Thoạt đầu tôi định chỉ
viết một lời bình sau khi đọc “Thời thanh niên sôi nổi” của chị Đoan Trang trên
ĐCV, nhưng e rằng sẽ không đủ ý, đành viết bài này vậy.
Tôi là một gã Bắc kỳ.
Từ lớp vỡ lòng đến đại học tôi được học dưới cái gọi là “mái trường XHCN”. Anh
tôi là một bộ đội phục viên. Cháu ruột là đại tá trung đoàn trưởng trung đoàn bộ
binh đang tại chức. Tôi đi nghĩa vụ quân sự 3 năm, mang quân hàm trung úy, chức
đại đội phó, có tham gia một vài trận đánh ở chiến trường Campuchia.
Dài dòng một chút để các
bạn hiểu: tôi không liên hệ gì đến Việt Nam Cộng Hòa. Tôi không hận thù, không
chống cộng. Tôi chỉ muốn được chia sẻ chút suy nghĩ của mình trước những thậm từ
mà thiên hạ đang sử dụng để tung hô tướng Giáp: “mãi mãi là một biểu tượng sống
động của trí tuệ”; “Thiên tài quân sự”; “Đại trí, đại nhân, đại dũng”; “Vị tướng
huyền thoại”; “Nhà quân sự lỗi lạc nhất của mọi thời đại”; “Một nhân cách lớn”.
Có thiệt vậy không?
Những Điều Tận Mắt
Khoảng đầu năm 1983,
ông Giáp đến thăm một trường đại học. Khi đó ông đã thôi chức Bộ trưởng quốc
phòng, đang là Trưởng ban sinh đẻ có kế hoạch. Tôi thấy ông vẫn mặc quân phục,
mang quân hàm đại tướng. Bọn sinh viên chúng tôi đang ở tuổi trên dưới 20, rất
ngưỡng mộ ông, kéo đến nghe ông nói chuyện. Không ngờ những bài phát biểu của
ông rất nhạt, chung chung, vô thưởng vô phạt, với những sáo ngữ mòn cũ, giáo điều
thường thấy trong các nghị quyết của chi bộ, chi đoàn như là Đảng ta, nhân dân
ta anh hùng, quân đội ta anh dũng, thực hiện di chúc thiêng liêng của Bác Hồ,
quyết tâm, vượt mức, lập thành tích, quán triệt, phát huy,…
Không có gì sắc sảo, mới
lạ. Màng nhĩ của tụi tôi bấy giờ đã khá quen với những ý tưởng và ngôn từ của
các giáo sư đại học thời Tây còn lại, hoặc những vị cỡ như Bùi Tín nói về thời
sự quốc tế, Trần Quốc Vượng nói về Hà nội học, hay Xuân Diệu bình thơ. Vì thế
nghe tướng Giáp nói xong chúng tôi thất vọng quá. Sau này tôi lại thấy mỗi khi
đi thăm các cơ sở, ông Giáp đều bắt đầu lời phát biểu kiểu như: Thay mặt đ/c Lê
Duẩn uỷ viên BCT tổng bí thư…, đ/c Trường Chinh ủy viên BCT chủ tịch hội đồng
nhà nước…, đ/c Phạm Văn Đồng ủy viên BCT, chủ tịch hội đồng chính phủ, và các
đ/c khác trong trung ương… tôi xin gởi lời thăm đến các đồng chí…
Thì ra ở đâu ông cũng
ăn nói na ná như nhau.
Ngày 30 – 4 -1995, kỷ
niệm 20 năm ngày giải phóng miền Nam. Năm chẵn, nên tổ chức rất hoành tráng ở
t/p HCM. Truyền hình Mỹ chiếu trực tiếp lễ duyệt binh, có phần phỏng vấn tướng
Giáp và tướng Westmoreland. Ý họ là để cho hai vị tướng đã từng đối đầu ở chiến
trường có dịp trò chuyện với nhau. Sau lời phát biểu khá khiêm tốn của tướng
Westmoreland, đến lượt tướng Giáp – ông nói đại ý rằng chúng tôi vô cùng tự hào
vì Việt Nam là một thuộc địa nhỏ bé nhưng đã đánh thắng được hai đế quốc đầu sỏ
là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Một thiên tài quân sự,
một chính khách lỗi lạc, một nhà ngoại giao tài ba, mà lại phát biểu như vậy
sao. Tôi tự hỏi.
Từ Cây Đa Tân Trào đến
Cây Đa Nhà Bò
Ngày 22-11-1944, ông
Giáp cùng với 34 chiến sĩ đã qua một cơn chuyển dạ đớn đau, rồi sinh hạ QĐNDVN
duới gốc đa Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang. Đến tháng 5-1948, tức 3 năm rưỡi sau,
ông Giáp được ông Hồ Chí Minh phong cho chức Đại tướng. Khi ấy ông Giáp mới 37
tuổi. Riêng điều này thì “huyền thoại” thiệt. Cả thế giới đến nay mới xuất hiện
hai đại tướng được phong vượt 17 cấp bậc như thế! Ông Giáp ở Bắc Việt Nam, và
Kim Jong-un ở Bắc Triều Tiên! Từ đó người ta gọi ông Giáp là “tướng Giáp”. Ông
giữ những chức vụ: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng, Tổng tư lệnh QĐNDVN cho đến năm 1982.
Vào cuối thâp kỷ 60,
trước và sau khi ông Hồ chết, nội bộ ĐCSVN xảy ra “Vụ Án Xét Lại Chống Đảng” do
Lê Duẩn và Lê Đức Thọ phát động. Ông Giáp trở thành đích ngắm của vụ án, nhưng
ông lại không bị đánh trực tiếp, mà đòn hiểm lại nhằm vào những người đồng chí trung
thành của ông ở chiến dịch Điện Biên Phủ: Thượng tướng Chu Văn Tấn tư lệnh Quân
Khu Việt Bắc, Thiếu tướng Đặng Kim Giang chỉ huy hệ thống hậu cần, Tướng Lê
Liêm một ủy viên đảng ủy, Trung tướng Trần Độ chỉ huy đại đoàn 312, mũi tấn
công chính vào sở chỉ huy Pháp, và là người tiếp nhận sự đầu hàng của tướng de
Castries, Đại tá Đỗ Đức Kiên cục trưởng tác chiến, Đại tá Phạm Quế Dương, ông
Hoàng Minh Chính , và nhiều người khác nữa. Tất cả bị vu cáo cùng một tội “chống
đảng, xét lại, làm gián điệp cho nước ngoài”. Điều trớ trêu là tướng Giáp biết
rõ là ngụy tạo, nhưng ông không bao giờ mở miệng, hoặc có một động thái nào để
bảo vệ, hay giúp đỡ những người bạn cũ đang bị đối xử rất tàn ác.
Đại hội Đảng V – 1982,
ông Giáp bị đưa ra khỏi bộ chính trị, mất chức bộ trưởng bộ quốc phòng, và được
“phân công” về làm trưởng ban sinh đẻ có kế hoạch. Thực chất đây là một vụ cách
chức, hay nói trắng ra là ông Lê Đức Thọ đã hạ nhục ông Giáp một cách không
thương tiếc. Ông Giáp vẫn không có một hành động gì dù nhỏ nhất như là từ chức,
xin về hưu để tỏ thái độ, và giữ gìn khí tiết của một người làm tướng. Ông tỏ
ra như một đứa con ngoan vâng lời cha mẹ. Dân Bắc kỳ phải ngán ngẩm mà than rằng:
“Xưa làm bộ trưởng quốc
phòng
Nay làm bộ trưởng đặt
vòng tránh thai”
Hay:
“Bác Hồ nằm ở trong
lăng,
Nhiều hôm bác bỗng
nghiến răng, giật mình
Rằng giờ chúng nó linh
tinh
Tuổi tên của mình
chúng ném xuống ao
Ao nào thì có ra ao
Cái tròn cái méo, cái
nào cũng sâu
Hỏi rằng tướng Giáp đi
đâu
Dạ thưa tướng Giáp… lo
khâu đặt vòng.”
Một bài vè khác thì chẳng
còn úp mở gì:
“Ngày xưa đại tướng cầm
quân
Ngày nay đại tướng cầm
quần chị em
Ngày xưa đại tướng
công đồn
Ngày nay đại tướng
công l… chị em.”
Khi hai ông Duẩn – Thọ
về thăm Bác, tưởng rằng vòng kim cô trên đầu tướng Giáp sẽ được gỡ ra. Nhưng
không, nó còn bị siết chặt hơn bởi một cặp bài trùng mới: Đỗ Mười – Lê Đức Anh
(được biết đến là MA, viết tắt từ Mười – Anh). MA đã giáng một đòn trực tiếp
vào ông Giáp với một bản cáo trạng gồm 8 tội danh:
1. Ông Giáp từng là
con nuôi của chánh sở mật thám Đông Dương, Louis Marty.
2. Ông Giáp cầm đầu vụ
án Xét Lại Chống Đảng từ năm 1957-1958.
3. Ông Giáp bán bí mật
quân sự cho Đại Sứ Liên Xô Serbakov.
4. Trong chiến dịch Điện
Biên Phủ, ông Giáp hèn nhát, sợ chết quanh quẩn trong hầm, không dám ra ngoài.
Nguyễn Chí Thanh mới chính là người chỉ huy chiến dịch.
5. Ông Giáp nhận định
tình hình kém, vội vàng giải tán 80.000 quân, để khi Pháp – Mỹ trở lại thì
không có đủ quân chống đỡ.
6. Tết Mậu Thân 1968
ông Giáp nhận định rằng Mỹ sẽ dùng bom nguyên tử đánh Hà Nội, nên xin đi nghỉ ở
Moscow để lánh nạn.
7. Ông Giáp hèn nhát,
sợ B-52 của Mỹ rải thảm, nên không đi B (chưa bao giờ dám đặt chân vào chiến
trường miền Nam trước 1975).
8. Ông Giáp đã có vợ,
nhưng lại ăn nằm với một phụ nữ đã có chồng. Cô này đến nhà riêng ông Giáp dạy
đàn piano.
Đỗ Mười kết luận phải
khai trừ ông Giáp ra khỏi ĐCSVN. Lê Đức Anh nương tay hơn, chỉ gạt ông Giáp ra
khỏi ghế “ủy viên trung ương” – một vị trí an ủi mà thời Lê Duẩn – Lê Đức Thọ vẫn
còn bố thí cho ông.
Người ta ví von rằng
trận đòn mà MA đánh ông Giáp cũng giống như trận đòn mà Đặng Trần Thường đánh
Ngô Thì Nhậm ở Quốc Tử Giám cách đây 200 năm. MA đánh Giáp bằng những tội danh
rất hiểm. Thường đánh Nhậm bằng roi tẩm thuốc độc. Nhậm đau lắm nhưng vẫn đối
đáp khí khái, ăn miếng trả miếng, bảo vệ được thanh danh, để lại tiếng thơm cho
đời sau. Còn tướng Giáp thì vẫn nhũn như con chi chi, nhịn nhục, không dám nói
năng gì. Có phải lòng kiêu hãnh của một vị đại tướng đã thành gỗ đá, không bao
giờ bị thương tổn?
Có người lại bảo ông Giáp
phục kích, chờ cơ hội. Đúng, ông Giáp đã chờ cho đến khi cả hai ông MA đã vào
tuổi 90, sức khỏe cạn, quyền lực hết, không còn ảnh hưởng nhiều đến phong cảnh
chính trị Việt nam thì ông Giáp mới dám mở miệng để đòi lại danh dự. Tiếc thay,
tướng Giáp chỉ đòi công lý cho cá nhân ông, còn những đồng đội trung thành của
ông ở Điện Biên Phủ ông chẳng hề bận tâm.
Dân Hà nội thì đàm tiếu
rằng con đường tòng chính của tướng Giáp đầy gian nan vất vả, ông đã hành quân
qua một chặng đường dài từ Cây Đa Tân Trào đến Cây Đa Nhà Bò. Cây Đa Nhà Bò là
một trạm hộ sinh nằm trên phố Lò Đúc, Hà Nội, dành cho những phụ nữ thuộc giới
bình dân, chuyên đỡ đẻ, nạo phá thai, khám phụ khoa, thông vòi trứng, hút điều
hòa kinh nguyệt, điều trị rong kinh huyết trắng. (Ngẫm ra, dân Hà Thành thâm
thiệt!)
Viết về tướng Giáp mà
không phân tích một trận đánh do ông chỉ huy, thì rất là thiếu sót. Tôi quyết định
chọn trận đánh cuối cùng trong cuộc đời cầm quân của ông. Đó là một cuộc chiến
ngắn ngủi nhưng đẫm máu giữa hai người anh em cùng ý thức hệ cộng sản: Quân Đội
Nhân Dân Việt Nam (QĐND) do tướng Giáp chỉ huy và Hồng Quân Trung Hoa (HQTH) do
tướng Dương Đắc Chí là tư lệnh.
Cuộc chiến Việt –
Trung tháng 2-1979.
QĐND hoàn toàn bị bất
ngờ:
Để trừng phạt Việt
nam, HQTH đã sử dụng 10 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn độc lập, bao gồm
300.000 binh sĩ, 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối, hỏa tiễn, chưa kể
hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 1.700 máy bay phía sau.
Các nguồn tin phương
Tây nhận định rằng HQTH đã mất từ 60 đến 90 ngày để đưa quân vào các vị trí tập
kết sẵn sàng cho các mũi tấn công. Chỉ cần là nhân viên quân báo cấp trung
đoàn, hay các tổ trinh sát đặc biệt cũng nhận ra được ý đồ, và ngày giờ khai hỏa
của đối phương, nói gì đến tình báo chiến lược.
Mờ sáng ngày 17-2-1979,
HQTH tấn công trên toàn tuyến biên giới dài 1.400 Km, trải rộng trong một khoảng
không gian gồm 7 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng
Sơn và Quảng Ninh.
Việt nam hoàn toàn
không hay biết gì. Khi HQTH tràn qua biên giới, thì thủ tướng Phạm Văn
Đồng và đại tướng Văn Tiến Dũng, tổng tham mưu trưởng, đang thăm viếng xứ
Cao Miên. Dân chúng không được thông báo trước, trẻ em, người già, và phụ nữ có
thai, không kịp di tản ra khỏi vùng chiến địa. HQTH đã tạo ra được một yếu tố bất
ngờ đến ngọan mục. Không hiểu tướng Giáp biện minh thế nào cho việc không hay
biết gì về giờ nổ súng của đối phương.
Thất bại về tình báo
và nhận định tình hình:
Tháng 11-1978, Đặng
Tiểu Bình công du Thái Lan , Malaysia và Singapore. Đặng nói với các
vị chủ nhà rằng Trung Quốc sẽ dùng vũ lực nếu Việt Nam tấn công
Campuchia. Đặng đã gọi Việt Nam là những tên du côn của phương Đông, phải dạy
cho chúng một bài học. Có lẽ vì lời của Đặng quá khiếm nhã, báo chí Trung Quốc
chỉ dùng nửa sau của câu nói.
Ngày 28-1-1979, Đặng
thăm Mỹ, và tuyên bố “Chúng tôi không thể cho phép Việt Nam gây rối loạn khắp
nơi”, “ Trung Quốc kiên định đứng về phía Campuchia phản đối bọn xâm lược Việt
Nam”. Giọng điệu chiến tranh của Đặng rất rõ. Báo chí Mỹ loan tải sớm muộn gì
thì một cuộc chiến giữa hai nước cộng sản sẽ nổ ra.
Sau 3 ngày thăm Mỹ, Đặng
đến Nhật. Tại đây, Đặng vẫn giọng điệu hung hăng “để trừng phạt Việt nam, dù có
gặp những nguy hiểm cũng phải hành động”; “không trừng phạt kẻ xâm lược, sẽ tạo
ra những nguy hiểm phản ứng dây chuyền”, “Đối phó với loại người vô ơn như thế,
không có những bài học cần thiết thì e rằng các hình thức khác đều không có hiệu
quả”. Các nhà ngoại giao Nhật ngạc nhiên vì lời lẽ và thái độ phi ngoại giao của
Đặng.
Cũng khoảng thời gian
này, TASS – hãng thông tấn của Liên Xô cũng đưa tin một lực lượng rất lớn quân
đội Trung Quốc đang áp sát biên giới Việt–Trung.
Từ Nhật về, Đặng chỉ
thị tấn công Việt Nam vào ngày 17-2. Thời gian của chiến dịch không dài hơn cuộc
chiến một tháng với Ấn Độ (1962); không gian của cuộc chiến sẽ tiến hành
một cách hạn chế, trong phạm vi trên duới 50 cây số từ biên giới.
Bằng chứng Đặng sẽ trừng
phạt Việt nam đã rõ như ban ngày, nhưng không hiểu vì sao phía Việt Nam tin rằng
Trung Quốc là một nước XHCN anh em, và nhân dân Trung Quốc yêu chuộng hòa bình,
sẽ không ủng hộ chiến tranh. Trung Quốc sẽ không tấn công, hoặc nếu có thì chỉ
từ cấp sư đoàn đổ lại.
Thiếu tin tình báo, nhận
định và phân tích tình hình sai, không nắm được thời điểm nổ súng, thời gian,
không gian, và quy mô chiến dịch của đối phương, đã dẫn đến việc tướng Giáp
không hề bố trí những quân đoàn chủ lực dọc biên giới. Tất cả phó thác cho dân
quân tự vệ, bộ đội địa phương, và một vài trung đoàn độc lập.
Một thất bại về chiến
thuật:
Kế hoạch hành quân
của Trung Quốc chia làm 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1: từ 17-2
đến 25-2, phá vỡ hàng phòng thủ đầu tiên của Việt Nam, làm chủ thị xã
Cao Bằng, Lào Cai, và hai thị trấn Cam Đường và Đồng Đăng, để mở đường cho
cuộc tấn công vào Lạng Sơn.
Giai đoạn 2: từ 26-2
đến 5-3, chiếm được thành phố Lạng Sơn, và hai thị trấn Sa Pa va Phong Thổ.
Giai đoạn 3: từ 5-3 đến
16-3, bình định và phá hủy các căn cứ quân sự ở khu vực biên giới,
trước khi rút về.
Ngày 21 tháng 2, khi
chiến dịch đang diễn ra rất ác liệt, tuần dương hạm Sverdlov và khu trục hạm
Krivak của Liên Xô đã tiến về bờ biển Việt nam. Cầu hàng không của Liên Xô giúp
Việt Nam chở quân và vũ khí ra Bắc. Hai chuyến bay đặc biệt của Liên Xô và
Bulgaria đã chở vũ khí tới Hà Nội.
Trước tình hình đó
ngày 23-2-1979, Đặng sợ Liên Xô nhúng tay, nên lên tiếng về “cuộc chiến sẽ giới
hạn trong vòng 50 km , và sẽ rút quân trong 10 ngày tới. Rõ ràng Trung Quốc
không có ý định tấn công vào Hà nội. Họ chỉ ba hoa rằng “ăn sáng ở Lạng Sơn và
ăn tối ở Hà Nội.”
Việt Nam lại tin rằng
cuộc chiến sẽ kéo dài, và Hà nội sẽ bị tấn công. Từ nhận định sai lầm này mà dẫn
đến việc dồn hết công sức, và tâm trí vào việc xây dựng “Phòng Tuyến Sông Cầu”,
để cố thủ Hà nôi. 7 tỉnh biên giới gần như bị bỏ ngỏ, phải tự chiến đấu trong
tuyệt vọng, tự gánh vác lấy sức nặng của cuộc chiến, không được chi viện. Trận
chiến tại Đồng Đăng là một thí dụ:
Đồng Đăng là một thị
xã nằm sát biên giới Việt-Trung, cách thành phố Lạng Sơn 14 Km về phía Đông
Nam. Trận đánh bắt đầu sáng 17-2 và là trận ác liệt nhất. Đây là trận địa phòng
thủ của Trung đoàn 12 Tây Sơn, thuộc sư đoàn Sao Vàng, QĐND. Phía Trung Quốc
dùng 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng, và chi viện của 6 trung đoàn pháo
binh, (Tương quan lực lượng là khoảng 10 đánh 1). Pháo đài Đồng Đăng tạo thế
chân kiềng bảo vệ phía Tây Nam thị xã, (Pháo đài này được Pháp xây dựng rất
kiên cố, vì ở đây đã diễn ra khá nhiều va chạm đẫm máu giữa Pháp và nhà Thanh
trước đây). Việt nam chỉ có 2 tiểu đoàn trấn giữ, bị Trung Quốc bao vây và tấn
công dồn dập ngay từ đầu với lực lượng cấp sư đoàn. Lực lượng phòng thủ không hề
được chi viện nhưng đã chiến đấu đến những người cuối cùng, trụ được 22 ngày
đêm. Cuối cùng HQTH cũng đã làm chủ được khu vực bên ngoài Pháo Đài, nhưng
Trung Quốc không gọi được đối phương cố thủ bên trong ra đầu hàng. Trung Quốc
chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, phun chất
độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả thương binh cũng như dân quanh vùng
đến đây lánh nạn. Khi chiếm được Pháo đài Đồng Đăng, HQTH đã dùng 10 tấn thuốc
nổ để phá hệ thống cố thủ này.
Việt Nam lúc đó đã có
ít nhất 5 sư đoàn đang ở miền Bắc, trong đó có sư 308 – là một sư đoàn thiện
chiến đã từng đánh ở Điện Biên Phủ và Khe Sanh. Nếu 5 sư đoàn này được tham chiến
vào buổi bình minh của cuộc chiến thì tình thế sẽ hoàn toàn có lợi cho phía
QĐND. HQTH không thể tiến sâu vào lãnh thổ VN, không thể làm chủ được thời
gian, không thể đạt được những những mục tiêu như họ muốn, và họ sẽ không có lý
do gì để tuyên bố là “Chiến Thắng”. Đây là một sai lầm mang tính chiến thuật mà
tướng Giáp và bộ tổng tham mưu của QĐND phải chịu trách nhiệm.
Một kết thúc mập mờ dẫn
đến một sai lầm chiến lược:
Sau những ngày chiến đấu
ngoan cường nhưng đơn độc của sư đoàn Sao Vàng trước một đối phương áp đảo về số
lượng và hỏa lực, ngày 4-3-1979, Lạng Sơn thất thủ.
Sáng 5-3, Trung Quốc
tuyên bố đã hoàn thành mục tiêu của cuộc trừng phạt, chiến thắng vẻ vang, và
quyết định rút quân.
Cùng ngày 5-3, Việt
nam phát lệnh “Tổng Động Viên”. Những quân đoàn chủ lực của QĐND có xe tăng,
pháo binh, và không quân từ chiến trường Campuchia trở về, cùng với một địa
hình muôn vàn hiểm trở của núi rừng miền Bắc, Việt Nam đã vào vị trí vây hãm
HQTH. Tất cả đã sẵn sàng cho cuộc phản kích, mà phần thắng sẽ thuộc về tay
QĐND.
Nhưng tiếc thay, Việt
Nam lại tuyên bố “Thiện Chí Hòa Bình”, rằng truyền thống ông cha ta… rằng lòng
cao thượng… rằng lòng nhân đạo của dân tộc ta …, Việt Nam sẽ để cho HQTH rút quân
an toàn.
Sự thực trên đường rút
quân, HQTH vẫn chém giết, vơ vét, và phá hoại. Vụ thảm sát ngày 9 tháng 3 tại Đổng
Chú, huyện Hòa An, Cao Bằng là một thí dụ. HQTH đã dùng búa, dao giết 43 người,
gồm 21 phụ nữ trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, 20 trẻ em, và 2 người đàn
ông, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc vứt hai bên bờ suối. HQTH
có đủ thời gian và không gian để phá hoại hạ tầng cơ sở, chiếm giữ những điểm
cao quan trọng, và gài lại hàng triệu trái mìn cá nhân trên đường rút lui.
QĐND đã không tổ chức
những trận đánh cấp tập, vu hồi, tạt sườn trên đường rút quân của HQTH. Kết
thúc cuộc chiến một cách mập mờ, nửa vời, đánh rắn giữa khúc, nửa nạc nửa mỡ.
HQTH coi thường ý chí và kinh nghiệm chiến đấu của QĐND, và còn mỉa mai rằng
chưa được “vuốt râu cọp”. Họ không tôn trọng danh tiếng của một đạo quân thiện
chiến.
Quyết định “Thiện Chí
Hòa Bình” của Việt Nam hình như là một thái độ thủ hòa, nhưng hòa vào một thế
vô cùng bất lợi. Từ đó, trong bất kỳ những cuộc thương thảo nào về biên giới, Trung
Quốc luôn ở thế kẻ cả, áp đảo, và lấn lướt mà chúng ta thấy rất rõ. Đây là hệ
luỵ từ sai lầm mang tính chiến lược do tướng Giáp và Bộ tổng tham mưu gây ra.
“Anh Đặng”
Đặng Tiểu Bình là người
đã phát động cuộc chiến đẫm máu, man rợ, gây ra bao nhiêu đau thương và dẫn đến
những hệ lụy cho đất nước Việt Nam nhiều năm sau đó. Đặng đã từng gọi lãnh đạo
của Việt Nam là “những thằng du côn của phương Đông”, “lũ tiểu bá”, “đám vô ơn,
bội bạc”. Thế mà 10 năm sau, khi những vết thương trên thân mình Tổ Quốc vẫn
còn đang chảy máu, ngày 3-9-1990, ba ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng
bí mật đến Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, hy vọng được yết kiến Đặng Tiểu Bình. Đặng
không gặp, để cho hai đàn em Giang Trạch Dân và Lý Bằng tiếp. Cả ba ông Linh,
Mười, Đồng rất tiếc vì đã không gặp được “anh Đặng”. Ông Võ Văn Kiệt ở nhà cũng
tiếc hùi hụi, phàn nàn rằng “nếu có anh Đặng, thì anh Tô (Đồng) mới nên đi. ”
Kẻ tử thù của của nhân
dân Việt nam, nay được các nhà lãnh đạo Việt Nam gọi bằng “ANH” thân thiết qúa.
Cũng khoảng thời gian
đó, tướng Giáp đến thăm Trung Quốc, và xin được gặp tướng Dương Đắc Chí – tổng
tư lệnh trong cuộc chiến biên giới với Việt Nam năm 1979. Nhưng Dương tướng
quân từ chối, nói: “Đời nào tôi lại gặp ông ta. Mộ của các cán bộ chiến sĩ vẫn
còn chưa xanh cỏ!”
Chỉ vài thông tin để
các bạn thấy được cái gọi là “Đại trí, Đại nhân, Đại dũng” của những lãnh tụ cộng
sản Việt Nam, trong đó có Đại Tướng Võ Nguyên Giáp.
(Trong bài này tôi có
tham khảo tài liệu của các tác giả Bùi Tín, Trần Quang Cơ, Trần Vũ, và Bharat
Raksha và trang mạng Talawas. Tôi cảm ơn các tác giả kể trên).
Tháng 3, 2011
Trần Hồng Tâm
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen