Montag, 16. Dezember 2013

Đồng bằng sông Cửu Long

 Môi trường và hệ thống sông rạch thiên nhiên

Trần Đăng Hồng, PhD

ĐỒNG BẰNG CỬU LONG
Châu thổ Cửu Long (Mekong delta) bắt đầu từ Kratie và Nam Vang (Phnom Penh) của Campuchia và tận cùng là Biển Đông và Biển Tây, có hình tam giác (tam giác châu – delta), do phù sa của Sông Cửu Long bồi đắp, với diện tích tổng cộng khoảng 55,000 km2. Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam (ĐBCLVN) chiếm 39,734 km2  (72.2%). Sở dỉ người Việt gọi “Cửu Long”, vì khi đến Biển Đông, hai nhánh chánh của sông trước 1970 chảy ra biển theo 9 cửa, nhánh Sông Tiền có 6 cửa (Cửa Tiểu, Cửa Đại, Cửa Ba Lai, Cửa Hàm Luông, Cửa Cổ Chiên và cửa Cung Hầu) và nhánh sông Hậu có 3 cửa (Cửa Tranh Đề, Cửa Định An và Cửa Ba Thắc), nhưng Cửa Ba Thắc đã bị đất bồi lấp từ khoảng thập niên 1970 nên nay chỉ cỏn 8 cửa.
Sự thành hình đồng bằng Cửu Long
Vào cuối thời Tân Sinh (Kainozoi), do hoạt động kiến tạo của vỏ trái đất, có chổ được nâng lên, có chổ bị sụp xuống. Phần đất ở Nam Trung Việt và Đông Campuchia được nâng lên, kẹp ở giữa là vùng trủng bị sụp, tạo thành dòng chảy của sông Mekong và các phụ lưu, mang nhiều phù sa chảy vào Biển Đông, tạo thành lớp nền phù sa Plio-Pleistocen cách nay khoảng 700,000 năm.
Cách đây 9,000 năm, đồng bằng Cửu Long VN chưa được thành lập, còn là vùng biển cạn với rừng ngập mặn, nước biển cao hơn hiện nay 3-4 m, và bờ biển còn ở chân núi Vùng Thất Sơn (14).
Cách đây 8,000 năm, mực nước biển hạ thấp dần, phù sa từ từ lắng đọng trong suốt hơn 2,000 năm, đồng bằng được thành lập, tiến dần ra Biển Đông và Biển Tây (Vịnh Thái Lan).
Cách đây 6,000 năm, nước biển lại dâng cao trong suốt 1,000 năm, rừng ngập mặn bị chôn vùi bởi phù sa tạo thành lớp than bùn ở độ sâu 1-2 m như thấy hiện nay. Đồng thời các giồng duyên hải được thành lập dọc bờ biển, che chắn vùng bên trong là các vùng trủng đầm lầy, Đồng Tháp Mười, U Minh, và vùng Tứ Giác Long Xuyên. Đó là những giồng đất cao và các gò cao chạy song song với biển, từ Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, cho tới Sài Gòn hiện nay.
Cách đây 4,500 năm, nước biển lại hạ thấp, đặc biệt là trong thời gian khoảng 4,000 năm đến 2,700 năm trước đây, phù sa bồi đấp nhiều thêm và đồng bằng tiến thêm ra Biển Đông và Biển Tây. Cách đây 2,700 năm, đồng bằng Cửu Long có hình dạng tương tự ngày nay. Trầm tích phù sa dày khoảng 500 m tại cửa biền, khoảng 30 m tại Kratie. Hàng năm, đất bồi thêm khoảng 150 m ở mủi Cà Mau, tuy nhiên cũng bị xói lở ở nhiều nơi khác.
Cách đây 2,500 năm người Melanesien (Nam Á Hải Đảo) đến định cư ở Đồng bằng Cửu Long. Hải cảng trù phú Óc-eo của quốc gia Phù Nam (thế kỷ 1 – 7) nay là vùng đất liền thuộc xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn (An Giang), trong vùng Tứ Giác Long Xuyên.
Ngày nay, nước biển lại bắt đầu dâng cao.

Độ cao của đồng bằng Cửu Long
Ngoại trừ Thất Sơn là vùng đồi núi cao, đồng bằng Cửu Long có độ cao 0-4 m trên mực nước biển, nhưng không đồng nhất.


Cao độ của ĐBCLVN (tổng hợp nhiều tài liệu – TDH)


Trong đồng bằng, đất hai bên bờ sông Tiền, sông Hậu, và các sông rạch lớn là vùng đất cao 3-4 m trên mực nước biển, đó là các đê thiên nhiên, hay còn gọi đất-giồng-ven-sông, do phù sa sông bồi đắp. Càng xa sông cuộc đất thoai thoải thấp dần. Vùng đất-giồng-ven-sông rộng khoảng 500 m ở mỗi bên bờ sông Tiền và sông Hậu. Các thành phố như Vĩnh Long, Cần Thơ, Cao Lảnh, Long Xuyên, Châu Đốc, v.v. nằm trên các đê thiên nhiên này, không bị ngập lụt. Bên trong là vùng đất thấp, đọng nước, có cao độ 1-2 m trên mực nước biển, tạo các đầm lầy. Vùng xa sông này bị ngập lụt trong mùa mưa.
Nếu tính từ biển trở vào, vùng sát biển chịu ảnh hưởng của thủy triều lên xuống là rừng ngập mặn. Xa bên trong là giồng-cát-duyên-hải có độ cao từ 3-6 m, có chiều rộng khoảng 500-1,000 m, tùy nơi, do phù sa của sóng biển và thủy triều tạo thành. Bên trong các giồng-cát-duyên-hải này đất thoai thoải thấp dần, tạo thành các vùng đầm lầy úng nước, có độ cao 0.5 – 1 m trên mực nước biển. Suốt hơn 6 ngàn năm thành lập, qua các thời kỳ nước biển hạ thấp rồi dâng cao nhiều lần, nhiều giồng-cát-duyên-hải được thành lập, giồng cổ xưa hơn ở bên trong, chạy song song với các giồng duyên hải mới. Các thành phố như Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh nằm trên các giồng duyên hải cổ này.

Phân loại theo độ cao
Vì ảnh hưởng của sự thành hình đê thiên nhiên dọc sông, và nhiều giồng duyên hải, về mặt cao độ ĐBCL có thể chia thành 4 vùng chánh (3):

(1) Vùng đồi núi Thất sơn, chiếm một diện tích nhỏ.
(2) Phù sa châu thổ. Đó là giải đất phù sa dọc hai bên sông Tiền, sông Hậu và các sông rạch lớn khác, tương đối cao, 3-4 m trên mực nước biển, nhưng gần biển thì thấp dần. Thường không bị ngập lụt lâu dài, là vùng trù phú, trồng được cây ăn trái, dân cư đông đúc là nơi có các thành phố và thị trấn. Các cù lao giữa sông cũng thuộc loại đất cao và màu mở. Bến Tre là một cù lao lớn.
(3) Giồng duyên hải, chạy song song với biển, có độ cao 3-6 m, không bị ngập lụt. Các thành phố như Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu nằm trên các giồng duyên hải cổ. Như tại tỉnh Trà Vinh càng về phía biển, các giồng này càng cao và rộng lớn, chẳng hạn vùng có địa hình cao nhất (>4m) gồm các giồng cát phân bố ở Nhị Trường, Long Sơn (Cầu Ngang); Ngọc Biên (Trà Cú); Long Hữu (Duyên Hải) (18).
(4) Vùng trủng có cao độ 0.5 đến 2 m, nằm phía sau giải đất cao dọc sông, hay sau các giồng duyên hải, hay vùng giữa của hai giồng duyên hải. Do sự chia cắt bởi các giồng và hệ thống trục lộ, kinh rạch chằng chịt, địa hình toàn vùng khá phức tạp. Là vùng trủng, khó thoát nước khi có mưa, tạo các đầm lầy.
Trong vùng trủng, tùy theo địa thế và điều kiện thoát nước, có thể phân chia các tiểu vùng:
(i) Tả ngạn sông Tiền, trong đó có Đồng Tháp Mười.
(ii) Vùng trủng giữa hai sông Tiền và sông Hậu.
(iii) Hửu ngạn sông Hậu cho tới Mủi Cà Mau, trong đó có Khu Tứ Giác Long Xuyên và bán đảo Cà Mau gồm U Minh.
(iv) Các vùng trủng nhỏ nằm xen kẻ giữa các giồng trong vùng duyên hải. Như ở tỉnh Trà Vinh, các vùng trũng có độ cao <0.4 m trên mực nước biển tập trung tại các cánh đồng  xã Tập Sơn, Ngãi Xuyên, Ngọc Biên (Trà Cú), Thanh Mỹ (Châu Thành), Mỹ Hòa, Mỹ Long, Hiệp Mỹ (Cầu Ngang), Long Vĩnh (Duyên Hải).
(v) Ngoài ra, vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ Tây, vùng trũng lưu vực sông Cái Lớn - Cái Bé của Kiên Giang,và vùng Nam Mũi Cà Mau là những vùng đất thấp hơn cả, có cao độ từ 0.3 – 0.7 m, luôn ngập do thủy triều cao, do nước mưa nội đồng và nước lũ từ thượng nguồn.

Phân loại theo sinh thái nông nghiệp:
ĐBCLVN có thể chia làm 6 vùng chính:
Vùng phù sa nước ngọt
Vùng duyên hải
Vùng Đồng Tháp Mười
Khu Tứ giác Long Xuyên
Vùng Trủng Ngoại Bassac
Bán đảo Cà Mau


Bản đồ sinh thái nông nghiệp (10)

Đồng Tháp Mười
Đồng Tháp Mười ở tả ngạn sông Tiền, là một vùng đất ngập nước, có diện tích 697,000 ha, trải rộng trên ba tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp, trong đó Long An chiếm non phân nửa. Đồng Tháp Mười là một đồng lụt kín được bao quanh bởi các giồng đất cao ven biên giới Việt Nam – Campuchia, đê tự nhiên dọc sông Tiền và giồng duyên hải cổ dọc vùng Tân Hiệp, Cai Lậy, và chặn lại bởi sông Vàm Cỏ Đông .
Đồng Tháp Mười được tạo thành trong phân đại Đệ Tứ. Quá trình tạo thành hoàn tất sau thời kỳ Hậu Pleistocen cách đây khoảng 8,000 năm. Nền trầm tích Pleistocen với các vật liệu phù sa cổ không đồng đều được phủ lên bằng vật liệu mới của trầm tích Holocen. Do đó, có thể tìm thấy những gò phù sa cổ và những giồng cát cổ nằm chen lẫn giữa cánh đồng phù sa mới (15).
Trong Đồng Tháp Mười, vùng đất dọc theo sông Tiền, dọc các bờ kinh, các gò đất cao, và trục Mỷ Tho – Chợ Lớn có địa hình tương đối cao, ít ngập lụt, là nơi có làng mạc, thị trấn. Đặc biệt, ở Mỹ An, nơi có 3 con sông gặp nhau, có gò đất cao tới 6 m, nơi có ngôi tháp cổ 10 tầng –Tháp Mười- một di tích của thời văn minh Phù Nam.. 
Phần đất còn lại  là một bồn trủng, có độ cao từ 0.5 m đến 3 m. Trong vùng trủng này chỉ có một dòng chảy nhỏ là sông Cái Cót, đổ vào sông Long Khốt lớn hơn. Các sông cùng với kênh rạch quanh năm vận chuyển một dòng nước đục như bùn, chảy chậm. Đây là vùng rừng tràm, cỏ Năng (Eleocharis sp.) và Lác (Cyperus sp.). Khu rừng tràm ngập phèn bị phá hủy nhiều, phân tán, hiện nay còn 46,300 ha.
Vào mùa mưa, cả đồng bằng đều ngập nước. Nước từ sông Tiền, Vàm Cỏ tràn bờ, và từ biên giới Campuchia tràn qua, tạo thành một hồ nước mênh mông. Đây là vùng bị ngập lụt có định kỳ, lụt kéo dài 3-6 tháng, có nơi nước lụt sâu 3 m. Trên mặt hồ đó thỉnh thoảng có những gò đất cao với dân cư đông đúc.
Đất đa số thuộc loại phèn nặng, ngoài ra còn một số ít là loại đất phù sa cổ, đất giồng cổ đất phù sa và phù sa ven sông. Vùng Đồng Tháp Mười có khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen, vườn quốc gia Tràm Chim.

Tứ giác Long Xuyên
Tứ giác Long Xuyên là một vùng đất hình tứ giác, trên địa phận của ba tỉnh Kiên Giang, An Giang và Cần Thơ. Bốn cạnh của tứ giác này là biên giới Việt Nam - Campuchia, vịnh Thái Lan, kênh Cái Sắn và sông Hậu.
Vùng Tứ giác Long Xuyên có diện tích tự nhiên khoảng 489,000 ha. Địa hình trũng, tương đối bằng phẳng với độ cao từ 0.4 đến 2 m trên mực nước biển. Trong mùa lũ, vùng này thường ngập nước với độ sâu từ 0.5 đến 2.5 m. Tương đối dễ thoát nước. Vào mùa khô, vùng này thường khô hạn và bị nước mặn thâm nhập. Đất thuộc loại phèn (19).

Bán đảo Cà Mau
Gồm vùng hửu ngạn sông Hậu cho tới mủi Cà Mau. Đây là vùng đất thấp, địa hình cao ở phía biển (Biển Đông và Biển Tây), thấp dần về phía nội địa, tạo thành các vùng trủng, các đầm lầy, ở phần giữa.
U Minh là một bồn trủng với rừng tràm nửa ngập nước lợ, nằm giữa Cà Mau và Rạch Giá. Trước đây 100 năm, đây là khu rừng tràm nguyên sinh mênh mông, rộng khoảng 190,000 ha, có cây cao 30 m, giới hạn phía bắc bởi sông Cái Lớn (Kiên Giang), phía nam bởi sông Ông Đốc. Sông Cái Tàu và sông Trèm Trẹm chia đôi khu rừng làm hai; phần phía bắc là U Minh Thượng và phần phía nam là U Minh Hạ. Nền đất là than bùn (peat), dày từ 2 đến 5 m, được cấu tạo bởi xác thực vật của rừng bên trên.
            Trước năm 1945, diện tích rừng U Minh Thượng khoảng 142,000 ha; nhưng vào năm 2002 chỉ còn 21,000 ha, trong số này 13,000 ha là vùng rừng đệm và 8,053 ha rừng được bảo vệ. Rừng nguyên sinh thực sự không tới 4,000 ha (11).
Vào năm 2001, rừng U Minh Hạ chỉ còn 39,000 ha, đa số là rừng tái sinh hay mới trồng (11). Một số lớn diện tích rừng tràm đã bị phá hủy để thay thế băng cây keo lai để cung cấp nhà máy bột giấy (21).
Phía Tây U Minh, dọc Biển Tây là một dải rừng sú, vẹt, chạy dài liên tục từ Rạch Giá đến  rừng Đước Cà Mau.
Rừng U Minh phong phú đa dạng sinh học, hiện có 250 loài thực vật, 185 loài chim, 24 loài thú, 18 loài bò sát, 8 loài dơi, 208 loại côn trùng và 34 loài thủy sản.

HỆ THỐNG SÔNG RẠCH THIÊN NHIÊN Ở ĐBCLVN


Hệ thống sông ở DBCL: (1) Sông Tiền; (2) Sông Hậu; (3) Vàm Cỏ Đông; (4) Vàm Cỏ Tây; (5) Mỹ Thanh; (6) Gành Hào; (7) Bạch Ngưu; (8) Sông Cửa Lớn; (9) sông Bảy Háp; (10) sông Đầm Cùng; (11) sông Cái Tàu; (12) sông Trẹm; (13) sông Ông Đốc; (14) Sông Cái Lớn; (15) sông Cái Bé


SÔNG CỬU LONG (MEKONG)

Sông Tiền và sông Hậu

Sông Cửu Long phát nguyên từ Tây Tạng, dài 4,800 km, hạng 12 trên thế giới nếu xếp hạng theo chiều dài, hạng thứ 8 về lưu lượng, có lưu lượng trung bình hàng năm khoảng 475 tỷ m3 nước, vào địa phận Việt nam với lưu lượng 53 tỷ m3 nước (8). Vận tốc chảy trung bình trong lảnh thổ VN là 15,000 m3/giây (tại Tân Châu là 14,200 m3 nước /giây), tối thiểu 2,500 m3/giây trong mùa hạn, tối đa là 40,000 m3/giây trong mùa lủ. Lưu vực sông Cửu Long chiếm 795,000 km2, đứng hạng 21 lưu vực lớn trên thế giới, trong số này Việt Nam chiếm 64,300² km (8 %), xuyên qua 6 quốc gia là Trung Quốc, Miến Điện, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam, nuôi sống 80 triệu dân trong lưu vực, trong số đó là 18 triệu dân Việt ở đồng bằng Cửu Long Việt Nam, cung cấp lương thực cho khoảng 300 triệu dân trên thế giới. Sông Mekong là nơi sinh sống của 1,300 loài cá, trong số này có 600 loài cá di cư cần sống trong nhiều môi trường khác nhau để sinh sản, cung cấp khoảng 1.6-1.8 triệu tấn cá /năm cho toàn khu vực.
Theo Ủy Ban Mekong (Mekong River Commission, 6, 7) thì thành phần cung cấp lưu lượng nước sông Cửu Long có 16 % (15-20%) từ Trung Quốc, 2 % từ Miến Điện, 35 % từ Lào, 18 % từ Thái Lan, 18 % từ Cambodia, và 11 % từ Việt Nam. Đến gần Nam Vang (Phnom Penh), dòng sông chia làm 3 nhánh chánh, nhánh sôngTonle sap nối với Biển Hồ (Great Lake), và hai nhánh kia là Sông Tiền và sông Hậu chảy vào địa phận Việt Nam, trước khi ra Biển Đông.

Sông Cửu Long, Biển Hồ và phần đất ngập lụt



Biển Hồ là nơi tích trữ nước của sông Mekong, phân phối nước ở hạ lưu. Trong mùa khô, Biển Hồ có diện tích nước 3,000 km2, sâu trung bình 1 m, sâu nhất là 3 m. Vào mùa lũ, Biển Hồ sâu 11 m, và diện tích mặt hồ lên 13,000 km2. Trong năm bình thường, từ tháng 6 (khoảng 23/6) nước bắt đầu chảy vào Biển Hồ qua sông Tonle Sap, nước hồ bắt đầu dâng cao, đỉnh cao nhất vào khoảng 7/10, sau đó nước chảy ra, mực nước thấp dần, thấp nhất vào khoảng 3/3. Hồ chứa trung bình khoảng 80 tỷ m3 nước trong vòng 100-120 ngày. Trong số này là 34 tỷ m3 nước do nước mưa trong lưu vực, 46 tỷ m3 nước do từ Mekong chảy vào. Lưu lượng nước chảy vào Biển Hồ thay đổi tùy năm, từ 44.1 km3 (năm 1998) tới 104.8 km3 (năm 2000, năm có lụt lớn) (7).
Tại Biển Hồ, khoảng 12 % nước bốc hơi, 1 % chảy vào kinh rạch quanh hồ, 87 % chảy vào sông Tonle Sap để chảy vào địa phận Việt Nam. Từ tháng 10 đến tháng 5, nước từ Biển Hồ chảy ra sông Tonle Sap, vào sông Hậu (Bassac) và sông Tiền (Mekong) của Việt Nam trước khi ra biển. Biển Hồ cung cấp khoảng 16 % lưu lượng trong mùa khô cho 2 nhánh sông này. Lưu lượng chảy ra khoảng 78.6 km3, biến đổi từ 43.5 km3 (1998) tới 104.8 km3 (2000) (7)

Sông Tiền
Từ vị trí Mỹ Thuận, Sông Tiền chia thành 4 phân lưu và đổ ra biển Đông qua sáu cửa sông, tính từ phía bắc xuống là: (1) Cửa Tiểu và (2) Cửa Đại là hai cửa sông của sông Mỹ Tho, chảy qua Mỹ Tho và Gò Công; (3) Cửa Ba Lai của sông Ba Lai chảy qua phía bắc Bến Tre; (4) Cửa Hàm Luông, phía nam Bến Tre, thuộc về sông Hàm Luông; (5) Cửa Cổ Chiên và (6) Cửa Cung Hầu của sông Cổ Chiên, chảy qua thị xã Trà Vinh.

Độ sâu: Sông Tiền tại An Hữu (cầu Mỹ Thuận, cách biển 104 km) sâu 23 m; tại bến phà rạch Miểu (cách biển 49 km) sâu 8.80 m; tại Vàm Kỳ Hôn  (cách biển 42.7 km) sâu 13.80 m.
 

Độ sâu sông Tiền và sông Hậu


Độ dốc: Mực nước càng tiến gần về Biển Đông càng giảm. Trên đoạn từ Nam Vang đến Châu Đốc, độ dốc mực nước i = 0.54 x 10-4ứng với mực nước cao nhất, và i = 0.13 x 10-4  ứng với mực nước thấp nhất. Đoạn từ Đồng Tâm đến Mỹ Tho có độ đốc khá lớn, i = 2.50 x 10-6 vào mùa khô; i = 3.70 x 10-5 vào mùa mưa. Ngược lại, vì ảnh hưởng của thủy triều, đoạn từ Mỹ Tho đến Cửa Tiểu cho thấy vào cùng một thời điểm, mực nước tại Hòa Bình (gần cửa rạch Sáu Thoàn, Huyện Gò Công Tây) lúc nào cũng cao hơn mực nước tại Mỹ Tho và Cửa Tiểu, ở cả 2 con nước lớn và ròng; và độ dốc mặt nước ở 2 con nước nầy gần như bằng nhau nhưng nghịch dấu: Từ Mỹ Tho đến Hòa Bình, độ dốc i = - 5 x 10-6 (dốc nghịch), còn từ Hòa Bình đến Cửa Tiểu, độ dốc i = 6 x 10-6 (dốc thuận).

Phù sa. Hàng năm, sông Cửu Long chuyên chở trung bình khoảng 150 triệu tấn phù sa (e.g. Milliman and Meade, 1983; Milliman and Syvitski, 1992). Hơn phân nửa khối lượng này là từ lảnh thổ Trung quốc (Walling, 2005; Kummu and Varis, 2007) (7). Phù sa được lắng tụ dọc đường chảy qua Lào, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam và Biển Đông, Biển Tây. Một phần lớn, khoảng 9 triệu tấn/năm, lắng tụ ở Biển Hồ và vùng ngập lụt ở Campuchia. Vào mùa khô hạn, khi nước chảy ra thì cũng mang theo khoảng 1.6 tấn/năm để chảy vào sông Tiền, sông Hậu (7). Trong vòng 5,500 năm nay, phù sa trong Biển Hồ dày thêm 0.5 – 0.7 m, trung bình lắng tụ 0.1 – 0.16 mm/năm (7).
Tại Tân Châu trên sông Tiền, hàm lượng phù sa bình quân mùa lũ khoảng 800 g/m3, tháng cao nhất (tháng 8) trên 1,000 g/m3, nhưng vào mùa kiệt chỉ còn khoảng 200 g/m3. Tại Châu Đốc, trên sông Hậu, hàm lượng bình quân tháng lũ là 250g/m3, tối đa khoảng 500g/m3.

Lưu lượng. Sau vị trí Nam Vang, lượng nước qua Sông Tiền gấp 4 lần qua sông Hậu, tuy nhiên từ Vàm Nao (Huyện Chợ Mới, Tỉnh An Giang) đổ ra biển lượng nước trên Sông Hậu được bổ sung và gần xấp xỉ với lượng nước qua Sông Tiền.
Trên Sông Tiền, lưu lượng thấp nhất vào tháng 4, bắt đầu tăng từ tháng 5, cao nhất vào tháng 10 và giảm dần từ tháng 11. Biểu đồ bên dưới ghi lưu lượng từng tháng trên Sông Tiền tại Mỹ Thuận vào năm 1961 là năm có lũ lớn.
Lưu lượng hàng tháng qua sông Tiền tại Mỹ Thuận năm 1961


Trên sông Tiền, lưu lượng được phân phối như sau: tại Cầu Mỹ Thuận chiếm 51 % lưu lượng tại Nam Vang; từ vàm Sông Cổ Chiên đến vàm Sông Hàm Luông còn 23%; tại Mỹ Tho khoảng 8%, qua Sông Cửa Tiểu chỉ còn từ 0.20 đến 1 % (của lưu lượng tại Nam Vang).
Trong số các nhánh của Sông Tiền, phân phối lưu lượng qua nhánh Cửa Tiểu là thấp nhất cả vào mùa cạn lẫn mùa lũ.  Theo tài liệu đo từ năm 1924 đến nay, lưu lượng tại Phnom Penh ít khi thấp hơn 2,385 m3/s, ngoại trừ tháng 4 trong khoảng 2,000 m3/s đến 2,300 m3/s. Như vậy trong tháng 4 Sông Cửa Tiểu gần như hoàn toàn bị thủy triều Biển Đông chi phối, nước biển dễ dàng xâm nhập sâu vào nội địa khiến độ mặn cao hơn hẵn so với các tháng khác trong năm.
Lưu lượng Sông Tiền cũng chịu ảnh hưởng thủy triều, khi triều lên sẽ tạo dòng chảy ngược về phía thượng lưu và ngược lại. 
Lưu lượng trung-bình-tháng-nhỏ-nhất (TBTNN) trung bình nhiều năm tại Tân Châu là 1,839 m3/s và tại Châu Đốc là 342 m3/s. Riêng tháng 4/1978, lưu lượng trung bình tại Tân Châu là 1,220 m3/s và tại Châu Đốc là 202 m3/s. Như vậy, tổng lưu lượng TBTNN qua Tân Châu và Châu Đốc chỉ ở mức 1,400 – 1,500 m3/s.
Theo số liệu đo đạc chi tiết trong các tháng mùa cạn từ năm 1997 đến năm 2005, lưu lượng TBTNN tại Tân Châu và Châu Đốc thường xuất hiện đồng thời vào tháng 4 hàng năm.
Mực nước thấp nhất trong năm (Hmin) tại Tân Châu và Châu Đốc cũng thường xuất hiện trong tháng 4, và xảy ra đồng thời trong ngày.
Lưu lượng nhỏ nhất (ngày) tại Tân Châu thay đổi từ 649 m3/s (năm 1978) đến 2,170 m3/s (năm 1997), chênh lệch 3.34 lần; và tại Châu Đốc từ 82 m3/s (năm 1992) đến 445 m3/s (năm 1997), chênh lệch đến 5.43 lần. Tổng lưu lượng nhỏ nhất (ngày) qua Tân Châu và Châu Đốc đạt mức thấp nhất 1,227 m3/s vào ngày 1/4/1999 (8).
Lưu lượng vào mùa hạn (tháng 4) chảy qua Mỹ Thuận khoảng 130 – 190 m3/s.

Sông Hậu.
Sông Hậu đổ ra biển Đông qua cửa Tranh Đề và cửa Định An. Cửa Ba Thắc đã bị đất bồi từ khoảng thập niên 1970 nên không còn nữa. Đoạn rộng nhất của con sông nay là giữa huyện Cầu Kè (Trà Vinh) và huyện Long Phú (Sóc Trăng) khoảng gần 4 km. Dòng chảy sông Cửu Long bắt đầu biến đổi; khuynh hướng nước chảy vào Hậu Giang nhiều hơn Tiền Giang so với trước đây. Chẳng hạn, trong mùa lủ, trong vòng 7 năm qua (2000-2007) mặc dầu mực nước ở Tân Châu (trên Tiền Giang) xuống thấp 0.8 m, nhưng mực nước ở Cần Thơ (trên Hậu Giang) dâng cao hơn 0.3 m (3). Điều này có nghĩa là nhiều vùng ở Cần Thơ trước kia không có lụt, nhưng nay đều bị lụt.

Các sông và kinh đào nối sông Tiền và sông Hậu:
Có vô số kinh rạch lớn nhỏ nối liền Sông Tiền với sông Hậu. Sau đây là vài sông hay kinh rạch lớn:
Kinh Xáng Tân Châu – Châu Đốc: nối liền Sông Tiền Giang với sông Hậu Giang. Kinh Xáng dài khỏang 14 km, bắt đầu từ xã Tân An, huyện Tân Châu phía sông Tiền, đến xã Châu Phong, Tân Châu phía sông Hậu.
Sông Vàm Nao: dài 6.5 km, rộng 700 m, độ sâu trên 17 m, một bờ thuộc xã Kiến An (huyện Chợ Mới), một bờ thuộc xã Tân Trung (huyện Phú Tân), chảy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam nối liền sông Tiền với sông Hậu. Đây là một tuyến chuyển nước quan trọng nhất từ sông Tiền sang sông Hậu, và cũng là tuyến giao thông đường thủy quan trọng ở đồng bằng sông Cửu Long.
Sông Mang Thít, còn gọi là sông Măng Thít hay sông Mân Thít, là một con sông nhỏ, dài khoảng 47 km, nối nhánh Cung Hầu, Cổ Chiên của Sông Tiền, chạy trên địa phận Vĩnh Long tới sông Hậu tại Cù Lao Mây.

Sông Vàm Cỏ
Sông Vàm Cỏ là một dòng sông thuộc hệ thống sông Đồng Nai gồm khoảng 10 chi lưu, trong đó hai chi lưu trực tiếp tạo nên dòng sông Vàm Cỏ là sông Vàm Cỏ Đông và sông Vàm Cỏ Tây. Phát nguồn từ tỉnh PreVeng của Campuchia, ở cao độ 10-15 m, chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Lưu vực rộng 1,720 km2. Sông Vàm Cỏ đổ nước vào sông Soài Rạp, cách cửa Soài Rạp khoảng 22 km.
Sông Vàm Cỏ Tây: là một sông không có nguồn, phát cuất từ vùng đầm lầy ở Campuchia, chảy vào Việt Nam theo kênh Cái Cỏ, chảy qua các huyện Vĩnh Hưng, Mộc Hoá, Tân Thạnh, Thạnh Hoá, Thủ Thừa, thị xã Tân An, Tân Trụ, Châu Thành của tỉnh Long An. Sông chảy theo hướng tây bắc – đông nam, đoạn chảy trên đất Long An dài 185 km, chiều rộng của sông tại Mộc Hóa là 110 m.Dài khoảng 133 km, chảy qua tỉnh Long An và Tiền Giang, lượng dòng chảy trên sông chủ yếu là từ sông Tiền chuyển qua. Sông Vàm Cỏ Tây là nơi nhận nước tiêu lũ từ Đồng Tháp Mười thoát ra vào mùa lũ, và là một tuyến chính xâm nhập nước mặn. Tại Tân An sông sâu 21.5 m, độ dốc đáy 0.02 %, rộng 185 m, tiết diện ướt 1,930 m2, lưu lượng bình quân các tháng kiệt 9 m3/s, lưu lượng lũ tối đa gần 5,000 m3/s .
Sông Vàm Cỏ Đông bắt nguồn t vùng đồi núi bên lãnh thổ Campuchia chảy vào Việt Nam tại xã Biên Giới (huyện Châu Thành, Long An), chảy hướng Tây-Bắc qua các huyện Bến Cầu, Hòa Thành, Gò Dầu, Trảng Bàng (đều thuộc Tây Ninh), rồi xuôi hướng đông nam chảy qua thị trấn Bến Lức của tỉnh Long An. Sông Vàm Cỏ Đông và sông Vàm Cỏ Tây hợp lưu tại ngã ba Bần Quỳ thuộc xã Nhựt Ninh , huyện Tân Trụ thành sông Vàm Cỏ.  Sông có chiều dài 270 km trong đó phần trên lãnh thổ Việt Nam dài hơn 150 km, rộng trung bình 750 m, hẹp nhất 120 m, ở hạ lưu rộng 200 m. Lưu vực sông rộng 8,500 km² và lưu lượng 96 m³/s.
Giữa sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây có nhiều kinh rạch đan xen nhau, nhưng đáng kể nhất là kinh Trà Cú Thượng và kinh Trà Cú Hạ (tức kinh Thủ Thừa).
Sông Vàm Cỏ dài khoảng 39 km, từ ngã ba Bần Quỳ đến sông Soài Rạp, rộng nhất là chỗ giáp sông Soài Rạp (rộng 3,100 m), hẹp nhất là chỗ gần vàm sông Tra (rộng 420 m). Hệ thống sông Vàm Cỏ khá hẹp, tương đối ngắn, có độ dốc thấp (0,02 0/00) và hệ số uốn khúc cao. Đoạn cuối của sông Vàm Cỏ bị uốn khúc mạnh hơn các đoạn khác, tạo thành ba hình vòng cung liên tiếp nhau.
Vào mùa lũ một phần lượng nước từ Sông Tiền chảy tràn vào Đồng Tháp Mười rồi thoát ra Biển Đông qua Sông Vàm Cỏ Tây nhưng khả năng tháo lũ của sông nầy kém vì bị uốn khúc quá nhiều. Như vậy Sông Vàm Cỏ hầu như không có lưu vực riêng.
Vào mùa kiệt Sông Vàm Cỏ hoàn toàn bị thủy triều bán nhật của biển Đông chi phối; nước biển dễ dàng xâm nhập sâu vào nội địa. Vào cùng thời điểm và đồng khoảng cách tới biển, độ mặn trên Sông Vàm Cỏ lớn gấp nhiều lần trên Sông Tiền. Sông có một số đặc trưng như sau :
- Độ dốc mặt nước trung bình :  i = 1.3 x 10-5.
- Lưu lượng bình quân lớn nhất tại Tân An năm 1961:  1,173 m3/s.
- Lưu lượng cực đại tại Tân An : 2,224 m3/s.
- Vận tốc trung bình : 1 m/s .
Giống như Sông Tiền, mực nước đỉnh triều trên Sông Vàm Cỏ thường xuống thấp vào tháng 6 và 7 và lên cao nhất vào tháng 10 và 11 hàng năm. Mực nước cao nhất đo được tại Tân An là + 1,78 m ngày 17/10/1978 và mực nước thấp nhất là  - 1,84 m ngày 07/8/1964.
Trước 1960, nước mặn xâm nhập sâu 140 km từ cửa biển, nước mặn 4 g/l xâm nhập tới Tuyên Nhơn trên Vàm Cỏ Tây, tới Hiệp Hòa trên Vàm Cỏ Đông. Tại Cần Giuộc nước mặn 3 g/l vào đầu tháng Giêng, tới 11 g/l vào đầu tháng 3.
Sau này, nhờ hệ thống kinh mương đưa nước ngọt từ sông Tiền vào Đồng Tháp Mười tiêu ra Vàm Cỏ nên ngày nay độ nhiểm mặn ít hơn ngày xưa.

SÔNG Ở BÁN ĐẢO CÀ MAU:
Bán đảo Cà Mau có nhiều sông ngòi nhỏ và kinh rạch. Riêng tại tỉnh Cà Mau tổng số sông ngòi và kinh rạch có trên 10,000 km với tổng diện tích kinh rạch gần 20,000 ha, chiếm 2.3% diện tích tự nhiên. Một cách tổng quát, sông ở bán đảo Cà Mau ngắn, phát nguồn từ các vùng trủng, đầm lầy do nước mưa cung cấp hay một phần từ sông Hậu, nên có nước ngọt trong mùa mưa, nhưng là nguồn nước mặn xâm nhập trong mùa hạn.
Sông Mỹ Thạnh: trong địa hạt tỉnh Bạc Liêu có tên Sông Cổ Cò, phát nguồn từ Kinh Bạc Liêu, dài 25 km, chảy vào Sông Mỹ Thạnh tại Ngã Ba Cổ Cò thuộc địa hạt tỉnh Sóc Trăng, trước khi chảy ra Biển Đông ở cửa Mỹ Thạnh.
Sông Bảy Háp đổ ra biển Tây dài hơn 50 km. Sông Bảy Háp xuất phát từ đầu kinh xáng Đội Cường chảy ra cửa Bảy Háp (còn gọi Rạch Chèo) ở Biển Tây. Sông có độ sâu trung bình từ 3-5 m, tại cửa sông rộng gần 1,000 m, dài 48 km. Sông Bảy Háp là con đường giao thông huyết mạch nối liền hai vùng Nam và Bắc của tỉnh Cà Mau, là ranh giới của 2 huyện Năm Căn và huyện Cái Nước.
Sông Cửa Lớn hay Đại Môn Giang vốn là một con kênh dài 58 km, rộng 600 m và sâu 12 m ở tỉnh Cà Mau, nối biển Đông (cửa Bồ Đề) với biển Tây (cửa Ông Trang). Cửa Ông Trang rộng hơn 1 km, sâu từ 4-5 m; cửa Bồ Đề rộng 500 m, sâu 20 m. Dòng chảy có khi đứng, có khi rất mạnh gây bởi khác biệt thủy triều giữa Biển Đông và Biển Tây. Đại Môn Giang là ranh giới tự nhiên giữa huyện Năm Căn và huyện Ngọc Hiển, tách khu vực cuối cực nam của bán đảo Cà Mau thành một đảo, hiện chưa có cầu bắc qua đây.
Nước ở đây là nước lợ quanh năm vì hai đầu đều là biển, sông nhận một ít nước ngọt từ các sông nhỏ như sông Đầm Dơi, sông Đầm Chim và sông Cái Ngang. Là nơi quan trọng khai thác các loại thủy sản nước lợ. Cảng Năm Căn nằm trên sông này.
Sông Cái Tàu dài 43 km, xuất phát từ ngã ba Cái Tàu (U Minh), đi qua rừng tràm U Minh, đổ vào Sông Ông Đốc ra biển Tây. Công trình Khí - Điện - Đạm tọa lạc tại Vàm Cái Tàu (xã Khánh An, huyện U Minh). Dọc sông là vườn cây ăn trái trù phú.
Sông Trẹm hay Tràm Trẹm khởi nguồn từ Cái Tàu (U Minh) dài 36 km chảy vào sông Ông Đốc. Sông Trẹm có độ sâu trung bình 2.5 - 3 m, chiều rộng 80 - 100 m và có màu nước thay đổi theo mùa. Mùa mưa, nước sông có màu đỏ do các kinh rạch nối liền với rừng tràm U Minh Thượng và U Minh Hạ đổ ra. Còn về mùa khô, nước sông có màu trắng đục của phù sa từ biển Tây đổ vào. Dọc sông Trẹm là cánh đồng lúa bạt ngàn, vườn cây ăn trái, vườn mía.
Sông Ông Đốc hay Sông Đốc khởi thủy từ ngã ba Cái Tàu (U Minh) - tiếp nhận nước từ hai con sông Cái Tàu và sông Trẹm. Sông dài 58 km, rộng 1 km tại cửa sông, đổ ra Biển Tây. Hai bên sông có nhiều rạch như rạch Cái Tàu, rạch Giếng, rạch Cui. v.v.
Sông Đầm Cùng dài khoảng 36 km.
Sông Bạch Ngưu chảy qua địa phận Cà Mau 30 km, xuất phát từ rạch Cái Chanh chảy ra ngã ba Tắc Thủ. Sông dài 23 km, trung bình sâu 2 - 3 m. Là con kinh thủy lợi, nằm trọn trong vùng ngọt hóa Quản Lộ Phụng Hiệp, rất trù phú.
Sông Gành Hào hay sông Cà Mau dài 55 km từ trung tâm Thành Phố Cà Mau đổ ra cửa Gành Hào thuộc biển Đông. Tại Cà Mau, sông sâu từ 4-5 m, tại cửa sông ở Gành Hào rộng 300 m, sâu 19 m. Rất quan trọng cho giao thông và kinh tế của vùng.

Thành phố Cà Mau là nơi tập trung 5 năm tuyến sông, rạch bao gồm: Sông Tắc Thủ, kênh xáng Quản lộ Phụng Hiệp, sông Gành Hào, kênh xáng Cà Mau-Bạc Liêu và kênh Rạch Rập.


CHẾ ĐỘ THỦY TRIỀU

Đồng bằng Cửu Long Việt Nam chịu ảnh hưởng của 2 chế độ thủy triều; vùng đất tiếp giáp Biển Đông chịu chế độ bán-nhật-triều (semi-diurnal, trong 24 giờ ngày-đêm có 2 lần mực nước lên và 2 lần mực nước xuống), ngược lại vùng đất tiếp cận Biển Tây (Vịnh Thái Lan) chịu chế độ toàn-nhật-triều (diurnal, trong 24 giờ ngày-đêm có 1 lần mực nước lên, và 1 lần mực nước xuống).
 Vùng duyên hải Biển Đông. Sông Tiền và sông Hậu chảy ra Biển Đông nên chịu ảnh hưởng của chế độ bán-nhật-triều của Biển Đông. Trong một ngày có 2 đỉnh (1 thấp, 1 cao) và 2 chân triều (cũng 1 thấp, 1 cao). Thời gian triều lên kéo dài khoảng 6 giờ và thời gian triều xuống khoảng 6 giờ 45 phút đến 7 giờ (Đó là lý do tại sao thủy triều ngày hôm sau lên trể khoảng 50 phút). Trong tháng có 2 lần nước rong (nước lớn, ngày rằm và mồng một âm lịch) và 2 lần nước kém (triều kém, ở giữa 2 ngày trên). Trong năm, thủy triều cao nhất vào ngày rằm hay 30 âm lịch kế cận hay trùng vào ngày Xuân phân (21/3 dương lịch) hay Thu phân (22/9 dương lịch). Nếu có mưa bảo trong dịp này thì sẽ gây lủ lụt lớn. Chẳng hạn, trận bảo tàn khốc năm Giáp Thìn (16/3/1904), cọng hưởng với mưa to và thủy triều cao ngày xuân phân, gây lụt lội các tỉnh duyên hải Nam phần với nhiều đợt sóng (thần) cao hơn 10 m và giết trên 5,000 người tại Gò Công. Năm có lũ lớn ở ĐBCL cũng thường trùng vào dịp Thu phân, nước lũ không thoát được ra biển vì triều cường. Trận lụt kéo dài 2 ngày (5 và 6/10/2009) tại thành phố Cần Thơ là do mưa lớn 70 mm trùng vào ngày thủy triều lớn nước sông Hậu dâng cao, nước mưa không chảy thoát được.
Biên độ triều trung bình tại cửa biển khoảng 3.0 – 3.5 m trong kỳ thủy triều lớn. Biên độ triều lớn nhất trong chu kỳ 18 năm đạt trên 4.0 m.
Phạm vi truyền triều của Sông Cửu Long rất lớn: Tại Nam Vang (cách cửa sông 390 km) ảnh hưởng của thủy triều còn rất rõ, biên độ triều vào mùa hạn có lúc đạt đến 0.50 m; tại Tân Châu (cách cửa sông 220 km) biên độ triều thường từ 5 cm (mùa lũ) đến 100 cm (mùa cạn), trong trận lũ lớn vào năm 1978, 1996, 2000 tại đây vẫn còn chịu ảnh hưởng thủy triều với biên độ từ 2 cm đến 10 cm. Tại Mỹ Tho (cách biển 49 km), biên độ lớn nhất vào kỳ triều cao là 3.50 m và vào kỳ triều kém là 1.50 m. Biên độ mực nước triều lớn nhất trung bình tại Mỹ Thuận khoảng 1.80 – 1.90 m; tại Cần Thơ khoảng 2.20 –2.30 m; tại Tân Châu 0.95 – 1.05 m và tại Châu Đốc 1.1 – 1.2 m.
Tất cả kinh, rạch trong các tỉnh duyên hải đều chịu ảnh hưởng thủy triều, tuy nhiên càng truyền sâu vào nội đồng biên độ triều càng giảm. Vào mùa lũ, ảnh hưởng của thủy triều tại khu vực xa Sông Tiền không còn nữa nhất là khi có lũ lớn, như tại Huyện Tân Phước và ở phần cực Bắc của các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành.
Trong thời gian mùa cạn, dòng chảy ở thượng nguồn Cửu Long về nhỏ, chế độ dòng chảy của sông Tiền và sông Hậu hoàn toàn bị chi phối bởi chế độ thuỷ triều ở biển Đông. Thời gian truyền triều từ cửa biển đến Tân Châu, Châu Đốc khoảng 7 - 8 giờ. Tốc độ truyền triều trung bình trên sông Tiền - đến Tân Châu, khoảng 25 – 30 km/giờ; trên sông Hậu - đến Châu Đốc, chậm hơn, khoảng 22 - 24 km/giờ.
Trên sông Tiền, thời gian truyền triều từ Vàm Kinh (cách biển 2 km) đến Mỹ Tho (cách biển 49 km)  từ 90 đến 120 phút, và tốc độ truyền từ 24 km/h đến 36 km/h. Vận tốc dòng chảy cũng bị ảnh hưởng thủy triều: Vào mùa lũ vận tốc chậm khi triều lên, nhanh khi triều xuống (lần lượt 1.2 m/s và 1.8 m/s); vào mùa kiệt vận tốc khi triều xuống trong khoảng 0.70 m/s đến 1 m/s.
Mực nước đỉnh triều lớn nhất trung bình tại Tân Châu khoảng 1.70 m; tại Châu Đốc (cách biển 190 km) khoảng 1.50 m và tại Cần Thơ (cách cửa biển 123 km) là 1.24 m.
Mực nước chân triều thấp nhất trung bình tại Tân Châu là – 0.35 m; tại Châu Đốc là – 0.55 m; tại Mỹ Thuận là –1.37 m; tại Cần Thơ là – 1.60 m và tại Mỹ Tho là –0.95 m.
Nói chung, ảnh hưởng triều trên sông Hậu mạnh hơn so với sông Tiền do tốc độ chảy và lượng nước của sông Tiền lớn hơn nhiều so với sông Hậu, đặc biệt ở khu vực trước phân - nhập lưu với sông Vàm Nao.
Trong mùa cạn, triều lên làm xuất hiện dòng chảy ngược từ biển vào sông trong những thời gian nhất định. Tại Cần Thơ, tốc độ dòng chảy ngược trung bình từ 0.60 – 0.80 m/s, lớn nhất có thể đạt 1.25 m/s (ngày 18/4/1988); Tại Mỹ Thuận, tốc độ chảy ngược lớn nhất có thể đạt 1.12m/s (ngày 24/4/1978). Tại Tân Châu, tốc độ chảy ngược trung bình từ 0.2 – 0.3 m/s, tốc độ chảy ngược lớn nhất là 0.395 m/s với lưu lượng 3,290 m3/s (ngày 12/4 /1987). Tại Châu Đốc, tốc độ chảy ngược trung bình khoảng 0.30 – 0.50 m/s, lớn nhất là 0.526 m/s (ngày 5/3/1979). Như vậy, tốc độ chảy ngược lớn nhất tại Châu Đốc luôn luôn lớn hơn tại Tân Châu trong cùng thời điểm. Điều này một lần nữa chứng tỏ ảnh hưởng của thuỷ triều đến Châu Đốc trên sông Hậu mạnh hơn so với Tân Châu trên sông Tiền.
Trong một con triều, tốc độ chảy ngược lớn nhất thường xuất hiện sau khi xuất hiện mực nước đỉnh triều khoảng 2 giờ.
Do ảnh hưởng của thuỷ triều, trong thời gian mùa cạn, vào thời kỳ kiệt nhất (tháng 3 và 4), lưu lượng chảy ngược tại Tân Châu có thể đạt 3,290 m3/s (ngày 12/4 - 1987) và 1,700m3/s tại Châu Đốc (ngày 6 - 4 - 1978).
Trên quan điểm sử dụng nước trong nông nghiệp, việc đánh giá dòng chảy mùa cạn được căn cứ chủ yếu vào giá trị của lưu lượng nước chảy xuôi.
Mực nước và lưu lượng (chảy xuôi) trung bình tháng giảm dần từ đầu mùa cạn và giá trị thấp nhất thường trong tháng 4, sau đó tăng dần. Vì vậy, tháng 4 được xem là tháng cạn nhất trong năm. Mực nước trung bình tháng nhỏ nhất trung bình nhiều năm tại Tân Châu là 0.42 m, tại Châu Đốc là 0.38 m (thấp hơn tại Tân Châu 4 cm).

Vùng Biển Tây. Bán-nhật-triều từ Biển Đông khi vào biển cạn và hẹp của Vịnh Thái Lan và Biển Tây mất dần năng lượng biến thành triều-toàn-nhật, và càng đi sâu vào tới Vịnh Rạch Giá và Hà Tiên thì thời gian triều lên càng trể đi và biên độ triều càng thấp. Vì vậy, vùng duyên hải tiếp giáp Biển Tây chịu ảnh hưởng của chế độ toàn-nhật-triều, trong một ngày-đêm chỉ có một lần nước dâng cao và một lần nước thấp, với biên độ 0.8 đến 1.2 m.
Vùng ảnh hưởng thủy triều toàn nhật của Biển Tây không lớn lắm, chỉ vài chục cây số từ bờ biển.
            Vùng đồng bằng ở tả ngạn sông Hậu và các cù lao trên sông Hậu thì hoàn toàn chịu ảnh hưởng của thủy-triều-bán-nhật của Biển Đông. Ngược lại phía hửu ngạn sông Hậu, gồm khu tứ giác Long Xuyên, U Minh và  vùng Cà Mau thì chịu ảnh hưởng tổng hợp của triều Biển Đông và Biển Tây, rất phức tạp. Nơi tiếp giáp của hai chế độ thủy triều là vùng nước ứ động, nước sông hay kinh rạch không lưu thông – nước đứng - làm lắng tụ nhiều phù sa.


Ngọc Hiển (Năm Căn, Cà Mau) chịu ảnh hưởng phức tạp của 2 chế độ thủy triều


Như vậy, vùng duyên hải Biển Đông và Biển Tây, nhất là Bán đảo Cà Mau, chịu ảnh hưởng thủy triều khá phức tạp, nhất là vào mùa hạn, từ tháng 1 đến tháng 6, khi lưu lượng sông Cửu Long thấp. Ở vùng thượng lưu, vào mùa hạn, nước trong kinh bao giờ cũng thấp hơn mặt ruộng, nên phải dùng máy bơm nước vào ruộng. Tuy nhiên, kể từ vùng Cần Thơ xuống hạ lưu, trong dịp rằm và mồng một âm lịch, nhất là vào dịp xuân phân (22/3 dương lịch), nước thủy triều dâng cao hơn mặt ruộng, nông dân thường tích trử nước trong ao và mương riêng để tưới chảy vào ruộng vườn. Tại vùng duyên hải và bán đảo Cà Mau, nước mặn xâm nhập sâu vào nội địa vào dịp có thủy triều cao.

ẢNH HƯỞNG HẢI LƯU
Các dòng hải lưu ở Biển Đông và Biển Tây khá phức tạp, góp phần tạo thành các giồng duyên hải, các bải bồi phù sa hay soi mòn bờ biển ở Bán Đảo Cà Mau. Các hải lưu biến đổi theo mùa.
Ở Biển Đông, dòng hải lưu trong mùa Đông chảy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam dọc theo bờ biển, còn trong mùa hè chảy theo hướng Tây Nam – Đông Bắc. Trong Vịnh Rạch Giá từ tháng 5 đến tháng 9 hải lưu chảy theo chiều kim đồng hồ, từ tháng 10 đến tháng 1 chảy theo hướng chiều ngược, còn các tháng 2, 3, và 4 thì chảy ra ngoài vịnh theo hướng Nam (4). Ở cả hai biển, hải lưu mùa đông chảy mạnh, có tác động mạnh và có thời gian lâu dài hơn. Các dòng hải lưu Biển Đông và Biển Tây gặp nhau ở Mũi Cà Mau, nhờ vậy phù sa do hải lưu mang tới được bồi đắp ở đây, hàng năm thêm hàng trăm mét. Ngược lại, vùng duyên hải thuộc Biển Đông từ Rạch Gốc (Cà Mau) đến Gành Hào, bờ biển thường bị soi lở vì dòng hải lưu và sóng biển, nhất là trong thập niên vừa qua ở vùng Bồ Đề, khi rừng ngập mặn bị phá hủy để nuôi thủy sản.

KẾT LUẬN
ĐBCLVN và sông Cửu Long có những điểm tương đồng với hạ lưu sông Mississippi (phần 2). Cả hai đều bị ngập lụt định kỳ hàng năm theo nhịp độ lưu lượng của sông. Thủy triều và nước biển xâm nhập cũng có cùng tính chất. Tuy nhiên, DBCLVN hiền hòa hơn, không có bảo biển mạnh và thường xuyên như ở Vịnh Mexico (phần 2), Vịnh Bengal (phần 3), North Sea (phần 1) hay Vịnh Bắc Việt (phần 4). Nhờ Biển Hồ nên lụt xảy ra ở ĐBCLVN từ từ, không gây nhiều thiệt hại lớn, không như lũ xảy ra ở Đồng Bằng Sông Hồng, hay Bangladesh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
 1. Akira Yamashita. Topography of the Mekong delta.
 http://cantho.cool.ne.jp/mekong/geo/geo_e.html
2. FAO  (1998). Flood management and mitigation in the mekong river basin.
3. Kỷ Quang Vinh. (2009). 10 năm môi trường thành phố Cần thơ (1999-2008).
4. Lê Bá Thảo (1977). Thiên nhiên Việt Nam. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật. Hà Nội.
5. Lê Công Lý (2009). Tìm hiểu về hệ thống sông Vàm Cỏ.
6. Mekong River Commission (November 2005) Overview of the hydrology of the Mekong Basin.
7. Mekong River Commission (2006) Hydrological, Environmental and Socio-Economic Modelling Tools for the Lower Mekong BasinImpact Assessment. WUP-FIN Phase 2 Final Report – Part 2: Research, Findings and recommendationst
8. Ngô Trọng Thuận.  Dòng chảy mùa cạn Ở đỒng bẰng sông cỬu long Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT
9. Nguyễn Cảnh Dinh. Về quy hoạch thủy lợi bán đảo Cà Mau.
10. Nguyễn Hiếu Trung. Xây Dựng Hệ Thống Thông Tin Địa Lý Quản Lý Tổng Hợp Tài Nguyên Nước Đồng bằng Sông Cửu Long.http://www.ctu.edu.vn/colleges/tech/bomon/ttktmoitruong/phonggis/mkgis.htm
11. Nguyễn Hoàng Giáp. 2002. Bảo vệ tài nguyên rừng: suy nghĩ từ thảm họa cháy rừng U Minh.
12. Nguyễn Hửu Hiệp. Kinh Xáng Xà No ở Tây Nam Bộ.
13. Vô danh 1.  An Giang http://www.angiang.gov.vn
14. Vô danh 2. Đồng bằng Cửu Long.
15. Vô danh 3. Đồng Tháp Mười
16. Vô danh 4. Hiệu quả công trình thủy lợi Bến Tre
17. Vô danh 5. Tiền Giang:
18. Vô danh 6: Trà Vinh: http://www.travinh.gov.vn
19. Vô danh 7. Tứ giác Long Xuyên:
20. Vô danh 8. Bản đồ satellite ĐBCLVN:
21. Vô danh 9. Rừng tràm U Minh bị xóa sổ.


Kênh đào và các biện pháp thủy lợi

Trần Đăng Hồng, PhD

Cư dân lập nghiệp trên phần ĐBCLVN có lẻ khoảng 2,500 năm nay (TDH, TVĐạt). Vốn là phần đất bị lũ lụt định kỳ hàng năm kéo dài 3-4 tháng, và nước mặn xâm nhập cũng kéo dài 3-4 tháng trong mùa hạn (phần 5), nên cư dân đã phải có những biện pháp trị thủy để sinh sống trên vùng đất bao la này.
Đào kinh dẩn thoát nước đã được thực hiện từ hàng ngàn năm trước đây ở hạ lưu sông Cửu Long. Khi một phần hạ lưu thuộc vào Việt Nam , việc đào kinh trước tiên vì mục tiêu giao thông và quốc phòng. Sau 1910, nhất là sau 1975 đặt nặng cho mục tiêu phát triển nông nghiệp.

Thời Phù Nam và Campuchia
Để có thể sinh sống trong vùng nê địa, lũ lụt định kỳ hàng năm, nước Phù Nam (thế kỷ 1 đến 7) đã đào nhiều kinh vừa thoát nước ra Biển Tây, vừa dùng làm giao thông và sản xuất nông nghiệp, như dấu vết kinh nối vịnh Rạch Giá với Óc Eo chạy tới Angkor Borei của Campuchia dài 70 km. Ngay tại Oc Eo cũng có 4 con kinh chạy chéo. Ngoài ra còn dấu vết của một số kinh khác.
Không ảnh chụp năm 1942, cho thấy Óc Eo có hình chử nhật, 3 km x 1.5 km, có 5 đê cao, và 4 hào rộng ở 4 cạnh, với diện tích bên trong là 450 ha (7), chứng tỏ cách đây 1,500 đến 2,000 năm người Phù Nam đã biết thiết lập “polder” như kiểu Hòa Lan (phần 1).
            Sau khi nước Phù Nam bị tiêu diệt, người Miên tiếp tục khai khẩn bằng cách đào kinh. Chẳng hạn  hố Cái Bác từ ngọn Cái Cái tới ngọn Vàm Cỏ Tây là vết tích một con kinh do người Miên đào (8). Cũng vậy nhiều kinh cổ còn sử dụng ở vùng Sóc Trăng.  Ngoài ra, người Miên đào nhiều hồ trử nước ngọt ở vùng nước mặn như Ao Bà Om (Trà Vinh, rộng 10 ha), Hồ Tịnh Tâm (Sóc Trăng), hay ở vùng thiếu nước trong mùa hạn như 7 hồ nước ở Tịnh Biên (An Giang).

Thời kỳ chúa và vua nhà Nguyễn
Người Việt bắt đầu chính thức di dân vào Miền Đông Nam Phần khoảng năm 1620 dưới thời chúa Nguyễn và hoàn tất việc chinh phục ĐBCLVN vào năm 1758.
Người di dân đầu tiên lập nghiệp ở Miền Đông trên vùng đất nê địa, bị ngập lụt do mưa hay thủy triều, như vùng Lái Thiêu, Bình Dương, đã áp dụng thành công mô hình tiểu nông trại là đào-mương-lập-vườn cây ăn trái và đắp-bờ-bao-ngạn chung quanh khu vườn để ngăn nước lụt hay thủy triều, có đặt ống cống bằng bọng dừa hay đất nung/xi măng có nắp đậy, để cho nước ra hay vào tùy ý, điều chỉnh được mực nước bên trong vườn. Trên liếp trồng cây ăn trái, xen kẻ với hoa màu phụ hay rau cải. Dưới mương nuôi cá. Trên quy mô lớn hơn, đặc biệt trên các cù lao, như Cù Lao Phố (Biên Hòa), người dân đắp-đê-bao-ngạn quanh cù lao và xẻ kinh mương vào ruộng đồng.
Khi người di dân tây tiến về đồng bằng Cửu Long, mô hình tiểu nông trại này được áp dụng ở các tỉnh Miền Tây, dọc theo bờ sông Tiền, sông Hậu và sông rạch lớn và các cù lao trên sông. Với phương cách “đào mương lên liếp và  bờ bao ngạn”, đến cuối thế kỷ 18, cư dân đã chinh phục được những vùng đất ẩm thấp, ở vùng Tiền Giang, Hậu Giang, biến thành Miệt Vườn trù phú. Cau là loại cây được trồng phổ biến nhất lúc bấy giờ, sau này thay thế bởi cây ăn trái.

Kinh Vũng Gù hay Bảo Định HàLà kinh đào đầu tiên (1705) ở Đồng bằng Cửu Long do tướng Nguyễn Cửu Vân thực hiện, nối Vũng Gù (Tân An trên Vàm Cỏ Tây) với Rạch Mỹ Tho, cốt yếu cho giao thông đường thủy từ Mỹ Tho, qua Vũng Gù, theo Vàm Cỏ Đông đến Bến Lức, đến Ba Cụm, theo sông Bình Điền đến Chợ Lớn. Kinh rộng 32 m, sâu 4 m, hai bên bờ kinh là đường đê bằng đất rộng 13 m, dọc đó dân cư sống đông đúc.

Kinh Ruột Ngựa đào năm 1772, nối liền Rạch Cát đến kinh Lò Gốm.

Kinh Mới Rạch Chanh hay Tranh giang Tân kinh đào năm 1785, nối 2 đầu rạch Ba Rài và rạch Chanh, làm thủy lộ nối sông Tiền và sông Vàm Cỏ.

An Thông Hà. Đào năm 1819, nối liền từ cầu Bà Thuông (Thị Thông) đến kinh Ruột Ngựa, đưa sản phẩm nông nghiệp từ Tiền giang lên Sài Gòn.

Kinh Thoại Hà đào năm 1818 do ông Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) phụ trách, nối rạch Long Xuyên tại Vĩnh Trạch kéo dài theo hướng Tây Nam, ngang qua chân núi Sập, tiếp với sông Kiên Giang, đổ nước ra biển Tây tại cửa Rạch Giá. Kênh dài 12.410 tầm, rộng 20 tầm, ghe xuồng qua lại thuận lợi.

Kinh Vĩnh Tế đào năm 1819, do Nguyễn Văn Thoại chỉ huy. Kênh đào song song với đường biên giới Việt Nam-Campuchia, bắt đầu từ bờ Tây sông Châu Đốc (sông Hậu) thẳng nối giáp với sông Giang Thành (Hà Tiên - Kiên Giang).  Kênh đào trong 5 năm. Kinh dài 91 km, rộng 25 m, sâu 3 m. Bờ kinh đấp cao, dân chúng cất nhà. Để làm ruộng dân tự động đào nhiều kinh mương nhỏ nối vào Kinh Vĩnh Tế.

Kênh Vĩnh An đào năm 1843 nốí sông Tiền với sông Hậu, tạo trục giao thông thủy nối liền giữa 2 trung tâm thương mại Tân Châu và Châu Đốc. Kênh dài 17 km, rộng 30 m và sâu 6 m. Vì cửa đổ của kênh vào sông Hậu đúng vào chỗ giáp nước nên dòng chảy rất yếu, làm cho phù sa bị ứ đọng và bồi lắp dòng kênh. Sau đó vài chục năm, vào mùa khô kênh trở nên cạn kiệt.

Long An Hà. Năm 1843, đào thêm con kinh nối liền Tiền giang (từ Tân Châu) đến thủ Châu Giang phía Hậu giang. Kinh này ngắn nhằm mục đích quân sự để chiến thuyền đi nhanh từ Tân Châu đến vịnh Xiêm La khi hữu sự, qua kinh Vĩnh Tế. Kinh đào xong vào tháng 4 năm 1844, đặt tên là Long An Hà.

Kênh Trà Sư được đào khai thông con rạch nhỏ có sẵn, vào những năm 1830-1850, để ngăn lũ núi, dẫn nước vào các cánh đồng thuộc khu vực Thới Sơn – Văn Giáo. Kênh có chiều dài 23 km, rộng 10 m và sâu trên 2 m.

Kênh Thần Nông đào năm 1882, chạy dọc giữa huyện Phú Tân, bắt đầu từ xã Phú Vĩnh nối liền kênh Vĩnh An đến rạch Cái Đầm, dài 25 km, rộng 6 m và sâu 3 m, để tưới nước cho toàn huyện.

Nhờ đào kinh dẫn thủy diện tích ruộng ở ĐBCLVN vào năm 1890 là 763,000 ha (9).

Thời Pháp thuộc

Sau khi chiếm Miền Tây (1867), người Pháp cho đào nhiều kinh dẫn nước vừa phát triển giao thông đường thủy, vừa phát triển nông nghiệp.

Vùng đất giữa sông Tiền và sông Hậu:
Để khai thác vúng phì nhiêu này, người Pháp đầu tiên cho đào kinh Cột Cờ (1875, thuộc Long An), kinh Trà Ôn (1875, Vĩnh Long), kinh Chợ Gạo (1875-1976, Tiền Giang), kinh Sét Nay (1878), kinh Xanh Ta (1879) để khai khẩn vùng Mỹ Tho, Vĩnh Long. Kinh Chợ Gạo còn gọi là Kinh Dupérré nối thẳng từ rạch Kỳ Hôn đến Sông Tra, một nhánh ngắn của Sông Vàm Cỏ. Kinh có chiều sâu 3 m, bề rộng 20 m. Năm 1913 kinh được vét sâu và mở rộng bằng xáng với kích thước như hiện nay: sâu 5 - 7 m, rộng trung bình 100 m. Kinh Chợ Gạo dài 11.8  km.
Trong thời gian 1904 - 1906, đào kinh Lấp Vò (tỉnh Đồng Tháp) cải tạo mở rộng sông Mân Thít, đào kinh Cổ Chiên đi Trà Vinh, kinh Cái Vồn, đào kinh ở Cù Lao Mây (thuộc Vĩnh Long).
Để mang nước ngọt vào Gò Công, kinh Salisetti được đào năm 1869 và kinh Champeaux năm 1870. Hai kinh dài 13 km chạy gần tới biển, rộng trung bình 18 m, sâu 3 m.
Trên vùng thượng lưu Châu Đốc, đào kinh Vàm Xáng (1914 – 1918) cách kênh Vĩnh An 4 km về phía thượng lưu (Tân châu), chuyển nước sông Tiền vào sông Hậu, đồng thời tạo ra trục giao thông mới. Ban đầu kênh dài 9 km, rộng 30 m và sâu 6 m, nhờ dòng chảy mạnh, nên đến nay kênh có độ rộng trên 100 m, sâu trên 20 m. Như vậy, sau sông Vàm Nao, kênh Vàm Xáng trở thành tuyến kênh quan trọng điều hòa lượng nước từ sông Tiền bổ sung cho sông Hậu.

Vùng hửu ngạn sông Hậu và bán đảo Cà Mau
Trên vùng Cần Thơ Chương Thiện, chỉ trong thời gian 10 năm từ 1880  đến 1890, một số kinh đáng kể như Ba Láng, Cái Côn (Sông Hậu đến Ngã Bảy Phụng Hiệp), Carabelli, Kế Sách (từ Sông Hậu đến Sóc Trăng), Thạnh Lợi, Bà Tích, Trà Nóc, Ông Trương, Cái Mương được hoàn thành.
Trong thời gian từ 1890 đến 1920, những kinh lớn như Trà Ót (Trà Ết), Xà No (1903), Saintenoy (1904);  Ba Rinh (1925), An Tập, Tiếp Nhựt (1911), Rạch Vọp ở Sóc Trăng; Phổ Dương - Trà Long ở Cần Thơ; Ô Môn, Trà Bồng, Tân Phước thuộc Cần Thơ - Rạch Giá - Sóc Trăngkinh Long Mỹ,  Bassac (còn gọi kinh Lái Hiếu, 1 kinh trong 7 kinh của Ngả Bảy Phụng Hiệp); kinh Thốt Nốt qua Giồng Riềng,  kinh Thới Lai, Ô Môn – Thị Đội (1917), Xuân Hòa, Phong Điền, Cái Răng, Trà Lồng, cải tạo kinh Ba Xuyên - Thạnh Lợi, đào kinh Hậu Giang - Long Mỹ, trên cánh đồng Cần Thơ - Sóc Trăng.
Trong vùng Sóc Trăng có kinh Bocquillon, kinh Saintenoy; kinh Phụng Hiệp- Sóc Trăng (1905), kinh Maspéro (1911), kinh Cái Trầu đi Chàng Ré (1914—1917), kinh Quan lộ Nhu Gia (1925), kinh Nàng Rền (1911), kinh Tiếp Nhựt (1911), kinh Sóc Trăng – Bố Thảo (1915) (9). Ngoài ra còn đào thêm các kinh mới như Phụng Hiệp, Phổ Dương, Xẻo Von, Carabelli, Mang Cá, Ba Rinh (1925), Lacoste.
Trên vùng Rạch Giá, đào kinh nối sông Cái Lớn (Rạch Giá) với sông Trèm Trẹm (Cà Mau) (1925).
Như vậy, đây là vùng có nhiều kinh rạch thủy nông nhất đồng bằng sông Cửu Long. Trong hàng trăm kinh đào chằng chịt, sau đây là những kinh có tầm quan trọng nông nghiệp nhất:

Kinh Xà No (1901 – 1903) do công ty
 Montvenoux (Pháp) đào bằng máy xáng từ Sóc Xà No (Srok Snor) trên Rạch Cần Thơ (thuộc làng Nhơn Ái, Phong Điền, Cần Thơ), đến Vị Thanh (Chương Thiện), chạy song song với quốc lộ 61, qua Gò Quao, vào sông Cái Lớn, đến Vịnh Rạch Giá. Mặt kinh rộng 60 m, đáy rộng 40 m, dài 32 km. Nhờ kinh Xà No và các chi lưu của nó mà vùng đất Rạch Giá, Cần Thơ, Chương Thiện được vỡ hoang trên 50,000 ha chỉ trong vòng vài năm. Kinh xáng Xà No là một trong những tuyến giao thông thủy huyết mạch nối Cần Thơ - Hậu Giang - Kiên Giang - Bạc Liêu - Cà Mau.
Để khai thác vùng nước ngọt hửu ngạn sông Hậu, ngoài kinh Xà No, người Pháp còn đào kinh Ô Môn – Rạch Giá nối sông Hậu tại Ô Môn với sông Cái Bé của Rạch Giá (1896). Đồn điền Cờ đỏ nằm trong khu vực này.
Hệ thống kinh Phụng Hiệp. Để khai khẩn ruộng vùng đất nhiểm mặn trong bán đảo Cà Mau, một hệ thống kinh đào chằn chịt dẫn nước ngọt sông Hậu từ Cái Côn vào Phụng Hiệp, nơi này tập trung 7 kinh đào chính (Cái Côn, Xẻo Môn, Xẻo Đông, Bún Tàu, Lái Hiếu, Mang Cá và kênh Xángđưa nước ngọt vào khắp bán đảo. Kinh xáng nối liền Phụng Hiệp với Sóc Trăng đào năm 1901, và kinh Quản Lộ nối Phụng Hiệp với Cà Mau đào năm 1914 (5).


Ngã Bảy Phụng Hiệp nhìn từ vệ tinh


Vùng Tứ Giác Long Xuyên
Trong khoảng 1918 – 1930, để khai thác vùng Tứ Giác Long Xuyên, Pháp còn cho đào hệ thống kênh trục bao gồm Rạch Giá – Hà Tiên, chạy song song với bờ biển Tây, có 4 kênh nhánh tiêu nước ra biển (Vàm Răng, Luỳnh Quỳnh, Vàm Rầy và Kiên Lương), và các kinh Tám Ngàn, Tri Tôn, Ba Thê, Cái Sắn, Mặc Cần Dưng, v.v.
Kinh Rạch Giá - Hà Tiên (1926 -1930) đi song song với bờ biển trên chiều dài 81 km, sâu 3.5 – 3.8 m, khối lượng đào đắp 7.2 triệu m3. Kinh chính được nối thông với biển bằng 4 kinh nhánh, bề rộng mặt nước 28 m, để thoát nước ra biển Tây. Từ kinh chính có 4 kinh phụ đi sâu vào vùng trũng để tiêu úng và phèn: kinh Tri Tôn (31 km, hoàn tất năm 1928), kinh Ba Thê (40 km, hoàn tất 1930), kinh Hà Giang, kinh Tám Ngàn. Hệ thống kinh này thâm nhập sâu vào vùng đất hoang của khu tứ giác Long Xuyên. Ngoài ra, là đường chuyển vận quan trọng vôi, phốt phát, xi măng từ Hà Tiên về Sài Gòn (5).

Vùng Đồng Tháp Mười
Để khai thác vùng Đồng Tháp Mười, kinh Bà Bèo hay Kinh Tổng Đốc Lộc (nay gọi là kinh Nguyễn Văn Tiếp) đào năm 1897, dài 45 km, rộng 10 m, bắt đầu từ rạch Bà Bèo (arroyo Commercial, rạch Thương Mại, đào từ thời Tây Sơn) đổ ra rạch Ruộng gần Sa Đéc của Sông Tiền. Để phục vụ cho công trình này, phải đào trước 3 con rạch nhỏ, đi từ Cái Thia, Trà Lót, Cái Bè, dài tổng cộng 81 km. Về sau đào thêm nhiều con kinh cấp 2, nối kinh Tổng Đốc Lộc với rạch Cái Bè - Cai Lậy, đánh số thứ tự từ 1 đến 11. Pháp cũng cho đào thêm kinh Tháp Mười (còn gọi Kinh Xáng) nối kinh Tổng Đốc Lộc tại Cái Nứa, chạy xuyên qua Gò phế tích Tháp Mười và Cao Lảnh, để ra sông Tiền, dài 60 km. Chính đoạn kinh Tháp Mười chuyển nước từ phía trên sông Tiền vào sông Vàm Cỏ Tây nhằm rửa phèn vốn tích tụ lâu đời trong lòng chảo Đồng Tháp MườiNhư vậy, hệ thống Kinh Tổng Đốc Lộc dài tổng cộng 105 km với 4 đoạn kinh thẳng mang 4 tên, gồm Kinh Rạch Chanh (nối với Vàm Cỏ Tây, dài 5 km), Kinh Bà Bèo (nối Rạch Chanh với Bà Bèo, dài 20 km), kinh Tổng Đốc Lộc (từ Bà Bèo đến Cái Nứa, dài 20 km) và kinh Tháp Mười (nối Cái Nứa với Sông Tiền, dài 60 km) và các kinh phụ có tác dụng thoát nước và rửa phèn trong vùng trũng Cao Lãnh, Tháp Mười, Cái Bè, Cai Lậy ra sông Tiền và Vàm Cỏ Tây. Kinh Tháp Mười, qua dòng lịch sử mang nhiều tên, đầu tiên là Arroyo Commercial (tức kinh Thương Mại), năm 1947 Ủy Ban Kháng Chiến Nam Bộ đổi thành kinh Nguyễn Văn Tiếp, năm 1957 đổi thành kinh Tháp Mười, năm 1975 lấy lại tên Nguyễn Văn Tiếp. Đoạn kinh từ rạch Ruộng chạy lên phía Đông - Bắc được gọi là Nguyễn Văn Tiếp B dài 20.4 km, và đoạn rẻ về phía Đông nối với Sông Vàm Cỏ Tây gọi là Nguyễn Văn Tiếp A dài 45.5 km.
Kinh Lagrange (còn có tên kinh Ông Lớn, kinh Cùng, nay là kinh Dương văn Dương) đào vào những năm 1899 - 1903 (cùng với các kinh Cờ Nhíp, Đá Biên), nối sông Vàm Cỏ Tây ở đầu phía đông và kinh Phước Xuyên, kinh Đông Tiến ở đầu phía tây tại ngã tư gãy Cờ Đen. Kinh có chiều dài 45 km, rộng 40 m, sâu 4 m. Đây là đường thuỷ quan trọng từ miền Đông về miền Tây qua ngõ Vàm Cỏ Tây theo hai hướng: kinh Đông Tiến hoặc kinh Phước Xuyên. Năm 1925 - 1927, kinh được hãng thầu Pháp là Monvéneux tổ chức nạo vét với quy mô lớn hơn. Ngày nay, con kinh này tiếp nhận nước ngọt từ sông Tiền để tưới cho những cánh đồng hai vụ của huyện Tân Thạnh (Long An). Ngoài ra, còn có Kinh Bắc Đông dài 14 km tính từ chỗ nối đầu với Kinh Lagrange đến Sông Vàm Cỏ Tây.


Hệ thống kinh trong Đồng Tháp Mười trước 1954 (8)

Ở Hạ lưu, đào kinh Mỏ Cày ở Bến Tre.

Trong thời gian 1890 – 1936, tổng số chiều dài của kinh đào ở ĐBCLVN khoảng 1,360 km kinh chánh, 2,500 km kinh phụ và hàng ngàn km kinh nhỏ, đào khoảng 180 triệu m3 đất (trong số này 155 triệu mbằng cơ giới). Như vậy, trong vòng 40 năm (1890 – 1930), chương trình thủy lợi gia tăng diện tích ruộng khoảng 1,689,000 ha, đưa tổng số đất ruộng lên 2,452,000 ha, tăng 4 lần so với năm 1890, và dân số tăng gấp 3 lần, lên 4.5 triệu dân.
           
Thời Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975).
Một trong những chương trình thủy nông quan trọng là hệ thống kinh Cái Sắn để định cư 42,145 đồng bào di cư năm 1956 trong một diện tích 270,000 ha dọc theo kinh Cái Sắn với 17 con kinh (phía bắc có 14 kinh, phía nam 3 kinh), và 13 con kinh nhỏ với chiều dài tổng cộng 159 km. Kinh rộng 6 m, sâu 4 m, mỗi bờ kinh là đê cao rộng 20 m để cất nhà và làm vườn.Tổng cộng có 8,086 lô đất, mỗi lô rộng 30 m, dài 1000 m (3 ha) phân cho mỗi gia đình. Việc đào kênh đều làm bằng tay, trung bình một người đào được khoảng 7 m3 /ngày.
Ngoài ra, từ năm 1957 đến 1960, trên địa bàn An Giang đào thêm được kênh Mới nối kênh Vĩnh Tế với kênh Tám Ngàn tại Lò Gạch, làm trục tạo nguồn chuyển nước từ kênh Vĩnh Tế vào vùng Bắc Hà Tiên. Kênh Trà Sư được đào năm 1972, từ cầu Trà Sư nối với kênh Vĩnh Tế dài 3.2 km.
Để mang nước ngọt sông Tiền vào Gò Công, kinh Tham Thu được thiết lập đầu thập niên 1970, dài 19 km, song song với Tỉnh Lộ 24 (nay là Quốc lộ 50), để dẫn nước bơm từ trạm bơm Tham Thu (nguồn nước lấy từ Kinh Cả Hôn) đến ao trữ Tham Thu của Nhà máy nước Thị xã Gò Công, đồng thời tưới cho một phần diện tích canh tác dọc kinh.
Trong Đồng Tháp Mười, kinh Đồng Tiến đào năm 1954, nối kinh Lagrange (kinh Dương Văn Dương bây giờ) thẳng ra sông Tiền, song song với kinh Bà Bèo.
Cuộc cách mạng xanh với giống lúa Thần Nông cuối thập niên 1960 phát sinh việc đắp bờ bao nội đồng ở vùng Chợ Mới An Giang và nhiều nơi khác để canh tác 3 vụ Thần Nông/năm, hay 2 vụ/năm (Lúa sạ và Thần Nông). Mô hình “polder” tiểu nông tại Phước Thới An Giang (1967) được nông dân hưởng ứng, gồm việc làm bờ bao chung quanh khu ruộng 2 ha (diện tích của người dân thừa hưởng trong chương trình “người cày có ruông”) để canh tác 2-3 vụ lúa Thần Nông.
Trong kế hoạch Kinh Tế Hậu Chiến, toàn bộ chương trình thủy lợi cho vùng ĐBCL được bắt đầu nghiên cứu bởi nhóm Tennessee Valley Scheme do David Lilienthal phụ trách(hồ sơ mang tên “Kế hoạch Lilienthal-Vũ Quốc Thúc”).

   
   
Hệ thống kênh đào thời Pháp thuộc (trái) và hiện nay (phải). Vùng xám là vùng ảnh hưởng lụt năm 2000

Thời Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa (1975 tới nay)

Trong thời gian từ 1976 đến 1990, khoảng 5,000 km kinh được đào khắp các tỉnh, do địa phương cấp huyện và tỉnh tự hoạch định, không nằm trong kế hoạch thủy nông toàn bộ, đa số là kinh cấp 2 và 3, nhằm mục đích khai hoang diện tích nhỏ, khoảng 100 – 500 ha cho mỗi dự án đào kinh.
Kể từ 1990, việc nghiên cứu và thực hiện chương trình thủy lợi được hoạch định khoa học hơn và phù hợp với Kế hoạch Phát Triển Đồng Bằng Cửu Long (Mekong Delta Development Program) đề xuất trong thập niên 1960s, với mục đích đóng khung đồng bằng để giảm thiểu lũ lụt và nước mặn xâm nhập.  Kế hoạch tổng thể ĐBCLVN (Mekong Delta Master Plan) đề xuất năm 1991 có tất cả 45 công trình thủy lợi, hầu hết là đào kinh và đấp đê, nhằm bảo đảm cho việc trồng lúa.
Theo kế hoạch này, ĐBSCL được chia làm bốn vùng, 22 tiểu vùng và 120 khu thủy lợi. Bốn vùng chính thuộc hệ thống thuỷ lợi là vùng Tứ giác Long Xuyên, vùng Bán đảo Cà Mau, vùng giữa sông Tiền và Hậu và vùng tả sông Tiền  (3).
1. Vùng Tứ giác Long Xuyên: Tổng diện tích tự nhiên 498,938 ha được phân thành 3 tiểu vùng  và 15 khu thủy lợi. Mục đích là ngăn lũ lụt, gia tăng diện tích trồng lúa.
2. Vùng Bán đảo Cà Mau: Tổng diện tích tự nhiên 1,692,218 ha được phân thành 7 tiểu vùng, và 51 khu thủy lợi. Mục đích mang nước ngọt từ sông Hậu (Công trình Ngọt Hóa Bán Đảo Cà Mau) để canh tác lúa, qua Công trình Quản Lộ - Phụng Hiệp và các công trình ngăn mặn trên sông, trên biển.
3. Vùng giữa sông Tiền và sông HậuTổng diện tích tự nhiên 81,116 ha, được phân thành 6 tiểu vùng, và 20 khu thủy lợi:
                (i) Khu Chợ Mới: kiểm soát lũ cả năm, bằng đấp đê, với mỗi ô 500-700 ha (một hình thức “Polder” của Hòa Lan , Bangladesh ).
                (ii) Khu Bắc và Nam Lấp Vò: thành lập các ô kiểm soát lũ quanh năm.
                (iii) Tiểu vùng Bắc sông Mang Thít: lấy nguồn nước ngọt từ sông Tiền, sông Hậu qua đào kinh.
                (iv) Tiểu vùng Nam Mang Thít.
                (v) Khu Mỏ Cày - Thạnh Phú nằm ở phía bắc Mỏ Cày, là khu vực nước ngọt trong mùa mưa, nhiểm mặn trong mùa hạn, gồm  thiết lập đê cống ngăn mặn dọc sông Cổ Chiên và Hàm Luông và đê nam Thạnh Phú.
                (vi) Khu bắc Bến Tre: Vùng nhiểm mặn. Thiết lập đê biển, đê sông, cống ngăn mặn.
4. Vùng tả sông Tiền: Tổng diện tích tự nhiên 813,133 ha, gồm 5 tiểu vùng và 22 khu thủy lợi.
(i) Vùng nam kênh Nguyễn Văn Tiếp (tức hệ thống kinh Tổng Đốc Lộc)  đến Gò Công: diện tích tự nhiên 271,000 ha, nguồn nước được lấy trực tiếp từ sông Tiền ở phía nam của vùng và tiêu theo hướng Bắc-Nam. Tổng số các kênh cấp I là 23 kênh, với chiều dài là 20 km, trong đó có 20 kênh thoát nước lũ, rạch Bảo Định, kênh Xuân Hòa, kênh 14 cấp nước cho khu Gò Công và Bảo Định.
(ii) Vùng phía Bắc kênh Nguyễn Văn Tiếp với tổng diện tích tự nhiên 387,400 ha. Đây là vùng ngập lụt nhất của Đồng Tháp Mười. Gồm đấp đê chặn lũ, đào kinh lấy nước sông Tiền ở phía Tây, và tiêu nước ra sông Vàm Cỏ ở phía Đông. Kênh Hồng Ngự còn làm nhiệm vụ cấp nước sang sông Vàm Cỏ.
(iii) Khu vực Tứ Thường, lấy nước trực tiếp từ sông Tiền cho khoảng 8,000 ha, bằng các kênh Tứ Thường, Cái Sách và Nam Hang. Hệ thống kênh cấp I của vùng này được thực hiện tưới tiêu kết hợp. Khoảng cách giữa hai kênh cấp I từ 5-7 km, với chiều rộng đáy từ 8-10 m, sâu 2.0 - 0.30 m.
(iv) Vùng giữa hai sông Vàm Cỏ: tổng diện tích tự nhiên 140,465 ha. Nguồn nước cung cấp là từ sông Tiền, thông qua 8 kênh trục ở Bắc Nguyễn Văn Tiếp, ngoài ra còn lượng cấp từ sông Vàm Cỏ Đông  cho vùng ven sông. Tiêu nước cho vùng này là hai phía sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây.
Với vùng tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, Bán đảo Cà Mau, Nam Mang Thít có mật độ kênh khá dày, trung bình cứ 2 km có kênh cấp 2; 5 km có kênh cấp 1. Riêng tỉnh Hậu Giang Cần Thơ có một hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt với tổng chiều dài khoảng 2,300 km. Mật độ sông rạch khá lớn 1,5 km/km, vùng ven sông Hậu thuộc huyện Châu Thành lên đến 2 km/km.
Để chống lụt và khai thác Đồng Tháp Mười, kể từ 1985, một hệ thống chằng chịt được đào, quan trọng với các kinh sau đây:
Ở phía Tây kể từ biên giới có kinh Thống Nhất, kinh Hồng Ngự - Vĩnh Hưng, kinh Cái Cái, Kênh Tân Thành - Lò Gạch, kênh Sa Rài, quan trọng nhất là việc vét kinh Nguyễn Văn Tiếp, kinh Phước Xuyên và đào mới kinh Hồng Ngự – Vĩnh Hưng năm 1988 (còn gọi kinh Trung Ương). Các con kinh này dẫn nước ngọt từ sông Tiền để rửa phèn vốn tích tụ lâu đời trong lòng chảo Đồng Tháp Mười.
Cùng lúc đó, một hệ thống cống đập được xây dựng tại vàm các con kinh nói trên, chỗ tiếp giáp với sông Vàm Cỏ Tây, có tác dụng ngăn nước mặn từ biển vào.
Kinh 28 là đoạn cuối gần Sông Tiền của một hệ thống gồm nhiều đoạn kinh đào khá thẳng nối từ kinh Hồng Ngự thuộc tỉnh Đồng Tháp rồi chạy theo hướng Đông – Nam cắt ngang các kinh Đồng Tiến, An Phong - Mỹ Hoà, Nguyễn Văn Tiếp A, Nguyễn Văn Tiếp B và ra sông Tiền qua ngỏ rạch Thông Lưu - rạch Cái Bè. Kinh 28 nằm trong địa phận Huyện Cái Bè, thông với kinh Nguyễn Văn Tiếp B tại Ngả Sáu Mỹ Trung, chiều dài 14 km, bề rộng trung bình 60 m, bề sâu 9  – 13 m so với mặt đất tự nhiên. Với vị thế như vậy, kinh 28 là một đoạn trong tuyến đường thủy quan trọng nối từ trung tâm Đồng Tháp Mười ra Sông Tiền. Vào những năm lũ lớn, kinh nầy là một trong những trục thoát lũ chính với lưu tốc dòng chảy thường trên 1.30 m/s.
Nối dài Kinh Bắc Đông
Kinh nầy là một đoạn trong 3 kinh liền nhau đã được đào từ thời Pháp và Việt Nam Cộng Hòa, chạy từ Tây sang Đông, nối liền Sông Tiền và Sông Vàm Cỏ Tây là Kinh Đồng Tiến – Kinh Lagrange – Kinh Bắc Đông. Trước đây đoạn Kinh Bắc Đông chỉ dài 14 km tính từ chỗ nối đầu với Kinh Lagrange đến Sông Vàm Cỏ Tây, năm 1987 đã đào một con kinh mới dài 14.5 km chạy thẳng từ Kinh 12 ở phía Tây đến chỗ nối giữa kinh Lagrange và Kinh Bắc Đông, con kinh mới nầy cũng được gọi là Kinh Bắc Đông. Như vậy, hiện nay tổng chiều dài của Kinh Bắc Đông là 28.5 km, chiều sâu trung bình 4 m, bề rộng 20 – 22 m.       Năm 1993 tại đầu phía Đông trong địa phận Tỉnh Long An, gần Sông Vàm Cỏ Tây, đã xây Cống Bắc Đông với nhiệm vụ chính là ngăn nước mặn chảy từ sông vào phía đồng.
Kinh Nguyễn Tấn Thành (Tên khác: Kinh Xáng) Kinh nầy nối từ Kinh Nguyễn Văn Tiếp A, tại trung tâm Thị trấn Mỹ Phước của Huyện Tân Phước xuống phía Nam, cắt qua Quốc lộ 1A tại Cầu Kinh Xáng. Trước khi thông ra Sông Tiền, kinh cắt Đường tỉnh 864 tại cầu cũng có tên là Cầu Kinh Xáng. Kinh dài 19.3 km, rộng 40 m, bề rộng tại vàm kinh lên đến 125 m, chiều sâu 5 m – 8 m so với mặt đất tự nhiên. Kinh nầy ngoài chức năng giao thông thuỷ còn là một trục thoát lũ quan trọng của tỉnh. Kinh đã được vét nhiều lần, lần gần đây nhất vào cuối năm 2000 để lấy đất đắp bờ bao ngăn lũ.
Hiện nay, vùng ĐBSCL có khoảng trên 100 kênh trục và kênh cấp 1, với tổng chiều dài trên 6,500 km, trong đó có nhiều tuyến kênh được bố trí xây dựng tuyến dân cư tránh lũ trên bờ kênh như Vĩnh Tế, T5, Tân Thành, Lò Gạch, Tân Châu...), hơn 36,000 km kênh cấp 2 và kênh cấp 3. Kênh đào hiện có ở ĐBSCL (từ kênh cấp 1 đến kênh cấp 3) đạt mật độ rất cao, tới 1.4 km kênh/ km2.
Hệ thống kênh rạch ở vùng ĐBSCL có năng lực giao lưu nước lớn nhất vào mùa lũ 6,000 – 8,000 m3/s, giúp cho việc phân áp lũ chảy vào vùng trũng nhanh, có tác dụng điều tiết dòng lũ, nhưng đồng thời làm đồng ruộng rút cạn nước nhanh chóng vào đầu mùa hạn vì thiếu cống ngăn giữ nước.
Tài liệu tham khảo chánh
1.Trần Minh Trường (2005). Thủy lợi ĐBSCL: Những vấn đề lớn cần giải quyết
2. Văn Hửu Huệ. Những thách thức cho phát triển thủy lợi ĐBSCL. http://vinhlong.agroviet.gov.vn/tapchi.asp?sotc=11/2008&ID=1105
3. Đặng Kim Sơn (2008). Thủy lợi và phát triển nuôi trồng thủy sản vùng đồng bằng sông Cửu Long. http://www.vncold.vn/Web/Content.aspx?distid=1589
4. Nguyễn Minh Quang. 2000. Lũ lụt ở ĐBCL ngày xưa và ngày nay. http://www.vastvietnam.org/quang/qglutxn.html
5. Nguyễn Thanh Lợi (2007). Kinh đào ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc. Xưa & Nay, số 286, tháng 6 – 2007. http://my.opera.com/phuongpd/blog/show.dml/4319561
6. Lê Công Lý. Lịch sử kinh nguyễn Văn Tiếp ở Đồng Tháp Mười. http://vn.myblog.yahoo.com/lecongly83/article?mid=416
8. Nguyễn Hiến Lê (1954). Bảy ngày trong đồng Tháp Mười. http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn0n4nqntn31n343tq83a3q3m3237n1n
9. Sơn Nam . Lịch sử khẩn hoang Miền Nam 

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen