổi sau khi ra trường cho phù hợp với vị trí làm việc)... Còn gọi là “mềm hoá”.

Mâu thuẫn bắt đầu xuất hiện. Tuy nhiên, trường phải chấp hành chủ trương của Bộ GD-ĐT, và đặc biệt là Bộ Y Tế vì đây là các cơ quan quản lý Nhà Nước của toàn ngành đại học và toàn ngành y tế. Tuy vậy, tới năm 1994 trường mới bắt buộc chính thức thực hiện những thay đổi do Bộ Giáo Dục-Đào Tạo và Bộ Y Tế ban hành các văn bản pháp quy bắt buộc. Đây là thêm một lần thay đổi cơ cấu chương trình, kéo theo thời khoá biểu, đổi cách thi cử, kiểm tra... Đã có một số khoá bác sĩ rơi vào các thay đổi và đảo lộn này: 1) các khoá chuyển tiếp (đang đào tạo theo niên chế sang cách đào tạo hai giai đoạn); 2) khoá “giai đoạn I đủ 2 năm”; và 3) các khoá “giai đoạn I dài 1,5 năm”.

Lúc đầu, Bộ Y Tế bắt buộc thực hiện giai đoạn I (giai đoạn đại cương) đào tạo trong 2 năm; còn giai đoạn II (học nghề) dài 4 năm; về sau do đặc thù học theo thứ tự các môn của ngành y nên Bộ đã chấp nhận phương án mềm hoá hai giai đoạn nghĩa là rút giai đoạn I xuống còn 1,5 năm rồi sau một thời gian ngắn, đào tạo “hai giai đoạn” bị chính Bộ GD-ĐT bãi bỏ.

Trước 1986, mọi bác sỹ khi ra trường đều phải nhận quyết định phân công công tác nếu không sẽ chịu kỷ luật. Nếu tới nhiệm sở chậm vài tháng vẫn bị kiểm điểm, thì trong giai đoạn này đã ngược lại, một số bác sĩ phải vật nài, thúc giục để được phân công vì không thể chờ lâu hơn nữa. Tình hình này được đối phó bằng cách giảm số lượng tuyển sinh. Những năm trước trung bình tuyển 400, nay đó chỉ còn 200 hoặc 300; nhưng không ổn vì số thí sinh tăng nhanh sau từng năm: hạn chế đào tạo đại học có thể đưa đến nhưng nguy cơ xã hội. Sau đó, các trường được phép đào tạo theo hai hệ: hệ A thi đậu chính thức (có học bổng và không phải nộp học phí: như quy định của chế độ bao cấp) và hệ B, gọi là hệ mở rộng (không học bổng, lại phải nộp học phí). Cũng thời gian này tiếng Nga mất dần vị trí, dù Liên Xô chưa tan rã. Môn Chính trị tuy không còn dạy thời sự, chính sách như trước đây mà đã dạy Triết học, Kinh tế, Chủ nghĩa xã hội khoa học..., nhưng tác dụng và hiệu quả còn thấp, do môn này chậm đổi mới, việc tuyển chọn cán bộ giảng từ giai đoạn trước đây không được chú ý. Thời kỳ này vẫn rơi rớt một suy nghĩ: chỉ có cán bộ chính trị mới có thể phụ trách tuyên giáo, tuyên huấn Ví dụ, khi cần tìm người phụ trách tờ báo nội bộ cũng phải tìm một cán bộ chính trị thuần tuý. Sau 1992, môn học này có nhiều đổi mới. Dần dần các thầy cô trong bộ môn bắt đầu có bằng tiến sĩ, thạc sĩ. Nội dung giảng dạy có nhiều cải tiến.

Đối tượng chuyên tu

Một thời gian dài, trường vẫn phải nhận đối tượng "chuyên tu", tức là y sĩ học bổ túc 2 năm thành bác sĩ. Chất lượng ngày càng giảm, do “đầu vào” ngày càng thấp kém. Rồi chương trình cho đối tượng này khá chắp vá, thời gian học ngắn và nơi thực tập bất cập, nên bị các thầy thống nhất đánh giá “chất lượng rất kém”..

Quan điểm chính thống để đào tạo bác sỹ chuyên tu là do y sĩ làm việc một số năm đã có có cống hiến cho tổ quốc do vậy phải được đãi ngộ bằng cách cho họ học lên để thành bác sĩ, với sự tuyển chọn dễ dãi hiếm thấy. Bản thân chủ trương này không phải là sai, chưa thể gây giảm chất lượng, mà sai sót chính là ở khâu tuyển chọn ban đầu và thời gian học quá ngắn, chỉ có 2 năm.

Đến năm 1986 - 1987 do có các trường Thái nguyên và Thái bình nên trường đại học Y Hà Nội chỉ còn dạy đối tượng chuyên tu Đông Y, nhưng trường lại mở thêm hệ cao cấp cho y tá, nữ hộ sinh, kỹ thuật viên và do đó, thành lập thêm Khoa Tại Chức để phụ trách việc này và người phụ trách là bác sĩ Đặng Đình Nhân. Đến 28-11-1988 khoa này sáp nhập vào Phòng Giáo vụ, rồi giải thể và chỉ có một khóa tại chức ra trường, rồi chấm dứt.

Trước đây, trường đã đào tạo cho các đối tượng tương tự, nhưng chất lượng đầu vào rất cao, ví dụ lớp của các y sỹ Đặng Hồi Xuân, Lê Thế Trung, Nguyễn Kim Phong, Phan Dẫn, Phạm Kim... và công sức bỏ ra rất lớn vì đây thật sự là những đối tượng chính sách. Nhưng càng về sau, chất lượng tuyển vào càng thấp, không sao vực nổi, còn sự “cống hiến” chỉ ở mắc thường thường...
Cho đến khi trường đã xác định đào tạo sau đại học trở thành nhiệm vụ chính thì các đối tượng nói trên làm phân tán sức lực của trường. Dẫu thầy cô cố gắng đén đâu thì chất lượng học tập của các đối tượng đó vẫn thấp, do bị thấp từ đầu vào. Trường xin được miễn nhưng công văn ngày 19.5.1988 của Bộ Đại học vẫn “nhắc lại nhiệm vụ”. Tuy vậy, thông tư ngày 26.5.1989 của Bộ (về việc tuyển chuyên tu và dự bị đại học) gửi 13 trường, đã không gửi cho trường ta. Từ đó trường Y Hà Nội được miễn hẳn đối tượng này...

Đào tạo sau đại học 1975-1990

Đầu thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, vấn đề đào tạo sau đại học không đặt ra, vì số người tốt nghiệp đại học ở toàn miền Bắc chưa nhiều và chưa đủ thâm niên. Có một số ít được gửi học ở các nước thuộc phe Xã hội chủ nghĩa.

Thủ Tướng Chính Phủ chính thức có quyết định số 97/TTg ngày 11-3-1977 do Phó Thủ Tướng Nguyễn Duy Trinh ký, giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học cho các trường trong đó có trường Đại Học Y Hà Nội, nhưng sớm hơn thế nhiều, Bộ Y Tế đã giao cho trường Y Hà Nội đào tạo bác sĩ chuyên khoa cấp I và II (tác giả của chủ trường: giáo sư Hoàng Đình Cầu), và đã thực sự bắt đầu từ trong kháng chiến chống Mỹ. Hơn nữa còn mở thêm hệ Nội trú (do sự đầu tư công sức của giáo sư Nguyễn Trinh Cơ). Sau đó 17 năm Bộ Đại học mới đề ra hệ Cao học. Trường cũng chủ trương rất sớm sự "liên thông hóa" hai hệ này trong ngành y tế (từ 1992) và được Bộ GD-ĐT cho thực thi từ 1995.

Hệ bác sĩ chuyên khoa cấp I chiêu sinh thí điểm lần đầu ngày 4.11.1976 cho các bác sĩ ở Hải Phòng, khai giảng ngày 15.12.1976 do các thầy ở Hà Nội về giảng (học tập trung). Còn bác sĩ chuyên khoa cấp II đã được đào tạo từ 1972 để có cán bộ nguồn tại địa phương hướng dẫn thực hành cho bác sĩ chuyên khoa cấp I khi mở các lớp đào tạo tại chỗ.

Trên thực tế, hầu hết bác sĩ chuyên khoa II của địa phương sau khi được đào tạo đã xin chuyển về tuyến trung ương vì đa số họ là người Hà Nội và đã đóng góp công sức cho địa phương hàng chục năm có lẻ.

Tháng 4.1977, tổng kết 5 năm đào tạo sau đại học, các thành tích đạt được ban đầu là rất đáng kể vì thứ nhất đã tìm ra loại hình đào tạo phù hợp với ngành y tế, và thứ hai rất kịp thời, vì số bác sĩ có thâm niên cao đã tồn đọng rất nhiều.

Về thiếu sót: tiến độ chậm, không đáp ứng yêu cầu, nên số tồn đọng không giảm, mà ngược lại, ngày càng tăng.

Cách giải quyết đề ra theo văn bản ngày 17.3.1988 là: thứ nhất, đề xuất hình thức học theo chứng chỉ (5 chứng chỉ: Triết, 1 môn cơ sở, 1 môn hỗ trợ, ngoại ngữ trình độ B và môn chuyên khoa, gồm cả thực hành) và thứ hai, mở rộng về các địa phương tại những nơi có bệnh viện lớn và có đội ngũ hướng dẫn chuyên khoa tại chỗ.

Thêm một cách giải quyết tồn đọng nữa là năm 1985, trường công nhận đặc cách một đợt bác sĩ chuyên khoa cấp II, gồm hàng trăm người, cho tất cả những ai hội đủ các điều kiện: 1) thâm niên công tác 20 năm (ra trường từ 1965 về trước), đã liên tục làm đúng chuyên khoa ở tuyến tỉnh và trung ương trên 10 năm; 2) có ngoại ngữ trình độ C; 3) có công trình (đã đăng, in), đặc biệt là nếu có 1 - 2 năm bổ túc đúng chuyên khoa ở nước ngoài.

Nếu thâm niên chuyên khoa trên 10 năm và đủ một số tiêu chuẩn thì được công nhận bác sĩ chuyên khoa cấp I. Dù được công nhận cấp I hay cấp II, tất cả đều phải bổ túc 1-2 tháng tại trường về đường lối y tế, y xã hội học và viết thu hoạch.

Năm 1985, trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, nhờ có nhiều thầy, cô từ Hà Nội chuyển công tác vào, đã bắt đầu đào tạo bác sĩ chuyên khoa cấp I, II và công nhận đặc cách cho số bác sĩ có thâm niên chuyên khoa 20 năm. Tiếp đó, các trường Đại học Y Bắc Thái, Thái Bình cũng đào tạo bác sĩ chuyên khoa cấp I. Nhiều lớp do 3 trường trên được mở với sự chi viện giảng dạy của trường Y Hà Nội. Các trường này tổ chức thi tốt nghiệp và cấp bằng. Đến tháng 12.1990, ngành y tế có 2746 bác sĩ chuyên khoa cấp I, 1426 bác sĩ chuyên khoa cấp II, đại đa số do trường Y Hà Nội đào tạo hoặc cấp bằng.

Một loại hình đào tạo nữa là bác sĩ nội trú, tên gọi của hệ đào tạo ngành Y nước Pháp. Thời xưa, hệ này thi tuyển trong đại học (hết Y4 hay Y5), nay do khoa học phát triển nên chuyển thành đào tạo sau đại học.

Theo kết quả ký kết của thầy Tôn Thất Tùng, Pháp nhận đào tạo cho ta các bác sĩ nội trú. Lúc này, chế độ nội trú của Pháp cũng đã chuyển ra sau đại học. Giai đoạn đầu, cần ngay những người giỏi tiếng Pháp, ta gửi sang một số bác sĩ lâu năm (đã biết tiếng Pháp). Thực chất, các bác sĩ này đã quá tuổi và đã vượt qua trình độ nội trú Pháp từ lâu (như Đỗ Đức Vân, Dương Chạm Uyên...) và họ trở thành bác sĩ hưởng lương thấp để làm các công việc chuyên môn cao ở các bệnh viện lớn ở Pháp. Dẫu sao, cá nhân họ cũng đạt mục đích “cứu đói” cho gia đình vào những năm kinh tế khủng hoảng. Dần dần từ năm học 1988-1989, đối tượng sang Pháp học được chuyển sang các bác sĩ trẻ hơn (nhưng đã có trường hợp chưa chuẩn bị tốt về ngoại ngữ nên lại bị trả về Việt Nam). Một đơn “tố cáo” tới báo chí với nội dung “trường này chiếm dụng tiêu chuẩn nội trú của bác sĩ trẻ để dành cho bác sĩ quá tuổi” khiến trường rất tốn thì giờ giải quyết việc này. Tiếp đó, khi tiếng Pháp đã được chuẩn bị tốt, hàng năm có một số bác sĩ rất trẻ, đa số là nội trú do trường ta dào tạo, được cử đi làm nội trú 1 năm ở các bệnh viện lớn của Pháp theo thỏa thuận với trường Paris VI (rồi mở rộng sang các trường khác ở Paris).

Đến thời điểm 1990, trên 500 bác sĩ nội trú đã ra trường, phát huy tác dụng tốt, thực sự kế tục sự nghiệp của cha anh. Từ khóa 20, hệ bác sỹ nội trú được "liên thông hóa" với hệ cao học quốc gia trên hai nguyên tắc: thứ nhất thi chung đề thi tuyển sinh và thứ hai sau khi tốt nghiệp bác sỹ nội trú sẽ học thêm một số chứng chỉ của hệ cao học. Để khắc phục những khoá đào tạo bác sỹ nội trú không thi cùng đầu vào với cao học, Bộ GDĐT đã chấp nhận cho các BSNT tốt nghiệp có điểm bảo vệ luận văn từ 8 trở lên, có một bài báo đã đăng thì được chuẩn hoá bằng cách bổ sung các chứng chỉ còn thiếu so với cao học. Nếu điểm luận văn dưới 8 sẽ phải trình bày lại trước hội đồng và sau đó mới được chuẩn hoá.Đến nay, sự liên thông đã mở rộng cho mọi khoá nội trú. Khi những khoá bác sỹ nội trú đàu tiên lên nhận bằng thạc sĩ thì không ít người đầu đã điểm bạc.

Bác sĩ trợ lý giảng dạy và bác sĩ nghiên cứu khoa học cũng là một loại hình đào tạo tương đương với nội trú nhưng học chuyên khoa các môn học cơ sở. Đến 1990 đã đào tạo được 65 người bổ sung cho các bộ môn có labô ở trường và bệnh viện. Cuối khoá, cả hai loại hình này sau khi thi các môn quy định, còn phải trình bày luận văn tốt nghiệp.

ở trường đại học Y Hà Nội, một thời gian dài có chức danh trợ lý (dưới giảng viên) với tiêu chuẩn quá cao: bác sĩ nội trú khi xếp vào thang bậc giảng dạy chỉ là trợ lý. Sáng kiến đào tạo bác sĩ "trợ lý giảng dạy và nghiên cứu khoa học" cho các bộ môn y học cơ sở (tương đương nội trú) của thầy Nguyễn Trinh Cơ nhằm chấm dứt tình trạng lấy người vào hệ đào tạo và nghiên cứu khoa học chỉ cân cứ vào lý lịch, thành phần; đồng thời phân biệt với cách đào tạo nội trú (dành riêng cho các chuyên khoa lâm sáng). Trước khi có loại hình đào tạo nội trú và trợ lý, còn có hình thức thi làm "bác sĩ Viện-Trường" dành cho các bác sĩ tân khoa muốn được giữ lại trường và các viện nghiên cứu (nếu không thi nổi nội trú). Nhưng từ 1985, bắt đầu có tình trạng nhiều bác sĩ trẻ không còn ham muốn giảng dạy và nghiên cứu khoa học vì họ nhìn thấy đời sống các thầy, cô quá thấp kém. Và từ 1990, khi việc phân phối công tác cho nội trú bắt đầu gặp khó khăn thì hình thức đào tạo này phải ngừng hẳn. Ngay bác sĩ nội trú cũng phải chờ đi làm không lương trong 1 hay 2 năm mới được vào biên chế. Cuối những năm 90, có người phải chở tới 3 năm. Còn một lý do: họ không muốn xa Hà Nội, đồng thời chưa có chính sách khuyến khích họ xa Hà Nội.

Tóm lại, đi trước chủ trương của Bộ GD-ĐT, trường đã mầy mò tìm một số loại hình đào tạo sau đại học phù hợp: chuyên khoa cấp I và II (dành cho bác sĩ thực hành: lâm sàng và cận lâm sàng), nội trú (dành cho mới tốt nghiệp, học lực tốt), “viện trường” (dành cho bác sĩ sẽ làm việc ở bộ môn cơ sở)... Đến nay, định hình lại, còn CK I, II và nội trú đang được tiếp tục đào tạo và năm nào cũng có tuyển nội trú trừ năm 1992.

Việc đào tạo nghiên cứu sinh theo chủ trương của bộ GD-ĐT được Bộ Y Tế hướng dẫn từ 20.5.1978. Người bảo vệ ở trong nước đầu tiên là bác sĩ Ngô Gia Thạch, tại trường Đại học Tổng hợp (Sinh học, 1978), còn bảo vệ đầu tiên ở trường Y Hà Nội là bác sĩ Đào Ngọc Phong (18.11.1980) và bác sĩ Vũ Duy Thịnh (3.12.1980). Tốc độ bảo vệ rất chậm: trong 4 năm đầu chỉ có 19 luận án. Thời kỳ này, tác giả luận án là các bác sĩ lâu năm, đã có sẵn nhiều công trình, được bảo vệ theo chế độ đặc cách. Ví dụ, thầy Lê Thành Uyên có trên 40 công trình, đã trích ra 5 công trình để viết thành luận án, thầy Phan Văn Duyệt khi đã là giáo sư, với trên 90 công trình, và đã đào tạo được nhiều tiến sĩ, nhưng vẫn trích ra khoảng chục công trình để viết luận án cho bản thân.

Những luận án của các thầy lâu năm (đã có quá trình nghiên cứu vài chục năm liên tục) tuy góp phần làm tăng thành tích của trường, nhưng không làm tăng trình độ; vì trình độ các tác giả vẫn không thay đổi so với trước khi bảo vệ luận án.
Tuy nhiên, họ vẫn phải trình luận án vì:
1) Họ chưa có chức danh phó giáo sư; nếu có bằng phó tiến sĩ (nay gọi là tiến sĩ) hy vọng sẽ thuận lợi hơn khi ứng cử chức danh này; nhất là những năm sau đó bắt buộc phải có học vị mới được ứng cử chức danh trên;
2) Để giải quyết kinh tế muốn đi làm chuyên gia giảng dạy ở Algérie, phải có bằng trên đại học.

Trước 1984, làm luận án trong nước là sự gian nan, khổ ải hiếm thấy về mọi mặt; còn trái lại, nếu được ra nước ngoài làm luận án thì được coi như sự đổi đời về kinh tế, tiền đồ, sự nghiệp. Mặt khác, trước 1984, việc xét phong học hàm giáo sư, phó giáo sư chưa đòi hỏi đương sự phải có bằng phó tiến sĩ. Do vậy không mấy người đủ hào hứng và can đảm làm luận án trong nước.

Một điều ngược đời là sau năm 1984, nhiều thầy đã có học hàm giáo sư I hoặc II, đã hướng dẫn thành công nghiên cứu sinh, nhưng bản thân vẫn bị thôi thúc bảo vệ luận án để chuẩn bị xét phong giáo sư II hoặc để đi chuyên gia đào tạo ở châu Phi.

Nhiều người còn nhớ chủ trương của Bộ Y Tế từ năm 1963-1964 (khi Bộ tiếp nhận một số tiến sĩ, phó tiến sĩ từ nước ngoài, thấy khả năng một vài vị không như mong muốn): đã không cho cán bộ trong ngành làm nghiên cứu sinh nữa, mà thay bằng chế độ thực tập sinh khoa học. Việc này kéo dài nhiều năm mới được sửa sai, nhưng nhiều thầy đã bị quá tuổi để hưởng sự sửa sai đó.
Mấy chục luận án đầu tiên bảo vệ trong nước là của các thầy đã lận đận vì không được đi học theo chế độ nghiên cứu sinh; không được hưởng ưu tiên, ưu đãi và không thể trông chờ gì hơn ngoài nỗ lực bản thân.
Việc tăng tốc độ và qui mô đào tạo nghiên cứu sinh trong mấy năm 1992-1996 và cả về sau đã được dự báo từ 1991. Đó là nhờ:
1) Chủ trương từ Bộ Giáo dục - Đào tạo, nguồn kinh phí có tăng hơn trước nhiều (tuy vẫn bất cập);
2) Sự ban hành các tiêu chuẩn học hàm, chức danh khoa học;
3) Sự nỗ lực của trường.
Từ khá lâu, đã bộc lộ nhiều dấu hiệu giảm sút chất lượng các luận án; phần tổng quan khá lan man và dông dài, chưa nêu ra vấn đế đã được nghiên cứu đến đâu, tác giả sẽ làm tiếp cái gì; rất ít đề tài cơ sở (lẽ ra phải ngược lại); kết quả làm ra không mới... Chưa có cơ chế để chọn các thầy có nhận xét giúp ích nhất cho chất lượng luận án được tham gia hội đồng chấm luận án. Chưa khắc phục được xu hướng ban tặng điểm rất cao để uý lạo “công khó nhọc” của tác giả luận án, cũng như sự ca ngợi quá mức kết quả bình thường của luận án.
Sau này, Bộ GD-ĐT đã có một số biện pháp khắc phục, ví dụ thêm người phản biện, chỉ định phản biện kín... Nhưng hiệu quả đến đâu thì vẫn còn nhiều ý kiến rất trái ngược nhau.

Chi viện cho các trường y khác

Từ năm 1968, Bộ Y Tế đã có chủ trường mở nhiều lớp đại học ở các tỉnh, để dần dần chúng sẽ thành các trường đại học ở các địa phương này (Thanh Hóa, Thái Bình, Bắc Thái, Hải Phòng). Cũng có cả ý định mở trường ở vùng giải phóng trong miền Nam. Để chuẩn bị cho việc này, khoá bác sĩ vào trường 1962 khi học lên đến Y5 đã chọn ra khoảng 50-60 người cho học chuyên khoa sơ bộ các môn cơ sở (tức là học 1 năm trước khi tốt nghiệp): Giải Phẫu, Mô Học (khi đó gọi là Tổ Chức Học), Sinh Lý, Hoá Sinh, Sinh Lý Bệnh, Giải Phẫu Bệnh... để thành lập một số bộ môn mới cho các trường đại học sắp mở.

Lớp đại học ở Thanh Hóa năm 1969 mở cho các y sĩ trung cấp học 2 năm để thành bác sĩ. Các thầy dạy cho lớp này không đâu khác mà mời từ trường Y Hà Nội, còn thầy tại chỗ là một số bác sĩ tốt nghiệp năm 1969, chỉ là chuyên khoa sơ bộ - hoàn toàn chưa có vai trò gì ngoài việc đưa đón và nghênh tiếp các thầy từ Hà Nội vào. Tuy nhiên, hạt giống gieo ở Thanh Hoá không mọc nổi thành trường.

Năm học 1968-1969, các phân hiệu Y khoa Miền núi (Bắc Thái) và Thái Bình được mở, trên cơ sở những trường trung cấp cũ và dựa vào các bệnh viện tỉnh ở đó. Lực lượng nòng cốt của các phân hiệu gồm:
1) Các bác sĩ có sẵn ở trường trung cấp cũ (bác sĩ Nguyễn Đăng Thụ, bác sĩ Nguyễn Đình Kim);
2) Một số bác sĩ mới ra trường 1968 hay 1969 vừa nói trên (sẽ phụ trách các bộ môn cơ sở;
3) Các bác sĩ lâm sàng ở bệnh viện tại chỗ (sẽ phụ trách các bộ môn lâm sàng;
4) Các thầy được cử từ trường Hà Nội về (phó tiến sĩ Lê Văn Phước, phó tiến sĩ Trần Lưu, bác sĩ Vi Văn Đô, bác sĩ Nhâm Kim Duyệt...). Với lực lượng thầy như trên và với trang thiết bị trường trung cấp, ngay từ hồi đó nhiều thầy trường Y Hà Nội đã biết trước mình sẽ phải vất vả lâu dài trong chi viện trường bạn. Trong khi đó, Hải Phòng có điều kiện mở phân hiệu hơn cả và được sự quan tâm rất sớm của trường Hà Nội thì lại không mở được.

Gọi "phân hiệu" vì đó là những trường chưa đạt tiêu chuẩn chứ không phải là phân hiệu thật sự của trường Hà Nội. Nói chung, các trường mới mở còn tiếp tục bất cập một thời gian dài về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, đội ngũ cán bộ giảng do đầu tư thấp. Sự chi viện giảng dạy của trường Hà Nội đối với các phân hiẹu trên còn kéo dài đến 1975, tuy đến năm đó, trang thiết bị cho nghiên cứu khoa học của các trường bạn vẫn chưa có gì đáng kể.

Ngày 6.9.1979, sau dự định bất thành từ 1962 (định mở trường Y Hải Phòng, hiệu trưởng dự kiến: thầy Nguyễn Trinh Cơ, trưởng phòng giáo vụ: thầy Nguyễn Hữu Hồng...), Bộ Y Tế thành lập cơ sở 2 của Đại học Y Hà Nội tại Hải Phòng, gọi là phân hiệu, do bác sĩ Nguyễn Lung đứng đầu. Hầu hết thầy cô chủ chốt ở phân hiệu này cố nhiên được đào tạo đại học và sau đại học ở trường Y Hà Nội chứ không thể ở đâu khác. Từ 1979, cho đến khi phân hiệu này tách riêng trở thành trường độc lập (năm học 1992-1993), tính ra mất trên dưới 14 năm, trong đó khoảng 10 năm đầu vẫn phải có sự chi viện về giảng dạy từ phia trường đại học Y Hà Nội..

Về hình thức, phân hiệu Y khoa Hải Phòng đúng là một “phân hiệu” của trường Y Hà Nội; thầy Nguyễn Lung có Quyết Định cử làm phó hiệu trưởng của trường Y Hà Nội, đặc trách phân hiệu Hải Phòng của trường này. Nhưng thực chất thì không phải thế. Tuy đôi khi thầy Nguyễn Lung vẫn lên Hà Nội họp “Ban Giám Hiệu” và “Hội đồng chức danh”, nhưng phân hiệu có kinh phí riêng, con dấu riêng, tổ chức riêng (kể cả tổ chức Đảng và các đoàn thể), sự điều hành riêng, trừ việc Trường đại Học Y Hà Nội phải ký bằng tốt nghiệp. Cả hai bên đều muốn chia tay sớm để tránh phiền hà.

Với hai trường Y ở miền Nam

Trước giải phóng, miền Nam có 2 trường Y (Dược): một ở Sài Gòn và một ở Huế (không kể một trường tư, rất èo uột, là trường Minh Đức). Trường Huế ngay từ trước 1975 đã rất nhỏ, thiếu thầy, phải thường xuyên mời từ Sài Gòn và từ nước ngoài tới dạy. Sau ngày 30.4.1975, nhiều người đã bỏ đi, ở Huế chỉ còn chưa đầy 10 thầy (Lê Văn Bách, Lê Bá Nhàn, Lê Bá Vận...). Sự chi viện cho trường Y Huế bắt đầu từ 1976, dưới hình thức liên tục nhiều năm trường Hà Nội cử cán bộ vào giảng hầu hết các môn, nhất là những môn mới (Sinh Lý Bệnh, Đông Y, Sinh Học,...), đồng thời, nhiều thầy vững vàng của trường Hà Nội đã chuyển hẳn công tác vào Huế, đảm nhiệm những chức vụ chủ chốt về chuyên môn và quản lý (Nguyễn Cước, Võ Phụng, Phạm Khắc Lâm, Văn Học Tấn, Nguyễn Văn Thái, Trần Quang Phần,...). Sau đó, trường ta đào tạo cho trường Huế nhiều bác sĩ chuyên khoa cấp I, cấp II và nghiên cứu sinh.

Với khoa Y của trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh cũng tương tự. Sự chi viện gồm cử thầy vào giảng, san sẻ cán bộ, thảo luận chương trình...

Theo báo cáo của nhóm tiếp quản trường này thì trước giải phóng, khoa Y ở đây có 20 giáo sư thực thụ, nay chỉ còn 7 và sau đó còn giảm tiếp (các ông Bùi Minh Tâm, Võ Quí Đài... bỏ ra nước ngoài), giáo sư kết hợp có 23, sau giải phóng còn 13, giảng viên từ 32 còn 9... Trước năm 1975, số giáo sư và giảng viên nói trên vẫn đào tạo 200-250 sinh viên và tốt nghiệp hàng năm (1970-1974) khoảng 150-200. Trường có đào tạo nội trú và "hậu đại học": năm 1970 tuyển 123 nhưng mới tốt nghiệp 23.

Với sự chi viện giảng dạy của trường Hà Nội, trường thành phố Hồ Chí Minh không giảm số tuyển sinh, còn mở thêm hệ chuyên tu. Bộ môn Sinh Lý Bệnh đã vào giảng liên tiếp nhiều năm (từ 1977-1982) cho cả sinh viên Y3 và Y6 chuyên khoa sơ bộ. Nhiều thầy trường ta chuyển hẳn công tác vào đây trở thành lực lượng quan trọng hàng đầu trong quản lý và chuyên môn (Võ Thế Quang, Nguyễn Đình Hối, Nguyễn Quang Quyền, Ngô Bảo Khang, Đoàn Trọng Hậu, Trương Đình Kiệt, Đỗ Đình Hồ...).

Khoa Y trường Tây Nguyên cũng nhận được sự chi viện ban đầu rất quí giá: trường Y Hà Nội đã cử trưởng khoa, phó khoa và một số cán bộ giảng dạy chất lượng cao làm việc thường trực với thời hạn 1 năm, đồng thời cử nhiều thầy khác vào dạy ngắn hạn toàn bộ giáo trình từng môn. Những năm đầu, số giờ giảng của các thầy từ Hà Nội chiếm 70-90% tổng số giờ. Những năm 1990, nhiều thầy trẻ của khoa Y trường Tây Nguyên được đào tạo chuyên khoa cấp I và nghiên cứu sinh ở Hà Nội.

Với khoa Y trường đại học Cần Thơ, trường cũng cử nhiều thầy vào công tác 1 năm hoặc chi viện giảng dạy ngắn hạn; đồng thời mời các thầy ở Cần Thơ dự những lớp đào tạo lại, đào tạo chuyên khoa cấp I và làm nghiên cứu sinh ở trường Hà Nội.

Với những công việc trên, trường Đại học Y Hà Nội xứng đáng là trường trọng điểm, đầu đàn, đã trực tiếp và chủ yếu giúp hai trường miền Nam hồi sinh, giúp hình thành và củng cố, phát triển hai trường khác.

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 1975-1990

Phòng Xét nghiệm (labo) Trung tâm

Đầu tiên labo trung tâm được thành lập theo sáng kiến của bác sĩ Nguyễn Trinh Cơ từ những năm 1966-1967, xuất phát từ quan điểm cần tập trung các trang thiết bị quí, hiếm để sử dụng chung cho các đề tài nghiên cứu lớn vì trường không đủ tiền mua sắm chúng cho từng bộ môn.

Tuy vậy, phòng này hoạt động rời rạc, ít hiệu quả, vì thực tế những trang thiết bị được gọi là “hiện đại” nhưng vẫn rất nghèo nàn, thiếu đồng bộ thậm chí chỉ là những thiết bị thông thường; thêm nữa, cơ chế hoạt động của phòng không rõ ràng, người điều hành chưa đủ năng lực và tầm nhìn. Do vậy nó không làm được nhiệm vụ như mọi người mong muốn.
Về sau, phòng được tổ chức lại, thay đổi nhân sự và chia thành các tổ, gồm tổ Tế bào, tổ Hiển vi điện tử, tổ Thăm dò chức năng, và tổ Phóng xạ,... Sở dĩ có 4 tổ này vì trong trường khi đó có 4 thầy nghiên cứu theo hướng đó, được Đảng uỷ và Ban Giám hiệu coi là những hướng có triển vọng. Rốt cuộc, chỉ có tổ Phóng xạ phát triển thành đơn vị bộ môn, tách ra độc lập với phòng, các tổ còn lại đều giải thể vào khoảng đầu thập kỷ 1970 mà không đem lại kết quả thật sự nào.

Bẵng đi 15 năm, đến tận 1986, giáo sư Hoàng Đình Cầu, hiệu trưởng, lại ký quyết định tái lập một đơn vị tương tự, nhưng có qui chế hoạt động khá rõ ràng, phù hợp; với các nhiệm vụ sau:

1) Phục vụ các đề tài lớn, đề tài nghiên cứu sinh, kể cả đề tài ở ngoài trường;
2) Lấy kinh phí các đề tài để duy trì và phát triển phòng, mua thêm trang thiết bị.

Nhưng trang thiết bị ban đầu vẫn quá nghèo nàn, cọc cạch, các đề tài chỉ được cấp rất ít kinh phí, chỉ muốn dựa vào trang thiết bị ở bộ môn để hoàn thành mà không thể san sẻ kinh phí cho phòng này. Cuộc sống các thầy, cô quá thấp kém, đồng tiền mất giá với tốc độ phi mã, không thể mua sắm máy móc gì thêm, nên kết quả tất yếu là phòng phải giải thể. Trang thiết bị chưa sử dụng hết tuổi thọ đã trở nên lạc hậu, được đem phân chia nhưng ít bộ môn nào muốn nhận. Do vậy, nhiều thứ phải thanh lý.

Phương hướng phát triển các kỹ thuật hiện đại đã được đề ra khá sớm với ưu tiên về kinh phí, đầu tư, nhưng thực tế vẫn rất hạn hẹp vì lúc đó đang là thời chiến, tiếp sau lại là giai đoạn khủng hoảng của đất nước.

Một số kỹ thuật mới được hoàn chỉnh (Miễn dịch, Hóa sinh,...), nhưng còn khoảng cách khá xa với thế giới; tuy nhiên vẫn chưa quan trọng bằng khoảng cách này ngày một doãng rộng hơn; còn các kỹ thuật khác như Sinh học phân tử... tuy được một vài thầy cô nói rất nhiều nhưng kết quả lại quá khiêm tốn.

Trong hoàn cảnh đất nước nghèo đói, lại thêm bị bao vây, phong tỏa, thì Sinh học phân tử (do một thầy Sinh Lý học để ra và theo đuổi, thậm chí muốn hướng cả bộ môn cùng làm) về sau được đánh giá là “viển vông”. Một vài cải tiến khắc phục khó khăn xứng đáng được đánh giá tốt và được khen thưởng, ví dụ sản xuất kháng thể cho xét nghiệm và cho chẩn đoán, tạo ra bộ sinh phẩm (KIT) đơn giản, dùng vật liệu sẵn có để thay thế vài thứ vật liệu phải nhập từ nước ngoài... Tuy nhiên, đây chỉ là những sáng kiến khắc phục khó khăn hơn là những công trình. Sản phẩm ngay lúc làm ra tuy rất lạc hậu so với thế giới, nhưng trong hoàn cảnh dất nước bị bao vây cấm vận, những thành phẩm này đã có những đóng góp nhất định.

Toàn trường chưa thấy đề tài nào có tính tập trung và phát triển theo chiều sâu, trong đó tác giả cặm cụi đào sâu và phát triển vấn đề. Tuy vậy, hàng năm trường vẫn có các hội nghị khoa học, đề tài đa dạng, phản ánh tình trạng đa ngành; nhưng cũng rất phân tán, tản mạn; từng đề tài khó phát triển độc lập. Ví dụ, năm 1980, một hội nghị với 121 đề tài (làm trong 3 năm 1977-1980); năm 1985, hội nghị toàn trường có 128 đề tài; năm 1988: 90 đề tài; năm 1990: 100 đề tài và năm 1992 (nhân kỷ niệm 90 năm thành lập trường) có khoảng 200 đề tài ở hội nghị toàn trường và 8 hội nghị chuyên ngành.

Sáng kiến, cải tiến

Theo phong trào “sáng kiến, cải tiến” của công nhân, có một số lần nhà trường cũng tổng kết khen thưởng sáng kiến cải tiến vào các năm 1977, 1980, 1985. Một trong những sáng kiến được khen ở cấp Bộ (cấp cao nhất) ngày 27-9-1977 là sản xuất kháng huyết thanh đơn hiệu chống alpha-FP để chẩn đoán ung thư gan, dưới đó là sáng kiến sản xuất IgG và kháng thể chống IgG. Thực chất đây là những khắc phục khó khăn để tạo ra một chế phẩm sinh học theo một quy trình đã được sách báo mô tả. Tác dụng thực sự của nó là để sử dụng trong hoàn cảnh đất nước bị bao vây và quá nghèo nàn. Từ hướng này, Bộ Y tế cho thành lập Đơn vị sản xuất chế phẩm sinh học đặt ở Bộ môn Sinh Lý Bệnh, nhưng thực tế hầu như không có biên chế và trang thiết bị phù hợp.

TỔ CHỨC - NHÂN SỰ GIAI ĐOẠN 1975-1986

Vài sự kiện

1) Một số đơn vị mới thành lập, nhằm phù hợp với sự phát triển của khoa học. Tổ Phóng xạ Y học (31.5.1973) phát triển mạnh vào những năm sau 1975, trở thành bộ môn và thành khoa của bệnh viện với công sức của bác sĩ Phan Văn Duyệt, kể cả việc đào tạo cán bộ chuyên ngành cho cả nước. Đơn vị Nghiên cứu sản xuất chế phẩm miễn dịch có được khoảng một chục chế phẩm thế hệ cũ (thế hệ 1970). Bộ môn Hồi Sức Cấp Cứu Nội Khoa được thành lập (21.10.1983) tách ra từ bộ môn Nội, hoạt động có hiệu quả trong nghiên cứu, đào tạo và kết hợp phục vụ thực tiễn với bệnh khoa thuộc bệnh viện Bạch Mai và vươn lên giữ vai trò đầu ngành. Năm 1984 thành lập các bộ môn Dị ứng, Ung Thư. Trung Tâm Nghiên Cứu Chất Lượng Đào Tạo (31.5.1988) trực thuộc hiệu trưởng và ngày 23.4.1990 chuyển lên Bộ Y Tế, đổi tên là Trung Tâm Nhân Lực). Bộ môn Y Học Quân Sự chủ huấn luyện bước đầu quân sự cho sinh viên Y1, và chiến thuật quân y cho Y6. Ngày 11-11-1989 thành lập Viện Tim Mạch ( GS. Phạm Gia Khải là phó nay là Viện trưởng Viện Tim mạch, Viện phó là PTS Nguyễn Lân Việt) và Viện Y học lâm sàng nhiệt đới (GS Phạm Song và sau là GS. Lê Đăng Hà) đều do cán bộ truờng tham gia lãnh đạo

2) Ngày 25.7.1988, trường Cao đẳng Y tế Nam Định sáp nhập vào trường Đại học Y Thái Bình, sau đó có dự định nâng cấp thành một khoa đào tạo cử nhân điều dưỡng, nằm trong Học viện Y Dược tương lai (năm 1995 đã tuyển sinh khóa 1 hệ cao đẳng tại chức do trường ta tổ chức). Ngày 28.11.1988 hợp nhất hai bộ môn Hóa và Hóa sinh nhưng chưa suôn sẻ vì có xu hướng đưa Hóa trở lại giai đoạn I đào tạo đại học. Cùng ngày 28.11.1988 ra đời bộ môn Phục Hồi Chức Năng.

Về nhân sự

1) Giáo sư Nguyễn Trinh Cơ làm hiệu phó tới 1976 thì được bổ nhiệm hiệu trưởng (thay giáo sư Hồ Đắc Di). Giúp ông có các hiệu phó Trương Văn Hợi và Đỗ Nguyễn Phương, sau thêm bác sĩ Hoàng Hữu Đốc (ba ông này trước đó phụ trách các phòng Giáo vụ và Tuyên Huấn). Sau còn bổ sung thêm tiến sĩ Nguyễn Năng An và bác sĩ Nguyễn Thụ (thay ông Phương chuyển công tác khác).

2) Khi giáo sư Nguyễn Trinh Cơ nghỉ (1983), tiến sĩ Nguyễn Nâng An lên thay. Chỉ sau hơn một năm (đến 1.4.1985), ông thôi chức, Bộ Y Tế cử thứ trưởng Hoàng Đình Cầu tạm giữ chức hiệu trưởng; cho đến ngày 30.9.1989 thì phó giáo sư Nguyễn Thụ thay, sau một cuộc bỏ phiếu của cán bộ, viên chức

3) Các trưởng, phó phòng cũng có sự thay đổi. Khoa Sau đại học do giáo sư Nguyễn Năng An thành lập và phụ trách, cấp phó là phó giáo sư Lê Đăng Hà, rồi phó giáo sư Đào Văn Chinh, rồi phó giáo sư Lê Nam Trà,. Trưởng phòng Giáo vụ lần lượt là các bác sĩ Trương Văn Hợi, Hoàng Hữu Đốc, rồi Nguyễn Khắc Liêu, Phạm Văn Thân, Đào Văn Phan. Trưởng phòng Tổ chức cán bộ cũng lần lượt là các bác sĩ Nguyễn Đình Thiện, Nguyễn Thế Hùng, Lê Thị Oanh. Phòng Nghiên cứu khoa học là các phó tiến sĩ Đỗ Trung Phấn, Nguyễn Văn Dịp.

4) Về hàng ngũ phụ trách bộ môn, trước đây do hết hi vọng chờ đợi các đợt phong học hàm, trường ta đã phải đề nghị Bộ Y Tế bổ nhiệm một loạt phó chủ nhiệm cho những bộ môn chưa chính thức có chủ nhiệm. Đó là vào thời kỳ chuẩn bị chống chiến tranh phá hoại: Vũ Triệu An, Phạm Phan Địch,... và một số chủ nhiệm. Năm 1975 và 1976, một số phó chủ nhiệm nữa được Bộ Y Tế chỉ định (10.12.1975), chủ yếu là ở những bộ môn mà chủ nhiệm suy giảm sức khỏe, bận nhiều công tác ngoài trường, hoặc không phải đảng viên. Đợt này, các phó chủ nhiệm bộ môn là các bác sĩ Phạm Khuê (Nội), Lê Kinh Duệ (Da Liễu), Chu Văn Tường (Nhi). Một số phó chủ nhiệm được đề bạt chủ nhiệm: Đào Xuân Trà, Vũ Triệu An, Phạm Phan Địch. Ngày 10.2.1977 lại bổ nhiệm một loạt phó chủ nhiệm khác (ra trường 1960-1962): Đỗ Trọng Hiếu, Hà Huy Khôi, Vũ Anh Vinh, Ngô Thế Phương, Nguyễn Hữu Chấn, Nguyễn Ngọc Lanh...

Một bộ môn với một vài chục cán bộ khoa học lại có cả phó chủ nhiệm là điều không gặp ở những nước có truyền thống đại học lâu đời. ở các nước đó, mỗi bộ môn chỉ cần một người phụ trách được chọn bằng cách thi tuyển Những bộ môn mà người lãnh đạo có đề tài lớn sẽ được phát triển thành viện và viện vẫn nằm trong trường. Do vậy, người lãnh dạo bộ môn tự thấy không cần kiêm nhiệm những chức vụ hành chính khác vì mất thì giờ dành cho nghiên cứu, chỉ cần toàn tâm toàn ý làm việc ở bộ môn cũng vẫn thành đạt lớn (ở các nước, có thể được giải Nobel; ở Việt Nam, giáo sư Tùng có công trình cắt gan không phải ở cương vị thứ trưởng hay giám đốc bệnh viện Việt-Đức, mà là chủ nhiệm bộ môn).
Tuy nhiên, ở trường đại học Y Hà Nội, dần dần do một số chủ nhiệm do tuổi cao hoặc do hoạt động ngoài trường là chính nên thực tế không còn quản lý bộ môn nữa. Vì vậy, phó chủ nhiệm hồi đó phải thực hiện theo văn bản qui định nhiệm vụ là : tổ chức thi đua, tổ chức đời sống và giáo dục chính trị cho nhân viên trong bộ môn.. Có bộ môn chưa tới 20 viên chức mà tới 4 phó chủ nhiệm. Danh hiệu thi đua ngày càng bộc lộ tính hình thức, nhưng không ít người vẫn cố tìm cách đạt được để được sớm được nâng bậc lương.

5) Việc phong học hàm chính thức được tiến hành năm 1980. Ngày 29.4 năm đó, các vị cao tuổi của trường được danh hiệu giáo sư: đó là các thầy Nguyễn Tấn Gi Trọng, Hoàng Đình Cầu, Phạm Khắc Quảng,... rồi đến các thầy Phạm Khuê, Vũ Triệu An, Đỗ Dương Thái. Phó giáo sư có các thầy, cô Trần Thị Ân, Lê Kinh Duệ, Nguyễn Bửu Triều, Chu Văn Tường, Trịnh Bỉnh Di, Lê Vỹ Hùng, Lê Quang Cát, Đỗ Doãn Đại. Ngày 25.8.1984 đợt phong cả nước với rất nhiều thầy cô trường ta đăng ký. Có nhiều thầy, cô từ phó giáo sư được lên giáo sư: Trần Thị Ân, Lê Kinh Duệ, Nguyễn Bửu Triều, Chu Văn Tường... Tiến sĩ Nguyễn Nâng An, hiệu trưởng, được học hàm giáo sư mà không qua phó giáo sư. Lần này, số phó giáo sư của trường lên tới trên 40 người, chủ yếu là các khóa ra trường từ 1960-1962, đã từng là lực lượng chủ chốt trong thời gian kháng chiến chống Mỹ. Người trẻ nhất là phó giáo sư Đỗ Trung Phấn, ra trường cuối 1965.

Bẵng đi 7-8 năm, đợt phong học hàm sau đó (1991-1992), trường ta là trường có tỷ lệ giáo sư, phó giáo sư vào loại cao nhất cả nước so với số biên chế thầy, cô: thêm được 21 giáo sư và 36 phó giáo sư, có hai phó giáo sư trẻ nhất ra trường 1969 và 1970. Sau đó, trường công nhận 93 giảng viên chính và 110 giảng viên (kể cả giảng viên kiêm nhiệm).

Thời điểm này, lực lượng trẻ của trường được bổ sung rất chậm, tuổi trung bình tăng nhanh từng năm. Đã có nhiều ý kiến lên tiếng cảnh báo, kể cả trong tờ nội san Tiếng nói đại học Y Hà Nội (số ra năm 1985). Giảng viên chính có cùng thang lương như phó giáo sư nên một số thầy, cô thấy không cần phấn đấu thành phó giáo sư. Có nhiều trường hợp phó giáo sư tuy ra trường miuộn hơn, được chức danh chậm hơn, nhưng vẫn được xếp lương ở trên giáo sư, chủ yếu vì đã có giai đoạn làm quản lý. Điều đáng chú ý là giáo sư ngành Y có tuổi khá cao, trung bình đã 57-60 tuổi, vì vậy giáo sư chỉ làm việc vài năm là đến tuổi hưu theo qui định.

CÁC SỰ KIỆN ĐÁNG CHÚ Ý TRONG THỜI KỲ 1975:

Sự ra đi của các thế hệ tiền bối.

Trong thời kỳ này, nhiều vị đã quá cố. Không kể thầy Hoàng Tích Trí mất từ lâu, thầy Đặng Văn Ngữ hi sinh năm 1967, thầy Đặng Vũ Hỷ mất trước 1975 và trường đại học Y Hà Nội còn mất thêm: thầy Nguyễn Xuân Nguyên, bác sĩ đầu tiên được đào tạo trong nước, có công xây dựng ngành Nhãn khoa và lãnh đạo tiêu diệt bệnh mắt hột (mất 1.10.1975); giáo sư Hồ Đắc Di, người có công hồi sinh trường ta, linh hồn và ngọn cờ trong giai đoạn chống Pháp (mất 25.6.1984); thầy Tôn Thất Tùng, ngọn cờ và trụ cột trong giai đoạn chống Pháp, người kiến tạo ngành Ngoại khoa và Ngoại khoa dã chiến, danh nhân Y học nước nhà (mất 7.5.1982); thầy Trần Hữu Tước, phó giáo sư từ Pháp về nước, có công xây dựng ngành Tai Mũi Họng Việt Nam, (mất 18.10.1983); thầy Nguyễn Trinh Cơ, người đã lân lộn suốt 30 năm với trường, có công lớn trong việc xây dựng bộ môn Ngoại và hệ đào tạo sau đại học (mất 28.3.1985); thầy Đỗ Xuân Hợp, đầu ngành Giải phẫu, có công đầu trong sử dụng tiếng Việt trong giảng dạy đại học (mất 17.12.1985); thầy Trương Cam Cống, dạy ở trường từ 1932, chủ nhiệm bộ môn Y Pháp-Mô-Phôi, về hưu rồi mất năm 1986; thầy Đỗ Dương Thái, sinh viên vào trường 1947, giáo sư năm 1980, chủ nhiệm bộ môn Ký sinh trùng học (mất 6.11.1986); thầy Nguyễn Ngọc Doãn, chủ nhiệm bộ môn Dược Lý học (mất 1987); thầy Vũ Công Hòe, chủ nhiệm bộ môn, đầu ngành Giải phẫu bệnh học (mất 28.12.1993).

Đổi tên trường:

Khi trường Đại học Y Dược tách làm 2, trường ta mang tên Trường Đại học Y khoa (không kèm chữ Hà Nội; vì khi đó, cả miền Bắc chỉ có một trường Đại học Y và một Đại học Dược). Từ năm 1971, khi các phân hiệu Đại học Y Thái Bình và Miền Núi chính thức trở thành Trường đại học, tên trường ta vẫn như cũ, kể cả sau khi thống nhất đất nước: lúc này cả nước có 5, rồi có 7 đại học Y. Mãi tới 1985, bằng quyết định ngày 11 tháng 9 của Bộ Y Tế, trường ta đổi tên thành Trường Đại học Y Hà Nội.

Viện Giải phẫu trở về trường: đây là địa điểm mang nặng tính lịch sử, vì toàn thể các nhà ngoại khoa, các nhà y học kỳ cựu của ta đều đã học và được đào tạo ở đây, kể từ thầy Tôn Thất Tùng. Thầy Đỗ Xuân Hợp đã là chủ nhiệm công trình thời trường Đông Dương (Chef de Travaux, một chức vụ ngay dưới Viện trưởng) rồi suốt đời gắn bó với Viện này của trường, kể cả khi viện đã bị giải thể. Năm 1980, Bộ Y Tế quyết định giao một phần đất, rồi 1984 giao cả tòa nhà của Viện Giải Phẫu cho Viện Dinh Dưỡng. Việc chuyển giao này bị dư luận phản đối nhưng cũng phải đến mãi 1987 trường ta mới lấy lại được tòa nhà cổ. Ngày 27.12.1980, bộ trưởng Vũ Văn Cẩn quyết định trường ta phải bàn giao khu đất 1425 m2 cho Viện Dinh Dưỡng, sau đó, Viện này xin mượn 3 phòng của Viện Giải Phẫu (17.1.1981); ngày 15.11.1984 (lúc này giáo sư Nguyễn Trinh Cơ đã thôi hiệu trưởng) thứ trưởng Nguyễn Văn Đàn, sau khi tham khảo ý kiến của trường nhiều lần, đã ký công Văn số 6259, đồng ý với lãnh đạo Viện Dinh Dưỡng, giao toàn bộ tòa nhà Viện Giải Phẫu cho Viện Dinh Dưỡng. Việc chuyển giao này bị sự phản đối của dư luận trong và ngoài trường, trước hết là của các thầy bộ môn Giải Phẫu, trong đó kiên trì và dũng cảm nhất là giáo sư Trịnh Văn Minh. Viện Dinh Dưỡng, sau cùng đã bỏ ý định lấy nốt tòa nhà cổ ở Viện Giải Phẫu, lúc này, giáo sư Nguyễn Thụ là hiệu trưởng.

Giai đoạn từ năm 1986 đến nay

Đây là giai đoạn trường đại học Y Hà Nội có nhiều khởi sắc. Tuy nhiên, sự khởi sắc thật sự chỉ xuất hiện từ 1990, vì hậu quả của giai đoạn trước vẫn chưa thể khắc phục ngay (kể cả trong phạm vi cả nước), thậm chí còn nặng lên trong những năm 1986-1989.

Năm 1986 được đánh dấu bằng Đại Hội VI của Đảng với các nghị quyết về đổi mới. Và muốn đổi mới thực tiễn, trước hết phải đổi mới tư duy.Sau Đại Hội, ai cũng nói “đổi mới tư duy” và “công khai hoá”, nhưng mỗi người tiếp nhận nó với tâm trạng khác nhau. Những người bức xúc do nếp tư duy cũ làm họ nghẹt thở thì nay như được giải phóng; mặc dù xưa kia họ hay nói năng và có thái độ như người “bất mãn”. Còn ở thái cực khác những người tiêm nhiễm quá lâu các lý thuyết giáo điều thì ngỡ ngàng, bứt rứt, thậm chí đau khổ; mặc dù trước kia họ nói năng và hành xử rất “phải phép”. Đứng trước hiện tượng các hợp tác xã nông nghiệp tan rã hàng loạt có thầy cô mừng rỡ vì chủ trương khoán sản phẩm tới hộ gia đình sẽ chấm dứt nạn thiếu đói triền miên và sẽ còn có thừa gạo để xuất khẩu; nhưng cũng nhiều thầy cô lo lắng vì công sức xây dựng chúng suốt 30 năm, nay bỗng nhiên bị phá vỡ.

Tờ báo nội bộ Tiếng nói Đại học Y Hà Nội ra đời được cũng là nhờ chủ trương đổi mới; mặc dù có nhiều khó khăn. Nay đọc lại, khá nhiều bài đã phản ánh những suy nghĩ từ hai tâm trạng trái ngược nhau như đã nói trên. Ví dụ, khi có thông báo từ nay “không cần là đoàn viên TNCS cũng được thi đại học”, có thầy cô rất vui mừng vì thấy rằng:
1) Bố mẹ không cần chạy chọt để con cái được vào Đoàn trong khi chính chúng không quan tâm;
2) Trường đại học dưới chế độ ta là của toàn dân, không phải của riêng Đoàn thanh niên;
3) Đoàn phải tuyên truyền để thanh niên giác ngộ mà vào Đoàn, chứ không được dùng “độc quyền vào đại học” để bắt người ta vào Đoàn. Nhưng cũng nhiều thầy cô rất lo lắng: thế này thì sinh viên sẽ rất hư hỏng, nếu 100% số sinh viên không phải là “những người cộng sản trẻ tuổi”. Đó chỉ là những tâm tư đang còn bỡ ngỡ khi bước vào nền kinh tế thị trường.

Tuy nhiên, tư duy đổi mới không có nghĩa là thực tiễn được cải thiện ngay. Năm 1986, kinh phí của trường và thu nhập của các thầy cô vẫn rất hạn hẹp. Quán tính của giai đoạn khó khăn còn kéo dài vài năm sau

Năm đầu Đổi Mới (1986), việc sản xuất thuốc Philatốp để cải thiện vẫn hết sức quan trọng đối với toàn trường. Công của ông Trần Văn Luận và cử nhân Trương Xuân Ngọc là rất lớn. Xưởng của họ làm ra số tiền tương đương 1/3 kinh phí. Khi đến lượt đi làm lao công kiếm chút tiền ở xưởng của hai ông này thì giáo sư cũng không nhường cho ai, sự quan tâm ngày đó của cán bộ công nhân viên là xem được ban giám hiệu chia cho bao nhiêu tiền... Dự báo cho năm 1987, ông Hoàng Hữu Đốc nói ở Hội nghị công nhân viên chức năm 1986: “không có gì lạc quan”.

Ba năm đầu sau giai đoạn khó khăn 1987-1990

Như trên đã nói, đó là ba năm tích cực thực hiện cải cách giáo dục. Đảng bộ, Ban giám hiệu, cũng như toàn thể thầy cô và nhân viên có những nỗ lực hết sức to lớn. Công sức bỏ ra phải đặt trong hoàn cảnh đời sống cực kỳ nghiệt ngã lúc ấy mới thấy rõ. Tuy nhiên, đây vẫn chủ yếu là sức người, gồm cơ bắp và trí óc, mà không có sự hỗ trợ không thể thiếu của vật tư, trang thiết bị và tiền của, do vậy hiệu quả đưa lại rất hạn chế.

Năm 1987, tức một năm sau khi đã có Nghị Quyết VI, hình kinh phí không cải thiện gì hơn. Năm đó (với 912 cán bộ, 2130 sinh viên), ban giám hiệu đưa ra bản quyết toán như sau. Tính ra tiền, kinh phí được cấp đã gấp 3,5 lần năm trước. Không phải là sự tăng ngân sách mà là do đồng tiền mất giá quá nhanh. Cụ thể: Được cấp 57.108.000 đ (so với 16.758.600 đ của 1986), dành chi cho lương, học bổng, sinh hoạt phí 35.627.790 đ (62,4%). Kinh phí đào tạo và NCKH thấp hơn năm trước (3.475.389 đ), tức là chỉ có 6,08%, so với 9% của năm trước.

Trong tình hình ngặt nghèo như vậy, ngoài các việc liên quan đến cải cách giáo dục, trường vẫn cố gắng làm một số việc liên quan tới đào tạo miễn là không tốn nhiều kinh phí lắm. Chẳng hạn, đã tiến hành đợt công nhận đặc cách CK I và CK II cho hàng trăm bác sĩ đủ tiêu chuẩn.

Theo lịch như sau: 17-4 đến 25-4-1987: phụ đạo chuyên môn; 26-4 kiểm tra chuyên môn để vào lớp; 18-5 đến 13-6: học tại bộ môn; 22-6-1987: thi chuyên môn (lý thuyết). Như vậy, sau hơn hai tháng, đất nước có thêm hàng trăm bác sĩ đủ niên hạn được công nhận chuyên khoa cấp I và II.

Từ ngày 10 đến 15-2-1988 có đợt thi tuyển bác sĩ chuyên khoa cấp II học tập trung. Có 61 đơn xin học, sẽ lấy vào 20 người. Môn lâm sàng, thí sinh phải thi cả lý thuyết và thực hành; môn cơ sở chỉ phải thi lý thuyết (Sinh Lý Bệnh đối với hệ Nội và Giải Phẫu đối với hệ Ngoại).

Lớp này, cả người học và người dạy đều khá vất vả. Các thầy có kinh nghiệm nhất phải kèm cặp từng nhóm, học viên tự đọc tài liệu là chính, tất cả các buổi sáng phải ở buồng bệnh, luôn luôn được thầy “truy hỏi” và giảng giải cho. Khi thi tốt nghiệp ngoài các môn quy định còn phải trình một luận văn. Nói chung, từ khâu tuyển chọn cũng như trong quá trình đào tạo, trường luôn luôn chú ý đúng mức đối với đối tượng này.

7-4-87: Họp về chất lượng thực hành của sinh viên

Rất nhiều thầy đã phát biểu. Ví dụ, phải coi khả năng vận dụng lý thuyết vào công tác thực tiễn của bác sĩ cộng đồng cũng là thực hành;

Từ bản ghi chép còn lại, với các ý kiến của các thầy cô (Lê Thị Oanh, Nguyễn Khắc Liêu, Nguyễn Khánh Trạch, Vũ Xuân Uông, Nguyễn Thị Quế, Nguyễn Ngọc Lanh, Dương Chạm Uyên, Vương Hùng, Nguyễn Thấu)... cho thấy trường có thể làm gì để khắc phục những bất cập. Tuy nhiên, khi đề xuất phải có thực địa tốt ở cộng đồng cho hàng ngàn sinh viên thực tập dài hạn, bao gồm cả việc nuôi sống họ (lúc đó chưa bỏ chế độ bao cấp) thì ai cũng thấy khó khăn rất lớn. Thực tế là khoá vào trường 1985 và 1986 (ra trường 1991 và 1992) không có một dịp nào được thực tập ở cộng đồng. Có người nói, nếu trường có thực địa cũng lãng phí, vì hầu như cả hai khoá này ra trường không về công tác ở cơ sở. Nhiều năm sau Bộ Y Tế mới nói đến việc đưa bác sĩ về xã. Chỉ từ năm 1994, với sự hỗ trợ của dự án Subakawa trường ta mới xây dựng được thực địa tại cộng đồng ở Huyện Kim Bảng cho sinh viên năm thứ ba và năm thứ năm làm nơi thực tập. Sau đó, còn phát triển ở Sóc Sơn và Chợ Đồn.

29-4-87: Công đoàn triệu tập về triển khai giảng dạy theo mục tiêu và dạy bằng mođun. Đến thời điểm đó, đa số thầy cô đã được học lớp sư phạm, nhưng tại hội nghị này, kết quả học tập được nhận định là “mới chỉ ở mức gây hứng thú”, được mọi người cho là “rất nên thực thi, nếu có điều kiện”.

Ngày 21-10-1987, hiệu trưởng triệu tập hội nghị gồm các ban chủ nhiệm và giáo vụ bộ môn, bí thư chi bộ để nghe và thảo luận kế hoạch năm học mới (1987-1988). Vẫn chỉ có hai vấn đề nổi: Cải cách giáo dục và cải thiện đời sống. Cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện cải cách giáo dục, vì trường đã bắt đầu việc này được gần 3 năm nay. Mục tiêu bác sĩ chăm sóc sức khoẻ ban đầu được nói chi tiết và cụ thể hơn, do vậy nhận thức có tăng rõ rệt.

Để các thầy đừng tiếc mà nhồi nhét quá nhiều lý thuyết (như thực tế đang xảy ra lúc đó), ngoài việc nhấn mạnh “đây là bác sĩ đa khoa thực hành”, công tác ở tuyến phổ cập chứ không phải ở tuyến cao hơn, thầy hiệu trưởng lần đầu tiên đã dùng cụm từ “miệng nói, tay làm” (để chỉ ra sự gắn lý thuyết với thực hành mà bác sĩ cộng đồng phải có). Để nói về sự gần gũi dân, ông còn dùng cụm từ “bác sĩ gia đình kiểu mới” để chỉ công việc hàng ngày của bác sĩ chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Các nội dung trên còn được giáo sư hiệu trưởng phát biểu trước đại hội Đảng bộ (ngày 29-10-1988 (với tư cách khách mời) và trong nhiều dịp khác nữa. Phải khẳng định, tác giả đề án cải cách đã đầu tư rất nhiều suy nghĩ, tâm huyết và công sức. Nhưng khi nghe đến báo cáo về kinh phí, ai cũng thấy sẽ gặp vô số khó khăn mà trường phải vượt qua khi thực hiện đề án cải cách giáo dục này, có điều lúc đó có lẽ không ai hình dung nổi các khó khăn lớn đến mức không thể khắc phục.
Chủ trương mở rộng sản xuất thuốc Philatốp (về tận bộ môn) cũng được quan tâm không kém. Khi ấy, có 4 đơn vị được phép (coi như “chân rết của xưởng trung ương” của ông Luận). Sơ kết ngày 26-9-87, việc sản xuất thuốc Philatốp ở bộ môn Sinh Lý Bệnh như sau: đã làm 10 mẻ, bình quân ngày công là 308 đồng. Đến 5-10-87, làm thêm 7 mẻ, giá ngày công tăng lên 650đ (phần nhỏ do tăng năng suất, cải tiến, còn phần lớn do đồng tiền mất giá).
Ngày nay, nhiều người không hiểu thuốc Philatốp là gì. Đó là tên một nhà khoa học Liên Xô nghĩ ra “thuốc” này, trên cơ sở cho rằng một mô sinh học nếu bị đặt trong điều kiện ngặt nghèo (ví dụ, lạnh 0o trong 24 giờ) sẽ tiết ra chất kích thích sinh học (biostimulin). Muốn làm “thuốc”, chỉ việc mua gan lợn để lạnh 24 giờ, nghiền ra lọc lấy nước, cho thêm đường và hương vị, đóng ống và khử trùng bằng nhiệt. Đến nay, khi sinh học phân tử đã phát triển rất mạnh mẽ, vẫn chưa thấy công trình nào chiết ra được cái chất biostimulin kia và chứng minh tác dụng thật sự của nó.
Nói thêm. Đến 1993, khi chính phủ chấn chỉnh lại các hoạt động kinh doanhtrên thị trường (trường học không được kinh doanh nữa), trường đã biến xưởng do ông Trương Quang Ngọc phụ trách thành “công ty Đại Y”, và mời một số thầy hưu trí nhận danh nghĩa thành lập. Cho đến ngày giải thể, công ty đã nộp lãi đáng kể cho trường. Riêng 2 năm 1995-97 đã nộp 948 triệu, đóng thuế cho nhà nước gần 100 triệu (giá 1 “cây” vàng 4,7 triệu).

16-1-1988 có Hội nghị công nhân viên chức do chính quyền và công đoàn phối hợp cùng tổ chức. Ngoài việc lớn được toàn trường quan tâm là cải cách giáo dục, thì tình hình đời sống cũng thu hút sự chú ý của các đại biểu. Về ngân sách năm trước, do phó tiến sĩ Văn Đình Hoa (mới được bổ nhiệm phó hiệu trưởng) trình bày: đã được cấp 57.108.000 đồng để chi mọi khoản cho 912 cán bộ và 2130 sinh viên.

Những khoản “không thể đừng” như lương, học bổng, y tế, công tác phí, trợ cấp) đã hết 71,64% kinh phí, phần chi cho giảng dạy và nghiên cứu vẻn vẹn có 6,08% (3,5 triệu). Số còn lại “tức dữ trữ chiến lược” là 12,7 triệu - nghĩa là mỗi tháng được phép chi 1 triệu cho mọi thứ đột xuất khác của cả trường. Mọi người hiểu ra vì sao năm qua, nhiều dự trù đột xuất chậm được giải quyết. Về sản xuất, sau khi nghe tình hình 1987, mọi người phấn khởi khi biết trong kho còn dự trữ 8 tấn đường (giá 4 triệu đồng), 4 tấn tube thuỷ tinh (giá 1,37 triệu); nghĩa là đủ vật tư để sản xuất tiếp vài tháng nữa. Hiếm khi mọi người quan tâm đến sản xuất như hồi dó, quan tâm không kém đối với cải cách giáo dục.
Về nhân sự, 39 thầy cô được công nhận đặc cách chuyên khoa I và II; 3 thầy đi thực tập sinh, 22 ra nước ngoài dự hội nghị và tham quan, 9 đi học đại học; 11 đi chuyên gia mà thực chất là nhằm tăng thêm thu nhập; 17 đi học ngoại ngữ; hầu hết cán bộ đã được học sư phạm y học. Bổ nhiệm và đề bạt 16 người: 1 phó hiệu trưởng, 1 trưởng bộ môn, 9 phó trưởng bộ môn, 3 trưởng phòng, 2 phó phòng. Tiếp nhận 36 người (có 13 người mới gồm các bác sĩ nội trú).
Mức ăn của sinh viên phải nâng lên 2000 đồng/ngày mới đủ cho 3 bữa hàng ngày (năm 1987 có đổi tiền, đây là giá sau đổi tiền); nghĩa là gia đình sinh viên phải đóng góp thêm 500 đồng cho mỗi ngày vào số tiền học bồng mặc dù 100% sinh viên đều được cấp học bổng.

Qua nội dung hội nghị còn ghi lại được, có thể hiểu phần nào tình hình và mối quan tâm của mọi người hồi đó. Chính sách “giá-lương-tiền” đã phát huy những ảnh hưởng tiêu cực. Sau khi được hưởng lương mới do chính sách này mang lại, đời sống có khá hơn; nhưng sự phát hành tiền không tương ứng với mức tăng trưởng sản phẩm xã hội nên đồng tiền mất giá nhanh. Đến hội nghị này, vấn đề bất hợp lý về lương đã được nêu ra, nhưng không phải nội dung định bàn. Dẫu sao, nó cũng nói lên nỗi bức xúc

Việc tăng một bậc lương (tuy chẳng đáng là bao) nhưng được nhiều người rất quan tâm, vì ngoài lương ra, rất ít ai có nguồn thu nhập nào đáng kể khác. Đã vậy, hàng năm chỉ tăng lương rất nhỏ giọt; qua năm tháng nhưng bất hợp lý tích luỹ lại: hoặc thiệt thòi rất lớn (thua kém bạn cùng khoá tới 2 hay 3 bậc), hoặc được ưu đãi đến mức khó hiểu. Một số bậc lương cũ bỗng bị chẻ đôi ra để tạo thành hai bậc lương mới khiến một số đông thầy cô trẻ thấy rằng mình có làm việc đến 40 năm cũng không thể leo hết được các bậc mà người ta đặt ra. Ngày 18-4-1988 các thầy lớn tuổi (trước đó đang hưởng bậc lương 130 đồng) được triệu tập để “nghe giải thích” vì sao có người được chuyển sang bậc lương mới là 505 đồng, nhưng có người lại bị xếp vào bậc 462 đồng. Té ra, 130 đồng là bậc bị “chẻ đôi”. Tuy nhiên, trình độ phó giáo sư mà càng nghe giải thích lại càng khó hiểu. Nguyên nhân của nguyên nhân là “cấp trên” chỉ cho phép Bộ Y tế một tỷ lệ chuyển đổi như vậy. Mọi người ngao ngán lắc đầu. Đó là tâm trạng của những người chủ chốt thực thi cải cách giáo dục (như các vị Minh Tâm, Trà, Minh, Thăng, Vượng, Duyệt, Xang, Uyên, Liêu, Thọ...).

Đại hội đoàn TNCS ngày 16-5-1988 cũng nói nhiều tới Cải cách giao dục, được sinh viên rất quan tâm vì chính họ đang được dự kiến sẽ về công tác ở cơ sở. Khẩu hiệu cho thanh niên khi đó vẫn là “sẵn sàng đi bất cứ đâu”.

Những người học giỏi có thể chưa thông chuyện này lắm (qua vài ý kiến phát biểu ở hội nghị), nhưng tất cả đều không ngờ rằng khi ra trường họ phải chờ đợi khá lâu mới xin được việc, nhất là từ lớp Y3 trở xuống - dù chấp nhận “sẵn sàng đi bất cứ đâu”. Đáng chú ý là tuổi bình quân của thanh niên toàn trường là 21, nhưng khi bầu 21 người vào Ban chấp hành thì tuổi bình quân lại là 28, có tới 9 người tuổi đã trên 30; có người 35, chỉ có 6 người thật sự đang là sinh viên (2 trong số này là lính phục viên). Thanh niên có xu hướng bầu “thầy” và bạn lớn tuổi vào ban chấp hành. Có dấu hiệu thanh niên ít tha thiết với Đoàn.

28-9-1988: Sau khai giảng vài tuần, có hội nghị về kế hoạch năm học mới. Chưa từng có hội nghị tương tự nào sớm như vậy. Hội nghị gồm hai phần:
1) Phó giáo sư Lê Nam Trà trình bày chủ trương của Bộ Đại Học về “mềm hoá” đào tạo (hệ B; hai giai đoạn...); mở rộng đào tạo sau đại học; cải tiến tuyển sinh.
2) Giáo sư hiệu trưởng trình bày về kế hoạch của trường:
a) Xây dựng cơ bản;
b) Cải cách giáo dục;
c) Đẩy mạnh hoạt động kinh tế.

Như vậy, phải lồng chủ trương của Bộ Đại học vào chương trình cải cách mà trường đang thực thi; dù có một số mâu thuẫn, ví dụ BS cộng đồng là “miệng nói tay làm” hay chỉ “tiềm năng”?.
Nhà B1 tốn 5 năm mới xây xong, sẽ là nơi cho các bộ môn chức năng; nhà A3 sẽ sửa chữa cho các bộ môn hình thái (gồm cả Giải Phẫu). Xúc tiến xây B2 (đã đào móng), cố xong trong năm 1989 để 1990 có thể đào móng B3. Đó là thời điểm chuyển mọi bộ môn từ 13 Lê Thánh Tông về Khương Thượng. Nội dung tương tự cũng được thầy hiệu trưởng phát biểu ở đại hội Đảng bộ (22-12-88)
Về cải cách giáo dục: năm nay phải công bố chương trình mới cho từng sinh viên và tất cả được phát giáo trình trước (để giảm giờ lên lớp).
Những điều nói trên rõ ràng là đương nhiên, không cần bàn cãi. Chúng có được thực hiện hay không, nhanh hay chậm chỉ còn phụ thuộc vào kinh phí. Thực tế, chúng rất ít được thực hiện, nhất là việc phát bài trước. Đến 2002, việc này vẫn còn khó khăn.

30-6-1989, tổng kết tuyển sinh đại học, với 2750 thí sinh, đề thi do trường tự soạn, tự chấm, với kết quả đánh giá là “tốt, đúng quy chế”. So với cuộc tuyển sinh 4 năm trước thì 3 từ “đúng quy chế” của trường đại học Y Hà Nội là cả một cuộc phấn đấu để thực hiện và giữ vững nó. Từ đó đến nay, năm nào cũng các cuộc tuyển sinh cũng được đánh giá như vậy.

Sau đó, Bộ Y tế thông báo: Giáo sư thứ trưởng Hoàng Đình Cầu trước đây được tạm cử kiêm chức hiệu trưởng một thời gian, nay rút về Bộ. Dưới sự chỉ đạo của Bộ Y tế, trường sẽ tiến hành bầu hiệu trưởng. Đây là trường thứ 15 trong cả nước làm việc này và là trường đầu tiên thuộc Bộ Y Tế.

Sau khi giáo sư hiệu trưởng Hoàng Đình Cầu trở về Bộ Y tế, ngày 30-9-1989, bộ trưởng Phạm Song cho trường Y Hà Nội tiến hành bầu hiệu trưởng. Theo quy trình, bộ trưởng duyệt và chấp nhận danh sách ứng cử; sau đó chọn ai là dựa vào sự tín nhiệm của viên chức nhà trường. Cuối cùng, danh sách ứng cử được Bộ trưởng ấn định là 5 người, tất cả đều là phó giáo sư (Lê Đăng Hà, Nguyễn Hữu Hồng, Đỗ Trung Phấn, Nguyễn Thụ, Lê Nam Trà), vòng 1 không ai được trên 50% phiếu; vòng hai còn lại hai phó giáo sư Hồng và Thụ. Phó giáo sư Nguyễn Thụ đã dược bổ nhiệm vào chức vụ này. Trước đó, ông là phó hiệu tưởng, bí thư đảng uỷ.

Không khí buổi giới thiệu và chất vấn ứng cử viên diễn ra không như ý. Phóng viên Cẩm Bình viết về buổi đó có câu “cái nền văn hoá không cao”. Một ứng cử viên không được bộ trưởng chấp thuận đã có những phản ứng gay gắt trước đông đảo hội nghị; sau đó những người ủng hộ ứng cử viên này có thái độ thiên lệch, với những câu hỏi soi móc rất khó được hoan nghênh. Đáng lẽ nên có sự chọn lọc cử tri hơn nữa (những người quan tâm tới việc lớn của trường và hiểu rõ chức trách hiệu trưởng) để tránh những biểu hiện lệch lạc (thể hiện qua chất vấn). Dẫu sao, cuộc bầu hợp lệ, hiệu trưởng được chọn một cách xứng đáng.

Trong giai đoạn này, ngày 14-3-1990, Bộ Trưởng Bộ Y Tế ký quyết định số 168/BYT-QĐ thành lập Khoa Y Tế Công Cộng. Việc này đã có những ảnh hưởng nhất định tới hoạt động của một số bộ môn y học dự phòng của trường. ý tưởng của Bộ Trưởng không sai mà trái lại rất tiên tiến, nhưng về tổ chức nhận sự, tại quyết định số 222 và 223/BYT-QĐ có những việc chưa hợp lý nên đã dẫn đến những căng thẳng không cần thiết; vì vậy Khoa YTCC ra đời nhưng chưa có được những hoạt động đóng góp cho nhà trường.

Trên thị trường, giá cả vẫn tăng, nhưng tốc độ tăng giá đã giảm dần. Cơ chế khoán trong nông nghiệp khiến lương thực dôi dư, có xuất khẩu chút ít. Nhưng ngân sách (9 tháng) được công bố chưa cho thấy sự cải thiện nào.

Được cấp 877.334.000 đồng; các khoản buộc phải chi chiếm 606.658.000 đồng, tức 73%; còn lại 27% thì 1/3 chi cho nhà ở, điện, nước. Hệ chính quy mở rộng chỉ thu được 172.000.000 đồng, số tiền này được chia cho cán bộ (30%), phúc lợi (20%) và đưa vào kinh phí giảng dạy (50% - nghĩa là “lỗ”).

Hội đồng lương họp liên tiếp hàng chục buổi (có tuần 3 buổi) cho đến tận ngày 29 và 30. Có khi phải họp đêm mới kịp lập được danh sách tăng lương. Những người trong diện được xét tăng đã thăm dò kết quả từng ngày họp để còn kịp thời đưa “thắc mắc”, “kiến nghị”. Những năm trước cũng y hệt. Số người đến niên hạn rất nhiều; số được tăng rất hạn chế (néu mỗi năm chỉ 10% được tăng lương thì phải 10 năm mới đến lượt). Các danh hiệu thi đua rất hình thức, không có tiêu chuẩn chính và đều không định lượng nên lương không còn công bằng nữa. Dù làm việc rất tốt (thể hiện ở số công trình đã công bố) nếu ốm hai tuần cũng đủ “không lên lương”, làm việc phất phơ nhưng có mặt đầy đủ (vào giờ mở cửa) sẽ lên lương sớm; viết bích báo, tham gia văn nghệ, hoạt động đoàn thể, ... đều ưu tiên lên lương. Trong cái mớ bòng bong của chế độ bao cấp và hình thức chủ nghĩa đó, “ban lương” phải đưa ra một danh sách ít gây thắc mắc và phản ứng nhất.

Sang năm 1990, tốc độ tăng giá giảm rõ. Đó là thành tựu lớn lao mang lại từ công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, tác động của giai đoạn khó khăn lên giáo dục và y tế vẫn còn nặng nề. Ngày 9-3-1990 đích thân bộ trưởng Trần Hồng Quân về trường thuyết trình và giải đáp các thắc mắc về đào tạo hai giai đoạn. Nghĩa là trường không thể trì hoãn thêm nữa.

Ngày 4-5-1990 các ban chủ nhiệm và toàn thể giáo vụ bộ môn tới Hội trường lớn để nghe về “đào tạo hai giai đoạn theo diện rộng”, do phó hiệu trưởng Vương Hùng thuyết trình.

Từ đó nội dung các cuộc họp về đào tạo chủ yếu nói về đào tạo hai giai đoạn, do Bộ GD-ĐT chỉ đạo, mà không nói về cải cách giáo dục nữa. Người trực tiếp thực thi là phó giáo sư Vương Hùng, nhưng sau đó chủ yếu là phó giáo sư Phạm Thị Minh Đức, đều là phó hiệu trưởng phụ trách đào tạo đại học. Trong thực thi, những người trực tiếp liên quan với công tác này đều cảm nhận rất rõ sự áp đặt của Bộ Y tế.

GIAI ĐOẠN KHỞI SẮC VÀ PHÁT TRIỂN: TỪ 1990 ĐẾN NAY

Một số sự kiện

1. Thay đổi Ban Giám Hiệu.

Ngày 16-9-1993, dựa trên kết quả số thư giới thiệu, PGS. Tôn Thất Bách được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng nhiệm kỳ 1993-1997. Ông đã đề nghị và được đảng uỷ nhà trường và Bộ Y Tế chấp nhận bổ nhiệm các Phó hiệu trưởng là PGS. Phạm Minh Đức ( phụ trách đào tạo đại học ), PGS. Phạm Mạnh Hùng ( chuyển từ Học Viện Quân Y ra phụ trách đào tạo sau đại học ) và Cử nhân sinh học Hoàng Thế Long ( phụ trách hậu cần ). Đây là lần đầu tiên sau 50 năm toàn bộ Ban Giám Hiệu mới lên thay thế Ban Giám Hiệu cũ. Năm 1996, PGS Phạm Mạnh Hùng chuyển lên Bộ Y Tế làm Vụ Trưởng Vụ Tổ Chức rồi Thứ Trưởng Bộ Y Tế. Năm 1997, PGS Lê Văn Khang được bổ nhiệm Phó Hiệu Trưởng phụ trách công tác TCCB. Nhiệm kỳ sau, cũng thông qua thư giới thiệu, PGS Tôn Thất Bấch tiếp tục được tái bổ nhiệm chức vụ Hiệu Trưởng, các phó hiệu trưởng là các PGS Nguyễn Thị Hà ( phụ trách đào tạo sau đại học ), Nguyễn Văn Tường ( phụ trách nghiên cứu khoa học ) Đinh Hữu Dung ( phụ trách đào tạo đại học ) và bác sĩ Đỗ Hán ( phụ trách hậu cần ) được Bộ Y Tế bổ nhiệm cùng với phân công lĩnh vực phụ trách trong quyết định. Riêng PGS Lê Văn Khang ( phụ trách công tác chính trị và tổ chức cán bộ ) mới bổ nhiệm năm 1997 nên vẫn tiếp tục giữ vị trí phó hiệu trưởng.

Đây là giai đoạn có nhiều khởi sắc của nhà trường. Năm 1994, toàn bộ khu làm việc được chuyển từ khu nhà E5 sang tầng trệt thư viện và một số phòng A3 và khu vực này được cán bộ gọi đùa là “ khu nhà trắng “. E5 được nâng cấp thành ký túc xá cho học viên sau đại học.Khu vực nhà ăn và ký túc xá, câu lạc bộ sinh viên được đặc biệt tăng cường đầu tư nhằm xây dựng nhân cách trong sinh viên. Hoàn thiện và đặt tên giảng đường Hồ Đắc Di vào lễ hội kỷ niệm 50 năm Trường Đại Học Y thuộc về dân tộc. Cải tạo và trang bị phương tiện nghe nhìn cho các giảng đường. Tiếp nhận viện trợ của JICA Nhật Bản tăng cường đầu tư cho các bộ môn khoa học cơ bản và y học cơ sở. Quan hệ đối ngoại được rộng mở đa phương với nhiều nước như Pháp, Thuỵ Điển, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hà Lan, Australia, Thái Lan, Philippin ... Trường được Bộ Y Tế chính thức giao cho nhiệm vụ làm đầu mối trong hợp tác đào tạo với CH Pháp theo con đường chính phủ. Cảnh quan nhà trường thay đổi rõ rệt.

2. Các đại hội Đảng Bộ.

Năm 1994, Đại Hội Đảng Bộ lần thứ 24 đã bầu PTS Lê Văn Khang, Trưởng Phòng TCCB làm bí thư thay cho GS Lê Đăng Hà, Phó Bí Thư là PGS Phạm Mạnh Hùng. Năm 1996, Đại Hội Đảng Bộ lần thứ 25 bầu ra BCH 15 đồng chí, Bí thư: PGS Lê Văn Khang, Phó Bí Thư: Phạm Thị Thu Hồ. Năm 1999, Đại Hội Đảng Bộ lần 26 bầu ra BCH có 15 đồng chí, Bí Thư và Phó Bí thư vẫn giữ nguyên, các uỷ viên Thường Vụ được bổ sung hai đồng chí mới: Đỗ Hán và Đinh Hữu Dung. Năm 2001, Đại Hội Đảng Bộ lần thứ 27 bầu ra 5 uỷ viên Thưởng Vụ: Lê Văn Khang ( Bí Thư ) Đỗ Hán (Phó Bí Thư ), Đinh Hữu Dung, Vũ Thị Phương ( được bầu Chủ tịch Công Đoàn tại Đại Hội Công Đoàn lần thứ 27 năm 2002 ) và Hoàng Quốc Bảo.

3. Về nhân sự

Trưởng Phòng Đào Tạo Sau Đại Học ( thay cho tên gọi cũ là Khoa Sau Đại Học ) là Nguyễn Thị Hà ( 1993-1997 ) Phạm Nhật An ( 1998-2002 ), Trưởng Phòng Nghiên Cứu Khoa Học là Nguyễn Văn Tường ( 1993-1997) và Nguyễn Ngọc Hùng ( 1998-2002 ); Đào Tạo Đại Học là Đinh Hữu Dung ( 1993-1997 ), Nguyễn Trọng Thông ( 1998-2002 ); Tổ Chức Cán Bộ là Lê Văn Khang ( 1993-2002 ).Trưởng Phòng Giáo Tài là Vũ Văn Đoan ( 1993-2002 ), Trưởng Phòng Hành Chính là Đào Xuân Tích ( 1993-1997 ) Phùng Văn Hoàn ( 1998-2002); Trưởng Phòng Quản Trị là Hoàng Kỳ ( 1993-1997 ) và Hoàng Ngọc Thanh ( 1998-2002 ); Trưởng phòng Tài Vụ là Trương Văn Chắc ( 1993-2002 )

4. Về Tổ Chức: Đơn vị mới thành lập

Bộ môn Gây mê hồi sức lúc đầu là phân môn nằm trong bộ môn Ngoại (BS Tôn Đức Lang phụ trách) và từ 1992 tách riêng bộ môn (GS. Nguyễn Thụ phụ trách), có vai trò đầu ngành, và nay được chuyển thành bộ môn đào tạo sau đại học.

Ngày 25-3-1991, thành lập Bộ môn Phẫu thuật tạo hình, giảng dạy sau đại học (GS. Nguyễn Huy Phan, PTS Lê Gia Vinh). Ngày 15-7-1992, thành lập Bộ môn Miễn dịch học sau 6 năm môn này chính thức dạy cho Y2, nhưng ghép vào Bộ môn Sinh lý bệnh, như một sự đổi tên Sinh lý bệnh thành Miễn dịch - Sinh lý bệnh. Ngày 22 tháng 1 năm 1999 thành lập Bộ Môn Giáo Dục Y Học theo quyết định số 286/1999/BYT-QĐ do Phó Giáo Sư Phạm Thị Minh Đức phụ trách.

Bộ môn Giáo Dục Y Học được thành lập dựa trên kết quả hoạt động của trung tâm bồi dưỡng giáo viên. Do là các cán bộ giảng dạy trường Y tuyệt đại đa số không được đào tạo phương phát sư phạm trước khi về trường vì vậy các khái niệm về sư phạm như mục tiêu giảng dạy, tài liệu phát tay, giảng dạy và đánh giá theo mục tiêu giảng dạy là một tồn tại lớn. Từ nhiều nhiệm kỳ trước của các Ban Giám Hiệu tiền nhiệm đã tập trung vào khắc phục bằng cách mở các lớp đào tạo giáo viên. Từ năm 1994, với sự giúp đỡ trực tiếp của dự án Hà Lan và gián tiếp qua Vụ KHĐT Bộ Y tế của chương trình SIDA Thuỵ Điển, các hoạt động này có điều kiện phát triển vì vậy Bộ Môn Giáo Dục Y Học được thành lập. Có lẽ trường ta là trường đầu tiên có bộ môn này. Tác dụng của bộ môn không chỉ trong trường mà còn giảng dạy cho các trường bạn như Cần Thơ, Tây nguyên, Huế, Hải Phòng, Thái Bình…

Ngoài các bộ môn, trong giai đoạn này có rất nhiều trung tâm giảng dạy và nghiên cứu được thành lập như trung tâm nghiên cứu sức khoẻ cộng đồng, trung tâm nghiên cứu và đào tạo HIV/AIDS, trung tâm dân số kế hoạch hoá gia đình và sức khoẻ sinh sản, đơn vị dịch tễ học lâm sàng…

Nhiệm vụ các trung tâm này là tranh cử các dự án nghiên cứu, dự án đào tạo để đưa thêm kinh phí nghiên cứu về cho trường; tham gia đào tạo đại học và sau đại học theo các chuyên đề như dân số kế hoạch hoá, HIV/AIDS, y tế cộng đồng…

Ngày 23 tháng 3 năm 1999, Bộ Trưởng Bộ Y Tế quyết định thành lập hai Khoa: Khoa Răng Hàm Mặt, Khoa Y học Cổ truyền. Còn Khoa Y Tế Công Cộng đã có quyết định thành lập từ năm 1990 nên chỉ có quyết định bổ nhiệm nhân sự. Cùng với sự thành lập các khoa, là thành lập các bộ môn nằm trong các khoa đó. Đây là bước khởi đầu của sự hình thành Viện đại học Y Dược Hà Nội.

5. Hội đồng chức danh cơ sở được thành lập, gồm 45 vị, nhiệm kỳ 5 năm và làm việc ngay để thi hành chủ trương phong tặng học hàm (chức danh) khoa học đợt mới mà suốt 6 năm chính phủ bỏ bẵng. Ngày 03-11-1990 Hội đồng nghe 79 vị ứng cử chức danh giáo sư và phó giáo sư trình bày kết quả nghiên cứu khoa học và đào tạo của mình (theo tiêu chuẩn đã được lượng hoá thành “điểm”. Ngày 5-11-1990, bỏ phiếu. Có 21 thầy cô được đề nghị lên hội đồng cấp trên xét tiếp học hàm giáo sư và 30 thầy cô được đề nghị xét tiếp học hàm phó giáo sư. Cộng 51 vị

Ngày 16-10-1990 Hội đồng xét tiếp cho cho 42 vị.
Sau đợt xét chọn này, Hội đồng học hàm trung ương công nhận cho trường ta trên 40 giáo sư và phó giáo sư.

Tất cả những người dược công nhận đều xứng đáng. Tuy nhiên, nhiều vị điểm rất cao nhưng công trình lại khá tản mạn, không kết lại được để thành những mảng lớn. Đó là do:
1) Một số do có quyền hành trong tay khiến “đàn em, đàn cháu” buộc phải đưa tên tuổi vào công trình của họ; có vị hướng dẫn nhiều nghiên cứu sinh nhưng thực chất nghiên cứu sinh bị thả nổi, tự bươn chải.
2) Không có điều kiện đi sâu vào một đề tài, do gặp những khó khăn không thể vượt qua, đã đổi đề tài khác.
Rõ ràng cần đưa vào tiêu chuẩn bầu chọn: đương sự phải viết bản tổng kết vắn tắt những kết quả nghiên cứu thật sự nổi trội của chính mình.

6. Tổ chức kỷ niệm 90 năm thành lập trường và nhận huân chương Độc Lập hạng 2, sau gần một năm chuẩn bị mọi mặt. Trong bài phát biểu của Tổng bí thư Đỗ Mười, thầy trò rất xúc động và vui mừng với 2 ý:
1) Ngày hội hôm nay cũng là ngày hội của toàn ngành đại học Việt Nam;
2) Trường đại học Y có bề dầy lịch sử lâu đời nhất, chỉ sau Quốc Tử Giám.

Vậy, liệu nó có được thừa nhận là trường kế tục của Quốc Tử Giám hay không, điều đó còn phụ thuộc vào sự nghiên cứu lịch sử trường, đi sâu bối cảnh ra đời cũng như cũng như những vai trò lịch sử của trường. Đây là việc của trường, không ai có thể làm giúp được.

Khó nhất là quyên góp tiền và tuyên truyền trên phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, các cựu sinh viên với tư cách cá nhân và đang ở cương vị quản lý đã ủng hộ số tiền lớn, sau khi trang trải các khoản chi tiêu hết sức tiết kiệm, vẫn còn lại trên 250 triệu chuyển sang ban giám hiệu nhiệm kỳ sau. Số bài báo và số buổi phát thanh truyền hình đã phát là trên 100, khiến khán-thính giả trong và ngoài trường hiểu thêm về vai trò và sự đóng góp của trường, chưa kể gần 30 bài ở báo nội bộ in rải rác trong năm; ngoài ra còn khoảng 50 bài dưới nhiều thể loại in ở số dặc biệt đã giúp bạn đọc hiểu được những nét lớn trong lịch sử 90 năm của trường. Ban Tư liệu - Lịch sử được thành lập và được duy trì đến kỷ niệm 100 năm thành lập trường. Cũng dịp này, đã ra được một cuốn băng video về lịch sử trường, với giá 20 triệu đồng, do ông Việt Tùng thực hiện.

7. Tổ chức kỷ niệm 50 năm trường Y phục vụ cách mạng và nhận huân chương độc lập hạng nhất. Năm 1995 nhiều cơ quan, nhiều ban ngành kỷ niệm 50 năm phục vụ cách mạng, trong đó trường đại học Y chọn ngày 15-11 là ngày khai giảng của năm 1945. Trường đại học Dược trong dịp này cũng có cuộc kỷ niệm tương tự.. Các lớp cựu sinh viên về dự lễ thấy được sự phát triển của trường trong 5 năm qua và cũng rất tự hào là đã từng học ở trường này; họ được đón tiếp trân trọng và thân ái. Cũng trong ngày kỷ niệm này, Ban Giám Hiệu đã khánh thành và đặt tên cho Khu Giảng Đường Hồ Đắc Di để ghi nhớ công lao của người hiệu trưởng Việt Nam đầu tiên.

Đặc biệt là các cựu sinh viên thời chống Pháp: những người sát cánh cùng thầy Di, thầy Tùng và các thầy tiền bối khác làm nên một thời kỳ hào hùng nhất trong lịch sử trường: thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Các vị được đặt vấn đề tập hợp lại để góp phần giúp trường viết lại chi tiết giai đoạn lịch sử đó. Cuốn “Thầy trò trường Y-Dược trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)” sẽ ra mắt bạn đọc như sự ghi lại cho thế hệ sau những việc làm của cha ông và cũng là sự tỏ lòng biết ơn của họ đối với thế hệ đi tước. Cựu sinh viên cũng rất khen số báo nội bộ: với gần 50 bài viết phủ kín các giai đoạn, các sự kiện lớn và các nhân vật của trường đã giúp bạn đọc hình dung lại thời kỳ này. Về kinh phí tổ chức, so với lần tổ chức 90 năm, lần này trường không phải đi từng nơi vận động mà các địa phương giúp đỡ nhà trường thông qua các thông tin theo đường công văn.

8) Nhà nước phong tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà Nước về Khoa Học Kỹ Thuật cho các Giáo sư nhà trường. Năm 1996, theo quyết định số 991-KT/CTN ngày 10-9 của Chủ Tịch nước trao tặng Giải Thưởng Khoa Học Kỹ Thuật Hồ Chí Minh cho 33 cụm công trình trong đó có 12 cụm công trình y dược. Có 8 trên 12 giải thưởng này thuộc về các thầy của trường ta.

Các thầy được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh là Hồ Đắc Di, Đặng Vũ Hỷ, Tôn Thất Tùng, Đỗ Xuân Hợp, Đặng Văn Ngữ, Trần Hữu Tước, Hoàng Tích Mịnh và Phạm Ngọc Thạch.

Năm 2000, quyết định số 392-KT/CTN và 391-KT/CTN ngày 1-9 đã phong tặng 21 cụm công trình giải thưởng Hồ Chí Minh, trong đó có 4 giải thưởng về y dược và 2 giải thưởng thuộc về trường ta; 71 tác giả được nhận giải thưởng Nhà Nước trong đó có 20 công trình y dược và 8 giải thưởng thuộc về các thầy trường ta. Giải thưởng Hồ Chí Minh: GS Đặng Văn Chung và GS Vũ Công Hoè. Giải thưởng Nhà Nước: các giáo sư Nguyễn Trinh Cơ, Đinh Văn Thắng, Lê Kinh Duệ, Vũ Triệu An, Trịnh Ngọc Phan, Phạm Khuê, Chu Văn Tường, Hoàng Sử.

9) Được tuyên dương danh hiệu anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới. Đó là thời kỳ từ 1986 - 2000, toàn trường phấn đấu hết sức gian khổ (1986-1990) để duy trì sự ổn định, duy trì đào tạo và nghiên cứu khoa học, sau đó là sự phát triển vững chắc nhiều mặt (1990-2000), nhất là những năm gần đây; đặc biệt là công tác đào tạo bác sĩ chuyên khoa cấp I cho các vùng khoa khăn ở miền núi phía bắc, miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long.

Trình bày trước Hội Đồng Khen Thưởng Nhà Nước, Hiệu Trưởng nhà trường đã tnêu rõ những nét nổi bật của nhà trường trong quá trình đổi mới gồm:
1) Tập trung đầu tư cho sinh viên về vật chất và tinh thần;
2) Tiếp tục thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy;
3) Tập trung ưu tiên đào tạo tại chỗ BSCKCI cho các tỉnh khó khăn để cung cấp nguồn lực cho giai đoạn đổi mới;
4) Công tác nghiên cứu khoa học tập trung trên ba lĩnh vực y học cơ sở, y học lâm sàng và y tế cộng đồng;
5) Mở rộng hợp tác quốc tế đa phương để tăng cường trao đổi cán bộ đồng thời tăng ngân sách cho nhà trường. Báo Hà Nội mới số ra ngày 30-12-2000 đưa tin: Sáng 29-12-2000, Bộ Y Tế phối hợp với Bộ Giáo Dục và Đào Tạo tổ chức Lễ đón nhận Danh Hiệu Anh Hùng Lao Động của nhà nước trao tặng cho tập thể cán bộ công nhân viên Trường Đại Học Y Hà Nội. Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu, cố vấn Đỗ Mười gửi thư chúc mừng, cố vấn Lê Đức Anh, Thủ Tướng Chính Phủ Phan Văn Khải, Chủ Tịch Quốc Hội Nông Đức Mạnh gửi lẵng hoa chúc mừng. Đến dự có Phó Chủ Tịch Nguyễn Thị Bình, Bộ Trưởng Bộ Y Tế Đỗ Nguyên Phương, Bộ Trưởng Bộ GDĐT Nguyễn Minh Hiển …

10) Chuẩn bị kỷ niệm 100 năm thành lập trường (1902-2002).

Thời kỳ này, kinh phí được cấp cao hơn trước, ngoài ra còn một số nguồn khác do sự năng động và tự khai thác được của Ban Giám Hiệu trường. Ngày 31-10-1998, Thủ Tướng Chính Phủ chính thức phê duyệt Dự án cải tạo mở rộng Trường Đại Học Y Hà Nội với tổng kinh phí 326,5 tỷ đồng tập trung xây dựng các khu nhà giảng đường B3, nhà điều hành, cải tạo các nhà ký túc xá E5, E1, E2 và E3 thành khu nhà có các căn phòng khép kín, bổ sung trang thiết bị cho labô trung tâm và một số bộ môn, nhà tiền lâm sàng, giải phóng mặt bằng, xây dựng sân vận động….

Ví dụ, sang năm học 1998-1999, trường đã quản lý các nguồn sau: Kinh phí hành chính sự nghiệp (do Bộ Y tế cấp): 15 tỷ 200 triệu; Kinh phí đào tạo SĐH (do Bộ GD-ĐT cấp): 1 tỷ 644 triệu; Kinh phí NCKH: 1 tỷ 043 triệu; Kinh phí đào tạo lại: 81 triệu; Thu học phí (sinh viên và học viên SĐH) 4 tỷ 500 triệu;
Quỹ vãng lai (dự án): 900.114.000đ; chưa kể kinh phí xây dựng cơ bản.
Đời sống viên chức đã khác hẳn những năm suy thoái, nhưng sự điều chỉnh lương không theo kịp nhu cầu vật chất của cuộc sống. Trường vẫn phải dành nhiều công sức tự tạo quỹ phúc lợi để mỗi dịp kỷ niệm trọng đại có thể tặng viên chức của trường khoảng 200.000-300.000 đồng. Năm 1998-1999 quỹ phúc lợi còn 563.407.200đ và mỗi năm ít nhất phải bổ sung con số như vậy nữa mới đủ.

Nhờ vậy, từ năm học 1994-1995 tiến độ xây dựng cũng khác hẳn trước. Việc sửa chữa, nâng cấp nhà cũng như cung cấp phương tiện dạy học và các vật dụng khác đã có những tiến bộ mới. Bộ mặt của trường đã chỉnh trang hơn nhiều.

Ví dụ, đã bảo vệ thành công đề án xây dựng tổng thể mặt bằng để làm cơ sở pháp lý giải quyết các hộ lấn chiếm trong trường; xây dựng xong 400 chỗ còn lại của giảng đường 1000 chỗ, nâng cấp khu nhà ở sinh viên, các khu nhà làm việc và khu giảng đường mới. Khu nhà Điều Hành sẽ hoàn tất trước ngày kỷ niệm 100 năm thành lập trường. Tuy nhiên, vấn đề nổi lên là mặc dù được sự ưu tiên đầu tư của viện trợ JICA Nhật Bản phục vụ cho giảng dạy, nhưng trang thiết bị nghiên cứu của các bộ môn cơ sở vẫn rất nghèo nàn, xuống cấp - mà labo trung tâm không thể đủ sức thay thế một phần hay hỗ trợ được: do tính đặc thù của mỗi bộ môn.

Đào tạo đại học

Mục tiêu. Cuốn “sách xanh KAS”

Mục tiêu đào tạo đại học được xác định từ 1986 vẫn còn hiệu lực đến hiện tại với tên gọi cụ thể là bác sỹ đa khoa định hướng cộng đồng. Để thực hiện mục tiêu này, nhà trường đã thiết lập được hai vùng thực địa phù hợp với mục tiêu trên tại huyện Kim Bảng và huyện Sóc Sơn với sự hỗ trợ của dự án do quỹ Sasakawa tài trợ.

Sự hỗ trợ quan trọng để tiếp tục cải cách giáo dục là nguồn lực tài chính từ dự án SIDA thông qua Vụ KHĐT Bộ Y Tế và dự án Hà Lan 1 ( cho 4 trường đại học y Việt Nam ) và dự án Hà Lan 2 ( cho 8 trường đại học Y Việt Nam ). Đó là điều khác biệt rất cơ bản so với khi nhà trường bắt tay vào thực hiện cải cách giáo dục ở thập kỷ 80. Với nguồn lực này, trường đã mở các lớp sư phạm y học cho hầu hết thấy cô trong trường. Nhiều hiểu biết và kỹ năng tiếp thu được ở lớp đã được áp dụng rộng khắp: Các môn học y học đều đã có mục tiêu chung và mục tiêu từng bài; nhiều môn học đã có bộ test trắc nghiệm và đã sử dụng nhiều năm nay.

Đặc biệt, với vai trò trường trọng điểm, chủ nhiệm dự án Hà Lan, 16 môn học trực tiếp nhất trong thực hiện mục tiêu đã được tập huấn trong tất các trường Y cả nước để sau đó viết ra đầy đủ và chi tiết mục tiêu cụ thể về kiến thức, thái độ, kỹ năng của một bác sĩ mới ra trường. Đến nay công việc đã hoàn thành, toàn bộ sản phẩm tạo ra được tập hợp trong cuốn “sách xanh KAS”. Công việc tiếp theo sẽ là sẽ xây dựng khung chương trình chi tiết từ nền tảng của cuốn sách này cùng với viết ra các bài giảng để dạy và học theo phương pháp tích cực.

Với sự giúp đỡ của hai dự án Hà Lan, lần đầu tiên các cán bộ chủ chốt về giảng dạy trong 16 bộ môn của 8 trường y trên cả nước có dịp thảo luận và trao đổi về nội dung chi tiết của cuốn sách xanh: các chủ đề, vấn đề và các mức độ về những kiến thức, thái độ, kỹ năng tối thiểu của một người bác sỹ mới ra trường. Dựa trên các yêu cầu về kiến thức của các chủ đề này, các bộ môn khoa học cơ bản và y học cơ sở sẽ thấy cần phải dạy điều gì cho thích hợp và các bộ môn y học lâm sàng và y học dự phòng biết được phải dạy điều gì về lý thuyết và thực hành. Sau khi đã thống nhất, nhóm chuyên gia Việt Nam của dự án gồm chủ yếu các thầy cô của trường ta, bổ sung hai thầy của Trường ĐHYDTPHCM, một thầy của Trường Y Huế tập trung trong một tuần để tu chỉnh, sau đó PGS Phạm Thị Minh Đức biên tập lại. Sau khi hoàn thành biên tập, bản thảo lại gửi được gửi tới 8 trường đóng góp lần cuối. Cuốn sách xanh đã được báo cáo tại hai hội nghị đào tạo quan trọng do Bộ Y Tế tổ chức tại Huế và Thái Nguyên và được đánh giá cao của hai bộ và thống nhất là sẽ sử dụng làm cơ sở cho các trường xây dựng khung chương trình chi tiết. Câu hỏi cho các nhà quản lý ngành y tế là trong tương lai làm thế nào để đa số các bác sĩ đào tạo ra trong phạm vi cả nước sẽ về cộng đồng hành nghề; và muốn họ thực thi những điều đã học thì hệ thống y tế công lập hoặc dân lập phải đủ sức tiếp nhận họ. Điều này cần có những dự báo chính xác.

Dạy theo giai đoạn

Thầy trò nhà trường đã tốn rất nhiều công sức trong 6 năm chuyển đổi từ cách dạy theo niên chế sang cách dạy theo giai đoạn. Sự mềm hoá trong đào tạo, cũng như việc phát huy nội lực và tính chủ động của sinh viên không có gì sai, thậm chí đang là xu hướng của thế giới. Nó rất phù hợp với phương pháp dạy-học tích cực mà trường ta muốn thực hiện. Về nguyên tắc, nó không làm thay đổi mục tiêu mà trường đã xác định (bác sĩ cộng đồng) mà chỉ thay đổi phương thức đạt mục tiêu đó. Thuận lợi lớn là hầu hết thầy cô đã được học phương pháp Dạy-Học tích cực áp dụng trong Y học (trong nội dung của dự án SIDA và dự án Hà Lan).

Tuy nhiên, với ngành Y và với yêu cầu tiềm năng của bác sĩ cộng đồng, giai đoạn “đại cương” kéo dài tới hai năm sẽ ảnh hưởng tới giai đoạn “học nghề” sau đó. Bác sĩ về một cộng đồng, ví dụ một xã, phải thật sự làm được việc vì không còn ai có trình độ hơn mình để giải quyết các vấn đề liên quan tới sức khoẻ và mạng sống của đồng bào. Cộng đồng trong vòng 20 năm tới chưa thể chấp nhận “bác sĩ tiềm năng”. Chính ở chỗ này, trường Y Hà Nội miễn cưỡng chấp hành chủ trương của Bộ GD-ĐT và Bộ Y tế..

Nhớ lại chương trình bốn năm đào tạo y sỹ Đông Dương ngày xưa, nếu các vị học sinh ngày đó phải học cả ngoại ngữ, chính trị, quân sự, lao động... thì chương trình cũng phải kéo dài 6 năm mới đủ. Y sĩ Đông Dương là đa khoa, mang tính thực hành rất cao vì được đi bệnh viện ngay năm đầu tiên, nhưng cũng tương đương về trình độ cơ bản như đào tạo bác sỹ hồi đó - vì có nhiều môn họ học chung một giảng đường với các khoá bác sĩ. Theo giáo sư Vũ Công Hoè, thì không có sự cách biệt nhiều về trình độ thực tiễn giữa bác sĩ quốc gia và y sĩ Đông Dương. Tuy nhiên trong giai đoạn đó, khoa học cơ bản và y học cơ sở chưa có nhiều tiến bộ như ngày nay.

Mặt khác, muốn dạy theo học phần và học trình cũng cần giải quyết đồng bộ nhiều việc: chương trình với phần cứng ( bắt buộc ), phần mềm (tự chọn), sách và tài liệu phải được viết theo quy cách chung để giảm số giờ lên lớp, bộ câu hỏi trắc nghiệm để tăng cường kiểm tra nhưng không tốn thời gian... Nổi lên 2 vấn đề thực hiện đề án này là kinh phí và sự quyết tâm của toàn trường.

Đến nay, dù các khoá mới tuyển không còn đào tạo theo giai đoạn nữa, nhưng kinh nghiệm trên (điều kiện vật chất và tư tưởng) vẫn có thể áp dụng cho mọi chủ trương lớn mà trường muốn thực thi. Dự án SIDA và dự án Hà Lan đã hỗ trợ một phần kinh phí rất cơ bản trong đào tạo người thầy, nhưng để áp dụng Dạy-Học tích cực trong toàn trường thì cần có điều kiện để chia nhỏ lớp tổ trong thực tập và học lý thuyết cùng với sự quyết tâm vẫn là nhân tố quyết định. Dường như hiện nay, sự quyết tâm này chưa thật cao.

Để có đủ sách và tài liệu cho sinh viên, trường đã thành lập Ban chỉ đạo viết sách giáo khoa; đã sinh hoạt nhiều buổi, đã ra được các nguyên tắc và tiêu chuẩn cụ thể cho một cuốn sách phù hợp. Đã có những buổi họp toàn trường để lực lượng viết sách thống nhất các nguyên tắc và tiêu chuẩn cụ thể cho một cuốn sách. Nhưng số sách giáo khoa được viết ra còn một khoảng cách quá xa để đáp ứng sự tự học của sinh viên.

Có môn học, như Sinh Lý Bệnh và vài môn khác, đến năm 2001 mà sinh viên vẫn phải sử dụng sách in năm 1990, thậm chí 1985. Sự hỗ trợ mỗi trang viết 15.000 đồng là sự cố gắng vượt bậc của nhà trường, nhưng các thầy cô vẫn không thấy công sức mình bỏ ra được bù đắp đủ. Hi vọng dịp “kỷ niệm 100 năm” các thầy cô sẽ cố gắng hơn do ý thức trách nhiệm với trò.

Đáng chú ý là từ năm 1994, có sự thay đổi đáng kể trong cách thi tốt nghiệp. Về thi thực hành, đề bài và cách hỏi thi phải đúng là “thực hành”; còn về lý thuyết, thí sinh ngoài các môn chuyên ngành (lâm sàng) còn phải làm các câu hỏi về môn y học cơ sở (phù hợp với chuyên ngành). Cách thi này đòi hỏi sinh viên phải học nỗ lực hơn, nhưng cũng sẽ có ích hơn cho họ.

Dạy y đức cho sinh viên đang là vấn đề được quan tâm. Tuy đã bỏ được môn luận lý về Đạo Đức, rất ít tác dụng đến hình thành y đức, nhưng lại không có môn nào thay thế nó. Biện pháp hiện nay là nhắc nhở các thầy nêu gương cho sinh viên, đồng thời biểu dương (cả khen thưởng) những cá nhân sinh viên có hành động tốt về y đức. Tuy vậy, rõ ràng đây chưa phải cách dạy và nhất là chưa có nội dung, có chương trình và có mục tiêu cụ thể, có một nhóm thầy phụ trách và chịu trách nhiệm về chất lượng, có đánh giá, có kiểm tra thi cử để ghi điểm vào học bạ.

Số sinh viên thi vào trường mỗi năm một tăng. Điểm chuẩn nói chung năm sau cao hơn năm trước. Ngoài nguyên nhân bậc học phổ thông phát triển mạnh mẽ, học sinh tốt nghiệp phổ thông dù rất kém vẫn có quyền thi đại học; và dường như họ không còn con đường vào đời nào khác là thử thi đại học... thì còn một nguyên nhân khác là chất lượng và danh tiếng trường đại học Y Hà Nội cũng rất hấp dẫn họ. Từ 1986 đến nay, trường kiên quyết phục hồi tính chặt chẽ, công bằng và trong sạch trong tuyển sinh của một trường truyền thống. Bởi vậy, mỗi đợt thi tuyển là cả trường vất vả dài ngày; mọi nỗ lực bỏ ra chỉ nhằm đảm bảo cuộc thi an toàn, đúng quy chế.

Tuy nhiên, còn tuyển sinh theo cách cũ, trường còn vất vả, tốn kém tiền của, cũng như công sức, mà vẫn không chắc chắn đã tuyển được những người thích hợp nhất cho nghề nghiệp phòng và chữa bệnh cao quý, cần cả tài và đức. Cải tiến cách tuyển sinh cũng đang thành vấn đề của trường; ngoài trông đợi vào các biện pháp mới của Bộ GD-ĐT, trường cũng rất cần có sự chủ động suy nghĩ để tìm giải pháp.

Năm học 2002, Bộ GDĐT đã cải tiến tuyển sinh chúng đề, chung thời gian và sử dụng chung kết quả. Với đề thi chung, sinh viên đỗ vào trường ta có điểm chuẩn cao nhất trong khối B ở khu vực phía bắc: bác sỹ đa khoa: 26 điểm, bác sỹ RHM và YHCT 24,5 điểm; hệ cử nhân đại học ( điều dưỡng, kỹ thuật y học, y tế công cộng đều là 22 điểm. Điểm thí sinh đỗ thủ khoa là 31,5 điểm.

Đối tượng mới.

Phối hợp với Trường Cao đẳng Y tế Nam Định, nhà trường tổ chức giảng dạy các đối tượng cử nhân cao đẳng: nữ hộ sinh, điều dưỡng viên, kỹ thuật viên các khoá VI, VII, VIII với tổng số 250 sinh viên. Đã tổ chức thi tốt nghiệp cho 145 sinh viên cao đẳng tại chức khoá VI. Từ năm 1995, trường ta bắt đầu tuyển sinh và đào tạo cử nhân đại học điều dưỡng chính quy khoá I; từ năm 1998, nhà trường tuyển sinh đào tạo cử nhân đại học y tế công cộng khoá I, bác sỹ RHM khoá I và bác sỹ YHCT khoá I. Năm 1999, tuyển sinh đào tạo cử nhân đại học Kỹ Thuật Y Học ( hệ xét nghiệm ) khoá I. Như vậy loại hình đào tạo đại học nhà trường đã được mở rộng. Các khoá cử nhân đại học như điều dưỡng tốt nghiệp được các bệnh viện trung ương tiếp nhận đánh giá cao về năng lực vươn lên. Đây là một trong những thành công bước đầu của kết quả đổi mới đào tạo.

ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC

Nghiên cứu sinh

Năm 1992 có 16 luận án phó tiến sĩ (nay gọi là tiến sĩ chuyên ngành) được bảo vệ, mở đầu thời kỳ khởi sắc trong đào tạo sau đại học. Một mốc ghi dấu là luận án phó tiến sĩ thứ 100 của cử nhân Thẩm Hoàng Điệp được bảo vệ tháng 9-1992 (sau các luận án đầu tiên của bác sĩ Ngô Gia Thạch, Đào Ngọc Phong và Vũ Duy Thịnh tới 14 năm) và luận án cuối cùng năm đó, là luận án thứ 108 của BS. Phạm Duy Tường (28-12-1992). Từ đó tốc độ bảo vệ đã tăng nhanh đáng kể, ngày 25-7-1995 có luận án thứ 150 của BS. Nông Thị Tiến, NCS chính quy khoá X. Luận án 200 Đỗ Như Hơn NCS chính quy 23-12-1996, 16-10 năm 2001, luận án thứ 300 của bác sỹ Trịnh Hồng Sơn bảo vệ thành công. Tính đến ngày 10-10-2002, đã có 342 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án PTS và TS ở trường ta. Bên cạnh những NCS Việt Nam, chúng ta đã đào tạo cho các NCS Lào ( 2 người hệ chính quy ), Campuchia ( 2 người hệ ngắn hạn ) và Hung ga ri (1 người hệ ngắn hạn).

Số luận án tăng nhanh là do:
1) Trường có đội ngũ hướng dẫn đông đảo;
2) Sự tiêu chuẩn hoá các chức danh khoa học (đòi hỏi học vị tiến sĩ);
3) Kinh phí và chế độ cho NCS có phần cải tiến;
4) Sự cố gắng rất lớn của công tác quản lý. Đến nay, đã có 342 luận án tiến sĩ (phó tiến sĩ trước đây) được bảo vệ; trong đó 159 NCS hệ ngắn hạn và 183 NCS hệ chính quy. Tuy vậy, tình trạng chung trong cả nước là chất lượng các luận án chưa đạt mức mong muốn. Hiện nay chúng ta đang tiếp tục đào tạo 333 nghiên cứu sinh từ khoá 13 ( 1994 ) đến khoá 21 ( 2002 ).

Cao học

Đến 25.10.1991, trường được giao nhiệm vụ tuyển cao học. Khóa I tuyển được 45 bác sĩ mới ra trường; khóa II tuyển 40 người, nhưng khai giảng trễ 1 năm vì Bộ Đaị học chỉ cho phép tuyển bác sĩ trong biên chế, được cơ quan cử đi học (và cơ quan sẽ nhận về) Cách này đối phó được với tình trạng khó phân phối công tác cho thạc sĩ; nhưng từ nay thạc sĩ trong cả nước không còn trẻ nữa. Riêng ngành Y, với sự liên thông “Nội trú - Cao học” đã tránh được tình trạng này; mặt khác trường cho phép bác sĩ trẻ và chưa biên chế nếu đóng học phí cũng được thi vào cao học (cố nhiên, họ phải tự tìm việc sau khi học xong). Khóa III (1995) nhờ chỉ tiêu và kinh phí tăng lên, trường tuyển 100 đối tượng theo đúng qui định: đó là bác sĩ đang công tác, sau khi học xong sẽ được cơ quan cũ nhận về. Tuy nhiên, cách này sẽ không có thạc sĩ trẻ.

Tốt nghiệp cao học được gọi là thạc sĩ (không đồng nhất với bằng thạc sĩ ngày xưa - tức bằng “sau tiến sĩ” của ngànhY của Pháp - mà thầy Đặng văn Chung và Vũ Công Hoè có được). Thời gian học cao học ở ngành Y dài gấp rưỡi các ngành khác: 3 năm thay vì 2 năm, nhưng bậc lương không hơn gì. Gần đây, theo đúng Luật Giáo dục, đào tạo thạc sĩ ngành Y cũng phải chấp hành rút xuống còn 2 năm: như vậy sẽ có hai khoá kế tiếp cùng ra trường một năm.

Do trách nhiệm cao với xã hội, ngành Y thường tự đặt quy định đào tạo dài ngày hơn so với các ngành khác; nhưng trách nhiệm với người học thì không cao như vậy; do đó lương của ngành Y dù học lâu hơn cũng không hơn gì.
Nhiều thầy, cô bắt đầu lo lắng chất lượng đào tạo cao học, nhất là khi chuyển sang đào tạo hai năm. Thời gian học các chứng chỉ rất gấp, thời gian học chuyên ngành bị hạn chế (ảnh hưởng tới năng lực hành nghề), luận văn hoàn thành cập rập và hầu hết phải kéo dài. Cũng giống nghiên cứu sinh, có hiện tượng trái ngược là số đề tài lâm sàng lại nhiều hơn số đề tài cơ sở (vì ở Việt Nam nghiên cứu trên bệnh nhân lại dễ dàng hơn nghiên cứu trên động vật). Chất lượng đề tài cũng thành vấn đề, vì đại đa số luận văn thạc sĩ không phát triển được thành luận án tiến sĩ, cũng như sau khi có bằng tiến sĩ thì rất nhiều người giảm, hoặc không còn nghiên cứu tiếp nữa. Tính đến 10-10-2002, có 1134 học viên cao học được nhận bằng thạc sỹ, trong đó 311 là chuẩn hoá từ bác sỹ nội trú, 832 đào tạo hệ tập trung. Hiện nay chúng ta đang tiếp tục đào tạo cho 601 cao học từ khoá 7 ( 1998 ) đến khoá 21 ( 2002 ).

Nội trú bệnh viện, bác sỹ chuyên khoa cấp 1 và 2

Đều tăng số lượng tuyển chọn. Trong năm học 1994-1995, trường đã tận dụng tối đa các chỉ tiêu đào tạo sau đại học của Bộ Giáo dục- Đào tạo và Bộ Y tế để đáp ứng nhu cầu cho cán bộ nhà trường và cán bộ địa phương. Bảo đảm nguyên tắc giữ vững và nâng cao chất lượng đào tạo phải được xuyên suốt các loại hình đào tạo để giữ vững truyền thống và uy tín khoa học của nhà trường.

Năm học 1997-1998, các đối tượng sau đại học (nội ngành và quốc gia) của trường lên tới 2132 học viên; năm sau đã là 2931 học viên...; từ đó số học viên cao học tương đương số sinh viên đại học. Ngoài các biện pháp nâng cao chất lượng luận án do bộ GD-ĐT ban hành (thêm phản biện, phản biện kín, quy cách viết luận án...) trường cũng có những biện pháp: đã định kỳ tổ chức các Hội nghị khoa học dành riêng cho nghiên cứu sinh (đến nay đã được 5 lần), nhờ vậy tiến độ hoàn thành luận án đã tăng hơn trước rất rõ rệt; đã tổ chức Hội nghị đào tạo sau đại học cho các thầy cô liên quan....

Đã tổ chức thành công Hội nghị Đào tạo sau đại học gồm Ban Chủ nhiệm và Giáo vụ SĐH của các bộ môn trong toàn trường để phổ biến toàn bộ chương trình của năm học và thực hiện qui chế mới của Bộ Giáo dục- Đào tạo về đào tạo Tiến sĩ chuyên ngành thay cho đào tạo Phó tiến sĩ trước đây.
Công tác đào tạo cao học, BS nội trú và BS chuyên khoa cấp 1, 2 cũng được tăng cường và nâng lên một bước cả về chất lượng và số lượng. Đặc biệt đã mở rộng triển khai đào tạo các lớp BSCK1 hệ tại chức theo chứng chỉ tại các địa phương ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa gồm 8 tỉnh cho 7 chuyên ngành: Cao Bằng, Bệnh viện K71, Hải Dương, Ninh Bình, Nghệ An, Quảng Bình, Kiên Giang và Hà Nội. Và những năm sau là Quảng Ngãi, Phú Yên, Sóc Trang, Đồng Tháp, Cà Mau, Cần Thơ, Tiền Giang.

Với số lượng đào tạo ngày càng tăng, hình thức đào tạo phong phú hơn trước nhưng Nhà trường luôn cố gắng giữ vững và từng bước nâng cao chất lượng đào tạo SĐH, đặc biệt là đào tạo tiến sĩ và thạc sĩ. Đào tạo bác sĩ chuyên khoa được mở rộng ở nhiều địa phương trong cả nước.

Cho đến nay, ta đã đào tạo được 530 bác sỹ nội trú bệnh viện; 1499 BSCKCII; 6099 BSCKCI.

Đối với BSCKCII, có 686 người được đào tạo theo hệ đặc cách, 313 người được đào tạo theo hệ thi công nhận, 99 người được đào tạo theo chuyển đổi từ PTS sau 5 năm nhận bằng và 401 người theo hệ chính quy. Đang đào tạo232 người. Đối với BSNT bệnh viện, ta đã đào tạo được 530 và đang đào tạo cho 221 thuộc các khoá từ 23 đến 26. Đối với BSCKCI, chúng ta đã đào tạo được 6099 người, trong đó theo hệ đặc cách 1293 người, hệ tại chức ( quy chế cũ ), chứng chỉ ( quy chế mới ) 3674 người; hệ tập trung 1132 người. Hiện đang đào tạo 1776 người trong đó 622 theo hệ tập trung và 1154 theo hệ chứng chỉ. 33 địa phương đã hoặc đang được mở đào tạo hệ chứng chỉ tại chức gồm Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh, Sơn La, Lai Châu, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Giang, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nội, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Phú Yên, Lâm Đồng, Cần Thơ, Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp, Cà Mau, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, Biên Hoà. Việc mở đào tạo BSCKI hệ chứng chỉ tại các địa phương được lãnh đạo và cán bộ y tế địa phương hết sức hoan nghênh, đặc biệt là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa vì những vùng này cán bộ y tế khó được đi đào tạo do thiếu người làm việc, do đắt đỏ ở thành phố. Đây chính là sự thể hiện rõ nét của một trường trọng điểm quốc gia thực hiện các chính sách đổi mới của Đảng.

Nghiên Cứu Khoa học

Từ khi có chủ trương đổi mới toàn diện đất nước, cơ chế thị trường đã ít nhiều làm các thầy cô bỡ ngỡ ban đầu, nhưng một số nhà khoa học đã đăng ký được các đề tài lớn, có kinh phí, nhưng số này ở trường không nhiều vì phải là người có quyền lực hành chính trong khoa học, mặt khác, sự chuyển biến tư tưởng không kịp.

Trường ta có phần hẫng hụt ban đầu khi cơ chế cấp kinh phí nghiên cứu khoa học thay đổi (từ 1990), vì chuyển biến tư tưởng chậm, lãnh đạo kém nhạy bén, trang thiết bị nghèo nàn, ít thầy có quyền lực trong khoa học (viện trưởng). Vì vậy, những năm đó, đội ngũ đông đảo của trường bị lúng túng. Dẫu sao, với những công trình của cá nhân thực hiện trước đó cũng giúp trường ta trong đợt phong chức danh 1991-1992 có thêm gần 100 giáo sư, phó giáo sư. Xu hướng nghiên cứu rộng, tuy nhiều đề tài nhỏ, nhưng không sâu (kể cả hời hợt) đã xuất hiện. Chưa tái hiện được các nhà nghiên cứu tỉ mỉ, nghiêm túc, trân trở với những đề tài mình theo đuổi cả đời như các thầy trước đây (Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Đỗ Xuân Hợp, Trần Hữu Tước...).

Thư viện và thông tin

Thư viện được xây từ dịp kỷ niệm 90 năm đã tạo bộ mặt mới, cả về cảnh quan lẫn giá trị phục vụ giảng dạy và nghiên cứu cho nhà trường.

Nguồn báo chí, sách giáo khoa, sách tham khảo với số lượng lớn (tới hàng chục tấn) lần đầu tiên nhận được từ trường Đại học New South Wales năm 1987-1988. Sau đó, trường Paris VI đã liên tục gửi, nhân danh Hội nghị Quốc tế các Hiệu trưởng Đại học Y nói tiếng Pháp (CIDMEF) mà trường ta là một thành viên. Theo dự định, thư viện trường sẽ nhận được - trong năm 1994 - các phương tiện tin học gồm máy vi tính (đã có 2 bộ), télécopie (Fax), các đĩa quang học. Mới đây, Nhật Bản còn cung cấp các phương tiện Nghe-Nhìn gồm đầu vi đê ô, TV, máy chiếu và nhiều bâng ghi hình giáo khoa. Như vậy, thư viện trường là nơi tiêu biểu nhất hiện nay cho hiệu quả của hợp tác quốc tế đa phương trên cơ sở cố gắng của chúng ta.

Rất kịp thời, trường đã cung cấp rộng rãi dịch vụ Internet cho các bộ môn, mở rộng đến các thầy cô; và đã có một trang WEB của trường trên mạng với nội dung ngày càng phong phú - mà bác sĩ Tuấn là người có công lớn.

Vấn đề còn lại là: 1) kinh phí để mở rộng và nâng cao trang Web này sao cho rộng rãi bạn đọc truy cập vào; 2) mở rộng lưới cộng tác viên; 3) tuyên truyền rộng rãi trước hết cho sinh viên và các thầy cô thường xuyên truy cập.

Cùng với thư viện, dịch vụ này đã chấm dứt vĩnh viễn tình trạng thiếu tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học nói chung và trong hoàn thành luận án nói riêng.

Tuy nhiên, khi đủ tài liệu tham khảo thì lộ ra sự lạc hậu và sơ sài của nhiều đề tài, nhất là đề tài của nghiên cứu sinh. Lẽ ra phải tham khảo tạm đủ những tài liệu liên quan trực tiếp nhất trước khi đề xuất đề tài thì chúng ta lại làm ngược lại: cứ đề xuất đề tài (rất cảm tính), cứ tiến hành, khi sắp kết thúc mới tham khảo. Do vậy, rất nhiều kết luận mà đề tài dự tính đã được các tác giả thế giới kết luận từ rất lâu. Có ý kiến đề nghị: khi thông qua đề cương nghiên cứu sinh nhất thiết tác phải có sự tổng quan các tài liệu liên quan chặt chẽ nhất mà hội đồng chấp nhận. Nói khác, họ phải trả lời hai câu hỏi: “người ta” đã làm đến đâu; và “chúng tôi” dự định làm tiếp cái gì.

Những năm gần đây, thêm nhiều trung tâm nghiên cứu được thành lập, có tác dụng tăng thêm kinh phí hoạt động cho nhà trường và tạo việc làm cho một số cán bộ. Cụ thể, đã hoàn thiện cơ cấu tổ chức C.H.R.U, lập các trung tâm nghiên cứu và đào tạo: HIV/AIDS, Dân số-KHHGĐ và SKSS, Hen phế quản, Loãng Xương, đơn vị nghiên cứu và đào tạo dịch tễ học lâm sàng, Bảo quản mô ... Hầu hết trung tâm đều hoạt động có hiệu quả (rất ít trung tâm hoạt động cầm chừng, thậm chí treo biển rồi đóng cửa).

Trong năm học 1994-1995, công tác NCKH được tiến hành theo các hướng chính sau và đã đạt được những kết quả:
- Đề tài Hằng số và môi trường, Sức khoẻ và mô hình bệnh tật.
- Các đề tài trong lĩnh vực ghép cơ quan.

Năm học 1995-1996, kinh phí cho nghiên cứu đã đạt 1,6 tỷ đồng từ các đề tài nghiên cứu trong và ngoài nước. Đó là con số lớn nhất từ trước đến thời điểm này.Từ đó, số đề tài và nguồn kinh phí nói chung tăng lên đều đặn hàng năm.

Năm sau (1996-1997), ngoài đề tài độc lập cấp nhà nước KYĐL 03-94 đạt kết quả nghiệm thu xuất sắc thì nổi bật là việc hoàn thành xây dựng, lắp đặt và bắt đầu đưa vào vận hành Labô Y sinh học trung tâm.

Theo đánh giá chung, đây là thành công bước đầu trong mô hình xây dựng trung tâm y tế chuyên sâu của nhà trường. Đây cũng là tiền đề vật chất để tiến hành các nghiên cứu khoa học, đào tạo sau đại học và hợp tác quốc tế. Đóng góp vào việc này, có công sức rất lớn của giáo sư Phan thị Phi Phi và một số thầy cô khác.

Trong năm học 1997-1998, nhờ tăng cường công tác tìm nguồn kinh phí cho NCKH, trường đã triển khai các đề tài thuộc tài khoá 1996-2000 khoa học công nghệ, trong đó có: 1 đề tài cấp nhà nước KHCN 11-02, 1 dự án cấp bộ, 5 đề mục thuộc đề tài cấp nhà nước, 15 đề tài cấp bộ, 59 đề tài cấp cơ sở (trong đó có 24 đề tài hướng dẫn sinh viên và 35 đề tài cơ sở của cán bộ). Trong hoạt động NCKH, số đề tài hướng dẫn sinh viên nghiên cứu đã dần dần tăng lên. Trong năm học này đã tổ chức thành công 13 Hội nghị khoa học Hội nghị khai trương Labo trung tâm Y sinh học.

Tuy nhiên, ngay từ giai đoạn này đã có những tín hiệu báo động sớm: nghiên cứu sinh chỉ cốt hoàn thành luận án để có học vị phó tiến sĩ (nay gọi là tiến sĩ) với mục đích thăng tiến bản thân, còn mục đích thăng tiến của xã hội thì bản thân họ, cũng như những người quản lý họ, không mấy quan tâm tới. Thành tích thật sự đào tạo các nhà khoa học không phải ở chỗ đã đào tạo được bao nhiêu người có bằng cấp, mà ở chỗ họ đã có bao nhiêu công trình sau khi được đào tạo. Nói cụ thể, mục đích đào tạo tiến sĩ là để họ trở thành nhà nghiên cứu, tức là sản xuất ra các công trình khoa học, thúc đẩy sự thăng tiến xã hội. Thực tế, số tiến sĩ sau khi được phát bằng còn kiên trì con đường nghiên cứu là rất hiếm. Kết quả thống kê (qua các cuốn danh mục công trình đã in) cho thấy số này dưới 20%, có người còn cho rằng dưới 10%.

Công tác NCKH năm học 1998-1999 tiếp tục tổ chức triển khai: 1 đề tài cấp nhà nước, 1 dự án cấp bộ, 15 đề tài cấp bộ, 43 đề tài cấp cơ sở, 21 đề tài hướng dẫn sinh viên NCKH, 2 đề tài tương đương cấp bộ phối hợp với đơn vị NCCS của Bộ Y tế và UBQGDS-KHHGĐ. Ngoài ra, còn nhiều đề tài nhánh của các bộ môn cộng tác nghiên cứu với các đơn vị bạn và các định hương trong nước và quốc tế.

Xuất bản đều đặn và đảm bảo chất lượng cuốn Kỷ yếu công trình và Tạp chí Nghiên cứu Y học.

Các trung tâm, các chương trình và dự án tiếp tục có những cố gắng để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, góp phần cùng nhà trường nâng cao hiệu quả đào tạo và NCKH, xây dựng cơ chế quản lý thống nhất các trung tâm đơn vị và các dự án hợp tác quốc tế trong tình hình mới.

Trong năm học 1999-2000, nhà trường tiếp tục cố gắng trong công tác NCKH: đã thực hiện và hoàn thành nhiều đề tài cấp nhà nước, cấp bộ và cấp cơ sở, trong đó có nhiều đề tài đã được nghiệm thu:

- Đề tài cấp nhà nước:
+ Đã nghiệm thu 6/6 đề mục, đang chuẩn bị nghiệm thu cấp cơ sở đề tài NCKH 11- 02 do PGS. Tôn Thất Bách làm chủ nhiệm.
+ Tổ chức triển khai 2 đề tài độc lập cấp nhà nước do GS Nguyễn Năng An và PGS. Phạm Thị Minh Đức làm chủ nhiệm.
+ Triển khai 5 đề tài nghiên cứu cơ bản.
+ Đưa vào kế hoạch được 2 đề tài cấp nhà nước về Dioxin cho giai đoạn 2000-2005.

- Đề tài cấp bộ:
+ Đã nghiệm thu cơ sở dự án cấp bộ do GS. Lê Nam Trà làm chủ nhiệm, đang hoàn chỉnh để tổ chức nghiệm thi chính thức.
+ Đã nghiệm thu hoàn chỉnh 8/18 đề tài cấp bộ; 2/18 đề tài nghiệm thu cơ sở; 8/18 đề tài còn lại sẽ nghiệm thu trong quý 4 năm 2000 (trong đó có 3 đề tài mới được duyệt năm 1999).
+ Đề tài thử nghiệm vòng tránh thai Tcu 380A của ấn độ, triển khai đúng tiến độ và kết thúc vào cuối năm 2000.

- Đề tài cơ sở và hướng dẫn sinh viên NCKH:
Tổ chức xét duyệt được 64 đề tài cho giai đoạn 2000-2001 với tổng kinh phí 216 triệu đồng.

- Đề tài hợp tác nghiên cứu:
+ Hoàn thành báo cáo nghiệm thu đề tài đánh giá những thay đổi của ngành y tế trong 10 năm đổi mới.
+ Phối hợp với Vụ Khoa học và Đào tạo Bộ Y tế triển khai đề tài đánh giá hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học ngành y tế trong 10 năm đổi mới.
+ Ngoài ra, còn nhiều đề tài nhánh của các bộ môn công tác nghiên cứu với các đơn vị bạn và các địa phương trong nước và quốc tế.
+ Tiếp tục và hoàn thiện việc xuất bản đều đặn và đảm bảo chất lượng cuốn Kỷ yếu công trình và Tạp chí Nghiên cứu Y học...Năm học 2000-2001, kết quả nghiên cứu rất khả quan với tiến độ và chất lượng cao hơn năm trước.

- Đề tài cấp nhà nước:
+ Đã nghiệm thu cơ sở đề tài NCKH 11- 02.
+ Tổ chức triển khai 2 đề tài độc lập cấp nhà nước.
+ Triển khai 5 đề tài nghiên cứu thuộc dự án điều tra cơ bản.
+ 2 đề tài cấp nhà nước về Dĩoxin cho giai đoạn 2000- 2005 đã được phê duyệt và triển khai tại Đà Nẵng.
+ Hoàn thành giai đoạn 1 và chuẩn bị cho giai đoạn 2 dự án nâng cao năng lực Labô bảo quản tế bào.

- Đề tài cấp bộ:
+ Tiến hành nghiệm thu 1 đề tài cấp bộ.
+ Đã nghiệm thu xong 10 đề tài cấp bộ.
+ Dự án Quỹ gen y học đã triển khai có hiệu quả.

- Đề tài cơ sở và hướng dẫn sinh viên NCKH:
+ Tổ chức xét duyệt 64 đề tài cho giai đoạn 2000-2001 với tổng kinh phí 216 triệu, trong đó có 24 đề tài hướng dẫn cho sinh viên NCKH.

- Đề tài hợp tác nghiên cứu:
+ Tiếp tục triển khai giai đoạn cuối đề tài hợp đồng với UBQGDS-KHHGĐ, đã hoàn thành thủ tục để nghiệm thu chính thức. Tiếp tục xây dựng để triển khai giai đoạn 2 của đề tài.
+ Tiếp tục phối hợp với Vụ Khoa học và Đào tạo Bộ Y tế triển khai đề tài “Đánh giá hiệu qủa hoạt động nghiên cứu khoa học ngành y tế trong 10 năm đổi mới”, chuẩn bị cho Hội nhị tổng kết công tác NCKH của Bộ Y tế và xây dựng phương hướng nghiên cứu cho giai đoạn tới.
+ Ngoài ra, còn nhiều đề tài nhánh của các bộ môn cộng tác nghiên cứu với các đơn vị bạn và các địa phương trong nước và quốc tế.
+ Việc xuất bản Kỷ yếu công trình và Tạp chí Nghiên cứu Y học vẫn được tiến hành đều đặn và chất lượng ngày càng tốt hơn.

Quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế

Cho đến 1985, các quan hệ đối ngoại chủ yếu của trường chỉ đóng khung trong việc hợp tác với Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa cũ, chủ yếu là đào tạo sau đại học. Từ 1986, nhờ chủ trương đổi mới của Đảng, trường Y Hà Nội bắt đầu có những quan hệ hợp tác với các nước phương Tây và các nước trong khu vực, bắt đầu là Vương quốc Thụy Điển (từ sớm hơn, qua viện trợ thiết bị) và Cộng Hòa Pháp. Những năm gần đây, quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng sang nhiều nước và khu vực khác, hình thức hợp tác cũng đa dạng hơn, gồm đào tạo dài hạn, đào tạo ngắn hạn, đào tạo lại, tham quan nghiên cứu, thực hiện các chương trình, hội nghị khoa học, v.v...

Cho tới nay, các thầy cô trường ta dễ dàng được ra ngoài và tiếp xúc với khoa học thế giới ngày càng nhiều. Phong trào học ngoại ngữ đương nhiên phát triển trong một số đối tượng mà chẳng cần ai động viên, kêu gọi, sắp xếp chương trình như trước đây. Một nguồn vốn quan trọng, nhờ mở rộng quan hệ mà có, là vốn tư liệu của thư viện. Từ chỗ khủng hoảng tài liệu tham khảo phục vụ các công trình nghiên cứu, đến nay nhà trường liên tục nhận được nguồn bổ sung từ Pháp, Nhật, Mỹ, Hà Lan và nhiều nước khác.

Đối ngoại

Quan hệ quốc tế của trường được mở rộng khi nước Việt Nam thống nhất được kết nạp vào Liên Hợp Quốc. Năm 1992 là một mốc phát triển; nhưng sự khởi sắc là giai đoạn sau đó. Trong năm 1993-1994, số lượng các đoàn quốc tế vào trường tăng lên rõ rệt và đã mang lại một số hiệu quả thiết thực.

- Đối với Pháp: Đã thống nhất về hình thức đào tạo và tuyển chọn bác sỹ nội trú bệnh viện ở Pháp trong 7 chuyên ngành: Nội, Ngoại,Gây mê hồi sức, Sản, Tai mũi họng, Nhi và Tâm thần. Hàng năm, Pháp cử 3 đoàn chuyên gia sang trường ta giảng dạy. Đối với Mỹ: Mặc dầu có rất nhiều đoàn vào nhưng hiệu quả chưa lớn trừ tổ chức Medical China Board đã tài trợ cho trường ta 120.000 USD để mua sắm thiết bị. Đối với Hà Lan, úc, Anh, Thuỵ Điển, Nhật Bản: Đó là những nước cũng có nhiều dự án nghiên cứu về gỉảng dạy Y tế cộng đồng. Riêng Hà Lan tổng kinh phí 4 triệu USD/năm cho các trường Đại học Y Hà Nội, Huế, Cần Thơ và TP.Hồ Chí Minh. Như vậy thông qua hợp tác quốc tế, trong năm học này số cán bộ của trường được cử đi học nước ngoài lên tới con số kỷ lục là 110 người.

Năm học1994-1995, trường tiếp tục giữ vững và đẩy mạnh các quan hệ hợp tác đã có với Pháp (đào tạo nội trú và học tiếng Pháp), với Hà lan (dự án tăng cường công tác giảng dạy và chăm sóc sức khoẻ ban đầu), với úc (dự án CIDSE CV777), với Anh (dự án cải cách công tác quản lý), và với Mỹ (dự án nâng cấp phương tiện giảng dạy với Medical China Board).

Ngoài ra, còn mở rộng thêm các quan hệ hợp tác quốc tế mới như: chuẩn bị tiếp nhận dự án JICA của Nhật Bản, chuẩn bị mở rộng hợp tác với Thuỵ Sĩ về đào tạo, với Mỹ (tổ chức REI), với Nhật Bản (quĩ Sasakawa) về chăm sóc sức khoẻ ban đầu, với Thuỵ Điển (trường đại học Karolinska) về hợp tác tại chỗ. Phối hợp với các nước tổ chức các hội nghị khoa học để qua đó đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học của cán bộ nhà trường đồng thời mang lại kinh phí không nhỏ để đầu tư trang thiết bị cho nhà trường.

Tất cả các quan hệ hợp tác đó đã góp phần làm thay đổi bộ mặt khoa học của trường ta theo chiều hướng tốt đẹp.

Công tác quan hệ quốc tế năm học 1995-1996 với những yêu cầu chấp hành nghiêm chỉnh quy chế đối ngoại nhằm phát huy tối đa mở rộng hợp tác khoa học mang lại lợi ích cho nhà trường, cho các bộ môn, trên nguyên tắc không tư lợi để tránh các thế lực phản động quốc tế lợi dụng chính sách mở cửa để mua chuộc cán bộ, làm mất ổn định chính trị trong quá trình đổi mới. Công tác đối ngoại phải mang lại hiệu quả kinh tế.

Trong năm qua, thông qua hợp tác quốc tế, từ tháng 8/1994 đến tháng 12/1995 trường ta đã có 151 lượt cán bộ đi dự hội nghị, đi học tập tại nước ngoài, đồng thời do hợp tác quốc tế, trường ta đã có một dự án với 250 nghìn USD (tương đương 2,8 tỷ) và 298 triệu đồng do các hội nghị quốc tế mang lại không kể các dự án trước đây như dự án Hà Lan, dự án Quỹ cứu trợ Nhi đồng Anh, dự án của CMB. Cũng thông qua hợp tác quốc tế, tháng 11/1995 chúng ta đã xin được viện trợ thuốc men cho 4 cơ sở y tế (Bệnh viện Bạch mai, Bệnh viện TW Huế, Viện Tai Mũi Họng, Bệnh viện Việt Đức ) trị giá 2,5 triệu USD (tương đương 28 tỷ đồng).

Tiếp tục mở rộng hoạt động đối ngoại để tìm thêm kinh phí, hợp tác phát triển nhà trường, trong năm học 1996-1997, nhà trường đã tiếp nhận nhiều dự án lớn, từ Hà Lan, Nhật...

- Dự án Hà Lan hỗ trợ cho 4 trường đại học để đẩy mạnh công tác giảng dạy hướng về y tế cộng đồng. Bên cạnh đào tạo nhóm thành viên, việc lồng ghép dự án này vào trường nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện các yêu cầu của gỉảng dạy theo phương pháp tích cực như viết tài liệu, tạo ra vật liệu giảng daỵ cũng như cung cấp kiến thức về dịch tễ học cho cán bộ giảng dạy là những trọng tâm của dự án.
- Dự án Sasakawa (Nhật Bản) nhằm hỗ trợ xây dựng thực địa cho sinh viên ở Kim Bảng trong đào tạo bác sĩ đa khoa định hướng cộng đồng. Dự án này còn bao hàm giúp đỡ đào tạo cho địa phương, xây dựng mô hình về mạng lưới y tế cơ sở, hỗ trợ trang thiết bị và thuốc thiết yếu cũng như quay vòng thuốc chữa bệnh...Vì vậy, bên cạnh việc xây dựng cơ sở thực địa, đây còn là một hoạt động mang tính chất nghiên cứu khoa học của trường cũng như thực hiện yêu cầu chỉ đạo tuyến huyện của Bộ Y tế đề ra đối với các đơn vị trực thuộc Bộ.
- Dự án CMB sau khi kết thúc giai đoạn 1 với kinh phí 210.000 USD, từ năm 1997 tổ chức này lại hỗ trợ cho trường 300.000 USD để bổ sung cho Labô tiền lâm sàng, khảo sát về việc nối mạng với khu vực.
- Đã hoàn thành với MDM một dự án nhằm hỗ trợ cho huyện Chợ Đồn về xây dựng cơ sở y tế ban đầu. Các dự án này một mặt giúp cho nhà trường nâng cấp điều kiện giảng dạy, đồng thời tạo điều kiện cho nhà trường gắn bó với xã hội nhiều hơn.
Ngoài ra, còn: thoả thuận với 2 trường Đại học của Pháp về nguyên tắc cơ bản trong hợp tác với các bộ môn Y học cơ sở, đó là Trường Đại học Paris XIII và Trường Đại học Lille; mở rộng hợp tác với tổ chức REI để tiếp nhận viện trợ và giáo viên tiếng Anh; hoàn thành thủ tục tiệp nhận một tài sản của nhà băng San Wa dành cho trường 318.000 USD theo di chúc của một khách hàng nhà băng là ông Henri Wilton.

Công tác đối ngoại hợp tác quốc tế năm học 1997-1998 đã đạt được những kết quả rất đáng phấn khởi:

- Nhà trường tiếp tục chương trình đào tạo Pháp - Việt, thực hiện cho 9 chuyên ngành để tuyển BS nội trú bệnh viện tại Cộng hòa Pháp.
- Hợp tác với Tổ chức Học đường không biên giới (ESF) của Pháp, mở lớp tiếng Pháp cho CBGD, BS nội trú, học viên cao học, sinh viên...
- Hợp tác với các tổ chức REI và GEMS mở các lớp tiếng Anh cho cán bộ nhà trường.
- Tham gia các hội nghị về chuyên môn khoa học và quản lý đào tạo của khu vực.
- Tổ chức 5 hội nghị khoa học chuyên ngành với Pháp tại trường, đặc biệt Hội nghị khoa học ngoại khoa được phía Pháp đánh giá cao về chất lượng khoa học và trình độ tổ chức.
- Kết hợp với 2 trường Đại học Y Nantes và Orléan mở lớp chuyên ngành Hồi sức cấp cứu.
- Do công tác tổ chức tiếp nhận và giảng dạy ngày càng đi vào nề nếp nên số lượng sinh viên nước ngoài: Pháp, úc, Anh (trong đó nhiều nhất là sinh viên Pháp) xin tới thực tập hè tại Việt Nam ngày càng đông.
- Tiếp tục triển khai dự án Sasakawa (Nhật Bản)
- Hợp tác với Hội Khe hở môi và vòm miệng Nhật Bản của Trường Đại học Aichigakuin, nhận viện trợ trang thiết bị cho Bộ môn Răng Hàm Mặt để nâng cao chất lượng trong điều trị và giảng dạy. Ngoài ra, nhà trường còn tiếp nhiều đoàn khách quốc tế đến thăm và tìm hiểu để hợp tác khoa học với trường. Tiếp tục chương trình đào tạo Pháp - Việt, nhà trường trong năm học 1998-1999 đã thực hiện cho 10 chuyên ngành để tuyển bác sỹ nội trú thực tập tại Cộng hòa Pháp.
- Các lớp tiếng Anh và tiếng Pháp vẫn tiếp tục được tổ chức nhờ những quan hệ quốc tế từ năm trước, thu hút được nhiều cán bộ giảng dạy, học viên sau đại học và sinh viên tham gia.
- Hợp tác với Hà Lan về nâng cao chất lượng đào tạo, đã kết thúc giai đoạn I với chi phí 400.000 USD. Hiện đang bước vào giai đoạn II với 8 trường/khoa Y trong cả nước và dự án đào tạo thạc sĩ Y tế công cộng với những hoạt động của nhiều khoa và bộ môn với kinh phí hỗ trợ là 2.348.000 USD.
- Hợp tác với Mỹ trong chương trình đào tạo bác sĩ gia đình với kinh phí dự kiến khoảng 1 triệu USD.
- Hợp tác với Nhật Bản với việc cử cán bộ đi học tập tại Nhật Bản và tiếp tục chương trình của Trường Đại học Aichigakuin viện trợ trang thiết bị giảng dạy cho bộ môn Răng Hàm Mặt để nâng cao chất lượng trong giảng dạy và điều trị.
- Hợp tác với úc: Trao đổi, đào tạo cán bộ giữa nhà trường và trường đại học Sydney. Đã cử một số cán bộ sang học tại úc và chuẩn bị tiếp nhận một số cán bộ sang công tác tại trường.
- Nhận 34 sinh viên nước ngoài sang thực tập hè tại Hà Nội, tổ chức cho sinh viên Pháp đi thăm, tặng quà, dụng cụ y tế cho Trung tâm y tế huyện Chợ Đồn (Bắc Cạn). Ngoài ra, nhà trường còn đón tiếp nhiều đoàn khách quốc tế đến thăm và tìm hiểu để hợp tác với trường, mở ra nhiều cơ hội hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế trong lĩnh vực y tế và giáo dục trong thời gian tới. Phát huy những kết quả đạt được và vận dụng những thế mạnh của nhà trường trong công tác quan hệ quốc tế, trong năm học 1999-2000, trường ta tiếp tục mở rộng hợp tác khoa học.
- Hợp tác với Pháp trong chương trình FFI, đưa nhiều bác sỹ nội trú bệnh viện sang học tập tại Cộng hòa Pháp và đón 54 giáo sư Pháp sang giảng dạy ở nước ta. Chương trình nghiên cứu với Viện trường Nantes của Pháp về Cyclopora, chương trình hợp tác về chẩn đoán bằng hình ảnh, cấp cứu nội kho và ngoại khoa...
- Tham gia nhiều hội nghị về chuyên môn khoa học và quản lý đào tạo của khu vực.
- Tiếp tục hợp tác với Hà Lan về nâng cao chất lượng đào tạo. Hiện đang bước vào giai đoạn II hỗ trợ đào tạo thạc sĩ Y tế công cộng với những hoạt động phong phú của nhiều khoa và bộ môn với kinh phí hỗ trợ là 2.348.000 USD.
- Hợp tác với Mỹ, Nhật Bản và úc trong các chương trình hợp tác khoa học đã tiến hành từ năm trước.
- Ngoài ra, trong năm học này nhiều đoàn quốc tế đã đến thăm và tìm hiểu để hợp tác khoa học với trường ta, nhiều cơ hội quan hệ với các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực y tế và giáo dục tiếp tục được mở ra, hứa hẹn một khả năng hợp tác to lớn trong thời gian tới.

Trong năm học 2000-2001, nhà trường tiếp tục hợp tác với Pháp trong chương trình FFI, đưa hơn 40 bác sỹ nội trú sang học tập tại Pháp, đồng thời tiệp nhận 70 sinh viên Pháp sang học tập tại trường. Chương trình nghiên cứu với Viện trường Nantes của Pháp về Cyclopora, chương trình hợp tác về chẩn đoán hình ảnh, cấp cứu nội, ngoại khoa...vẫn tiếp tục được tiến hành với những kết quả rất khả quan.

Dự án hợp tác với Hà Lan về nâng cao chất lượng đào tạo, hiện đang bước vào giai đoạn II và đang tiếp tục hoạt động với kinh phí hỗ trợ là 2.340.000 USD.

Hợp tác với Hoa Kỳ trong chương trình đào tạo bác sĩ gia đình với kinh phí dự kiến 1 triệu USD. Đợt I đã nhận 300.000 USD là viện trợ của tổ chức CMB (China Medical Board ) và nhận từ tổ chức “ Từ trái tim đến trái tim” (Heart to Heart) thuốc men, trang bị trị giá 4 triệu USD theo giá phía viện trợ thông báo, hơn 1 triệu USD theo giá thẩm định của nhà trường.

Trong việc hợp tác với Nhật Bản, nhà trường đã cử nhiều cán bộ đi học tập tại nước bạn và thông qua chương trình của Trường Đại học Aichigakuin, Nhật bản tiếp tục viện trợ trang thiết bị cho khoa Răng Hàm Mặt để nâng cao chất lượng điều trị và giảng dạy. Chương trình hợp tác với bệnh viện Miako đã cử người sang Nhật Bản học và chuẩn bị cho bệnh viện Miako - Việt Nam hoạt động.

Trao đổi, đào tạo cán bộ giữa nhà trường và các trường đại học của úc, đã cử một số cán bộ sang học tập tại úc và chuẩn bị đón nhận một số cán bộ và sinh viên úc sang công tác và thực tập tại trường.

Cũng trong năm học này, trường ta tiếp nhận sinh viên từ nhiều nước trên thế giới sang thực tập tại trường như: Pháp, Bỉ, Anh quốc....

Tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực, đặc biệt là Thai Lan, Philippin, Singapore, cử cán bộ nhà trường sang học tập tại các nước trong khu vực. Tổ chức các đoàn thăm quan và làm việc về công tác đào tạo cao học tại các nước trên.

Ngoài ra, nhà trường còn tiếp đón hơn 100 đoàn khách quốc tế đến thăm và tìm hiểu để hợp tác với trường, mở ra nhiều cơ hội hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế trong lĩnh vực y tế và giáo dục trong thời gian trước mắt và sau này.

Xây dựng cơ sở vật chất

Thập kỷ 80, việc xây dựng cơ sở vật chất của trường dường như đình trệ, sau đó có khá hơn. Tuy nhiên, dịp kỷ niệm 90 năm thành lập trường, báo chí vẫn rất ngạc nhiên khi thấy sau 30 năm mà một trường trọng điểm quốc gia chưa xây dựng xong cơ sở hạ tầng theo thiết kế từ thập niên 60.

Từ năm học 1993-1994, tiến độ và chất lượng xây dựng đều cao hơn hẳn giai đoạn trước. Khu Khương Thượng của trường đã hình thành hai khu riêng biệt: khu làm việc và khu nhà ở (sinh viên và gia đình viên chức), chấm dứt tình trạng lẫn lộn kéo dài suốt hơn 30 năm. Khu vực Lê thánh Tông và viện Giải phẫu đều có sự chỉnh trang theo nhu cầu. Đã cải tạo và nâng cấp nhà E5, B1, E1, E2. Khu giảng đường mới (B3) đã hoàn thành, đảm bảo đủ chỗ học cho mọi đối tượng, với trang bị nghe nhìn đầy đủ - sẽ tạo điều kiện thuận lợi áp dụng phương pháp Dạy-Học tích cực (dạy nhóm nhỏ).

Các điều kiện ăn, ở, sinh hoạt của sinh viên đã được cải thiện một bước lớn - và càng lớn nếu họ hỏi lại các thế hệ cha anh đã sống thế nào ở ký túc xá hồi chống Mỹ, bao cấp và giai đoạn đất nước suy thoái sau 1975.

Nhà ăn và CLB sinh viên đã đủ sức thu hút các bạn trẻ. Điều thú vị là nhiều đám cưới trong và ngoài trường đã được tổ chức ở đây, kể cả khâu dặt tiệc.

Về xây dựng, nâng cấp ký túc xá, nhà ăn và tạo nhiều tiện nghi sinh hoạt khác cho sinh viên một mặt là do có kinh phí nhưng mặt quan trọng hơn là xuất phát từ quan điểm nếu sinh viên được tôn trọng, chăm sóc, thương yêu thì họ sẽ trở thành những người yêu trường, yêu kính thầy cô và có lòng nhân ái hơn - và đó là nền tảng của y đức theo quan hệ nhân quả. Sự “hạch toán” theo quan điểm thủ lợi với sinh viên sẽ tạo cho họ tư tưởng sẽ “hạch toán” lại với cộng đồng và bệnh nhân mà họ sẽ phục vụ sau này.

Vài nét về đời sống

Lương của trí thức cao cấp ngành Y vẫn không thể đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần - đang tăng lên rất cao - khi đất nước bước vào thế kỷ XXI; do vậy các viên chức khác của trường càng gặp nhiều khó khăn. Công tác đời sống vẫn là mối quan tâm của các nhà quản lý cũng như của toàn trường.

- Xưởng sản xuất thuốc Philatốp sau một thời gian phát huy tác dụng rất đáng kể, nay đến lúc sản phẩm khó tiêu thụ (tác dụng tâm lý nhiều hơn tác dụng thực có); mặt khác, trường đại học Y có một xưởng sản xuất kinh doanh là điều không phù hợp với cơ chế mới. Sau khi chuyển xưởng ra khỏi trường, cần phải mở dụng các nguồn thu khác và tìm nguồn thu mới. Khu lớp học hồi chống Mỹ (nhà cấp 4) không còn thích hợp với trường, nhưng lại thích hợp với trường Đông Đô, do vậy sự hợp tác hai bên đều có lợi đã đưa lại cho trường khoản tiến đáng kể trong thời gian vài năm qua. Trường cũng tổ chức các dịch vụ mới như gửi xe qua đêm, khoán trông xe hàng ngày... Nhưng đáng kể nhất là tổ chức dịch vụ khám chữa bệnh, vừa phục vụ xã hội với trình độ và thái độ đều cao, vừa phù hợp với nghề nghiệp đặc trưng của thầy và trò.

Nhờ vậy, trường vẫn giữ vững trong nhiều năm mức thu phúc lợi để chia tặng cho thầy cô và viên chức toàn trường, vào các dịp lễ lớn.

Các chăm sóc về đời sống tinh thần như hiếu hỷ, thăm hỏi ốm đau, kể cả với cán bộ nghỉ hưu vẫn được duy trì thường xuyên và chu đáo.

Dịp kỷ niệm 90 năm thành lập trường và 50 năm trường phục vụ cách mạng các cụ về hưu khi về họp, được đối xử ân cần, đã rất xúc động và vui mừng khi thấy sự phát triển của trường. Dịp tết nguyên đán, ngoài họp mặt chung do trường đón tiếp và chúc tế, từng đơn vị đã mời các cụ về họp mặt thân mật và nói về những thay đổi đáng mừng trong năm qua. Năm 2002, vẫn như các năm trước, trường cấp xe xăng và xe cho các cụ tổ chức đi nghỉ mát ở Sầm Sơn.

Đời sống sinh viên cũng được quan tâm đúng mức: nơi ăn ở, điện nước, sinh hoạt, câu lạc bộ, thể thao vui chơi giải trí đã thu hút ngày càng nhiều sinh viên. Cảnh quan trường ngày một khang trang và sạch đẹp cũng góp phần nâng cao lòng yêu trường của thâỳ trò.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHỦ YẾU

(a, b, c)
* Bibliographie des Thèses de Médecine - Université de Saigon - 1972
* Các văn bản của trường và văn bản gửi đến trường (từ thời Pháp thuộc, thời kháng chiến chống Pháp và gần đây: bản photocopy lưu ở Ban Tư liệu - Lịch Sử trường Đại Học Y Hà Nội)
*Các văn bản khai thác ở Trung tâm Lưu trữ Quốc gia (bản photocopy lu ở Ban Tư liệu - Lịch Sử, trường Đại Học Y Hà Nội)
* Đinh Xuân Lâm (chủ biên), và nhiều tác giả. Đại học tổng hợp (lược sử), 1991.
* (Henri Galliard: Yersin và việc thành lập trường Y Hà Nội - Kỷ yếu trường Đại học Y Dược khoa Đông Dơng, Hà Nội.- Tập 9.- 1944, tr 1).
* Hồi ký viết tay và phỏng vấn ghi âm của các thầy trường Y (Hồ Đắc Di, Vũ Công Hoè, Vưu Hữu Chánh): Đặng Vũ Viêm và Trương Văn Hợi thực hiện
* Hồi ký viết tay và phỏng vấn ghi âm của các vị cựu sinh viên Y và Dược thời kỳ chống Pháp (Nguyễn Xuân Ty, Nguyễn Dương Quang, Nguyễn văn Nhân, Nguyễn văn Âu, Nguyễn Bửu Triều, Phạm Văn Phúc, Nguyễn Hữu Thiệu, Nguyễn Văn Bảy..., từ khoá vào trường năm 1943 đến 1952).
* Hồi ký viết tay của các vị cựu sinh viên Nguyễn Văn Vân, Đặng Kim Châu, Nguyễn Thường Xuân, Nguyễn Như Bằng, Đỗ Bá Hiển
* Lamb H.B.: The Vietnam's will to live.- Ncew York, 1972
* Lê Văn Khải. Truyện y sỹ, Truyện y khoa (hồi ký) 1971
* Nguyễn Dương Quang và cộng sự. Sơ lược lịch sử 90 năm Bệnh viện Hữu nghị Việt-Đức Hà Nội. Nhà Xuất bản Y Học, 1996.
*Nguyễn Bắc. Giữa thành phố bị chiếm - Nhà xuất bản Hà Nội 1994
* Nguyễn Ngọc Lanh, Trương Văn Hợi, Đặng Vũ Viêm. Sơ thảo lịch sử 50 đại học Y khoa Hà Nội (1945-1995; lưu hành nội bộ).
* Nhiều tác giả. Các sách về Cuộc đời và sự nghiệp (các vị: Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước, Đặng Văn Ngữ, Đỗ Xuân Hợp). Nhà xuất bản Y học. 1999 -2000
* Nhiều tác giả. Sơ lược lịch sử y tế Việt Nam - Nhà xuất bản Y học - 1999
* Nhiều tác giả. 45 năm phục vụ chiến đấu xây dựng và trưởng thành - Quân Y Viện 103
* Nhiều tác giả. Alexandre Yersin: Un demi-siècle au Vietnam. Hanoi (seminaire sur A. Yersin, Nha Trang ), 1992.
* Nhiều tác giả. Sơ thảo lịch sử trường Đại học Dược khoa.
* Phỏng vấn ghi âm nhóm cựu sinh viên kháng chiến năm 1950 - 1954 (Trần Quán Anh thực hiện)
*Tôn Thất Tùng (Hồi ký). Đường vào khoa học của tôi. NXB Thanh Niên, 1973)
* Trường Y Dược toàn cấp Đông Dương - L'Ecole de plein exercice de Médecine et de Pharmacie de l'Indochine.- Nha Học chính Đông Dương xuất bản.- Hà Nội, 1931)
* Tạp chí hàng năm của trường Đại học Y Dược (Annales các năm 1940-1944)
* Tôn Thất Tùng, cuộc đời và sự nghiệp - NXB Y Học, 1997).
* Việt Nam Dân Quốc Công Báo (tiếng Việt, các số 1945 và 1946) và Journal officiel de l’ Indochine francaise (các số 1902, và các số sau đó)
* Võ Nguyên Giáp. Chiến đấu trong vòng vây. NXB QĐND, 1998

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen