Mittwoch, 1. Oktober 2014

PHẢN TỈNH – PHẢN KHÁNG:Thực hay Hư (Minh Võ):

PHẢN TỈNH – PHẢN KHÁNG:Thực hay Hư (Minh Võ):

“Không gì che dấu mà không bại lộ,
không gì kín ẩn mà sẽ không bị thấu biết”

LỜI NÓI ĐẦU
Một bạn đọc ở Santa Ana, sau khi đọc bài “Tướng Cộng Sản hồi hưu Trần Độ chống đảng hay muốn cứu đảng” đăng trên nguyệt san Hiệp Nhất số tháng 3 năm 1999 (1), đã gọi tôi bảo hãy tìm đọc bán nguyệt san Văn Nghệ Tiền Phong số mới nhất vừa ra đề 1-15 tháng 4, 1999 trong đó cũng có người viết về Trần Độ đấy. Tôi đã từng nghe nói VNTP là tờ báo có nhiều cây viết cứng cựa, với lập trường chống cộng rõ rệt không khoan nhượng, đã đứng vững gần một phần tư thế kỷ ở hải ngoại. Trong số báo đầu tháng 4 này tác giả Tầm Nguyên đã đề tựa bài viết của ông: “Viên Tướng VC Về Hưu Trần Độ vuốt đuôi đảng”. Trong bài báo ông đã gọi Dương Thu Hương là “nhà văn cái”, Bùi Tín là “con thò lò”. Nguyên mấy nhóm từ “vuốt đuôi đảng”, “nhà văn cái”, “con thò lò” được dùng đủ cho thấy tác giả coi ba người này chẳng ra gì, lời nói của họ đối với ông chỉ là trò bịp bợm do đảng mớm cho mà thôi.


Nhưng tôi cũng được biết những người này đã được các báo Thế Kỷ 21, Người Việt, Ngày Nay, Diễn Đàn Phụ Nữ… ở Mỹ, Thông Luận, Tin Nhà ở Pháp… và các đài BBC, VOA và Á Châu Tự Do nhắc đến một cách trân trọng hơn. Sự tò mò khiến tôi tìm đọc thêm về họ. Đồng thời tôi cũng muốn biết thêm về một số người khác trong số những nhà trí thức, văn nghệ sĩ và cán bộ cao cấp của Việt Cộng trước kia mà từ những năm bắt đầu “cởi trói” hay “Đổi Mới” dưới thời Nguyễn Văn Linh, đã lên tiếng phản kháng hoặc tỏ dấu phản tỉnh. Càng đọc tôi càng thấy có gì mới mẻ, đáng quan tâm. Khi đọc một cuốn thì tôi nghĩ khác, đọc sang cuốn thứ hai rồi thứ ba, tôi thấy mình nghĩ khác về tác giả. Đọc một nguồn tin tôi nghĩ khác, đến khi được đọc nhiều nguồn tin, đối chiếu nhiều tác phẩm của nhiều tác giả với nhau, rồi đặt chúng vào thời gian, bối cảnh của chúng, tôi nảy ra những suy đoán, giả thuyết khác nhau. Vì vậy tôi đã tìm đọc một số sách báo gần đây để cố đẩy sự “nghiên cứu” riêng của mình tới một điểm nào đó. Mặc dầu chỉ vì tò mò cá nhân, không có tham vọng làm một cuộc phê bình văn học hay nghiên cứu nghiêm túc về lịch sử, chính trị, tôi cũng thấy dường như mình đã khám phá ra một cái gì hay hay đối với riêng mình. Tôi mạnh dạn viết ra những trang sau đây để chia sẻ với bạn đọc, nhất là những bạn đọc trẻ, bận việc ít có thì giờ đọc sách nhưng lại tò mò muốn biết những gì đang xảy ra trong nước giữa nhà cầm quyền với những người viết văn và những cựu cán bộ phản tỉnh hay bất mãn, hay giả vờ bất mãn…

Xin bạn đọc đừng coi đây là một cuộc nghiên cứu nghiêm túc. Hãy chỉ coi như một sự chia sẻ về tư liệu và suy tư của một người tò mò đã dành thì giờ tìm hiểu xem những người được nêu tên nơi các đầu chương của tập sách này phản tỉnh thực hay giả, và qua những gì họ nói và viết bộ mặt xã hội “xã hội chủ nghĩa” Việt Nam đã hiện lên như thế nào. Và…, nếu sau khi gấp cuốn sách lại, bạn đọc thấy được phần nào sự phức tạp của cuộc chiến quốc cộng trong ba thập niên và lý do tại sao “phe quốc gia” lại thua và phe nào đã thắng, đang thắng, sẽ thắng thì đó là ngoài sự mong mỏi của soạn giả.
Soạn phẩm này sẽ gồm có 20 chương. Mỗi chương trong 18 chương đầu sẽ dành để nói về một tác giả. Chương 19 nói chung chung hết sức vắn tắt về khoảng 40 tác giả hay nhân vật khác mà chúng tôi không có đủ dữ kiện để dành cho mỗi người một chương riêng. Chương 20 là phần tổng kết những nhận xét và bình luận của soạn giả, dựa theo những ý kiến của tất cả các tác giả hay nhân vật đã được nói đến trong các chương, và những ý kiến của một số tác giả thuộc phe quốc gia, và thế giới tự do đã phát biểu từ lâu trước.

Trong số 18 tác giả có chương riêng thì có:
3 người đã dứt khoát từ bỏ và chống lại chính quyền Cộng Sản không do dự: Hoàng Văn Chí rời bỏ miền Bắc vào Nam từ 1956. Xuân Vũ (Bùi Quang Triết) ra hồi chánh năm 1968 và Hoàng Hữu Quýnh tìm tự do năm 1979 ở Ý.
1 người, tuy sống trong lòng chế độ Cộng Sản, nhưng từ đầu tới cuối luôn luôn chống đảng không úp mở là nhà thơ Nguyễn Chí Thiện.
3 người đã bỏ chạy ra sống ở ngoại quốc cho đến nay, tuy có chống chế độ Cộng Sản, nhưng tương đối còn kính nể Mác và Hồ Chí Minh, đó là các ông Trương Như Tảng (đi từ 1976), Búi Tín (từ 1990) và Vũ Thư Hiên (từ 1995)
1 người đã từng cùng nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống đường lối của đảng trong một thời gian ngắn rồi sau đó bị cô lập, trù dập cho đến thời kỳ “đổi mới”. Cuối cùng đã đánh lừa được đảng để lấy cớ sang Pháp vận động cho chế độ rồi ở lại nói lên phán quyết cuối cùng, muộn màng phê phán: “Chính là Mác sai”. Đó là giáo sư thạc sĩ Trần Đức Thảo.
10 người còn lại là những cán bộ, đảng viên hoặc văn nghệ sĩ, nhà báo ngoài đảng, nhưng hiện nay vẫn sống ở trong nước. Họ đã mỗi người bằng một cách riêng, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp qua ẩn ngữ, dụ ngôn chống đối đảng một cách ôn hòa, bất bạo động. Đó là các ông Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Hà Sĩ Phu, Đào Hiếu, Nguyễn Hộ, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Văn Trấn (mất năm 1995), Nguyễn Mạnh Tường (mất 1998), Linh Mục Chân Tín và bà Dương Thu Hương.

Các chương không được xếp theo thứ tự vừa nêu, mà theo thứ tự mẫu tự ABC tên gọi của các tác giả để tiện tìm đọc. Vì thực ra sự phân loại nói trên của soạn phẩm cũng không có tính cách chặt chẽ như trong một tác phẩm nghiên cứu đích thực. Xin bạn đọc hãy coi những trang sau đây như những tư liệu đọc để giết thời gian. (2)
Sau hết, nhân đây chúng tôi xin cám ơn, đồng thời xin lỗi các tác giả vì đã lạm dụng trích dẫn hơi nhiều, mặc dù vẫn thấy chưa lột hết được ý của quý vị. Nếu có gì sai sót mong quý vị thông cảm và chỉ giáo cho. Cũng mong độc giả sẽ không trách chúng tôi rườm rà trong những trang trích dẫn lê thê. Chúng tôi chỉ nêu ra làm tài liệu hầu bạn đọc có thể căn cứ vào đó phán đoán về những kết luận của chúng tôi liên quan đến các vấn đề căn bản đề cập trong phần tổng kết. Bạn đọc có thể chỉ lướt qua phần trích dẫn nơi 19 chương trên nếu thấy không hấp dẫn.

Minh Võ

Chú Thích:
(1) Xin xem chương 3 soạn phẩm này.
(2) Trong soạn phẩm này chúng tôi hay dùng mấy chữ viết tắt xhcn để chỉ xã hội chủ nghĩa theo thuyết duy vật vô thần của Mác. Khi dùng theo nghĩa xã hội chủ nghĩa của các thế chế tự do thì không bao giờ viết tắt chữ nhỏ như vậy.
+ Một số nhóm từ nhắc lại nhiều lần trong một chương, như tên tác giả đứng đầu chương và những nhân vật quá quen thuộc cũng hay được viết tắt bằng những chữ cái đầu tên, như HVC = Hoàng Văn Chí, HMC = Hoàng Minh Chính, HCM = Hồ Chí Minh. CCRĐ = Cải Cách Ruộng Đất vân vân…

+ Trong chương tổng kết và vài chương khác, như chương 9, chương 15, chúng tôi có dùng những danh xưng Cơ Đốc Giáo, Ki-Tô hữu, tín đồ Công Giáo… Chúng tôi xin giải thích về những sự phân biệt này để độc giả hiểu rõ ý chúng tôi.
Tôn Giáo coi Đức Chúa Giêsu Kitô (Jesus Christus) là Đức Chúa Trời (Ngôi Lời, Ngôi Hai Thiên Chúa, vừa có Thần Tính, vừa có Nhân Tính) được gọi là Ki-Tô Giáo, tiếng Pháp là Christianisme. Trước đây cũng có nhiều người gọi là Cơ Dốc Giáo, đạo Cơ Đốc. Chữ Cơ Đốc là theo phiên âm tiếng Tầu, Ki-Tô là theo phiên âm tiếng Việt, của chữ Christo. Cũng có người gọi là đạo Gia Tô. Chữ Gia Tô là theo phiên âm tiếng Tầu của chũ Jesus. Ngày nay không còn ai nói đạo Gia Tô nữa.
Ki-Tô Giáo theo thời gian đã tách ra làm nhiều hệ phái có danh xưng khác: Chính Thống Giáo ở một số nước Đông Âu và Hy Lạp, Liên Xô; Anh Quốc Giáo ở nước Anh và một số nhỏ ở Mỹ. Hai tôn giáo này không khác Công Giáo La Mã bao nhiêu. Cách phụng vụ và tế lễ cũng giống nhau. Đạo Tin Lành gồm rất nhiều chi phái do hai nhà thần học Ki-Tô Giáo là Calvin và Luther sáng lập; cuối cùng là Công Giáo có khi gọi là Công Giáo La Mã, là đạo tự cho là chính thống hơn tất cả các giáo phái Ki-Tô Giáo khác, vì vẫn giữ đúng mọi tín điều và nghi lễ như ban đầu. Ki-Tô Giáo trên thế giới có số tín đồ tổng cộng 2 tỷ thì công giáo đã chiếm 1 tỷ (theo kiểm tra đầu năm nay là đúng một tỷ).

Như vậy khi chúng tôi dùng Ki-Tô Giáo thì hiểu là Công Giáo cũng được mà Tin Lành, hay Chính Thống, hay Anh Giáo thì cũng được. Còn khi nói Công Giáo thì xin hiểu đó là tôn giáo lớn nhất trong Ki-Tô Giáo, có trụ sở là Vatican, La Mã.
Tại Việt Nam trước đây nhiều người cũng dùng 3 chữ “Thiên Chúa Giáo” để gọi Công Giáo. Nhưng trong soạn phẩm này chúng tôi tránh dùng mấy tiếng đó cho khỏi gây hiểu lầm, vì Thiên Chúa theo chúng tôi hiểu là chung cho mọi tôn giáo. Đạo nào cũng thờ Thiên Chúa, tức Chúa Trời, tức Thượng Đế, tức Đấng Tối Cao, Đấng Toàn Năng, Đấng Toàn Hảo, Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ, hay Ơn Trên, hay “Giời”…
Riêng về hai chữ Công Giáo chỉ có nghĩa là đạo mà người Tây Phương từ trước đến giờ vẫn gọi là “Catholicisme, Catholicism”, chứ không hề có nghĩa là “đạo chung cho mọi người” như có người hiểu lầm, rồi dịch ra Anh ngữ là “Public Religion” (!).

Hoàng Văn Chí
Hoàng Minh Chính và chủ nghĩa xét-lại VN
Trần Độ chống đảng hay muốn cứu đảng?
Hà Sĩ Phu muốn lật hòn đá tảng?
Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên
Chương 6:
Nổi Loạn hay Nỗi Oan của Đào Hiếu
Nguyễn Hộ Quay Lại Chống Đảng
Chương 8:
Dương Thu Hương với “Những Thiên Đường Mù”
Chương 9:
Nhật Ký của Nguyễn Ngọc Lan
Chương 10:
Hoàng Hữu Quýnh bỏ đảng
Chương 11:
Hồi Ký của Việt Cộng Trương Như Tảng
Chương 12:
Trần Đức Thảo có bị đầu độc không?
Chương 13:
Nguyễn Chí Thiện hay Lý Đông A?
Chương 14:
Bùi Tín Thành Tín Hay Bội Tín Thất Tín?
Chương 15:
Linh mục Chân Tín có sám hối không?
Chương 16:
Ông Già Chợ Đệm Nguyễn Văn Trấn
Chương 17:
Nguyễn Mạnh Tường, “Kẻ Bị Vạ Tuyệt Thông”
Chương 18:
Xuân Vũ với 34 tác phẩm chống Cộng
Chương 19:
Những người khác
Chương 20:
Vẫn Đêm Giữa Ban Ngày (tổng kết)
Phụ Lục



Chương 1
Hoàng Văn Chí

Hoàng Văn Chí, bút hiệu Mạc-Định, sinh ngày 1-10-1913 tại Thanh Hóa (Làng Ngò). Ông học trung học tại trường Albert Sarraut, Hà-nội, rồi tốt nghiệp cử nhân khoa học năm 1940. Khi cuộc chiến tranh giữa Việt Minh và Pháp xảy ra vào cuối năm 1946 ông đã ra bưng theo Việt Minh kháng chiến chống Pháp (từ 1946) cho đến khi mặt nạ ái quốc của ông Hồ Chí Minh và đồng đảng rớt xuống trong các chiến dịch “Giảm Tô” và “Cải Cách Ruộng Đất” (từ 1953-1956). Chính ông đã chứng kiến, và trong nhiều trường hợp tham dự các cuộc đấu tố dã man . Sau Hiệp Định Genève ông đã tìm tự do. Năm 1958 Mặt trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa của chế độ Ngô Đình Diệm đã cho in tác phẩm “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc” của ông dưới bút hiệu Mạc Định. Cuốn “Giai Cấp Mới ở Bắc Việt” thì do nhà xuất bản Công Dân, Saigon. Năm 1959 ông được cử làm phó tổng lãnh sự ở Tân Đề Li trong một năm rồi sang Âu Châu tìm cơ hội cho thế giới biết thực chất của chế độ Cộng Sản ở Việt Nam. Trong thời đệ nhị Cộng Hòa ông làm biên tập viên cho đài Tiếng Nói Hoa Kỳ từ 1965 đến 1969. Ông qua đời tại Maryland, Hoa Kỳ ngày 6-7-1988. Khi ông mất ông đang viết dở tác phẩm “Duy Văn Sử Quan”, sau này được con ông bổ túc và giao cho tủ sách Cành Nam xuất bản năm 1990. Đây là một tác phẩm lớn có tham vọng thay thế duy vật sử quan của Mác, nhưng không thành công.
Đầu năm 1962 ông viết bài “Collectivisation and rice pro-duction” (Tập thể hoá sản xuất và sự sản xuất gạo) đăng trên tờ “China Quarterly” nói về sự thất bại của chính sách hợp tác hóa nông nghiệp đối với việc sản xuất lúa gạo ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc và Bắc Hàn. Nó mở đường cho tác phẩm đắc ý của ông: “From colonialism to communism” (Từ Thực Dân Đến Cộng Sản) mà chúng tôi trích dẫn trong chương này. Bài báo nói lên sự thất bại của hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc dưới sự cai trị của đảng Cộng Sản, và nhất là sự tàn bạo đến dã man chưa từng thấy của các chiến dịch mệnh danh là “Giảm Tô” và “Cải Cách Ruộng Đất” trong những năm 1953-1956.

Tác phẩm “Từ Thực Dân đến Cộng Sản”, do Frederick A. Praeger xuất bản tại Anh và Mỹ năm 1964, chia làm 5 phần gồm 18 chương. Ngoài 2 chương ở phần I nói tóm tắt về lịch sử của một dân tộc yếu nhỏ nhưng lại có một dĩ vãng có lúc huy hoàng, tất cả 16 chương còn lại dành để nói về sự xuất hiện và vai trò của đảng Cộng Sản Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh. Ông gọi Hồ Chí Minh là anh hùng, vì cho rằng ông ta đã làm được điều mà các nhà cách mạng tiền bối và các đảng phái quốc gia trước đó đã không làm được, đó là đánh thắng thực dân Pháp. Vì cũng từng có lúc tâm phục ông Hồ để đi theo ông kháng chiến chống Pháp trong một thời gian dài nên Hoàng Văn Chí cũng ca tụng ông Hồ ở nhiều trang sách. Nào ông Hồ nói được hàng chục thứ tiếng, ăn uống thanh đạm, mặc thì bình dân, chân đi dép râu. Nào có nhiệt tình cách mạng không ai bằng, vào tù ra khám không biết bao nhiêu lần vì lý tưởng cách mạng. Ông cũng so sánh ông Hồ với cựu hoàng Bảo Đại và Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà ông cho rằng không thể nào sánh kịp ông Hồ. Tuy nhiên trong chương 3 dành cho nhân vật “anh hùng” này tác giả đã nói rõ sự lệ thuộc của Hồ Chí Minh vào Liên Xô và cái tài đóng kịch của ông ta.

Theo ông thì ông Hồ thành công vì nhiều lẽ. Nhưng “thắng lợi cuối cùng phần lớn là do biết mềm dẻo, uyển chuyển trong khi áp dụng các chiến thuật khi thì tỏ ra Cộng Sản, khi thì tỏ ra quốc gia tùy theo hoàn cảnh mỗi lúc đòi hỏi, trong khi vẫn cố giấu mục tiêu chiến lược cuối cùng mà không bao giờ thay đổi.”(1)

Mục tiêu cuối cùng này là gì? Đó là nhuộm đỏ cả nước. Đưa cả nước vào quỹ đạo Cộng Sản. Còn chiến thuật được áp dụng uyển chuyển thì như thế nào? Nghĩa là khi thì đứng chung với những người quốc gia, nói vì dân vì tổ quốc. Như thời gian ở Pháp làm báo với ông Nguyễn Thế Truyền. Như thời gian tiếp xúc với các ông Phan Bội Châu, Lâm Đức Thụ ở Trung Quốc. Như thời gian liên lạc với các toán OSS của Mỹ. Như thời gian giải tán đảng Cộng Sản, lập chính phủ Liên Hiệp với các ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam khi mới nắm được chính quyền. Khi thì ôm chân đảng Cộng Sản Pháp; làm gián điệp cho Liên Xô; bán đứng cụ Phan Bội Châu cho cảnh sát Pháp; nhận lệnh của Mao Trạch Đông phát động Cải Cách Ruộng Đất đẫm máu… tái lập đảng Cộng Sản dưới danh hiệu đảng Lao Động. v.v…

Tác giả đã nói đến chuyện ông Hồ một mực chối mình không phải là Nguyễn Ái Quốc. Ông trưng dẫn Jean Lacouture, trong tác phẩm “Cinq hommes et la France” (Năm nhân vật và nước Pháp) đã kể rằng khi tướng Salan, người đàm phán về hưu chiến năm 1946, hỏi thẳng Hồ Chí Minh: Ông có phải Nguyễn Ái Quốc không? Thì ông Hồ nhất định bảo không phải. Ông cũng thuật lại việc ông Võ Quý Huân hỏi ông Hồ khi cùng đi trên con tầu SS Dumont d’Urville từ Fontainebleau về nước: chủ tịch có biết hiện giờ ông Nguyễn Ái Quốc đang ở đâu không? Và ông Hồ đã đáp lửng lơ: Tốt hơn nên hỏi ông ấy, đừng hỏi tôi.

Về nguyên quán của ông Hồ, tác giả cũng bảo ban đầu ông ta khai là Hà Tĩnh. Mãi sau này, vào năm 1958 nhà cầm quyền Hà-nội mới chính thức công bố ông Hồ Chí Minh chính là “người yêu nước” Nguyễn Ái Quốc, nguyên quán tỉnh Nghệ An. (2)
Tác giả cũng nói đến chuyện ông Hồ cũng như ông Nguyễn Khánh Toàn đều đựơc Liên Xô cung cấp cho một bà vợ hờ (một phụ nữ Nga) sống với nhau rất kín đáo. Riêng ông Toàn thì đã có nhiều con với người vợ Nga này và khi sang Trung Quốc hoạt động ông lại được cung cấp một bà vợ khác, người địa phương.(3)

Để chứng tỏ ông Hồ có thể làm bất cứ chuyện gì, miễn đạt được mục tiêu chiến lược của ông là “cách mạng vô sản”(sic), tác giả đã thuật lại việc ông Hồ âm mưu với Lâm Đức Thụ bán đứng nhà cách mạng ái quốc Phan Bội Châu cho cảnh sát Pháp để lấy số tiền khổng lồ là 10 vạn đồng lúc ấy (một con trâu chỉ bán được 5 đồng) (4) và việc có lẽ ông ta đã nhận làm gián điệp cho Anh để được thả khi bị bắt ở Hồng Kông vào năm 1933 là lúc ông ta bỗng biến mất trong khi đang nằm nhà thương vì bệnh lao. (5)

Một bằng chứng hùng hồn cho thấy Hồ Chí Minh không phải là người thực sự yêu nước, ít nhất là ở giai đoạn sau, mà ông chỉ yêu Cộng Sản. Ông không phải nhà cách mạng quốc gia, mà thực sự là một kẻ cuồng tín vì chủ nghĩa vô sản quốc tế. Tác giả đã trích dẫn lời tuyên bố của ông Hồ vào cuối thập niên 50, nhân dịp mừng sinh nhật của ông, đã được tờ “Echo du Viêtnam” (Tiếng vọng từ Việt Nam), cơ quan bán chính thức của Cộng Sản Việt Nam ở Paris số ra tháng 7 năm 1960 như sau:
“Thoạt tiên lòng yêu nước chứ không phải Cộng Sản đã dẫn tôi đến chỗ tin tưởng ở Lê-nin và Đệ Tam Quốc Tế. Nhưng dần dần, từng bước trên đường tranh đấu, và phối hợp những nghiên cứu lý thuyết với các hoạt động thực tế, tôi đã nhận ra rằng chỉ có xã hội chủ nghĩa và Cộng Sản chủ nghĩa mới có thể giải phóng công nhân và nhân dân bị áp bức trên khắp thế giới.

Tại Việt Nam cũng như tại Trung Quốc có một huyền thoại về cẩm nang; bất cứ ai gặp khó khăn trọng đại chỉ cần mở cẩm nang ra là tìm thấy cách giải quyết. Đối với Cách Mạng Việt Nam và nhân dân Việt Nam, chủ nghĩa Mác Lê không những chỉ là cẩm nang hay la bàn, mà chính là mặt trời soi đường dẫn lối trên đường đi tới thắng lợi cuối cùng, tới xã hội chủ nghĩa và Cộng Sản chủ nghĩa.”
Những hàng trên đây cho thấy, có thể là ban đầu, (nếu ta tin được lời ông Hồ), ông Hồ coi chủ nghĩa Cộng Sản như một phương tiện, đảng Cộng Sản Việt Nam như một công cụ để đi tới cứu cánh là độc lập tổ quốc. Nhưng dần dần phương tiện và cứu cánh hoán vị. Quốc gia, độc lập chỉ còn là phương tiện, là chiêu bài giả dối. Chủ nghĩa Cộng Sản, cách mạng vô sản, chuyên chính vô sản mới là cứu cánh. Nếu từ đó ông ta và đồng đảng còn nói vì tổ quốc, vì nhân dân Việt Nam thì đó chỉ là láo khoét.

Tác giả Hoàng Văn Chí đã phân tích diễn biến của cuộc xích hóa miền Bắc Việt Nam và chia nó ra làm 6 giai đoạn từ việc thành lập chi bộ Cộng Sản đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1925 qua việc thành lập “Thanh Niên Đồng Chí Hội”, phong trào “Xô Viết Nghệ Tĩnh”, “Mặt Trận Bình Dân”, rồi “Mặt Trận Việt Minh” và tiến hành “công cuộc kháng chiến chống Pháp” cho đến cuối cùng là thực hiện “Cải Cách Ruộng Đất”. Rồi ông tập trung vào giai đoạn cuối cùng này làm chủ đề cho hầu hết tác phẩm.

Muốn tiến hành CCRĐ một cách thành công để tiến tới công hữu hóa tài sản toàn quốc, các người Cộng Sản đã chuẩn bị ba bước quyết liệt. Thứ nhất, áp dụng chế độ tàn bạo về thuế nông nghiệp và thuế thương nghiệp để san bằng khoảng cách về kinh tế giữa các thành phần trong xã hội. Thứ hai, tung ra một đợt khủng bố quy mô với mục đích làm cho người dân khiếp sợ không còn dám phản kháng để dễ bề thực hiện các đợt sau. Và thứ ba, lập danh sách những kẻ phản động cần xử lý, hoặc hành quyết, hoặc tịch biên tài sản, gửi đi lao động tại các vùng rừng thiêng nước độc.

Sau đó là bắt đầu cải tạo tư tưởng. Với mục đích làm sao cho mọi người cùng chung một tư tưởng, dù nó sai chăng nữa nhưng phải là một tư tưởng thật đơn sơ giản dị để mọi tầng lớp nhân dân dù ít học cũng lãnh hội được. Trước tiên là mở các lớp học tập để mọi người thông suốt đường lối đấu tranh của chủ nghĩa Mác Lê. Trường Chinh, tổng bí thư, và cũng là lý thuyết gia hàng đầu, đã đích thân chỉ đạo việc học tập và bắt mọi người phải chấp nhận nguyên lý tư tưởng chính trị trên hết. Nhân dân ngoài đảng được dậy cho biết họ phải luôn hướng lòng trí về việc thống nhất đất nước và tiến tới sự làm chủ đất nước. Còn đảng viên thì phải học để tăng cường ý thức giai cấp vô sản, chống lại ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản và tiểu tư sản. Việc chống tư tưởng tư sản được thực hiện một cách tuần tự, từ khoan nhượng châm chước lúc ban đầu rồi sau đó phê bình cái sai cái trái và sau cùng mới đả kích.

Trong báo cáo chính trị của Trường Chinh đọc tại đại hội đảng kỳ 3 năm 1960 mà tạp chí Học Tập, cơ quan lý luận và tư tưởng của đảng Cộng Sản Việt Nam đăng tải vào tháng 9 năm đó người ta đã đọc được những hàng sau đây nói về việc cải tạo tư tưởng trong thời kỳ ông ta vâng lệnh cố vấn Tầu lãnh đạo các cuộc cải cách ruộng đất từ 1953 đến 1956:
“Mục tiêu của cách mạng hiện nay là làm cho toàn dân và đặc biệt là nhân dân lao động thấm nhuần ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, từ bỏ nhãn quan cũ về cuộc sống và thế giới, thay nó bằng quan niệm Mác Xít. Quả thực chủ nghĩa Mác Lê-nin sẽ đảm lãnh vai trò lãnh đạo trong việc hướng dẫn đời sống đạo đức của đất nước ta và sẽ trở thành khuôn mẫu cho sự thành hình các tư tưởng của toàn dân. Nó sẽ là nền tảng đạo lý của nhân dân ta.”

Sau khi trích dẫn những hàng trên của nhà lý thuyết số một của cộng đảng Việt Nam, tác giả “Từ Thực Dân Đến Cộng Sản” đã nhận xét một cách chí lý như sau:
“Đoạn văn trên đây chứng tỏ chủ nghĩa Mác đang trở thành một tôn giáo với trọn vẹn ý nghĩa của từ tôn giáo—một thứ tín ngưỡng mới đang không ngừng cố gắng thay thế các tín ngưỡng hiện có và nó không dung thứ bất cứ một dấu vết của “phiếm thần” hay “vô thần” nào trong những người mà nó kiểm soát.”  (6)
Nơi chương 10 tác giả đã thuật lại cách thức các cán bộ Cộng Sản tự kiểm thảo và thú tội giống hệt cung cách mà các tín đồ đạo Công Giáo thời đó “xét mình”, “ăn năn tội” và “xưng tội”. Những cuộc kiểm thảo càng trở nên gay gắt và những cuộc thú tội cũng trở nên sôi nổi hơn sau khi Mao Trạch Đông chiếm trọn Hoa Lục vào năm 1949 và xuất cảng lề lối sinh hoạt của các đảng viên “các chú con trời”. Ta hãy đọc một đoạn vắn về diễn tiến một cuộc kiểm thảo sinh viên dành cho một giáo viên phạm lỗi đã cho điểm một học sinh cao hơn học sinh đó xứng đáng:
“Lời khai cơ bản: Ông (bà) đã cho trò X điểm cao hơn y xứng đáng.
Suy diễn:

1) Bằng cách thiên vị ưu đãi một cá nhân trong chúng tôi ông (bà) đã hy vọng tạo nên sự bất hòa.
2) Khi có sự bất hòa trong lớp, học sinh sẽ để hầu hết thời giờ cãi nhau, thay vì học.
3) Do đó học sinh tiến bộ ít.
4) Điều này làm cho cha mẹ chúng bất mãn
5) Và sẽ làm cớ cho họ nói rằng hệ thống giáo dục của chúng ta thua kém Pháp;
6) Họ sẽ bảo thực dân tốt hơn dân chủ nhân dân;
7) Vì vậy, khi cho một điểm không đáng, ông (bà) cố tình phục vụ thực dân.

Kết luận: Ông (bà) là bè lũ tôi tớ của Pháp và Mỹ.

Những cách mắng nhiếc giáo viên như vậy rất phổ biến và rất ít trường còn có một giáo viên không hề bị đối xử một cách nhục nhã như vậy. Đây chính là lý do tại sao có đông nhà giáo từ vùng kháng chiến ồ ạt chạy sang vùng bị Pháp chiếm đóng trong những năm 1950 và 1951.” 

(7)Cứ đọc những hàng trên về cách lý luận trong kiểm thảo để bắt buộc nạn nhân phải nhận tội một cách kỳ cục ta đủ thấy nó võ đoán và tàn bạo đồng thời cũng ngây ngô đến mức độ nào. Nhưng chưa hết. Hãy đọc đoạn sau đây nói về sự ép buộc phải ăn năn hối lỗi của những kẻ bị kiểm thảo:
“Ngay từ đầu đã có sự thỏa thuận về kiểm thảo là kẻ bị phê bình phải nhỏ một ít nước mắt để cho cử tọa thấy rằng, nhờ bài học nhận được từ những người bạn độ lượng, mình rất lấy làm xấu hổ và hối hận. Nhưng trong một số trường hợp, nhất là ở những trường học, một số người trước đó đã thú tội rồi nay tiếp tục nhắc nhở nhau cùng nhớ lại tội lỗi và cùng cất tiếng khóc chung với nạn nhân. Phần lớn họ là những đảng viên trẻ…Họ khóc nức nở, nghẹn ngào và than vãn kể lể về việc họ đã thất bại không hoàn thành nhiệm vụ đảng trao phó ủy thác cho. Họ nói họ rất đau buồn thấy rằng những cố gắng kiên trì của đảng nhằm cải tạo nhân dân đã không có kết quả. Những đảng viên trẻ này rất dễ khóc, vì họ luôn luôn ở trong tình trạng thần kinh căng thẳng. Bị nhồi sọ về chính trị nhiều quá, lại bị tiết dục hoàn toàn họ trở nên đa sầu đa cảm thái quá. Và cũng vì thế họ là những kẻ cực kỳ cuồng tín. Thực ra đã có một số trường hợp điên loạn thực sự. Tại một trường quân chính ở Việt Bắc năm 1952 đã có tới 8 học viên bị bệnh tâm thần.

Thoạt tiên những cơn bật khóc chỉ thỉnh thoảng mới xảy ra nhưng về sau thành thói quen chỗ nào cũng có. Điều này đưa đến nhận xét chung là đảng đã khám phá ra bí quyết của việc cải lão hoàn đồng, bởi vì nhờ hệ thống kiểm thảo này người lớn đã trở thành trẻ con.
Dĩ nhiên khóc than tập thể được dùng trong quá trình kiểm thảo như một phương tiện thuyết phục — một hình thức áp lực tập thể — để thúc đẩy mau chóng thú tội. Có lần cả một lớp học được gọi tới để giúp một học viên đã không chịu viết bản tự phê như đã được đề nghị. Khi tới căn nhà học viên đó ở thì cả lớp đồng thanh cất tiếng khóc, khiến các nông dân chủ hộ hoàn toàn kinh ngạc náo động vì họ kết luận, một cách tự nhiên, rằng chắc hẳn phải có một người trong nhà họ đã chết thình lình. Nhưng (kỹ thuật) khóc lóc xử dụng cách máy móc theo kiểu này chẳng bao lâu đã mất tác dụng và cái cảnh một số người khóc không có nước mắt trở thành khôi hài. Tuy nhiên không ai dám cười những người khóc. Bởi vì sự trịnh trọng đến nực cười của họ cho thấy là họ đang diễn xuất cái việc mà họ nghĩ là nhiệm vụ của họ. Cho nên thói quen đó vẫn tiếp tục trong một thời gian khá dài, từ 1951 đến 1953. 

8)Phương pháp kiểm thảo, tự phê và phê bình này kéo dài như vậy đã thay đổi hẳn tính tình và lối sống của người dân Việt Nam đến nỗi dư luận chung lúc ấy cho rằng người Việt Nam tỉnh bơ hơn người Anh và kín đáo còn hơn cả người Nhật.
Tác giả đã để nguyên chương 11 nói về công tác chỉnh huấn do tướng Nguyễn Sơn (người Việt) của Trung Cộng phái sang cố vấn cho cộng đảng Việt Nam, gồm có chỉnh đảng, chỉnh phong và chỉnh quân thực hiện hết sức nghiêm ngặt với mọi người:
“Vì mọi người đều bắt buộc phải dự các lớp chỉnh huấn này nên các khóa học đã phải kéo dài. Một phần ba nhân viên văn phòng đi học thì hai phần ba còn lại phải làm việc cực nhọc hơn và phải chia phần công tác với nhau. Khi toán học viên đầu đã hoàn tất khóa học thì đến toán thứ hai, và cuối cùng là toán thứ ba….
“…Học viên không được đi ra ngoài khu vực giới hạn và suốt khóa học không được tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Họ được phép viết thư cho gia đình (nhưng bị kiểm duyệt cẩn thận), mà lại không được nhận thư của gia đình. Tất cả thư từ được giữ lại cho đến cuối khóa mới phân phát đến tay người nhận….Một trường hợp được ghi nhận về một học viên, một bác sĩ, như sau. Cuối khóa ra về, ông ta được thông báo là vợ ông ta đã chết 2 tháng trước.” 

(9)Trong chương này tác giả cũng dành ra 6 trang để nói kỹ về 10 kỹ thuật giảng huấn chứng tỏ các người Cộng Sản cố gắng bằng mọi cách vừa cương quyết vừa khéo léo thuyết phục học viên phải chấp nhận quan điểm của đảng trong mọi vấn đề. Những thắc mắc đều được các giảng viên giải đáp đến nơi đến chốn. Nếu có ai còn chưa thông thì Trường Chinh sẽ xuống giải đáp. Nếu chẳng may Trường Chinh vẫn không thành công thì đích thân ông Hồ sẽ tới dùng tài thuyết phục của mình làm cho đối tượng phải khuất phục.
Những bài học trong chỉnh huấn được mô tả trong chương 12 gồm có 5 bài. Bài cuối cùng quan trọng hơn cả: Cải Cách Ruộng Đất. Về bài học thứ 3 “Hoàn cảnh mới, nhiệm vụ mới” tác giả có nói đến việc ông Hồ lên án chủ trương trung lập mà ông ta gọi là thứ “đánh đĩ chính trị”. Chúng tôi thấy đây là bài học cho những người muốn trung lập, hay thỏa hiệp với Cộng Sản. Về bài học “tác phong đứng đắn”, khi nói về kỷ luật sắt của bộ đội, nhất là về vấn đề trai gái, tác giả đã kể một câu chuyện như sau:
“Trong chiến dịch Tây Bắc năm 1950 cộng quân đóng ở Sơn La (cư dân tỉnh gồm bộ tộc Thái) thường bị các cô gái Thái trêu ghẹo. Các cô này sống ở triền núi phía Tây của dẫy Trường Sơn. Không giống các cô gái người Kinh, họ không bị ràng buộc bởi truyền thống Nho Giáo và vì vậy thường dạn dĩ hơn, sẵn sàng tán tỉnh bất cứ người nào tới thăm bản làng của họ. Chẳng bao lâu họ lấy làm ngạc nhiên và bực mình khám phá ra rằng bộ đội Cộng Sản cứ trơ trơ như đá trước những lời gợi tình của họ. Và từ đó có tiếng đồn rộng rãi trong số những người con gái đó rằng bộ đội cụ Hồ đã bị cụ cho hoạn hết trước khi xua ra trận.”
“Thật là lý thú để ghi nhận rằng trong khi mãi dâm bị cấm chỉ và mọi “hành vi hủ hóa” bị trừng phạt nặng nề, mà lính có vợ lại bị từ chối không cho về nhà nghỉ phép. Người ta bảo làm vậy để giữ tinh thần chiến đấu mãnh liệt trong đám binh lính. Và có thể là rất đúng vì đó chính là cách nuôi gà chọi và ngựa đua.” (10)
Tác giả quả thật đã phũ phàng trong một lời nhận xét mỉa mai chua chát đến thế là cùng. Và ông nói một cách rất bình thản. Nhưng tác giả lại nêu tên 3 đảng viên cao cấp có nhiều vợ:
“Cũng có nhiều đảng viên nổi tiếng muốn có vợ thuộc giai tầng ngang hàng với mình về xã hội cũng như chính trị. Đây là trường hợp của các ông Hoàng Minh Giám, bộ trưởng văn hóa, Trần Huy Liệu nguyên bộ trưởng tuyên truyền và Đặng Kim Giang bộ trưởng đạn dược. Có tin đồn là những vị này đã có thời gian khổ sở vì chuyện tự thú về vấn đề này. Người ta còn nói ông Hồ Chí Minh đã để nhiều giờ giải thích cho ông Trần Huy Liệu rằng có ba vợ là điều sai trái, và đặc biệt là người vợ mà ông ta yêu thương nhất lại là điền chủ, vợ góa của Phạm Giao là tên phản động bị Việt Minh giết năm 1945.”(11)

Về sự nham hiểm của các nhà lãnh đạo Cộng Sản trong âm mưu tiêu diệt thành phần điạ chủ, kể cả đảng viên, hay những người đã dùng tài sản của mình giúp đỡ kháng chiến trong những ngày đầu, Hoàng Văn Chí viết:
“…Sau 10 ngày thảo luận chi tiết, người ta đã thấy rõ là báo cáo của Trường Chinh chỉ nhằm ngụy trang cái mục đích nham hiểm của đảng là thanh toán giai cấp có ruộng đang không có cách gì tự vệ. Giai cấp này đã phục vụ Kháng Chiến trong nhiều năm và đã giúp đảng Cộng Sản bảo vệ và củng cố quyền hành.”  (12)

Tác giả đã dành 3 chương 13,14,15 để nói kỹ về chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất “long trời lở đất”. Trước hết là việc phân chia giai cấp trong làng xã: Địa chủ, phú nông, trung nông, bần nông và bần cố nông (trung nông còn được chia thành 3 loại trung nông cấp trên, trung nông cấp giữa và trung nông cấp dưới). Cải cách ruộng đất được thực hiện làm hai đợt. Đợt đầu gọi là chiến dịch “Giảm Tô” từ 1953 đến 1954, và đợt sau là chiến dịch “Cải Cách Ruộng Đất” đúng nghĩa, từ 1955 đến 1956. Trong đợt đầu các người chủ trương ấn định mỗi xã phải có ít nhất một địa chủ bị hành quyết, thường lấy trong số người đã được đảng bí mật ghi vào loại địa chủ gian ác. Chính nhân dân trong làng đa số là bần nông trở xuống sẽ được chỉ định để tố cáo các “tên địa chủ gian ác” tại các “tòa án nhân dân.“ Chánh án cũng lấy trong số dân làng. Sau đợt đầu đảng cho một tiểu đoàn đăc nhiệm tới các xã tiến hành cuộc xếp hạng lại thành phần giai cấp, viện cớ là đợt trước nông dân xếp hạng chưa đúng còn để sót nhiều địa chủ. Vậy là một số thuộc thành phần phú nông ở đợt đầu được đôn lên thành địa chủ. Và lần này số người đảng ấn định phải chết tăng lên gắp 5 lần, nghĩa là mỗi xã phải có ít nhất 5 người bị hành quyết tại chỗ, liền ngay sau khi toà án nhân dân tuyên án. Các tiểu đoàn đặc nhiệm làm việc dưới sự chỉ đạo tại chỗ của các cố vấn Tầu. Tác giả cho biết lúc ấy tại vùng Cộng Sản kiểm soát có khoảng 10 ngàn làng xã. Như vậy nếu tính cả hai đợt cải cách ít nhất phải có ít nhất 60 ngàn người bị hành quyết. Chưa kể không biết bao nhiêu người tự tử, vì nhục nhã.(Ví dụ bị con dâu hay con gái tố bị cha hay cha chồng hãm hiếp, hoặc những người bị kẻ chịu ơn xỉ vả, mắng nhiếc…), và không biết bao nhiêu người khác chết đói, sau khi bị tịch thu hết tài sản và quẳng ra ngoài đầu đường xó chợ, không ai dám thăm nom tiếp tế, vì chính sách cô lập địa chủ của đảng.

Điều đáng lấy làm nhục nhã hơn hết là có một số người trong chiến dịch “Giảm Tô” đưọc xếp là bần nông hay trung nông, nhưng sang đợt sau lại được xếp lại thành địa chủ và bị đấu tố. Trong đợt trước họ đã không tiếc lời bịa đặt đủ mọi thứ tội để tố cáo người khác. Nay đến lượt họ lại bị tố cáo chẳng khác gì.

Sau đây chúng tôi trích dịch một vài đọan trong 3 chương nói về 2 chiến dịch Giảm Tô và Cải Cách Ruộng Đất nói trên do tác giả đã từng chứng kiến và tham dự thuật lại, hoặc do ông trích dẫn từ những tài liệu chính thức của Cộng Sản hoặc của những chứng nhân đáng tin cậy khác.
“Khắp vùng nông thôn Bắc Việt trắng xóa với những vành khăn tang” (trang 166) “Khẩu hiệu của chúng trong những ngày khủng bố là: “Thà giết lầm 10 người vô tội còn hơn để lọt một tên địch”. (trang 167)
“Cuộc học tập nhồi sọ tiếp diễn hầu suốt 18 giờ mỗi ngày, cho đến khi, cuối cùng những nông dân trước kia ngoan ngoãn trở nên chín mùi cho việc nổi loạn chống lại các điền chủ của họ.” (tr.170)
“(Những cuộc điều tra về những vụ trai gái, ngoại tình này nhằm một mục đích riêng: người đàn bà có tư tình với một địa chủ nào đó khi còn trẻ sẽ bị bó buộc phải tuyên bố trước công chúng rằng bà ta đã bị tên địa chủ đó hãm hiếp)” (tr.170)
“Điều lý thú đáng ghi là hãm hiếp phụ nữ là một trọng tội dành cho các điền chủ và những ai có chút uy tín trong cộng đồng, như linh mục Công Giáo hay các vị sư Phật Giáo và đặc biệt là những nhà Nho uyên bác. Đây là định luật: địa chủ càng có vẻ bề ngoài đáng kính (ví dụ nếu có râu bạc hay đầu hói), thì những tội về luân lý của họ càng nặng. Rất thường thấy là trong những trường hợp như vậy chính con gái hay con dâu của bị cáo đứng trước tòa công khai tuyên bố rằng cô ta bị ông bố hãm hiếp. Cũng tương tự như vậy, địa chủ càng được nhiều người biết là có lòng ái quốc thì càng bị buộc tội có những hành động phản quốc.
“Vì không cần chính xác, nên bất cứ cái chết nào xảy ra trong làng trước đó vài năm đều được đổ hết cho địa chủ liên hệ. Ông Nguyễn Đình Pháp ở Nghệ An, một nhà trồng tỉa, và là nghị sĩ quốc hội bị cáo buộc là đã giết 35 mạng người, chỉ vì đã có 35 người chết vì sốt rét rừng trong đồn điền của ông ta. Trong cuộc đấu tố dành cho ông Lê Trọng Nhị, một lãnh tụ quốc gia trong phong trào những năm 1907-1908 là người đã từng bị giam 9 năm ở Côn Đảo, một người đàn bà đã lên đối chất với ông với những lời lẽ như sau: “Mày có biết rằng con tao không phải do chồng tao, mà chính là do mày không? Trong khi chồng tao vắng nhà mày đã đến ngủ với tao. Và tao có con là từ lúc đó.” Lúc đấu tố ông Nhi đã 75 tuổi, người đàn bà kia khoảng 60 và con bà ta đã ngoài 40. Vài người dân làng làm một con tính nhanh và khám phá ra rằng trong thời gian bà ta thụ thai thì ông Nhi đang giở sống dở chết ở một nhà tù của Pháp cách xa cả ngàn dặm.” (trang 187)

“Hãy tố càng nhiều càng tốt.…Sau khi tiểu đoàn đặc nhiệm đi rồi, người con dâu (của một bà nào đó) giải thích trường hợp của mình cho nhân dân trong làng. “Tôi không thể nào đê tiện đến độ tố cáo mẹ chồng tôi, vì vậy sau khi tiểu đoàn tuyên bố liệt mẹ tôi vào số địa chủ, tôi bàn tính với mẹ tôi suốt cả đêm. Tôi muốn đi tìm tiểu đoàn để phản đối. Nhưng mẹ tôi cương quyết khuyên tôi đừng làm như vậy. Bà bảo tôi: “Mẹ đã gần 80 tuổi rồi, chẳng còn sống được bao lâu, vì vậy họ có xếp mẹ vào loại địa chủ thì cũng chẳng sao. Nhưng nếu con phản đối, con sẽ không tránh khỏi bị liên hệ với địa chủ và trong trường hợp đó cả hai mẹ con ta đều mất tất cả mọi sự. Hãy tố cáo mẹ càng nhiều càng tốt và như vậy sẽ giữ được ruộng của con.” (tr.178)
“Trong thời gian hai chiến dịch giảm tô và cải cách ruộng đất mỗi tỉnh đều có một tờ báo địa phương, tờ Lá Rừng (họ cho rằng tội ác của địa chủ nhiều như lá rừng) mô tả chi tiết các cuộc đấu tố địa chủ. Tất cả cán bộ trong các cơ quan chính phủ bị bắt buộc phải đi tới một làng xã để quan sát thủ tục diễn tiến của chiến dịch C.C.R.Đ. Mục đích nhằm cung cấp cho họ một sự hiểu biết sâu xa về chính sách của đảng mà người ta tự hào là “hoàn toàn hợp tình hợp lý” Những cán bộ này thực hành hình thức “ba cùng” (cùng ở, cùng ăn, cùng làm) với nông dân địa phương nhưng họ chỉ dự các cuộc đấu tố như người quan sát chứ không có quyền can dự vào việc đấu tố. Tuy nhiên sự có mặt của họ có tác dụng thuận lợi; tại những xã có mặt họ chiến dịch được thực hiện tốt đẹp hơn và nói chung những địa chủ bị phạt ít tàn bạo hơn. Sở dĩ có điều này là bởi vì đảng nuốn gây cho cán bộ có ấn tượng rằng chính sách của đảng là đúng đắn. Kết quả là những điền chủ trong các xã được những cán bộ đó tới thăm cho mình là kẻ có phước và coi những cán bộ đó như những “thiên thần hộ mệnh” vậy.” (tr.188)

Chúng tôi xin tạm ngưng trích dẫn ở đây để lưu ý độc giả về đọan trên đây (tr.188). Nếu đọc kỹ và suy nghĩ một chút ai cũng có thể thấy mưu sâu quỷ kế của Cộng Sản. Họ vừa đánh lừa cán bộ của họ vừa đánh lừa dân làng, kể cả địa chủ. Tất cả tội ác đều do họ gây nên. Nhưng họ muốn người ta hiểu rằng ở đâu có cán bộ của họ thì ở đó mọi sự tốt đẹp hơn. Họ tàn bạo với địa chủ, muốn tiêu diệt hoàn toàn giai cấp gọi là địa chủ này. Nhưng lại muốn cán bộ của họ hiểu rằng đảng cư xử rất “hợp tình hợp lý” chứ không làm gì độc ác, hay quá đáng. Những gì quá đáng xảy ra là do lòng dân quê thù ghét bọn địa chủ gian ác mà thôi. Chính cái mưu sâu hiểm độc này đã khiến cho nhiều người trong cán bộ cũng như nhân dân bị lầm. Cho nên đảng mới tiếp tục giữ được uy tín mà điều khiển cuộc chiến. Tuy nhiên đó chỉ là một trong trăm nghìn quỷ kế hiểm độc khác, trong đó phải kể việc khủng bố tinh thần, làm cho toàn dân kinh sợ không dám trái lệnh đảng, và nắm chặt hầu bao. Không theo đảng không có ăn. Sau cuộc cải cách tất cả mọi người trở thành vô sản. Nông dân không vào nông hội không có ăn, vì mọi địa chủ đã bị tiêu diệt hay bị cô lập đang chết dần chết mòn. Mà đã vào nông hội hay hợp tác xã rồi thì phải lao động cực khổ theo kỷ luật đảng. Làm việc vất vả cực nhọc hơn thời thực dân phong kiến nhiều gấp bội, nhưng lợi tức thu vào cho gia đình thì lại thua kém xa, một phần vì thuế nông nghiệp quá nặng, phần vì tổ chức luộm thuộm thất thoát đi nhiều, phần vì tâm lý “cha chung không ai khóc”…vân vân. Xin mời bạn đọc tiếp tục theo dõi tác giả Hoàng văn Chí trong những đoạn trích dẫn.
(Về cuộc xử án địa chủ):
“…Mỗi quận có một tòa án lưu động gồm toàn nông dân không biết tí gì về luật lệ hay luật pháp. Có chánh án, có công tố viên nhưng không có ai bênh vực cho bị cáo vì, trong thực tế bị cáo không được phép tự bào chữa. Biên bản đấu tố mà họ đã ký mấy hôm trước được dùng làm lời khai của họ. Bồi thẩm đoàn gồm chính những nông dân đã ngồi trên bàn chủ tọa trong các cuộc đấu tố. Bản án do toà đưa ra thay đổi từ tử hình xuống đến 5 năm khổ sai kèm theo tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nói tịch thu một phần chẳng có nghĩa gì bao nhiêu. Bởi vì toàn bộ những gì bị cáo sở hữu đều sẽ bị tịch thu sau khi chiến dịch CCRĐ đợt 2 thực sự xảy ra.”

“Những kẻ bất hạnh bị kết án tử hình bị bắn liền ngay sau khi bản án được tuyên. Trước khi phiên toà bắt đầu người ta đã đào một cái hố để chôn nạn nhân. Thời gian đầu chiến dịch, kẻ bị kết án tử hình được phép nói đôi lời trước khi hành hình, nhưng về sau khi có một người hô to: “Hồ chủ tịch muôn năm! Đảng Lao Động muôn năm!” ngay trước khi bị bắn, thì cái hình thức trưởng giả đó bị bãi bỏ. Từ đó về sau một cán bộ đứng ngay đàng sau bị cáo, sẵn sàng để vừa nghe bản án anh ta liền đút một mảnh giẻ vào mồm nạn nhân và lôi đi. Điều khiến cho số phận của những địa chủ này trở nên khủng khiếp là những kẻ thuộc toán hành quyết bắn rất dở, vì hầu hết họ là những lính canh trong làng lần đầu cầm súng. Hậu quả là năng có trường hợp nạn nhân bị chôn sống. Người ta san bằng cái hố, rồi trồng trên đó một cái cây hay một bụi rậm. Một cuộc tuần hành vĩ đại được tổ chức trong dịp hành quyết địa chủ, gồm những trẻ nhỏ đánh trống còn người lớn thì hô to những khẩu hiệu quen thuộc. Đám đông phải vỗ tay khi nạn nhân ngã qụy.”…

“…Để hoàn tất bức tranh về cuộc (cải cách ruộng đất đợt 1 được gọi là chiến dịch)“Giảm Tô” tưởng nên nói vài lời về cái “chính sách cô lập” nổi tiếng từng phải chịu trách nhiệm về số người chết có lẽ 10 lần nhiều hơn số đã bị xử bởi các Tòa Án Nhân Dân Đặc Biệt.” (tr.189)
“Có thể nói dường như Hồ Chí Minh đã dấn thân vào một cuộc tàn sát diệt chủng. Nói chung Hitler và Eichmann đã không đạo đức giả bằng Mao và Hồ, vì khi ra lệnh đem người Do Thái tới lò hơi ngạt các nhà lãnh đạo Đức Quốc Xã ít ra cũng đã nhận hoàn toàn trách nhiệm về tội ác của họ. Đàng này các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam và Trung Cộng chỉ thích đứng nhìn giai cấp địa chủ chết một cái chết “tự nhiên” mà xem ra chẳng có ai chịu trách nhiệm trực tiếp.” (tr.190)

“Đảng đã ấn định trưóc con số địa chủ cần bị đem đấu tố cực cao—5 lần nhiều hơn đợt đầu (chiến dịch Giảm Tô)—đến độ nếu tha cho những đảng viên cũ thì con số cần đạt tới sẽ không thể nào đạt được.
“Vì vậy đợt hai đã gây nên sự xô xát nội bộ giữa những đảng viên cũ phần đông thuộc thành phần tiểu tư sản (tạch tạch sè, tiếng lóng để gọi thành phần này, chú thich của M.V.) tất cả đều là những người đi theo Cộng Sản vì nhiều lý do khác chứ không phải vì quyền lợi giai cấp, và các đảng viên mới gồm những bần nông và bần cố nông không có ruộng cùng với một số những thành phần xấu và bọn lưu manh du đãng. Những kẻ này chỉ có một lòng tham duy nhất là giảm mức sống của các thành phần xã hội khác xuống cùng mức thấp của chúng. Đó lại cũng chính là mục đích của đảng, bởi vì sự xung đột công khai là cần thiết để thực hiện cuộc tổng thanh trừng. Mà không thanh trừng thì không thể nào tiến từ vị thế chống thực dân tới vị thế chống phong kiến được. Bằng chứng là có không biết bao nhiêu đảng viên kỳ cựu bị kết tội phải đi tù hay bị hành quyết mà đảng không hề can thiệp cho họ. Chỉ mãi đến cuối chiến dịch tướng Võ Nguyên Giáp mới nhân danh đảng tuyên bố rằng toàn bộ chiến dịch là sai lầm và hứa sửa sai. (tr. 195-196)
“Sự thú nhận sai lầm và sự cách chức những người có trách nhiệm đối với phong trào đã khiến nhiều quan sát viên ở ngoài tin rằng những sai lầm mà họ thú nhận là những lỗi lầm thực sự, và các nhà lãnh đạo Miền Bắc thành tâm cố gắng sửa sai. Một số ít còn đi xa hơn để kết luận rằng toàn bộ chiến dịch đã thất bại. Không có gì xa sự thực bằng. Bởi vì cái mệnh danh là chiến dịch sửa sai chỉ là một mánh lới bịp bợm khác được thêm vào danh sách các cái bịp vốn đã dài.” (tr. 210)

“Mục đích cuối cùng thực sự đàng sau cuộc CCRĐ là: tập thể hóa ruộng đất…Để đạt đựơc mục đích cuối cùng đó, các lãnh tụ Cộng Sản đã áp dụng một câu cách ngôn của Tầu: “Sát nhất nhân vạn nhân cụ”. Trong hoàn cảnh này, có thể đọc như sau: “Hãy giết vài tên địa chủ ở mỗi làng xã để làm cho toàn dân trong xã kinh sợ”. Điều này giải thích tại sao mỗi làng lại phải ấn định số tối thiểu những người phải hành quyết….”
Ngoài ra nó còn có mục đích làm cho nông dân chia sẻ phần tội-máu với đảng:
“Thực vậy những kẻ tham dự vào các vụ tàn sát trở nên tổn thương về chính tị và đạo đức nên bó buộc phải đứng về phe với đảng vì sợ bị trả thù … Mặc cảm tội lỗi này đã ám ảnh tâm trí người nông dân sau vụ thảm sát khoảng 5% dân số Việt Nam. Và nó đã được mô tả trong văn chương chính thức của Cộng Sản một cách nhẹ nhàng trại đi là “ ý thức làm chủ vận mệnh bản thân của nông dân” (trang 212)
“Quả thực đảng đã khuyến khích bạo động cực đoan và ngoảnh mặt làm ngơ trước mọi lạm dụng mà họ biết trước rằng đó là hậu quả không thể nào tránh được của chính sách “phóng tay”. Hàng trăm, hàng ngàn người đã bị giết một cách oan uổng, bị tù đầy và bị bỏ đói cho đến chết mà đảng toàn năng không hề giơ một ngón tay để cứu giúp. Theo luật định thì bất cứ ai bị án tử hình đều có quyền xin chủ tịch nhà nuớc ân xá. Nhưng sự thật trần truồng là Hồ Chí Minh không hề tha một người nào, cả những đảng viên trung kiên vào lúc bị đao phủ hành quyết miệng còn hô to: “HCM muôn năm” . Tuy nhiên tháng 3,1956 ông Hồ có ra lệnh tạm ngưng thi hành án tử hình. Nhưng đó là hậu quả của chiến dịch hạ bệ Stalin khởi phát ở Mạc Tư Khoa trong đại hội kỳ thứ 20 của đảng Cộng Sản Liên Xô. Những kẻ may mắn được hoãn hành hình, và sau này được thả ra khỏi tù đã mang ơn tha mạng một cách gián tiếp của Khrushchev, chứ hoàn toàn không phải của Hồ Chí Minh. “ (tr.213-214)

Tác giả cho biết theo Võ Nguyên Giáp tuyên bố nhân dịp sửa sai và xin lỗi đồng bào thì nguyên số đảng viên bị đấu tố, kết án rồi bị giam giữ và sau cùng được phóng thích cũng đã lên tới 12 ngàn người. Ông cũng trưng dẫn Ngô Đức Mậu, một đảng viên kỳ cựu nói về nỗi đau khổ của mình trong tù như sau:
“(hồi trước) Khi chúng tôi ở trong những nhà tù tối tăm ẩm thấp chúng tôi có thể an ủi lẫn nhau…vì có sự khác biệt rất lớn giữa nhà tù đế quốc và nhà tù của chúng ta. Trong tù đế quốc tôi chỉ bị đau khổ về thể xác, tâm trí vẫn được an ủi và thư thản… Nhưng bây giờ tôi được đối xử ra sao trong cái chỗ này? Tôi bị chà đạp dưới chân cả về thể chất lẫn tinh thần. Những kẻ ở xung quanh tôi coi tôi như kẻ thù… Một đồng chí đồng hương (Hà Tĩnh) với tôi đã tố cáo tôi những tội do tưởng tượng, biến những thành tích của tôi trong quá khứ thành tội lỗi. Tôi không được phép nói để tự bào chữa. Người ta tra tấn tôi ngày đêm để bắt buộc tôi phải nhận đã phạm những tội mà tôi không hề nghĩ tới chứ âđừng nói phạm.” (tr.215)

Những trang 17-20 đã được dùng để nói tới cái chuyện tịch thu cả vợ trong trường hợp địa chủ bị hành quyết hay đi tù:
(cước chú 4) Câu này liên quan đến những bà “vợ bị tịch thu.” Cũng nên ghi nhận là nó có lợi cho những người chồng mới hơn những người chồng cũ hợp pháp. Và cũng nên ghi nhận là cái được nói đến ở đây như “cuộc hôn nhân thứ hai” trong văn bản chẳng có gì là hợp pháp cả, vì những cuộc hôn nhân mới đó đâu có chứng từ gì. Chỉ có cuộc hôn nhân đầu mới hợp pháp.”
Những từ mà tác giả dùng ở đoạn trên, chồng mới chồng cũ, cuộc hôn nhân thứ hai, thứ nhất là có ý nói đến các bà “vợ bị tịch thu” có chồng chính thức, cuộc hôn nhân đầu, có hôn thú hẳn hòi; nhưng khi chồng cũ bị kết án địa chủ rồi bị bắt đi tù, sau xét thấy bị oan cho trở về thì thấy vợ mình đã bị một đảng viên khác cuỗm mất bèn đi kiện để đòi lại. Nhưng theo cách hành xử của đảng thì người chồng mới lại có lợi thế hơn chồng cũ.

Hai chiến dịch Giảm Tô và CCRĐ đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng. Các nhà lãnh đạo Cộng Sản đã trù liệu trước được những sai lầm đó, nhưng họ cố ý cho nó xảy ra để sau đó sẽ tiến hành kế hoạch sửa sai cũng được trù liệu từ trước. Tác giả dùng hình ảnh uốn khúc tre cong làm ví dụ. Muốn cho nó thẳng lại thì phải uốn quá một chút rồi thả ra thì nó sẽ vừa. Nhưng khi thả ra khúc tre vì được uốn quá xa nên sức bật trở lại quá mạnh làm kẻ uốn bị thương. Đây chính là hậu quả của việc sửa sai. Nông dân đã lợi dụng chiến dịch sửa sai này trả thù những kẻ trước kia, trong CCRĐ, đã hành hạ họ. Những kẻ đã từng vu oan giá họa cho kẻ khác nay đến lượt mình “bị cắt lưỡi, nhét phân vào miệng”… Ông cũng nói đến trường hợp đông đảo nhân dân vùng dậy tấn công bộ đội, điển hình là nông dân Ba Làng , Quỳnh Lưu, Nghệ An. Có tới 20 ngàn người võ trang thô sơ gậy gộc tấn công cả một sư đoàn quân chính quy. (tr. 228) Dĩ nhiên là cuộc nổi dậy bị dập tắt cũng giống như các cuộc nổi dậy ở Poznan, Balan và Budapest, Hungary trong những tháng gần đó. Vì gậy gộc làm sao địch nổi súng đạn. Hơn nữa đó chỉ là một cuộc nổi dậy bộc phát không có tổ chức.

Ngoài nông dân ra những nhà trí thức và văn nghệ sĩ ở Hànội cũng lợi dụng chiến dịch sửa sai để công kích đảng. Sinh viên thì có tờ “Đất Mới”. Văn Nghệ sĩ thì có hai tờ “Giai Phẩm” và “Nhân Văn”. Trong số những người viết cho những tờ báo này có rất nhiều đảng viên trẻ. Đặc biệt là chủ bút tờ Nhân Văn lại chính là Nguyễn Hữu Đang, một đảng viên kỳ cựu có nhiều thành tích, thứ trưởng trong chính phủ đầu tiên. Hai người được nói đến một cách trịnh trọng là luật sư Nguyễn Mạnh Tường và học giả Phan Khôi.

“Giới trí thức thường tự miêu tả như “vợ bé của chế độ” có ý nói đảng chỉ tán tỉnh ve vãn họ mà không có ý định cưới hỏi đàng hoàng. “Hôn nhân” là vinh dự rõ ràng chỉ dành cho công nhân và nông dân. Sự khác biệt giữa “kẻ đáp chăn bông” “kẻ lạnh lùng”, theo kiểu nói Việt Nam, đã được Nguyễn Mạnh Tường nhấn mạnh trong diễn văn của ông như sau:
“Những người trí thức tham gia Kháng Chiến… đã bị vỡ mộng một cách đắng cay khi nhận ra rằng đảng không tin họ, bất chấp nhiều hy sinh họ đã phải chịu vì đảng. Họ đã đòi hỏi quá đáng không? Họ có đòi phải được làm bộ trưởng, đại sứ không? Không. Họ không đòi hỏi gì cả. Phần đông trí thức không có tham vọng và sẵn sàng dành những chức tước đó cho những nhà chính trị và đảng viên. Họ chỉ mong cống hiến khả năng và kinh nghiệm của mình để phục vụ nhân dân và bảo vệ danh dự và sự tự do tư tưởng của mình mà họ tin là chủ yếu cho phẩm cách người trí thức.”
HVC đã trích dẫn diễn văn của Hoàng Huệ đọc trước đại hội Văn Nghệ toàn quốc năm 1956 để nói lên sự khác biệt đối xử giữa những văn nghệ sĩ thường và giới “cai văn nghệ” của đảng như sau:
“Mọi người đều biết mức sống của chúng tôi thật là tồi tệ đáng thương….có nhà văn không đủ tiền mua cốc cà phê khi đã thức làm việc đến khuya. Hơn nữa có những nhà thơ không có tiền mua một điếu thuốc lá. Có trường hợp nhà viết kịch bó buộc phải “cầm” chiếc đồng hồ để mua thức ăn trong khi viết cho xong vở kịch, nhưng ngay sau khi vở kịch đã xuất bản vẫn không đủ tiền chuộc lại chiếc đồng hồ. Hữu Loan bảo chúng tôi anh chỉ có mỗi một điều ao ước là làm sao có được một cái đèn dầu để có thể làm việc ban đêm trong một caí phòng duy nhất là nơi anh sống với vợ và lũ con.”

Trong khi đó thì…
“Các cán bộ văn nghệ thắt cà vạt, mang giầy da và dùng thì giờ đọc diễn văn, dự dạ tiệc với phong cách thô tục lỗ mãng. Ăn rồi họ thu dọn hành lý đi nơi khác…cuốn theo chiều gió.”
Tác giả cũng nói đến những bài “Người Khổng Lồ” (không tim) của Trần Duy, “Thi sĩ máy” của Như Mai và đặc biệt là Lê Đạt với 4 câu thơ cuối bài “Ông Bình Vôi”:

“Những người sống lâu trăm tuổi,
Ỳ ra như ông bình vôi.
Càng sống càng tồi,
Càng sống càng bé lại.”

Ai cũng thấy rõ ràng nhà thơ có ý nhắm thẳng vào ông Hồ. Vì vậy chẳng bao lâu sau khi bài thơ được in ra, người chủ trương là Trần Dần liền bị bắt.
Về số phận của những văn nghệ sĩ và trí thức bị đi tù tác giả trưng dẫn mấy câu của một nạn nhân là một diễn viên miền Nam tập kết tên Hoàng Chương tự thuật lại như sau:
“Chúng tôi ở cách xa những cánh đồng là nơi làm việc 3 cây số. Chúng tôi phải cố gắng hết sức mình để thức dậy thật sớm mỗi buổi sáng để tránh phải gánh phân ra đồng dưới ánh nắng chói chang. Chúng tôi gánh trên vai và Thu, một cô gái Hànội, trước kia ít biết gánh gồng là gì, mà bây giờ có thể gánh tới 20 kí lô (phân tươi)”
Về số phận những văn nghệ sĩ khác tác giả viết:
“Nhiều người trong số trí thức bất hạnh này không bao giờ trở về và không nghe ai nói đến nữa. Những người cuối cùng được cho phép về với gia đình đã có nghề mới không còn phải là nghề dậy học, viết văn hay vẽ vời nữa. Một số lớn được tin là đã tự vẫn.” (tr.239)

Ở những trang cuối sách tác giả đã nói về kết quả tai hại cuả C.C.R.Đ. và hợp tác hóa nông nghiệp và thương nghiệp tại Bắc Việt, tuy không nhảy vọt đến nạn đói, nhưng cũng lững thững đi tới cùng một đích đó:
“Về mức sản xuất thịt gia súc đã có sự giảm sút tương tự (như Trung Quốc, chú thích của soạn giả). Theo tờ Nhân Dân ngày 7 tháng 5 năm 1962, thì mức tiêu thụ thịt tính theo đầu người là 6,2 kí lô và vải sợi là 4,8 mét. Như vậy nếu con số đó là đúng thì một người Việt Nam trung bình đã ăn mỗi ngày 17 gram thịt, và quanh năm chỉ mặc độc có một bộ bà ba. Nhưng theo những người lính Pháp từ Việt Nam về quê vào tháng 12 năm 1962, sau khi đã đào ngũ sang với Việt Minh trong thời chiến, thì khẩu phần nói trên chỉ người dân thành thị mới có được, chứ không có phần cho nông dân.”

Tình trạng đó là hậu quả có thể biết trước của hai cuộc cải cách ruộng đất và công cuộc tập thể hóa kéo dài suốt một thập niên sau đó.” (trang 242-243)
Qua những lời trích dẫn trên tôi thấy tác giả là người nhìn thấu tâm địa độc ác của các lãnh tụ Cộng Sản miền Bắc, và cũng am hiểu phần nào mưu mô xảo quyệt và kỹ thuật lật lọng, lá mặt lá trái của họ. Nhưng không hiểu sao ông lại đi đến kết luận lên án nặng nề chế độ đệ nhất Cộng Hòa của Nam Việt Nam lúc ấy (lúc ông viết xong cuốn sách vào giữa năm 1963). Ông cũng buộc tội các cường quốc Tây Phương là ủng hộ một chế độ “cực kỳ phản động” như vậy. Và ông tán thành hành động chống đối của nhóm Phật Tử quá khích do thượng tọa Thích Trí Quang cầm đầu khi ông viết:
“Nhưng có một điều hiện ra rõ rệt. Đó là Phật Giáo với triết lý Bao Dung có vẻ là một lực lượng ngủ, không chính khách nào cần để ý tới, nay dường như sẽ có thể đóng một vai trò quyết định cho cuộc thống nhất tương lai của Việt Nam.” (trang 244, áp chót)
Không rõ ông HVC có còn sống đến ngày nay để xem kết quả sự đóng góp của cái gọi là Phật Giáo Ấn Quang của thượng tọa Thích Trí Quang vào việc thống nhất Việt Nam nó bi đát đến thế nào không. Đúng là nó đã giúp Việt Cộng thống nhất Việt Nam đấy. Và cho đến nay vị thượng tọa lãnh đạo”Phật Giáo” kia chẳng hề làm gì hay nói gì để chống đối Cộng Sản đang bóc lột và kìm kẹp nhân dân Việt Nam, trong khi bao Thượng toạ khác bị tù đầy áp bức cùng với các vị lãnh đạo tinh thần và tín hữu các tôn giáo khác.

Lời kết luận trên có lẽ được viết giữa 1963, lúc ông đã ở ngoại quốc và nhìn tình hình qua nhãn quan của một số ký giả thiên Cộng hay có thành kiến, ác cảm với Việt Nam Cộng Hòa. Nếu ông viết cuốn sách vào lúc này thiết nghĩ ông sẽ có một kết luận khác.(13)

Chú Thích:
(1) SĐD trang 29
(2) SĐD trang 32
(3) SĐD trang 51
(4) SĐD trang 18
(5) SĐD trang 50
(6) SĐD trang 117
(7) SĐD trang 119-120
(8)SĐD trang 121-122
(9)SĐD trang131-132
(10)SĐD trang 147
(11)SĐD trang 146
(12)SĐD trang 158
(13) Chỉ còn ba ngày nữa đưa in soạn phẩm này, tình cờ tôi được đọc bản dịch của Mạc Định: “Từ Thực Dân Đến Cộng Sản”. Dịch giả nói bản dịch của ông đã được tác giả (cũng chính là tác giả) xem lại, sửa chữa và viết hẳn lại chương cuối. Thì ra đúng tác giả đã xét lại lập trường của ông và không còn thấy những lời kết luận như trong nguyên bản tiếng Anh nữa.


Chương 2
Hoàng Minh Chính và Chủ nghĩa Xét Lại Việt Nam
Chủ Nghĩa Xét Lại (“revisionism”) là thái độ hay xu hướng của một số người theo hay chống Mác muốn xem xét lại học thuyết Mác, đường lối của đệ tam quốc tế, cách cai trị của chính quyền Cộng Sản trong một nước xem nó có còn phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn trên thế giới và trong các điều kiện hiện có trong nước hay không.Người đầu tiên chủ trương xem xét lại học thuyết Mác ở cuối thế kỷ 19 là Eduard Bernstein (1850-1932), một sử gia, lý thuyết gia về chính trị và là người cổ võ cho chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Đức. Ông bác bỏ thuyết của Mác về giá trị lao động, kinh tế chỉ huy và đấu tranh giai cấp. Ông cũng không chấp nhận những lời tiên đoán của Mác về sự sụp đổ đến nơi của chủ nghĩa tư bản.
Nhóm từ “Chủ nghĩa xét-lại” cũng được các người Cộng Sản bảo thủ dùng để gọi chủ trương hay thái độ và việc làm của một vài lãnh tụ Cộng Sản dám hành động trái với những giáo điều Mắc Xít hay những chính sách, đường lối Lê-ninít vốn được tôn thờ từ trước hay áp dụng từ trước trong các nước Cộng Sản. Họ thường thêm tính từ “hiện đại” đi kèm:“Chủ nghĩa xét-lại hiện đại”
Lãnh tụ Cộng Sản chủ trương xét lại trước tiên là thống chế Josip Broz Tito (1892-1980), tổng thống Nam Tư. Ngay khi còn là thủ tướng (1948) ông đã có can đảm đưa nước ông thoát ra ngoài ảnh hưởng của quốc tế Cộng Sản do Liên Xô lãnh đạo, để áp dụng một chính sách ngoại giao trung lập và một nền nội trị tương đối cởi mở hơn các nước khác trong khối Xô Viết.

Lãnh tụ Cộng Sản thứ hai chủ trương “xét lại” là Nikita Khrutshchev (1894-1971), tổng bí thư (danh xưng chính thức lúc ấy là “bí thư thứ nhất “) đảng Cộng Sản Liên Xô, kiêm thủ tướng Liên Bang Sô Viết, (người nổi tiếng do hành động rút giầy ra đập trên bàn hội nghị Liên Hiệp Quốc và việc gửi hỏa tiễn cho Cuba rồi lại rút về dưới áp lực tối hậu thư của tổng thống Mỹ Kennedy). Ông đã thực hiện chủ trương này một cách thực tế bằng việc hạ bệ Staline tại đại hội đảng Cộng Sản XX của Liên Xô vào năm 1956, khui ra những lỗi lầm nghiêm trọng của đảng Cộng Sản Liên Xô suốt trong thời gian Staline cầm quyền và cố đổ hết lên đầu Staline, biến nhà độc tài khát máu này thành con dê tế thần để cứu nguy cho đảng và chính thể Xô Viết. Chính sách hòa hoãn với Tây Phương và cởi mở đôi chút của ông đã gián tiếp dẫn tới sự nổi loạn của nông dân ở Poznan, Ba Lan và ở Budapest, thủ đô Hungary (++ ) khiến cũng chính ông phải ra tay đàn áp và cũng vì thế phe bảo thủ đã làm áp lực cố buộc ông từ chức. Nhưng ông đã đứng vững được hơn 8 năm nữa. Năm 1964 ông bị hạ và trở về sống cuộc đời ẩn dật, đen tối, cực khổ cho đến chết. Đám tang ông chỉ có lèo tèo vài người thân trong gia đình.

Người Cộng Sản thứ ba chủ trương “xét lại” là Mikael Gorbachev, tổng bí thư Liên Xô từ 1985 đến 1991. Ông là cha đẻ của Glasnost và Perestroika (Cởi Mở và Tái Cấu Trúc), chủ trương và thực hiện cải cách về kinh tế và hành chánh. Sẵn có óc tổ chức và cải cách ông đã mạnh bạo dấn thân vào con đường đổi mới và đi những đường ngoại giao đầy sáng tạo. Ông đã hội kiến và thương thảo với những vị lãnh đạo tinh thần và chính trị có uy tín nhất thế giới đương thời như đương kim giáo hoàng La Mã John Paul II và các vị tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan, George Bush. Những vị này đã ảnh hưởng nhiều đến quyết tâm của ông nhằm dân chủ hóa dần dần cơ cấu và guồng máy chính quyền Xô Viết.

Phe bảo thủ trong đảng Cộng Sản Liên Xô đã tìm cách lật ông bằng một cuộc đảo chính trong lúc ông không có mặt ở thủ đô Liên Xô. Nhưng nhờ có những người đồng chí cùng lòng quyết tâm đổi mới không muốn trở lại con đường chuyên chính sắt máu, nhất là nhờ sự dũng cảm của Boris Yeltsin ông đã lật lại thế cờ. Nhưng trớ trêu là trong quá trình bầu cử tự do đầu tiên được thực thi sau hơn 7 thập kỷ độc tài, ông đã mất quyền lãnh đạo không những Liên Xô, mà ngay chức tổng thống Liên Bang Nga cũng rơi vào tay người cùng phe với ông đã trở thành đối thủ về chính trị. Nền dân chủ của Nga ngày nay là nhờ ông mới có, mặc dù những người Cộng Sản còn nuối tiếc chế độ độc tôn cũ gán cho ông cái tội đem nền kinh tế của Liên Bang Nga vào ngõ cụt.. Nhưng công bình mà nói thì phải nhận rằng nền dân chủ của nước Nga và sự cáo chung của chiến tranh lạnh là nhờ Gorbachew. (Nhờ thế ông đã được nhận Giải Thưởng Nobel về hòa bình) Còn tình trạng rối reng về nội trị và sự suy sụp về kinh tế hiện nay ở Nga, một phần do sự kém cỏi của các nhà kinh tế trong chính quyền của tổng thống Boris Yeltsin, và phần nào cũng do thế giới tự do, nhất là những nước giầu có không viện trợ đủ cho Nga, trong lúc nền kinh tế xứ này đã bị phá hủy hoàn toàn bởi chính sách tập thể hoá nông nghiệp và thương nghiệp trong 7 thập niên. Nền kinh tế tập thể chỉ huy đó đã làm cho người dân quen với thói ỷ lại, thiếu sáng kiến, nay bước sang giai đoạn kinh tế thị trường không quen, thiếu kinh nghiệm. Nhưng dầu sao thì người ta vẫn có cớ (nhưng chưa hẳn có lý) để đổ lỗi cho Boris Yeltsin và gián tiếp cho Gorbachev.

Người Cộng Sản Việt Nam đầu tiên có tư tưởng xét lại, có can đảm, vị thế và cơ hội để triển khai tư tưởng đó thành những đề xuất thực tiễn có thể nói là Hoàng Minh Chính. Chỉ tiếc là ông không làm được gì giống như 3 nhân vật vừa nêu. Và thân phận ông cứ lận đận mãi. Cho đến nay ông đã vào tù ra khám 3 lần tổng cộng 12 năm rồi, không kể những năm bị quản chế. Chẳng những khổ cái thân ông mà còn liên lụy đến nhiều đảng viên Cộng Sản khác đã từng tán thành hay bênh vực ý kiến “xét lại” của ông.

Ông Chính không phải là người xướng xuất chủ nghĩa xét-lại. Ông chỉ là người lợi dụng lúc có phong trào xét lại ở Liên Xô do Nikita Khrutshchev lãnh đạo để nêu lên những ý kiến riêng của mình mà ông đã gậm nhấm nhiều năm từ khi du học ở Liên Xô và được nhồi sọ học thuyết Mác Lê để rồi một ngày kia dám nhận ra rằng cái học thuyết đó có gì không ổn. Muốn hiểu rõ nguyên nhân có phong trào xét lại ở Việt Nam và dự đoán xem nó có đi đến đâu không, tưởng cũng nên biết thêm về con người Hoàng Minh Chính và ảnh hưởng của Liên Xô và Trung Cộng đối với đảng Cộng Sản Việt Nam vào những năm 50 và 60, cũng là thời kỳ có các chiến dịch “Giảm Tô” và “Cải Cách Ruộng Đất” long trời lở đất dưới sự điều khiển trực tiếp của các cán bộ Trung Cộng.

Hoàng Minh Chính (sinh năm 1920) tên thật là Trần Ngọc Nghiêm, nguyên quán làng Thượng Lao, huyện Nam Trực tỉnh Nam định (1). Ông gia nhập đảng Cộng Sản khi mới 19 tuổi và người giới thiệu ông là Lê Đức Thọ. Về sau cũng chính Lê Đức Thọ ký giấy tống giam ông. Nhờ có công trong kháng chiến chống Pháp (đã từng cầm đầu quyết tử quân tấn công sân bay Bạch Mai, phá hủy được một số máy bay, và bị thương), ông được đảng cử đi học ở Liên Xô từ năm 1957 đến 1960. Năm 1961 được cử giữ chức viện trưởng viện Triết Học trong 5 năm. Ông cũng từng giữ nhiều chức vụ quan trọng khác như tổng thư ký đảng Dân Chủ, bí thư “Đoàn thanh niên Việt Nam”. Lần đầu tiên ông bị bắt giam từ tháng 7 năm 1967 đến 1972. Lần thứ hai từ 1981 đến 1987. Lần thứ ba từ 1995 đến 1996.

Nắm chức viện trưởng viện Triết Học, giảng viên rồi chỉ huy phó trường đảng Nguyễn Ái Quốc, lại được tổng bí thư đảng Trường Chinh trao nhiệm vụ soạn thảo những diễn văn quan trọng, HMC có thể được coi như một trong những lý thuyết gia của Miền Bắc lúc ấy. Sở dĩ phát sinh cái gọi là “vụ án xét lại chống đảng” khiến ông và một số người khác trong đó mấy tướng lãnh thân Võ Nguyên Giáp bị bắt là do sự xung đột giữa Liên Xô và Trung Quốc sau đại hội 81 đảng Cộng Sản thế giới họp tại Mạc Tư Khoa vào cuối năm 1960. Sau khi hạ bệ Stalin trong đại hội 20 (năm 1956) của đảng Cộng Sản Liên Xô, Khrutshchev chủ trương đường lối “Các nước không cùng lập trường chính trị có thể sống chung”, đồng thời đặt nhẹ đấu tranh giai cấp và đấu tranh giải phóng các dân tộc. Nghĩa là, một cách vắn tắt, không còn tin ở thuyết dùng bạo lực lập chuyên chính vô sản trên toàn thế giới của Mác và Lê-nin nữa. Tại đại hội 81 đảng Cộng Sản và công nhân thế giới phái đoàn Trung Cộng đã phê bình chủ trương này. Phải khó khăn lắm hai nước đàn anh trong khối Cộng mới đi được tới chỗ dung hoà để ra một thông cáo chung đại ý “cùng sống chung hòa bình với Tây Phương nhưng đồng thời các phong trào giải phóng dân tộc vẫn có quyền tiến hành đấu tranh riêng để giành dộc lập.” Nhưng chỉ được một năm thì sự dung hòa gượng gạo này tỏ ra thất bại vì Trung cộng và cả An Ba Ni (2) bắt đầu đả kích đường lối của Khrutshchev cho rằng nó đi sai trệch chủ nghĩa Mác. Những tranh chấp về lãnh thổ ở biên giới hai nước lớn càng đào sâu thêm hố chia rẽ, đẩy hai nước Cộng Sản đàn anh vào thế đối địch gay go.

Bắc Việt là một chư hầu nhỏ cần viện trợ của cả Liên Xô lẫn Trung Cộng, Liên Xô thì là “đại ca”, còn Trung Cộng thì là nước láng riềng lớn, “như răng với môi”, cảm thấy mình bị kẹt ở giữa. Ông Hồ đã khéo léo đi giây ở giữa hai thế lực trong một thời gian. Cho đến khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ ở miền Nam thì đảng Cộng Sản Việt Nam muốn nhân dịp miền Nam rối loạn tiến hành chính sách tốc chiến tốc thắng để chiếm trọn cả nước. Những kẻ thân Mao lý luận rằng Mỹ hạ ông Diệm là để có thể đem quân tác chiến vào. Nếu không tranh thủ lúc quân Mỹ chưa tới mà tốc chiến tốc thắng thì sẽ phải đương đầu với võ khí tối tân của Mỹ và có thể bị tiêu diệt. Chủ trương này được biểu quyết thông qua trong khóa họp thứ 9 của ủy ban trung ương đảng vào cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1963 (một tháng sau cuộc đảo chính lật ông Diệm) và được giữ kín hoàn toàn. (Tuy nhiên rồi sau bên ngoài cũng biết được nội dung của nghị quyết số 9 được biểu quyết trong kỳ họp thứ 9 này. Đó là nhờ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà tịch thu được trong một cuộc đột kích vào một mật khu Việt Cộng là nơi có mặt cán bộ cao cấp từ Hànội vào.) Lập trường mới này dứt khoát ngả theo Trung Quốc chống lại chủ nghĩa “xét lại” của Khrutshchev. Dân miền Bắc lúc ấy ai có radio thì được biết phần nào qua đài Bắc Kinh phần Việt Ngữ. Những nhà trí thức cũng qua đài này nhận ra sự rạn nứt trong khối Cộng Sản Quốc Tế. Và họ muốn ngả theo Liên Xô vì cho rằng theo đường lối xét lại của Khrutshchev sẽ tránh được chiến tranh với siêu cường Mỹ.

Khi Hoàng Minh Chính được trao nhiệm vụ soạn thảo báo cáo chính trị trong hội nghị 9 cho Trường Chinh, ông ta đã viết theo luận điệu của Khrutshchev nên bài của ông không được chấp nhận. Tuy nhiên vì ỷ thế, hoặc vì liều lĩnh ông ta đã phân phát bài của mình cho một số đại biểu dự hội nghị. Dĩ nhiên có một số nghe theo và chấp nhận lập trường của ông cho nên mới có cái gọi là “vụ án xét lại chống đảng” trong đó có khoảng 200 người liên lụy, (3) kể cả cựu ngọai trưởng Ưng Văn Khiêm, các tướng Đặng Kim Giang, Lê Liêm, là hai tướng thân cận của anh hùng Điện Biên, tướng Võ Nguyên Giáp. Không kể cấp nhỏ hơn như các đại tá Đỗ Đức Kiên, Lê Minh Nghĩa, Nguyễn Minh Nghĩa.

Sở dĩ Hoàng Minh Chính dám phổ biến tư tưởng của mình, vì ông quá tự tin. Chẳng những chính ông đã chứng kiến trên 70 đảng trong số 86 đảng Cộng Sản trên toàn thế giới (4) đã hoàn toàn ủng hộ lập trường “xét lại” của Khrutshchev, mà ông còn được chính Trường Chinh, lý thuyết gia số một của Việt Nam lúc ấy cũng tán thành ý kiến của ông, và như sau này ông cho nhà báo Balan Jacek Hugo Bader biết là có gần nửa số ủy viên bộ chính trị cũng tán thành, kể cả ông Hồ Chí Minh (!) (5)
Hoàng Minh Chính bị bắt ngày 27-7-1967, sau khi phổ biến tập tài liệu dầy trên 200 trang tựa đề “Về chủ nghĩa giáo điều ở Việt Nam”. Có khoảng 200 người khác cũng bị bắt và giam ở những vùng xa xôi biệt lập hoàn toàn không được tiếp xúc với thân nhân. Trong số những người bị giam có cả cha con ông Vũ Đình Hùynh, đã từng là bí thư của Hồ Chí Minh. Chúng tôi sẽ có một chương nói về con ông Hùynh là Vũ Thư Hiên với tác phẩm “Đêm Giữa Ban Ngày”.

Ngoài Hoàng Minh Chính coi như đầu vụ, sau đây là danh sách một số nhân vật quan trọng khác có dính líu vào cái gọi là vụ án xét lại chống đảng đã từng bị sát hại một cách bí mật, đầy nghi vấn, bị kỷ luật, bị bắt giam hay bị cô lập, canh chừng theo dõi một cách bí mật mà ai cũng biết, chưa kể những người khác bị giam giữ ở những nơi hẻo lánh, bí mật chưa phát hiện ra:
Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị bị đẩy ra khỏi bộ chính trị từ đại hội đảng kỳ 3. Đặng Kim Giang, thiếu tướng, Lê Liêm thứ trưởng bộ văn hóa, đều là thân cận với Võ Nguyên Giáp từ Trận Điện Biên Phủ, Nguyễn Văn Vịnh, thứ trưởng bộ quốc phòng, Trần Minh Việt, phó bí thư thành ủy Hà-nội, Bùi Công Trừng phó chủ nhiệm Ủy Ban Khoa Học nhà nước, Ung Văn Khiêm, ủy viên trung ương đảng, bộ trưởng Ngoại giao, Phạm Viết, đại tá Lê Trọng Nghĩa, thượng tá Hoàng Thế Dũng, Phạm Kỳ Vân , Lưu Động, Trần Châu, Trần Đĩnh, Trần Thư, Mai Hiến, Mai Luân, Đặng Đình Cần,Nguyễn Gia Lộc, Phùng Văn Mỹ, Vũ Huy Cương vân vân…danh sách này còn dài…Chưa kể 40 người lúc ấy đang ở Liên Xô xin tỵ nạn ở lại và bị khai trừ, trong số đó có Nguyễn Minh Cần, đại tá Lê Vinh Quốc, thượng tá Văn Doãn…v.v.

Năm 1972 HMC được thả, nhưng bị quản thúc tại gia cho đến năm 1976. Năm 1981 ông làm đơn khiếu tố về vụ án của ông và lại bị bắt giam 6 năm rồi bị quản chế thêm 3 năm cho đến 1990. Ông đã kể lại cảnh tù tội khốn khổ của ông trong thời gian này trong bức thư ngỏ ngày 27-8-1993 như sau:
“Đòn đánh lần này tàn bạo gấp bội lần trước. Nhà tù giam mỗi một mình tôi (biệt giam ở Hải Hưng) có trên 20 sĩ quan công an từ cấp úy đến cấp tá canh gác ngày đêm, không rời mắt một giây phút. Họ tuyên bố thẳng với tôi rằng: “chúng tôi được phép hành hạ anh.” Có tên nói: “Tôi sẽ giết anh, tay tôi đã từng vấy máu. Anh là tên phản cách mạng!” Rồi họ dùng biện pháp gây tiếng ồn, phá giấc ngủ ban đêm, gây bệnh ỉa chảy liên tục bằng cách bỏ ruồi nhặng vào canh, cho thức ăn ôi, khi lâm bệnh thì hăm không cho thuốc uống, cứ liên tục như vậy… Rồi họ đầu độc tôi hai đợt bằng cách cho thức ăn có hóa chất độc, gây ốm mê man, miệng nôn trôn tháo, bụng quặn đau, toàn thân run rẩy suốt tuần (có bác sĩ khám chứng nhận đúng là bị ngộ độc thức ăn). Một lần tôi bị 5 tên công an lực lưỡng xông tới bẻ quặt tay, nắm tóc, buộc giẻ bịt miệng rồi bóp cổ tôi chết ngất. Mục tiêu duy nhất của họ là hủy hoại sức khỏe, tiêu diệt ý chí phản kháng, buộc “phải cúi đầu, quỳ gối nhận tội’ như lời hai sĩ quan tay sai của ông Lê Đức Thọ đã thét vào mặt tôi (Tên chúng là Nguyễn Ngọc Nghị và Hoa Văn Lan). Hai lần tù giam cộng 11 năm và 9 năm quản chế tiếp liền sau đó, tổng cộng 20 năm tù đầy và quản chế, với tất cả những nhục hình và hành vi nhục mạ xúc phạm nhân phẩm. Cuối cùng họ đành chịu thất bại hoàn toàn.”
Sau khi được thả năm 1987, rồi bị quản chế thêm 3 năm nữa, HMC đã viết tập “Bệnh ấu trĩ” phê bình đảng đã tiếp thu những tư tưởng giáo điều của cả Stalin lẫn Mao Trạch Đông. Và đến khi bức thư ngỏ đề ngày 27-8-1993 thì nhà cầm quyền đã tìm mọi biện pháp để canh chừng, gài bẫy hòng bắt giữ ông. Khi cuộc phỏng vấn của HMC dành cho nhà báo Balan Bader được đăng trên tờ Gazeta Wyborcza ngày 21-4-1995 đến tay các nhà lãnh đạo Hà-nội, họ liền quyết định dùng biện pháp mạnh với HMC.

Ngày 13-6-1995 ông lại bị bắt lần nữa. Công an đã cho vợ ông, bà Lê Hồng Ngọc, tên thật là Nguyễn Thị Thanh Yến biết ông bị bắt căn cứ các điều 205 và 82 của bộ luật hình sự. Cụ thể là vì “thí dụ như việc liên lạc với tên Đỗ Trung Hiếu, một phần tử xấu, một tên phản động.” Công An cũng trấn an bà là ông Chính chỉ bị tạm giam 4 tháng và sẽ được ra tòa để trả lời về hành động của ông. Bà Ngọc đã đi khắp Hà-nội tìm luật sư bào chữa cho chồng nhưng ai cũng nói: “Vụ này do trung ương đảng chủ trương, chúng tôi không dám dây vào”
Bà Ngọc đã tỏ ý mong các luật sư Việt Nam ở hải ngoại bào chữa cho chồng. Vì bài phỏng vấn của Hoàng Minh Chính dành cho nhà báo Bader đã được phổ biến ở nước ngoài, nên lần này ông đã được nhiều tổ chức nhân quyền ở hải ngoại lên tiếng đòi nhà cầm quyền phải trả tự do cho ông. Tại thành phố Bonn, Đức Quốc, đã có gần một trăm người thuộc 13 tổ chức của người Việt tại đây biểu tình trước tòa đại sứ Việt Cộng để phản đối phiên tòa xử Hoàng Minh Chính và Đỗ Trung Hiếu. Ở Pháp có luật sư Antoine Conte tình nguyện sang Việt Nam bào chữa cho Hoàng Minh Chính và Đỗ Trung Hiếu trước phiên tòa (được ấn định vào ngày 8-11-1995). Nhưng đơn xin nhập cảnh của luật sư không được cứu xét. Ông Chính cũng yêu cầu tòa chấp thuận cho 4 luật sư khác ở trong nước cố vấn cho ông để ông tự bào chữa. Đó là các ông Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Thành Vĩnh, Hoàng Nguyên, Lê Hồng Hà. Nhưng không được tòa chấp thuận. Trái lại tòa chỉ định luật sư Vũ Thiện Kim đứng ra bào chữa. Ông Chính không nhận. Trong phiên tòa ông bị kết án một năm tù.
Hoàng Minh Chính nói gì với ký giả Ba Lan Bader, và viết gì trong bức thư ngỏ? Sau đây chúng tôi chỉ nêu vài điểm quan trọng:

1. Trả lời phỏng vấn:
“Lúc đó (1946) chẳng có ai nói đến chủ nghĩa Mác cả. Người ta chỉ nói đến cuộc chiến đấu vì dân tộc. Trong đơn vị tôi không có một cơ sở đảng nào cả”
“Tất cả những gì tôi nói (đầu 1964) người ta cho là chủ nghĩa xét-lại kiểu mới. Tôi nói như Khrutshchev rằng để tiến lên chủ nghĩa xã hội không cần phải đấu tranh bằng bạo lực, mà bằng hợp tác kinh tế giữa các nước anh em, mở cửa ra thế giới, ra tư bản. Tội lớn nhất của tôi, theo họ là định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội không cần chuyên chính. Họ căm thù tôi vì lẽ đó”
Khi Hoàng Minh Chính nói sau thế chiến hai ở Âu Châu, cụ thể là Balan, Tiệp Khắc, Hungary chủ nghĩa xã hội đã được đưa vào bằng con đường nghị viện (hòa bình), thì Bader bảo: “Ông hoàn toàn sai rồi.” Hoàng Minh Chính thú nhận:
“Ấy, nhưng lúc đó là lý luận của tôi hồi 1960 để thuyết phục họ đừng sử dụng bạo lực để giải phóng miền Nam. Thời điểm đó số phận miền Nam được định đoạt. Chiến tranh chưa bung ra. Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo miền Nam, ở đó tương đối yên ổn. Các đồng chí của tôi muốn quan hệ hòa bình. Chúng tôi không chủ trương dựng bức màn sắt. Mỗi cuộc chiến tranh là một sai lầm. Tôi cảm thấy chủ nghĩa Ghandi là hợp với tôi hơn cả.”

Bader: Và ông nói công khai điều đó?
HMC:
“Vâng. Và phe chủ hòa thậm chí có vẻ như sắp thắng…
“Lê Duẫn là nhân vật số hai, nhưng trong thực tế thì nắm toàn bộ quyền lực…”Khi đó ông Hồ…đứng sang một bên và luôn nhắc câu: “Ném chuột không được làm vỡ bình quý.” …Ông ấy yếu không quyết đoán, và dễ lung lay, không có vai trò thực. Như thế từ năm 1963 cho tới lúc ông ấy qua đời năm 1969.”
Về quyết định tấn công miền Nam của Lê Duẫn, HMC nói:
“Một quyết định rất ngu dốt. Đất nước cần được thống nhất bằng con đường hòa bình.”
Bader: “Nhưng xem ra toàn dân chấp nhận chiến tranh.
HMC: “Nhân dân ư? Ai hỏi ý kiến nhân dân? Đảng là tất cả.
Bader: “Vậy thì không phải người Mỹ mà là chính quân Bắc Việt Nam là kẻ xâm lược.
HMC: “Điều đó nên để các nhà sử học phán xét.”
Trong cuộc phỏng vấn này, HMC cho biết ông đã thôi không còn là người Cộng Sản nữa kể từ khi ông theo học về chủ nghĩa Mác – Lê-nin ở Mạc Tư Khoa và “suốt ba năm rưỡi khi tôi làm viện trưởng (viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê-nin), viện là nơi có tự do dân chủ nhất. Tôi tuyên truyền tư tưởng (mà người ta cho là) xét lại.”
Ông cũng cho biết điều ông ghê tởm nhất là: đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản. Ông chủ trương “mọi sự phải công khai”, ông không hoạt động gì bí mật. Ông chống mọi biện pháp bạo lực cũng giống như ông chống Cộng Sản. “Tôi không chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản cũng như những phương pháp bạo lực”. Như vậy ông cũng không tán thành những tổ chức bí mật chống Cộng bằng bạo lực.

2. Bức thư ngỏ:
Bức thư đề ngày 27-8-1993. Gửi tòa án tối cao, quốc hội, trung ương đảng, mặt trận Tổ Quốc, hội luật gia, các cơ quan truyền thông và bạn hữu. Nội dung gồm có 5 mục:

A. Hành động áp chế, phi pháp của lãnh đạo:
“Nhiều chục, nếu không nói là cả trăm người trong và ngoài đảng bị đàn áp vì có những tư tưởng mới, cấp tiến.” “…Vì bị hành hạ dã man, có người đã chết trong ngục (thí dụ ông Phạm Viết), hoặc cho rời nhà tù để về chết ở nhà (thí dụ ông Phạm Kì Vân), hoặc chết vì quá suy nhược trong tù đày liên tiếp vì đói khổ, thiếu thuốc men, bị o ép tinh thần, chết ngoài lề xã hội, mang hận trong lòng sang thế giới bên kia (như các ông Đặng Kim Giang, Lê Liêm, Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Vịnh, Trần Minh Việt…)”
Ông viện dẫn những điều 7, điều 11 trong pháp lệnh tháng 11 năm 1981, và pháp lệnh khiếu tố năm 1992 để chứng minh rằng Lê Đức Thọ đã không coi luật pháp ra gì vì ông ta nhân danh đảng. Mà đảng thì đứng trên và ngoài vòng luật pháp.
“Tại sao có chuyện cực kỳ phi pháp và phi đạo lý như vậy? Mà chuyện đó lại được coi là lẽ đương nhiên! Điều đó chỉ có thể giải thích được bởi một lẽ duy nhất: Tất cả các cơ quan nhà nước từ cấp trung ương xuống đến cơ sở đều phải đặt dưới quyền lãnh đạo của cấp ủy đảng là cấp toàn quyền, tiên quyết và quyết định tối hậu tất cả. Điều đó lại được pháp chế hóa bằng điều 4 của hiến pháp năm 1980. (Hiến pháp năm 1992 vẫn giữ nguyên điều 4 đó).

B. Về nguồn gốc vụ án xét lại, HMC đã nói đến hội nghị 9 của trung ương đảng cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1963, và nghị quyết 9 theo sau đó. Một nghị quyết được coi là tuyệt mật trong một thời gian dài:
“Điều quan trọng nhất là phải được nghe lời giải thích về điều ẩn giấu của nghị quyết 9 không được ghi trên văn bản mà chỉ được phổ biến bằng miệng từ cấp trung ương rồi truyền miệng xuống tới tận cơ sở. Chính những lời truyền miệng đó mới là thực chất, nội dung, linh hồn sâu kín nhất của nghị quyết 9. Tấm màn bí mật ấy được vén lên bởi ông Trường Chinh, ủy viên bộ chính trị, trưởng ban phổ biến nghị quyết 9 của trung ương. Tại hội nghị các cán bộ cao cấp và trung cấp gồm chừng 400 người họp lần đầu tiên tại hội trường Ba Đình trong tháng giêng năm 1964 để học tập nghị quyết 9. Ông Trường Chinh tuyên bố: “Các đồng chí cần đặc biệt lưu ý một điều là nghị quyết 9, do tình hình phức tạp trong phong trào Cộng Sản quốc tế, không thể viết hết ra những điều cần nói. Cần đặc biệt lưu ý là thực chất của nghị quyết 9 chỉ có thể phổ biến bằng miệng, điều đó là: Đường lối đối nội, đối ngoại của đảng và nhà nước ta là thống nhất về cơ bản với đường lối đối nội đối ngoại của đảng và nhà nước Trung Quốc.”

“Sau đó ít lâu, ông Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức trung ương tuyên bố với cán bộ rằng: “Chống chủ nghĩa xét-lại hiện đại, về mặt lý luận ta để cho đảng Cộng Sản Trung Quốc làm, còn về mặt tổ chức thì ta tự làm lấy.”

C. Trong phần 3 này HMC nêu lên các biến cố ở Đông Âu, Liên Xô và cả đường lối mềm dẻo của Trung Quốc, cũng như những thay đổi hiện nay ở Việt Nam để khẳng định rằng:
“Như vậy thực tế của Việt Nam hiện nay đã vượt xa các quan điểm xét lại thuộc thập kỷ 60 của những người xét lại ở VN.”

D. HMC nói về trường hợp ông đã tán thành chủ trương của Khrutshchev ra sao. Ông cũng nói chính Trường Chinh trao cho ông chuẩn bị văn kiện đi dự đại hội 81 đảng Cộng Sản ở Liên Xô, và lúc ấy phái đoàn đảng Cộng Sản Việt Nam đã chấp thuận đường lối của ông. Chỉ cho đến khi có nghị quyết 9 người ta mới đổi lập trường ngả theo Trung Quốc và kết tội ông là xét lại, bắt giam và quản chế ông tổng cộng 20 năm. Trong thời gian đó ông chịu đủ thứ cực hình. Nhưng họ không làm ông khuất phục để nhận tội.

E. Trong phần kết luận HMC nêu lên 7 điểm. Chúng tôi chỉ trưng dẫn mấy hàng của điểm 3 và điểm 7:
“Nếu Bộ chính trị và ban chấp hành trung ương kết tội những người trong vụ án xét lại chống đảng thì, công bằng mà nói, phải tự kết tội mình trước đã.”
“Việc …đảng từ bỏ giữa chừng quan hệ quốc tế đứng đắn được nêu trong tuyên bố 81 đảng (đã được đồng thuận ký kết), mà nhảy ngang sang dòng nước ngược giáo điều bảo thủ, duy ý chí, Mao-ít cực đoan là một sự thụt lùi ghê gớm. Nó đã đẩy đất nước vào cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng, triền miên suốt nhiều thập kỷ liền mà hiện nay nhân dân ta đang phải trả giá đau đớn khốc liệt bằng chính xương máu của mình.”
“Cuối cùng, tôi xin kiến nghị với quốc hội khóa 9, kì họp thứ 4 sắp tới ….sẽ nghiên cứu toàn diện, sâu sắc mà loại bỏ điều 4 trong hiến pháp năm 1992 cho phù hợp với nền dân chủ đích thực, phù hợp với một nhà nước pháp quyền sẽ được xây dựng, đáp ứng được sự đòi hỏi lâu nay của quốc dân đồng bào cũng như Việt kiều và các gợi ý chân tình của quốc tế.”

Đầu năm 1999, nhân vụ tướng Trần Độ bị đảng khai trừ, HMC có phát biểu trên đài Á Châu Tư Do là mặc dù có vụ này, ” tôi rất lạc quan vì tiến trình thế giới ngày nay đang mở ra tiếng nói về dân chủ, về dân quyền và trở thành ngôn ngữ chung của loài người hiện nay. Và trên thế giới, cao trào hội nhập khu vực, hội nhập toàn cầu đang bùng lên như một cao trào. Việt Nam đã vào ASEAN, vào AFTA và đang xin vào WTO thì lãnh đạo không dại gì chặn lại trào lưu bằng việc làm o ép trong nước.”
Về liên hệ giữa những người trí thức ở hai bên chiến tuyến trước đây, HMC phát biểu:
“Họ đều nung nấu về tình hình đất nước. Họ đều theo dõi tình hình để biết là đất nước hiện nay đang tụt hậu, và đều rất xót xa. Vì thế tôi không thấy có gì ngăn cách giữa những người trí thức với nhau.”

Vài nhận xét về trường hợp Hoàng Minh Chính:
Nữ ký giả Judy Stow từng là đặc phái viên của đài BBC ở Đông Nam Á, sau đó làm trưởng ban Việt Ngữ đài này đã gọi Hoàng Minh Chính là cha đẻ của Chủ nghĩa xét-lại Việt Nam. Đúng ra ông chỉ là người đem áp dụng ở Việt Nam tư tưởng xét lại của Khrutshchev đã trở thành đường lối chính sách của Liên Xô từ đại hội XX năm 1956 và sau đó trở thành đường lối chính sách của đại hội 81 đảng Cộng Sản thế giới năm 1960, trong đó tuyệt đại đa số các đảng Cộng Sản đã đứng hẳn về phía Liên Xô chỉ trừ Trung Cộng, Albany và một vài đảng Cộng Sản khác. Nói là áp dụng thực ra cũng không hoàn toàn đúng, vì Hoàng Minh Chính chưa leo lên được điạ vị có thể đem áp dụng nó mà chỉ luồn lách tư tưởng xét lại trong một số văn kiện được Trường Chính ủy thác soạn thảo, và phái đoàn Cộng Sản Việt Nam tại đại hội 81 đảng năm 1960 đã phát biểu theo lập trường của văn kiện đó. Căn cứ vào những gì Hoàng Minh Chính tiết lộ với nhà báo Bader, cũng như trình bày trong bức thư ngỏ năm 1993 thì, nếu không có sự chia rẽ đến đối đầu quyết liệt giữa Trung Quốc và Liên Xô, và nếu không có tham vọng quyền bính tột đỉnh của hai tay chọc trời khuấy nước họ Lê là Lê Duẫn và Lê Đức Thọ, thì đảng Cộng Sản Việt Nam với Hồ Chí Minh (chủ tịch đảng, chủ tịch nhà nước), Phạm Văn Đồng (ủy viên bộ chính trị, thủ tướng), Võ Nguyên Giáp (ủy viên bộ chính trị, chủ tịch Quân ủy, bộ trưởng quốc phòng) Ung Văn Khiêm (ủy viên trung ương đảng, bộ trưởng bộ ngoại giao) tương đối hòa hoãn và có xu hướng thân Liên Xô, có lẽ đã có thể đem áp dụng những tư tưởng mà Hoàng Minh Chính đem từ Liên Xô về. Và nếu đảng Cộng Sản không bị hai tay họ Lê thao túng ngả theo đường lối giáo điều cực đoan của Mao Trạch Đông, thì có lẽ HMC đã có một địa vị cao hơn, hòng áp dụng đường lối hai miền thi đua phát triển trong hòa bình và thống nhất bằng thương thảo phi vũ trang.

Cho đến nay các vụ án lớn như Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, Chỉnh Đốn Tổ Chức đều đã được công khai hóa. Riêng vụ án Xét Lại Chống Đảng vẫn còn bị ghìm sâu trong bí mật, mặc dù đã có người khiếu tố. Ngay cả Nguyễn Trung Thành là người thụ lý vụ án thời ông làm trong ban tổ chức dưới quyền của Lê Đức Thọ cũng đã lên tiếng yêu cầu đem ra xét xử công khai để giải oan cho nhiều cán bộ cao cấp. Chẳng những đảng không chấp thuận mà còn áp dụng kỷ luật với ông Thành và cả ông Lê Hồng Hà, và còn bỏ tù HMC, chỉ vì ông này đã có bức thư ngỏ.
Người ta tự hỏi: Nếu đem ra công khai vụ này, thì liệu đảng sẽ có nguy cơ bị kết tội gây chiến tranh giết hàng triệu người không? Và còn bao nhiêu hệ lụy khác nữa? Và như vậy cái công “chống Mỹ cứu nước” sẽ trở thành tội phạm chiến tranh?
Trong bối cảnh đó, vụ án xét lại chống đảng trở thành quan trọng và do đó vai trò của người tiên phong đưa tư tưởng xét lại vào Việt Nam như HMC cũng trở nên quan trọng không kém.

Khi bức thư ngỏ của HMC được đăng trên tờ Diễn Đàn ở Paris, một cán bộ (Lê Xuân Tá) đã lợi dụng lúc công tác ở Liên Xô lên tiếng góp ý thêm về vụ án. Ông Tá cũng nhắc lại thái độ và hành động của HMC trong thời gian làm viện trưởng viện Triết Học ở Hà-nội và tỏ ý ca ngợi, tán đồng. Ngoài ra ông cũng nhắc đến các ông Dương Bạch Mai và Bùi Công Trừng là hai nhà trí thức miền Nam (đều là ủy viên trung ương đảng) chống Mao, cùng một lập trường với HMC. Ông Tá đã nhắc lại câu nói của HMC trả lời cấp trên, khi ông này khuyên “nên “régler” bớt cái lập trường “prosovietique” đi để giữ đoàn kết”. Ông Chính bốp chát ngay: “Là thằng ngu thì không nói làm gì. Nhưng nếu là thằng trí thức mà không đủ can đảm bảo vệ chân lý, thì cái đầu của nó còn dùng để làm gì nữa.” Nếu đa số trí thức trong nước dám nói và làm theo chân lý thì có lẽ chế độ Cộng Sản đã chết từ lâu ở Việt Nam rồi.
Vũ Thư Hiên thì chê Hoàng Minh Chính vẫn còn “thể hiện một niềm tin lỗi thời ở đảng”, mặc dầu, như Vũ Thư Hiên viết, “Ban lãnh đạo căm ghét anh” (6)
Nguyễn Ngọc Lan trong một cuộc phỏng vấn dành cho đài Phát thanh RFI (Pháp Quốc Tế) đã nói về việc Hoàng Minh Chính bị đem ra xử tại tòa ngày 8-11-1995 đại ý, theo báo Saigon Giải Phóng, mục đích của Hà-nội là muốn nghiêm trị Hoàng Minh Chính và Đỗ Trung Hiếu về tội lợi dụng tự do dân chủ. NNL châm biếm rằng: “Cứ hễ cái gì được gọi là lợi dụng thì nhắm mắt cũng thấy rõ là thứ ấy không hề có hay thiếu lắm.”

Để hiểu thêm về nguyên do và hậu quả của vụ án XLCĐ, tưởng cũng nên lưu ý đến lời HMC tiết lộ với nhà báo Bader rằng ông Hồ cũng tán thành đường lối “xét lại”, nhưng thuộc thiểu số. Đồng thời thử đặt vụ án vào bối cảnh chung lịch sử cả nước lúc ấy. Tại miền Nam từ đầu năm 1963 có rất nhiều tin đồn về cuộc gặp gỡ giữa ông Ngô Đình Nhu, cố vấn chính trị của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, với Phạm Hùng phái viên của chính quyền Hà-nội tại miền Nam. Đó là chưa kể những cuộc tiếp xúc công khai giữa ông Nhu và trưởng đoàn đại biểu Ba Lan trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Nhiều nhà báo và sử gia Mỹ còn viết rằng lúc ấy Tổng Thống Ngô Đình Diệm có mật lệnh cho các tướng Huỳnh Văn Cao, Bùi Đình Đạm tránh những cuộc giao tranh có nguy cơ gây tổn thất nhân mạng. (Họ lên án Tổng Thống Ngô Đình Diệm không muốn chống Cộng, chỉ muốn bảo vệ quyền hành.) Ngoài ra cũng nên nhớ lại là tháng 7 năm 1954 trong bữa tiệc ở Paris do phái đoàn Trung Cộng khoản đãi, thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai đã làm ông Phạm Văn Đồng và nhân viên phái đoàn Bắc Việt ngạc nhiên và bất bình, khi ông trực tiếp, công khai ngỏ ý với ông Ngô Đình Luyện em ông Diệm (ít ai có thể ngờ là cũng được mời dự tiệc), mong muốn có đại diện của Saigon ở Bắc Kinh.

Đặt tất cả những sự việc kể trên chung lại với nhau, rồi lại đặt chúng bên cạnh bối cảnh của nghị quyết số 9 vào cuối 1963, đầu 1964, nghĩa là chỉ hơn một tháng sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị hạ, người ta thấy hiện lên một giả thuyết khá hấp dẫn: Nếu Mỹ đừng nóng lòng diệt Cộng, nếu một số chính khách và nhà sư miền Nam không quá háo hức với một nền dân chủ kiểu Mỹ, tìm cách lật Tổng Thống Ngô Đình Diệm, thì có lẽ Trung Quốc, mặc dù muốn tranh quyền với Liên Xô, cũng chưa chắc đã bắt ép đàn em Bắc Việt phải dùng võ lực cố đánh chiếm miền Nam. Nhưng dù hấp dẫn, đó cũng chỉ là giả thuyết đặt trên cái chữ “nếu” không có trong lịch sử…
Điều sau đây thì có cơ sở hơn: Một số trí thức và văn nghệ sĩ Cộng Sản phản tỉnh bênh ông Hồ. Bảo ông ta ôn hòa, tình cảm, yêu nước, mặc dù có khuyết điểm và có trách nhiệm trong nhiều tội ác, nhưng chỉ vì ông không cương quyết, chứ thực tâm ông không xấu. Đọc hết soạn phẩm này, độc giả sẽ thấy những điều những tác giả đó nói đáng tin đến mức độ nào. Có một điều chúng tôi thấy nên nói trước về đại cương: Cứ cho rằng những người bênh ông Hồ có lý đi. Nguyên một việc ông đem chủ nghĩa Mác Lê-nin vào Việt Nam, lập nên cái đảng chuyên chính vô sản, chuyên gây thù hằn giai cấp, lấy bạo lực làm phương tiện tiêu trừ các giai cấp khác, các đảng quốc gia khác, cũng đủ là một tội lớn rồi. Cứ cho là ông chỉ là một phù thủy non tay không sai khiến được âm binh, để đến nỗi bị âm binh khống chế, thì nguyên cái tội phù thủy đã nặng lắm rồi. Bao lâu những người tự cho mình thương dân, yêu nước, bên này cũng như bên kia, còn bị lúng túng về tình cảm với ông Hồ, bao lâu cái xác ông còn được tôn thờ ở công trường Ba Đình, trong khi nhiều nhà yêu nước khác còn nằm co ro, nhục nhã ở những bãi tha ma hẻo lánh, thì nhân dân ta còn khổ. Ở chương 20, tổng kết, chúng tôi sẽ bàn giải cặn kẽ hơn.

Chú Thích
(+) Trích Thư Ngỏ ngày 27-8-1993 của Hoàng Minh Chính gửi tòa án tối cao, quốc hội…
(1) Cũng có người nói ông sinh năm 1922. Nam định cũng là quê của các cán bộ Cộng Sản cao cấp khác như Trường Chinh, 3 anh em Lê Đức Thọ, Nguyễn Cơ Thạch, Trần Xuân Bách…. Và một số văn thi sĩ nổi tiếng như Tú Xương, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương, Khái Hưng, Trần Dần, Trần Mạnh Hảo, Vũ Thư Hiên … và hai nhạc sĩ thiên tài Đặng Thế Phong và Văn Cao.
(++) Ở Việt Nam năm ấy cũng có vụ nổi dậy của 20 ngàn nông dân Quỳnh Lưu, Nghệ An, như đã nói trong chương 1.
(2) Sở dĩ An-ba-ny đứng về phe Mao chống Khrutshchev vì ông này đã định lật Hodja, lãnh tụ An-ba-ny mà không thành.
(3) Cho đến nay vẫn không có ai biết con số chính xác nạn nhân của vụ án này, cũng như con số nạn nhân trong vụ CCRĐ. Nhưng nhiều người ước lượng khoảng 200. Chính HMC thì nói “nhiều chục, nếu không nói là cả trăm.”
(4) 81 trong số 86 đảng đã tham đự đại hội các đảng Cộng Sản và công nhân thế giới tại Moscow năm 1960, do Khrutshchev triệu tập.
(5) Cuộc phỏng vấn dành cho nhà báo Balan Jacek Hugo Bader đã được đăng tải trên tập san Gazeta wyborza ngày 21-4-1995..
(6) “Đêm giữa ban ngày”, Vũ Thư Hiên, nxb Văn Nghệ, California, 1997, trang 295


Chương 3
Trần Độ Chống Đảng hay Muốn Cứu Đảng?

Gần Tết Kỷ Mão (1999), có tin từ trong nước cho biết ngày 8 tháng 1 năm 1999 trung tướng hồi hưu Trần Độ, nguyên ủy viên trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam, tuyên bố ông đã bị khai trừ khỏi đảng, vì “có lỗi phân phát các tài liệu của mình và để lọt ra cho các hãng thông tấn thế giới”. Tuy nhiên theo hãng thông tấn Reuter của Anh thì thoạt tiên phát ngôn viên bộ ngoại giao Hà-nội không xác nhận, cũng không cải chính mà chỉ nói chi bộ của ông đã yêu cầu ông tự phê bình. Điều này cho thấy việc khai trừ tướng Trần Độ đã trải qua quá trình phức tạp và cho đến phút chót vẫn còn nhiều bí ẩn, chứng tỏ có sự tranh chấp nội bộ trong đảng, ít nhất cũng cho đến khi phe bảo thủ hoàn toàn thắng thế và đi đến quyết định chung cuộc là khai trừ ông. Việc khai trừ này sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường trước được. Vì vậy các cơ quan truyền thông hải ngoại, kể cả đài Á Châu Tự Do đã lập tức khai thác, trong đó phải kể đến những cuộc phỏng vấn của phái viên Đinh Quang Anh Thái dành cho các ông Hoàng Tiến, nhà văn Cộng Sản và Hoàng Minh Chính, nguyên viện trưởng viện Triết Học Hà-nội (trước khi vào tù về tội “theo đường lối xét lại chống đảng”) để cho biết phản ứng của giới trí thức và văn nghệ sĩ trong nước đối với việc đảng khai trừ Trần Độ.

Nhân dịp này chúng ta thử ôn lại toàn bộ sự việc từ gần hai năm nay, kể từ ngày Trần Độ cho công bố bức thư ngỏ gửi ban lãnh đạo đảng vào “cuối năm 1997, đầu năm 1998″, và xét xem biến cố này có ý nghĩa gì, ảnh hưởng của nó sẽ ra sao.
Vài nét về con người Trần Độ:
Trần Độ tên thật là Trần (hay Tạ?) Ngọc Phách, nguyên quán Thái Bình, sinh năm 1920. Ở tuổi 20 ông đã đi theo Việt Minh kháng chiến chống Pháp và gia nhập đảng Cộng Sản Đông Dương năm 1941. Khi Cộng Sản cướp chính quyền vào tháng 8 năm 1945 thanh niên Hà-nội đã nghe nói đến “tướng” Trần Độ, mặc dù Võ Nguyên Giáp, tổng tư lệnh lực lượng võ trang Việt Minh sau này, lúc ấy cũng chỉ được nói tới như chỉ huy đội vũ trang tuyên truyền. Trong trận Điện Biên tháng 5 năm 1954 ông là chính ủy sư đoàn 312 tiên phong tiến vào trận địa. Ông thăng thiếu tướng hồi 1958. Từng là chính ủy liên khu Hà-nội, phó chính ủy quân giải phóng miền Nam, và trong thời Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư ông là trưởng ban văn hóa văn nghệ trung ương đảng. Về mặt chính quyền ông cũng từng là thứ trưởng Thông Tin Văn Hóa, phó chủ tịch quốc hội.

Còn nhớ hồi 1968 một vài tờ báo Saigon đã loan tin tướng Trần Độ bị tử thương, nhưng rồi sau lại cải chính. Đến nay ông vẫn còn ức chuyện đó và cho rằng “Mỹ Ngụy” đã bịa ra cái chết của ông để chiến tranh tâm lý. Nhưng ông lại cho rằng ngày nay kẻ nào đó (dĩ nhiên ông không dám nói thẳng là đảng) làm những việc giống như “chiến tranh tâm lý” để giết ông thật.

Nội dung bức thư ngỏ:
Bức thư ngỏ có tựa đề: “Tình hình đất nước và vai trò của đảng Cộng Sản” đã được rất nhiều tờ báo hải ngoại đăng nguyên văn vào những tháng đầu năm 1998. Xin lược qua vài điểm cốt lõi.

Về tình hình đất nước Trần Độ thẳng thắn nhìn nhận:“đất nước ta vốn là một trong số ít nước nghèo khó và lạc hậu nhất thế giới, lại trải qua 30 năm chiếân tranh tàn khốc liên miên. Thêm vào đó do nhiều lý do những năm đầu của thập niên 80 đất nước ta ở trên bờ vực thẳm. Cuộc đổi mới khởi phát từ năm 1986 đã đưa nước ta ra xa bờ vực thẳm đó. Hơn 10 năm ta đã có một số thành tích và tiến bộ. Nhưng về cơ bản đất nước ta vẫn là một đất nước nghèo khổ và lạc hậu.”

Về tình hình đảng tác giả bức thư ngỏ cũng nói không úp mở:
“Ta đang đứng trước 2 nguy cơ hiểm ác: a) nếu không ra khỏi các bùng nhùng, bệnh hoạn thì sẽ bị sụp đổ, mà là một sự sụp đổ không ai cứu nổi. b) nếu cứ để bùng nhùng kéo dài thì tình hình xã hội sẽ mất ổn định ngày càng lớn. Đảng lại buộc phải đối phó, đàn áp và cuối cùng cũng tan rã. Nguy cơ hiện nay là cực kỳ nghiêm trọng, không phải là nhận định 4 nguy cơ nhẹ nhàng như trước. Tụt hậu ư? Không phải nguy cơ mà ta đang tụt thật. –Tham nhũng ư? Không phải nguy cơ mà đang là quốc nạn. –Kẻ thù bên ngoài ư? Không có gì rõ rệt, Chỉ có ta đang làm hại ta. –Chệch hướng ư? Hướng nào? Hướng tư bản chủ nghĩa ư? –Thế là phản động, phản cách mạng? Hướng xã hội chủ nghĩa ư? Đấy là thất bại, là ngõ cụt! Ta đã có hướng đâu mà chệch, ta đang chệch choạng.”

Ngoài ra Trần Độ cho rằng ngày xưa, trong chiến tranh, dân với đảng là một, còn ngày nay thì dân với đảng là hai. Và “tiếc thay, hiện nay đảng là đảng trị, lại độc tôn, không có bất cứ một cơ chế giám sát nào, không có bất cứ một lực lượng giám sát nào, kể cả những người ở trong đảng. Đã độc tôn thì tất yếu đi tới lộng quyền.”
Để cứu đất nước thoát cơn nguy biến “và cũng để cứu đảng khỏi tan rã” theo Trần Độ,“một điều cơ bản, một điều then chốt, một điều quyết định là phải thực sự dân chủ hóa, thực sự thực hành dân chủ, để cho nhân dân có quyền lực thực sự trong khi thực hiện quyền lợi và trách nhiệm của mình.”

Để chứng minh lợi ích của nền dân chủ thực sự tại các “nước tư bản”, ông đã không ngần ngại nói lên nhận xét trung thực của một số cán bộ:
“Nhiều cán bộ lãnh đạo của nước ta sang thăm các nước tư bản về, đều phải nhận xét rằng, đời sống người dân các nước ấy vừa cởi mở tự do hơn, vừa tuân theo pháp luật một cách nghiêm túc hơn. Mọi người được pháp luật bảo vệ, không để cho các quyền tự do dân chủ của mình bị xâm phạm. Trong khi đó thì ở nước ta luật pháp đã thiếu lại không nghiêm minh, nhiều người có trách nhiệm bảo vệ luật pháp lại vi phạm luật pháp đến mức nghiêm trọng (trong những năm gần đây ngồi ghế bị cáo trước các tòa án ngày càng có nhiều cán bộ công an, kiểm tra và cả tòa án nữa).”

Nhằm cụ thể hóa đề nghị “dân chủ hóa” của mình, Trần Độ đã đưa ra, trong phần phụ lục, 2 điều cần làm ngay là ban hành một đạo luật về tự do ngôn luận, tự do báo chí, và thực hành “bầu cử hai vòng”, hơi khó hiểu. Ông chưa dám nói đến bầu cử tự do theo “phổ thông đầu phiếu”

Phản ứng của lãnh đạo đảng
Bề ngoài họ nói đây là một đóng góp ý kiến bình thường của một đảng viên. Nhưng bên trong họ rất lo ngại. Bằng chứng là không có cơ quan ngôn luận nào của đảng hay nhà nước dám phổ biến nguyên văn bức thư ngỏ của Trần Độ. Trái lại 3 tháng sau đảng đã ngấm ngầm chỉ thị cho các tờ Tạp Chí Cộng Sản, Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Saigon Giải Phóng và cả tờ Văn nghệ quân đội thay phiên nhau phê bình chỉ trích tác giả bức thư ngỏ với những lời lẽ như: “nói ít đến thắng lợi…phân tích kỹ hơn những khuyết điểm… thành ra phủ nhận thành tích của đảng và như vậy là phủ nhận cách mạng, phủ nhận Xã Hội Chủ Nghĩa..”

Mãi cho đến ngày 25 tháng 5, nghĩa là khoảng 5 tháng sau khi bức thư được gửi đi, và vào giữa thời gian bức thư thứ hai gửi cho 5 tờ báo đã chỉ trích ông bị mất cắp và đang được viết lại, bộ chính trị mới cử Phạm Thế Duyệt, Ủy viên thường vụ bộ chính trị, tiếp ông để trả lời rằng những ý kiến của ông không dược chấp thuận, vì “không đúng với đường lối của đảng thể hiện ở các cương lĩnh và nghị quyết Đại hội.”
Bức thư ngỏ thứ hai gửi báo chí

Để trả lời những luận điệu “đấu tranh tư tưởng ” của các tờ báo nói trên, ngày 22 tháng 5 năm 1998 tướng Trần Độ đã viết một bức thư ngỏ khác gửi các tờ báo đã có bài đả kích ông, đòi nó phải được đăng lên cho những ai đã đọc các bài đả kích ông được đọc bức thư này. Nhưng ông cũng khẳng định rằng: “Nhưng tôi biết, các ông không khi nào dám đăng.” Bức thư hoàn tất chưa kịp gửi đi thì bị đánh cắp mất. Nên gần một tháng sau (ngày 20 tháng 6) ông lại phải viết lại. Bức thư, dài không kém bức thư trước bao nhiêu, gồm 5 phần chính:
1. Tranh luận, phê phán và quy chụp.
2. Hoài Việt là ai?
3. Khen và chống.
4. Vấn đề đổi mới chính trị và đổi mới đảng,
5. Các căn bệnh của công tác tư tưởng.

Sau đây là một vài điểm nổi bật.
Về “Xã Hội Chủ Nghĩa” ông đã viết những hàng chữ rất độc như sau: “Thực tế rõ ràng là từ 1975 đến 1985 ta đã tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước thống nhất. Và kết quả là những năm đầu của thập kỷ 80, CẢ NƯỚC NGẮC NGOẢI. Bây giờ (Sau đổi mới dưới thời Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư, do ảnh hưởng tư tưởng “đổi mới” và “tái cấu trúc” của tổng bí thư Liên Xô Gorbachov, chú thích của MV) nhân dân ta tươi tỉnh được một chút, lại cứ nhất định phải định hướng xã hội chủ nghĩa, vậy định hướng vào cái “XÁC CHẾT” đó mà làm gì?…Ta cứ hay “nói lấy được”. Ta nói: “Nhân dân ta đã chọn chủ nghĩa xã hội.” Có thật không? Năm 1975 khi ta giải phóng đất nước, nửa nước miền Nam mấy chục triệu người, ta có hỏi một người dân miền Nam nào câu hỏi là: “Anh có thích chủ nghĩa xã hội?” Ta không hề hỏi mà cứ ra nghị quyết, cứ ra lệnh và chỉ thị hợp tác hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp v.v…và v.v. phá tán biết bao nhiêu là của cải, làm tổn hại bao nhiêu đến đời sống nhân dân, làm bao nhiêu là người giầu bị nghèo đi! Rõ là nói lấy nói được. “

Thế mà lại bảo là “nhân dân đã chọn”. Khổ thật! Ta cứ hay chọn thay cho dân, bắt dân nhận, xong lại bảo là dân đã chọn và ta tôn trọng sự lựa chọn của dân!

Những người ủng hộ Trần Độ
Ở trong nước tất cả những ai chủ trương “đổi mới”, chống độc tài tham nhũng, muốn thay “xã hội chủ nghĩa” bằng một nền dân chủ thực sự, đa nguyên đều hưởng ứng lập trường của Trần Độ. Không kể những nạn nhân Cộng Sản dưới hình thức này hay hình thức khác. Tuy nhiên số người biết và theo sát hành vi của Trần Độ không có nhiều, do chủ trương bưng bít che giấu của đảng. Trong số những người đứng cùng phe Trần Độ dĩ nhiên không thiếu những bộ mặt quen thuộc nhóm trí thức phản tỉnh như Nguyễn Thanh Giang, Phan Đình Diệu, Hoàng Hữu Nhân, Hoàng Minh Chính, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Hoàng Phương, Bùi Minh Quốc, Bảo Cự, Hoàng Tiến v.v… Chính họ là những người đã mở đường cho Trần Độ. Nhưng họ không có được cái thế mà Trần Độ có sẵn ở trong đảng, nên đã không dám mạnh miệng như ông.

Nguyễn Văn Trấn trước khi chết dĩ nhiên là người tán thành ý kiến của Trần Độ hơn ai hết. Và có thể nói chính cuốn “Thư gửi mẹ và quốc hội” của ông đã khuyến khích và thúc đẩy Trần Độ tỏ thái độ với đảng. Có lẽ Trần Độ cũng nghĩ viết mạnh như Nguyễn Văn Trấn mà vẫn không bị đảng thi hành kỷ luật thì đảng sẽ chẳng dám khai trừ mình. Nhưng Lê Khả Phiêu, trước kia là đàn em dưới trướng của Trần Độ, hẳn có lý để nhìn thấy nơi Trần Độ mối nguy to lớn gấp bội so với Nguyễn Văn Trấn. Cho nên Nguyễn Văn Trấn đã thoát mà Trần Độ thì không.

Tuy tán thành, ủng hộ đấy nhưng có mấy người dám lên tiếng công khai? Và nếu có báo nào dám đăng bài của những người ủng hộ Trần Độ thì ở hải ngoại cũng khó biết. Nhưng vẫn có vài bài lọt ra được bên ngoài và ở Paris người ta đã được đọc những lời ca ngợi Trần Độ không tiếc lời như: “Trong bài viết của ông (Trần Độ) thấy cả máu và nước mắt cứ quyện vào từng dòng. Ông đã tự lột xác để tiếp thu chân lý của thời đại… Trần Độ đúng là Chu Văn An của thời nay ” (Phạm Vu Sơn). Có người hoan hô ông “đã tự lột xác mình, tiếp cận được những tư tưởng cập nhật của nhân loại” (Nguyễn Hoài Nam).

Một người ký tên Minh Tâm, sau khi được may mắn gặp Trần Độ tại nhà người con trai út của ông ở Saigon, đã ca ngợi ông là người cầm đuốc trong đêm.
Một nhà trí thức trẻ, không phải Cộng Sản, ở kinh thành Ánh Sáng cũng đã không ngần ngại “tặng vị lão tướng hai chữ đồng chí”.

Có những dấu chỉ cho thấy Trần Độ rất được những cựu cán bộ Cộng Sản lão thành ở trong nước ủng hộ một cách nhiệt tình, đến liều chết để nói lên sự ủng hộ đó. Đó là bức thư của 10 cán bộ lão thành, trong đó có 2 cụ bà, sinh hoạt ở nhiều chi bộ khác nhau, gửi bộ chính trị “nguyện cùng sống chết” với tướng Trần Độ. Bức thư đề ngày 15 tháng 6 năm 1998, do ông Nguyễn Việt Hùng thuộc quận Đống Đa ký thay, sau khi nêu ra 4 sự việc cụ thể chứng tỏ đảng bất công, quy chụp, đàn áp, đã đi đến một tuyên bố quyết liệt như sau:
“Một, nếu kỷ luật đồng chí Trần Độ, chúng tôi sẽ vứt trả lại thẻ đảng, vì cái đảng này không xứng đáng để những con người chân chính đứng trong hàng ngũ nữa.
Hai, nếu bắt đồng chí Trần Độ, chúng tôi sẽ xuống đường phản đối để tỏ thái độ, nguyện cùng sống chết với đống chí Trần Độ, con người đã trở thành biểu tượng cao đẹp của đất nước.
Chúng tôi lúc ấy không phải chỉ là 10 người nữa đâu, mà sẽ có hàng ngàn các cựu chiến binh, các đảng viên chân chính, các cán bộ nghỉ hưu, và vạn vạn những người dân lành ủng hộ chúng tôi, đứng về phía chúng tôi.”

Rất có thể là bức thư này có liên hệ đến bức “Huyết tâm thư xây dựng đảng” của 11 cán bộ lão thành khác có từ 40 tuổi đảng trở lên tố cáo ủy viên thường vụ Bộ Chính Trị Phạm Thế Duyệt và phe cánh tham nhũng, cũng gửi bộ chính trị trước đó hơn một tháng. Phạm Thế Duyệt nguyên là bí thư thành ủy Hà-nội và hiện nay được coi như nhân vật thứ nhì sau tổng bí thư Lê Khả Phiêu vì y nắm thường vụ bộ chính trị (kể từ cuối năm 1997). Trong vụ nông dân Thái Bình nổi dậy chính y là người được giao trọng trách xuống tận nơi giải quyết vụ việc, nhưng cho đến nay vẫn chưa xong, mặc dù đã có một vài biện pháp vá víu.
Cái ung nhọt Thái Bình vẫn còn đó. Trần Độ lại là người Thái Bình và thường có liên lạc với các vùng quê đang lâm cảnh túng đói và thất nghiệp. Ông hiểu rằng nếu không thực thi dân chủ, không cho tự do báo chí, thì nạn tham nhũng không thể nào diệt được và như vậy dân sẽ bị dồn vào con đường cùng là đồng loạt nổi lên để tự cứu. Và đến lúc đó thì, tức nước vỡ bờ, không còn cách nào chống đỡ. Kết cuộc đảng sẽ TAN RÃ.

Dầu sao bức “huyết tâm thư” này đúng là một hành động yểm trợ tinh thần vị tướng già Trần Độ, ngầm cho ông hiểu rằng nếu ông dám chống độc tài, tham nhũng đến cùng thì đừng sợ không có người hưởng ứng.

Nhận xét về những lời tuyên bố của Trần Độ.
1. Trước khi bị khai trừ.
Trong phần nói về nội dung 2 bức thư ngỏ chúng tôi đã trích dẫn mấy ý chính trong đó có những điểm sau đây là nổi bật: Trần Độ đã mất tin tưởng hoàn toàn nơi cái gọi là “xã hội chủ nghĩa” coi nó chỉ là “cái XÁC CHẾT ‘. Chính nó đưa đất nước đến bờ vực thẳm trong những năm 1975-1985. Ông nói là “do nhiều lý do”. Ông không tiện nói thẳng ra rằng do đảng lãnh đạo sai, đường lối xã hội chủ nghĩa sai. Sau đó ông cho rằng nhờ có “đổi mới” (thời Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư) nên đã không rơi xuống vực. Nhưng cuộc đổi mới cho đến nay què quặt vì chỉ đổi mới về kinh tế mà không đổi mới về chính trị. Do đó đảng đang ở trong tình trạng “BÙNG NHÙNG, BỆNH HOẠN”. Ông gọi nạn tham nhũng là quốc nạn. Xã hội chủ nghĩa là thất bại, là ngõ cụt. Đảng hiện nay là đảng độc tài, lộng quyền, độc tôn. Gần đây có nhiều cán bộ công an, kiểm tra, và cả cán bộ tòa án (!) bị đem ra tòa. Và để cứu nước thoát cơn nguy biến, cứu đảng khỏi tan rã, ông đề nghị thực thi dân chủ thực sự: tự do báo chí, tự do ngôn luận.

Đối với người dân bình thường, nhất là với người quốc gia chúng ta thì những nhận xét và đề xuất nêu trên của viên tướng Cộng Sản chẳng có gì mới mẻ, còn thiếu sót, hay chưa đúng mức nữa là khác. Nhưng đối với những người Cộng Sản đã quen với nền độc tài hà khác, và kỷ luật sắt của một đảng sắt máu độc tôn như đảng Cộng Sản, thì dám lên tiếng đưa ra những ý kiến trái ngược với đường lối đảng như vậy kể ra cũng đáng gọi là can đảm và chứng tỏ Trần Độ là người có học, có tâm.
Tôi biết có những người chống Cộng cực đoan luôn luôn nghi ngờ thiện chí của các cán bộ Cộng Sản phản tỉnh. Họ coi tất cả những Hà Sĩ Phu, Dương Thu Hương, Bùi Tín, Nguyễn Chí Thiện v.v… đều là “có mồi”, không đáng tin cậy. Theo tôi, khi chúng ta không có được những tin tức tình báo chính xác, những bằng chứng cụ thể, thì không nên phát ngôn bừa bãi, làm nản chí những người có những hành động hay lời nói chống lại hay thách thức nhà cầm quyền Cộng Sản. Hơn nữa dù cho thực sự có những “cò mồi” đi chăng nữa, nếu chúng ta không hẹp hòi, và nếu chúng ta có đủ tự tin, đủ sáng suốt, tưởng không nên bỏ qua những ý kiến đến từ những người trong hàng ngũ đối phương có lợi cho cuộc tranh đấu chống Cộng. Chúng ta cũng đừng kỳ vọng quá, đừng đòi hỏi quá đáng những gì mà những người đang sống dưới sự kìm kẹp của một chế độ chuyên chế không thể nào làm được như chúng ta đang ở ngoài.
Trong tinh thần đó chúng tôi xin có vài nhận xét về những lời tuyên bố của Trần Độ sau khi bị khai trừ.

2. Sau khi bị khai trừ.
Ngày 4 tháng 1 năm 1999 bị khai trừ, thì ngày 8 Tướng Trần Độ đã đưa ra bản tuyên bố gồm có 5 điều đại ý tóm gọn như sau:
– Ông ta không ân hận gì về 58 năm phục vụ đảng.
– Ông cho rằng “đảng hiện nay với tất cả hiện trạng của nó đã xa rất xa đảng của những năm 40, 50, 60, vì vậy nó hầu như không còn là đảng của tôi nữa.”
– Ông thất vọng vì tình trạng xã hội bất công, thối nát và mất tự do hiện nay: “Tôi sống trên đất nước tôi mà tôi bị bao vây, giám sát và rình rập…Tôi muốn ngỏ lời với các đảng viên trong toàn đảng…mong mọi người làm hết sức mình cho đảng được đổi mới tốt hơn…Tôi vẫn tin tưởng vào tương lai của đất nước.”
– “Trước sau rồi thế nào đảng cũng phải đổi mới. “ĐỔI MỚI HAY LÀ CHẾT’ khẩu hiệu này rất thích hợp với đảng hiện nay, tốt nhất là đảng tự đổi mới….”
       “…Lịch sử rất công bằng, tương lai gần hay xa lịch sử sẽ có sự phán xét của mình.” (Hết)
        
Đọc kỹ 5 điểm trên ta thấy một điểm nổi bật nhất là Trần Độ vẫn gắn bó với đảng, ít nhất là cái đảng như nó được tổ chức và điều hành trong những năm từ 1940 đến 1969 là năm Hồ Chí Minh qua đời. Ông ta không ân hận là đã ở trong đảng trong 58 năm, mặc dù ngày nay ông thấy đảng đã biến chất. Ông ta muốn đảng đổi mới để khỏi tan rã, khỏi chết, “ĐỔI MỚI HAY LÀ CHẾT”. Đây không phải một lời trù ếm, nguyền rủa hay tiên tri. Mà là ước mong thực lòng. Vì ông “mong mọi người (trong toàn đảng) làm hết sức mình cho đảng được đổi mới tốt hơn.”

Chúng ta đừng trách vị tướng Cộng Sản gần đất xa trời này và đừng hỏi tại sao trong tình hình bi đát hiện nay ông ta còn cố bám lấy cái đảng bất nhân đó. Là bởi vì ông ta không dễ gì tự phủ định chính mình, không dễ gì phủ nhận cái dĩ vãng vàng son của đảng, mà ông ta theo và tin tưởng, với những chiến dịch Điện Biên Phủ đánh bại thực dân Pháp, chiến dịch Hồ Chí Minh đánh “cho Mỹ cút, ngụy nhào”. Và cũng bởi vì ông ta không còn hy vọng gì ở những người quốc gia bại trận, tháo chạy có cờ, hay đã tan rã, đã thối chí, đã bị huỷ diệt, thể xác hay tinh thần, bởi các quỷ kế của cái đảng – mặc dù bất nhân – của ông ta. Và cũng bởi vì có lẽ ông ta cũng nhìn thấy phần nào tình trạng chia rẽ rất đáng tiếc giữa các thành phần trong đội ngũ những người quốc gia ở hải ngoại (!) Cái tình trạng chia rẽ giữa các người quốc gia đó quả tình không khuyến khích Trần Độ – hay những ai khác – chống lại chính đảng của ông ta chút nào. Cho nên chỉ còn cách duy nhất là mong muốn đảng đổi mới để tồn tại và tiếp tục cai trị đất nước.

Vậy thì theo tôi nghĩ, muốn cho những người Cộng Sản mạnh miệng đả kích, mạnh tay chống lại đảng thối nát của họ hơn, người quốc gia phải biết đoàn kết hơn, nhìn lại dĩ vãng một cách xây dựng hơn, bình tĩnh hơn, nếu chưa xóa bỏ được hận thù với kẻ thù, thì trước hết hãy xóa bỏ hận thù (theo tôi chỉ là giả tưởng, không có thật) giữa phe mình với nhau, để làm gương và cho kẻ thù thấy rằng chúng ta cũng đủ độ lượng để tha thứ nếu họ biết nhìn ra sự thực mà hối lỗi…
Tại sao Trần Độ lại nói đảng ngày nay không còn là đảng của những thập kỷ 40, 50, 60? Nếu ta để ý rằng Hồ Chí Minh mất vào đúng cuối thập kỷ 60 (ngày 3 tháng 9 năm 1969), rồi đọc kỹ đoạn sau đây trong bức thư ngỏ thứ 2 của Trần Độ gửi các báo đảng ngày 20 tháng 6 năm ngoái, thì sẽ thấy câu trả lời. Câu đó như sau:
“Ta không nên bắt chước ai, mà chỉ nên học tập Hồ Chí Minh với tài trí và lòng nhân ái của Người.”

Phải chăng đã rõ là Trần Độ kết tội những người lãnh đạo sau Hồ Chí Minh không giữ đúng đường lối chính sách của đảng Cộng Sản ban đầu, hay ông cho rằng chỉ có Hồ Chí Minh xứng đáng là lãnh tụ của ông mà thôi?
Nếu quả thật Trần Độ vẫn còn nghĩ cái đảng Cộng Sản được Liên Xô chỉ thị phải thống nhất vào năm 1930 kia với danh xưng “Đông Dương Cộng Sản Đảng”, cái đảng đã nhắm mắt bắt chước và nghe lệnh Trung Cộng giết hàng vạn người trong cải cách ruộng đất trong những năm 53, 56, cái đảng đã tàn sát các đảng phái quốc gia để thực hiện chuyên chính vô sản, cái đảng đã ném hàng triệu thanh thiếu niên miền Bắc vào phá rối rồi xâm chiếm miền Nam với chiêu bài giải phóng, khiến hơn 2 triệu người chết ở cả hai phía, cái đảng đã đánh lừa những người yêu nước miền Nam lập lên cái chính phủ bù nhìn bịp bợm gọi là “Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” để rồi sau khi toàn thắng đã thẳng tay – không hề có hỏi ý nhân dân miền Nam cũng như cái chính phủ bình phong kia – “xã-hội-chủ-nghĩa-hóa” cả nước. Cái đảng từ trước vẫn mang cái tên hiền lành giả dối là “Đảng Lao Động” đã vội vã thay đổi danh xưng, hiện nguyên hình là đảng Cộng Sản.

Nếu quả thật Trần Độ vẫn còn nghĩ cái đảng đó là niềm tự hào của ông và ông Hồ chí Minh là người có lòng nhân ái, thì thiết nghĩ ông chưa phản tỉnh chút nào. Nếu ông chưa nói được một câu hối hận và xin lỗi nhân dân vì những sai lầm, hay đúng ra là những sự tàn bạo, ác độc của đảng Cộng Sản ngay trong những thập niên 40, 50 và 60, thì ông chưa thực sự “lột xác” như một số người đã ca tụng ông.
Những người có cảm tình với ông có thể sẽ bảo nên thông cảm cho ông hơn, và không nên đòi hỏi ở ông những điều ông không thể làm nổi. Và họ đưa ra 2 lý do.
Thứ nhất, như đã nói ở trên, ông có một cái quá khứ dính liền với quá trình phát triển của đảng và sự thăng trầm của đất nước, không dễ gì nhất đán tự phủ định mình, phủ nhận tất cả để trở thành trắng tay.
Thứ hai, sống ở trong nước hiện nay ông chẳng khác nào sống trong một cái rọ. Dù có can đảm đến mấy, cũng phải giữ sự khôn ngoan để tồn tại mà chống, nếu có ý chống đến cùng. Đưa Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh ra làm luận cứ, chẳng qua chỉ là để thủ thế, dùng đó như một thứ bùa hộ mệnh bảo vệ mình cho khỏi sự trả thù hiểm độc của những kẻ muốn ám hại ông.
Dù sao chăng nữa sự việc Trần Độ bị khai trừ cũng cho thấy là trong đảng những kẻ bảo thủ trung thành với các lề lối cũ, tư duy cũ, tín điều cũ… vẫn còn thắng thế, mặc dầu đã có dấu hiệu cho thấy một cuộc tranh chấp nội bộ đã diễn ra khá gay gắt.


Chương 4
Hà Sĩ Phu muốn lật hòn đá tảng?
Bùi Minh Quốc, một nhà thơ ở trong nước (Đà-Lạt), trong một bài báo nhan đề “Hà Sĩ Phu và tiếng nói của ông” (tháng 8 năm 1993) đã viết: “Hà Sĩ Phu là ai mà to gan lớn mật làm vậy? Dám phê phán chủ nghĩa Mác-Lê-nin, lại phê ngay vào cái hòn đá tảng của chủ nghĩa, một việc làm có thể phải gánh chịu những tai họa ghê gớm? Nếu sự ghi nhận của tôi không nhầm thì ở nước ta trên miền Bắc sau 1954 và trên cả nước năm 1975, Hà Sĩ Phu là người đầu tiên bằng giấy trắng mực đen dám đụng vào vùng cấm chết người này.”

Có lẽ cựu linh mục Nguyễn Ngọc Lan và Tiêu Dao Bảo Cự cũng đồng ý với nhà thơ Bùi Minh Quốc khi gọi Hà Sĩ Phu là “biểu tượng (symbol) Hà Sĩ Phu”, “biểu tượng của trí tuệ”. Nhưng cũng có người như ông Lê Tùng Minh ở New England, Hoa Kỳ không đồng ý, vì hiểu chữ biểu tượng theo một ý nghĩa cao hơn (the most excellent symbol, chữ của ông Tùng Minh, mặc dầu chưa thấy ai dùng thể tuyệt đối “most” với tĩnh từ excellent có nghĩa là tối ưu, vượt hẳn, hơn hẳn).

Khác với nhóm Tin Nhà ở Paris và những người ngưỡng mộ Hà Sĩ Phu ở trong nước như Bùi Minh Quốc, Nguyễn Ngọc Lan, Bảo Cự, Hoàng Tiến … là những người chú ý tới thái độ can trường của Hà Sĩ Phu, hơn là nội dung tác phẩm của ông, ông Lê Tùng Minh đã phân tích cặn kẽ tác phẩm và phê phán nó từ lập trường của một người chống Cộng và đã có dịp đọc nhiều tác phẩm phê phán của những người vốn đứng từ phía chống đối từ lâu nên đã tìm ra trong đó có nhiều sai sót đáng tiếc, (theo ý ông). Tranh luận ai phải ai trái về một tác phẩm lý luận có tính triết học, trong một môi trường chính trị phức tạp, trải dài trên một dòng lịch sử còn nhiều bí ẩn, là điều dễ đi đến hiểu lầm. Vì vậy chỉ xin nêu lên một số nhận định và kết luận của Hà Sĩ Phu liên quan đến chủ nghĩa Mác-Lê, đến đảng Cộng Sản Việt Nam và tình hình trong nước hiện nay.

Vài nét về con người Hà Sĩ Phu
Hà Sĩ Phu là bút hiệu (1) của Nguyễn Xuân Tụ, người làng Đông Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh, Bắc Việt, sinh ngày 22 tháng 4 năm 1940. Ông tốt nghiệp phó tiến sĩ sinh học tại Tiệp Khắc. Về nước ông được cử giữ chức phó viện trưởng viện Khoa Học Việt Nam, phân viện Đà Lạt. Nhưng rồi không chịu vào đảng, ông bị cho “ngồi chơi xơi nước”. Ông có chân trong hội Văn Nghệ Lâm Đồng, cộng tác với Tạp Chí Lanbiang, tại Đà Lạt.
Bạn bè ông ở Đà Lạt rất đau lòng khi thấy hai vợ chồng ông, cả hai đều đã hai lần chắp vá mà vẫn không có con, cả ngày mải mê với mấy món hàng lặt vặt trong cái quán cóc để kiếm tiền nuôi thân, chẳng mấy người biết đến trong đầu nhà khoa học trẻ này có những gì.
Không được dùng vào sở trường của mình là ngành khoa học thiên nhiên, Hà Sĩ Phu chuyển sang nghiên cứu về khoa học xã hội. Năm 1988, vài năm sau khi Nguyễn Văn Linh tuyên bố “văn nghệ sĩ hãy tự cởi trói” ông đã cho ra đời (đánh máy phát tay trong đám bạn hữu), bài tiểu luận nhan đề “Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ”. Tuy không được đường đường ra mắt độc giả nhưng bài tiểu luận vẻn vẹn mười trang đánh máy này đã bị các tay cai văn nghệ của chế độ xúm vào phê phán, phản bác như một thứ độc dược cho môi trường văn hóa Mác Xít.

Tính đến 1991, nghĩa là chỉ trong vòng hơn 2 năm, đã có trên ba chục bài đả kích cái bài tiểu luận chỉ xuất hiện giữa bạn bè kia. (1bis) Có điều lạ là người ta chỉ cho lệnh phản bác tư tưởng của ông mà chưa có biện pháp gắt gao nào đối với con người ông. Cho đến tháng 4 năm 1991, nhân dịp ông ra Hà-nội thăm nhà văn nữ Dương Thu Hương, chẳng may vào đúng lúc công an đang khám nhà và bắt giữ bà, thì ông cũng bị bắt luôn. Nhưng người ta cũng chỉ giữ để tra vấn trong 10 ngày rồi thả. Sau đó ông bị canh chừng, gần như giam lỏng tại nhà ở Đà Lạt.

Bài tiểu luận, không được in ở trong nước, đã được chuyền ra ngoại quốc và độc giả ở Pháp đã thấy nó lần đầu tiên trên tờ Thông Luận của nhóm các ông Trần Thanh Hiệp và Nguyễn Gia Kiểng, số tháng 5 năm 1993. Du học sinh, sinh viên Việt Nam tại các nước Cộng Sản cũ ở Đông Âu đã nhiệt liệt hưởng ứng lập luận của Hà Sĩ Phu, gián tiếp khuyến khích ông dấn bước thêm trên đường “cách mạng tư tưởng”. Cuối năm 1993 trong cuốn Mặt Thật, phơi bày mặt trái của chế độ Hà-nội, đại tá Cộng Sản Bùi Tín cũng đã hết lời ca ngợi Hà Sĩ Phu:
“Đây là một bài báo rất thú vị, của một trí thức có chiều sâu suy nghĩ, tự tin, có trình độ nghiên cứu, lại hóm hỉnh. Một con người quý, hiếm, có tư duy độc lập.”

Chỉ ít tháng sau Việt Kiều ở Pháp lại thấy một bài khác, dài hơn, của Hà Sĩ Phu xuất hiện như một phụ bản của tờ Tin Nhà, Paris, nhan đề: “Đôi điều suy nghĩ của một công dân.” Cùng với một số câu đối có tính cách phê phán chế độ, và mấy bài chính luận vắn. Sau đó hai tác phẩm mỏng, nhưng lớn này đã được nhiều tờ báo ở Úc, Âu và Mỹ châu đăng lại.
Tháng 10 năm 1995 độc giả nguyệt san “Thế Kỷ 21” ở Mỹ được đọc thêm một tác phẩm nữa của Hà Sĩ Phu nhan đề “Chia Tay Ý Thức Hệ” trên một trăm trang. Tuy là tập sách nhỏ của một người đơn độc, nó đã có tham vọng chẳng những phê phán, phản bác mà còn lên án những công trình đồ sộ của những bộ óc lớn như Mác, Engels, Lê-nin… coi đó như nguyên nhân của một chế độ độc tài phi nhân, một loại phong kiến cuối cùng của lịch sử. Như một hệ luận tất yếu, nhân danh trí tuệ và tương lai dân tộc, ông đòi loại bỏ chế độ đó.

Với những tư tưởng cực kỳ “phản động” như vậy, dĩ nhiên ông không tránh được sự trừng phạt. Và người ta đã bắt ông, khi ông ra Bắc thăm gia đình vào đầu tháng 12 năm đó. Ngày 22 tháng 8 năm 1996 ông bị đưa ra tòa về tội “chiếm đoạt tài liệu bí mật của quốc gia” và lãnh án 12 tháng tù. (2) Ngày hôm trước ông bị bắt, thì ngày hôm sau công an đến khám nhà ông ở Đà Lạt, mang đi hàng ngàn trang tài liệu. Tưởng cũng nên nêu lên sự kiện là chỉ trước đó mấy ngày ông đã trả lời một cuộc phỏng vấn của đài VNCR ở California liên quan đến những tác phẩm của ông. Và người ta có thể nghĩ đây cũng là một cái cớ khác khiến ông bị bắt.

Tin HSP bị bắt đã được nhiều tờ báo hải ngoại loan tin, bình luận và trích dẫn các bài viết của ông, trong số đó, tại Đức có các tờ Bản Tin Đức Quốc, Cánh Én, Sinh Hoạt Cộng Đồng, Hy vọng, Dân Chủ cho Việt Nam, Forum, Viên Giác, Lá Thư Đông Âu, Thiện Chí; tại Pháp có các tờ Thông Luận, Tin Nhà, Việt Nam Liên Minh, Nhân Bản, Diễn Đàn; ở Hoa Kỳ có các tờ Kháng Chiến, Xây Dựng, Thế Kỷ 21, Ngày Nay, Người Việt v.v… Cộng Đồng Người Việt ở Đức còn tổ chức tuyệt thực, biểu tình trước sứ quán Việt Cộng tại Bonn trong hai ngày 21 và 22 tháng 12 để đòi trả tự do cho Hà Sĩ Phu và các tù nhân chính trị khác. (3)

Ngày 4 tháng 12 năm 1996 ông được phóng thích. Tại sân bay Tân Sơn Nhứt (Saigon) và Liên Khường (Đà Lạt) ông đã được bạn bè và những người ngưỡng mộ ông chờ đón với những bó hoa và cả câu đối, mặc dù vợ ông và rồi chính ông đã gọi điện thoại can ngăn không muốn ai vì ông mà có thể bị liên lụy. Nhưng sự thực chẳng có chuyện gì, vì đó chỉ là những người không biết sợ nhưng cũng không dụng tâm gây rối.

Nhà báo Nguyễn Ngọc Lan trong những trang nhật ký thường ngày, mà số lớn đã được đăng tải trên tờ Tin Nhà ở Paris, đã kể ra một số tên trong những người đón ông ở Saigon như sau: linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Thanh Vân, Bùi Minh Quốc (4), Lữ Phương , Xuân Sách, họa sĩ Minh, bác sĩ Đỗ Thị Văn (chị Đỗ Trung Hiếu), Hồ Hiếu, ông La văn Lâm và một người bạn của Hà Sĩ Phu. “chỉ có thế thôi, nhưng 12 bạn bè ngồi cùng bàn thì có Nam, có Trung, có Bắc, có Bắc Kỳ chín nút (54), có Bắc Kỳ hai nút (75), có Phật tử, có Công Giáo, có Cộng Sản, có không Cộng Sản, Cộng Sản còn trong đảng, Cộng Sản đã chào biệt đảng hay đã “được” khai trừ, người viết văn, người làm thơ có, người viết báo, người dậy học có, họa sĩ có, bác sĩ có, sĩ quan bộ đội hồi hưu cũng có. Cùng ngẩng cao đầu chung quanh anh chị Hà Sĩ Phu vẫn ngẩng cao đầu.”

Với những ý kiến và lập luận của ông trong ba văn kiện vừa kể, HSP đã làm cho một số bạn bè, văn nghệ sĩ trong cũng như ngoài nước thán phục. Có người gọi ông là biểu tượng của trí tuệ. Người khác khi nói đến ông thường nói hiện tượng Hà Sĩ Phu, tuy cũng có người phê bình ông không đánh giá Mác đúng mức. Chúng tôi xin trích dẫn một ít hàng trong ba văn kiện vừa kể để xem tác giả đã phán xét thế nào về chủ nghĩa Mác, về nền chính trị chuyên chính vô sản, về công và tội của đảng Cộng Sản Việt Nam và của cá nhân ông Hồ Chí Minh. Đồng thời cũng để xem ông đề xuất những gì và khả năng thực hiện những đề xuất đó ra sao.

Chủ Nghĩa Mác-xít
“Ở nước ta, hệ tư tưởng Mác-xít cũng không khác gì một “quốc giáo”, thực chất chỉ là biến tướng của tư tưởng phong kiến” (trang 116) (3). “Lý thuyết (Mác-xít) ấy như một cô gái cực đẹp nhưng lẩn thẩn, chắc chắn sẽ được người ta vồ lấy và sau đó tất yếu là sự phản bội” (trang 123)

“Lý luận Marx-Lenine rất có lợi trong việc động viên, tổ chức lực lượng đánh giặc, chống ngoại xâm, nhưng rất bất lợi trong việc hòa giải dân tộc, bất lợi trong việc xây dựng một xã hội dân chủ pháp trị và kinh tế thị trường.” (108)

“Học thuyết Mác-Lê không phải là cái gì cao xa chưa tới mà chỉ là cái hoài vọng đã bị vượt qua, chỉ là biến tướng mới mang cái mốt công nghiệp của chủ nghĩa phong kiến đã bị lịch sử vượt qua trước đây nhiều thế kỷ. Nó không phải là thứ cẩm nang dẫn đường đầy tính súc tích huyền bí đến mức hàng thế kỷ sau chưa có ai hiểu đúng, mà chỉ là những dự đoán lẩm cẩm không bao giờ có thực trên đời.” (trang 140)

“Bên tai mọi người hình như luôn nghe thấy lời ám thị: “Hãy coi chừng ! Không được trái ý Mác Lê! Hãy coi chừng! Không được trái ý Mác Lê!” Mác Lê thế nào mấy ai biết? Có khi Mác Lê giống mấy ông công an, giống bà trưởng phòng tổ chức, giống khoản lương hưu, giống xấp đô-la, giống những kỷ niệm kinh hoàng một thời đói rách, giống ngôi biệt thự với chiếc xe con, giống két bia lon với cô thư ký, hoặc có khi chỉ là một cái bóng ma rất thiêng trên bàn thờ… Mác Lê muôn màu muôn vẻ, nhưng đã thành một ám thị tập thể. Trong khí quyển thôi miên ấy con người phải quên nhân cách, đặc biệt là cấm không được hổ thẹn.” (trang 165-166)

“Toàn bộ cái gọi là “chủ nghĩa xã hội khoa học” chẳng qua là một Đại ngụy biện, nhằm biện minh cho một ảo ảnh. Học thuyết ấy đi vào xã hội và con người Việt Nam không qua vọng gác của trí tuệ.” (trang 179)

“Ngụy biện này tận dụng triệt để những thành quả trong quá khứ của cuộc chiến tranh vệ quốc, tận dụng tâm lý sau chiến tranh muốn yên thân và khát khao cuộc sống vật chất và tận dụng thói quen phục tùng vô điều kiện của dân. Tóm lại là tận dụng tình trạng dân trí thấp để không đổi mới mà vẫn đổi mới, để nói “đổi mới của dân, do dân, vì dân” mà thực ra là “đổi mới của mình, do mình, vì mình” để miệng nói “định hướng xã hội chủ nghĩa” mà tay làm “định hướng tư bản chủ nghĩa” (180)
“Cuộc đấu tranh giai cấp “một mất một còn” luôn gắn liền với bạo lực và chiến tranh, nó sẵn sàng mua chiến thắng bằng cách hủy diệt môi trường (như “dẫu phải đốt sạch cả dẫy trường sơn”!) hủy diệt những công trình văn hóa (như chính sách tiêu thổ kháng chiến), và hủy diệt con người (“đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”, “Tổ quốc hay là chết”, và cả chục triệu người Việt Nam đã thành vật hy sinh cho một cuộc chiến….) thì dẫu có anh hùng và chính nghĩa đến đâu cũng chỉ là những trào lưu có tính văn hóa thấp. Khi nào vươn được tới tầm văn hóa cao hơn, người ta sẽ thấy những chiến thắng ấy thật là đáng ghê sợ. Lúc ấy hồi tưởng lại những bà mẹ đã tự hào vì cống hiến cả chồng và bảy, tám người con cho cách mạng, người ta sẽ rùng mình hơn là kính phục.” (trang 156-157)

“Ngày bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước … thì chủ nghĩa Mác Lê-nin được bác coi là con đường là phương tiện giúp dân ta đi đến đích đó. Nhưng rồi dần dần lại xuất hiện tín ngưỡng “dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa!” Lạ như vậy đấy. Chủ nghĩa với tư cách là con đường, là phương tiện thì nó là cái để ta dùng chứ sao lại để ta thờ? Nhưng dù gì đi nữa thì hậu quả nguy hiểm vẫn là ở chỗ: Khi cái phương tiện đã thành cái mục đích thì lẽ tự nhiên cái mục đích (ở đây là dân tộc) đổi chỗ để thành cái phương tiện(!) (trang 38)

“Nhưng điều thú vị là ở chỗ việc nhìn nhận lại một số điểm trong học thuyết của Mác không làm giảm đi sự tôn kính của ta đối với Mác. Chúng ta hãnh diện là đã có Mác là một người khổng lồ nhân từ cho ta được phép đứng lên vai.” (trang 40)
“Chủ nghĩa Mác-Lê ngay từ đầu đã được Nguyễn Ái Quốc coi là “con đường” là “phương tiện”, là “cái cần thiết cho chúng ta”, thì nó không thể quý hơn “chúng ta” được.”
“…Ta biết ơn chiếc thuyền nan (M.V. viết thẳng để nhấn mạnh là HSP không coi chủ nghĩa Mác ra gì, chỉ là một thứ thuyền nan mỏng manh, ọp ẹp) đã đưa ta qua sông, nhưng sang bờ rồi mà cứ cắm cúi mang “chiếc thuyền Mác xít chỉ huy” trên lưng như cái mai rùa, thì tránh sao khỏi bị người ngoài đàm tiếu và người thân nghi ngờ rằng có sự che đậy hay cất giấu cái gì trong đó? Cái “hành trang khác người” ấy quả tình không còn ích lợi gì cho Dân tộc, có trút bỏ được mới mong tự giải thoát, để được lâng lâng, nhẹ nhàng, rảo bước cho kịp bạn bè trên đường thiên lý.” (trang 112)

Về chuyên chính vô sản và đảng của giai cấp vô sản:
“Cái chất phong kiến gia trưởng thời vua chúa chưa kịp tẩy rửa bởi một nền dân chủ đã tìm thấy chỗ đứng rất “ngon lành” trong hệ chuyên chính “dân chủ tập trung”.
“Cái chất Đức trị sặc mùi tam cương ngũ thường chưa bị thanh toán đã tìm thấy sự đồng điệu trong một thể chế “ý thức trị”, một thứ Đức trị mới toàn những Nghị quyết, những Cương lĩnh, Thường vụ…” (trang 141-142).
“Sau khi đã đưa được Đức lên vị trí tối thượng, cụ Hồ mới cho Đức mang cái nội dung cốt tử của chuyên chính vô sản: chữ TRUNG! Mà “trung” là phải “trung với Đảng”! Rồi mới “hiếu với Dân!” v.v…
“Tuy Dân có được kể đến ở ngôi vị thứ nhì, nhưng rồi lại có mệnh đề “Đảng với Dân là một”. Tuy được là một, nhưng ngồi chung vào cái ghế này “Dân” sẽ bị “Đảng” thôn tính, vì dân phải nhớ rằng Đảng luôn là người “lãnh đạo trực tiếp và tuyệt đối”! Thế thì Dân còn chỗ nào mà đứng? Thương thay cho dân đã thực sự trở thành con đỏ, được ru, được nựng, được bế ẵm, hết chỗ này sang chỗ kia, nhưng có cái bầu sữa thì ở trong tay “mẹ hiền” mất rồi, không khóc thì Đảng không cho bú, mà liệu có dám khóc không, khi “mẹ hiền” cầm sữa lại cầm cả roi!” (trang 144)
“Vừa ý Đảng thì chữ TÀI liền với chữ TIỀN. Trái ý “Đảng thì chữ TÀI liền với chữ TAI!

Chọn đường nào thì chọn!
“Trí thức Việt nam nhậy bén, họ hiểu ý đảng, nên chẳng dại gì mà chọn chữ TAI, cứ chọn con đường có hình bác Hồ chỉ lối, để “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân” … thì “đánh đâu thắng đấy”! “Cứ có bác Hồ trong tay là sai khiến được ráo, chuyên chính vô sản chỉ nghe lời bác Hồ”! Người Việt ngày nay nói về đồng tiền cách mạng một cách rất đạo đức như thế!
“Đấy là đạo đức mà xã hội Mác Lê đã dạy họ.” (trang 147)
“Thử hỏi cái mà các anh cho là vững mạnh vô địch kia là cái gì? Chủ nghĩa Mác Lê chăng? Tư tưởng Hồ Chí Minh chăng? Xin thưa những bảo vật thiêng liêng kia chỉ còn cái vỏ bày triển lãm thôi, ruột gan bên trong bị đánh tráo xong từ lâu rồi.” (tr.196)
Về ông Hồ Chí Minh
Sau khi nêu lên mặt tích cực là dựa vào chủ nghĩa Mác Lê để tranh đấu thắng lợi cho cách mạng tháng tám và kháng chiến chống Pháp thành công, tác giả nói về mặt tiêu cực như sau:
“Song đáng tiếc là sự nghiệp Hồ Chí Minh đã không đi tiếp vào con đường dân tộc hòa bình sáng lạn. “Mặt tiêu cực của cuộc gặp gỡ giữa dân tộc Việt Nam nói chung và Hồ Chí Minh nói riêng với trào lưu Cộng Sản là đã du nhập vào đất nước mình một mô hình xã hội chủ nghĩa không tưởng, đặt căn bản trên ý thức hệ phong kiến tân thời, một “thiên đường” trại lính Mao-ít, nên nước Việt Nam độc lập đã không bắt kịp trào lưu canh tân của thế giới mà trở thành nạn nhân bi đát nhất của cuộc chiến hai phe của các nước lớn.” (trang 148)

“Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành công trong một sự nghiệp lớn, nhưng lại không thành công trong một sự nghiệp lớn hơn, bao quát hơn…
“Do bản năng nhạy bén, Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy từ trào lưu Cộng Sản sức mạnh ghê gớm cần phải sử dụng, và cũng linh cảm thấy trong đó có điều phải cảnh giác, nhưng điều kiện chủ quan cũng như khách quan đã không cho Nguyễn Ái Quốc đủ nhận thức hệ thống để phân định vấn đề tận gốc, nên đã sa vào thiên la địa võng của một đại bi kịch nhân loại mà những nước khôn ngoan hơn đã tránh được. Dùng âm binh rồi không điều khiển nổi âm binh, để lại bi kịch cho dân tộc cũng như bi kịch cho cuộc đời của riêng mình.” (149)

Về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước:
Đây là một nỗ lực đáng kể của tác giả “Chia tay ý thức hệ”. Tuy ông để trong ngoặc đơn, làm như không quan trọng, nhưng lại là một nhận định hết sức quan trọng trong bối cảnh lịch sử được viết lên theo nhãn quan các người Cộng Sản. Ông viết:
“(Để bao quát hơn nên gọi là cuộc nội chiến Nam Bắc lần thứ hai, lần thứ nhất là Trịnh Nguyễn phân tranh.)”
Với câu vừa nêu, Hà Sĩ Phu phủ nhận cái gọi là cuộc chiến chống Mỹ. Cùng với sự phủ nhận này, như một hệ luận tất yếu, ông ngầm kết án mọi cố gắng của miền Bắc nhằm “đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào.” Đối với ông đó chỉ là cuộc chiến “nồi da nấu thịt.” Để khỏi phải kết tội “anh hùng” Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, là điều có thể đưa ông vào Hỏa Lò, Hà Sĩ Phu đã trưng dẫn Lê Xuân Tá để đổ hết tội lên đầu Lê Duẫn và Lê Đức Thọ như sau:
“Xin hãy bình tĩnh để tham khảo ý kiến của ông Lê Xuân Tá, một cán bộ của ủy ban khoa học nhà nước, những năm 60: “Khát vọng của Lê Duẫn là phải làm một cái gì hơn cả Điện Biên Phủ, để vượt trội cả Hồ Chí Minh lẫn Võ Nguyên Giáp. Khát vọng đó được Lê Đức Thọ đồng tình. Lập trường chủ chiến có nguồn gốc sâu xa như vậy…Nếu không phát động được cuộc chiến tranh ở miền Nam, thì cả Lê Duẫn lẫn Lê Đức Thọ chưa nắm được thế thượng phong trên vũ đài chính trị. Tháng 11 năm 1960 Lê Duẫn phát động phong trào Đồng Khởi, đặt cả nước và ban lãnh đạo ở thế đã rồi.” (trang 182)

Về cộng đồng người Việt Hải Ngoại
“Hai triệu người Việt ở nước ngoài là một nhân tố có vai trò đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Lịch sử hình thành cộng đồng người Việt hải ngoại này là một quá trình sàng lọc khiến nó có những ưu điểm mà không một quốc gia tự nhiên nào có được. Sàng lọc về trình độ người ra đi và sàng lọc về trình độ của quốc gia mà người ấy đến sinh sống. Về nhiều mặt, nếu lấy trình độ trung bình trong nước làm chuẩn, thì những người Việt ra đi nói chung có trình độ cao hơn, trong đó không ít người tài giỏi và giữ bền tấm lòng với đất nước, lại được sống trong những nước tiên tiến nhất. Tuy bị hạn chế bởi nhược điểm phân tán, phân ly, nhưng cái tổng lực khổng lồ ấy nhất định sẽ có những đóng góp đặc biệt cả về xây dựng kinh tế lẫn xây dựng dân chủ.” (trang 192)
Sau khi được tin tướng Trần Độ bị đảng khai trừ vào đầu năm nay, Hà Sĩ Phu đã cùng với Lữ Phương gửi cho viên tướng này mỗi người một lá thư bày tỏ cảm nghĩ của mình, vừa để tỏ tình cảm thông, vừa để góp thêm ý về lập trường của một người đã từng theo đảng lâu năm. Tiêu đề của bức thư là “Chia vui với bác Trần Độ.” (5) Nguyên hai chữ chia vui đã đủ nói hết ý nghĩa của lá thư. Tại sao lại vui? Vì không phải bị khai trừ. Mà là “được khai trừ”, được thoát ra khỏi đảng. Chỉ nguyên cái tiêu đề đó đã nói lên hết sự đánh giá đảng của HSP. Nhưng để yên ủi và trấn an Trần Độ, cũng như gián tiếp trấn an những người đã từng phục vụ đảng trong một thời gian, HSP đã đặt ra một ranh giới rõ rệt, đồng thời cũng cố dung hòa chủ nghĩa Mác-Lê với chủ nghĩa yêu nước trong những hàng chữ rành mặch như sau:
“Trong quan hệ mục đích phương tiện thì yêu nước là mục đích, phong trào Cộng Sản là phương tiện. Trong quan hệ trao đổi năng lượng thì chủ nghĩa Mác-Lê đã ký sinh trên nguồn năng lượng vô tận của chủ nghĩa Yêu nước.”
Ông ngụ ý trong những hàng kế tiếp: nếu có một “tấm lòng Cộng Sản” thì những người Cộng Sản cần phải gạt bỏ cái cây tầm gửi (“ký sinh”) kia đi đừng để nó ăn bám vào lòng yêu nước của mình. Như vậy, cũng như trong các bài viết của ông trước đó, HSP không dám phủ định hoàn toàn công dụng, trong quá khứ, của chủ nghĩa Mác-Lê và của Đảng, có lẽ vì ông còn sợ, còn cần thủ thế.
Ký giả Mõ Bà trong một số báo gần đây trên tờ Phụ Nữ Diễn Đàn đã nêu lên một câu đối của Hà Sĩ Phu phê bình đảng một cách văn vẻ về thái độ sợ “diễn biến hòa bình” như sau:
“Nhà vô địch luôn sợ địch vô nhà”
và đồng thời cho đăng câu đối của một độc giả L:
“Đảng độc tài chỉ có tài độc đảng” .
Trong bối cảnh đòi dân chủ đa nguyên đa đảng, chắc hẳn “đảng ta” nghe thế cũng nhột nhạt lắm.

Nhận xét về tác giả và cố gắng lật hòn đá tảng của ông
Căn cứ vào tin từ trong nưóc cũng như ở hải ngoại và những gì chính tác giả đã cho biết, thì HSP phải là con người đặc biệt. Không phải dòng giống trí thức, cũng không phải con ông cháu cha, lại không phải đảng viên mà ông được đi du học ngoại quốc, đậu tới phó tiến sĩ sinh học, lại có khả năng lý luận của một nhà khoa học về xã hội, dám là người đầu tiên trong chế độ đứng lên phê bình chủ nghĩa Mác, phê bình đảng, phê bình một cách khéo léo cả lãnh tụ tối cao Hồ Chí Minh. Nhất là, mặc dù những tư tưởng cực kỳ “phản động” như vậy, ông ta vẫn không bị thủ tiêu, mà chỉ bị án 12 tháng tù rồi được thả để chỉ còn bị “giam lỏng”.
Điều đó khiến có nhiều người nghi ông là “cò mồi”, “chống cuội”. Nhưng thiết nghĩ đó chỉ là mối nghi ngờ dè dặt thường lệ do kinh nghiệm “Cộng Sản là vua mánh lới”. Dầu sao đọc ông những người chống Cộng cũng thấy có nhiều điều đáng khâm phục, tuy chưa hoàn toàn hài lòng, vì ông vẫn còn kiêng nể ông Hồ, ông Mác phần nào, có lẽ cũng chỉ để thủ thế, dùng đấy như lá bùa hộ mệnh chống lại sự hãm hại của cái đảng còn đầy quyền lực.
Tác phẩm “Chia Tay Ý Thức Hệ” đúng là một tham vọng quá lớn. Bởi vì Mác là một triết gia (mặc dầu có nhiều người không đồng ý), một kinh tế gia, một nhà cách mạng xã hội đã từng làm rung động Âu Châu vào nửa cuối thế kỷ trước. Chủ nghĩa Cộng Sản, tuy nay đã chứng tỏ là ảo tưởng, vô nhân, thất bại, nhưng đã từng lôi cuốn, mê hoặc nhiều nhà trí thức, làm nguồn cảm hứng cho nhiều nhà ái quốc đi vào con đường giành độc lập cho xứ sở. Vậy mà chỉ để hơn trăm trang giấy nhằm triệt hạ những thứ đó bằng một số biện luận cô đúc, vắn gọn, thì dĩ nhiên không thể nào làm vừa ý những nhà nghiên cứu thận trọng.
Tác giả vừa là nhà khoa học thiên nhiên, vừa ham thích xã hội học, lại có óc lãng mạn của một nhà thơ, không thoát khỏi lối lập luận khó hiểu của một bộ óc muốn diễn đạt tư tưởng của mình với một sắc thái riêng. Vì vậy phê bình ông không phải dễ.

Dĩ nhiên chúng tôi không có ý bàn đến lối suy luận của ông, vẫn còn bị ảnh hưởng rất nhiều bởi duy vật biện chứng, và chưa thoát hẳn khỏi những tư tưởng được nhồi nhét hàng chục năm bởi tuyên truyền của Cộng Sản quốc tế cũng như quốc nội. Bàn đến đức trị, phong kiến, Khổng giáo, quốc giáo, duy vật, duy tâm …là những thứ đòi hỏi lật lại cả một kho tàng văn học và triết học từ cổ chí kim từ đông sang tây. Cả trăm trang sách cũng không nói hết ý để có thể thuyết phục được ai. Hơn nữa những vấn đề đó đã được nhiều nhà phê bình triết học và chính trị học bàn đến đầy đủ và đã được kiểm chứng bằng thực tiễn, trong đó phải kể đến sự sụp đổ đồng loạt và nhanh chóng của khối Cộng Sản Đông Âu và Liên Xô vào cuối thập niên trước và đầu thập niên này. Vì vậy chúng tôi chỉ xin hết sức tóm tắt những kết luận cơ bản của tác giả về một số vấn đề cụ thể có tác dụng đối với quảng đại quần chúng, tránh mọi khía cạnh chuyên môn rắc rối trừu tượng. Những lời trích dẫn từ tác giả đã được chúng tôi lựa chọn theo mục đích đó.

Trước hết tác giả ví chủ nghĩa Mác như một cô gái cực kỳ xinh đẹp nhưng ngớ ngẩn, ai thấy cũng phải vồ ngay lấy, nhưng chắc chắn rồi sẽ phản bội. Nó hấp dẫn vì nó hứa hẹn thiên đàng. Nhưng kết cuộc là “thiên đàng mù”. Đó là ảo tưởng. Một chủ nghĩa không tưởng.
Chủ nghĩa đó không tưởng vì nó chối bỏ quyền tư hữu là quyền gắn liền với bản tính con người. (Có người sẽ bĩu môi: “Không tưởng thôi à? Phải nói phi nhân, bất nhân, vô nhân đạo, dã man mới đúng!” Điểm này chúng tôi sẽ xin bàn ở chương cuối.)
Nó không tưởng vì coi nhẹ con người. Với nó con người trong xã hội chỉ là những chiếc đinh ốc, những bánh xe… trong một guồng máy. Nó chủ trương cuộc sống loài người là một cuộc đấu tranh không ngừng giữa các giai cấp. Nhưng giai cấp là thứ gì không có thực. Thiên nhiên không tạo ra giai cấp, mặc dầu vẫn biết Mác đã đựa vào thuyết biến hóa của Darwin để làm cơ sở cho lập luận đấu tranh giai cấp của ông.

Từ chủ trương đấu tranh giai cấp, nó dẫn đến chủ trương tiêu diệt giai cấp đối địch. Bạo lực, chiến tranh là không tránh được để đưa loài người đến “những thiên đường mù”.
HSP cũng phê phán sự đánh giá sai lạc của Mác đối với giá trị lao động đặc biệt là giá trị thặng dư. Ông đã phân tách kỹ yếu tố này, coi như cốt lõi của chủ nghĩa Mác về kinh tế, và xã hội.

Tóm lại tất cả những điều trên đều đã được các nhà phê bình Mác từ một thế kỷ nay nêu lên và chứng minh đầy đủ. Tác giả chỉ nói lại với một thứ “phương pháp luận” riêng và với những thuật ngữ khá lạ tai. Nhưng lời nói của ông có tiếng vang lớn vì là lời nói phát ra từ trong lòng chế độ, nơi từ trước tới nay chưa ai dám nói và ít ai dám nghĩ. Nó có sức hấp dẫn lớn. Vì vậy nó không được phổ biến trong nước. Người trong nước biết được nó qua đường vòng từ trong nước ra hải ngoại, rồi từ hải ngoại vọng về. Nhưng đáng buồn là cũng chỉ một số ít người ở các thành phố lớn biết một cách mơ hồ thôi. Còn ở các nơi khác thì như chính ông đã nói với đài VNCR
“Đối với số đông dân cư ở các vùng nông thôn, miền núi, thì người dân chưa biết cái gì tồn tại ở trên đời ngoài đảng Cộng Sản Việt Nam”!
Để gián tiếp kêu gọi giải thể chế độ và đảng Cộng Sản, Hà Sĩ Phu đã nêu lên một hình ảnh rất sống động vừa thiết thực vừa có tính chất châm biếm là cái thuyền nan cần phải bỏ đi sau khi đã qua sông. Một cách cụ thể ông đề nghị nâng cao dân trí và công khai hóa mọi việc. Đó là một thách đố đối với nhà cầm quyền hiện nay. Vì để nâng cao dân trí ông đòi cho tự do báo chí. Ông thách nhà cầm quyền cho phép chỉ hai tờ báo tư nhân, một ở miền Bắc và một ở miền Nam, để đương đầu với từ 300 tới 500 tờ báo của đảng và chính quyền.

Nếu không đặt nặng vấn đề lý luận và tư tưởng mà chỉ quan tâm đến tính thời sự chính trị thì không thể nghi ngờ lập trường chống Cộng của HSP. Ông đòi từ bỏ chủ nghĩa Mác, bỏ tệ nạn sùng bái cá nhân, từ bỏ sự lãnh đạo của đảng. Ông cũng lên án cuộc chiến tranh gọi là “chống Mỹ cứu nước”. Nhưng, để tỏ vẻ công bằng và không cực đoan, cũng như phần đông các nhà trí thức trong nước, đã từng theo kháng chiến chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, ông cho rằng đảng có công trong việc đánh thắng thực dân Pháp. Ông cũng không dám phủ nhận công của chủ nghĩa Mác đã là con đường, là phương tiện hữu hiệu trong công cuộc kháng chiến thắng lợi đó. Cũng như ông vẫn công nhận dầu sao ông Hồ Chí Minh vẫn là con người đạo đức, có công trong việc giành độc lập cho tổ quốc. Vì đó cũng là ý kiến của nhiều tác giả được chúng tôi trưng dẫn trong soạn phẩm này, nên chúng tôi sẽ xin được bàn đến trong chương tổng kết.

Tác giả đã để nhiều trang sách nói về tính ngụy biện của học thuyết Mác và châm biếm cay độc những lập luận và hành vi của lãnh đạo đảng. Dẫn người đọc đến chỗ phải kết luận: chỉ còn cách phải phế bỏ sự lãnh đạo ngu xuẩn và lưu manh đó, theo từ ngữ của Vũ Thư Hiên.

Có sống ở trong nước với Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Ngọc Lan, hàng ngày thấy văn nghệ sĩ, vì sợ, vì nồi cơm, vì bị bưng bít, chỉ biết nói theo đảng, thì mới thấy sự dũng cảm của Hà Sĩ Phu, dám nói lên một số điều mà người khác không dám nói. Nếu vì thế mà Nguyễn Ngọc Lan hay Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự có ca tụng ông, bốc ông lên như một “biểu tượng” cũng không nên bảo họ tâng bốc nhau. (6)
Một điều mà chúng tôi muốn nêu lên trước khi kết thúc chương này đó là sự việc ông Hà Sĩ Phu bị bắt trong một bối cảnh tranh chấp nội bộ giữa hai nhóm “đảng quyền” và “nhà nước quyền” vào lúc ấy. Nhóm đảng quyền gồm những tay bảo thủ trong đảng như Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan chủ trương cố bám lấy chủ nghĩa Mác Lê, xhcn, chuyên chính vô sản. Trong khi nhóm “nhà nước quyền” gồm những tay chủ trương đổi mới để mở rộng liên hệ với thế giới bên ngoài như Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Trần Đức Lương, Võ Oanh.
Hà Sĩ Phu bị bắt được hai ngày thì Lê Hồng Hà cũng bị bắt. Nếu ông trước bị bắt “quả tang” mang bức thư tối mật của Võ Văn Kiệt, thì ông sau bị bắt vì có dính líu đến việc ông ta đã cùng với Nguyễn Trung Thành, (thuộc ban tổ chức trung ương đảng, trực tiếp dưới quyền Lê Đức Thọ, khi ông này đứng đầu ban tổ chức trung ương đảng, đầy thế lực và thực quyền, và ông Thành cũng chính là người thụ lý vụ án “xét lại chống đảng vào thời 1967”) vận động xét lại vụ án để minh oan cho các nạn nhân. Cả hai ông Nguyễn Trung Thành và Lê Hồng Hà đều vì thế mà đã bị khai trừ khỏi đảng. Vì chuyện này có liên hệ đến tranh chấp nội bộ và vụ án xét lại hơn hai chục năm trước là vụ án làm chia rẽ đảng, mở ra một kẽ hở có triển vọng dẫn đến sự sụp đổ chế độ, nhưng sự sụp đổ vẫn không xảy ra, nên chúng tôi sẽ xin bàn đến trong chương tổng kết, sau khi đã ghi nhận, phân tích ý kiến của nhiều tác giả được trưng dẫn trong soạn phẩm này.

Chú Thích
(1) Bút hiệu này không có nghĩa là sĩ phu Bắc Hà, như Đào Duy Tùng giải thích khi phê bình ông, hay sĩ phu Hà-nội như người ta có thể hiểu. Nó chỉ có nghĩa như là một câu hỏi, một lời than: sĩ phu, kẻ sĩ đâu rồi, hay như ông cho biết: “Thế nào là sĩ phu”? “Ai là sĩ phu”?
(1 bis) Các tác giả phần nhiều không có tên tuổi, trừ Quang Cận, cấp đại tá, tổng biên tập tờ Quân Đội Nhân Dân.

(2) Ngày 22-8-1996. Theo vợ ông là bà Đặng Thị Thanh Biên thì ông Tụ đã khai tại tòa (nguyên văn lời bà trong thư khiếu nại gửi các cơ quan công quyền ngày 30 tháng 9 năm 1996): “Ngay trang đầu của bản cáo trạng đã ghi bắt quả tang tôi đã có hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật của nhà nước là sai hoàn toàn với thực tế. Lúc đó tôi đang đi xe đạp về phía Bờ Hồ thì có hai người ngồi xe gắn máy rượt sát tông vào xe làm tôi ngã. Tôi chưa kịp đứng dậy vững thì có người giật túi, tôi kêu lên , lúc đó thấy có đông người trong đó có công an vây quanh. Công an dẫn tôi và người giật túi về đồn công an phường Hàng Bài. Kẻ giật túi được ngồi yên. Một người công an giật túi tôi đòi xem có mất gì không. Tôi nói tôi không mất gì cả. Nhưng người công an vẫn giằng túi tôi lục soát và lập biên bản là tôi đã có hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước. Thật là vô lý! Cứ làm như tôi là gián điệp biệt kích bị bắt quả tang đang mở khóa kho lưu trữ hồ sơ quốc gia”

(3) Tờ “Viên Giác” ở Đức số 84 tháng 12 năm 1994 có đăng bài của Tâm Tràng Ngô Trọng Anh viết về bài tiểu luận của Hà Sĩ Phu trong đó có câu: “Diệu Âm của Hà Sĩ Phu vỏn vẹn chỉ có vài trang chuyền tay mà làm thất kinh bát đảo toàn bộ “cỗ máy nghiền” văn hóa trí thức của Đảng”

(4) Số trang trong ngoặc đơn ở chương này là theo cuốn Hà Sĩ Phu tuyển tập do Thế Kỷ 21 xuất bản tại California tháng 1 năm 1996.

(5) Khi nhà thơ Bùi Minh Quốc, người bạn của Hà Sĩ Phu cùng ở Dà Lạt, bị khai trừ, ông cũng có sáu câu lục bát gửi bạn:
“Cộng Trừ Nhân Chia” (Tặng BMQ ngày bị khai trừ):

Nghe tin cậu bị khai Trừ
Tấm lòng Cộng Sản có dư vẫn bền.
Lòng nhân ví được Nhân lên
Chia cho thiên hạ làm duyên bạn bầy!
Chạnh lòng, nhớ thuở thơ ngây.
Nhân Chia chưa biết, loay hoay Cộng Trừ!

(6) Ông Nguyễn Minh Cần lưu vong ở thủ đô Liên Bang Nga, sau khi đọc bài của HSP về hoàn cảnh BMQ “bị hành hạ, tra tấn, nhục hình đối với thể xác và tâm hồn” (Mỗi ngày phải viết hai bài tự kiểm, MV) trên tạp chí Thế Kỷ 21 tháng 1-1999. và một câu đối của Hà Sĩ Phu nhân ngày sinh của BMQ, đã viết cho HSP một lá thư dài để chia sẻ quan điểm và cổ võ HSP và các người bạn cùng chí hướng của ông ở trong nước. Đồng thời ông Cần cũng hưởng ứng lời kêu gọi tìm vế thứ hai cho câu đối, mặc dù “thú thật vốn chữ Hán của tôi không bằng cái trứng muỗi”. Hai vế đối của Hà Sĩ Phu và Nguyễn Minh Cần như sau:

Minh Minh Quốc 
đối 
Sĩ Sĩ Phu 
Cầm Minh Quốc bất minh 
đối 
Đả Sĩ Phu vô sỉ
Minh nhật kê minh
đối
Sĩ khí chí sĩ
Minh Quốc phục
đối
Sĩ Phu Vinh










Chương 5
Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên 
“Đêm Giữa Ban Ngày” (1) là cuốn hồi ký viết về những gì xảy ra trong tù Cộng Sản giữa tác giả và tên cai tù và từ đó về những gì xảy ra trong đầu tác giả nhân những cuộc hỏi cung, liên quan đến “nhóm xét lại chống đảng”, rồi từ đó về cả những nhân vật khác trong chế độ Cộng Sản miền Bắc. Khung cảnh thời gian, không gian rất nhỏ hẹp. Nhưng nội dung tác phẩm thì rất lớn, rất đa dạng: đề cập đến rất nhiều vấn đề, rất nhiều sự việc và rất nhiều nhân vật.
Tác giả là một nhà văn, nên ông đã trình bày những sự kiện có thực một cách rất văn vẻ, linh động, sắc nét, làm cho người đọc có cảm tưởng như đọc một tác phẩm văn chương, nhờ vậy có đủ hứng thú đọc hết 767 trang sách mà không cảm thấy mệt mỏi.

Vũ Thư Hiên là con Vũ Đình Huỳnh, một trong những cận thần của ông Hồ, đồng chí và là bạn của những nhân vật trụ cột của chế độ Cộng Sản như Nguyễn Lương Bằng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp…, đã từng ngồi tù Sơn La của Pháp cùng với Nguyễn Lương Bằng, Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn, Đặng Kim Giang, Tô Hiệu, Kỳ Vân, Lưu Động v.v… Ông Huỳnh đã từng có thời làm bí thư cho HCM, luôn luôn ở bên cạnh họ Hồ trong thời gian thương thuyết với Pháp ở hội nghị Fontainebleau, năm 1946. Vì vậy con ông cũng đã có nhiều dịp tiếp xúc trực tiếp với hầu hết các cấp lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam, từ Hồ Chí Minh trở xuống.
Với tư cách nhà văn, nhà báo ông đã quen biết rất nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng trong chế độ Cộng Sản và biết rõ tính tình, cũng như xu hướng chính trị của rất nhiều người trong văn giới và báo giới. Là người thông hiểu Nga ngữ, đã nhiều năm du học ở Liên Xô, ông cũng có những liên lạc với một số người Nga, nhà văn Nga. Những kiến thức của ông nhờ tính ham đọc sách đã lôi cuốn người đọc vì chúng cung cấp những thông tin rộng rãi về nhiều lãnh vực.

Tác giả khởi sự viết tác phẩm này vào mùa hè năm 1985 tại Saigon. Nó được tiếp tục ở Hà-Nội, ở Liên Xô, ở Balan, rồi hoàn tất ở Paris. Tại Liên Xô bọn “côn đồ” đã cướp bản thảo, đập máy vi tính của ông, đâm ông trào máu, cố ngăn cản không cho ông thực hiện ý định. Nhưng ông đã ôm ấp dự tính viết một cuốn sách về “vụ án xét lại chống đảng” này ngay những ngày đầu trong nhà đá Hỏa Lò (trang 295.) Trong những ngày quá đau khổ đến tuyệt vọng có nhiều lúc ông đã muốn tự sát. Nhưng “tôi phải sống sót để nói lại cho đồng bào tôi nghe về thực chất cái xã hội trong đó con người VN bị tước đoạt mọi quyền tự do tối thiểu mà mỗi công dân bình thường của thế giới bình thường phải có.” (trang 513).

Chính cha ông cũng là người thúc đẩy ông, góp ý với ông, trong việc viết cuốn hồi ký này. Mục đích của cuốn sách đã được tác giả nói đến rất cặn kẽ, chính xác, không thể hiểu lầm nơi những trang 303-305, và 513 vừa nêu. Tác giả hoàn thành cuốn sách này còn là để nói lên niềm hối hận của cha con ông. Sau đây là một vài đoạn nói lên niềm hối hận đó:
“Với đảng của ông, cha tôi đoạn tuyệt hoàn toàn”.
– Con ạ, những ngày gần đây bố suy nghĩ nhiều về tương lai đất nước mình. Con có biết bố đi đến kết luận gì không? Kết luận của bố là thế này: muốn cho dân tộc ta không thua kém các dân tộc khác, muốn cho đất nước được thịnh vượng, dân ta không nghèo khổ mãi thì không thể thiếu một điều kiện tiên quyết: ấy là phải gạt bỏ sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản. (M.V. tô đậm) Đảng đến nay đã hết là đội quân tiên phong của cách mạng giải phóng dân tộc rồi. Bây giờ nó trở thành chướng ngại vật trên đường phát triển của dân tộc….
“Tôi sửng sốt. Tôi có thể chờ đợi ở cha tôi bất cứ ý nghĩ nào khác, nhưng không phải ý nghĩ ấy.
“Cần phải có dũng khí vượt qua nỗi đau mới đoạn tuyệt được với quá khứ dứt khoát đến như vậy.
“- Con có hiểu vì sao lâu rồi bố không về quê không? Một hôm khác, cha tôi buồn rầu nói -Bố nhớ làng xóm lắm. Nhưng bố xấu hổ. Sau này con về nhớ nói bố xin lỗi bà con. Bố đi làm cách mạng không phải để mọi người phải sống cuộc sống như thế này. Là con người ai cũng vậy không khổ vì thiếu thốn bằng khổ vì nhục. Một chế độ hạ nhục con người không phải chế độ nhân dân ta lựa chọn.”
Xóm làng mà ông Huỳnh nói đến ở đây là làng Kiên Lao (2), phủ Xuân trường, tỉnh Nam định, sinh quán của ông. Vì “cách mạng” ông đã bỏ, chẳng những làng xóm của ông, mà cả tôn giáo của ông, đạo Công Giáo. Con ông viết rằng từ cái tôn giáo đó ông chỉ còn giữ có lời “Đức Chúa Giêsu Ki-ri-xi-tô dạy là hãy yêu người như mình vậy”. (3)

Nếu đọc không kỹ, người đọc có thể bảo tác giả chỉ nhắm mục đích đả kích bọn Duẩn – Thọ là những kẻ chủ mưu trong việc bắt giam cha con ông. Nhưng ông đã cố giữ lời cha ông dặn khi gần chết: “…Không phải vì mục đích vạch tội ai mà con làm việc này, không phải vì mục đích ấy. Mục đích lớn hơn:…” Đó là cổ võ dân chủ pháp trị, tránh độc tài. (Xin đọc tiếp giữa trang 305.) Và tôi thiết nghĩ, Vũ Thư Hiên đã làm đúng lời trăn trối của cha ông.

Vài nét về Vũ Thư Hiên:
Vũ Thư Hiên sinh ngày 18-10-1933, nguyên quán Trung lao, trực Ninh, Nam định. Mẹ ông là người Hà-nội. Năm 1945, khi mới 12 tuổi ông đã xung vào đội tuyên truyền xung phong. Bốn năm sau ông vào lính và được theo học trường lục quân Trần Quốc Tuấn. Do cương vị của cha ông bên cạnh ông Hồ, và cũng do vai trò của cán bộ thiếu nhi tuyên truyền ông có cơ hội gặp ông Hồ rất sớm và giữ những kỷ niệm về tình cảm tốt đẹp dành cho “người bác” của ông cũng như hàng tá các bác khác từng chiến đấu cam khổ bên cạnh cha ông trong thời chống Pháp. Chỉ cho đến khi ôm ấp ý định viết cuốn hồi ký này, những tình cảm ban đầu mới phai lạt và được thay thế bằng những nhận định thực tiễn chua cay.

Tuy cha ông đã bỏ đạo, mẹ ông lại là người gốc đạo Phật, và cả hai đều duy vật, nhưng mẹ ông không chống đối việc các con được các ông bác bà cô đưa đi rửa tội và xem lễ. Sau khi cha ông bị bắt lúc ông lên sáu, ông đã sống một số ngày thơ ấu ở quê nội, là nơi đã để lại trong ông nhiều kỷ niệm êm đềm tha thiết. Hồi 24 tuổi ông lại có dịp về làng và gặp lại bà cô và được nghe bà khuyên nên tránh xa Cộng Sản vì: “Cộng Sản bất nhân lắm”…(trang 248). Vợ ông khi đi du học ở Ba Lan về, với những gì nhìn thấy ở Balan cũng đã nhủ chồng mình không nên theo Cộng Sản vì nó “không được lòng dân.” (trang 249). Nhưng ảnh hưởng bên nội và lời khuyên của chính vợ ông không làm ông kém hăng say đi theo lý tưởng của cha mẹ. Nhất là cha ông sau khi bất mãn về những sai lầm trong cải cách ruộng đất vẫn còn bênh đảng, nói rằng đảng đã biết lỗi và sửa sai. Vì vậy, tuy không phải là đảng viên Cộng Sản như họ, nhưng ông vẫn lấy làm hãnh diện là đã ở trong hàng ngũ những người kháng chiến. Cho đến khi ông cảnh tỉnh thì đã quá muộn. Cho nên ông bảo mình “đần”, “ngu lâu”. (trang 250)

Nhờ thế lực của cha, Vũ Thư Hiên đã được cử đi học về Điện Ảnh ở Liên Xô. Chính trong thời gian du học này ông đã được chứng kiến tại chỗ việc tân lãnh tụ Cộng Sản nước này hạ bệ thần tượng Staline, mở đầu một giai đoạn mới, chủ trương “các nước có xu hướng chính trị khác nhau có thể sống chung hòa bình”.
Trong hồi ký, Vũ Thư Hiên đã nói rõ ông làm cách mạng, cũng như ông theo chủ nghĩa duy vật chỉ vì cha mẹ ông làm cách mạng và theo chủ nghĩa duy vật, vì lúc ấy duy vật là cái mốt. Vậy thôi. (trang 177)

Trong số gần chục tác phẩm của mình, Vũ Thư Hiên có nhắc đến, (trang 419), những cuốn: “Đường Số 4”, bị lên án vì chủ nghĩa ấn tượng; “Đêm mất ngủ”, bị Tố Hữu gọi là “bất mãn với chế độ hiện hành”; “Đêm cuối cùng ngày đầu tiên”, bị ông Nguyễn Chí Thanh đánh. Cuốn “Miền Thơ Aáu”, xuất bản năm 1988, được ông viết trong xà lim, bằng những cây viết mà vợ ông lén đưa cho ông trong lúc tên cai ngục ngó đi chỗ khác. Cuốn thứ năm được ông nhắc đến (trang 179) là tiểu thuyết “Pháo Đài Xanh” nói về quê nội của ông do cảm tình gắn bó với cái quê nghèo bùn lầy nước đọng hơn cái quê ngoại ở thủ đô là nơi ông sống nhiều hơn. Ngoài ra người ta cũng được biết tác phẩm đầu tay của ông là vở kịch “Lối Thoát” ra đời khi ông mới 20 tuổi. Năm 1962 ông có thêm cuốn “Bông Hồng Vàng”, dịch từ một tác phẩm tiếng Nga. Tập truyện ngắn “Đêm Mùa Xuân” của ông do nhà xuất bản Lao Động cho ra năm 1963 đã bị thu hồi vì sai lập trường.

Cuốn “Đêm Giữa Ban Ngày” không biết sẽ chịu số phận gì, nếu nó được công bố ở trong nước. Chỉ biết tác giả nó đã bị đâm và chết hụt ở Liên Xô cũng vì nó.
Sơ lược nội dung tác phẩm
Cuốn “hồi ký chính trị của một người không làm chính trị” mang tên “Đêm Giữa Ban Ngày”, na ná như tên tác phẩm của Arthur Koestler mà dịch giả Daphner Hardy dịch là “Darkness At Noon”. Tác phẩm của Koestler là tiểu thuyết dựa vào người thực, việc thực trăm phần trăm. Còn ĐGBN là hồi ký có những đoạn hơi “văn vẻ” quá khiến có người bảo không phải văn hồi ký.
Sách gồm có 41 chương tổng cộng 767 trang, thuật lại cuộc đời lao tù của tác giả trong gần 9 năm trường, từ 24-12-1967 đến ngày 2-9-1976. Trong quãng thời gian đó tác giả đã lần lượt trải qua những ngày biệt giam ở xà lim Hỏa lò (Hà-nội), xà lim huyện Bất Bạt, rồi chuyển đến các trại cải tạo Tân lập (Phú thọ) và cuối cùng là trại Phong Quang gần biên giới Hoa-Việt.

Tác phẩm mở đầu như chuyện tiểu thuyết, một cảnh xi nê. Người ta đón đường bắt cóc ông đem đi biệt tăm lúc ông đang cỡi xe đạp trên đường phố Hà-nội vào một ngày hưu chiến dịp Lễ Giáng Sinh, 1967. Mãi 27 tháng sau gia đình mới được thông báo chỗ ông bị giam để thăm nuôi, mỗi năm chỉ hai lần. Người mà ông phải đối đầu trong các cuộc hỏi cung là cục phó cục chấp pháp Huỳnh Ngự được nhắc đến nhiều nhất trong cuốn hồi ký. Y tiêu biểu cho lớp cán bộ trung thành với đảng, một mẫu người trong guồng máy áp chế của xã hội “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà” thời ấy. Người ta cũng thấy ở y cái mặt nạ đạo đức giả mà những lãnh tụ thời ấy thường đeo. Nhưng vốn nóng tính y đã nhiều lần đánh rớt nó trong những buổi hỏi cung khó khăn mà tác giả kiên quyết giữ vững lập trường bất khuất của mình, coi thường những lời hứa hẹn hay đe dọa của y. Tuy nhiên nhìn chung người ta phải công nhận cái tài dụ dỗ và khéo dẫn dắt tù nhân tới những điều mà y muốn. Trong toàn bộ, tác phẩm cho thấy cái pháp lý của chế độ là cố tạo ra bằng chứng; không được, thì dựa vào lời cung khai của nạn nhân để buộc tội. Cho nên có rất nhiều người không có tội vẫn bị xử hay bị giam. Vì, tuy cấm tra tấn, nhưng những lời đe dọa, những hình phạt cùm, phạt biệt giam trong một thời gian dài khiến nhiều người mất kiên nhẫn, đành nhận tội để được yên thân.

Điều mà các tên chấp pháp muốn moi từ tác giả là một lời thú tội, một lời khai hớ hênh, một tin tức vô tình về một người nào đó trong số những người đang bị kết vào tội “xét lại chống đảng”.
Huỳnh Ngự đã hỏi ông về cha ông, về những người có liên hệ với cha ông từ Nguyễn Lương Bằng, (trang 309),Võ Nguyên Giáp, Ung Văn Khiêm, Đặng Kim Giang, Lê Liêm, Hoàng Minh Chính, Minh Tranh, (Giám Đốc nhà Xuất Bản Sự Thật) Tôn Thất Tùng, Tạ Quang Bửu, (chủ nhiệm ủy ban khoa học nhà nước), Lê Quý Quỳnh (bí thư tỉnh ủy Hưng Yên)… cho đến những nhà văn, nhà báo, họa sĩ… và một lô các nhà trí thức khác… mà ông từng quen biết hay có dịp gặp mặt như Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, Phan Kế An và Phan Kế Hoành (2 người con cụ Phan Kế Toại), Văn Cao, Bùi Xuân Phái (họa sỹ), Phạm Kỳ Vân, Dương Tường (nhà thơ), Mạc Lân (nhà báo), Huy Vân (điện ảnh), Vũ Huy Cương (điện ảnh), các nhà văn Hứa Văn Định, Châu Diên, Xuân Khánh, Phù Thăng vân vân…
Có lần Huỳnh Ngự hỏi tác giả về sự liên hệ giữa ông và một nhà ngoại giao Nga tên Rashit, và trong cuộc hỏi cung này y đã quyết đoán tác giả làm gián điệp cho ngoại nhân. Nhưng y không làm sao khiến tác giả nhận tội hay cung khai những điều bất lợi cho người khác.

Căn cứ vào những buổi hỏi cung của Huỳnh Ngự và những tin tác giả nhận được trước khi vào tù thì được biết những người có dính líu trong cái gọi là vụ án XLCĐ gồm có những người sau đây:
Hoàng Minh Chính, viện trưởng viện triết học; Phạm Viết, phó tổng biên tập tờ Hà-nội Mới; Kỳ Vân phó tổng biên tập tạp chí Học Tập; Minh Tranh. Giám đốc nhà xuất bản Sự Thật. Những người này, ngoài Minh Tranh chỉ bị cách chức, đã bị bắt tháng 7 năm 1967. Sau vài tháng đến lượt các ông Vũ Đình Huỳnh, vụ trưởng vụ lễ tân phủ chủ tịch, cha tác giả; thiếu tướng Đặng Kim Giang, nguyên tổng cục phó tổng cục Hậu Cần, chủ nhiệm cục hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ, rồi thứ trưởng bộ Nông trường, các ông Trần Minh Việt, phó bí thư thành ủy kiêm phó chủ tịch ủy ban hành chính thành phố Hà-nội; Nguyễn Kiến Giang , biên tập viên tạp chí Học Tập; Đinh Chân, biên tập viên báo Quân Đội Nhân Dân; Nguyễn Văn Thẩm, bí thư của thứ trưởng bộ Văn hóa Lê Liêm. Cha tác giả bị bắt vào đúng ngày sinh con, 18 tháng 10. Về ông Hoàng Minh Chính xin xem chương 2.
Tác giả đã nhân lúc bị hỏi cung về những nhân vật này để nói thêm những gì ông biết về họ, và cũng nhân lúc nêu ra tên tuổi họ, ông còn nói miên man tới những người khác, việc khác mà họ quen, biết hay có liên hệ ở một phương diện nào đo,ù khiến cho cuốn hồi ký bao gồm luôn một số chi tiết lý thú về cuộc đời của một số nhân vật. Về những nhân vật quan trọng trong bộ máy đảng và nhà nước Cộng Sản, chúng tôi sẽ dành cho mỗi người ít hàng trích dẫn của tác giả ở những trang sau.

Trong hai năm đầu khi bị giam tại xà lim Vũ Thư Hiên đã thuật lại những câu chuyện giữa ông và người bạn tù cùng xà lim tên Thành (Mỗi xà lim giam tối đa hai người). Và khi chỉ còn một mình thì ông nói chuyện về con cóc Arquelin mà ông bắt được khi nó vừa mới đứt đuôi nòng nọc.
Sau hơn hai năm tác giả được biết cha ông cũng đương bị giam trong cùng một khu và hai cha con liên lạc được với nhau qua bao thuốc lá mà người mang cơm trao cho.

Sau 27 tháng tù VTH được gặp mẹ và vợ con. Trong dịp này ông đã gửi được mấy hàng cho ông Nguyễn Lương Bằng lúc ấy nắm quyền thanh tra trong đảng và chính phủ, để xin can thiệp cho cha con ông. Nhưng không có kết quả. Vì ông Bằng chỉ hứa suông mà không dám! Về sau, trước khi chết ông Bằng có cho mời cha tác giả đến bên giường bệnh, “xin tha thứ”.
Những năm sau, sau khi gây gỗ, sừng sổ với chấp pháp, chửi luôn lãnh đạo, và sau mấy tuần lễ bị cùm trong xà lim biệt giam gần chết để trừng trị tội phạm thượng, ông được áp giải tới trại cải tạo lao động Tân Lập, tỉnh Vĩnh Phú. Rồi vài năm sau đó lại được chuyển tới trại Phong Quang, gần biên giới Hoa Việt. Trong hai trại cải tạo này ông được gặp một số người quen. Ông cũng gặp cả những tên tù hình sự lưu manh và cả những thiếu nhi giết người, những tù chính trị thuộc các tôn giáo, và đảng phái quốc gia.

Tại trại Phong Quang ông đã viết khá nhiều về một số phạm nhân đặc biệt người Trung Quốc, trong đó có Cố Thủ Chẩu và anh chàng Marinết, quốc tịch Trung Quốc nhưng mang dòng máu Hà Lan, một người suốt đời trung thành với đảng nhưng đã trở thành nạn nhân của đảng. Chính nhân vật này đã nói với tác giả:
“Anh thử nghĩ mà xem có biết bao nhiêu người thành tâm đi theo chủ nghĩa Cộng Sản và trở thành nạn nhân của nó.”
Những cái tên người mà tác giả nhắc đến ở những chương cuối gồm có một số tên có lẽ không lạ lắm với độc giả trong chế độ Cộng Sản, đặc biệt có Nguyễn Chí Thiện (nhà thơ nổi tiếng chống Cộng, mới được tha gần mười năm và đã được cho ra ngoại quốc, xin xem chương 13).

Một số nhận định của tác giả về chủ nghĩa Mác, về đảng Cộng Sản Việt Nam và một số nhân vật quan trọng trong các chính quyền Cộng Sản Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô.
Trước hết về chủ nghĩa Mác Vũ Thư Hiên viết:
“Cả hai cái đó – chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lê-nin – hiểu đúng và hiểu không đúng, đều không phải là chủ nghĩa Cộng Sản ở Việt Nam. Ở Việt Nam có một chủ nghĩa Cộng Sản không dính dáng gì tới Mác hoặc Lê-nin hết. Nó là chủ nghĩa Cộng Sản bình dân. Nó kêu gọi đấu tranh cho một xã hội không có người bóc lột người, một cuộc sống tự do công bằng và hạnh phúc, một địa cầu không biên giới. Đó chính là chủ nghĩa Cộng Sản mà cha mẹ tôi theo, là cái mà ông bà muốn trao lại cho chúng tôi…Chính chủ nghĩa Mác dung tục, thô thiển, chứ không phải chủ nghĩa Mác hàn lâm hay chủ nghĩa Mác cường đạo, mới là cái hữu ích cho phong trào giải phóng dân tộc. Hấp lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Có người nô lệ yêu nước nào lại từ chối một viễn cảnh huy hoàng như thế?
“Vào thời cha mẹ tôi phần lớn những người cách mạng đều tự hào nhận mình là Cộng Sản. Chính sự lầm lẫn này về sau đã sinh ra một nghịch lý: những nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam thường tỏ ra là những chiến sĩ tài ba khi họ ít được học chủ nghĩa Mác, còn khi bập bõm chủ nghĩa Mác rồi thì họ lại sa vào hết sai lầm này đến sai lầm khác.” (trang 322-323)
“Tôi hiểu các nhà lãnh đạo qua cha tôi. Phần lớn họ thuộc thế hệ cha tôi, trạc tuổi cha tôi. Họ có tiểu sử na ná như nhau, tất cả đều là những người yêu nước trước khi thành Cộng Sản. Họ nhập vào hàng ngũ Cộng Sản mà không hiểu chủ nghĩa Cộng Sản là gì. Chỉ cần biết chủ nghĩa Cộng Sản hứa hẹn một tương lai tốt đẹp cho công cuộc giải phóng dân tộc là đủ.” (trang 323)

Về Đảng Cộng Sản Việt Nam, Vũ Thư Hiên tin rằng nó có công thực – chứ không phải cướp công – trong việc lãnh đạo cuộc khởi nghĩa thắng lợi mùa thu năm 1945. Nó có sức thu hút các người Việt Nam có tinh thần yêu nước, đến nỗi ông cho rằng thời đầu những người cách mạng đều cho mình là Cộng Sản! (trang 322) Nhờ có tinh thần yêu nước, các đảng viên Cộng Sản đã kiên cường chịu cực chịu khổ, hy sinh để cuối cùng giành được thắng lợi vẻ vang.
Nhưng từ sau kháng Pháp thành công, đảng Cộng Sản đã phạm phải những lỗi lầm không thể tha thứ trong các chiến dịch giảm tô, cải cách ruộng đất, và các cuộc trấn phản đối với những người có tư tưởng khác với tư tưởng chính thống, như trong các vụ án Nhân Văn -Giai Phẩm và cái gọi là nhóm xét lại chống đảng. Cuối cùng chắc ông cũng cùng một phán xét như cha ông là phải gạt bỏ sự lảnh đạo của đảng Cộng Sản thì nước nhà mới khá. Sau đây là một vài đoạn trích dẫn:
“Một trong những điều khó hiểu đối với tôi hồi ấy là tại sao, vì lẽ gì những nhà cách mạng Việt Nam thuộc thế hệ cha chú tôi, lúc đó còn đông đúc, lại chịu chấp nhận một mô hình xã hội quỷ quái như vậy? (trang 508)
“Những người cách mạng năm xưa đã xây dựng nên cái gì vậy?
“Theo cái que chỉ của thợ cả , những người thợ rèn ngày đêm quai búa, hình dung mình đang làm nên bông hoa hạnh phúc cho nhân dân. Nhưng khi ngẩng đầu lên để lau mồ hôi đầm đìa trên mặt họ chợt nhận ra rằng trước mặt mình không phải bông hoa, mà là cái cùm kiên cố.”(trang 316)
“Từ cải cách ruộng đất trở đi tập tục này (tôn vinh Đảng, chú thích của M.V.) lan rộng và ăn sâu trong sinh hoạt của dân chúng. Người dân mở miệng ra là “Nhờ ơn Đảng, Chính phủ”. Người ta nói: “Nhờ ơn đảng, chính phủ, mùa màng năm nay khá, gia đình em tạm đủ ăn”, “Nhờ ơn Đảng, chính phủ, nhà em vừa sinh thằng cu”. Quen miệng người ta còn nói: “Nhờ ơn đảng, chính phủ, cái mụn chốc thằng cu nhà em đỡ rồi, em lấy cao nhà ông lang Sửu đấy ạ.!” Trong nhân dân cũng vào thời kỳ này xuất hiện câu ca dao thú vị nói rất trúng cách tuyên truyền của Đảng về những thành tựu lãnh đạo:

Mất mùa là tại thiên tai,
Được mùa là tại thiên tài Đảng ta…
Đảng là đấng Tối Cao, như Chúa Trời.

“Đảng còn hơn cả Chúa Trời nữa, vì Chúa Trời vô hình vô ảnh, còn đảng là có thực, cũng như những nhà tù của Đảng là có thực, Đảng là người quyết định hết thảy, Đảng cho thì có, Đảng lấy thì mât.”(trang 414)

Về Các chiến dịch giảm tô và cải cách ruộng đất:
“Tôi chỉ bắt đầu ngờ vực đức hiền minh của các lãnh tụ vào thời gian cuộc giảm tô giảm tức được phát động ở khu 4 kháng chiến, năm 1953…
“Tôi kinh hoàng nhìn cảnh tượng không hiểu nổi: nườn nượp lướt qua mắt tôi từng bày đàn người bị kích thích bởi mùi máu, hăm hở đi dưới lá cờ đỏ sao vàng không phải để chiến đấu với quân xâm lược, mà với chính đồng bào mình.
“Tại xã Ngô xá, làng Ngò Thanh Hóa, nơi có dinh cư cụ cử Nguyễn Thượng Hiền, người ta trói chặt hai tay rồi dong mẹ bạn tôi đi khắp làng chỉ vì bà trót dại nói điều gì đó mất lập trường hoặc không vừa lòng cán bộ giảm tô giảm tức. Trước bà là hội trưởng hội Liên Hiệp Phụ Nữ Thái Bình. Mất đất, bà mang con cái chạy vào Thanh Hóa, làm nghề hàng xáo buôn thúng bán mẹt. Chúng tôi nghe tiếng kêu khóc chạy tới thì thấy mấy anh du kích quen đang xềnh xệch kéo bà đi. Hai tay bị trói giơ lên trời, bà xiêu vẹo bước sau họ, kêu gào thảm thiết: “Đi cụ Hồ ơi, cụ trông xuống mà xem người ta đối xử với con dân cụ thế này đây.”
“Ở một xã khác, một người đàn bà bị trói vào hai cây nứa bắt chéo, bên dưới là một đống lửa. Con mẹ ni là phú nông phản động, ngoan cố lắm, những người bâu quanh nhao nhao nói thế. Người đàn bà quằn quại mãi đến khi ngất đi rồi mới được người ta hạ xuống.
“Cha bạn tôi, hoạt động cách mạng từ trước 1945, bị tống giam vì bị vu là đảng viên Quốc Dân Đảng, thắt cổ tự tử, để lại bức thư tuyệt mệnh: “Oan cho tôi lắm, cụ Hồ ơi. Tôi trung thành với cụ, với đảng. Tôi không phản bội. Hồ Chí Minh muôn năm.”
“Người ta lấy gai cắm vào đầu ngón tay một cô gái, có trời biết cô ta bị tội gì, có thể cô ta chỉ có tội là con địa chủ, cứ mỗi câu hỏi lại cắm cái gai sâu thêm một chút, làm cho cô ta rú lên vì đau, quằn quại trong giây trói.
“Một cụ già tóc bạc phơ bị tròng giây vào cổ, bị lôi xềnh xệch trên đường như một con chó. Lũ trẻ làng rùng rùng chạy theo sau. Chúng vỗ tay, chúng reo hò, chúng cười ngặt nghẽo. Tôi nhìn chúng rùng mình—những đứa trẻ này chắc chắn sẽ lớn lên với trái tim không phải của giống người. Rồi đây với tâm hồn chai sạn, làm sao chúng có thể sống chung với những anh em khác màu da và tiếng nói trong một thế giới đại đồng mà chủ nghĩa Cộng Sản hứa hẹn?
“Tôi cảm thấy trong mình cục cựa một cái gì giống như sự thức tỉnh. (trang 32-33)

Về cá nhân ông Hồ Chí Minh, Vũ Thư Hiên có một nhận định phức tạp do cảm tình của ông đối với một người tương đối thân của gia đình, và một “anh hùng dân tộc”, bình dị, đáng yêu trong những năm đầu khi tâm hồn ông còn non trẻ, pha lẫn với những nhận thức của một trí óc đã phát triển khi va chạm với thực tế của cuộc đời về một Hồ Chí Minh, lãnh tụ sắt đá cố tình làm ngơ trong những vụ tàn sát hàng vạn sinh linh, như trong cải cách ruộng đất v.v… Chúng ta hãy nghe một vài đoạn trong tác phẩm của ông:
“Không biết tôi đúng hay không đúng, đúng được bao nhiêu, trong ý nghĩ rằng thế hệ cha chú tôi bị sự sùng bái Hồ Chí Minh làm cho mù quáng, tước bỏ nơi họ tinh thần độc lập suy nghĩ. Rất nhiều hậu quả tồi tệ mà một cuộc cách mạng trong sáng về mục đích đem lại cho dân tộc là do sùng bái cá nhân.
“Sau cách mạng tháng tám uy tín của ông Hồ Chí Minh vút lên như diều gặp gió. Cùng với thắng lợi của cuộc kháng chiến uy tín của ông càng lên cao hơn nữa. Ông không phải chỉ là “cha già dân tộc” của Việt Nam, mà còn là đấng chí thánh của phong trào giải phóng dân tộc.
“Người ta sẵn sàng chết cho Bác Hồ, đồng hóa Bác với Tổ Quốc. Các chiến sĩ sung trận hô lớn “Vì Đảng, vì Bác tiến lên”. Những đảng viên trong lễ kết nạp giơ tay tuyên thệ trước chân dung ông đặt trang trọng trên “bàn thờ tổ quốc”, trên nền đảng kỳ. Hiện tượng sùng bái này, nói cho đúng, một thời có tác dụng tốt, nó kích thích quần chúng tham gia kháng chiến chống Pháp. Không có nó cuộc kháng chiến chống Pháp khó lòng đạt được những thành công như nó đã đạt được.
“Điều đó không lạ. Quần chúng châu Á cần có minh chủ trong mọi cuộc nổi dậy. Không có minh chủ thì không có phong trào là hiện tượng đặc thù và phổ biến của những quốc gia lạc hậu.” (trang 508)
“Trong xà lim tôi có thừa thời gian để suy gẫm. Trong những điều tôi suy ngẫm có sự rà soát lại bệnh sùng bái ông Hồ Chí Minh mà thế hệ chúng tôi, kẻ ít người nhiều, đều mắc phải. (trang 457)
“Bây giờ tôi mới hiểu: thì ra con người đối với Hồ Chí Minh không là gì cả…Con người là vốn quý nhất, tôi từng nghe ông nói với mọi người trong lần gặp anh hùng La Văn Cầu ở Thác Dẫng, mùa thu năm 1950. Staline cũng nói thế. Mao trãch Đông cũng nói thế.
“Mà đúng: con người chỉ là vốn thôi, để kinh doanh cái gì đó. Khi là vốn nó thôi là người.
“Trong hành xử ông là một diễn viên kỳ tài, như sau này tôi được biết. Cha tôi có kể chuyện khi đi thăm bức tường công xã Paris ở nghĩa trang Père La Chaise (1946), có các quan chức Pháp tháp tùng, ông Hồ sụt sùi khóc, lấy khăn tay thấm nước mắt. Trở về khách sạn, cha tôi hỏi làm sao ông khóc đuợc, ông trả lời: “Mình làm chính trị, khi cần khóc phải khóc được, khi cần cười phải cười được, mới làm chính trị được chứ”. Cha tôi có ghi lại việc này trong hồi ký “Tháng Tám Cờ Bay” (trang 459)
“Đến bây giờ chẳng còn ai không biết tác giả Trần Dân Tiên của cuốn “Những Mẩu Chuyện Về Cuộc Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” là chính Hồ Chí Minh.
“Trong lịch sử thế giới có lẽ đây là lần đầu tiên và duy nhất nhân vật đứng đầu quốc gia tự viết tiểu sử mình với những lời lẽ ca ngợi chính mình. Những lời ca tụng Bác Hồ trong tập ký sự ký tên T.Lan , những bài báo ký tên T.L., A.G. và nhiều tên khác nữa cũng chẳng có thể đổ cho người khác được. Ông Hồ tự ca tụng, chuyện đó là có thực. Một việc làm thừa, hơn nữa ngớ ngẩn—không cần đến những bài báo ấy uy tín của Hồ Chí Minh chẳng những đã tràn ngập mà còn vượt ra ngoài bờ cõi”.(tr.510-511)

Nơi trang 249, sau khi đã thuật lại lời người cô và chính vợ mình khuyên không nên theo Cộng Sản, Vũ Thư Hiên đã thuật lại lời một người bạn là tiểu đoàn trưởng Đích cũng cảnh giác ông y như vậy. Hãy nghe Đích nói về ông Hồ Chí Minh, qua lời thuật của tác giả:
“Tôi không bực vì vụ án, lầm là chuyện thường, huống hồ trong vụ này tôi cũng có cái sai. Nhưng tôi sai là một chuyện. Cái cách đồng chí đối xử với nhau thế nào là chuyện khác. Nhà tù cho tôi thấy một điều: Không có tình đồng chí! Chúng ta nhầm. Bây giờ tôi mới hiểu. Ông Hồ không phải đồng chí của ta, ông ấy cũng là vua như các ông vua khác, lại không phải vua hiền. Ông ấy biến những con người lương thiện thành những con quỷ. Ông ấy là quỷ vương.”
Hẳn trong đầu tác giả đã phải có ý nghĩ tiêu cục về ông Hồ đến độ nào đó ông mới thuật lại nguyên lời nói trên.

Nơi chương 15, khi thuật lại trường hợp ông Dương Bạch Mai đột tử với nhiều nghi vấn, tác giả đã để cho người đọc kết luận ông bị đầu độc. Tác giả cũng nói đến chuyện Họ Dương chống Mao, họ Dương thân các người Trốt Kít như Pham Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, cả ba người này, tác giả nói là đều bị Việt Minh giết. Sau đó ông trưng dẫn lời Hồ Chí Minh báo cáo cho quốc tế Cộng Sản năm 1939, khẳng định: “Đối với bọn tờ rốt kít không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng nào cả. Phải lột mặt nạ chúng như là tay sai của Phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị.”
Những điều tác giả viết khiến người đọc thấy ngay: Dương Bạch Mai chống Mao, thân tờ- rốt- kít. Hồ Chí Minh đòi phải tiêu diệt Tờ-rốt-kít. Dương Bạch Mai đột tử ngay trước khi đại hội trung ương sắp sửa họp để ra nghị quyết 9 đầu năm 1964. Nghị quyết này chủ trương theo đường lối của Mao, ngấm ngầm chống Khrutsh-chev.
Trưng dẫn lời ông Hồ nói trên, sau khi thuật lại các sự việc cụ thể về Dương Bạch Mai, hẳn tác giả muốn dẫn độc giả đến kết luận: Ông Hồ, nếu không chỉ thị thủ tiêu họ Dương, thì cũng đồng ý hay làm ngơ cho đàn em thi hành.

Mấy trang đầu chương 33 Vũ Thư Hiên đã dành để nói lên “sự kính mến”, thật lòng -hay giả dối -của tên cai ngục Huỳnh Ngự đối với Hồ Chí Minh, khi y phá bỏ khoảng cách thường có giữa cai tù và phạm nhân, thân hành vào trong xà lim, “hiền lành ngồi xuống bên cạnh tôi” để báo “tin buồn”, mắt rưng rưng: “Bác của chúng ta…Bác đã…đã… Bác mất rồi!” Hãy nghe phản ứng của tác giả trước cái chết đó:
“Ý nghĩ đầu tiên đến với tôi là cùng với cái chết của ông Hồ bọn chuyên quyền càng rảnh tay hoành hành. Nói gì thì nói ông Hồ còn sống vẫn là một vật cản. Bởi vì ông ta đã hô hào đoàn kết, ông có đạo đức giả khi nói thế thì ông cũng không cho phép cấp dưới bóc nốt cái vỏ của câu nói. Không còn quyền, nhưng ông còn cái uy cái thế, buộc chúng phải nể. Có làm gì chúng cũng phải ngó ông một cái, xem ông phản ứng ra sao.

…Tin ông Hồ qua đời không làm tôi xúc động. Tôi không vui mà cũng chẳng buồn. Bây giờ đối với tôi ông là người dưng. Ông đã bị xóa sổ trong trí nhớ của tôi. Ông đã đi khỏi cuộc đời tôi.
…Tôi cũng chẳng căm thù người đứng đầu cái nhà nước đang hành hạ tôi. Tôi biết ông không phải là thủ phạm. Nói cách khác không phải đầu vụ. Cũng không phải tôi muốn bào chữa cho ông Hồ. Khi ông đã kề đùi kề vế với Duẫn, với Thọ, thì mọi việc làm của họ ông đều có dự phần, vinh cũng như nhục.
“Nhưng tôi tin nhận xét của cha tôi -ông Hồ không phải người ác. Không hiểu sao ông lại làm ngơ để xảy ra vụ án thảm khốc này.” (trang 579)
Nơi trang 359, sau khi nói về cái tật hay tránh né một cách lép vế của Võ Nguyên Giáp, Vũ Thư Hiên đã thuật lại trường hợp của tướng Lê Liêm đã được ông Hồ đồng ý về quan điểm “nên tránh bị cuốn vào cuộc đấu tranh giữa hai cường quốc xã hội chủ nghĩa” và hy vọng trong hội nghị sẽ đưọc ông Hồ lên tiếng bênh vực. “Nhưng ông Hồ tránh ánh mắt của ông, quay đi nơi khác.”
“Điều tôi không ngờ là Bác đã hứa, nhưng lại không giữ lời. – Lê Liêm kết luận – Tôi không hiểu vì lẽ gì.”(trang 360)

Mẹ tác giả đã từng là một chiến sĩ cách mạng bên cạnh ông Hồ, đã từng tôn thờ, cung phụng săn sóc ông những lúc ông đau ốm. Nhưng đến khi thấy chồng bị bắt mà ông Hồ làm ngơ, thì “trong lòng bà ông Hồ Chí Minh chết vào đêm cha tôi bị bắt. (bà bảo con:) – Lòng người khôn lường, con ạ! Mới biết không thiếu gì kẻ quên đạo làm người khi ngồi vào ghế vương giả.” (trang 28)

Về tội ác giết hàng vạn người trong cải cách ruộng đất, tác giả cho biết “cha tôi khẳng định người chịu trách nhiệm chính trong việc gây ra những sai lầm trong CCRĐ là ông Hồ Chí Minh chứ không phải Trường Chinh, như đã có sự ngộ nhận kéo dài nhiều năm. Trường Chinh là con dê tế thần cho sai lầm của ông Hồ.” Nhưng cha ông lại bênh ông Hồ khi nói với con rằng “Ông (Hồ) đã buộc lòng phải làm CCRĐ khi bị Mao nhắc nhở.” (trang 221)

Tác giả đã trích dẫn Hoàng Văn Hoan nói về việc ông Hồ yêu cầu họ Mao đưa hơn 300 ngàn lính Tàu vào miền Bắc vào nửa cuối thập niên 60. Ông cũng nhấn mạnh là lúc ấy Hoàng Văn Hoan là ủy viên bộ chính trị, nên sự kiện này ông không thể không biết, và đáng tin cậy. Ai cũng biết Hoàng Văn Hoan thân Trung Cộng ra mặt từ lâu. (Trang 229)

Trong toàn bộ tác phẩm, tác giả nói đến ông Hồ rất nhiều, thuật lại nhiều việc , nhiều nhận xét của người nọ người kia, kể cả của cha ông, mẹ ông nhận xét về ông Hồ. Tổng kết tất cả những sự việc và nhận xét đó, người đọc phải hiểu tác giả kết tội ông Hồ hơn là bênh, tuy ông không đưa ra một kết luận minh thị, xác quyết nào. Ông muốn độc giả tự kết luận. Hơn nữa ông là người đã từng ngưỡng mộ, nếu không nói là mến yêu ông Hồ khi còn nhỏ. Cho nên thật khó cho ông để có thể kết tội ông Hồ một cách phũ phàng khi ông đã lớn khôn và ông Hồ không còn nữa.
Cái tâm trạng và cách hành xử này không phải chỉ có ở Vũ Thư Hiên mà còn ở rất nhiều cán bộ, cũng như văn nghệ sĩ đã từng theo kháng chiến chống Pháp và đã từng hoan hô ông Hồ, mặc dầu ngày nay họ tỉnh ngộ và nhận ra bộ mặt thật của ông ta.

Tưởng cũng nên xem tác giả nói gì về một số nhân vật ngồi làm vì trong các chức vụ nhà nước như Nguyễn Lương Bằng, Tôn Đức Thắng chẳng hạn:
“Đến nhà cách mạng cao niên rất mực hiền lành Tôn Đức Thắng cũng không thoát khỏi con mắt cú vọ của Lê Đức Thọ. Mà cụ đâu phải người thèm muốn chức quyền. Với đám con cháu, cụ Tôn bảo: “Tụi bay đừng có kêu tao bằng phó chủ tịch nước, nghe ngứa con ráy lắm! Người ta đặït đâu tao ngồi đó, chứ tao không màng cái chức chi hết”. Ngoài việc dự các nghi lễ long trọng bắt buộc phải có mặt cụ, cụ không làm một việc nào khác ngoài một việc là sửa xe đạp. Làm phó chủ tịch nước, ông thợ máy ngày truớc buồn tay buồn chân. Hết xe đạp hỏng cho cụ chữa, anh em bộ đội bảo vệ và nhân viên phục vụ phải lấy xe của người nhà mang vào cho cụ kẻo ngồi không cụ buồn. Thương cụ quá nhiều khi họ còn làm cho xe trục trặc đi để giắt đến nhờ cụ sửa giùm. Một người bạn tôi quen thân với cụ Tôn, cha anh trước kia là đàn em cụ, vào thời gian nghị quyết 9… cụ dắt anh vào phòng riêng thì thào: “Mày có thấy lính kín theo mầy tới đây không mầy?” Anh ngạc nhiên quá. Tưởng anh lo lắng cho cụ, cụ mỉm cười hiền hậu: “Là tao lo cho tụi bây, chớ tao hổng lo cho tao. Trong nhà tao nè, lính kín hổng có thiếu”.

Về chế độ lao tù
“…Cứ nhìn cái hỏa lò này đủ thấy. Thằng công dân bị bắt, chưa biết ất giáp ra so , cán bộ đã khăng khăng bắt nó nhận tội cái đã. Nhỡ oan người ta thì sao? Cái sai, cái tồi tệ từ đó mà ra. Làm cho lòng dạ con người thành ra cằn cỗi, hận thù, như thế là lỗi tại ai? Bác đâu có dậy cán bộ như vậy?” (trang 475)
Trong cuộc đối thoại giữa tác giả và bạn tù Thành, ông đã để cho người đọc hiểu ông kết án chế độ lao tù miền Bắc là phát xít như sau:
“ (Thành: …): Cứ như thể Hỏa Lò là một lằn ranh , bước qua nó mình hết là mình. Có lẽ mục đích của nhà tù là thế. Nó làm cho mình có cảm giác rời bỏ cái thế giới mà mình sống, rời bỏ hẳn, không trở lại…
“(Hiên) : -Chỉ có nhà tù ta mới như vậy. Nhà tù khác đâu có thế.
-Tôi không biết ở các nhà tù khác thế nào, nhưng tôi nghĩ trên thế giới chắc cũng có những nhà tù giống nhà tù mình “.
“Tôi hiểu anh muốn ám chỉ nhà tù của Phát Xít Đức.” (trang 383-384)
Vũ Thư Hiên có nhiều chỗ gọi xà lim bằng một cái tên cũng giống Đào Hiếu: “Chuồng Người”:
“Nó không phải là một cái xà lim bình thường mà là một sáng tạo độc đáo trong nghề làm chuồng người.” (trang 530)
Ngay ở chương 3 ông đã có ý nghĩ nó là “nấm mồ chôn người sống” (trang 57)
Những lời sau đây của tên Huỳnh Ngự cục phó cục chấp pháp dẫn tác giả đến một kết luận bi-hài cười ra nước mắt:
“Sở dĩ đảng giao các anh cho cơ quan an ninh chúng tôi, vì cơ quan chúng tôi có điều kiện tốt nhất, thích hợp nhất để giúp đỡ các anh cải tạo tư tưởng…
“Tôi không nhịn được cười. Thì ra người ta tin rằng xà lim Hỏa Lò là điều kiện thích hợp nhất, tốt nhất cho sự cải tạo tư tưởng. Cứ đà này đảng sẽ lần lượt cho hết thảy cán bộ vào ở xà lim để cho tư tưởng họ tiến bộ hơn, trung thành hơn với chủ nghĩa xã hội.” (trang 136)
Sau đây là lời của anh bạn tù cùng xà lim với tác giả, tên Thành nói với ông khi hai người đã tin được nhau:
“Rồi ra ông còn biết ối chuyện lạ hơn nữa kia. Tôi biết có người hoàn toàn vô tội, ở tù sơ sơ cũng vài năm, thế mà ra tù cậy miệng anh cũng không dám nói anh ta bị oan. Thậm chí anh ta còn nói đảng bắt anh ta là đúng, rằng sở dĩ anh ta được tha, không bị xử là nhờ lượng khoan hồng của Đảng…Ông có biết vì sao không? Là vì anh ta nhận tội rồi, ký vào bản cung người ta mớm cho rồi, bây giờ há miệng mắc quai, lại còn sợ bị trả thù vì phản cung nữa chứ. Tôi nghiệp, bị oan rồi mà đến một cái lệnh tha cũng chẳng được cấp, chỉ được thí cho một cái lệnh tạm tha thôi. Tạm tha là thế nào? Là người ta tạm cho về, nhưng coi chừng, bất cứ lúc nào anh cũng có thể bị bắt lại, đừng có đùa. Trong lệnh tạm tha người ta ghi: Xét tội trạng chưa tới mức phải xử lý theo pháp luật…” (trang 202)

Về những biện pháp tương tự ở Liên Xô thời Staline, tác giả viết:
“Dưới thời Staline không ít người vô tội bị hãm hại, giờ ai cũng biết. Điều ít ai biết là những người này, sau một thời gian bị xử lý tại các xà lim, đã nhận những tội họ không hề phạm, đã nói những lời ăn năn hối lỗi. Những nhà nghiên cứu đã tìm hiểu hiện tượng này và họ thống nhất trong nhận định: nguyên nhân của sự đầu hàng chóng vánh là bộ máy đàn áp hứa hẹn chắc chắn sẽ thanh toán cả gia đình họ, nếu họ không chịu nhận tội.
“Trong nỗi tuyệt vọng trước viễn cảnh đen tối những người bị trấn áp chỉ còn một con đường duy nhất: làm ra vẻ khuất phục để ít nhất cũng cứu được vợ con.” (trang 218-219)

Dưới phần cước chú, tác giả đã cho biết về trường hợp cha con ông: “Chín năm sau, hai cha con gặp nhau tôi mới biết chính Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã vào tận xà lim dụ hàng. Chúng hứa hẹn nếu cha tôi nghe theo chúng chấm dứt cuộc tuyệt thực đã kéo dài hơn 10 ngày, thì chúng sẽ không khủng bố gia đình. Nhưng sau đó Lê Đức Thọ đã cho bắt tôi mà không cho cha tôi biết.”

Về chế độ sắt máu của Staline, Liên Xô:
“Những đứa trẻ cũng không được yên khi cuộc trấn phản đã bùng lên thành cơn cuồng sát. Nhân danh cách mạng người ta chuyên chính cả với con nít. Cách suy nghĩ của những nhà chuyên chính vô sản thật đơn giản: Nếu cha mẹ đã là kẻ thù của nhân dân Xô Viết thì con cái họ lớn lên cũng nhất định sẽ là kẻ thù của nhân dân Xô Viết. Một trong những nghị định của bộ nội vụ thời Staline ghi rõ: “Vợ con những tên phản bội tổ quốc phải bị giam giữ trong các trại tập trung với thời hạn không dưới 5-8 năm tùy theo mức độ nguy hại cho an ninh xã hội. Những đứa trẻ có hại cho an ninh xã hội phải đem xử án, tùy theo tuổi, tùy theo mức độ nguy hại và khả năng cải tạo của chúng, chúng phải bị giam giữ trong các trại tập trung, các trại cải tạo lao động của bộ nội vụ hoặc giam giữ tại các nhà trẻ với chế độ đặc biệt.(Trích chỉ thị của bộ trưởng nội vụ nhân dân số 00486, đề ngày 15-8-1937).

Nhân nhắc lại biến cố Khrutshchev hạ bệ Staline tại đại hội đảng Cộng Sản Liên Xô lần thứ XX vào năm 1956 là năm tác giả đang du học ở đây, ông đã cho ta thấy những con số sau đây nói lên sự tàn bạo của Cộng Sản:
“30,000 sĩ quan và binh lính Ba Lan bị cộng quân thủ tiêu tại khu rừng Katưn thuộc tỉnh Smolensk vào năm 1940. “Không thể naò tưởng tượng nổi: Bắn chết 30,000 người rồi vùi trong các huyệt tập thể. (chú thích: Sau khi Yeltsin lên làm tổng thống, ông đã xác nhận việc này và xin lỗi nhân dân Ba Lan).
“98 ủy viên trung ương đảng trong số 139 người được bầu lên trong đại hội đảng XVII (1934) đã bị bắn và tống giam.
“1,108 đại biểu trong số 1,956 người đi dự đại hội này về sau đã bị bắt và bị giết. (trang 100-101)

Dĩ nhiên Vũ Thư Hiên chưa nói đến hơn 20 triệu đảng viên thường và nhân dân Nga bị thủ tiêu hay tàn sát. Ông cũng không nói đến cuộc thanh trừng đẫm máu nhắm vào phe “Tờ-rốt-kít” hồi Staline mới lên nắm chức tổng bí thư đảng.
Về chế độ ở Liên Xô trong thời Krutshchev, Vũ Thư Hiên có cảm tình và chắc cũng mong Việt Nam đi theo con đường đó hơn là ôm lấy chủ nghĩa Mao.
“Tại Liên Xô đang manh nha một nhà nước pháp quyền…Nhà nước này chủ trương hoà bình tiến lên chủ nghĩa xã hội, chứ không lấy bạo lực áp đặt chủ nghĩa xã hội lên các dân tộc…
“Chế độ xã hội Trung Quốc, cũng như chế độ xã hội VN không hứa hẹn một cái gì tương tự. Nếu ở Trung Quốc là chế độ toàn trị cởi truồng, thì ở Việt Nam còn giữ lại manh khố.” (trang 108)

Riêng về chế độ ở Trung Quốc, Vũ Thư Hiên cũng để ra 3 trang nói qua về cuộc cách mạng văn hóa với Hồng Vệ Binh mà ông gọi là những “âm binh của tay đại phù thủy Mao Trạch Đông”. Chúng được đặt dưới quyền của Giang Thanh, vợ Mao Trạch Đông, tha hồ bắn giết bừa bãi, tha hồ hủy diệt những thành tích văn hóa mà không ai dám đụng tới. Ông cũng viết rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam chẳng những không dám phê bình hay thắc mắc mà còn ca ngợi, cổ võ trên báo trên đài. Những cán bộ Mao-ít được chứng kiến những biến loạn tại Trung Quốc do hồng vệ binh gây ra trở về nước trình bày nhận xét của mình chẳng những không được để ý mà còn bị trù dập, như trưòng hợp Lê Chân, phó tổng biên tập Việt Nam Thông Tấn Xã, hay nhà văn Vũ Bội Kiếm chẳng hạn…( trang 375-379)

Có lẽ Vũ Thư Hiên cũng đồng ý với Dương Bạch Mai (phó chủ tịch quốc hội Việt Cộng) khi ông thuật lại rằng Dương Bạch Mai “gọi chủ nghĩa Mao là món tạp pí lù của thổ phỉ. Giữa lúc ngành tuyên truyền Việt Nam đưa Mao Trạch Đông lên hàng thánh sống thì ông ngang nhiên gọi Mao là tên đao phủ của đại pháp trường Trung Quốc” (trang 278-279) Chính vì vậy mà DBM đã đột tử như đã nói trên.
Liên hệ giữa đảng và các nhà văn:
Những đoạn trích dẫn sau đây sẽ nói rõ tác giả nghĩ gì về mối liên hệ này:
“Cái sự lúng túng không tìm ra chỗ của mình có trong tâm trạng nhiều nhà văn nhà thơ Việt Nam. Mọi người sau khi đặt số phận mình vào bàn tay dìu dắt của Đảng đều phải gò mình vào cái tôi chung, cái tôi tập thể, là một cái tôi vô hình vô ảnh, chui vào trong đó để tự biến mình thành nó….
“…Kim Lân viết Con Chó Xấu Xí và Vũ Tú Nam cho ra Văn Ngan Tướng Công. Cả hai con vật này cũng bị đánh nốt. Người ta giải thích rằng Kim Lân ví đảng như ông chủ, còn trí thức như con chó. Ông chủ hắt hủi con chó, khi nó ghẻ lở gầy còm, ông chỉ quan tâm tới nó khi nó hứa hẹn những đĩa luộc, đĩa dồi và nồi nhựa mận bốc mùi ngào ngạt. Con chó khốn khổ thì cứ một mực trung thành với chủ cho đến chết. Miêu tả thân phận con chó còi cọc đói khổ trên nền xám của nông thôn Việt Nam, Kim Lân có ngòi bút cực hay. Còn Văn Ngan Tướng Công thì bị buộc tội ám chỉ Đảng bay không biết bay, bơi không biết bơi, chỉ nỏ mồm cạc cạc.
“Chớ có viết về những con vật. -Kim Lân nói-Không hiểu sao cứ nói chuyện súc vật là y như rằng có người động lòng. Mà nhiều, mới chết chứ.
“Không rõ các nhà văn tác giả bôi nhọ đảng bao nhiêu, nhưng chính các nhà phê bình mới là người có công vạch ra những cái xấu của đảng.” (trang 421)
Những câu đối đáp sau đây giữa tác giả và nhà thơ nổi tiếng Chế Lan Viên cho thấy“cái hèn một chút” – hay hèn nhiều -ấy:
“-Này anh Chế, theo anh thơ và từ của Mao Trạch Đông có hay lắm không mà thiên hạ tán tụng om xòm đến thế?
“-Thơ phú gì cái thằng cha ấy? Vũ Thư Hiên thấy hay à?
…-Thơ phú là chuyện tôi mù tịt mới phải hỏi anh.
Chế Lan Viên hạ một câu xanh rờn:
-Làm đến hoàng đế nước Tầu rồi thì cục cứt của hắn thiên hạ cũng khen tuốt.
Tôi ngẩn người. Chẳng lẽ đó là tác giả câu thơ ca ngợi hai lãnh tụ vĩ đại:”Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao.” (trang 422)

Câu nói sau đây của Hữu Loan với tác giả năm 1988 cũng cho thấy lý do tại sao văn nghệ sĩ trong chế độ Cộng Sản không thể không “hèn một chút”:
“-Khổng Tử đúng mới buồn chứ: “Đời đục ta trong làm sao được!” Thân mình, thôi chẳng nói làm gì, vì muốn lương tâm trong sạch nên mình mới chọn con đuờng làm dân, nghèo mà thanh thản. Nhưng các con mình vì thế mà không được học hành, thì mình sai rồi.”
Vì thế tác giả không lấy làm lạ khi thấy trong vụ đánh Nhân Văn-Giai Phẩm có cả những tên tuổi đáng kính của nền văn nghệ như Tú Mỡ, Thế Lữ… (trang 245)
Đã không ngại chịu “hèn một chút”, nhiều văn nghệ sĩ đua nhau “ăn cắp văn” của đảng:
“Không ai trách anh nếu anh viết giống bài nào đó đã in rồi trong báo đảng. Nhai lại những gì báo đảng viết đã không mang tội đạo văn thì chớ, lại còn được khen: ý thức tổ chức cao. (trang 129)
Câu chuyện giữa Vũ Thư Hiên và một người bạn, bác sĩ Phan, cho thấy giới trí thức miền Bắc rất ghét lãnh đạo cộng đảng, coi họ như một thứ hủi, tốt nhất đừng dây vào. Vì vậy họ không lên tiếng chỉ vì khinh, hay sợ. Chứ không phải “im lặng là tán thành”.
“Anh (Phan) không thích cái xã hội nhố nhăng với một lũ Cẩm Bá Nhạ (tiếng Pháp campagnards có nghĩa những tên nhà quê), một lũ hủi ở trên đầu.
“Mà hủi thì tốt nhất là không dây. Anh biết giữ mồm giữ miệng cho nên bọn công an theo dõi trí thức vẫn đinh ninh Phan là một bác sĩ giỏi nhưng mít đặïc về chính trị.” (trang 531)

Về vụ án “Nhân Văn-Giai Phẩm”, tác giả thuật lại lời nhạc sĩ Văn Cao nói rằng chủ mưu không phải ông Hồ, “ông cụ không nghĩ ra cái đó. Ông cụ không tệ đến thế.” Cũng không phải Tố Hữu hay Nguyễn Chí Thanh mà “tác giả chính là “Longue Marche”. Cậu nghe rõ chưa? Là -Trường Chính”. Văn Cao cũng nói cho Vũ Thư Hiên biết nhận định của mình về thái độ của văn nghệ sĩ và của các nhà lãnh đạo:
“Hồi ấy văn nghệ sĩ còn tin đảng lắm. Gì thì gì đảng vẫn là đảng của mình. Là ruột thịt của mình. …Chẳng ai hô hào lật đổ các ông ấy cả. Chỉ có các ông ấy chu chéo lên: ối giời ơi có địch, có địch ngay trong hàng ngũ chúng ta, rồi dựng thành vụ để trấn áp.”

Nhưng không phải ai cũng nghĩ như Văn Cao. Một nhà báo trong một cuộc kiểm thảo đã chửi toáng lên. “Nhà báo Hùng Thao gầm lên: “Nuôi cán bộ như lợn, mắng như chó, thời trước địa chủ đối với tá điền cón tử tế hơn.” (trang 576)
Tác giả có thuật lại rằng sau đám tang Dương Bạch Mai đột tử trước khi đọc diễn văn chống đường lối thân Mao của lãnh đạo, thấy tác giả vẫn còn đeo băng tang, có một người trong phòng vệ sinh giả vờ đi tiểu để được đứng gần ông và nói: “—Tôi xấu hổ—anh thì thầm—Tôi hèn. Anh khinh tôi cũng được, anh chửi tôi cũng được, nhưng xin anh thông cảm cho tôi—tôi có 4 đứa con nhỏ và một người vợ bệnh tật. Nếu không tôi đã không xử sự như vậy.” Tác giả viết rằng:”Trong buổi học tổ trước đó anh ta hùng hổ lên án “bọn phản bội xét lại hiện đại”, như một người “Mác xít lê ni nít” chính cống.” Rồi ông kết luận:
“Cái chế độ làm cho con người hèn đi không thể là chế độ xứng đáng với con người. Con người cần phải được sống trong tư thế đứng thẳng, ngẩng cao đầu.” (tr.282)
Nhưng trong xã hội mà ông đương sống “hầu như các nhà văn vào thời kỳ đó đều hèn một chút nếu không nhiều. Đó là bản năng tự vệ, có sẵn trong bất cứ sinh vật nào. Không hèn, chính anh sẽ rơi vào sổ đen, nhẹ thì không đuợc lên lương, hoặc mất đứt cơ may được ra nước ngoài một chuyến. Nặng anh có thể bị đẩy đi lao động, chuyển công tác, hoặc bị tống ra ngoài biên chế. (trang 189)

Trần Dần được coi như một trong những trụ cột của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, thế mà sau khi bị bắt cũng không thoát được tiếng chì tiếng bấc. Chính Văn Cao nói với Vũ Thư Hiên: “Thằng Dần tiếng thế mà không có gan. Mới bị đánh đã gục, đã phản tỉnh lung tung. Nó khai với Tố Hữu rằng Văn Cao bảo tụi nó phục xuống mà đánh. Mà mình có nói thế bao giờ đâu…” Tác giả bảo “tôi tin Văn Cao, nhưng tôi không nghĩ Trần Dần hèn. Tôi biết chỉnh huấn là thế nào. Trong không khí chỉnh huấn con người có thể bị biến đổi do tự kỷ ám thị trong một tập thể tự kỷ ám thị như trong cuộc lên đồng. Trần Dần khi tâm thần hoảng loạn, lại bị xúi dục, có thể bị ám thị rằng Văn Cao đã nói như thế. Còn Văn Cao trong tâm trạng hậm hực cũng dễ hiểu nhầm bạn mình lắm.”

Cái cách lý giải của Vũ Thư Hiên, ai không có kinh nghiệm về các hình thức tẩy não, cải tạo tư tưởng và chỉnh huấn thì không thể nào chấp nhận hay hiểu nổi. Mà đó là cái tàn ác đến tinh vi được Cộng Sản áp dụng thường xuyên, đối với đảng viên cũng như đối với nhân dân.

Nơi trang 118, nhắc đến Trần Dần tác giả viết:
“Tôi nhớ một hôm anh thủ thỉ: “Này, mình cũng người Nam định đấy, cậu ạ. Cái vùng đất thịt này nổi tiếng vì những văn tài và những kẻ bất phục. E rằng trong máu chúng ta có cả hai thứ,”…
“Trần Dần thương tôi, muốn tôi học được nết sợ hãi. Như anh đã học.
“Thế hệ chúng tôi bất hạnh: Chúng tôi ra đời trong thân phận nô lệ, lớn lên trong khói lửa chiến tranh và trưởng thành trong nỗi sợ hãi các đồng chí.”
Tâm trạng sợ sệt của Trần Dần, một cự tướng trong mặt trận Nhân Văn Giai Phẩm, và của Vũ Thư Hiên, một người muốn “đứng thẳng, ngẩng cao đầu”, cho thấy sức mạnh tàn bạo của đảng mà họ ghét nhưng sợ. Có hiểu được nỗi sợï hãi này mới hiểu được sự dè dặt trong những lời tuyên bố hay những trang sách của các tác giả mà chúng tôi chọn trưng dẫn trong soạn phẩm này.

Về một số nhân vật khác:
Trường Chinh:
Tác giả dựa vào nhận xét của cha ông để gán cho Trường Chinh những tội chủ trương tiêu thổ kháng chiến làm tan hoang các tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh hồi cuối thập niên 40 và tội chủ trương “tích cực cầm cự, chuyển mạnh sang tổng phản công” do chính ông thảo trong nghị quyết 9 vào đầu năm 1964. Ông cũng trưng dẫn Văn Cao bảo thủ phạm vụ án Nhân Văn Giai Phẩm là Trường Chinh.

Lê Duẩn:
“Vốn là một tên bẻ ghi đường sắt trước khi trở thành nhà độc tài, Lê Duẩn tất nhiên muốn chỉ bằng một cú gạt là bắt được con tầu quốc gia chạy theo ý mình muốn.” (Trang 273)
“Theo nhận xét của các ông Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm thì Lê Duẩn là người cực đoan về tính cách, phóng túng về hành xử.” (trang 324)
“Bằng vào những câu chuyện kể của họ (tác giả có ý nói những người bạn miền Nam tập kết của ông) khi họ còn ngưỡng mộ “anh Ba” thì Lê Duẩn là người độc lập trong suy nghĩ, có biệt tài tổ chức, trong chỉ đạo có vẻ chặt chẽ, nhưng lại linh hoạt, thoáng đấy mà nghiêm đấy. Hồi kháng chiến chống Pháp, mặc dầu ở xa trung ương, nhưng chủ trương của ông đề ra vẫn khớp với chủ trương của trung ương trong mọi mặt. Người ta sùng bái ông, gọi ông là Cụ Hồ miền Nam.” (trang 325)

Tác giả nói về nghi vấn trong việc tướng Nguyễn Bình, khá nổi danh ở miền Nam, bị giết. Ông bảo cha ông và một số người khác nói Bình có mâu thuẫn với ban lãnh đạo trung ương cục miền Nam (đứng đầu là Lê Duẩn ). Do đó “bị điều ra Bắc và hy sinh dọc đường trong tình trạng không được bảo vệ đầy đủ và lộ trình bị lộ… Nhiều người nói bàn tay Lê Duẫn trong vụ này là rõ ràng, nhưng lại không chỉ ra được chứng cứ.” (trang 348)

Nguyễn Văn Linh:
“Nguyễn Văn Linh, theo cha tôi nhận xét, là người hiền lành , chân thật. Ông cũng đã trải qua nhà tù đế quốc, có tinh thần cách mạng kiên định, là người thực hiện chứ không phải người sáng tạo.
“Dưới thời tổng bí thư Nguyễn Văn Linh trên văn đàn Việt Nam đã xuất hiện một số tác phẩm dám nói lên sự thật, tuy không nhiều….
“Chính là nhờ có Nguyễn Văn Linh mà các văn nghệ sĩ bị buộc tội oan trong vụ Nhân Văn – Giai Phẩm mới được phép xuất hiện trở lại với người đọc.
“Không có Nguyễn Văn Linh thì Dương Thu Hương không thể xuất bản được Bên Kia Bờ Ảo Vọng, Thiên Đường Mù, cho dù sau đó chị có bị trấn áp, bị bỏ tù rồi được thả ra, được xin lỗi, sau này còn được cầm hộ chiếu đi Paris.” (trang 296-297)

Võ Nguyên Giáp:
“Nói đến Võ Nguyên Giáp, cha tôi nhận xét ông Giáp có nhược điểm hay tránh né khi xảy ra bất đồng ý kiến. Với vẻ ngoài bình thản, pha chút cao ngạo, nhiều người tưởng ông kiêu ngạo đặt mình trên những cuộc tranh luận. Thực ra ông bao giờ cũng sẵn sàng chịu lép vế trước người đối thoại hùng hổ. Tất nhiên, ở cương vị của ông số người dám áp đảo và áp đảo được ông không nhiều.” (trang 358)
“Rồi xem Văn (Võ Nguyên Giáp) nó có dám chống lại thằng Duẫn với thằng Thọ không? –cha tôi nói—Tính nó vậy đấy, đứa nào to mồm là nó im. Chán lắm!
Sự việc diễn ra đúng như cha tôi tiên đoán. Võ Nguyên Giáp im lặng ngay từ đầu, trong cuộc họp bộ chính trị trước khi họp trung ương.” (trang 359)
“Đúng là trong thời gian này trí thức có hướng về Võ Nguyên Giáp thật. Người ta tin tướng Giáp, bởi vì ông đã từng là giáo sư trường Thăng Long, chẳng gì cũng là trí thức, là người co ùhọc, chứ không phải loại dùi đục chấm mắm cáy.
“Nhưng tướng Giáp lại chẳng phải như người ta nghĩ. Ông đã phụ lòng tin của trí thức. Thậm chí khi những đòn chuyên chính vô sản giáng xuống những người thân cận của ông, ông đã không dám hé răng nói một lời, mà chỉ ngoan ngoãn né sang một bên, mặc cho Lê Duẫn và Lê Đức Thọ muốn làm gì thì làm.” (trang 334)

Nơi trang 350 và 351 tác giả đã nói lý do tướng Giáp bị thất sủng là do Lê Đức Thọ, dưới sự chỉ đạo của Lê Duẫn, đã khui ra bằng chứng ông tướng này khi còn là học sinh đã khúm núm trước Pháp để xin du học, và khoảng năm 1964 có tin đồn Giáp “lén lút liên lạc với Nikita Khrutshchev’’ bị đảng phát hiện. Nếu Hồ Chí Minh không can thiệp có lẽ tướng Giáp đã bị thanh trừng. Có lẽ những tỳ vết đó trong lý lịch ông làm ông đành cam phận? Nghĩa là chịu hèn cũng như nhiều người khác trong chế độ Cộng Sản?

Phạm văn Đồng:
“Tôi là thủ tướng lâu nhất thế giới và cũng là thủ tướng khổ nhất thế giới. Làm thủ tướng thật, tôi chẳng có quyền gì hết….”
“Ông Ưng văn Khiêm bình luận: Anh chàng này có một cái tội: đó là biết mình không có quyền làm bất cái chi không có phép Ba Duẫn với Sáu Thọ mà lại không dám từ chức. Ông Trần Văn Giầu hóm hỉnh: “Cái đít con người ta có trí nhớ. Nó nhớ cái ghế.” Tôi được nghe Phạm Văn Đồng nói chuyện nhiều lần. Ông tỏ ra là người biết nhiều hiểu rộng, nhưng tôi thấy ít ai nói chuyện vô duyên như ông.” (trang 294)
“…Mai Lộc vốn rất sùng kính Phạm Văn Đồng buồn rầu nói với tôi: “Thần tượng của tôi sụp đổ rồi. Không ai mời ông ta cứ đòi đến, leo lên bục mà ba hoa, chẳng ai buồn nghe mà vẫn cứ nói.”
“Phạm văn Đồng, theo bà (mẹ tác giả) nhận xét là người không xấu, nhưng ba phải, vụng về và vô tích sự…Dư luận ca ngợi ông liêm khiết, ông đứng đắn, nhưng những ai quen biết ông đều hiểu ông không làm nổi trò gì trong những việc lẽ ra ông phải làm….
“…Ông không nuốn mất lòng một ai, nhất là mất lòng cấp trên. Quả nhiên đúng. Một đồng chí cũ thương mẹ tôi đến nói với Phạm Văn Đồng chuyện cha tôi bị bắt. Ông nghe rồi thở dài nói: “Việc tập thể quyết định, tôi làm gì được!” (trang 27)

Lê Đức Thọ (tên thật Phan Đình Khải):
Vũ Thư Hiên coi Thọ là kẻ chủ mưu “vụ án xét lại chống đảng” mà cha con ông là nạn nhân, nên ông đã nói đến con người này ở rất nhiều chương, và đã để hầu trọn chương 31 để nói riêng về y và hai người em là Đinh Đức Thiện (tên thật: Phan Đình Dinh) và Mai Chí Thọ (Phan Đình Đống), với những cá tính và thói xấu của từng người. Ông cũng kể lại câu chuyện về “mồ mả” với khoa “phong thổ” do một người cháu ruột của Lê Đức Thọ, mà tác giả bảo là một nhà khoa học hẳn hòi, kể cho ông nghe vào năm 1966 là năm thế lực của Thọ bao trùm ở miền Bắc, trong chức vụ trưởng ban tổ chức Trung Ương Đảng, mà y đã cải tổ và biến nó thành bộ máy quyền lực cực lớn cho Đảng và cho riêng mình. Câu chuyện phong thổ này cũng như câu chuyện ông thầy bói mù tiên đoán đúng phoóc về số phận của tác giả đã tác động không ít đến định kiến của người duy vật trong ông. Hãy đọc vài câu của Vũ Thư Hiên nhận xét về Lê Đức Thọ:
“Con người cao to tóc bạc trắng, với giọng nói cố ý kéo dài bắt người nghe chờ đợi câu tiếp theo, để lại trong tôi ấn tượng nhạt nhẽo và khó chịu. Tôi dị ứng với những gì không thật. Trong Lê Đức Thọ tôi nhìn thấy đầy dẫy của giả. Mọi người khúm núm sợ sệt. Tôi dửng dưng, bằng con mắt lạnh lùng.
“Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ở tuổi 30, chính quyền đã vững vàng, đám lãnh tụ đã học thuộc bài lên xe xuống ngựa xênh xang, đệ tử bâu quanh như ruồi thấy mật. Một chút khiêm tốn giả vờ, một chút bình dân đóng kịch, trộn với rất nhiều phô trương quyền thế, là nét nổi bật trong Thọ. Nói tóm lại một tên hãnh tiến điển hình.” (trang 548)

Tác giả có thuật lại lời của nhạc sĩ Văn Cao và của nhà khoa học Bùi Quang Trừng nói với ông về mộng lập liên bang Đông Dương với Lê Đức Thọ làm tổng bí thư. Do đó việc xua quân sang Cam Bốt năm 1978 là chính y chủ động vì mục đích đó:
“Cuộc phiêu lưu quân sự (sang Cam Bốt, M.V.) được tiến hành theo sáng kiến và sự chỉ đạo của Lê Đức Thọ đã làm cho khoảng 52,000 chiến sĩ chết trận, 200,000 chiến sĩ bị thương….
“…Thọ đã chết trước khi phải ra đứng trước vành móng ngựa một phiên tòa liên tịch hai nước, với tư cách tội phạm chiến tranh.
“Người duy nhất đủ tư cách thay mặt Thọ hôm nay là Lê Đức Anh.” (trang 562-563)
Vũ Thư Hiên đã thuật lại lời Hoàng Minh Chính kể cho ông nghe có lần Lê Đức Thọ đã nói với Hoàng Minh Chính: “ …Nó (một bà nọ) phải hiểu đảng là tao, là tao đây này! Còn đi xin ở chỗ nào nữa?” (trang 329)
Cái người tự cho mình là hiện thân của đảng Cộng Sản Việt Nam, cái đảng tự phụ là đảng yêu nước hơn bất cứ đảng nào ấy được Vũ Thư Hiên nói đến như một tên làm tay sai cho thực dân Pháp, phản bội các chiến sĩ cách mạng, mặc dầu ông bảo chỉ nghe người ta nói, nhưng không phải không đáng tin cậy:
“…Vào thời gian này, những cựu tù nhân Sơn La kể lại, Lê Đức Thọ một hồi được Cousso lấy ra làm tạp dịch tại nhà y. Cũng vào thời gian này một số việc bí mật của ban lãnh đạo tù nhân bị lộ.”
Cha tác giả và tướng Đặng Kim Giang cùng bị giam ở Sơn La cùng thời gian đó chia sẻ với nhau về mối nghi ngờ đó. (trang 231)
“Dưới con mắt của ông (Đặng Kim Giang) Lê Đức Thọ là tên hạ lưu hãnh tiến.” (trang 232)

Trần Ngọc Hoàn (ủy viên Bộ Chính Trị, bộ trưởng bộ Công An)
“Thằng lưu manh khó trở thành người tử tế, -ông (Vũ Đình Huỳnh, cha tác giả) than với ông Đặng Kim Giang…
“… Bố anh không nói theo nghĩa bóng đâu. Nghĩa đen đấy, -ông (Nguyễn Tạo, thứ trưởng bộ Lâm Nghiệp) trả lời thắc mắc của tôi -chả là thằng này đích thực lưu manh anh ạ.”
“Năm 1992, tôi rời Việt Nam lần chót thì ông Nguyễn Tạo còn sống. Tôi hy vọng ông còn sống lâu để kể câu chuyện kỳ lạ này cho nhân dân nghe.”
Sau đó tác giả đã viết lại những gì Nguyễn Tạo kể về cuộc đời của “Cảnh con”, tên của Trần Quốc Hoàn khi còn nhỏ, từ nhỏ tới lớn chuyên ăn cắp ra sao. Rồi tới chuyện y, lợi dụng vai trò “săn sóc sức khỏe” cho lãnh tụ, hãm hiếp và thủ tiêu mấy chị em cô Xuân ra sao. Cô Xuân là vợ bí mật của ông Hồ Chí Minh, đã có với ông này một người con và được cha đặt tên là Nguyễn Tất Trung, sau được trao cho ông “Vũ Kỳ chăm sóc coi như con nuôi”. (4)

Hoàng Minh Chính:
“Ban lãnh đạo căm ghét anh, quên mất rằng bằng những kiến nghị ấy HMC thể hiện một niềm tin lỗi thời ở Đảng.” (trang 295)
Hoàng, tên cán bộ chấp pháp thỉnh thoảng thay Huỳnh Ngự hỏi cung Vũ Thư Hiên, một buổi đã nói nhỏ với ông về Hoàng Minh Chính như sau:
“Anh không biết đấy thôi chứ Hoàng Minh Chính có mưu đồ lớn lắm, anh ta muốn lật đổ trung ương bằng một Đại Hội bất thường (Hoàng không nói đến đảo chính)…” (trang 430)

                                                                          o O o

Để kết thúc chương này tôi xin đưa ra một nhận xét riêng rất giản lược về tác phẩm như sau: Một cuốn hồi ký hay. Có nhiều chỗ hay quá khiến có người nghi là không thực. Họ bảo những đoạn đối thoại, tranh luận với chấp pháp trong tù nói lên cái dũng khí của tác giả có vẻ hơi cường điệu, thêm thắt. Tỷ dụ như đoạn ông đập bàn quát mắng cán bộ chấp pháp tên Hoàng. Họ cho là tác giả tự cao mà bịa ra chứ làm gì trong tù có cái cảnh đó. Nhưng nếu đọc kỹ tác phẩm thì thấy sau này tác giả đả được công an Việt Hùng cho ông biết Hoàng đã về hưu và hãy còn sống. (trang 756) Chẳng lẽ ông dám bịa ra chuyện đó mà không sợ Hoàng lên tiếng phủ nhận và bắt bẻ? Nếu bạn bị giam trong xà lim nhiều tháng liên tục như tác giả, lại thường xuyên bị hỏi cung theo kiểu tra tấn tinh thần đến phát điên lên được thì chuyện nổi khùng mà mắng chửi người hỏi cung thậm chí muốn hành hung cũng có thể hiểu đuợc.

Riêng về con người tác giả và lập trường của ông, cũng như về tình hình chính trị theo nhận xét chủ quan của ông, chúng tôi sẽ xin bàn rộng hơn trong mục tổng kết. Tôi chỉ xin nói gọn rằng ông vẫn coi chủ nghĩa Mác có cái đẹp, cái hay của nó ở chỗ nó là một lý tưởng xã hội gần giống với lý tưởng Ky Tô giáo. Ông cho đó là chủ nghĩa xã hội. Ông không nói gì đến chủ nghĩa Cộng Sản. Ông không cho chủ nghĩa xã hội là một ảo tưởng.Nhưng ông kết án chủ nghĩa Lê-nin, chủ nghĩa Mao. Nhất là sự tàn bạo của Staline. Vì vậy ông ủng hộ Khrutshchev là người có can đảm đánh đổ thần tượng Staline và đưa ra một đường lối cởi mở hơn. Các bài viết và tác phẩm của ông phản ánh tư tưởng đó cho nên mới bị đánh, bị cấm. Và cũng chính vì vậy sau này ông mới bị bắt. Nhưng ông lại nói ông chẳng theo chủ nghĩa xét-lại nào cả. Thì cũng đúng thôi. Chính Khrutshchev có bao giờ nói ông ta chủ trương “xét lại” đâu. “Xét lại” là do những người chống Khrutshchev gán cho ông mà thôi. TH cũng như hầu hết các nhà văn và trí thức Cộng Sản phản tỉnh, đều cho rằng họ theo kháng chiến chống Pháp là đúng và đảng Cộng Sản có công thực chứ không cướp công kháng chiến.

Ông Hồ tuy có khuyết điểm, nhưng vẫn là lãnh tụ tốt, hay ít ra là con người khó hiểu, chứ không độc ác. Nhận định đó, lập trường đó, dĩ nhiên người quốc gia chống Cộng không chấp nhận. Nhưng cũng phải công nhận tác giả thành thực, và có can đảm nói lên điều mình nghĩ là phải, ở giữa những người không đồng ý với mình. Hơn nữa ở trang 250, ông đã thú nhận ông “đần” và “ngu lâu” vì không chịu nghe bà cô ông, vợ ông cũng như tiểu đoàn trưởng Đích coi những người Cộng Sản là “bất nhân,” “chế độ Cộng Sản không có tương lai”, và Hồ Chí Minh là “vua quỷ, quỷ vương”.(249,250)

Đọc hết cuốn hồi ký tôi có cảm tưởng tác giả đã cố biện minh cho việc cha con ông và một số đồng chí của cha ông theo Cộng Sản, không phải vì chủ nghĩa Cộng Sản theo đúng nghĩa của nó, đúng bản chất ảo tưởng, cường đạo, tàn bạo vì chủ trương đấu tranh giai cấp. Cha con ông cũng như họ theo Cộng Sản vì nó có “dáng dấp Thiên Chúa Giáo, nơi mọi người đều là con cái Chúa” (trang 99), nó hứa hẹn một xã hội tốt đẹp và nhất là vì nó giúp giải phóng dân tộc khỏi áp bức của thực dân phong kiến. Nhưng đến khi thấy nó thực hiện đấu tố dã man trong cải cách ruộng đất, bắt bớ giam cầm những người vô tội trong các vụ Nhân Văn -Giai Phẩm, chỉnh đốn tổ chức và nhất là vụ “án xét lại chống đảng” thì mới bừng tỉnh (sau CCRĐ thì chỉ mới “cảm thấy như có cái gì cục cựa trong tôi như là sự bừng tỉnh”), thì đã muộn. Bừng tỉnh nhưng đành bó tay. Vì những người bạo miệng nói ra ý kiến bất đồng đều bị thủ tiêu. Mọi người đều đành sống hèn một chút cho qua ngày như phần đông văn nghệ sĩ, kể cả Trần Dần, Văn Cao vân vân…, nhưng cũng khối người hèn nhiều nhiều, từ Tú Mỡ, Thế Lữ, Nguyễn Tuân cho đến Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên vân vân… vì họ còn muốn có cơm ăn, con cái được đi học… Tóm lại chính sách cào bằng kinh tế, thắt hầu bao, kiểm soát chặt chẽ di trú v.v… đã đẩy họ vào chốn sợ hãi liên miên, không dám có phản ứng quyết liệt. Vì vậy mà chế độ Cộng Sản tồn tại lâu ở Việt Nam. Còn một vài lý do nữa khiến nó còn tồn tại cho đến tận ngày nay, sau khi nó đã tan biến ở Đông Âu một thập kỷ, chúng tôi sẽ bàn kỹ nơi chương cuối.

Chú Thích
(1) Đêm Giữa Ban Ngày, tác giả Vũ Thư Hiên, Văn Nghệ xuất bản năm 1997, trang 303.
(2) Gần xã Hành Thiện, quê của Trường Chinh Đặng Xuân Khu. Nhưng cũng có người nói ông Huỳnh quê Trung Lao, huyện Trực ninh, Nam định (?)
(3) Tờ Phụ Nữ Diễn Đàn của Chử Bá Anh, số 104, tháng 9 năm 1992 có đăng một bài dài về cuộc đời ông Vũ Đình Huỳnh, trong phần kết luận đã cho biết: Theo một người mới từ Việt Nam sang Mỹ định cư, thì ông Huỳnh trước khi chết vào ngày 3-5-1990, đã được một cán bộ trong ban tổ chức trung ương đảng đến bên giường tuyên bố trả lại đảng tịch cho ông. Nhưng lúc đó ông điếc, lại bị cấm khẩu. Ông chỉ giơ cỗ tràng hạt lên, không biết ai đã đặt vào tay ông lúc nào. Người nhà thấy thế đã đi tìm linh mục đến làm “phép giải tội” cho ông (mặc dù không có phần “xưng tội” về phía ông, vì đã bị cấm khẩu.) và cho ông rước lễ, như “của ăn đàng”. Chuyện này có thật hay không, không thấy con ông nói đến trong “Đêm Giữa Ban Ngày”.
(4) Trang 597-609. Xin xem chi tiết trong phần phụ lục.


Chương 6
Nổi Loạn hay Nỗi Oan của Đào Hiếu
Đầu thập niên này độc giả trong nước háo hức đi tìm đọc một cuốn tiểu thuyết của một nhà văn có tài, mà không tìm được. Người ta kháo nhau: hấp dẫn lắm, quậy lắm. nhiều màn mê ly lắm, tác giả chửi chế độ đấy. Đó là cuốn Nổi Loạn của Đào Hiếu, nhà văn đã có 14 tác phẩm xuất bản từ năm 1978 (“Giữa Cơn Lốc”) đến 1993 (“Nổi Loạn”).


Sở dĩ người ta không tìm được là vì nó đã bị nhà nước thu hồi viện cớ: “Chuyện bẩn thỉu, đồi trụy.” Bộ Trưởng Văn Hóa Trần Hoàn thì trả lời báo chí về lý do cuốn sách bị cấm phát hành như sau: “Về mặt chấp hành quy chế cuốn sách có 3 vi phạm:
1) Đăng ký tên sách là “Nỗi Oan” nhưng tự động sửa lại là “Nổi Loạn”.
2) Không nộp lưu chiếu mà cứ phát hành.
3) Khi phát hành Cục Xuất Bản và cả hội Nhà Văn đều yêu cầu tạm đình chỉ, nhưng không được thực hiện.”

Tuy nhiên cũng có ít người nhanh chân mua kịp trước khi nó bị tịch thu. Đây là chuyện một ngưòi đàn bà có chồng là cán bộ từng du học Ba Lan, có 4 con nhỏ mà còn đi ngoại tình với một cựu sĩ quan chế độ cũ cũng đã có vợ là một bác sĩ và 3 con.
Ngọc nguyên quán miền Nam được cha mẹ mang đi tập kết ra miền Bắc khi mới lên hai. Trong thời gian ở miền Bắc cô cũng như phần đông các gia đình cán bộ tập kết phải sống cuộc đời cơ cực thiếu thốn. Đến khi “hòa bình lập lại” gia đình cô trở về miền Nam. Cha cô, một cán bộ cộng sản nghiêm khắc, ép cô lấy một cán bộ cộng sản luống tuổi: Hùng vốn là một nhà sư đã hoàn tục vì giác ngộ chân lý của cách mạng vô sản và khi được cô vợ “hoa hậu Cần Thơ” thì được “giác ngộ lần thứ hai “và khám phá ra chân lý ngược với Nguyễn Du: “Tình là cõi phúc tu là giây oan.”

Nhưng vốn quen tác phong khắc khổ của một nhà tu và cù lần của một “cán cối”, Hùng đã không chinh phục được trái tim Ngọc. Đêm động phòng bị trì hoãn hai ba lần. Đến khi Ngọc biết đàng nào cũng phải “làm cho xong cái chuyện đó” thì nàng ngỡ ngàng nhận ra rằng nó chỉ có thế, và nhanh thế. Tuy cũng đã 24 tuổi nhưng cô cũng chưa được ai cho biết thực chất chuyện vợ chồng nó ra làm sao. Hùng đối với cô chỉ là “người đàn ông buồn tẻ như cục gạch ở đầu hè”. Mỗi lần ăn nằm với Hùng, Ngọc đều có cảm giác như kẻ bị hiếp dâm. Nhưng hai người cũng có được 3 đứa con.

Thế rồi tình cờ Ngọc gặp Phan tại một trại cải tạo khi cô đến thuyết minh trong một buổi chiếu phim cho tù cải tạo xem. Lợi dụng sự quen biết với trưởng trại, Ngọc mạo nhận Phan là anh đôi con dì với mình để xin cho chàng được thả ra khỏi cái “chuồng” giam phạm nhân bướng bỉnh. Phan đã bị mê hoặc bởi cô gái đẹp buồn này. Khi Phan được về sau 3 năm cải tạo họ lại gặp nhau trong những buổi chiếu phim ở các rạp. Mối tình nảy nở. Phan thuê một căn nhà nhỏ làm tổ uyên ương. Hùng vốn ngây ngô không hay biết gì. Nhưng bác sĩ Bích, vợ Phan thì tinh ý nên đã rình bắt được bức thư tình Phan viết cho Ngọc. Bích nhất định đòi Phan phải chấm dứt mọi liên hệ với Ngọc, bằng không thì hãy ra khỏi nhà. Nàng cũng viết sẵn giấy ly dị bắt Phan phải ký. Không những thế nàng còn đi báo chuyện này cho Hùng là chồng Ngọc biết, nói là để cùng nhau theo dõi và ngăn chặn cuộc ngọai tình.

Hùng dùng mọi cách để giữ Ngọc. Nhưng năn nỉ, canh chừng, cấm đoán, theo dõi, bắt ghen, đánh ghen đều vô hiệu. Cuối cùng anh ta đánh Ngọc một cách tàn nhẫn và đuổi ra khỏi nhà, để rồi một mình ngồi ở xó nhà uống rượu với anh hàng xóm. Thế là hai gia đình tan nát. Phan tuy yêu Ngọc, thấy mình có trách nhiệm với người yêu, nhưng không muốn bỏ vợ con. Anh bảo Bích thế và cũng thú thực với Ngọc như thế. Thực ra anh quá tham lam, vừa không muốn xa vợ con vừa muốn đắm mình trong thú vui nhục dục với Ngọc, người đàn bà giống như con thú xổ lồng thả lỏng bản năng trong những giờ làm tình bên người đàn ông mà nàng cho là “một nửa kia của chính mình” mà mình đã tìm lại được sau bao năm không biết đến tình yêu. Có lần nàng nói với Phan:
“…Em khám phá ra mình là một kẻ cuồng nhiệt, mê đắm và táo bạo, giống như con khủng long chuyển mình sau một ngàn năm ngủ vùi trong lòng đất. Nó tạo ra bão tố và đổ nát.
“Em ghê sợ cho cái luật bù trừ của Tạo Hóa.
“Có những lúc em nhớ anh điên dại. Và thèm khát cũng điên dại. Cho nên anh đừng cười em về chuyện làm tình nhé. Đã vào cuộc là không chấp nhận sự dừng lại, dù chỉ một giây. Liên tục, mãnh liệt, và vắt cho kiệt hết tinh lực. Em ghét cái gì nửa vời…”

Chính những trang sách nóng bỏng tả chân các cuộc mây mưa (trên giường cũng như dưới biển) này là cái cớ để cuốn tiểu thuyết bị thu hồi và liệt vào loại sách cấm. Người ta bảo nó “bị công luận lên án là truyền bá lối sống dâm ô đồi trụy”. Nhưng nguyên nhân chính của việc thu hồi khó nói ra, đó là cuốn tiểu thuyết đã ám chỉ sự đần độn, ngu dốt và sự khắc nghiệt, đạo đức giả của những cán bộ đảng viên như Hùng và cùng với Hùng qua hình bóng văn chương bóng bảy người đọc sẽ hình dung ra đảng, và cái xã hội do đảng tạo ra.

Sau đây là một vài đoạn vắn trích từ cuốn tiểu thuyết Nổi Loạn:
Cảnh thiếu ăn trong gia đình nữ bác sĩ Bích:
“(Phan) Thiếu úy bộ binh quân đội Saigon cũ, hai lần bị thương, một miểng đạn còn nằm sâu trong đùi, ba năm học tập cải tạo, vợ là bác sĩ (Bích) nhưng lương không đủ nuôi ba đứa con. Cuối năm 1978 khi anh mới ở trại cải tạo về, gia đình ăn toàn bột mì, bo bo, sắn. Chiếc xe đạp của anh như một con ngựa già lọm khọm. Hồi ấy mỗi khi ra đường thấy ai đi xe đạp bị trật xính lui cui bên lề đường tôi hay nhìn. Thường là tôi gặp anh trong tư thế ấy…” (trang 243)
Và đây một cảnh khác :
…”Đứa chị nói:- Đừng giở giọng tham ăn.
Bích cười cười:-Vậy chứ má thấy nó ham ăn má lại thương. Tại vì nó thiếu nên cái gì nó cũng thèm.
Mấy đứa chị:- Má đừng binh. Nó toàn giành ăn với tụi con.”
Đó là cảnh gia đình một bác sĩ ở miền Nam sau khi đã “được giải phóng” 18 năm. Còn đây là cuộc đời của dân trong vùng Ngọc sống khi còn ở ngoài Bắc với gia đình trước 1975:
“Quá khứ của tôi gắn liền với những lối mòn quanh co đỏ chói màu gạch, những mái tranh lụp sụp ẩn hiện sau vòm cây thưa thớt, những con đê nhỏ, mương nước, những cánh đồng và đình làng…
“Có nơi nào trên trái đất này con người phải chui rúc vào đống lá chuối khô để ngủ trong suốt mùa đông giá rét? Trẻ con không có quần mặc, chỉ một chiếc áo vải tả tơi khoác ngoài đứng co ro trong gió? Những bữa cơm quanh năm chỉ có cà muối và rau muống ? Và người chết phải bó chiếu đem chôn?
“Có xứ sở nào trên mặt đất này, mà người dân cam chịu và hài lòng với kiếp sống hẩm hiu tăm tối như vậy? (…)
“Thế mà tôi vẫn sống vẫn lớn lên. Và lạ thay, giờ đây đàn ông lại quỳ dưới chân tôi, van lậy, khóc lóc tỏ tình.
“Chẳng lẽ những quả cà, những cọng rau muống, những con cua, con ốc, những củ khoai củ sắn kia đã tạo ra điều kỳ diệu ấy? Tôi không tin như thế. Và tôi vẫn thầm cám ơn bố mẹ tôi, cám ơn thiên nhiên đã tạo ra nhan sắc ấy, cám ơn những đóa hoa thủy tiên trong chùa, những lũy tre, những luống cải bẹ xanh trong vườn bà thím, những lá trầu không , những cơn mưa dầm gợi nhớ nhung, những hoàng hôn tím ngắt chân trời… Nhan sắc là niềm kiêu hãnh thầm kín, nhưng đó cũng là tai họa của đời tôi. Chúng là cội nguồn của sự ghen tuông , của tình và thù.
“Giờ đây tôi bị mang tiếng là người đàn bà ngoại tình, nhưng tôi không có gì xấu hổ về điều ấy. Tôi yêu Phan, đúng ra là tôi đã tìm được Phan, một người mà suốt 20 ở miền Bắc tôi không tìm được, ở làng Trinh Lương tôi không tìm được, ở khu Kim Liên Hà-nội tôi không tìm được, ở rừng núi Tuyên Quang tôi cũng không tìm được.
“Tôi đã tìm thấy, đã tình cờ nhặt được anh, cái “nửa kia” của mình. Chúa trời đã lấy một chiếc xương sườn của người đàn ông mà tạo ra tôi. Người đàn ông đó là Phan. Tôi đã nhặt được anh một cách rất tình cờ trong một trại cải tạo. Lúc ấy anh như người rừng, tơi tả, hoang dã và cô độc.
“Tôi đã tìm thấy anh như tìm thấy chính bản thân mình.
“Tôi không ngọai tình.
“Trước kia tôi có yêu ai đâu, kể cả chồng tôi….
“Tôi đã không được yêu, bây giờ tôi có quyền yêu.
“Tôi đã không được sống, bây giờ tôi có quyền sống.
“Ai có thể tước đoạt cái quyền thiêng liêng ấy của một con người?
“Những bạn bè cùng trang lứa với tôi có thể họ không may mắn tìm thấy cái “nửa kia” của đời mình, họ sống với cái nửa khác của ai đó trôi dạt vào đời họ, ráp không vừa, không khớp, khập khiễng tạm bợ. Và họ rán sống, họ cam chịu như họ đã từng cam chịu những quả cà, những cọng rau muống, cái cầu ao, ổ lá chuối khô, như họ đã cam chịu những chiếc loa phóng thanh ra rả suốt ngày. (…)
“…Bây giờ tôi phải trở lại với quá khứ vì tôi muốn mọi người hiểu thấm thía bi kịch của tôi, của cả thế hệ thanh niên cùng lứa với tôi để chúng ta hiểu nhau hơn và để xin bạn hãy cho phép tôi được sống trọn vẹn mối tình của mình, một mối tình đầy sóng gió và chưa biết sẽ kết thúc như thế nào.”

                                         ****
“Cái giếng nước đối với tôi luôn luôn là một mối đe dọa. Bởi vì nó không phải như những cái giếng nước thông thưòng ở miền Nam. Nó là một cái vực thẳm. Năm ấy tôi chỉ là một con bé 12 tuổi mà cái giếng thì to và sâu hun hút. Ba bên là bờ đất nham nhở đầy cỏ mọc, còn lại một bên thì thoai thoải lần xuống dưới đáy giếng bằng 38 bực cấp bằng đá, hẹp trơn trượt như đường về âm phủ. Giếng sâu đến độ khi tôi xuống sát mặt nước, ngoảnh nhìn lên không còn thấy mặt đất đâu cả, chỉ thấy một cái miệng hố lởm chởm đất đá và những lá cỏ dại.
“Dưới đáy giếng, bóng chiều càng mờ mịt hơn, chập choạng, rình rập. Cái cảm giác cô độc lạnh lẽo làm tôi sợ hãi. Tôi vội vàng múc hai thùng nước rồi ghé vai vào đòn gánh khó nhọc bước lên những cấp bậc trơn nhẵn.
“Đầu làng bên kia có một cái giếng nữa nhưng từ ngày có người tự tử ở đó thì không còn ai dám đến đó để lấy nước về uống. Không hiểu sao dạo ấy làng tôi lại có nhiều người tự tử đến như thế. Thường là họ treo cổ. Những cái mặt sưng to và tím bầm. Xác chết được gói trong chiếu, vài ba người vác ngang qua nhà. Họ đi nghiêng ngả dưới trưa nắng. Tiếng kèn khàn đục, vất vưởng lạc điệu.
“Ở cầu ao thường tấp nập hơn. Hàng ngày dân làng đến đó tắm gội, rửa bát, vo gạo, giặt quần áo, giặt cả chiếu chăn, cả đồ phụ nữ hành kinh nữa. Điều này ban đầu tôi không biết, nhưng một hôm nhìn quanh bờ ao thấy có một chỗ lúa tự nhiên vươn cao lên, xanh mướt, tôi hỏi nhưng chẳng ai giải thích được tại sao, đến khi lúa trổ bông thì chỉ riêng cái chỗ lúa tốt ấy là không có bông . Đó là một bí mật mà tôi không thể chia xẻ với ai được vì gần như không ai giải thích được, hoặc là không chịu giải thích cho tôi biết. Bữa kia tôi thấy một người đàn bà trong làng ra cầu ao giặt những mảnh vải mùng đầy máu và tạt cái thau nước đỏ lòm ấy vào chỗ lúa tốt tôi mới hiểu được sự tương quan giữa cái thứ nước ấy và chòm lúa xanh tốt kia.
“Tôi đâm sợ nước cầu ao. Nhưng người sợ nhất là bác tôi. Mỗi lần muốn rửa mặt ông buộc cái khăn vào cần câu, ném nó ra giữa ao (nơi mà ông vẫn hy vọng rằng nước sẽ sạch hơn trong bờ) rồi giật chiếc khăn lên như giật con cá. Ông vắt nước trong khăn vô miệng để súc miệng , sau đó mới dùng khăn lau mặt…Buổi sáng ông thường dậy rất trễ vì phải cuộn tròn trong cái ổ lá chuối khô để đợi mặt trời lên. Khi ngoài sân đã ngập nắng, ông mới trở dậy vác cái nong ra đặt giữa sân rồi chui vào đó nằm sưởi. Ba chị em tôi cũng bắt chước vác cái nong ra đặt kế bên. Đứa cháu nội lên hai cũng nằm cạnh….
“Nhưng kẻ gây ấn tượng cho tôi nhất là một người đàn ông ốm đói. Người ta gọi ông là ông Lời, tuy suốt ngày ông chẳng hề nói một lời nào cả. Dân làng đã nghèo nhưng ông còn nghèo hơn tất cả. Gần như ông không có gì để mà ăn, ông cứ luẩn quẩn trong vườn nhà như một bóng ma tìm bắt con ốc sên, con châu chấu. Gần như ông ăn tất cả những sinh vật mà ông bắt được: cóc, nhái, thằn lằn, thậm chí gà con chết người ta đã vứt đi ông cũng nhặt về nướng ăn. Người ông cứ xanh lướt, hai mắt lõm sâu lờ đờ. (…)
“…Ba hôm sau người ta đến báo cho ông hay rằng đứa con trai 12 tuổi của ông đi tắm sông đã bị ma da kéo chân đi. Hàng xóm bủa đi tìm khắp nơi nhưng không thấy. Ông không khóc, vẫn lặng lẽ, vẫn thất thểu đi ra sông. Ông không phải tìm kiếm, cứ bước thẳng xuống mé nước, trầm mình xuống. Một lúc sau mặt nước khép kín lại, phẳng lặng xóa sạch mọi vết tích của người đàn ông khốn khổ ấy.” (trang 103-112)
Với lối tả cái khổ và nhất là cái chết (tự tử) của một người như vừa kể, Đào Hiếu quả thực đã đưa ngọn bút của mình lên tuyệt đỉnh. Sau khi đọc những hàng cuối cùng vừa nêu, rồi nhớ lại câu nói của Ngọc ở đoạn trên: “Không hiểu sao dạo ấy làng tôi lại có nhiều người tự tử đến như thế” người đọc liền thấy cuộc sống miền Bắc lúc ấy tang thương đến độ nào. Vì khổ quá người ta đã đi tìm cái chết một cách thản nhiên. Sở dĩ người đàn ông kia chưa tự tử sớm hơn vì còn có đứa con. Nhưng nay đứa con đã chết đuối thì ông cũng trầm mình đi theo. Những cảnh đói khổ của các cựu tù nhân cải tạo được mô tả trong các cuốn hồi ký của họ có lẽ cũng chỉ đến thế. Nhưng chắc không ai diễn tả hay bằng Đào Hiếu.

Nếu cái nạn đói khổ không phải chỉ có trong tù, thì cái thói bắt làm “kiểm điểm”, “tự kiểm” cũng không phải chỉ tù nhân mới phải làm. Nhân dân cũng không thoát. Tác giả “Nổi Loạn” đã chế diễu cái tật hơi tý bắt làm tự kiểm của đảng một cách tài tình qua hành động và thái độ của Hùng, chồng Ngọc. Trong cuốn chuyện ít nhất là 10 lần Hùng bắt Ngọc, và cả Phan phải viết kiểm điểm, tự kiểm.
Hãy xem người chồng cán bộ cộng sản, đã từng du học Ba Lan, dọa đánh vợ, tra khảo vợ và bắt vợ viết tự kiểm:
“Người chồng hầm hầm rút cái roi mây treo trong xó nhà ra. Ông ta gằn từng tiếng:
– Đừng già hàm. Hãy khai thực đi: Hồi tối giờ cô đi đâu?
Ngọc nhìn thẳng vào mắt chồng hỏi:
– Anh định làm gì mà cầm roi đấy?
– Tao đánh mày nát xương. Nói mau!
….
Ngọc nói dứt khoát:
– Tôi không khai báo gì cả. Đây là nhà tôi chứ không phải đồn công an.
Thấy Ngọc nói cứng quá ông ta làm thinh một lúc khá lâu. Rồi ông lại bàn lấy một xấp giấy trắng và một cây bút. Ông đặt các thứ ấy trước mặt vợ, ra lệnh:
– Viết tờ kiểm điểm đi.
– Tôi không viết.
– Không viết thì ngồi đó tới sáng.
…..
Ngọc mở choàng mắt chạm vào một cái khuôn mặt to bè đỏ gay nồng nặc mùi rượu.
– Không được ngủ. Dậy viết kiểm điểm đi dã.
Nhưng Ngọc nhắm mắt, mềm rũ, nằm vật xuống giường. Người chồng lại ghế ngồi, lấy thuốc lá ra hút để trấn áp cơn say. Chưa hết điếu thuốc ông đã bật dậy đến bên giường, nắm hai ngón chân cái vợ kéo mạnh:
       Chưa ngủ được đâu! Tôi bảo cô phải viết kiểm điểm. Cô nghe rõ chưa? (Trang 44-47)
        
Đây là một cảnh khác, tại công ty du lịch. Thêm một người nữa bị ông cán bộ bắt viết kiểm điểm.
“Nguyễn Văn Hùng giơ tay đấm vô lưng Ngọc. Phan đứng dậy:
– Anh là đàn ông mà làm gì vậy? Muốn đánh thì đánh tôi đây này.
– Mày thách hả? Tao giết mày.
Đám đông đã vây quanh như coi đá gà. Một người có trách nhiệm trong công ty du lịch bước đến. Anh ta bảo Nguyễn Văn Hùng:
– Đây là cơ quan. Xin ông đừng làm mất trật tự. Chuyện riêng của các người xin đi chỗ khác giải quyết.
Hùng đành ngồi xuống ghế.
– Thôi được, ông ta nói. Lấy giấy ra đi. Mỗi người viết một tờ kiểm điểm, ký tên vào.
Ngọc rất tức nhưng cũng phải cười.
– Đừng làm trò hề. Anh đi về đi là hay hơn cả.
– Tôi về để cho hai ngưòi đi hú hý với nhau à?
– Anh ấy có đi đâu.
– Đừng qua mặt tôi. Tôi không ngu đâu. Lấy giấy viết kiểm điểm lẹ lên.
Không thấy ai nhúc nhích, ông ta điên tiết lên, sục sạo trong túi quần tìm kiếm. Vẫn không có, ông ta đứng lên hỏi những người đang bu quanh:
– Ai có giấy xin cho một tờ.
Mấy anh lơ xe và xích lô nhìn nhau cười, họ bảo nhau:
– Đi kiếm giấy cho thủ trưởng làm kiểm điểm kìa.
Cô bé bán tuốc lá moi ở đâu ra đuợc một tờ giấy bằng bàn tay, nhàu nát. Hùng tiếp lấy vuốt vuốt cho thẳng rồi đặt trước mặt vợ:
– Hai người viết chung một tờ cũng được.
Ngọc gạt tờ giấy xuống đất.
– Không viết hả? Người chồng thét. Được rồi tôi sẽ làm một tờ biên bản.
Ông kê tờ giấy lên đầu gối, hí hoáy viết. Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc…Chữ nghĩa ngoằn ngoèo rối rắm, vừa viết vừa nhíu mày, ngừng lại suy nghĩ rồi viết tiếp. Xong ông ta đưa tờ giấy cho Phan.
– Ký đi!
Phan không cầm tờ giấy, chỉ đọc lướt qua. Anh nói:
– Tôi không đồng ý câu “bắt quả tang hai người đang âm mưu hẹn nhau đi hủ hóa…”
– Đó là sự thực. Người chồng nói.
– Tôi không ký đâu.
Nguyễn Văn Hùng vụt đứng lên giơ nắm đấm:
– Tao bảo mày ký!
– Không, vì tôi không muốn anh làm nhục vợ anh và tự làm nhục mình. Anh sẽ làm gì với tờ giấy này?
– Làm gì mặc tao. Ký đi.
– Tôi không ký.
Một quả đấm vụt ra trúng ngay bả vai Phan, nhưng anh vẫn ngồi im hút thuốc lá…”(tr 95)
Sau đây là một cảnh bắt buộc viết tự kiểm khác:
“…–Không nói nhiều cô đi ngay đi.
Ngọc ném mạnh ly nưóc vào tường, đi thẳng ra cửa. Chị bước hấp tấp về phía cầu thang, nhưng người chồng đã đuổi kịp, níu tay lại:
– Cô chưa đi được đâu.
– Chính anh đuổi tôi mà.
– Đúng. Nhưng trưóc khi đi cô phải thú nhận hết mọi tội lỗi của cô đã.
Phải nộp cho tôi bản tự kiểm thật chi tiết rồi mới được đi.
Ngọc vùng vẫy nhưng không được, chị la lớn:
– Trò hề! Tại sao tới giờ này anh vẫn chưa thấy đó là trò hề? “ (tr.198)
Sau đó Ngọc bị hành hung, lột hết quần áo nhốt vào buồng, trần như nhộng.
“Bây giờ thì Ngọc không còn một vật gì che thân ngoài tóc và lông. Tất cả đều mượt mà, đẹp một cách kiêu hãnh. Chị cúi xuống nhặt những mảnh vải tả tơi ném ra cửa sổ.

Thành phố rất im lặng .
Ngọc thức, nhìn ngắm những thương tích của mình .
Chị đi lại phía tủ áo. Một cái tủ trống. Hoàn toàn trống. Chị giận dữ kéo nắm cửa nhưng nó đã bị khóa từ bên ngoài. Chị đạp cửa rầm rầm nhưng nó không nhúc nhích. Ngọc lại giường ngồi và nhận ra trên giường có một xấp giấy trắng, một cây bút, một dòng chữ nguệch ngoạc: “Nếu muốn ra khỏi đây hãy viết bản tự kiểm.” Ngọc hất xấp giấy xuống đất. Giấy bay lả tả trắng cả sàn nhà, cây bút bi bắn vào góc tường.
Ngọc bấu tay vô song cửa sổ.
– Mở cửa! Chị la lên. Mở cửa mau!
Bóng đen của người chồng lù lù hiện ra, chậm chạp như con gấu già. Ông ta đang xách ấm nước sôi từ dưới bếp lên để pha trà.
– Mở cửa!
Ông ta điếc. Rất may trong phòng có cái gạt tàn thuốc. Ngọc ném mạnh ra cửa sổ, bay ngang mặt người chồng, vỡ tan tành trên tường vôi.
– Mở cửa cho tôi.
– Cô sẽ không bao giờ được ra khỏi phòng nếu không viết tự kiểm.
– Nhưng phải trả quần áo cho tôi. Vali tôi đâu?
Người chồng im lặng pha trà. Rồi uống nhâm nhi. Rồi đốt thuốc lá.
– Đồ tồi! Anh có quyền gì mà nhốt tôi? Trả quần áo đây.
– Loài dâm đãng thì cần gì quần áo.
Ngọc gầm thét:
– Tao mà ra được tao sẽ giết mày. Đồ hèn. Mày dám mở cửa không?
– Viết tự kiểm đi.
Người chồng đã uống xong tách trà, chùi miệng rồi bỏ đi.
Lát sau ông ta quay lại, đến bên cửa sổ ném vào một mớ giẻ rách đen nhẻm hôi hám.
– Quần áo của mày đấy.
Ngọc nhặt miếng giẻ lên. Đó là cái áo ngủ bằng vải tám Ngọc đã vừt đi từ ba bốn năm nay trong kẹt tủ. Nó đã bị chuột cắn nát, bị gián gặm nham nhở. Ngọc giũ nó trong luồng sáng của nắng mai giọi vào cửa sổ. Bụi bay mù mịt làm chị phải quay mặt đi. Trong chiếc áo ngủ tả tơi ấy Ngọc vừa giống ăn mày, vừa giống tù nhân, mặt mày sưng húp, đường nét lệch lạc, biến dạng. Ngọc đóng cửa sổ, lại giường nằm.
Tự nhiên nàng bật cười. Kẻ nào đạo diễn cái trò hề này? Ban đầu chỉ là một mối tình đơn giản, nhẹ nhàng. Vì suốt ba mươi mấy năm tôi thiếu nên tôi phải đi tìm. Phan cũng thế. Chỉ là bạn bè đi uống cà phê đi nghe âm nhạc. Còn bây giờ thì nổi tiếng cả nước. Quỷ cái. Ngoại tình. Đĩ ngựa. Kẻ vô luân. Dâm đãng. Cướp vợ. Giựt chồng. Kẻ thì hăm bắn, người thì dọa tạt át xít. Bạn bè tẩy chay. Xã hội đàm tiếu. Tất cả những cái đó ngày càng đẩy chúng tôi lại gần nhau hơn.
“Ngọc cười lớn. Chúng mày biết cái khỉ khô gì về tao. Hiểu quái gì về Phan, về người vợ nhạt nhẽo của Phan, về ông chồng dở hơi của tao. Sao chúng mày ngu quá vậy? Cái bọn đạo đức giả, bọn ăn thịt người. Cái bọn ganh tị, cả đời chỉ chực chui vào gầm giường người khác để rình rập bêu xấu.” (trang 199-202)
Ngu mấy các cai văn nghệ của đảng cũng hiểu rằng những câu trên nhắm vào bọn lãnh đạo (hiếu sát, phi nhân, đạo đức giả, cai trị bằng công an cảnh sát, chuyên rình mò người dân…). Vì thế không thể để “Nổi Loạn” được. Và họ đã vội vã cho thu lại.

Nếu không có chuyện “cho ra rồi lại thu lại” này thì cuốn tiểu thuyết đã không gây được chú ý. Vì thực ra nếu so với Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài hay Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Huy Thiệp, thì Đào Hiếu không nổi tiếng bằng. Vì cuốn chuyện đã được phổ biến ở hải ngoại, nên chúng tôi chọn cho vào một chương để độc giả có dịp nhìn vấn đề ở một khía cạnh riêng, tương đối khác lạ, chứ không phải vì tư thế của tác giả, so với nhiều nhà văn khác.


Chương 7
Nguyễn Hộ quay lại chống Đảng
Nguyễn Hộ, sinh 1-5-1916 tại xã Hanh Thông, Gò Vấp, Gia Định, là một cán bộ cộng sản kỳ cựu miền Nam, gia nhập đảng cộng sản khi mới 21 tuổi. Sau 1975 đã có thời ông làm chủ tịch mặt trận tổ quốc Saigon. Giữa năm 1987 ông về hưu rồi cùng với một số cán bộ cựu kháng chiến trong đảng như Tạ Bá Tòng, đứng ra xin lập hội các người kháng chiến cũ, nhưng không được chấp thuận mà chỉ được phép lập Câu Lạc Bộ, quyền hạn và phạm vi hoạt động giới hạn hơn. Cùng đứng trong nhóm ông, ban đầu có cả Trần Văn Trà. Nhưng về sau tướng Trà tách ra và quay lại theo chính quyền chống câu lạc bộ này. Tổ chức của ông vất vả lắm mới ra được tờ “Truyền Thống Kháng Chiến”, chỉ phát hành được 3 số thì bị tịch thu, rồi đình bản. Câu Lạc Bộ bị giải tán và thay vào đó là một câu lạc bộ khác do đảng điều khiển. Ông Hộ nói rằng những người lũng đọan tổ chức này là các ông Võ Trần Chí (lúc ấy là bí thư thành uỷ Saigon), Trần Bạch Đằng và Trần Văn Trà.

Thực ra thì ban đầu tướng Trà rất tích cực trong hoạt động của Câu Lạc Bộ. Lúc đó cũng là lúc Nguyễn Văn Linh đang có hy vọng trở thành một thứ Gorbachev của VN. Nhưng rồi ông Linh đã không thắng nổi Lê Đức Thọ, cho nên khi ông ta chuyển hướng thì Trà cũng chuyển hướng theo. Võ Trần Chí, Trần Bạch Đằng cũng thế. Một nguồn tin Tây phuơng lúc ấy còn nói có cả tướng Võ Nguyên Giáp đứng đàng sau cái CLB này (xin xem chương 20). Điều này có thể đúng. Vì cũng vào thời gian ấy tại Âu Châu, người Việt hải ngoại đã lên tiếng tích cực ủng hộ Nguyễn Hộ làm lãnh tụ cho phong trào Dân Chủ trong nước. Trong số những người này có tên các vị Nguyễn Cao Hách, Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Gia Kiểng, Nguyễn Hữu Thống, hoà thượng Thích Giác Lượng v.v…

Tờ Truyền Thống Kháng Chiến viết gì, và Câu Lạc Bộ trước làm gì để đến nỗi báo thì bị đình bản còn tổ chức thì biến thể theo đảng, chẳng cần nói ai cũng đoán được.

Sau đây là những điểm chính mà nhóm ông Hộ kiến nghị:
1.“Bộ chính trị và ban bí thư trung ương đảng cần có sự kiểm điểm định kỳ, phê và tự phê trước ban chấp hành trung ương để qua đó điều chỉnh, kiện toàn cơ quan lãnh đạo: ai có đủ đức tài thì tiếp tục phát huy, còn ai không đủ đức tài thì cần cho rút lui để đưa người có đức có tài thay thế, chứ không thể cứ sống lâu lên lão làng.”

2. “Không nên “độc diễn” khi quốc hội bầu chủ tịch hội đồng bộ trưởng, mà nên có một số người ra ứng cử chức vụ nói trên với chương trình hành động cụ thể của mình. Quốc hội sẽ chọn một chủ tịch hội đồng bộ trưởng trong số các ứng cử viên ấy bằng lá phiếu kín của mình.

3. “Quốc hội cần cách chức một số bộ, thứ trưởng không làm tròn trách nhiệm, dẫn đến hậu quả là có trên 10 triệu người (ở miền Bắc) bị đói năm 1987, và nhân dân cả nước sống cơ cực kéo dài.”
Trong buổi hội thảo của câu lạc bộ cũ, lúc còn chủ động, được tổ chức từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều chủ nhật 7-1-1990, để bàn về các biến chuyển dồn dập ở Đông Aâu lúc ấy, với tư cách chủ tọa Nguyễn Hộ đã kết thúc 8 giờ bàn thảo sôi nổi như sau:
“Ngay trong những điều kiện của chế độ xã hội chủ nghĩa, nếu sự bất mãn của quần chúng cứ dồn dập mãi (theo sau sự tàng trữ những yếu tố bất công, nghèo đói ức hiếp), thì cách mạng sẽ nổ ra. Lịch sử là do nhân dân làm nên: Ở Đông Aâu nhân dân đã làm lại lịch sử. Ở Việt Nam nhân dân đòi hỏi chứ không xin xỏ đổi mới. Đảng hiện nay đang suy thoái quá, cần lột xác, không thể cứ ba trợn như thế này. Cần chạy, cần nhảy, cần bay chứ không “cà rịch, cà tàng”, may ra mới khá được. Phải trả quyền dân chủ cho nhân dân, không thể ăn cướp quyền đó của nhân dân (cử tọa, khoảng 500 người, vỗ tay). Đảng nên làm đầy tớ nhân dân, chứ không làm cha người ta.” (1)

Sau khi thất bại và bị loại khỏi CLBKC mới, Nguyễn Hộ quyết định “về vườn”. Ngày 21 tháng 3 năm 1990 ông ly khai khỏi đảng, vì theo lời ông “nó đã trở thành vô nghĩa” và ông lên đường về Phú Giáo một vùng quê cách Saigon độ 60 cây số về phía đông nam. Sau khi ông đi khoảng hơn một tháng thì một số đồng chí của ông trong CLBKC cũ bị bắt, trong đó có Tạ Bá Tòng (Tám Cần), Hồ văn Hiếu (Hồ Hiếu), Đỗ Trung Hiếu (Mười Anh), rồi cả Lê Đình Mạnh, một người tích cực ủng hộ CLBKC cũng bị bắt.

Ông Võ Văn Kiệt lúc ấy là phó thủ tướng có tới Phú Giáo thăm ông vào một ngày tháng 8. Ông Kiệt muốn ông theo về Saigon, nhưng ông không chịu, và khi ông Kiệt hẹn gặp lại lần thứ hai thì ông cũng từ chối. Vì vậy không đầy một tháng sau ông bị bắt bằng một cách cũng na ná như Hà Sĩ Phu và Vũ Thư Hiên, được ông thuật lại nguyên văn như sau:
“Lúc 7 giờ sáng, khi tôi đang bơi xuồng (trên sông Saigon), vừa cặp vào bờ định bước lên đi vào đám ruộng gần đó để hái rau má, rau đắng về ăn. Đúng vào thời điểm ấy một chiếc ghe lớn đang chạy trên sông lại cặp sát xuồng tôi, trong đó có 6, 7 thanh niên khỏe mạnh. Bỗng có tiếng hô to: “Bác ơi! Bác có thấy một chiếc ghe nhỏ chạy ngang qua đây không?” Tôi trả lời: “Không!” Liền có tiếng hét to: “Đúng nó rồi!” “

Đó là ghe công an. Họ bắt ông đem về Saigon, đến đêm thì lại đưa lên Xuân Lộc, đi sau xe ông luôn có mấy chiếc xe khác “hộ tống”. Sau một tuần ông được đưa về Bình Triệu giam trong bốn tháng. Đến ngày 30 Tết, (năm 1991) ông được cho về nhà để quản thúc tại gia. Ông cho biết là trong 4 tháng bị giam giữ cẩn mật ở Bình Triệu các ông Võ Văn Kiệt , Mai Chí Thọ, Võ Trần Chí, Võ Viết Thanh, Trần Văn Danh đều khuyên ông nên làm kiểm điểm để “giải quyết nội bộ”. Nhưng tin mình không có lỗi, ông không tự kiểm mà chỉ viết một bài dài 20 trang “phát biểu quan điểm của ông về tình hình chung trong nước”

Sau đây là một vài đoạn trích từ tập tài liệu ông soạn trong thời gian hơn hai năm bị quản thúc tại gia liên quan đến đảng, chế độ và quan niệm của ông về chủ nghĩa tư bản nói chung và một thứ chủ nghĩa “tư bản Trung quốc”.

Về chủ nghĩa cộng sản và đảng cộng sản Việt Nam
“Khi còn là đảng viên của đảûng cộng sản Việt Nam, một thứ tù binh của đảng, tôi chỉ biết nói và suy nghĩ theo những gì mà cấp trên nói và suy nghĩ…”
“Nhưng phải thú nhận rằng chúng tôi đã chọn sai lý tưởng: cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì suốt 60 năm trên con đường cách mạng cộng sản ấy, nhân dân Việt Nam đã chịu sự hy sinh quá lớn lao, nhưng cuối cùng chẳng được gì…Đó là điều sỉ nhục…”
“Chủ nghĩa cộng sản là một lý tưởng cao đẹp nhưng khi thực hành thì đầy thảm họa…”
“Chủ nghĩa xã hội trên hai mặt có tính chất quyết định – kinh tế và chính trị – là một chế độ xã hội không hợp lòng dân và trào lưu tiến hóa của lịch sử, nên đã bị bác bỏ ở khắp nơi…”
“Rõ ràng thuyết đấu tranh giai cấp và ý thức hệ Mác xít trong điều kiện kể trên của ngày nay tự nó đã lỗi thời và phá sản…”
“Ở Việt Nam tham nhũng đã trở thành quốc nạn, nhưng Việt Nam là nước không có dân chủ tự do, dân không có quyền, thì làm sao chống tham nhũng có hiệu quả? Cho nên điều trớ trêu thường xuất hiện là người hô hào chống tham nhũng lại chính là kẻ tham nhũng rất tệ hại…”
“Chính đảng cộng sản Việt Nam đã tước đoạt của nhân dân các quyền tự do mà nhân dân đã trả giá quá đắt, thứ vũ khí mà nhân dân phải có để bảo vệ lợi ích của mình khi nó bị vi phạm trong bất cứ hoàn cảnh nào. Dân chủ tự do bị chà đạp, vũ khí tự vệ bị tước đoạt thì nhân dân giống như người bị xiềng xích, bị bịt tai, bịt mắt, khớp miệng và tất nhiên gần 70 triệu người Việt Nam không thể không biến thành tù nhân của đảng cộng sản Việt Nam…”
“Đảng Cộng sản Việt Nam phát động chống đa nguyên đa đảng là chống lại sự nghiệp dân chủ tự do của dân tộc Việt Nam, chống lại văn minh tiến bộ của đất nước, tức muốn kềm hãm dân tộc Việt Nam trong mê muội tối tăm, mù quáng…“
“Vì sự độc quyền lãnh đạo của đảng nên Quốc Hội chỉ biết làm theo chỉ thị của đảng. Vả lại hầu hết đại biểu quốc hội là cán bộ đảng viên của đảng. Do đó trước khi khai mạc quốc hội, những đảng viên cán bộ ấy được một đại diện của bộ chính trị đến để huấn thị là quốc hội cần phải làm như thế này, như thế này… Số người ngoài đảng ở trong quốc hội không đáng kể, hơn nữa, nếu có thì chính họ cũng đã được đảng hóa (Mác-xít hóa) mất rồi. Cho nên có thể nói: Quốc Hội là Đảng, Đảng là Quốc Hội, Nhà Nước là Đảng, Đảng là nhà nước. Với tính chất ấy đại biểu quốc hội không phải là người nói lên tiếng nói trung thực của nhân dân (cử tri) mà chính là người chỉ nói tiếng nói của đảng mà thôi.”

Vì quốc hội là của đảng, chính phủ là của đảng, tòa án là của đảng, báo chí cũng của đảng, cả bốn quyền lực trong một quốc gia đều nằm trong tay đảng cho nên đảng muốn làm gì tha hồ, ngay cả những tội ác tầy trời. Nguyễn Hộ đã nói đến sự trù dập đối với Trần Xuân Bách, Bùi Tín, Dương Thu Hương, Mười Thơ và những cái chết đầy ám muội của một số tướng lãnh cộng sản như Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện, Trần Bình và con của ông này. Sau đây là nguyên văn về một vài vụ:
“Trường hợp của đại tướng Hoàng Văn Thái trước khi trút hơi thở cuối cùng đã nói với vợ ông rằng: “Người ta đã giết tôi”. Và vợ ông trước mặt những người đến viếng thăm, đã khóc lóc thê thảm và kêu to lên rằng: “Người ta đã giết chồng tôi.” Cái chết đột ngột của đại tướng Lê Trọng Tấn cũng tương tự như trên (theo lời kể tỉ mỉ của hai vợ chồng một vị trung tướng đương chức ở Hà-nội, 1987)
“Dĩ nhiên,trước đó không lâu, một đại hội đảng bộ toàn quân diễn ra trong bầu không khí căng thẳng của cuộc đấu tranh nội bộ chưa từng có, đưa đến kết quả là hai ủy viên bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam là đại tướng Văn Tiến Dũng (bộ trưởng quốc phòng) và đại tướng Chu Huy Mân (phó bí thư quân ủy trung ương) đều thất cử, không được bầu vào cấp ủy đảng và đoàn đại biểu đảng bộ toàn quân đi dự đại hội lần thứ 6 của đảng cộng sản Việt Nam. Do đó Hoàng Văn Thái được trung ương chỉ định làm bộ trưởng quốc phòng thay thế Văn Tiến Dũng, thì bị chết bất đắc kỳ tử. Và người được chỉ định thay ông là đại tướng Lê Trọng Tấn cũng chịu chung số phận bi thảm liền sau đó. Thật là khủng khiếp và đáng kinh ngạc….
“Còn trung tướng Trần Bình, cục trưởng cục tình báo quân đội, bị bắn chết ngay trên đường phố thuộc quận 3 thành phố HCM, và sau đó con trai ông cũng bị bắn chết trong khu vực nói trên.
“Trước các sự việc nghiêm trọng đó, dư luận xã hội rất xôn xao, còn các cơ quan thông tin thì im hơi lặng tiếng…Bởi vì sự độc quyền lãnh đạo—độc tài—của đảng cộng sản Việt Nam đòi hỏi tất cả phải được bưng bít, phải được giấu kín…”
“Nhìn chung, các cơ quan và tổ chức khác như chính phủ, tòa án, mặt trận, và các đoàn thể quần chúng đều là công cụ tay sai của đảng mà thôi. Bất cứ việc xét xử nào ở tòa án ở từng cấp đều phải làm đúng quyết định trước đó của cấp ủy đảng, tức là tuyên án công khai đúng như cấp ủy đảng đã tuyên án trước đó trong nội bộ.”

Đầu đoạn D của phần I là phần nói về quan điểm và cuộc sống Nguyễn Hộ đã viết bằng chữ cái tô đậm mấy lời như sau:
“BÁM CHẶT CÁI ĐÃ LỖI THỜI: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU VÀ ĐẪM MÁU”
Nguyên cái đầu đề đó đã đủ nói lên sự giác ngộ, phản tỉnh của Nguyễn Hộ nó dứt khoát và triệt để đến mức độ nào. Và ông đã để cả đoạn đó (dài hơn một trang lớn) để chứng minh nó lỗi thời, nghèo đói, lạc hậu và ĐẪM MÁU ra sao. Khỏi cần phải trưng dẫn.

Về chủ nghĩa tư bản
Trong phần II của tài liệu, ông Nguyễn Hộ đã so sánh hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản và nói về những cái hay của chủ nghĩa tư bản và cho rằng Việt Nam chỉ có một cách đi theo Tư Bản Chủ Nghĩa mới cứu vãn được tình thế. Ông cũng mỉa mai rằng chính sách đổi mới của Việt Nam bắt buộc phải đổi theo tư bản chủ nghĩa, nhưng lại đổi mới nửa vời với “cái mũ xã hội chủ nghĩa” ở trên đầu. Ông cũng cho rằng chủ nghĩa tư bản cũng sẽ đến lúc bị tiêu diệt nhưng không bởi chủ nghĩa xã hội mà bằng hòa bình và trí tuệ. So sánh hai chủ nghĩa nói trên ông viết:
“Như mọi người đều biết, khi trên thế giới xuất hiện hai hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội: Tư bản chủ nghĩa và Xã hôi chủ nghĩa song song tồn tại và đối đầu nhau quyết liệt, thì đồng thời cũng bộc lộ khá rõ nét những hiện tượng nghịch lý:
“+ CNTB xuất phát từ của riêng, lợi ích cá nhân, lợi nhuận – từng bị lên án là “thối nát” và”phải bị tiêu diệt” – nhưng trong tác động thực tiễn của nó lại dẫn đến những hậu quả kinh tế xã hội kỳ diệu, không lường trước được: năng xuất lao động cao, hàng hóa dồi dào có thể thỏa mãn mọi nhu cầu xã hội, làm cho đất nước phồn vinh giầu có hùng mạnh, nhân dân ấm no hạnh phúc, xã hội phát triển đạt đến đỉnh cao của nền văn minh hiện đại ngày nay.

“+ CNXH, ngược lại , được cho là ưu việt, xuất phát từ của chung (sở hữu công cộng), luôn luôn vì lợi ích xã hội (tức không có của riêng , không có lợi nhuận, không có giai cấp người bóc lột người), nhưng trong tác động thực tiễn lại dẫn đến những hậu quả hoàn toàn khác hẳn: kinh tế bị phá hoại nghiêm trọng bởi chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa, năng xuất lao động thấp kém, hàng hóa đơn điệu thiếu thốn, không đáp ứng nổi các yêu cầu cấp bách của xã hội (tem phiếu, xếp hàng rồng rắn, quày hàng trống rỗng…), đất nước lâm cảnh nghèo nàn lạc hậu triền miên, nhân dân sống cơ cực, lầm than, đói rách, và không hề có dân chủ tự do…”
“Từ thực tiễn đó ta thấy không phải là vấn đề tiêu diệt chủ nghĩa tư bản như đảng cộng sản từng khẳng định mà chính là vấn đề học tập và làm theo mô hình tư bản chủ nghĩa như thế nào cho tốt, cho nên cần khiêm tốn một chút vì thực tiễn luôn luôn là chân lý sáng ngời.”
“Thật là kỳ lạ CNTB không hề chủ trương “thế giới đại đồng”, nhưng lại thực hiện “thế giới đại đồng”. Còn CNCS thì chủ trương , hô hào tiến tới một “thế giới đại đồng”, nhưng lại thực hành một quốc gia khép kín, tự cung tự cấp (ích kỷ), bế môn tỏa cảng.”
“Vì lúc bấy giờ (sau chiến thắng Điện Biên Phủ, 1954 và sau khi chiếm được miền Nam, chú thích của M.V.), mọi người đều được giáo dục rằng: trong xã hội chủ nghĩa mọi vấn đề đều có sự lãnh đạo của đảng, mọi thứ đều tốt cả, nên không cần có đấu tranh của quần chúng. Đấu tranh của quần chúng chỉ tồn tại trong xã hội cũ (xã hội thuộc địa). Trong xã hội chủ nghĩa Đảng và nhân dân là một, giữa đảng và nhân dân không thể có ý kiến, quan điểm khác nhau, không có đối lập, đối kháng, nên không thể có đấu tranh, đình công, biểu tình. Do đó trong CNXH không có vấn đề đấu tranh cho dân chủ tự do, vì chế độ XHCN (chuyên chính vô sản) là chế độ dân chủ một triệu lần hơn chủ nghĩa tư bản” (?)”

Sau khi đã so sánh tư bản với cộng sản và khẳng định tư bản là đúng cộng sản là sai, Nguyễn Hộ hỏi đảng cộng sản Việt Nam:
“Đảng cộng sản VN có dám làm một cuộc cách mạng về tư tưởng, có dám “lột xác” không? Có dám vứt bỏ ý hệ Mác Xít giáo điều lỗi thời không? Có dám vứt bỏ quan điểm tư tưởng thành kiến cũ rích đối với đồng bào Việt Kiều (theo tư bản chủ nghĩa ) không?”
Nghe câu hỏi này, người ta tự hỏi: Phải chăng một Việt Kiều ở Mỹ đã gà cho Nguyễn Hộ? Hay chính ông đã thực sự “lột xác”, đã hối hận vì hơn nửa thế kỷ đi theo cộng sản chống lại đồng bào mình, phá rối miền Nam, tàn sát những người quốc gia, chỉ vì những người này đi theo một chủ nghĩa đúng đắn hơn cái chủ nghĩa mà ông và các đồng chí của ông từng theo?
Về chính sách đổi mới của Việt Nam khởi sự vào giữa thập niên 80, Nguyễn Hộ phê bình là nó què quặt vì đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính trị, cho nên “giống như “cá mắc câu”, càng vùng vẫy thì mắc câu càng sâu, tức càng khẳng định “kiên trì chủ nghĩa xã hội” thì càng đi sâu vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản mà không có sức mạnh nào cưỡng lại được.”

Về chế độ “tư bản kiểu Trung cộng” và kiểu Việt Nam
Nguyễn Hộ so sánh đổi mới ở TQ dưới quyền Đặïng Tiểu Bình và đổi mới ở Việt Nam dưới thời Nguyễn Văn Linh có những điểm giống nhau và khác nhau. Ông tán thành đổi mới kiểu Trung Quốc vì nó thực tế hơn, tuy vẫn còn què quặt vì chưa đổi mới chính trị:
“ “Chủ Nghĩa Xã Hội mang màu sắc Trung Quốc” là “chủ nghĩa xã hội” không theo tư tưởng Mác – Lê-nin, đảo ngược hoàn toàn chủ nghĩa Mác – Lê-nin. “Chủ Nghĩa Xã Hội mang màu sắc Trung Quốc là chủ nghĩa tư bản đích thực ở Trung Quốc.” Như vậy chủ nghĩa tư bản được xây dựng ở Trung Quốc là thông qua sự lãnh đạo vòng vèo đầy mưu lược của đảng cộng sản Trung Quốc, đảng của “chủ nghĩa Mác – Lê-nin” (?) Phải chăng đây là nghịch lý, ngược đời? Tuyên bố học tập theo chủ nghĩa tư bản, làm theo mô hình tư bản chủ nghĩa là lời tuyên bố dũng cảm, táo bạo đầy tinh thần cách mạng sáng tạo, thật sự cầu thị của nhà lãnh đạo cao niên (88 tuổi) Đặng Tiểu Bình. Lời tuyên bố ấy bao hàm ý thức thừa nhận rằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là phương thức sản xuất hoàn thiện nhất của xã hội loài người ngày nay; nó có sức thu hút quyến dũ lạ thường và đáp ứng kịp thời mọi yêu cầu của nhân dân , của xã hội.”

Đó là nói về Trung Quốc. Về Việt Nam Nguyễn Hộ cũng khẳng định với chính sách đổi mới hiện nay tình thế cũng không thể đảo ngược. Nói gì thì nói, nói xuôi nói ngược, thực chất vẫn là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Vậy thà thành thực khiêm nhượng mà thú nhận thì hơn. Ông kết thúc bài viết của ông như sau:
“Thưa các Ngài Tư Bản,
“…Vì vậy giờ đây chúng tôi thấy phải học tập các Ngài, học tập chủ nghĩa Tư Bản, làm theo mô hình Tư Bản Chủ Nghĩa của các Ngài, và tất nhiên là phải từ bỏ chủ nghĩa Mác Lê-nin, chủ nghĩa c.s. đã quá lỗi thời, để tiến kịp theo các Ngài trên con đường tiến hóa của lịch sử.”

Đọc bài phát biểu của Nguyễn Hộ, một cán bộ tự thú mình chỉ học đến sơ học yếu lược, trước khi đi theo kháng chiến chống Pháp, những người chống cộng cực đoan chắc khoái chí, vì thấy ông ta phê phán chủ nghĩa cộng sản và ca tụng chủ nghĩa tư bản chẳng khác mình bao nhiêu. Và không khỏi nghi có người khác viết hộ ông. Người đó là ai? Những người đó là ai? Vì không có thông tin chính xác nên chúng tôi không dám khẳng định.

Nhưng chúng ta hãy lưu ý là Nguyễn Hộ có giữ chức chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc Saigon, kiêm ủy viên chủ tịch đoàn Mặt Trận trong cả nước trong một thời gian dài sau 30 tháng tư. Trong vai trò trung gian giữa đảng và quần chúng ông đã có nhiều dịp tiếp xúc với những người ngoài đảng, kể cả những người chống đảng – lấy cớ để vận động. Cũng trong cương vị đó ông được chứng kiến tận mắt những gì mà chế độ tư bản đã ảnh hưởng tới đời sống vật chất của người dân Saigon nói riêng và người dân miền Nam nói chung. Chắc chắn ông phải suy nghĩ và so sánh với những gì chủ nghĩa xã hội đã làm cho người dân miền Bắc trước 75 và cho người dân cả nước sau 75.

Ảnh hưởng của những người xung quanh, tác động của thực tiễn xảy ra hàng ngày trước mắt, kèm theo những suy tư của một con người có tâm huyết chắc chắn đã thay đổi con người ông. Cho nên ông đã “lột xác”, (2) sẵn lòng từ bỏ cái đảng mà ông đã theo trên nửa thế kỷ. Ông cương quyết đi theo con đường mới vì tin tưởng rằng cùng với ông còn có nhiều đảng viên khác cũng suy tư như ông cũng đang muốn từ bỏ đảng dứt khoát, chỉ chưa dám, hoặc không biết cách bày tỏ ý muốn của mình đó thôi. Chẳng những chính ông “lột xác”, ông còn kêu gọi “Đảng phải lột xác để đi lên. Đổi mới là phải dân chủ. Dân chủ là của dân, phải trả lại cho dân, không phải là món quà ban phát.” Ông dõng dạc tuyên bố như thế để kết thúc cuộc mít tinh của CLBKC tổ chức vườn Tao Đàn ngày 7-1-1990. Đáp lại lời kêu gọi này đảng đã đẩy ông và Tạ Bá Tòng là hai người trụ cốt ra khỏi CLBKC để đặt những người ngoan ngoãn hơn lên thay, biến nó thành một thứ con rối của đảng. (3)


Chú thích
(1) Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Lan, nhà báo (nguyên linh mục công giáo hoàn tục), đã dự cuộc hội thảo này và ghi lại trong nhật ký của ông, ngày 7 tháng 1 năm 1990. Cũng trong buổi hội thảo này Trần Văn Giầu, một cán bộ cách mạng cộng sản lão thành kỳ cựu miền Nam, xuất thân từ trường cách mạng đông phương của Liên Xô cùng với các lãnh tụ cộng sản đông âu và tây âu như Tito, Honecker, Thorez…và tốt nghiệp thủ khoa, cũng đã phát biểu như sau: “Tôi có nhiều nhược điểm, mà một trong những nhược điểm đó là tin vào Liên Xô, đánh chết cũng không chừa. Giả như tôi gặp được đồng chí Gorbachev, tôi sẽ nói với đồng chí ấy: “Mày cứ phải tiến lên”. Nhưng Trần Văn Giầu khôn hơn (hay hèn hơn?) Nguyễn Hộ ở chỗ biết rào đón thật cẩn thận rồi mới phun ra câu nói trên. (“Nhật Ký Nguyễn Ngọc Lan 1989-1990, Sống Thẳng, Nói Thật”, Nhà Xuất Bản Tin, Paris, 1991, trang 181-182).
(2) “Lột xác” cũng là đầu đề của một bài tiểu luận của Nguyễn Hộ.
(3) “Viết cho mẹ và quốc hội” của Nguyễn Văn Trấn, Văn Nghệ, 1995, trang 399.

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen