PHẢN TỈNH – PHẢN KHÁNG:Thực hay Hư (Minh Võ):
“Không gì che dấu mà không bại lộ,
không gì kín ẩn mà sẽ không bị thấu biết”
Một bạn đọc ở Santa Ana, sau khi đọc bài “Tướng Cộng
Sản hồi hưu Trần Độ chống đảng hay muốn cứu đảng” đăng trên nguyệt san Hiệp Nhất
số tháng 3 năm 1999 (1), đã gọi tôi bảo hãy tìm đọc bán nguyệt san Văn Nghệ
Tiền Phong số mới nhất vừa ra đề 1-15 tháng 4, 1999 trong đó cũng có người viết
về Trần Độ đấy. Tôi đã từng nghe nói VNTP là tờ báo có nhiều cây viết cứng cựa,
với lập trường chống cộng rõ rệt không khoan nhượng, đã đứng vững gần một phần
tư thế kỷ ở hải ngoại. Trong số báo đầu tháng 4 này tác giả Tầm Nguyên đã đề tựa
bài viết của ông: “Viên Tướng VC Về Hưu Trần Độ vuốt đuôi đảng”. Trong bài báo
ông đã gọi Dương Thu Hương là “nhà văn cái”, Bùi Tín là “con thò lò”. Nguyên mấy
nhóm từ “vuốt đuôi đảng”, “nhà văn cái”, “con thò lò” được dùng đủ cho thấy tác
giả coi ba người này chẳng ra gì, lời nói của họ đối với ông chỉ là trò bịp bợm
do đảng mớm cho mà thôi.
Nhưng tôi cũng được biết những người này đã được các
báo Thế Kỷ 21, Người Việt, Ngày Nay, Diễn Đàn Phụ Nữ… ở Mỹ, Thông Luận, Tin Nhà
ở Pháp… và các đài BBC, VOA và Á Châu Tự Do nhắc đến một cách trân trọng hơn. Sự
tò mò khiến tôi tìm đọc thêm về họ. Đồng thời tôi cũng muốn biết thêm về một số
người khác trong số những nhà trí thức, văn nghệ sĩ và cán bộ cao cấp của Việt
Cộng trước kia mà từ những năm bắt đầu “cởi trói” hay “Đổi Mới” dưới thời Nguyễn
Văn Linh, đã lên tiếng phản kháng hoặc tỏ dấu phản tỉnh. Càng đọc tôi càng thấy
có gì mới mẻ, đáng quan tâm. Khi đọc một cuốn thì tôi nghĩ khác, đọc sang cuốn
thứ hai rồi thứ ba, tôi thấy mình nghĩ khác về tác giả. Đọc một nguồn tin tôi
nghĩ khác, đến khi được đọc nhiều nguồn tin, đối chiếu nhiều tác phẩm của nhiều
tác giả với nhau, rồi đặt chúng vào thời gian, bối cảnh của chúng, tôi nảy ra
những suy đoán, giả thuyết khác nhau. Vì vậy tôi đã tìm đọc một số sách báo gần
đây để cố đẩy sự “nghiên cứu” riêng của mình tới một điểm nào đó. Mặc dầu chỉ
vì tò mò cá nhân, không có tham vọng làm một cuộc phê bình văn học hay nghiên cứu
nghiêm túc về lịch sử, chính trị, tôi cũng thấy dường như mình đã khám phá ra một
cái gì hay hay đối với riêng mình. Tôi mạnh dạn viết ra những trang sau đây để
chia sẻ với bạn đọc, nhất là những bạn đọc trẻ, bận việc ít có thì giờ đọc sách
nhưng lại tò mò muốn biết những gì đang xảy ra trong nước giữa nhà cầm quyền với
những người viết văn và những cựu cán bộ phản tỉnh hay bất mãn, hay giả vờ bất
mãn…
Xin bạn đọc đừng coi đây là một cuộc nghiên cứu
nghiêm túc. Hãy chỉ coi như một sự chia sẻ về tư liệu và suy tư của một người
tò mò đã dành thì giờ tìm hiểu xem những người được nêu tên nơi các đầu chương
của tập sách này phản tỉnh thực hay giả, và qua những gì họ nói và viết bộ mặt
xã hội “xã hội chủ nghĩa” Việt Nam đã hiện lên như thế nào. Và…, nếu sau khi gấp
cuốn sách lại, bạn đọc thấy được phần nào sự phức tạp của cuộc chiến quốc cộng
trong ba thập niên và lý do tại sao “phe quốc gia” lại thua và phe nào đã thắng,
đang thắng, sẽ thắng thì đó là ngoài sự mong mỏi của soạn giả.
Soạn phẩm này sẽ gồm có 20 chương. Mỗi chương trong
18 chương đầu sẽ dành để nói về một tác giả. Chương 19 nói chung chung hết sức
vắn tắt về khoảng 40 tác giả hay nhân vật khác mà chúng tôi không có đủ dữ kiện
để dành cho mỗi người một chương riêng. Chương 20 là phần tổng kết những nhận
xét và bình luận của soạn giả, dựa theo những ý kiến của tất cả các tác giả hay
nhân vật đã được nói đến trong các chương, và những ý kiến của một số tác giả
thuộc phe quốc gia, và thế giới tự do đã phát biểu từ lâu trước.
Trong số 18 tác giả có chương riêng thì có:
3 người đã dứt khoát từ bỏ và chống lại chính quyền Cộng
Sản không do dự: Hoàng Văn Chí rời bỏ miền Bắc vào Nam từ 1956. Xuân Vũ (Bùi
Quang Triết) ra hồi chánh năm 1968 và Hoàng Hữu Quýnh tìm tự do năm 1979 ở Ý.
1 người, tuy sống trong lòng chế độ Cộng Sản, nhưng từ
đầu tới cuối luôn luôn chống đảng không úp mở là nhà thơ Nguyễn Chí Thiện.
3 người đã bỏ chạy ra sống ở ngoại quốc cho đến nay,
tuy có chống chế độ Cộng Sản, nhưng tương đối còn kính nể Mác và Hồ Chí Minh,
đó là các ông Trương Như Tảng (đi từ 1976), Búi Tín (từ 1990) và Vũ Thư Hiên (từ
1995)
1 người đã từng cùng nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống đường
lối của đảng trong một thời gian ngắn rồi sau đó bị cô lập, trù dập cho đến thời
kỳ “đổi mới”. Cuối cùng đã đánh lừa được đảng để lấy cớ sang Pháp vận động cho
chế độ rồi ở lại nói lên phán quyết cuối cùng, muộn màng phê phán: “Chính là
Mác sai”. Đó là giáo sư thạc sĩ Trần Đức Thảo.
10 người còn lại là những cán bộ, đảng viên hoặc văn
nghệ sĩ, nhà báo ngoài đảng, nhưng hiện nay vẫn sống ở trong nước. Họ đã mỗi
người bằng một cách riêng, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp qua ẩn ngữ, dụ ngôn
chống đối đảng một cách ôn hòa, bất bạo động. Đó là các ông Hoàng Minh Chính,
Trần Độ, Hà Sĩ Phu, Đào Hiếu, Nguyễn Hộ, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Văn Trấn (mất
năm 1995), Nguyễn Mạnh Tường (mất 1998), Linh Mục Chân Tín và bà Dương Thu
Hương.
Các chương không được xếp theo thứ tự vừa nêu, mà
theo thứ tự mẫu tự ABC tên gọi của các tác giả để tiện tìm đọc. Vì thực ra sự
phân loại nói trên của soạn phẩm cũng không có tính cách chặt chẽ như trong một
tác phẩm nghiên cứu đích thực. Xin bạn đọc hãy coi những trang sau đây như những
tư liệu đọc để giết thời gian. (2)
Sau hết, nhân đây chúng tôi xin cám ơn, đồng thời xin
lỗi các tác giả vì đã lạm dụng trích dẫn hơi nhiều, mặc dù vẫn thấy chưa lột hết
được ý của quý vị. Nếu có gì sai sót mong quý vị thông cảm và chỉ giáo cho.
Cũng mong độc giả sẽ không trách chúng tôi rườm rà trong những trang trích dẫn
lê thê. Chúng tôi chỉ nêu ra làm tài liệu hầu bạn đọc có thể căn cứ vào đó phán
đoán về những kết luận của chúng tôi liên quan đến các vấn đề căn bản đề cập
trong phần tổng kết. Bạn đọc có thể chỉ lướt qua phần trích dẫn nơi 19 chương
trên nếu thấy không hấp dẫn.
Minh Võ
Chú Thích:
(1) Xin xem chương 3 soạn phẩm này.
(2) Trong soạn phẩm này chúng tôi hay dùng mấy chữ viết
tắt xhcn để chỉ xã hội chủ nghĩa theo thuyết duy vật vô thần của Mác. Khi dùng
theo nghĩa xã hội chủ nghĩa của các thế chế tự do thì không bao giờ viết tắt chữ
nhỏ như vậy.
+ Một số nhóm từ nhắc lại nhiều lần trong một chương,
như tên tác giả đứng đầu chương và những nhân vật quá quen thuộc cũng hay được
viết tắt bằng những chữ cái đầu tên, như HVC = Hoàng Văn Chí, HMC = Hoàng Minh
Chính, HCM = Hồ Chí Minh. CCRĐ = Cải Cách Ruộng Đất vân vân…
+ Trong chương tổng kết và vài chương khác, như
chương 9, chương 15, chúng tôi có dùng những danh xưng Cơ Đốc Giáo, Ki-Tô hữu,
tín đồ Công Giáo… Chúng tôi xin giải thích về những sự phân biệt này để độc giả
hiểu rõ ý chúng tôi.
Tôn Giáo coi Đức Chúa Giêsu Kitô (Jesus Christus) là
Đức Chúa Trời (Ngôi Lời, Ngôi Hai Thiên Chúa, vừa có Thần Tính, vừa có Nhân
Tính) được gọi là Ki-Tô Giáo, tiếng Pháp là Christianisme. Trước đây cũng có
nhiều người gọi là Cơ Dốc Giáo, đạo Cơ Đốc. Chữ Cơ Đốc là theo phiên âm tiếng Tầu,
Ki-Tô là theo phiên âm tiếng Việt, của chữ Christo. Cũng có người gọi là đạo
Gia Tô. Chữ Gia Tô là theo phiên âm tiếng Tầu của chũ Jesus. Ngày nay không còn
ai nói đạo Gia Tô nữa.
Ki-Tô Giáo theo thời gian đã tách ra làm nhiều hệ
phái có danh xưng khác: Chính Thống Giáo ở một số nước Đông Âu và Hy Lạp, Liên
Xô; Anh Quốc Giáo ở nước Anh và một số nhỏ ở Mỹ. Hai tôn giáo này không khác
Công Giáo La Mã bao nhiêu. Cách phụng vụ và tế lễ cũng giống nhau. Đạo Tin Lành
gồm rất nhiều chi phái do hai nhà thần học Ki-Tô Giáo là Calvin và Luther sáng
lập; cuối cùng là Công Giáo có khi gọi là Công Giáo La Mã, là đạo tự cho là
chính thống hơn tất cả các giáo phái Ki-Tô Giáo khác, vì vẫn giữ đúng mọi tín
điều và nghi lễ như ban đầu. Ki-Tô Giáo trên thế giới có số tín đồ tổng cộng 2
tỷ thì công giáo đã chiếm 1 tỷ (theo kiểm tra đầu năm nay là đúng một tỷ).
Như vậy khi chúng tôi dùng Ki-Tô Giáo thì hiểu là
Công Giáo cũng được mà Tin Lành, hay Chính Thống, hay Anh Giáo thì cũng được.
Còn khi nói Công Giáo thì xin hiểu đó là tôn giáo lớn nhất trong Ki-Tô Giáo, có
trụ sở là Vatican, La Mã.
Tại Việt Nam trước đây nhiều người cũng dùng 3 chữ
“Thiên Chúa Giáo” để gọi Công Giáo. Nhưng trong soạn phẩm này chúng tôi tránh
dùng mấy tiếng đó cho khỏi gây hiểu lầm, vì Thiên Chúa theo chúng tôi hiểu là
chung cho mọi tôn giáo. Đạo nào cũng thờ Thiên Chúa, tức Chúa Trời, tức Thượng
Đế, tức Đấng Tối Cao, Đấng Toàn Năng, Đấng Toàn Hảo, Toàn Chân, Toàn Thiện,
Toàn Mỹ, hay Ơn Trên, hay “Giời”…
Riêng về hai chữ Công Giáo chỉ có nghĩa là đạo mà người
Tây Phương từ trước đến giờ vẫn gọi là “Catholicisme, Catholicism”, chứ không hề
có nghĩa là “đạo chung cho mọi người” như có người hiểu lầm, rồi dịch ra Anh ngữ
là “Public Religion” (!).
Hoàng Văn Chí
|
|
Hoàng Minh Chính và chủ nghĩa xét-lại VN
|
|
Trần Độ chống đảng hay muốn cứu đảng?
|
|
Hà Sĩ Phu muốn lật hòn đá tảng?
|
|
Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên
|
|
Chương 6:
|
Nổi Loạn hay Nỗi Oan của Đào Hiếu
|
Nguyễn Hộ Quay Lại Chống Đảng
|
|
Chương 8:
|
Dương Thu Hương với “Những Thiên Đường Mù”
|
Chương 9:
|
Nhật Ký của Nguyễn Ngọc Lan
|
Chương 10:
|
Hoàng Hữu Quýnh bỏ đảng
|
Chương 11:
|
Hồi Ký của Việt Cộng Trương Như Tảng
|
Chương 12:
|
Trần Đức Thảo có bị đầu độc không?
|
Chương 13:
|
Nguyễn Chí Thiện hay Lý Đông A?
|
Chương 14:
|
Bùi Tín Thành Tín Hay Bội Tín Thất Tín?
|
Chương 15:
|
Linh mục Chân Tín có sám hối không?
|
Chương 16:
|
Ông Già Chợ Đệm Nguyễn Văn Trấn
|
Chương 17:
|
Nguyễn Mạnh Tường, “Kẻ Bị Vạ Tuyệt Thông”
|
Chương 18:
|
Xuân Vũ với 34 tác phẩm chống Cộng
|
Chương 19:
|
Những người khác
|
Chương 20:
|
Vẫn Đêm Giữa Ban Ngày (tổng kết)
|
Phụ Lục
|
|
Chương 1
Hoàng Văn Chí
Hoàng Văn Chí, bút hiệu Mạc-Định, sinh ngày
1-10-1913 tại Thanh Hóa (Làng Ngò). Ông học trung học tại trường Albert
Sarraut, Hà-nội, rồi tốt nghiệp cử nhân khoa học năm 1940. Khi cuộc chiến tranh
giữa Việt Minh và Pháp xảy ra vào cuối năm 1946 ông đã ra bưng theo Việt Minh
kháng chiến chống Pháp (từ 1946) cho đến khi mặt nạ ái quốc của ông Hồ Chí Minh
và đồng đảng rớt xuống trong các chiến dịch “Giảm Tô” và “Cải Cách Ruộng Đất”
(từ 1953-1956). Chính ông đã chứng kiến, và trong nhiều trường hợp tham dự
các cuộc đấu tố dã man . Sau Hiệp Định Genève ông đã tìm tự do. Năm 1958 Mặt trận
Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa của chế độ Ngô Đình Diệm đã cho in tác phẩm “Trăm Hoa Đua
Nở Trên Đất Bắc” của ông dưới bút hiệu Mạc Định. Cuốn “Giai Cấp Mới ở Bắc Việt”
thì do nhà xuất bản Công Dân, Saigon. Năm 1959 ông được cử làm phó tổng lãnh sự
ở Tân Đề Li trong một năm rồi sang Âu Châu tìm cơ hội cho thế giới biết thực chất
của chế độ Cộng Sản ở Việt Nam. Trong thời đệ nhị Cộng Hòa ông làm biên tập
viên cho đài Tiếng Nói Hoa Kỳ từ 1965 đến 1969. Ông qua đời tại Maryland, Hoa Kỳ
ngày 6-7-1988. Khi ông mất ông đang viết dở tác phẩm “Duy Văn Sử Quan”, sau này
được con ông bổ túc và giao cho tủ sách Cành Nam xuất bản năm 1990. Đây là một
tác phẩm lớn có tham vọng thay thế duy vật sử quan của Mác, nhưng không thành
công.
Đầu năm 1962 ông viết bài “Collectivisation and rice
pro-duction” (Tập thể hoá sản xuất và sự sản xuất gạo) đăng trên tờ “China
Quarterly” nói về sự thất bại của chính sách hợp tác hóa nông nghiệp đối với việc
sản xuất lúa gạo ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc và Bắc Hàn. Nó mở đường cho tác
phẩm đắc ý của ông: “From colonialism to communism” (Từ Thực Dân Đến Cộng Sản)
mà chúng tôi trích dẫn trong chương này. Bài báo nói lên sự thất bại của hợp
tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc dưới sự cai trị của đảng Cộng Sản, và nhất là sự
tàn bạo đến dã man chưa từng thấy của các chiến dịch mệnh danh là “Giảm Tô” và
“Cải Cách Ruộng Đất” trong những năm 1953-1956.
Tác phẩm “Từ Thực Dân đến Cộng Sản”, do Frederick A.
Praeger xuất bản tại Anh và Mỹ năm 1964, chia làm 5 phần gồm 18 chương. Ngoài 2
chương ở phần I nói tóm tắt về lịch sử của một dân tộc yếu nhỏ nhưng lại có một
dĩ vãng có lúc huy hoàng, tất cả 16 chương còn lại dành để nói về sự xuất hiện
và vai trò của đảng Cộng Sản Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh. Ông gọi Hồ Chí
Minh là anh hùng, vì cho rằng ông ta đã làm được điều mà các nhà cách mạng tiền
bối và các đảng phái quốc gia trước đó đã không làm được, đó là đánh thắng thực
dân Pháp. Vì cũng từng có lúc tâm phục ông Hồ để đi theo ông kháng chiến chống
Pháp trong một thời gian dài nên Hoàng Văn Chí cũng ca tụng ông Hồ ở nhiều
trang sách. Nào ông Hồ nói được hàng chục thứ tiếng, ăn uống thanh đạm, mặc thì
bình dân, chân đi dép râu. Nào có nhiệt tình cách mạng không ai bằng, vào tù ra
khám không biết bao nhiêu lần vì lý tưởng cách mạng. Ông cũng so sánh ông Hồ với
cựu hoàng Bảo Đại và Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà ông cho rằng không thể nào
sánh kịp ông Hồ. Tuy nhiên trong chương 3 dành cho nhân vật “anh hùng” này tác
giả đã nói rõ sự lệ thuộc của Hồ Chí Minh vào Liên Xô và cái tài đóng kịch của
ông ta.
Theo ông thì ông Hồ thành công vì nhiều lẽ. Nhưng “thắng
lợi cuối cùng phần lớn là do biết mềm dẻo, uyển chuyển trong khi áp dụng các
chiến thuật khi thì tỏ ra Cộng Sản, khi thì tỏ ra quốc gia tùy theo hoàn cảnh mỗi
lúc đòi hỏi, trong khi vẫn cố giấu mục tiêu chiến lược cuối cùng mà không bao
giờ thay đổi.”(1)
Mục tiêu cuối cùng này là gì? Đó là nhuộm đỏ cả nước.
Đưa cả nước vào quỹ đạo Cộng Sản. Còn chiến thuật được áp dụng uyển chuyển thì
như thế nào? Nghĩa là khi thì đứng chung với những người quốc gia, nói vì dân
vì tổ quốc. Như thời gian ở Pháp làm báo với ông Nguyễn Thế Truyền. Như thời
gian tiếp xúc với các ông Phan Bội Châu, Lâm Đức Thụ ở Trung Quốc. Như thời
gian liên lạc với các toán OSS của Mỹ. Như thời gian giải tán đảng Cộng Sản, lập
chính phủ Liên Hiệp với các ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường
Tam khi mới nắm được chính quyền. Khi thì ôm chân đảng Cộng Sản Pháp; làm gián
điệp cho Liên Xô; bán đứng cụ Phan Bội Châu cho cảnh sát Pháp; nhận lệnh của
Mao Trạch Đông phát động Cải Cách Ruộng Đất đẫm máu… tái lập đảng Cộng Sản dưới
danh hiệu đảng Lao Động. v.v…
Tác giả đã nói đến chuyện ông Hồ một mực chối mình
không phải là Nguyễn Ái Quốc. Ông trưng dẫn Jean Lacouture, trong tác phẩm
“Cinq hommes et la France” (Năm nhân vật và nước Pháp) đã kể rằng khi tướng
Salan, người đàm phán về hưu chiến năm 1946, hỏi thẳng Hồ Chí Minh: Ông có phải
Nguyễn Ái Quốc không? Thì ông Hồ nhất định bảo không phải. Ông cũng thuật lại
việc ông Võ Quý Huân hỏi ông Hồ khi cùng đi trên con tầu SS Dumont d’Urville từ
Fontainebleau về nước: chủ tịch có biết hiện giờ ông Nguyễn Ái Quốc đang ở đâu
không? Và ông Hồ đã đáp lửng lơ: Tốt hơn nên hỏi ông ấy, đừng hỏi tôi.
Về nguyên quán của ông Hồ, tác giả cũng bảo ban đầu
ông ta khai là Hà Tĩnh. Mãi sau này, vào năm 1958 nhà cầm quyền Hà-nội mới
chính thức công bố ông Hồ Chí Minh chính là “người yêu nước” Nguyễn Ái Quốc,
nguyên quán tỉnh Nghệ An. (2)
Tác giả cũng nói đến chuyện ông Hồ cũng như ông Nguyễn
Khánh Toàn đều đựơc Liên Xô cung cấp cho một bà vợ hờ (một phụ nữ Nga) sống với
nhau rất kín đáo. Riêng ông Toàn thì đã có nhiều con với người vợ Nga này và
khi sang Trung Quốc hoạt động ông lại được cung cấp một bà vợ khác, người địa
phương.(3)
Để chứng tỏ ông Hồ có thể làm bất cứ chuyện gì, miễn
đạt được mục tiêu chiến lược của ông là “cách mạng vô sản”(sic), tác giả đã thuật
lại việc ông Hồ âm mưu với Lâm Đức Thụ bán đứng nhà cách mạng ái quốc Phan Bội
Châu cho cảnh sát Pháp để lấy số tiền khổng lồ là 10 vạn đồng lúc ấy (một con
trâu chỉ bán được 5 đồng) (4) và việc có lẽ ông ta đã nhận làm gián
điệp cho Anh để được thả khi bị bắt ở Hồng Kông vào năm 1933 là lúc ông ta bỗng
biến mất trong khi đang nằm nhà thương vì bệnh lao. (5)
Một bằng chứng hùng hồn cho thấy Hồ Chí Minh không phải
là người thực sự yêu nước, ít nhất là ở giai đoạn sau, mà ông chỉ yêu Cộng Sản.
Ông không phải nhà cách mạng quốc gia, mà thực sự là một kẻ cuồng tín vì chủ
nghĩa vô sản quốc tế. Tác giả đã trích dẫn lời tuyên bố của ông Hồ vào cuối thập
niên 50, nhân dịp mừng sinh nhật của ông, đã được tờ “Echo du Viêtnam” (Tiếng vọng
từ Việt Nam), cơ quan bán chính thức của Cộng Sản Việt Nam ở Paris số ra tháng
7 năm 1960 như sau:
“Thoạt tiên lòng yêu nước chứ không phải Cộng Sản đã
dẫn tôi đến chỗ tin tưởng ở Lê-nin và Đệ Tam Quốc Tế. Nhưng dần dần, từng bước
trên đường tranh đấu, và phối hợp những nghiên cứu lý thuyết với các hoạt động
thực tế, tôi đã nhận ra rằng chỉ có xã hội chủ nghĩa và Cộng Sản chủ nghĩa mới
có thể giải phóng công nhân và nhân dân bị áp bức trên khắp thế giới.
Tại Việt Nam cũng như tại Trung Quốc có một huyền thoại
về cẩm nang; bất cứ ai gặp khó khăn trọng đại chỉ cần mở cẩm nang ra là tìm thấy
cách giải quyết. Đối với Cách Mạng Việt Nam và nhân dân Việt Nam, chủ nghĩa Mác
Lê không những chỉ là cẩm nang hay la bàn, mà chính là mặt trời soi đường dẫn lối
trên đường đi tới thắng lợi cuối cùng, tới xã hội chủ nghĩa và Cộng Sản chủ
nghĩa.”
Những hàng trên đây cho thấy, có thể là ban đầu, (nếu
ta tin được lời ông Hồ), ông Hồ coi chủ nghĩa Cộng Sản như một phương tiện, đảng
Cộng Sản Việt Nam như một công cụ để đi tới cứu cánh là độc lập tổ quốc. Nhưng
dần dần phương tiện và cứu cánh hoán vị. Quốc gia, độc lập chỉ còn là phương tiện,
là chiêu bài giả dối. Chủ nghĩa Cộng Sản, cách mạng vô sản, chuyên chính vô sản
mới là cứu cánh. Nếu từ đó ông ta và đồng đảng còn nói vì tổ quốc, vì nhân dân
Việt Nam thì đó chỉ là láo khoét.
Tác giả Hoàng Văn Chí đã phân tích diễn biến của cuộc
xích hóa miền Bắc Việt Nam và chia nó ra làm 6 giai đoạn từ việc thành lập chi
bộ Cộng Sản đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1925 qua việc thành lập “Thanh Niên Đồng
Chí Hội”, phong trào “Xô Viết Nghệ Tĩnh”, “Mặt Trận Bình Dân”, rồi “Mặt Trận Việt
Minh” và tiến hành “công cuộc kháng chiến chống Pháp” cho đến cuối cùng là thực
hiện “Cải Cách Ruộng Đất”. Rồi ông tập trung vào giai đoạn cuối cùng này làm chủ
đề cho hầu hết tác phẩm.
Muốn tiến hành CCRĐ một cách thành công để tiến tới
công hữu hóa tài sản toàn quốc, các người Cộng Sản đã chuẩn bị ba bước quyết liệt.
Thứ nhất, áp dụng chế độ tàn bạo về thuế nông nghiệp và thuế thương nghiệp để
san bằng khoảng cách về kinh tế giữa các thành phần trong xã hội. Thứ hai, tung
ra một đợt khủng bố quy mô với mục đích làm cho người dân khiếp sợ không còn
dám phản kháng để dễ bề thực hiện các đợt sau. Và thứ ba, lập danh sách những kẻ
phản động cần xử lý, hoặc hành quyết, hoặc tịch biên tài sản, gửi đi lao động tại
các vùng rừng thiêng nước độc.
Sau đó là bắt đầu cải tạo tư tưởng. Với mục đích làm
sao cho mọi người cùng chung một tư tưởng, dù nó sai chăng nữa nhưng phải là một
tư tưởng thật đơn sơ giản dị để mọi tầng lớp nhân dân dù ít học cũng lãnh hội
được. Trước tiên là mở các lớp học tập để mọi người thông suốt đường lối đấu
tranh của chủ nghĩa Mác Lê. Trường Chinh, tổng bí thư, và cũng là lý thuyết gia
hàng đầu, đã đích thân chỉ đạo việc học tập và bắt mọi người phải chấp nhận
nguyên lý tư tưởng chính trị trên hết. Nhân dân ngoài đảng được dậy cho biết họ
phải luôn hướng lòng trí về việc thống nhất đất nước và tiến tới sự làm chủ đất
nước. Còn đảng viên thì phải học để tăng cường ý thức giai cấp vô sản, chống lại
ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản và tiểu tư sản. Việc chống tư tưởng tư sản được
thực hiện một cách tuần tự, từ khoan nhượng châm chước lúc ban đầu rồi sau đó
phê bình cái sai cái trái và sau cùng mới đả kích.
Trong báo cáo chính trị của Trường Chinh đọc tại đại
hội đảng kỳ 3 năm 1960 mà tạp chí Học Tập, cơ quan lý luận và tư tưởng của đảng
Cộng Sản Việt Nam đăng tải vào tháng 9 năm đó người ta đã đọc được những hàng
sau đây nói về việc cải tạo tư tưởng trong thời kỳ ông ta vâng lệnh cố vấn Tầu
lãnh đạo các cuộc cải cách ruộng đất từ 1953 đến 1956:
“Mục tiêu của cách mạng hiện nay là làm cho toàn dân
và đặc biệt là nhân dân lao động thấm nhuần ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, từ bỏ
nhãn quan cũ về cuộc sống và thế giới, thay nó bằng quan niệm Mác Xít. Quả thực
chủ nghĩa Mác Lê-nin sẽ đảm lãnh vai trò lãnh đạo trong việc hướng dẫn đời sống
đạo đức của đất nước ta và sẽ trở thành khuôn mẫu cho sự thành hình các tư tưởng
của toàn dân. Nó sẽ là nền tảng đạo lý của nhân dân ta.”
Sau khi trích dẫn những hàng trên của nhà lý thuyết số
một của cộng đảng Việt Nam, tác giả “Từ Thực Dân Đến Cộng Sản” đã nhận xét một
cách chí lý như sau:
“Đoạn văn trên đây chứng tỏ chủ nghĩa Mác đang trở
thành một tôn giáo với trọn vẹn ý nghĩa của từ tôn giáo—một thứ tín ngưỡng mới
đang không ngừng cố gắng thay thế các tín ngưỡng hiện có và nó không dung thứ bất
cứ một dấu vết của “phiếm thần” hay “vô thần” nào trong những người mà nó kiểm
soát.” (6)
Nơi chương 10 tác giả đã thuật lại cách thức các cán
bộ Cộng Sản tự kiểm thảo và thú tội giống hệt cung cách mà các tín đồ đạo Công
Giáo thời đó “xét mình”, “ăn năn tội” và “xưng tội”. Những cuộc kiểm thảo càng
trở nên gay gắt và những cuộc thú tội cũng trở nên sôi nổi hơn sau khi Mao Trạch
Đông chiếm trọn Hoa Lục vào năm 1949 và xuất cảng lề lối sinh hoạt của các đảng
viên “các chú con trời”. Ta hãy đọc một đoạn vắn về diễn tiến một cuộc kiểm thảo
sinh viên dành cho một giáo viên phạm lỗi đã cho điểm một học sinh cao hơn học
sinh đó xứng đáng:
“Lời khai cơ bản: Ông (bà) đã cho trò X điểm cao hơn
y xứng đáng.
Suy diễn:
Suy diễn:
1) Bằng cách thiên vị ưu đãi một cá nhân trong chúng tôi ông (bà) đã hy vọng tạo nên sự bất hòa.
2) Khi có sự bất hòa trong lớp, học sinh sẽ để hầu hết
thời giờ cãi nhau, thay vì học.
3) Do đó học sinh tiến bộ ít.
4) Điều này làm cho cha mẹ chúng bất mãn
5) Và sẽ làm cớ cho họ nói rằng hệ thống giáo dục của
chúng ta thua kém Pháp;
6) Họ sẽ bảo thực dân tốt hơn dân chủ nhân dân;
7) Vì vậy, khi cho một điểm không đáng, ông (bà) cố
tình phục vụ thực dân.
Kết luận: Ông (bà) là bè lũ tôi tớ của Pháp và Mỹ.
Những cách mắng nhiếc giáo viên như vậy rất phổ biến và rất ít trường còn có một giáo viên không hề bị đối xử một cách nhục nhã như vậy. Đây chính là lý do tại sao có đông nhà giáo từ vùng kháng chiến ồ ạt chạy sang vùng bị Pháp chiếm đóng trong những năm 1950 và 1951.”
(7)Cứ đọc những hàng trên về cách lý luận trong kiểm thảo để bắt buộc nạn nhân phải nhận tội một cách kỳ cục ta đủ thấy nó võ đoán và tàn bạo đồng thời cũng ngây ngô đến mức độ nào. Nhưng chưa hết. Hãy đọc đoạn sau đây nói về sự ép buộc phải ăn năn hối lỗi của những kẻ bị kiểm thảo:
“Ngay từ đầu đã có sự thỏa thuận về kiểm thảo là kẻ bị
phê bình phải nhỏ một ít nước mắt để cho cử tọa thấy rằng, nhờ bài học nhận được
từ những người bạn độ lượng, mình rất lấy làm xấu hổ và hối hận. Nhưng trong một
số trường hợp, nhất là ở những trường học, một số người trước đó đã thú tội rồi
nay tiếp tục nhắc nhở nhau cùng nhớ lại tội lỗi và cùng cất tiếng khóc chung với
nạn nhân. Phần lớn họ là những đảng viên trẻ…Họ khóc nức nở, nghẹn ngào và than
vãn kể lể về việc họ đã thất bại không hoàn thành nhiệm vụ đảng trao phó ủy
thác cho. Họ nói họ rất đau buồn thấy rằng những cố gắng kiên trì của đảng nhằm
cải tạo nhân dân đã không có kết quả. Những đảng viên trẻ này rất dễ khóc, vì họ
luôn luôn ở trong tình trạng thần kinh căng thẳng. Bị nhồi sọ về chính trị nhiều
quá, lại bị tiết dục hoàn toàn họ trở nên đa sầu đa cảm thái quá. Và cũng vì thế
họ là những kẻ cực kỳ cuồng tín. Thực ra đã có một số trường hợp điên loạn thực
sự. Tại một trường quân chính ở Việt Bắc năm 1952 đã có tới 8 học viên bị bệnh
tâm thần.
Thoạt tiên những cơn bật khóc chỉ thỉnh thoảng mới xảy
ra nhưng về sau thành thói quen chỗ nào cũng có. Điều này đưa đến nhận xét
chung là đảng đã khám phá ra bí quyết của việc cải lão hoàn đồng, bởi vì nhờ hệ
thống kiểm thảo này người lớn đã trở thành trẻ con.
Dĩ nhiên khóc than tập thể được dùng trong quá trình
kiểm thảo như một phương tiện thuyết phục — một hình thức áp lực tập thể — để
thúc đẩy mau chóng thú tội. Có lần cả một lớp học được gọi tới để giúp một học
viên đã không chịu viết bản tự phê như đã được đề nghị. Khi tới căn nhà học
viên đó ở thì cả lớp đồng thanh cất tiếng khóc, khiến các nông dân chủ hộ hoàn
toàn kinh ngạc náo động vì họ kết luận, một cách tự nhiên, rằng chắc hẳn phải
có một người trong nhà họ đã chết thình lình. Nhưng (kỹ thuật) khóc lóc xử dụng
cách máy móc theo kiểu này chẳng bao lâu đã mất tác dụng và cái cảnh một số người
khóc không có nước mắt trở thành khôi hài. Tuy nhiên không ai dám cười những
người khóc. Bởi vì sự trịnh trọng đến nực cười của họ cho thấy là họ đang diễn
xuất cái việc mà họ nghĩ là nhiệm vụ của họ. Cho nên thói quen đó vẫn tiếp tục
trong một thời gian khá dài, từ 1951 đến 1953.
8)Phương pháp kiểm thảo, tự phê và phê bình này kéo
dài như vậy đã thay đổi hẳn tính tình và lối sống của người dân Việt Nam đến nỗi
dư luận chung lúc ấy cho rằng người Việt Nam tỉnh bơ hơn người Anh và kín đáo
còn hơn cả người Nhật.
Tác giả đã để nguyên chương 11 nói về công tác chỉnh
huấn do tướng Nguyễn Sơn (người Việt) của Trung Cộng phái sang cố vấn cho cộng
đảng Việt Nam, gồm có chỉnh đảng, chỉnh phong và chỉnh quân thực hiện hết sức
nghiêm ngặt với mọi người:
“Vì mọi người đều bắt buộc phải dự các lớp chỉnh huấn
này nên các khóa học đã phải kéo dài. Một phần ba nhân viên văn phòng đi học
thì hai phần ba còn lại phải làm việc cực nhọc hơn và phải chia phần công tác với
nhau. Khi toán học viên đầu đã hoàn tất khóa học thì đến toán thứ hai, và cuối
cùng là toán thứ ba….
“…Học viên không được đi ra ngoài khu vực giới hạn và
suốt khóa học không được tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Họ được phép viết thư
cho gia đình (nhưng bị kiểm duyệt cẩn thận), mà lại không được nhận thư của gia
đình. Tất cả thư từ được giữ lại cho đến cuối khóa mới phân phát đến tay người
nhận….Một trường hợp được ghi nhận về một học viên, một bác sĩ, như sau. Cuối
khóa ra về, ông ta được thông báo là vợ ông ta đã chết 2 tháng trước.”
(9)Trong chương này tác giả cũng dành ra 6 trang để nói kỹ về 10 kỹ thuật giảng huấn chứng tỏ các người Cộng Sản cố gắng bằng mọi cách vừa cương quyết vừa khéo léo thuyết phục học viên phải chấp nhận quan điểm của đảng trong mọi vấn đề. Những thắc mắc đều được các giảng viên giải đáp đến nơi đến chốn. Nếu có ai còn chưa thông thì Trường Chinh sẽ xuống giải đáp. Nếu chẳng may Trường Chinh vẫn không thành công thì đích thân ông Hồ sẽ tới dùng tài thuyết phục của mình làm cho đối tượng phải khuất phục.
Những bài học trong chỉnh huấn được mô tả trong
chương 12 gồm có 5 bài. Bài cuối cùng quan trọng hơn cả: Cải Cách Ruộng Đất. Về
bài học thứ 3 “Hoàn cảnh mới, nhiệm vụ mới” tác giả có nói đến việc ông Hồ lên
án chủ trương trung lập mà ông ta gọi là thứ “đánh đĩ chính trị”. Chúng tôi thấy
đây là bài học cho những người muốn trung lập, hay thỏa hiệp với Cộng Sản. Về
bài học “tác phong đứng đắn”, khi nói về kỷ luật sắt của bộ đội, nhất là về vấn
đề trai gái, tác giả đã kể một câu chuyện như sau:
“Trong chiến dịch Tây Bắc năm 1950 cộng quân đóng ở
Sơn La (cư dân tỉnh gồm bộ tộc Thái) thường bị các cô gái Thái trêu ghẹo. Các
cô này sống ở triền núi phía Tây của dẫy Trường Sơn. Không giống các cô gái người
Kinh, họ không bị ràng buộc bởi truyền thống Nho Giáo và vì vậy thường dạn dĩ
hơn, sẵn sàng tán tỉnh bất cứ người nào tới thăm bản làng của họ. Chẳng bao lâu
họ lấy làm ngạc nhiên và bực mình khám phá ra rằng bộ đội Cộng Sản cứ trơ trơ
như đá trước những lời gợi tình của họ. Và từ đó có tiếng đồn rộng rãi trong số
những người con gái đó rằng bộ đội cụ Hồ đã bị cụ cho hoạn hết trước khi xua ra
trận.”
“Thật là lý thú để ghi nhận rằng trong khi mãi dâm bị
cấm chỉ và mọi “hành vi hủ hóa” bị trừng phạt nặng nề, mà lính có vợ lại bị từ
chối không cho về nhà nghỉ phép. Người ta bảo làm vậy để giữ tinh thần chiến đấu
mãnh liệt trong đám binh lính. Và có thể là rất đúng vì đó chính là cách nuôi
gà chọi và ngựa đua.” (10)
Tác giả quả thật đã phũ phàng trong một lời nhận xét
mỉa mai chua chát đến thế là cùng. Và ông nói một cách rất bình thản. Nhưng tác
giả lại nêu tên 3 đảng viên cao cấp có nhiều vợ:
“Cũng có nhiều đảng viên nổi tiếng muốn có vợ thuộc
giai tầng ngang hàng với mình về xã hội cũng như chính trị. Đây là trường hợp của
các ông Hoàng Minh Giám, bộ trưởng văn hóa, Trần Huy Liệu nguyên bộ trưởng
tuyên truyền và Đặng Kim Giang bộ trưởng đạn dược. Có tin đồn là những vị này
đã có thời gian khổ sở vì chuyện tự thú về vấn đề này. Người ta còn nói ông Hồ
Chí Minh đã để nhiều giờ giải thích cho ông Trần Huy Liệu rằng có ba vợ là điều
sai trái, và đặc biệt là người vợ mà ông ta yêu thương nhất lại là điền chủ, vợ
góa của Phạm Giao là tên phản động bị Việt Minh giết năm 1945.”(11)
Về sự nham hiểm của các nhà lãnh đạo Cộng Sản trong
âm mưu tiêu diệt thành phần điạ chủ, kể cả đảng viên, hay những người đã dùng
tài sản của mình giúp đỡ kháng chiến trong những ngày đầu, Hoàng Văn Chí viết:
“…Sau 10 ngày thảo luận chi tiết, người ta đã thấy rõ
là báo cáo của Trường Chinh chỉ nhằm ngụy trang cái mục đích nham hiểm của đảng
là thanh toán giai cấp có ruộng đang không có cách gì tự vệ. Giai cấp này đã phục
vụ Kháng Chiến trong nhiều năm và đã giúp đảng Cộng Sản bảo vệ và củng cố quyền
hành.” (12)
Tác giả đã dành 3 chương 13,14,15 để nói kỹ về chiến
dịch Cải Cách Ruộng Đất “long trời lở đất”. Trước hết là việc phân chia giai cấp
trong làng xã: Địa chủ, phú nông, trung nông, bần nông và bần cố nông (trung
nông còn được chia thành 3 loại trung nông cấp trên, trung nông cấp giữa và
trung nông cấp dưới). Cải cách ruộng đất được thực hiện làm hai đợt. Đợt đầu gọi
là chiến dịch “Giảm Tô” từ 1953 đến 1954, và đợt sau là chiến dịch “Cải Cách Ruộng
Đất” đúng nghĩa, từ 1955 đến 1956. Trong đợt đầu các người chủ trương ấn định mỗi
xã phải có ít nhất một địa chủ bị hành quyết, thường lấy trong số người đã được
đảng bí mật ghi vào loại địa chủ gian ác. Chính nhân dân trong làng đa số là bần
nông trở xuống sẽ được chỉ định để tố cáo các “tên địa chủ gian ác” tại các
“tòa án nhân dân.“ Chánh án cũng lấy trong số dân làng. Sau đợt đầu đảng cho một
tiểu đoàn đăc nhiệm tới các xã tiến hành cuộc xếp hạng lại thành phần giai cấp,
viện cớ là đợt trước nông dân xếp hạng chưa đúng còn để sót nhiều địa chủ. Vậy
là một số thuộc thành phần phú nông ở đợt đầu được đôn lên thành địa chủ. Và lần
này số người đảng ấn định phải chết tăng lên gắp 5 lần, nghĩa là mỗi xã phải có
ít nhất 5 người bị hành quyết tại chỗ, liền ngay sau khi toà án nhân dân tuyên
án. Các tiểu đoàn đặc nhiệm làm việc dưới sự chỉ đạo tại chỗ của các cố vấn Tầu.
Tác giả cho biết lúc ấy tại vùng Cộng Sản kiểm soát có khoảng 10 ngàn làng xã.
Như vậy nếu tính cả hai đợt cải cách ít nhất phải có ít nhất 60 ngàn người bị
hành quyết. Chưa kể không biết bao nhiêu người tự tử, vì nhục nhã.(Ví dụ bị con
dâu hay con gái tố bị cha hay cha chồng hãm hiếp, hoặc những người bị kẻ chịu
ơn xỉ vả, mắng nhiếc…), và không biết bao nhiêu người khác chết đói, sau khi bị
tịch thu hết tài sản và quẳng ra ngoài đầu đường xó chợ, không ai dám thăm nom
tiếp tế, vì chính sách cô lập địa chủ của đảng.
Điều đáng lấy làm nhục nhã hơn hết là có một số người
trong chiến dịch “Giảm Tô” đưọc xếp là bần nông hay trung nông, nhưng sang đợt
sau lại được xếp lại thành địa chủ và bị đấu tố. Trong đợt trước họ đã không tiếc
lời bịa đặt đủ mọi thứ tội để tố cáo người khác. Nay đến lượt họ lại bị tố cáo
chẳng khác gì.
Sau đây chúng tôi trích dịch một vài đọan trong 3
chương nói về 2 chiến dịch Giảm Tô và Cải Cách Ruộng Đất nói trên do tác giả đã
từng chứng kiến và tham dự thuật lại, hoặc do ông trích dẫn từ những tài liệu
chính thức của Cộng Sản hoặc của những chứng nhân đáng tin cậy khác.
“Khắp vùng nông thôn Bắc Việt trắng xóa với những
vành khăn tang” (trang 166) “Khẩu hiệu của chúng trong những ngày khủng bố là:
“Thà giết lầm 10 người vô tội còn hơn để lọt một tên địch”. (trang 167)
“Cuộc học tập nhồi sọ tiếp diễn hầu suốt 18 giờ mỗi
ngày, cho đến khi, cuối cùng những nông dân trước kia ngoan ngoãn trở nên chín
mùi cho việc nổi loạn chống lại các điền chủ của họ.” (tr.170)
“(Những cuộc điều tra về những vụ trai gái, ngoại
tình này nhằm một mục đích riêng: người đàn bà có tư tình với một địa chủ nào
đó khi còn trẻ sẽ bị bó buộc phải tuyên bố trước công chúng rằng bà ta đã bị
tên địa chủ đó hãm hiếp)” (tr.170)
“Điều lý thú đáng ghi là hãm hiếp phụ nữ là một trọng
tội dành cho các điền chủ và những ai có chút uy tín trong cộng đồng, như linh
mục Công Giáo hay các vị sư Phật Giáo và đặc biệt là những nhà Nho uyên bác.
Đây là định luật: địa chủ càng có vẻ bề ngoài đáng kính (ví dụ nếu có râu bạc
hay đầu hói), thì những tội về luân lý của họ càng nặng. Rất thường thấy là
trong những trường hợp như vậy chính con gái hay con dâu của bị cáo đứng trước
tòa công khai tuyên bố rằng cô ta bị ông bố hãm hiếp. Cũng tương tự như vậy, địa
chủ càng được nhiều người biết là có lòng ái quốc thì càng bị buộc tội có những
hành động phản quốc.
“Vì không cần chính xác, nên bất cứ cái chết nào xảy
ra trong làng trước đó vài năm đều được đổ hết cho địa chủ liên hệ. Ông Nguyễn
Đình Pháp ở Nghệ An, một nhà trồng tỉa, và là nghị sĩ quốc hội bị cáo buộc là
đã giết 35 mạng người, chỉ vì đã có 35 người chết vì sốt rét rừng trong đồn điền
của ông ta. Trong cuộc đấu tố dành cho ông Lê Trọng Nhị, một lãnh tụ quốc gia
trong phong trào những năm 1907-1908 là người đã từng bị giam 9 năm ở Côn Đảo,
một người đàn bà đã lên đối chất với ông với những lời lẽ như sau: “Mày có biết
rằng con tao không phải do chồng tao, mà chính là do mày không? Trong khi chồng
tao vắng nhà mày đã đến ngủ với tao. Và tao có con là từ lúc đó.” Lúc đấu tố
ông Nhi đã 75 tuổi, người đàn bà kia khoảng 60 và con bà ta đã ngoài 40. Vài
người dân làng làm một con tính nhanh và khám phá ra rằng trong thời gian bà ta
thụ thai thì ông Nhi đang giở sống dở chết ở một nhà tù của Pháp cách xa cả
ngàn dặm.” (trang 187)
“Hãy tố càng nhiều càng tốt.…Sau khi tiểu đoàn đặc
nhiệm đi rồi, người con dâu (của một bà nào đó) giải thích trường hợp của mình
cho nhân dân trong làng. “Tôi không thể nào đê tiện đến độ tố cáo mẹ chồng tôi,
vì vậy sau khi tiểu đoàn tuyên bố liệt mẹ tôi vào số địa chủ, tôi bàn tính với
mẹ tôi suốt cả đêm. Tôi muốn đi tìm tiểu đoàn để phản đối. Nhưng mẹ tôi cương
quyết khuyên tôi đừng làm như vậy. Bà bảo tôi: “Mẹ đã gần 80 tuổi rồi, chẳng
còn sống được bao lâu, vì vậy họ có xếp mẹ vào loại địa chủ thì cũng chẳng sao.
Nhưng nếu con phản đối, con sẽ không tránh khỏi bị liên hệ với địa chủ và trong
trường hợp đó cả hai mẹ con ta đều mất tất cả mọi sự. Hãy tố cáo mẹ càng nhiều
càng tốt và như vậy sẽ giữ được ruộng của con.” (tr.178)
“Trong thời gian hai chiến dịch giảm tô và cải cách
ruộng đất mỗi tỉnh đều có một tờ báo địa phương, tờ Lá Rừng (họ cho rằng tội ác
của địa chủ nhiều như lá rừng) mô tả chi tiết các cuộc đấu tố địa chủ. Tất cả
cán bộ trong các cơ quan chính phủ bị bắt buộc phải đi tới một làng xã để quan
sát thủ tục diễn tiến của chiến dịch C.C.R.Đ. Mục đích nhằm cung cấp cho họ một
sự hiểu biết sâu xa về chính sách của đảng mà người ta tự hào là “hoàn toàn hợp
tình hợp lý” Những cán bộ này thực hành hình thức “ba cùng” (cùng ở, cùng ăn,
cùng làm) với nông dân địa phương nhưng họ chỉ dự các cuộc đấu tố như người
quan sát chứ không có quyền can dự vào việc đấu tố. Tuy nhiên sự có mặt của họ
có tác dụng thuận lợi; tại những xã có mặt họ chiến dịch được thực hiện tốt đẹp
hơn và nói chung những địa chủ bị phạt ít tàn bạo hơn. Sở dĩ có điều này là bởi
vì đảng nuốn gây cho cán bộ có ấn tượng rằng chính sách của đảng là đúng đắn. Kết
quả là những điền chủ trong các xã được những cán bộ đó tới thăm cho mình là kẻ
có phước và coi những cán bộ đó như những “thiên thần hộ mệnh” vậy.” (tr.188)
Chúng tôi xin tạm ngưng trích dẫn ở đây để lưu ý độc
giả về đọan trên đây (tr.188). Nếu đọc kỹ và suy nghĩ một chút ai cũng có thể
thấy mưu sâu quỷ kế của Cộng Sản. Họ vừa đánh lừa cán bộ của họ vừa đánh lừa
dân làng, kể cả địa chủ. Tất cả tội ác đều do họ gây nên. Nhưng họ muốn người
ta hiểu rằng ở đâu có cán bộ của họ thì ở đó mọi sự tốt đẹp hơn. Họ tàn bạo với
địa chủ, muốn tiêu diệt hoàn toàn giai cấp gọi là địa chủ này. Nhưng lại muốn
cán bộ của họ hiểu rằng đảng cư xử rất “hợp tình hợp lý” chứ không làm gì độc
ác, hay quá đáng. Những gì quá đáng xảy ra là do lòng dân quê thù ghét bọn địa
chủ gian ác mà thôi. Chính cái mưu sâu hiểm độc này đã khiến cho nhiều người
trong cán bộ cũng như nhân dân bị lầm. Cho nên đảng mới tiếp tục giữ được uy
tín mà điều khiển cuộc chiến. Tuy nhiên đó chỉ là một trong trăm nghìn quỷ kế
hiểm độc khác, trong đó phải kể việc khủng bố tinh thần, làm cho toàn dân kinh
sợ không dám trái lệnh đảng, và nắm chặt hầu bao. Không theo đảng không có ăn.
Sau cuộc cải cách tất cả mọi người trở thành vô sản. Nông dân không vào nông hội
không có ăn, vì mọi địa chủ đã bị tiêu diệt hay bị cô lập đang chết dần chết
mòn. Mà đã vào nông hội hay hợp tác xã rồi thì phải lao động cực khổ theo kỷ luật
đảng. Làm việc vất vả cực nhọc hơn thời thực dân phong kiến nhiều gấp bội,
nhưng lợi tức thu vào cho gia đình thì lại thua kém xa, một phần vì thuế nông
nghiệp quá nặng, phần vì tổ chức luộm thuộm thất thoát đi nhiều, phần vì tâm lý
“cha chung không ai khóc”…vân vân. Xin mời bạn đọc tiếp tục theo dõi tác giả
Hoàng văn Chí trong những đoạn trích dẫn.
(Về cuộc xử án địa chủ):
“…Mỗi quận có một tòa án lưu động gồm toàn nông dân
không biết tí gì về luật lệ hay luật pháp. Có chánh án, có công tố viên nhưng
không có ai bênh vực cho bị cáo vì, trong thực tế bị cáo không được phép tự bào
chữa. Biên bản đấu tố mà họ đã ký mấy hôm trước được dùng làm lời khai của họ.
Bồi thẩm đoàn gồm chính những nông dân đã ngồi trên bàn chủ tọa trong các cuộc
đấu tố. Bản án do toà đưa ra thay đổi từ tử hình xuống đến 5 năm khổ sai kèm
theo tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nói tịch thu một phần chẳng có
nghĩa gì bao nhiêu. Bởi vì toàn bộ những gì bị cáo sở hữu đều sẽ bị tịch thu
sau khi chiến dịch CCRĐ đợt 2 thực sự xảy ra.”
“Những kẻ bất hạnh bị kết án tử hình bị bắn liền ngay
sau khi bản án được tuyên. Trước khi phiên toà bắt đầu người ta đã đào một cái
hố để chôn nạn nhân. Thời gian đầu chiến dịch, kẻ bị kết án tử hình được phép
nói đôi lời trước khi hành hình, nhưng về sau khi có một người hô to: “Hồ chủ tịch
muôn năm! Đảng Lao Động muôn năm!” ngay trước khi bị bắn, thì cái hình thức trưởng
giả đó bị bãi bỏ. Từ đó về sau một cán bộ đứng ngay đàng sau bị cáo, sẵn sàng để
vừa nghe bản án anh ta liền đút một mảnh giẻ vào mồm nạn nhân và lôi đi. Điều
khiến cho số phận của những địa chủ này trở nên khủng khiếp là những kẻ thuộc
toán hành quyết bắn rất dở, vì hầu hết họ là những lính canh trong làng lần đầu
cầm súng. Hậu quả là năng có trường hợp nạn nhân bị chôn sống. Người ta san bằng
cái hố, rồi trồng trên đó một cái cây hay một bụi rậm. Một cuộc tuần hành vĩ đại
được tổ chức trong dịp hành quyết địa chủ, gồm những trẻ nhỏ đánh trống còn người
lớn thì hô to những khẩu hiệu quen thuộc. Đám đông phải vỗ tay khi nạn nhân ngã
qụy.”…
“…Để hoàn tất bức tranh về cuộc (cải cách ruộng đất đợt
1 được gọi là chiến dịch)“Giảm Tô” tưởng nên nói vài lời về cái “chính sách cô
lập” nổi tiếng từng phải chịu trách nhiệm về số người chết có lẽ 10 lần nhiều
hơn số đã bị xử bởi các Tòa Án Nhân Dân Đặc Biệt.” (tr.189)
“Có thể nói dường như Hồ Chí Minh đã dấn thân vào một
cuộc tàn sát diệt chủng. Nói chung Hitler và Eichmann đã không đạo đức giả bằng
Mao và Hồ, vì khi ra lệnh đem người Do Thái tới lò hơi ngạt các nhà lãnh đạo Đức
Quốc Xã ít ra cũng đã nhận hoàn toàn trách nhiệm về tội ác của họ. Đàng này các
nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam và Trung Cộng chỉ thích đứng nhìn giai cấp địa
chủ chết một cái chết “tự nhiên” mà xem ra chẳng có ai chịu trách nhiệm trực tiếp.”
(tr.190)
“Đảng đã ấn định trưóc con số địa chủ cần bị đem đấu
tố cực cao—5 lần nhiều hơn đợt đầu (chiến dịch Giảm Tô)—đến độ nếu tha cho những
đảng viên cũ thì con số cần đạt tới sẽ không thể nào đạt được.
“Vì vậy đợt hai đã gây nên sự xô xát nội bộ giữa những
đảng viên cũ phần đông thuộc thành phần tiểu tư sản (tạch tạch sè, tiếng lóng để
gọi thành phần này, chú thich của M.V.) tất cả đều là những người đi theo Cộng
Sản vì nhiều lý do khác chứ không phải vì quyền lợi giai cấp, và các đảng viên
mới gồm những bần nông và bần cố nông không có ruộng cùng với một số những
thành phần xấu và bọn lưu manh du đãng. Những kẻ này chỉ có một lòng tham duy
nhất là giảm mức sống của các thành phần xã hội khác xuống cùng mức thấp của
chúng. Đó lại cũng chính là mục đích của đảng, bởi vì sự xung đột công khai là
cần thiết để thực hiện cuộc tổng thanh trừng. Mà không thanh trừng thì không thể
nào tiến từ vị thế chống thực dân tới vị thế chống phong kiến được. Bằng chứng
là có không biết bao nhiêu đảng viên kỳ cựu bị kết tội phải đi tù hay bị hành
quyết mà đảng không hề can thiệp cho họ. Chỉ mãi đến cuối chiến dịch tướng Võ
Nguyên Giáp mới nhân danh đảng tuyên bố rằng toàn bộ chiến dịch là sai lầm và hứa
sửa sai. (tr. 195-196)
“Sự thú nhận sai lầm và sự cách chức những người có
trách nhiệm đối với phong trào đã khiến nhiều quan sát viên ở ngoài tin rằng những
sai lầm mà họ thú nhận là những lỗi lầm thực sự, và các nhà lãnh đạo Miền Bắc
thành tâm cố gắng sửa sai. Một số ít còn đi xa hơn để kết luận rằng toàn bộ chiến
dịch đã thất bại. Không có gì xa sự thực bằng. Bởi vì cái mệnh danh là chiến dịch
sửa sai chỉ là một mánh lới bịp bợm khác được thêm vào danh sách các cái bịp vốn
đã dài.” (tr. 210)
“Mục đích cuối cùng thực sự đàng sau cuộc CCRĐ là: tập
thể hóa ruộng đất…Để đạt đựơc mục đích cuối cùng đó, các lãnh tụ Cộng Sản đã áp
dụng một câu cách ngôn của Tầu: “Sát nhất nhân vạn nhân cụ”. Trong hoàn cảnh
này, có thể đọc như sau: “Hãy giết vài tên địa chủ ở mỗi làng xã để làm cho toàn
dân trong xã kinh sợ”. Điều này giải thích tại sao mỗi làng lại phải ấn định số
tối thiểu những người phải hành quyết….”
Ngoài ra nó còn có mục đích làm cho nông dân chia sẻ
phần tội-máu với đảng:
“Thực vậy những kẻ tham dự vào các vụ tàn sát trở nên
tổn thương về chính tị và đạo đức nên bó buộc phải đứng về phe với đảng vì sợ bị
trả thù … Mặc cảm tội lỗi này đã ám ảnh tâm trí người nông dân sau vụ thảm sát
khoảng 5% dân số Việt Nam. Và nó đã được mô tả trong văn chương chính thức của
Cộng Sản một cách nhẹ nhàng trại đi là “ ý thức làm chủ vận mệnh bản thân của
nông dân” (trang 212)
“Quả thực đảng đã khuyến khích bạo động cực đoan và
ngoảnh mặt làm ngơ trước mọi lạm dụng mà họ biết trước rằng đó là hậu quả không
thể nào tránh được của chính sách “phóng tay”. Hàng trăm, hàng ngàn người đã bị
giết một cách oan uổng, bị tù đầy và bị bỏ đói cho đến chết mà đảng toàn năng
không hề giơ một ngón tay để cứu giúp. Theo luật định thì bất cứ ai bị án tử
hình đều có quyền xin chủ tịch nhà nuớc ân xá. Nhưng sự thật trần truồng là Hồ
Chí Minh không hề tha một người nào, cả những đảng viên trung kiên vào lúc bị
đao phủ hành quyết miệng còn hô to: “HCM muôn năm” . Tuy nhiên tháng 3,1956 ông
Hồ có ra lệnh tạm ngưng thi hành án tử hình. Nhưng đó là hậu quả của chiến dịch
hạ bệ Stalin khởi phát ở Mạc Tư Khoa trong đại hội kỳ thứ 20 của đảng Cộng Sản
Liên Xô. Những kẻ may mắn được hoãn hành hình, và sau này được thả ra khỏi tù
đã mang ơn tha mạng một cách gián tiếp của Khrushchev, chứ hoàn toàn không phải
của Hồ Chí Minh. “ (tr.213-214)
Tác giả cho biết theo Võ Nguyên Giáp tuyên bố nhân dịp
sửa sai và xin lỗi đồng bào thì nguyên số đảng viên bị đấu tố, kết án rồi bị
giam giữ và sau cùng được phóng thích cũng đã lên tới 12 ngàn người. Ông cũng
trưng dẫn Ngô Đức Mậu, một đảng viên kỳ cựu nói về nỗi đau khổ của mình trong
tù như sau:
“(hồi trước) Khi chúng tôi ở trong những nhà tù tối
tăm ẩm thấp chúng tôi có thể an ủi lẫn nhau…vì có sự khác biệt rất lớn giữa nhà
tù đế quốc và nhà tù của chúng ta. Trong tù đế quốc tôi chỉ bị đau khổ về thể
xác, tâm trí vẫn được an ủi và thư thản… Nhưng bây giờ tôi được đối xử ra sao
trong cái chỗ này? Tôi bị chà đạp dưới chân cả về thể chất lẫn tinh thần. Những
kẻ ở xung quanh tôi coi tôi như kẻ thù… Một đồng chí đồng hương (Hà Tĩnh) với
tôi đã tố cáo tôi những tội do tưởng tượng, biến những thành tích của tôi trong
quá khứ thành tội lỗi. Tôi không được phép nói để tự bào chữa. Người ta tra tấn
tôi ngày đêm để bắt buộc tôi phải nhận đã phạm những tội mà tôi không hề nghĩ tới
chứ âđừng nói phạm.” (tr.215)
Những trang 17-20 đã được dùng để nói tới cái chuyện
tịch thu cả vợ trong trường hợp địa chủ bị hành quyết hay đi tù:
(cước chú 4) Câu này liên quan đến những bà “vợ bị tịch
thu.” Cũng nên ghi nhận là nó có lợi cho những người chồng mới hơn những người
chồng cũ hợp pháp. Và cũng nên ghi nhận là cái được nói đến ở đây như “cuộc hôn
nhân thứ hai” trong văn bản chẳng có gì là hợp pháp cả, vì những cuộc hôn nhân
mới đó đâu có chứng từ gì. Chỉ có cuộc hôn nhân đầu mới hợp pháp.”
Những từ mà tác giả dùng ở đoạn trên, chồng mới chồng
cũ, cuộc hôn nhân thứ hai, thứ nhất là có ý nói đến các bà “vợ bị tịch thu” có
chồng chính thức, cuộc hôn nhân đầu, có hôn thú hẳn hòi; nhưng khi chồng cũ bị
kết án địa chủ rồi bị bắt đi tù, sau xét thấy bị oan cho trở về thì thấy vợ
mình đã bị một đảng viên khác cuỗm mất bèn đi kiện để đòi lại. Nhưng theo cách
hành xử của đảng thì người chồng mới lại có lợi thế hơn chồng cũ.
Hai chiến dịch Giảm Tô và CCRĐ đã phạm phải những sai
lầm nghiêm trọng. Các nhà lãnh đạo Cộng Sản đã trù liệu trước được những sai lầm
đó, nhưng họ cố ý cho nó xảy ra để sau đó sẽ tiến hành kế hoạch sửa sai cũng được
trù liệu từ trước. Tác giả dùng hình ảnh uốn khúc tre cong làm ví dụ. Muốn cho
nó thẳng lại thì phải uốn quá một chút rồi thả ra thì nó sẽ vừa. Nhưng khi thả
ra khúc tre vì được uốn quá xa nên sức bật trở lại quá mạnh làm kẻ uốn bị
thương. Đây chính là hậu quả của việc sửa sai. Nông dân đã lợi dụng chiến dịch
sửa sai này trả thù những kẻ trước kia, trong CCRĐ, đã hành hạ họ. Những kẻ đã
từng vu oan giá họa cho kẻ khác nay đến lượt mình “bị cắt lưỡi, nhét phân vào
miệng”… Ông cũng nói đến trường hợp đông đảo nhân dân vùng dậy tấn công bộ đội,
điển hình là nông dân Ba Làng , Quỳnh Lưu, Nghệ An. Có tới 20 ngàn người võ
trang thô sơ gậy gộc tấn công cả một sư đoàn quân chính quy. (tr. 228) Dĩ nhiên
là cuộc nổi dậy bị dập tắt cũng giống như các cuộc nổi dậy ở Poznan, Balan và
Budapest, Hungary trong những tháng gần đó. Vì gậy gộc làm sao địch nổi súng đạn.
Hơn nữa đó chỉ là một cuộc nổi dậy bộc phát không có tổ chức.
Ngoài nông dân ra những nhà trí thức và văn nghệ sĩ ở
Hànội cũng lợi dụng chiến dịch sửa sai để công kích đảng. Sinh viên thì có tờ
“Đất Mới”. Văn Nghệ sĩ thì có hai tờ “Giai Phẩm” và “Nhân Văn”. Trong số những
người viết cho những tờ báo này có rất nhiều đảng viên trẻ. Đặc biệt là chủ bút
tờ Nhân Văn lại chính là Nguyễn Hữu Đang, một đảng viên kỳ cựu có nhiều thành
tích, thứ trưởng trong chính phủ đầu tiên. Hai người được nói đến một cách trịnh
trọng là luật sư Nguyễn Mạnh Tường và học giả Phan Khôi.
“Giới trí thức thường tự miêu tả như “vợ bé của chế độ”
có ý nói đảng chỉ tán tỉnh ve vãn họ mà không có ý định cưới hỏi đàng hoàng.
“Hôn nhân” là vinh dự rõ ràng chỉ dành cho công nhân và nông dân. Sự khác biệt
giữa “kẻ đáp chăn bông” “kẻ lạnh lùng”, theo kiểu nói Việt Nam, đã được Nguyễn
Mạnh Tường nhấn mạnh trong diễn văn của ông như sau:
“Những người trí thức tham gia Kháng Chiến… đã bị vỡ
mộng một cách đắng cay khi nhận ra rằng đảng không tin họ, bất chấp nhiều hy
sinh họ đã phải chịu vì đảng. Họ đã đòi hỏi quá đáng không? Họ có đòi phải được
làm bộ trưởng, đại sứ không? Không. Họ không đòi hỏi gì cả. Phần đông trí thức
không có tham vọng và sẵn sàng dành những chức tước đó cho những nhà chính trị
và đảng viên. Họ chỉ mong cống hiến khả năng và kinh nghiệm của mình để phục vụ
nhân dân và bảo vệ danh dự và sự tự do tư tưởng của mình mà họ tin là chủ yếu
cho phẩm cách người trí thức.”
HVC đã trích dẫn diễn văn của Hoàng Huệ đọc trước đại
hội Văn Nghệ toàn quốc năm 1956 để nói lên sự khác biệt đối xử giữa những văn
nghệ sĩ thường và giới “cai văn nghệ” của đảng như sau:
“Mọi người đều biết mức sống của chúng tôi thật là tồi
tệ đáng thương….có nhà văn không đủ tiền mua cốc cà phê khi đã thức làm việc đến
khuya. Hơn nữa có những nhà thơ không có tiền mua một điếu thuốc lá. Có trường
hợp nhà viết kịch bó buộc phải “cầm” chiếc đồng hồ để mua thức ăn trong khi viết
cho xong vở kịch, nhưng ngay sau khi vở kịch đã xuất bản vẫn không đủ tiền chuộc
lại chiếc đồng hồ. Hữu Loan bảo chúng tôi anh chỉ có mỗi một điều ao ước là làm
sao có được một cái đèn dầu để có thể làm việc ban đêm trong một caí phòng duy
nhất là nơi anh sống với vợ và lũ con.”
Trong khi đó thì…
“Các cán bộ văn nghệ thắt cà vạt, mang giầy da và
dùng thì giờ đọc diễn văn, dự dạ tiệc với phong cách thô tục lỗ mãng. Ăn rồi họ
thu dọn hành lý đi nơi khác…cuốn theo chiều gió.”
Tác giả cũng nói đến những bài “Người Khổng Lồ” (không
tim) của Trần Duy, “Thi sĩ máy” của Như Mai và đặc biệt là Lê Đạt với
4 câu thơ cuối bài “Ông Bình Vôi”:
“Những người sống lâu trăm tuổi,
Ỳ ra như ông bình vôi.
Càng sống càng tồi,
Càng sống càng bé lại.”
Ai cũng thấy rõ ràng nhà thơ có ý nhắm thẳng vào ông
Hồ. Vì vậy chẳng bao lâu sau khi bài thơ được in ra, người chủ trương là Trần Dần
liền bị bắt.
Về số phận của những văn nghệ sĩ và trí thức bị đi tù
tác giả trưng dẫn mấy câu của một nạn nhân là một diễn viên miền Nam tập kết
tên Hoàng Chương tự thuật lại như sau:
“Chúng tôi ở cách xa những cánh đồng là nơi làm việc
3 cây số. Chúng tôi phải cố gắng hết sức mình để thức dậy thật sớm mỗi buổi
sáng để tránh phải gánh phân ra đồng dưới ánh nắng chói chang. Chúng tôi gánh
trên vai và Thu, một cô gái Hànội, trước kia ít biết gánh gồng là gì, mà bây giờ
có thể gánh tới 20 kí lô (phân tươi)”
Về số phận những văn nghệ sĩ khác tác giả viết:
“Nhiều người trong số trí thức bất hạnh này không bao
giờ trở về và không nghe ai nói đến nữa. Những người cuối cùng được cho phép về
với gia đình đã có nghề mới không còn phải là nghề dậy học, viết văn hay vẽ vời
nữa. Một số lớn được tin là đã tự vẫn.” (tr.239)
Ở những trang cuối sách tác giả đã nói về kết quả tai
hại cuả C.C.R.Đ. và hợp tác hóa nông nghiệp và thương nghiệp tại Bắc Việt, tuy
không nhảy vọt đến nạn đói, nhưng cũng lững thững đi tới cùng một đích đó:
“Về mức sản xuất thịt gia súc đã có sự giảm sút tương
tự (như Trung Quốc, chú thích của soạn giả). Theo tờ Nhân Dân ngày 7 tháng 5
năm 1962, thì mức tiêu thụ thịt tính theo đầu người là 6,2 kí lô và vải sợi là
4,8 mét. Như vậy nếu con số đó là đúng thì một người Việt Nam trung bình đã ăn
mỗi ngày 17 gram thịt, và quanh năm chỉ mặc độc có một bộ bà ba. Nhưng theo những
người lính Pháp từ Việt Nam về quê vào tháng 12 năm 1962, sau khi đã đào ngũ
sang với Việt Minh trong thời chiến, thì khẩu phần nói trên chỉ người dân thành
thị mới có được, chứ không có phần cho nông dân.”
Tình trạng đó là hậu quả có thể biết trước của hai cuộc
cải cách ruộng đất và công cuộc tập thể hóa kéo dài suốt một thập niên sau đó.”
(trang 242-243)
Qua những lời trích dẫn trên tôi thấy tác giả là người
nhìn thấu tâm địa độc ác của các lãnh tụ Cộng Sản miền Bắc, và cũng am hiểu phần
nào mưu mô xảo quyệt và kỹ thuật lật lọng, lá mặt lá trái của họ. Nhưng không
hiểu sao ông lại đi đến kết luận lên án nặng nề chế độ đệ nhất Cộng Hòa của Nam
Việt Nam lúc ấy (lúc ông viết xong cuốn sách vào giữa năm 1963). Ông cũng buộc
tội các cường quốc Tây Phương là ủng hộ một chế độ “cực kỳ phản động” như vậy.
Và ông tán thành hành động chống đối của nhóm Phật Tử quá khích do thượng tọa
Thích Trí Quang cầm đầu khi ông viết:
“Nhưng có một điều hiện ra rõ rệt. Đó là Phật Giáo với
triết lý Bao Dung có vẻ là một lực lượng ngủ, không chính khách nào cần để ý tới,
nay dường như sẽ có thể đóng một vai trò quyết định cho cuộc thống nhất tương
lai của Việt Nam.” (trang 244, áp chót)
Không rõ ông HVC có còn sống đến ngày nay để xem kết
quả sự đóng góp của cái gọi là Phật Giáo Ấn Quang của thượng tọa Thích Trí
Quang vào việc thống nhất Việt Nam nó bi đát đến thế nào không. Đúng là nó đã
giúp Việt Cộng thống nhất Việt Nam đấy. Và cho đến nay vị thượng tọa lãnh đạo”Phật
Giáo” kia chẳng hề làm gì hay nói gì để chống đối Cộng Sản đang bóc lột và kìm
kẹp nhân dân Việt Nam, trong khi bao Thượng toạ khác bị tù đầy áp bức cùng với
các vị lãnh đạo tinh thần và tín hữu các tôn giáo khác.
Lời kết luận trên có lẽ được viết giữa 1963, lúc ông
đã ở ngoại quốc và nhìn tình hình qua nhãn quan của một số ký giả thiên Cộng
hay có thành kiến, ác cảm với Việt Nam Cộng Hòa. Nếu ông viết cuốn sách vào lúc
này thiết nghĩ ông sẽ có một kết luận khác.(13)
Chú Thích:
(1) SĐD trang 29
(2) SĐD trang 32
(3) SĐD trang 51
(4) SĐD trang 18
(5) SĐD trang 50
(6) SĐD trang 117
(7) SĐD trang 119-120
(8)SĐD trang 121-122
(9)SĐD trang131-132
(10)SĐD trang 147
(11)SĐD trang 146
(12)SĐD trang 158
(13) Chỉ còn ba ngày nữa đưa in soạn phẩm này, tình cờ
tôi được đọc bản dịch của Mạc Định: “Từ Thực Dân Đến Cộng Sản”. Dịch giả nói bản
dịch của ông đã được tác giả (cũng chính là tác giả) xem lại, sửa chữa và viết
hẳn lại chương cuối. Thì ra đúng tác giả đã xét lại lập trường của ông và không
còn thấy những lời kết luận như trong nguyên bản tiếng Anh nữa.
Chương 2
Hoàng Minh Chính và Chủ nghĩa Xét Lại Việt
Nam
Chủ Nghĩa Xét Lại (“revisionism”) là thái độ hay
xu hướng của một số người theo hay chống Mác muốn xem xét lại học thuyết Mác,
đường lối của đệ tam quốc tế, cách cai trị của chính quyền Cộng Sản trong một
nước xem nó có còn phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn trên thế giới và trong các
điều kiện hiện có trong nước hay không.Người đầu tiên chủ trương xem xét lại học
thuyết Mác ở cuối thế kỷ 19 là Eduard Bernstein (1850-1932), một sử gia, lý
thuyết gia về chính trị và là người cổ võ cho chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Đức.
Ông bác bỏ thuyết của Mác về giá trị lao động, kinh tế chỉ huy và đấu tranh
giai cấp. Ông cũng không chấp nhận những lời tiên đoán của Mác về sự sụp đổ đến
nơi của chủ nghĩa tư bản.
Nhóm từ “Chủ nghĩa xét-lại” cũng được các người Cộng
Sản bảo thủ dùng để gọi chủ trương hay thái độ và việc làm của một vài lãnh tụ
Cộng Sản dám hành động trái với những giáo điều Mắc Xít hay những chính sách,
đường lối Lê-ninít vốn được tôn thờ từ trước hay áp dụng từ trước trong các nước
Cộng Sản. Họ thường thêm tính từ “hiện đại” đi kèm:“Chủ nghĩa xét-lại hiện đại”
Lãnh tụ Cộng Sản chủ trương xét lại trước tiên là thống
chế Josip Broz Tito (1892-1980), tổng thống Nam Tư. Ngay khi còn là thủ tướng
(1948) ông đã có can đảm đưa nước ông thoát ra ngoài ảnh hưởng của quốc tế Cộng
Sản do Liên Xô lãnh đạo, để áp dụng một chính sách ngoại giao trung lập và một
nền nội trị tương đối cởi mở hơn các nước khác trong khối Xô Viết.
Lãnh tụ Cộng Sản thứ hai chủ trương “xét lại” là
Nikita Khrutshchev (1894-1971), tổng bí thư (danh xưng chính thức lúc ấy là “bí
thư thứ nhất “) đảng Cộng Sản Liên Xô, kiêm thủ tướng Liên Bang Sô Viết, (người
nổi tiếng do hành động rút giầy ra đập trên bàn hội nghị Liên Hiệp Quốc và việc
gửi hỏa tiễn cho Cuba rồi lại rút về dưới áp lực tối hậu thư của tổng thống Mỹ
Kennedy). Ông đã thực hiện chủ trương này một cách thực tế bằng việc hạ bệ
Staline tại đại hội đảng Cộng Sản XX của Liên Xô vào năm 1956, khui ra những lỗi
lầm nghiêm trọng của đảng Cộng Sản Liên Xô suốt trong thời gian Staline cầm quyền
và cố đổ hết lên đầu Staline, biến nhà độc tài khát máu này thành con dê tế thần
để cứu nguy cho đảng và chính thể Xô Viết. Chính sách hòa hoãn với Tây Phương
và cởi mở đôi chút của ông đã gián tiếp dẫn tới sự nổi loạn của nông dân ở
Poznan, Ba Lan và ở Budapest, thủ đô Hungary (++ ) khiến cũng chính ông phải ra
tay đàn áp và cũng vì thế phe bảo thủ đã làm áp lực cố buộc ông từ chức. Nhưng
ông đã đứng vững được hơn 8 năm nữa. Năm 1964 ông bị hạ và trở về sống cuộc đời
ẩn dật, đen tối, cực khổ cho đến chết. Đám tang ông chỉ có lèo tèo vài người
thân trong gia đình.
Người Cộng Sản thứ ba chủ trương “xét lại” là Mikael
Gorbachev, tổng bí thư Liên Xô từ 1985 đến 1991. Ông là cha đẻ của Glasnost và
Perestroika (Cởi Mở và Tái Cấu Trúc), chủ trương và thực hiện cải cách về kinh
tế và hành chánh. Sẵn có óc tổ chức và cải cách ông đã mạnh bạo dấn thân vào
con đường đổi mới và đi những đường ngoại giao đầy sáng tạo. Ông đã hội kiến và
thương thảo với những vị lãnh đạo tinh thần và chính trị có uy tín nhất thế giới
đương thời như đương kim giáo hoàng La Mã John Paul II và các vị tổng thống Hoa
Kỳ Ronald Reagan, George Bush. Những vị này đã ảnh hưởng nhiều đến quyết tâm của
ông nhằm dân chủ hóa dần dần cơ cấu và guồng máy chính quyền Xô Viết.
Phe bảo thủ trong đảng Cộng Sản Liên Xô đã tìm cách lật
ông bằng một cuộc đảo chính trong lúc ông không có mặt ở thủ đô Liên Xô. Nhưng
nhờ có những người đồng chí cùng lòng quyết tâm đổi mới không muốn trở lại con
đường chuyên chính sắt máu, nhất là nhờ sự dũng cảm của Boris Yeltsin ông đã lật
lại thế cờ. Nhưng trớ trêu là trong quá trình bầu cử tự do đầu tiên được thực
thi sau hơn 7 thập kỷ độc tài, ông đã mất quyền lãnh đạo không những Liên Xô,
mà ngay chức tổng thống Liên Bang Nga cũng rơi vào tay người cùng phe với ông
đã trở thành đối thủ về chính trị. Nền dân chủ của Nga ngày nay là nhờ ông mới
có, mặc dù những người Cộng Sản còn nuối tiếc chế độ độc tôn cũ gán cho ông cái
tội đem nền kinh tế của Liên Bang Nga vào ngõ cụt.. Nhưng công bình mà nói thì
phải nhận rằng nền dân chủ của nước Nga và sự cáo chung của chiến tranh lạnh là
nhờ Gorbachew. (Nhờ thế ông đã được nhận Giải Thưởng Nobel về hòa bình) Còn
tình trạng rối reng về nội trị và sự suy sụp về kinh tế hiện nay ở Nga, một phần
do sự kém cỏi của các nhà kinh tế trong chính quyền của tổng thống Boris
Yeltsin, và phần nào cũng do thế giới tự do, nhất là những nước giầu có không
viện trợ đủ cho Nga, trong lúc nền kinh tế xứ này đã bị phá hủy hoàn toàn bởi
chính sách tập thể hoá nông nghiệp và thương nghiệp trong 7 thập niên. Nền kinh
tế tập thể chỉ huy đó đã làm cho người dân quen với thói ỷ lại, thiếu sáng kiến,
nay bước sang giai đoạn kinh tế thị trường không quen, thiếu kinh nghiệm. Nhưng
dầu sao thì người ta vẫn có cớ (nhưng chưa hẳn có lý) để đổ lỗi cho Boris
Yeltsin và gián tiếp cho Gorbachev.
Người Cộng Sản Việt Nam đầu tiên có tư tưởng xét lại,
có can đảm, vị thế và cơ hội để triển khai tư tưởng đó thành những đề xuất thực
tiễn có thể nói là Hoàng Minh Chính. Chỉ tiếc là ông không làm được gì giống
như 3 nhân vật vừa nêu. Và thân phận ông cứ lận đận mãi. Cho đến nay ông đã vào
tù ra khám 3 lần tổng cộng 12 năm rồi, không kể những năm bị quản chế. Chẳng những
khổ cái thân ông mà còn liên lụy đến nhiều đảng viên Cộng Sản khác đã từng tán
thành hay bênh vực ý kiến “xét lại” của ông.
Ông Chính không phải là người xướng xuất chủ nghĩa
xét-lại. Ông chỉ là người lợi dụng lúc có phong trào xét lại ở Liên Xô do
Nikita Khrutshchev lãnh đạo để nêu lên những ý kiến riêng của mình mà ông đã gậm
nhấm nhiều năm từ khi du học ở Liên Xô và được nhồi sọ học thuyết Mác Lê để rồi
một ngày kia dám nhận ra rằng cái học thuyết đó có gì không ổn. Muốn hiểu rõ
nguyên nhân có phong trào xét lại ở Việt Nam và dự đoán xem nó có đi đến đâu
không, tưởng cũng nên biết thêm về con người Hoàng Minh Chính và ảnh hưởng của
Liên Xô và Trung Cộng đối với đảng Cộng Sản Việt Nam vào những năm 50 và 60,
cũng là thời kỳ có các chiến dịch “Giảm Tô” và “Cải Cách Ruộng Đất” long trời lở
đất dưới sự điều khiển trực tiếp của các cán bộ Trung Cộng.
Hoàng Minh Chính (sinh năm 1920) tên thật là Trần
Ngọc Nghiêm, nguyên quán làng Thượng Lao, huyện Nam Trực tỉnh Nam định (1).
Ông gia nhập đảng Cộng Sản khi mới 19 tuổi và người giới thiệu ông là Lê Đức Thọ.
Về sau cũng chính Lê Đức Thọ ký giấy tống giam ông. Nhờ có công trong kháng chiến
chống Pháp (đã từng cầm đầu quyết tử quân tấn công sân bay Bạch Mai, phá hủy được
một số máy bay, và bị thương), ông được đảng cử đi học ở Liên Xô từ năm 1957 đến
1960. Năm 1961 được cử giữ chức viện trưởng viện Triết Học trong 5 năm. Ông
cũng từng giữ nhiều chức vụ quan trọng khác như tổng thư ký đảng Dân Chủ, bí
thư “Đoàn thanh niên Việt Nam”. Lần đầu tiên ông bị bắt giam từ tháng 7 năm
1967 đến 1972. Lần thứ hai từ 1981 đến 1987. Lần thứ ba từ 1995 đến 1996.
Nắm chức viện trưởng viện Triết Học, giảng viên rồi
chỉ huy phó trường đảng Nguyễn Ái Quốc, lại được tổng bí thư đảng Trường Chinh
trao nhiệm vụ soạn thảo những diễn văn quan trọng, HMC có thể được coi như một
trong những lý thuyết gia của Miền Bắc lúc ấy. Sở dĩ phát sinh cái gọi là “vụ
án xét lại chống đảng” khiến ông và một số người khác trong đó mấy tướng lãnh
thân Võ Nguyên Giáp bị bắt là do sự xung đột giữa Liên Xô và Trung Quốc sau đại
hội 81 đảng Cộng Sản thế giới họp tại Mạc Tư Khoa vào cuối năm 1960. Sau khi hạ
bệ Stalin trong đại hội 20 (năm 1956) của đảng Cộng Sản Liên Xô, Khrutshchev chủ
trương đường lối “Các nước không cùng lập trường chính trị có thể sống chung”,
đồng thời đặt nhẹ đấu tranh giai cấp và đấu tranh giải phóng các dân tộc. Nghĩa
là, một cách vắn tắt, không còn tin ở thuyết dùng bạo lực lập chuyên chính vô sản
trên toàn thế giới của Mác và Lê-nin nữa. Tại đại hội 81 đảng Cộng Sản và công
nhân thế giới phái đoàn Trung Cộng đã phê bình chủ trương này. Phải khó khăn lắm
hai nước đàn anh trong khối Cộng mới đi được tới chỗ dung hoà để ra một thông
cáo chung đại ý “cùng sống chung hòa bình với Tây Phương nhưng đồng thời các
phong trào giải phóng dân tộc vẫn có quyền tiến hành đấu tranh riêng để giành dộc
lập.” Nhưng chỉ được một năm thì sự dung hòa gượng gạo này tỏ ra thất bại vì
Trung cộng và cả An Ba Ni (2) bắt đầu đả kích đường lối của
Khrutshchev cho rằng nó đi sai trệch chủ nghĩa Mác. Những tranh chấp về lãnh thổ
ở biên giới hai nước lớn càng đào sâu thêm hố chia rẽ, đẩy hai nước Cộng Sản
đàn anh vào thế đối địch gay go.
Bắc Việt là một chư hầu nhỏ cần viện trợ của cả Liên
Xô lẫn Trung Cộng, Liên Xô thì là “đại ca”, còn Trung Cộng thì là nước láng riềng
lớn, “như răng với môi”, cảm thấy mình bị kẹt ở giữa. Ông Hồ đã khéo léo đi
giây ở giữa hai thế lực trong một thời gian. Cho đến khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm
bị lật đổ ở miền Nam thì đảng Cộng Sản Việt Nam muốn nhân dịp miền Nam rối loạn
tiến hành chính sách tốc chiến tốc thắng để chiếm trọn cả nước. Những kẻ thân
Mao lý luận rằng Mỹ hạ ông Diệm là để có thể đem quân tác chiến vào. Nếu không
tranh thủ lúc quân Mỹ chưa tới mà tốc chiến tốc thắng thì sẽ phải đương đầu với
võ khí tối tân của Mỹ và có thể bị tiêu diệt. Chủ trương này được biểu quyết
thông qua trong khóa họp thứ 9 của ủy ban trung ương đảng vào cuối tháng 11, đầu
tháng 12 năm 1963 (một tháng sau cuộc đảo chính lật ông Diệm) và được giữ kín
hoàn toàn. (Tuy nhiên rồi sau bên ngoài cũng biết được nội dung của nghị quyết
số 9 được biểu quyết trong kỳ họp thứ 9 này. Đó là nhờ Quân Lực Việt Nam Cộng
Hoà tịch thu được trong một cuộc đột kích vào một mật khu Việt Cộng là nơi có mặt
cán bộ cao cấp từ Hànội vào.) Lập trường mới này dứt khoát ngả theo Trung Quốc
chống lại chủ nghĩa “xét lại” của Khrutshchev. Dân miền Bắc lúc ấy ai có radio
thì được biết phần nào qua đài Bắc Kinh phần Việt Ngữ. Những nhà trí thức cũng
qua đài này nhận ra sự rạn nứt trong khối Cộng Sản Quốc Tế. Và họ muốn ngả theo
Liên Xô vì cho rằng theo đường lối xét lại của Khrutshchev sẽ tránh được chiến
tranh với siêu cường Mỹ.
Khi Hoàng Minh Chính được trao nhiệm vụ soạn thảo báo
cáo chính trị trong hội nghị 9 cho Trường Chinh, ông ta đã viết theo luận điệu
của Khrutshchev nên bài của ông không được chấp nhận. Tuy nhiên vì ỷ thế, hoặc
vì liều lĩnh ông ta đã phân phát bài của mình cho một số đại biểu dự hội nghị.
Dĩ nhiên có một số nghe theo và chấp nhận lập trường của ông cho nên mới có cái
gọi là “vụ án xét lại chống đảng” trong đó có khoảng 200 người liên lụy, (3) kể
cả cựu ngọai trưởng Ưng Văn Khiêm, các tướng Đặng Kim Giang, Lê Liêm, là hai tướng
thân cận của anh hùng Điện Biên, tướng Võ Nguyên Giáp. Không kể cấp nhỏ hơn như
các đại tá Đỗ Đức Kiên, Lê Minh Nghĩa, Nguyễn Minh Nghĩa.
Sở dĩ Hoàng Minh Chính dám phổ biến tư tưởng của
mình, vì ông quá tự tin. Chẳng những chính ông đã chứng kiến trên 70 đảng trong
số 86 đảng Cộng Sản trên toàn thế giới (4) đã hoàn toàn ủng hộ lập
trường “xét lại” của Khrutshchev, mà ông còn được chính Trường Chinh, lý thuyết
gia số một của Việt Nam lúc ấy cũng tán thành ý kiến của ông, và như sau này
ông cho nhà báo Balan Jacek Hugo Bader biết là có gần nửa số ủy viên bộ chính
trị cũng tán thành, kể cả ông Hồ Chí Minh (!) (5)
Hoàng Minh Chính bị bắt ngày 27-7-1967, sau khi phổ
biến tập tài liệu dầy trên 200 trang tựa đề “Về chủ nghĩa giáo điều ở Việt
Nam”. Có khoảng 200 người khác cũng bị bắt và giam ở những vùng xa xôi biệt lập
hoàn toàn không được tiếp xúc với thân nhân. Trong số những người bị giam có cả
cha con ông Vũ Đình Hùynh, đã từng là bí thư của Hồ Chí Minh. Chúng tôi sẽ có một
chương nói về con ông Hùynh là Vũ Thư Hiên với tác phẩm “Đêm Giữa Ban Ngày”.
Ngoài Hoàng Minh Chính coi như đầu vụ, sau đây là
danh sách một số nhân vật quan trọng khác có dính líu vào cái gọi là vụ án xét
lại chống đảng đã từng bị sát hại một cách bí mật, đầy nghi vấn, bị kỷ luật, bị
bắt giam hay bị cô lập, canh chừng theo dõi một cách bí mật mà ai cũng biết,
chưa kể những người khác bị giam giữ ở những nơi hẻo lánh, bí mật chưa phát hiện
ra:
Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị bị đẩy
ra khỏi bộ chính trị từ đại hội đảng kỳ 3. Đặng Kim Giang, thiếu tướng, Lê Liêm
thứ trưởng bộ văn hóa, đều là thân cận với Võ Nguyên Giáp từ Trận Điện Biên Phủ,
Nguyễn Văn Vịnh, thứ trưởng bộ quốc phòng, Trần Minh Việt, phó bí thư thành ủy
Hà-nội, Bùi Công Trừng phó chủ nhiệm Ủy Ban Khoa Học nhà nước, Ung Văn Khiêm, ủy
viên trung ương đảng, bộ trưởng Ngoại giao, Phạm Viết, đại tá Lê Trọng Nghĩa,
thượng tá Hoàng Thế Dũng, Phạm Kỳ Vân , Lưu Động, Trần Châu, Trần Đĩnh, Trần
Thư, Mai Hiến, Mai Luân, Đặng Đình Cần,Nguyễn Gia Lộc, Phùng Văn Mỹ, Vũ Huy
Cương vân vân…danh sách này còn dài…Chưa kể 40 người lúc ấy đang ở Liên Xô xin
tỵ nạn ở lại và bị khai trừ, trong số đó có Nguyễn Minh Cần, đại tá Lê Vinh Quốc,
thượng tá Văn Doãn…v.v.
Năm 1972 HMC được thả, nhưng bị quản thúc tại gia cho
đến năm 1976. Năm 1981 ông làm đơn khiếu tố về vụ án của ông và lại bị bắt giam
6 năm rồi bị quản chế thêm 3 năm cho đến 1990. Ông đã kể lại cảnh tù tội khốn
khổ của ông trong thời gian này trong bức thư ngỏ ngày 27-8-1993 như sau:
“Đòn đánh lần này tàn bạo gấp bội lần trước. Nhà tù
giam mỗi một mình tôi (biệt giam ở Hải Hưng) có trên 20 sĩ quan công an từ cấp
úy đến cấp tá canh gác ngày đêm, không rời mắt một giây phút. Họ tuyên bố thẳng
với tôi rằng: “chúng tôi được phép hành hạ anh.” Có tên nói: “Tôi sẽ giết anh,
tay tôi đã từng vấy máu. Anh là tên phản cách mạng!” Rồi họ dùng biện pháp gây
tiếng ồn, phá giấc ngủ ban đêm, gây bệnh ỉa chảy liên tục bằng cách bỏ ruồi nhặng
vào canh, cho thức ăn ôi, khi lâm bệnh thì hăm không cho thuốc uống, cứ liên tục
như vậy… Rồi họ đầu độc tôi hai đợt bằng cách cho thức ăn có hóa chất độc, gây ốm
mê man, miệng nôn trôn tháo, bụng quặn đau, toàn thân run rẩy suốt tuần (có bác
sĩ khám chứng nhận đúng là bị ngộ độc thức ăn). Một lần tôi bị 5 tên công an lực
lưỡng xông tới bẻ quặt tay, nắm tóc, buộc giẻ bịt miệng rồi bóp cổ tôi chết ngất.
Mục tiêu duy nhất của họ là hủy hoại sức khỏe, tiêu diệt ý chí phản kháng, buộc
“phải cúi đầu, quỳ gối nhận tội’ như lời hai sĩ quan tay sai của ông Lê Đức Thọ
đã thét vào mặt tôi (Tên chúng là Nguyễn Ngọc Nghị và Hoa Văn Lan). Hai lần tù
giam cộng 11 năm và 9 năm quản chế tiếp liền sau đó, tổng cộng 20 năm tù đầy và
quản chế, với tất cả những nhục hình và hành vi nhục mạ xúc phạm nhân phẩm. Cuối
cùng họ đành chịu thất bại hoàn toàn.”
Sau khi được thả năm 1987, rồi bị quản chế thêm 3 năm
nữa, HMC đã viết tập “Bệnh ấu trĩ” phê bình đảng đã tiếp thu những tư tưởng
giáo điều của cả Stalin lẫn Mao Trạch Đông. Và đến khi bức thư ngỏ đề ngày
27-8-1993 thì nhà cầm quyền đã tìm mọi biện pháp để canh chừng, gài bẫy hòng bắt
giữ ông. Khi cuộc phỏng vấn của HMC dành cho nhà báo Balan Bader được đăng trên
tờ Gazeta Wyborcza ngày 21-4-1995 đến tay các nhà lãnh đạo Hà-nội, họ liền quyết
định dùng biện pháp mạnh với HMC.
Ngày 13-6-1995 ông lại bị bắt lần nữa. Công an đã cho
vợ ông, bà Lê Hồng Ngọc, tên thật là Nguyễn Thị Thanh Yến biết ông bị bắt căn cứ
các điều 205 và 82 của bộ luật hình sự. Cụ thể là vì “thí dụ như việc liên lạc
với tên Đỗ Trung Hiếu, một phần tử xấu, một tên phản động.” Công An cũng trấn
an bà là ông Chính chỉ bị tạm giam 4 tháng và sẽ được ra tòa để trả lời về hành
động của ông. Bà Ngọc đã đi khắp Hà-nội tìm luật sư bào chữa cho chồng nhưng ai
cũng nói: “Vụ này do trung ương đảng chủ trương, chúng tôi không dám dây vào”
Bà Ngọc đã tỏ ý mong các luật sư Việt Nam ở hải ngoại
bào chữa cho chồng. Vì bài phỏng vấn của Hoàng Minh Chính dành cho nhà báo
Bader đã được phổ biến ở nước ngoài, nên lần này ông đã được nhiều tổ chức nhân
quyền ở hải ngoại lên tiếng đòi nhà cầm quyền phải trả tự do cho ông. Tại thành
phố Bonn, Đức Quốc, đã có gần một trăm người thuộc 13 tổ chức của người Việt tại
đây biểu tình trước tòa đại sứ Việt Cộng để phản đối phiên tòa xử Hoàng Minh
Chính và Đỗ Trung Hiếu. Ở Pháp có luật sư Antoine Conte tình nguyện sang Việt
Nam bào chữa cho Hoàng Minh Chính và Đỗ Trung Hiếu trước phiên tòa (được ấn định
vào ngày 8-11-1995). Nhưng đơn xin nhập cảnh của luật sư không được cứu xét.
Ông Chính cũng yêu cầu tòa chấp thuận cho 4 luật sư khác ở trong nước cố vấn
cho ông để ông tự bào chữa. Đó là các ông Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Thành Vĩnh,
Hoàng Nguyên, Lê Hồng Hà. Nhưng không được tòa chấp thuận. Trái lại tòa chỉ định
luật sư Vũ Thiện Kim đứng ra bào chữa. Ông Chính không nhận. Trong phiên tòa
ông bị kết án một năm tù.
Hoàng Minh Chính nói gì với ký giả Ba Lan Bader, và
viết gì trong bức thư ngỏ? Sau đây chúng tôi chỉ nêu vài điểm quan trọng:
1. Trả lời phỏng vấn:
“Lúc đó (1946) chẳng có ai nói đến chủ nghĩa Mác cả.
Người ta chỉ nói đến cuộc chiến đấu vì dân tộc. Trong đơn vị tôi không có một
cơ sở đảng nào cả”
“Tất cả những gì tôi nói (đầu 1964) người ta cho là
chủ nghĩa xét-lại kiểu mới. Tôi nói như Khrutshchev rằng để tiến lên chủ nghĩa
xã hội không cần phải đấu tranh bằng bạo lực, mà bằng hợp tác kinh tế giữa các
nước anh em, mở cửa ra thế giới, ra tư bản. Tội lớn nhất của tôi, theo họ là định
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội không cần chuyên chính. Họ căm thù tôi vì lẽ đó”
Khi Hoàng Minh Chính nói sau thế chiến hai ở Âu Châu,
cụ thể là Balan, Tiệp Khắc, Hungary chủ nghĩa xã hội đã được đưa vào bằng con
đường nghị viện (hòa bình), thì Bader bảo: “Ông hoàn toàn sai rồi.” Hoàng Minh
Chính thú nhận:
“Ấy, nhưng lúc đó là lý luận của tôi hồi 1960 để thuyết
phục họ đừng sử dụng bạo lực để giải phóng miền Nam. Thời điểm đó số phận miền
Nam được định đoạt. Chiến tranh chưa bung ra. Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo
miền Nam, ở đó tương đối yên ổn. Các đồng chí của tôi muốn quan hệ hòa bình.
Chúng tôi không chủ trương dựng bức màn sắt. Mỗi cuộc chiến tranh là một sai lầm.
Tôi cảm thấy chủ nghĩa Ghandi là hợp với tôi hơn cả.”
Bader: Và ông nói công khai điều đó?
HMC:
“Vâng. Và phe chủ hòa thậm chí có vẻ như sắp thắng…
“Lê Duẫn là nhân vật số hai, nhưng trong thực tế thì
nắm toàn bộ quyền lực…”Khi đó ông Hồ…đứng sang một bên và luôn nhắc câu: “Ném
chuột không được làm vỡ bình quý.” …Ông ấy yếu không quyết đoán, và dễ lung
lay, không có vai trò thực. Như thế từ năm 1963 cho tới lúc ông ấy qua đời năm
1969.”
Về quyết định tấn công miền Nam của Lê Duẫn, HMC nói:
“Một quyết định rất ngu dốt. Đất nước cần được thống
nhất bằng con đường hòa bình.”
Bader: “Nhưng xem ra toàn dân chấp nhận chiến tranh.
HMC: “Nhân dân ư? Ai hỏi ý kiến nhân dân? Đảng
là tất cả.
Bader: “Vậy thì không phải người Mỹ mà là chính quân
Bắc Việt Nam là kẻ xâm lược.
HMC: “Điều đó nên để các nhà sử học phán xét.”
Trong cuộc phỏng vấn này, HMC cho biết ông đã thôi
không còn là người Cộng Sản nữa kể từ khi ông theo học về chủ nghĩa Mác –
Lê-nin ở Mạc Tư Khoa và “suốt ba năm rưỡi khi tôi làm viện trưởng (viện Nghiên
cứu chủ nghĩa Mác Lê-nin), viện là nơi có tự do dân chủ nhất. Tôi tuyên truyền
tư tưởng (mà người ta cho là) xét lại.”
Ông cũng cho biết điều ông ghê tởm nhất là: đấu tranh
giai cấp và chuyên chính vô sản. Ông chủ trương “mọi sự phải công khai”, ông
không hoạt động gì bí mật. Ông chống mọi biện pháp bạo lực cũng giống như ông
chống Cộng Sản. “Tôi không chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản cũng như những phương
pháp bạo lực”. Như vậy ông cũng không tán thành những tổ chức bí mật chống Cộng
bằng bạo lực.
2. Bức thư ngỏ:
Bức thư đề ngày 27-8-1993. Gửi tòa án tối cao, quốc hội,
trung ương đảng, mặt trận Tổ Quốc, hội luật gia, các cơ quan truyền thông và bạn
hữu. Nội dung gồm có 5 mục:
A. Hành động áp chế, phi pháp của lãnh đạo:
“Nhiều chục, nếu không nói là cả trăm người trong và
ngoài đảng bị đàn áp vì có những tư tưởng mới, cấp tiến.” “…Vì bị hành hạ dã
man, có người đã chết trong ngục (thí dụ ông Phạm Viết), hoặc cho rời nhà tù để
về chết ở nhà (thí dụ ông Phạm Kì Vân), hoặc chết vì quá suy nhược trong tù đày
liên tiếp vì đói khổ, thiếu thuốc men, bị o ép tinh thần, chết ngoài lề xã hội,
mang hận trong lòng sang thế giới bên kia (như các ông Đặng Kim Giang, Lê Liêm,
Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Vịnh, Trần Minh Việt…)”
Ông viện dẫn những điều 7, điều 11 trong pháp lệnh
tháng 11 năm 1981, và pháp lệnh khiếu tố năm 1992 để chứng minh rằng Lê Đức Thọ
đã không coi luật pháp ra gì vì ông ta nhân danh đảng. Mà đảng thì đứng trên và
ngoài vòng luật pháp.
“Tại sao có chuyện cực kỳ phi pháp và phi đạo lý như
vậy? Mà chuyện đó lại được coi là lẽ đương nhiên! Điều đó chỉ có thể giải thích
được bởi một lẽ duy nhất: Tất cả các cơ quan nhà nước từ cấp trung ương xuống đến
cơ sở đều phải đặt dưới quyền lãnh đạo của cấp ủy đảng là cấp toàn quyền, tiên
quyết và quyết định tối hậu tất cả. Điều đó lại được pháp chế hóa bằng điều 4 của
hiến pháp năm 1980. (Hiến pháp năm 1992 vẫn giữ nguyên điều 4 đó).
B. Về nguồn gốc vụ án xét lại, HMC đã nói đến hội
nghị 9 của trung ương đảng cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1963, và nghị quyết 9
theo sau đó. Một nghị quyết được coi là tuyệt mật trong một thời gian dài:
“Điều quan trọng nhất là phải được nghe lời giải
thích về điều ẩn giấu của nghị quyết 9 không được ghi trên văn bản mà chỉ được
phổ biến bằng miệng từ cấp trung ương rồi truyền miệng xuống tới tận cơ sở.
Chính những lời truyền miệng đó mới là thực chất, nội dung, linh hồn sâu kín nhất
của nghị quyết 9. Tấm màn bí mật ấy được vén lên bởi ông Trường Chinh, ủy viên
bộ chính trị, trưởng ban phổ biến nghị quyết 9 của trung ương. Tại hội nghị các
cán bộ cao cấp và trung cấp gồm chừng 400 người họp lần đầu tiên tại hội trường
Ba Đình trong tháng giêng năm 1964 để học tập nghị quyết 9. Ông Trường Chinh
tuyên bố: “Các đồng chí cần đặc biệt lưu ý một điều là nghị quyết 9, do tình
hình phức tạp trong phong trào Cộng Sản quốc tế, không thể viết hết ra những điều
cần nói. Cần đặc biệt lưu ý là thực chất của nghị quyết 9 chỉ có thể phổ biến bằng
miệng, điều đó là: Đường lối đối nội, đối ngoại của đảng và nhà nước ta là thống
nhất về cơ bản với đường lối đối nội đối ngoại của đảng và nhà nước Trung Quốc.”
“Sau đó ít lâu, ông Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức
trung ương tuyên bố với cán bộ rằng: “Chống chủ nghĩa xét-lại hiện đại, về mặt
lý luận ta để cho đảng Cộng Sản Trung Quốc làm, còn về mặt tổ chức thì ta tự
làm lấy.”
C. Trong phần 3 này HMC nêu lên các biến cố ở Đông
Âu, Liên Xô và cả đường lối mềm dẻo của Trung Quốc, cũng như những thay đổi hiện
nay ở Việt Nam để khẳng định rằng:
“Như vậy thực tế của Việt Nam hiện nay đã vượt xa các
quan điểm xét lại thuộc thập kỷ 60 của những người xét lại ở VN.”
D. HMC nói về trường hợp ông đã tán thành chủ trương
của Khrutshchev ra sao. Ông cũng nói chính Trường Chinh trao cho ông chuẩn bị
văn kiện đi dự đại hội 81 đảng Cộng Sản ở Liên Xô, và lúc ấy phái đoàn đảng Cộng
Sản Việt Nam đã chấp thuận đường lối của ông. Chỉ cho đến khi có nghị quyết 9
người ta mới đổi lập trường ngả theo Trung Quốc và kết tội ông là xét lại, bắt
giam và quản chế ông tổng cộng 20 năm. Trong thời gian đó ông chịu đủ thứ cực
hình. Nhưng họ không làm ông khuất phục để nhận tội.
E. Trong phần kết luận HMC nêu lên 7 điểm. Chúng
tôi chỉ trưng dẫn mấy hàng của điểm 3 và điểm 7:
“Nếu Bộ chính trị và ban chấp hành trung ương kết tội
những người trong vụ án xét lại chống đảng thì, công bằng mà nói, phải tự kết tội
mình trước đã.”
“Việc …đảng từ bỏ giữa chừng quan hệ quốc tế đứng đắn
được nêu trong tuyên bố 81 đảng (đã được đồng thuận ký kết), mà nhảy ngang sang
dòng nước ngược giáo điều bảo thủ, duy ý chí, Mao-ít cực đoan là một sự thụt
lùi ghê gớm. Nó đã đẩy đất nước vào cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng, triền
miên suốt nhiều thập kỷ liền mà hiện nay nhân dân ta đang phải trả giá đau đớn
khốc liệt bằng chính xương máu của mình.”
“Cuối cùng, tôi xin kiến nghị với quốc hội khóa 9, kì
họp thứ 4 sắp tới ….sẽ nghiên cứu toàn diện, sâu sắc mà loại bỏ điều 4 trong hiến
pháp năm 1992 cho phù hợp với nền dân chủ đích thực, phù hợp với một nhà nước
pháp quyền sẽ được xây dựng, đáp ứng được sự đòi hỏi lâu nay của quốc dân đồng
bào cũng như Việt kiều và các gợi ý chân tình của quốc tế.”
Đầu năm 1999, nhân vụ tướng Trần Độ bị đảng khai trừ,
HMC có phát biểu trên đài Á Châu Tư Do là mặc dù có vụ này, ” tôi rất lạc quan
vì tiến trình thế giới ngày nay đang mở ra tiếng nói về dân chủ, về dân quyền
và trở thành ngôn ngữ chung của loài người hiện nay. Và trên thế giới, cao trào
hội nhập khu vực, hội nhập toàn cầu đang bùng lên như một cao trào. Việt Nam đã
vào ASEAN, vào AFTA và đang xin vào WTO thì lãnh đạo không dại gì chặn lại trào
lưu bằng việc làm o ép trong nước.”
Về liên hệ giữa những người trí thức ở hai bên chiến
tuyến trước đây, HMC phát biểu:
“Họ đều nung nấu về tình hình đất nước. Họ đều theo
dõi tình hình để biết là đất nước hiện nay đang tụt hậu, và đều rất xót xa. Vì
thế tôi không thấy có gì ngăn cách giữa những người trí thức với nhau.”
Vài nhận xét về trường hợp Hoàng Minh Chính:
Nữ ký giả Judy Stow từng là đặc phái viên của
đài BBC ở Đông Nam Á, sau đó làm trưởng ban Việt Ngữ đài này đã gọi Hoàng Minh
Chính là cha đẻ của Chủ nghĩa xét-lại Việt Nam. Đúng ra ông chỉ là người đem áp
dụng ở Việt Nam tư tưởng xét lại của Khrutshchev đã trở thành đường lối chính
sách của Liên Xô từ đại hội XX năm 1956 và sau đó trở thành đường lối chính
sách của đại hội 81 đảng Cộng Sản thế giới năm 1960, trong đó tuyệt đại đa số
các đảng Cộng Sản đã đứng hẳn về phía Liên Xô chỉ trừ Trung Cộng, Albany và một
vài đảng Cộng Sản khác. Nói là áp dụng thực ra cũng không hoàn toàn đúng, vì
Hoàng Minh Chính chưa leo lên được điạ vị có thể đem áp dụng nó mà chỉ luồn
lách tư tưởng xét lại trong một số văn kiện được Trường Chính ủy thác soạn thảo,
và phái đoàn Cộng Sản Việt Nam tại đại hội 81 đảng năm 1960 đã phát biểu theo lập
trường của văn kiện đó. Căn cứ vào những gì Hoàng Minh Chính tiết lộ với nhà
báo Bader, cũng như trình bày trong bức thư ngỏ năm 1993 thì, nếu không có sự
chia rẽ đến đối đầu quyết liệt giữa Trung Quốc và Liên Xô, và nếu không có tham
vọng quyền bính tột đỉnh của hai tay chọc trời khuấy nước họ Lê là Lê Duẫn và
Lê Đức Thọ, thì đảng Cộng Sản Việt Nam với Hồ Chí Minh (chủ tịch đảng, chủ tịch
nhà nước), Phạm Văn Đồng (ủy viên bộ chính trị, thủ tướng), Võ Nguyên Giáp (ủy
viên bộ chính trị, chủ tịch Quân ủy, bộ trưởng quốc phòng) Ung Văn Khiêm (ủy
viên trung ương đảng, bộ trưởng bộ ngoại giao) tương đối hòa hoãn và có xu hướng
thân Liên Xô, có lẽ đã có thể đem áp dụng những tư tưởng mà Hoàng Minh Chính
đem từ Liên Xô về. Và nếu đảng Cộng Sản không bị hai tay họ Lê thao túng ngả
theo đường lối giáo điều cực đoan của Mao Trạch Đông, thì có lẽ HMC đã có một địa
vị cao hơn, hòng áp dụng đường lối hai miền thi đua phát triển trong hòa bình
và thống nhất bằng thương thảo phi vũ trang.
Cho đến nay các vụ án lớn như Cải Cách Ruộng Đất,
Nhân Văn Giai Phẩm, Chỉnh Đốn Tổ Chức đều đã được công khai hóa. Riêng vụ án
Xét Lại Chống Đảng vẫn còn bị ghìm sâu trong bí mật, mặc dù đã có người khiếu tố.
Ngay cả Nguyễn Trung Thành là người thụ lý vụ án thời ông làm trong ban tổ chức
dưới quyền của Lê Đức Thọ cũng đã lên tiếng yêu cầu đem ra xét xử công khai để
giải oan cho nhiều cán bộ cao cấp. Chẳng những đảng không chấp thuận mà còn áp
dụng kỷ luật với ông Thành và cả ông Lê Hồng Hà, và còn bỏ tù HMC, chỉ vì ông
này đã có bức thư ngỏ.
Người ta tự hỏi: Nếu đem ra công khai vụ này, thì liệu
đảng sẽ có nguy cơ bị kết tội gây chiến tranh giết hàng triệu người không? Và
còn bao nhiêu hệ lụy khác nữa? Và như vậy cái công “chống Mỹ cứu nước” sẽ trở
thành tội phạm chiến tranh?
Trong bối cảnh đó, vụ án xét lại chống đảng trở thành
quan trọng và do đó vai trò của người tiên phong đưa tư tưởng xét lại vào Việt
Nam như HMC cũng trở nên quan trọng không kém.
Khi bức thư ngỏ của HMC được đăng trên tờ Diễn Đàn ở
Paris, một cán bộ (Lê Xuân Tá) đã lợi dụng lúc công tác ở Liên Xô lên tiếng góp
ý thêm về vụ án. Ông Tá cũng nhắc lại thái độ và hành động của HMC trong thời
gian làm viện trưởng viện Triết Học ở Hà-nội và tỏ ý ca ngợi, tán đồng. Ngoài
ra ông cũng nhắc đến các ông Dương Bạch Mai và Bùi Công Trừng là hai nhà trí thức
miền Nam (đều là ủy viên trung ương đảng) chống Mao, cùng một lập trường với
HMC. Ông Tá đã nhắc lại câu nói của HMC trả lời cấp trên, khi ông này khuyên
“nên “régler” bớt cái lập trường “prosovietique” đi để giữ đoàn kết”. Ông Chính
bốp chát ngay: “Là thằng ngu thì không nói làm gì. Nhưng nếu là thằng trí thức
mà không đủ can đảm bảo vệ chân lý, thì cái đầu của nó còn dùng để làm gì nữa.”
Nếu đa số trí thức trong nước dám nói và làm theo chân lý thì có lẽ chế độ Cộng
Sản đã chết từ lâu ở Việt Nam rồi.
Vũ Thư Hiên thì chê Hoàng Minh Chính vẫn còn “thể hiện
một niềm tin lỗi thời ở đảng”, mặc dầu, như Vũ Thư Hiên viết, “Ban lãnh đạo căm
ghét anh” (6)
Nguyễn Ngọc Lan trong một cuộc phỏng vấn dành cho đài
Phát thanh RFI (Pháp Quốc Tế) đã nói về việc Hoàng Minh Chính bị đem ra xử tại
tòa ngày 8-11-1995 đại ý, theo báo Saigon Giải Phóng, mục đích của Hà-nội là muốn
nghiêm trị Hoàng Minh Chính và Đỗ Trung Hiếu về tội lợi dụng tự do dân chủ. NNL
châm biếm rằng: “Cứ hễ cái gì được gọi là lợi dụng thì nhắm mắt cũng thấy rõ là
thứ ấy không hề có hay thiếu lắm.”
Để hiểu thêm về nguyên do và hậu quả của vụ án XLCĐ,
tưởng cũng nên lưu ý đến lời HMC tiết lộ với nhà báo Bader rằng ông Hồ cũng tán
thành đường lối “xét lại”, nhưng thuộc thiểu số. Đồng thời thử đặt vụ án vào bối
cảnh chung lịch sử cả nước lúc ấy. Tại miền Nam từ đầu năm 1963 có rất nhiều
tin đồn về cuộc gặp gỡ giữa ông Ngô Đình Nhu, cố vấn chính trị của Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, với Phạm Hùng phái viên của chính quyền Hà-nội tại miền Nam. Đó
là chưa kể những cuộc tiếp xúc công khai giữa ông Nhu và trưởng đoàn đại biểu
Ba Lan trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Nhiều nhà báo và sử gia Mỹ
còn viết rằng lúc ấy Tổng Thống Ngô Đình Diệm có mật lệnh cho các tướng Huỳnh
Văn Cao, Bùi Đình Đạm tránh những cuộc giao tranh có nguy cơ gây tổn thất nhân
mạng. (Họ lên án Tổng Thống Ngô Đình Diệm không muốn chống Cộng, chỉ muốn bảo vệ
quyền hành.) Ngoài ra cũng nên nhớ lại là tháng 7 năm 1954 trong bữa tiệc ở
Paris do phái đoàn Trung Cộng khoản đãi, thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai đã làm
ông Phạm Văn Đồng và nhân viên phái đoàn Bắc Việt ngạc nhiên và bất bình, khi
ông trực tiếp, công khai ngỏ ý với ông Ngô Đình Luyện em ông Diệm (ít ai có thể
ngờ là cũng được mời dự tiệc), mong muốn có đại diện của Saigon ở Bắc Kinh.
Đặt tất cả những sự việc kể trên chung lại với nhau,
rồi lại đặt chúng bên cạnh bối cảnh của nghị quyết số 9 vào cuối 1963, đầu
1964, nghĩa là chỉ hơn một tháng sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị hạ, người
ta thấy hiện lên một giả thuyết khá hấp dẫn: Nếu Mỹ đừng nóng lòng diệt Cộng, nếu
một số chính khách và nhà sư miền Nam không quá háo hức với một nền dân chủ kiểu
Mỹ, tìm cách lật Tổng Thống Ngô Đình Diệm, thì có lẽ Trung Quốc, mặc dù muốn
tranh quyền với Liên Xô, cũng chưa chắc đã bắt ép đàn em Bắc Việt phải dùng võ
lực cố đánh chiếm miền Nam. Nhưng dù hấp dẫn, đó cũng chỉ là giả thuyết đặt
trên cái chữ “nếu” không có trong lịch sử…
Điều sau đây thì có cơ sở hơn: Một số trí thức và văn
nghệ sĩ Cộng Sản phản tỉnh bênh ông Hồ. Bảo ông ta ôn hòa, tình cảm, yêu nước,
mặc dù có khuyết điểm và có trách nhiệm trong nhiều tội ác, nhưng chỉ vì ông
không cương quyết, chứ thực tâm ông không xấu. Đọc hết soạn phẩm này, độc giả sẽ
thấy những điều những tác giả đó nói đáng tin đến mức độ nào. Có một điều chúng
tôi thấy nên nói trước về đại cương: Cứ cho rằng những người bênh ông Hồ có lý
đi. Nguyên một việc ông đem chủ nghĩa Mác Lê-nin vào Việt Nam, lập nên cái đảng
chuyên chính vô sản, chuyên gây thù hằn giai cấp, lấy bạo lực làm phương tiện
tiêu trừ các giai cấp khác, các đảng quốc gia khác, cũng đủ là một tội lớn rồi.
Cứ cho là ông chỉ là một phù thủy non tay không sai khiến được âm binh, để đến
nỗi bị âm binh khống chế, thì nguyên cái tội phù thủy đã nặng lắm rồi. Bao lâu
những người tự cho mình thương dân, yêu nước, bên này cũng như bên kia, còn bị
lúng túng về tình cảm với ông Hồ, bao lâu cái xác ông còn được tôn thờ ở công
trường Ba Đình, trong khi nhiều nhà yêu nước khác còn nằm co ro, nhục nhã ở những
bãi tha ma hẻo lánh, thì nhân dân ta còn khổ. Ở chương 20, tổng kết, chúng tôi
sẽ bàn giải cặn kẽ hơn.
Chú Thích
(+) Trích Thư Ngỏ ngày 27-8-1993 của Hoàng Minh Chính
gửi tòa án tối cao, quốc hội…
(1) Cũng có người nói ông sinh năm 1922. Nam định
cũng là quê của các cán bộ Cộng Sản cao cấp khác như Trường Chinh, 3 anh em Lê
Đức Thọ, Nguyễn Cơ Thạch, Trần Xuân Bách…. Và một số văn thi sĩ nổi tiếng như
Tú Xương, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương, Khái Hưng, Trần Dần, Trần Mạnh Hảo, Vũ
Thư Hiên … và hai nhạc sĩ thiên tài Đặng Thế Phong và Văn Cao.
(++) Ở Việt Nam năm ấy cũng có vụ nổi dậy của 20 ngàn
nông dân Quỳnh Lưu, Nghệ An, như đã nói trong chương 1.
(2) Sở dĩ An-ba-ny đứng về phe Mao chống Khrutshchev
vì ông này đã định lật Hodja, lãnh tụ An-ba-ny mà không thành.
(3) Cho đến nay vẫn không có ai biết con số chính xác
nạn nhân của vụ án này, cũng như con số nạn nhân trong vụ CCRĐ. Nhưng nhiều người
ước lượng khoảng 200. Chính HMC thì nói “nhiều chục, nếu không nói là cả trăm.”
(4) 81 trong số 86 đảng đã tham đự đại hội các đảng Cộng
Sản và công nhân thế giới tại Moscow năm 1960, do Khrutshchev triệu tập.
(5) Cuộc phỏng vấn dành cho nhà báo Balan Jacek Hugo
Bader đã được đăng tải trên tập san Gazeta wyborza ngày 21-4-1995..
(6) “Đêm giữa ban ngày”, Vũ Thư Hiên, nxb Văn Nghệ,
California, 1997, trang 295
Chương 3
Trần Độ Chống Đảng hay Muốn Cứu Đảng?
Gần Tết Kỷ Mão (1999), có tin từ trong nước cho biết
ngày 8 tháng 1 năm 1999 trung tướng hồi hưu Trần Độ, nguyên ủy viên trung ương
đảng Cộng Sản Việt Nam, tuyên bố ông đã bị khai trừ khỏi đảng, vì “có lỗi phân
phát các tài liệu của mình và để lọt ra cho các hãng thông tấn thế giới”. Tuy
nhiên theo hãng thông tấn Reuter của Anh thì thoạt tiên phát ngôn viên bộ ngoại
giao Hà-nội không xác nhận, cũng không cải chính mà chỉ nói chi bộ của ông đã
yêu cầu ông tự phê bình. Điều này cho thấy việc khai trừ tướng Trần Độ đã trải
qua quá trình phức tạp và cho đến phút chót vẫn còn nhiều bí ẩn, chứng tỏ có sự
tranh chấp nội bộ trong đảng, ít nhất cũng cho đến khi phe bảo thủ hoàn toàn thắng
thế và đi đến quyết định chung cuộc là khai trừ ông. Việc khai trừ này sẽ dẫn đến
những hậu quả khó lường trước được. Vì vậy các cơ quan truyền thông hải ngoại,
kể cả đài Á Châu Tự Do đã lập tức khai thác, trong đó phải kể đến những cuộc phỏng
vấn của phái viên Đinh Quang Anh Thái dành cho các ông Hoàng Tiến, nhà văn Cộng
Sản và Hoàng Minh Chính, nguyên viện trưởng viện Triết Học Hà-nội (trước khi
vào tù về tội “theo đường lối xét lại chống đảng”) để cho biết phản ứng của giới
trí thức và văn nghệ sĩ trong nước đối với việc đảng khai trừ Trần Độ.
Nhân dịp này chúng ta thử ôn lại toàn bộ sự việc từ gần
hai năm nay, kể từ ngày Trần Độ cho công bố bức thư ngỏ gửi ban lãnh đạo đảng
vào “cuối năm 1997, đầu năm 1998″, và xét xem biến cố này có ý nghĩa gì, ảnh hưởng
của nó sẽ ra sao.
Vài nét về con người Trần Độ:
Trần Độ tên thật là Trần (hay Tạ?) Ngọc Phách, nguyên
quán Thái Bình, sinh năm 1920. Ở tuổi 20 ông đã đi theo Việt Minh kháng chiến
chống Pháp và gia nhập đảng Cộng Sản Đông Dương năm 1941. Khi Cộng Sản cướp
chính quyền vào tháng 8 năm 1945 thanh niên Hà-nội đã nghe nói đến “tướng” Trần
Độ, mặc dù Võ Nguyên Giáp, tổng tư lệnh lực lượng võ trang Việt Minh sau này,
lúc ấy cũng chỉ được nói tới như chỉ huy đội vũ trang tuyên truyền. Trong trận
Điện Biên tháng 5 năm 1954 ông là chính ủy sư đoàn 312 tiên phong tiến vào trận
địa. Ông thăng thiếu tướng hồi 1958. Từng là chính ủy liên khu Hà-nội, phó
chính ủy quân giải phóng miền Nam, và trong thời Nguyễn Văn Linh làm tổng bí
thư ông là trưởng ban văn hóa văn nghệ trung ương đảng. Về mặt chính quyền ông
cũng từng là thứ trưởng Thông Tin Văn Hóa, phó chủ tịch quốc hội.
Còn nhớ hồi 1968 một vài tờ báo Saigon đã loan tin tướng
Trần Độ bị tử thương, nhưng rồi sau lại cải chính. Đến nay ông vẫn còn ức chuyện
đó và cho rằng “Mỹ Ngụy” đã bịa ra cái chết của ông để chiến tranh tâm lý.
Nhưng ông lại cho rằng ngày nay kẻ nào đó (dĩ nhiên ông không dám nói thẳng là
đảng) làm những việc giống như “chiến tranh tâm lý” để giết ông thật.
Nội dung bức thư ngỏ:
Bức thư ngỏ có tựa đề: “Tình hình đất nước và vai trò
của đảng Cộng Sản” đã được rất nhiều tờ báo hải ngoại đăng nguyên văn vào những
tháng đầu năm 1998. Xin lược qua vài điểm cốt lõi.
Về tình hình đất nước Trần Độ thẳng thắn nhìn nhận:“đất
nước ta vốn là một trong số ít nước nghèo khó và lạc hậu nhất thế giới, lại trải
qua 30 năm chiếân tranh tàn khốc liên miên. Thêm vào đó do nhiều lý do những
năm đầu của thập niên 80 đất nước ta ở trên bờ vực thẳm. Cuộc đổi mới khởi phát
từ năm 1986 đã đưa nước ta ra xa bờ vực thẳm đó. Hơn 10 năm ta đã có một số
thành tích và tiến bộ. Nhưng về cơ bản đất nước ta vẫn là một đất nước nghèo khổ
và lạc hậu.”
Về tình hình đảng tác giả bức thư ngỏ cũng nói không
úp mở:
“Ta đang đứng trước 2 nguy cơ hiểm ác: a) nếu không
ra khỏi các bùng nhùng, bệnh hoạn thì sẽ bị sụp đổ, mà là một sự sụp đổ không
ai cứu nổi. b) nếu cứ để bùng nhùng kéo dài thì tình hình xã hội sẽ mất ổn định
ngày càng lớn. Đảng lại buộc phải đối phó, đàn áp và cuối cùng cũng tan rã.
Nguy cơ hiện nay là cực kỳ nghiêm trọng, không phải là nhận định 4 nguy cơ nhẹ
nhàng như trước. Tụt hậu ư? Không phải nguy cơ mà ta đang tụt thật. –Tham nhũng
ư? Không phải nguy cơ mà đang là quốc nạn. –Kẻ thù bên ngoài ư? Không có gì rõ
rệt, Chỉ có ta đang làm hại ta. –Chệch hướng ư? Hướng nào? Hướng tư bản chủ
nghĩa ư? –Thế là phản động, phản cách mạng? Hướng xã hội chủ nghĩa ư? Đấy là thất
bại, là ngõ cụt! Ta đã có hướng đâu mà chệch, ta đang chệch choạng.”
Ngoài ra Trần Độ cho rằng ngày xưa, trong chiến
tranh, dân với đảng là một, còn ngày nay thì dân với đảng là hai. Và “tiếc
thay, hiện nay đảng là đảng trị, lại độc tôn, không có bất cứ một cơ chế giám
sát nào, không có bất cứ một lực lượng giám sát nào, kể cả những người ở trong
đảng. Đã độc tôn thì tất yếu đi tới lộng quyền.”
Để cứu đất nước thoát cơn nguy biến “và cũng để cứu đảng
khỏi tan rã” theo Trần Độ,“một điều cơ bản, một điều then chốt, một điều quyết
định là phải thực sự dân chủ hóa, thực sự thực hành dân chủ, để cho nhân dân có
quyền lực thực sự trong khi thực hiện quyền lợi và trách nhiệm của mình.”
Để chứng minh lợi ích của nền dân chủ thực sự tại các
“nước tư bản”, ông đã không ngần ngại nói lên nhận xét trung thực của một số
cán bộ:
“Nhiều cán bộ lãnh đạo của nước ta sang thăm các nước
tư bản về, đều phải nhận xét rằng, đời sống người dân các nước ấy vừa cởi mở tự
do hơn, vừa tuân theo pháp luật một cách nghiêm túc hơn. Mọi người được pháp luật
bảo vệ, không để cho các quyền tự do dân chủ của mình bị xâm phạm. Trong khi đó
thì ở nước ta luật pháp đã thiếu lại không nghiêm minh, nhiều người có trách
nhiệm bảo vệ luật pháp lại vi phạm luật pháp đến mức nghiêm trọng (trong những
năm gần đây ngồi ghế bị cáo trước các tòa án ngày càng có nhiều cán bộ công an,
kiểm tra và cả tòa án nữa).”
Nhằm cụ thể hóa đề nghị “dân chủ hóa” của mình, Trần
Độ đã đưa ra, trong phần phụ lục, 2 điều cần làm ngay là ban hành một đạo luật
về tự do ngôn luận, tự do báo chí, và thực hành “bầu cử hai vòng”, hơi khó hiểu.
Ông chưa dám nói đến bầu cử tự do theo “phổ thông đầu phiếu”
Phản ứng của lãnh đạo đảng
Bề ngoài họ nói đây là một đóng góp ý kiến bình thường
của một đảng viên. Nhưng bên trong họ rất lo ngại. Bằng chứng là không có cơ
quan ngôn luận nào của đảng hay nhà nước dám phổ biến nguyên văn bức thư ngỏ của
Trần Độ. Trái lại 3 tháng sau đảng đã ngấm ngầm chỉ thị cho các tờ Tạp Chí Cộng
Sản, Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Saigon Giải Phóng và cả tờ Văn nghệ quân đội
thay phiên nhau phê bình chỉ trích tác giả bức thư ngỏ với những lời lẽ như:
“nói ít đến thắng lợi…phân tích kỹ hơn những khuyết điểm… thành ra phủ nhận
thành tích của đảng và như vậy là phủ nhận cách mạng, phủ nhận Xã Hội Chủ
Nghĩa..”
Mãi cho đến ngày 25 tháng 5, nghĩa là khoảng 5 tháng
sau khi bức thư được gửi đi, và vào giữa thời gian bức thư thứ hai gửi cho 5 tờ
báo đã chỉ trích ông bị mất cắp và đang được viết lại, bộ chính trị mới cử Phạm
Thế Duyệt, Ủy viên thường vụ bộ chính trị, tiếp ông để trả lời rằng những ý kiến
của ông không dược chấp thuận, vì “không đúng với đường lối của đảng thể hiện ở
các cương lĩnh và nghị quyết Đại hội.”
Bức thư ngỏ thứ hai gửi báo chí
Để trả lời những luận điệu “đấu tranh tư tưởng ” của
các tờ báo nói trên, ngày 22 tháng 5 năm 1998 tướng Trần Độ đã viết một bức thư
ngỏ khác gửi các tờ báo đã có bài đả kích ông, đòi nó phải được đăng lên cho những
ai đã đọc các bài đả kích ông được đọc bức thư này. Nhưng ông cũng khẳng định rằng:
“Nhưng tôi biết, các ông không khi nào dám đăng.” Bức thư hoàn tất chưa kịp gửi
đi thì bị đánh cắp mất. Nên gần một tháng sau (ngày 20 tháng 6) ông lại phải viết
lại. Bức thư, dài không kém bức thư trước bao nhiêu, gồm 5 phần chính:
1. Tranh luận, phê phán và quy chụp.
2. Hoài Việt là ai?
3. Khen và chống.
4. Vấn đề đổi mới chính trị và đổi mới đảng,
5. Các căn bệnh của công tác tư tưởng.
Sau đây là một vài điểm nổi bật.
Về “Xã Hội Chủ Nghĩa” ông đã viết những hàng chữ rất
độc như sau: “Thực tế rõ ràng là từ 1975 đến 1985 ta đã tiến hành xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên cả nước thống nhất. Và kết quả là những năm đầu của thập
kỷ 80, CẢ NƯỚC NGẮC NGOẢI. Bây giờ (Sau đổi mới dưới thời Nguyễn Văn Linh làm tổng
bí thư, do ảnh hưởng tư tưởng “đổi mới” và “tái cấu trúc” của tổng bí thư Liên
Xô Gorbachov, chú thích của MV) nhân dân ta tươi tỉnh được một chút, lại cứ
nhất định phải định hướng xã hội chủ nghĩa, vậy định hướng vào cái “XÁC CHẾT”
đó mà làm gì?…Ta cứ hay “nói lấy được”. Ta nói: “Nhân dân ta đã chọn chủ nghĩa
xã hội.” Có thật không? Năm 1975 khi ta giải phóng đất nước, nửa nước miền Nam
mấy chục triệu người, ta có hỏi một người dân miền Nam nào câu hỏi là: “Anh có
thích chủ nghĩa xã hội?” Ta không hề hỏi mà cứ ra nghị quyết, cứ ra lệnh và chỉ
thị hợp tác hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp v.v…và v.v. phá tán biết
bao nhiêu là của cải, làm tổn hại bao nhiêu đến đời sống nhân dân, làm bao
nhiêu là người giầu bị nghèo đi! Rõ là nói lấy nói được. “
Thế mà lại bảo là “nhân dân đã chọn”. Khổ thật! Ta cứ
hay chọn thay cho dân, bắt dân nhận, xong lại bảo là dân đã chọn và ta tôn trọng
sự lựa chọn của dân!
Những người ủng hộ Trần Độ
Ở trong nước tất cả những ai chủ trương “đổi mới”, chống
độc tài tham nhũng, muốn thay “xã hội chủ nghĩa” bằng một nền dân chủ thực sự,
đa nguyên đều hưởng ứng lập trường của Trần Độ. Không kể những nạn nhân Cộng Sản
dưới hình thức này hay hình thức khác. Tuy nhiên số người biết và theo sát hành
vi của Trần Độ không có nhiều, do chủ trương bưng bít che giấu của đảng. Trong
số những người đứng cùng phe Trần Độ dĩ nhiên không thiếu những bộ mặt quen thuộc
nhóm trí thức phản tỉnh như Nguyễn Thanh Giang, Phan Đình Diệu, Hoàng Hữu Nhân,
Hoàng Minh Chính, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Hoàng Phương, Bùi Minh
Quốc, Bảo Cự, Hoàng Tiến v.v… Chính họ là những người đã mở đường cho Trần Độ.
Nhưng họ không có được cái thế mà Trần Độ có sẵn ở trong đảng, nên đã không dám
mạnh miệng như ông.
Nguyễn Văn Trấn trước khi chết dĩ nhiên là người tán
thành ý kiến của Trần Độ hơn ai hết. Và có thể nói chính cuốn “Thư gửi mẹ và quốc
hội” của ông đã khuyến khích và thúc đẩy Trần Độ tỏ thái độ với đảng. Có lẽ Trần
Độ cũng nghĩ viết mạnh như Nguyễn Văn Trấn mà vẫn không bị đảng thi hành kỷ luật
thì đảng sẽ chẳng dám khai trừ mình. Nhưng Lê Khả Phiêu, trước kia là đàn em dưới
trướng của Trần Độ, hẳn có lý để nhìn thấy nơi Trần Độ mối nguy to lớn gấp bội
so với Nguyễn Văn Trấn. Cho nên Nguyễn Văn Trấn đã thoát mà Trần Độ thì không.
Tuy tán thành, ủng hộ đấy nhưng có mấy người dám lên
tiếng công khai? Và nếu có báo nào dám đăng bài của những người ủng hộ Trần Độ
thì ở hải ngoại cũng khó biết. Nhưng vẫn có vài bài lọt ra được bên ngoài và ở
Paris người ta đã được đọc những lời ca ngợi Trần Độ không tiếc lời như: “Trong
bài viết của ông (Trần Độ) thấy cả máu và nước mắt cứ quyện vào từng dòng. Ông
đã tự lột xác để tiếp thu chân lý của thời đại… Trần Độ đúng là Chu Văn An của
thời nay ” (Phạm Vu Sơn). Có người hoan hô ông “đã tự lột xác mình, tiếp cận được
những tư tưởng cập nhật của nhân loại” (Nguyễn Hoài Nam).
Một người ký tên Minh Tâm, sau khi được may mắn gặp
Trần Độ tại nhà người con trai út của ông ở Saigon, đã ca ngợi ông là người cầm
đuốc trong đêm.
Một nhà trí thức trẻ, không phải Cộng Sản, ở kinh
thành Ánh Sáng cũng đã không ngần ngại “tặng vị lão tướng hai chữ đồng chí”.
Có những dấu chỉ cho thấy Trần Độ rất được những cựu
cán bộ Cộng Sản lão thành ở trong nước ủng hộ một cách nhiệt tình, đến liều chết
để nói lên sự ủng hộ đó. Đó là bức thư của 10 cán bộ lão thành, trong đó có 2 cụ
bà, sinh hoạt ở nhiều chi bộ khác nhau, gửi bộ chính trị “nguyện cùng sống chết”
với tướng Trần Độ. Bức thư đề ngày 15 tháng 6 năm 1998, do ông Nguyễn Việt Hùng
thuộc quận Đống Đa ký thay, sau khi nêu ra 4 sự việc cụ thể chứng tỏ đảng bất
công, quy chụp, đàn áp, đã đi đến một tuyên bố quyết liệt như sau:
“Một, nếu kỷ luật đồng chí Trần Độ, chúng tôi sẽ vứt
trả lại thẻ đảng, vì cái đảng này không xứng đáng để những con người chân chính
đứng trong hàng ngũ nữa.
Hai, nếu bắt đồng chí Trần Độ, chúng tôi sẽ xuống đường
phản đối để tỏ thái độ, nguyện cùng sống chết với đống chí Trần Độ, con người
đã trở thành biểu tượng cao đẹp của đất nước.
Chúng tôi lúc ấy không phải chỉ là 10 người nữa đâu,
mà sẽ có hàng ngàn các cựu chiến binh, các đảng viên chân chính, các cán bộ nghỉ
hưu, và vạn vạn những người dân lành ủng hộ chúng tôi, đứng về phía chúng tôi.”
Rất có thể là bức thư này có liên hệ đến bức “Huyết
tâm thư xây dựng đảng” của 11 cán bộ lão thành khác có từ 40 tuổi đảng trở lên
tố cáo ủy viên thường vụ Bộ Chính Trị Phạm Thế Duyệt và phe cánh tham nhũng,
cũng gửi bộ chính trị trước đó hơn một tháng. Phạm Thế Duyệt nguyên là bí thư
thành ủy Hà-nội và hiện nay được coi như nhân vật thứ nhì sau tổng bí thư Lê Khả
Phiêu vì y nắm thường vụ bộ chính trị (kể từ cuối năm 1997). Trong vụ nông dân
Thái Bình nổi dậy chính y là người được giao trọng trách xuống tận nơi giải quyết
vụ việc, nhưng cho đến nay vẫn chưa xong, mặc dù đã có một vài biện pháp vá
víu.
Cái ung nhọt Thái Bình vẫn còn đó. Trần Độ lại là người
Thái Bình và thường có liên lạc với các vùng quê đang lâm cảnh túng đói và thất
nghiệp. Ông hiểu rằng nếu không thực thi dân chủ, không cho tự do báo chí, thì
nạn tham nhũng không thể nào diệt được và như vậy dân sẽ bị dồn vào con đường
cùng là đồng loạt nổi lên để tự cứu. Và đến lúc đó thì, tức nước vỡ bờ, không
còn cách nào chống đỡ. Kết cuộc đảng sẽ TAN RÃ.
Dầu sao bức “huyết tâm thư” này đúng là một hành động
yểm trợ tinh thần vị tướng già Trần Độ, ngầm cho ông hiểu rằng nếu ông dám chống
độc tài, tham nhũng đến cùng thì đừng sợ không có người hưởng ứng.
Nhận xét về những lời tuyên bố của Trần Độ.
1. Trước khi bị khai trừ.
Trong phần nói về nội dung 2 bức thư ngỏ chúng tôi đã
trích dẫn mấy ý chính trong đó có những điểm sau đây là nổi bật: Trần Độ đã mất
tin tưởng hoàn toàn nơi cái gọi là “xã hội chủ nghĩa” coi nó chỉ là “cái XÁC CHẾT
‘. Chính nó đưa đất nước đến bờ vực thẳm trong những năm 1975-1985. Ông nói là
“do nhiều lý do”. Ông không tiện nói thẳng ra rằng do đảng lãnh đạo sai, đường
lối xã hội chủ nghĩa sai. Sau đó ông cho rằng nhờ có “đổi mới” (thời Nguyễn Văn
Linh làm tổng bí thư) nên đã không rơi xuống vực. Nhưng cuộc đổi mới cho đến
nay què quặt vì chỉ đổi mới về kinh tế mà không đổi mới về chính trị. Do đó đảng
đang ở trong tình trạng “BÙNG NHÙNG, BỆNH HOẠN”. Ông gọi nạn tham nhũng là quốc
nạn. Xã hội chủ nghĩa là thất bại, là ngõ cụt. Đảng hiện nay là đảng độc tài, lộng
quyền, độc tôn. Gần đây có nhiều cán bộ công an, kiểm tra, và cả cán bộ tòa án
(!) bị đem ra tòa. Và để cứu nước thoát cơn nguy biến, cứu đảng khỏi tan rã, ông
đề nghị thực thi dân chủ thực sự: tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Đối với người dân bình thường, nhất là với người quốc
gia chúng ta thì những nhận xét và đề xuất nêu trên của viên tướng Cộng Sản chẳng
có gì mới mẻ, còn thiếu sót, hay chưa đúng mức nữa là khác. Nhưng đối với những
người Cộng Sản đã quen với nền độc tài hà khác, và kỷ luật sắt của một đảng sắt
máu độc tôn như đảng Cộng Sản, thì dám lên tiếng đưa ra những ý kiến trái ngược
với đường lối đảng như vậy kể ra cũng đáng gọi là can đảm và chứng tỏ Trần Độ
là người có học, có tâm.
Tôi biết có những người chống Cộng cực đoan luôn luôn
nghi ngờ thiện chí của các cán bộ Cộng Sản phản tỉnh. Họ coi tất cả những Hà Sĩ
Phu, Dương Thu Hương, Bùi Tín, Nguyễn Chí Thiện v.v… đều là “có mồi”, không
đáng tin cậy. Theo tôi, khi chúng ta không có được những tin tức tình báo chính
xác, những bằng chứng cụ thể, thì không nên phát ngôn bừa bãi, làm nản chí những
người có những hành động hay lời nói chống lại hay thách thức nhà cầm quyền Cộng
Sản. Hơn nữa dù cho thực sự có những “cò mồi” đi chăng nữa, nếu chúng ta không
hẹp hòi, và nếu chúng ta có đủ tự tin, đủ sáng suốt, tưởng không nên bỏ qua những
ý kiến đến từ những người trong hàng ngũ đối phương có lợi cho cuộc tranh đấu
chống Cộng. Chúng ta cũng đừng kỳ vọng quá, đừng đòi hỏi quá đáng những gì mà
những người đang sống dưới sự kìm kẹp của một chế độ chuyên chế không thể nào
làm được như chúng ta đang ở ngoài.
Trong tinh thần đó chúng tôi xin có vài nhận xét về
những lời tuyên bố của Trần Độ sau khi bị khai trừ.
2. Sau khi bị khai trừ.
Ngày 4 tháng 1 năm 1999 bị khai trừ, thì ngày 8 Tướng
Trần Độ đã đưa ra bản tuyên bố gồm có 5 điều đại ý tóm gọn như sau:
– Ông ta không ân hận gì về 58 năm phục vụ đảng.
– Ông cho rằng “đảng hiện nay với tất cả hiện trạng của
nó đã xa rất xa đảng của những năm 40, 50, 60, vì vậy nó hầu như không còn là đảng
của tôi nữa.”
– Ông thất vọng vì tình trạng xã hội bất công, thối
nát và mất tự do hiện nay: “Tôi sống trên đất nước tôi mà tôi bị bao vây, giám
sát và rình rập…Tôi muốn ngỏ lời với các đảng viên trong toàn đảng…mong mọi người
làm hết sức mình cho đảng được đổi mới tốt hơn…Tôi vẫn tin tưởng vào tương lai
của đất nước.”
– “Trước sau rồi thế nào đảng cũng phải đổi mới. “ĐỔI
MỚI HAY LÀ CHẾT’ khẩu hiệu này rất thích hợp với đảng hiện nay, tốt nhất là đảng
tự đổi mới….”
–
“…Lịch
sử rất công bằng, tương lai gần hay xa lịch sử sẽ có sự phán xét của mình.” (Hết)
–
Đọc kỹ 5 điểm trên ta thấy một điểm nổi bật nhất là
Trần Độ vẫn gắn bó với đảng, ít nhất là cái đảng như nó được tổ chức và điều hành
trong những năm từ 1940 đến 1969 là năm Hồ Chí Minh qua đời. Ông ta không ân hận
là đã ở trong đảng trong 58 năm, mặc dù ngày nay ông thấy đảng đã biến chất.
Ông ta muốn đảng đổi mới để khỏi tan rã, khỏi chết, “ĐỔI MỚI HAY LÀ CHẾT”. Đây
không phải một lời trù ếm, nguyền rủa hay tiên tri. Mà là ước mong thực lòng.
Vì ông “mong mọi người (trong toàn đảng) làm hết sức mình cho đảng được đổi mới
tốt hơn.”
Chúng ta đừng trách vị tướng Cộng Sản gần đất xa trời
này và đừng hỏi tại sao trong tình hình bi đát hiện nay ông ta còn cố bám lấy
cái đảng bất nhân đó. Là bởi vì ông ta không dễ gì tự phủ định chính mình,
không dễ gì phủ nhận cái dĩ vãng vàng son của đảng, mà ông ta theo và tin tưởng,
với những chiến dịch Điện Biên Phủ đánh bại thực dân Pháp, chiến dịch Hồ Chí
Minh đánh “cho Mỹ cút, ngụy nhào”. Và cũng bởi vì ông ta không còn hy vọng gì ở
những người quốc gia bại trận, tháo chạy có cờ, hay đã tan rã, đã thối chí, đã
bị huỷ diệt, thể xác hay tinh thần, bởi các quỷ kế của cái đảng – mặc dù bất
nhân – của ông ta. Và cũng bởi vì có lẽ ông ta cũng nhìn thấy phần nào tình trạng
chia rẽ rất đáng tiếc giữa các thành phần trong đội ngũ những người quốc gia ở
hải ngoại (!) Cái tình trạng chia rẽ giữa các người quốc gia đó quả tình không
khuyến khích Trần Độ – hay những ai khác – chống lại chính đảng của ông ta chút
nào. Cho nên chỉ còn cách duy nhất là mong muốn đảng đổi mới để tồn tại và tiếp
tục cai trị đất nước.
Vậy thì theo tôi nghĩ, muốn cho những người Cộng Sản
mạnh miệng đả kích, mạnh tay chống lại đảng thối nát của họ hơn, người quốc gia
phải biết đoàn kết hơn, nhìn lại dĩ vãng một cách xây dựng hơn, bình tĩnh hơn,
nếu chưa xóa bỏ được hận thù với kẻ thù, thì trước hết hãy xóa bỏ hận thù (theo
tôi chỉ là giả tưởng, không có thật) giữa phe mình với nhau, để làm gương và
cho kẻ thù thấy rằng chúng ta cũng đủ độ lượng để tha thứ nếu họ biết nhìn ra sự
thực mà hối lỗi…
Tại sao Trần Độ lại nói đảng ngày nay không còn là đảng
của những thập kỷ 40, 50, 60? Nếu ta để ý rằng Hồ Chí Minh mất vào đúng cuối thập
kỷ 60 (ngày 3 tháng 9 năm 1969), rồi đọc kỹ đoạn sau đây trong bức thư ngỏ thứ
2 của Trần Độ gửi các báo đảng ngày 20 tháng 6 năm ngoái, thì sẽ thấy câu trả lời.
Câu đó như sau:
“Ta không nên bắt chước ai, mà chỉ nên học tập Hồ Chí
Minh với tài trí và lòng nhân ái của Người.”
Phải chăng đã rõ là Trần Độ kết tội những người lãnh
đạo sau Hồ Chí Minh không giữ đúng đường lối chính sách của đảng Cộng Sản ban đầu,
hay ông cho rằng chỉ có Hồ Chí Minh xứng đáng là lãnh tụ của ông mà thôi?
Nếu quả thật Trần Độ vẫn còn nghĩ cái đảng Cộng Sản
được Liên Xô chỉ thị phải thống nhất vào năm 1930 kia với danh xưng “Đông Dương
Cộng Sản Đảng”, cái đảng đã nhắm mắt bắt chước và nghe lệnh Trung Cộng giết
hàng vạn người trong cải cách ruộng đất trong những năm 53, 56, cái đảng đã tàn
sát các đảng phái quốc gia để thực hiện chuyên chính vô sản, cái đảng đã ném
hàng triệu thanh thiếu niên miền Bắc vào phá rối rồi xâm chiếm miền Nam với
chiêu bài giải phóng, khiến hơn 2 triệu người chết ở cả hai phía, cái đảng đã
đánh lừa những người yêu nước miền Nam lập lên cái chính phủ bù nhìn bịp bợm gọi
là “Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” để rồi sau khi toàn thắng đã thẳng tay – không
hề có hỏi ý nhân dân miền Nam cũng như cái chính phủ bình phong kia – “xã-hội-chủ-nghĩa-hóa”
cả nước. Cái đảng từ trước vẫn mang cái tên hiền lành giả dối là “Đảng Lao Động”
đã vội vã thay đổi danh xưng, hiện nguyên hình là đảng Cộng Sản.
Nếu quả thật Trần Độ vẫn còn nghĩ cái đảng đó là niềm
tự hào của ông và ông Hồ chí Minh là người có lòng nhân ái, thì thiết nghĩ ông
chưa phản tỉnh chút nào. Nếu ông chưa nói được một câu hối hận và xin lỗi nhân
dân vì những sai lầm, hay đúng ra là những sự tàn bạo, ác độc của đảng Cộng Sản
ngay trong những thập niên 40, 50 và 60, thì ông chưa thực sự “lột xác” như một
số người đã ca tụng ông.
Những người có cảm tình với ông có thể sẽ bảo nên
thông cảm cho ông hơn, và không nên đòi hỏi ở ông những điều ông không thể làm
nổi. Và họ đưa ra 2 lý do.
Thứ nhất, như đã nói ở trên, ông có một cái quá khứ
dính liền với quá trình phát triển của đảng và sự thăng trầm của đất nước,
không dễ gì nhất đán tự phủ định mình, phủ nhận tất cả để trở thành trắng tay.
Thứ hai, sống ở trong nước hiện nay ông chẳng khác
nào sống trong một cái rọ. Dù có can đảm đến mấy, cũng phải giữ sự khôn ngoan để
tồn tại mà chống, nếu có ý chống đến cùng. Đưa Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí
Minh ra làm luận cứ, chẳng qua chỉ là để thủ thế, dùng đó như một thứ bùa hộ mệnh
bảo vệ mình cho khỏi sự trả thù hiểm độc của những kẻ muốn ám hại ông.
Dù sao chăng nữa sự việc Trần Độ bị khai trừ cũng cho
thấy là trong đảng những kẻ bảo thủ trung thành với các lề lối cũ, tư duy cũ,
tín điều cũ… vẫn còn thắng thế, mặc dầu đã có dấu hiệu cho thấy một cuộc tranh
chấp nội bộ đã diễn ra khá gay gắt.
Chương 4
Hà Sĩ Phu muốn lật hòn đá tảng?
Bùi Minh Quốc, một nhà thơ ở trong nước (Đà-Lạt),
trong một bài báo nhan đề “Hà Sĩ Phu và tiếng nói của ông” (tháng 8 năm 1993)
đã viết: “Hà Sĩ Phu là ai mà to gan lớn mật làm vậy? Dám phê phán chủ
nghĩa Mác-Lê-nin, lại phê ngay vào cái hòn đá tảng của chủ nghĩa, một việc làm
có thể phải gánh chịu những tai họa ghê gớm? Nếu sự ghi nhận của tôi không nhầm
thì ở nước ta trên miền Bắc sau 1954 và trên cả nước năm 1975, Hà Sĩ Phu là người
đầu tiên bằng giấy trắng mực đen dám đụng vào vùng cấm chết người này.”
Có lẽ cựu linh mục Nguyễn Ngọc Lan và Tiêu Dao Bảo Cự
cũng đồng ý với nhà thơ Bùi Minh Quốc khi gọi Hà Sĩ Phu là “biểu tượng (symbol)
Hà Sĩ Phu”, “biểu tượng của trí tuệ”. Nhưng cũng có người như ông Lê Tùng Minh ở
New England, Hoa Kỳ không đồng ý, vì hiểu chữ biểu tượng theo một ý nghĩa cao
hơn (the most excellent symbol, chữ của ông Tùng Minh, mặc dầu chưa thấy ai
dùng thể tuyệt đối “most” với tĩnh từ excellent có nghĩa là tối ưu, vượt hẳn,
hơn hẳn).
Khác với nhóm Tin Nhà ở Paris và những người ngưỡng mộ
Hà Sĩ Phu ở trong nước như Bùi Minh Quốc, Nguyễn Ngọc Lan, Bảo Cự, Hoàng Tiến …
là những người chú ý tới thái độ can trường của Hà Sĩ Phu, hơn là nội dung tác
phẩm của ông, ông Lê Tùng Minh đã phân tích cặn kẽ tác phẩm và phê phán nó từ lập
trường của một người chống Cộng và đã có dịp đọc nhiều tác phẩm phê phán của những
người vốn đứng từ phía chống đối từ lâu nên đã tìm ra trong đó có nhiều sai sót
đáng tiếc, (theo ý ông). Tranh luận ai phải ai trái về một tác phẩm lý luận có
tính triết học, trong một môi trường chính trị phức tạp, trải dài trên một dòng
lịch sử còn nhiều bí ẩn, là điều dễ đi đến hiểu lầm. Vì vậy chỉ xin nêu lên một
số nhận định và kết luận của Hà Sĩ Phu liên quan đến chủ nghĩa Mác-Lê, đến đảng
Cộng Sản Việt Nam và tình hình trong nước hiện nay.
Vài nét về con người Hà Sĩ Phu
Hà Sĩ Phu là bút hiệu (1) của Nguyễn Xuân Tụ,
người làng Đông Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh, Bắc Việt, sinh ngày 22 tháng 4 năm
1940. Ông tốt nghiệp phó tiến sĩ sinh học tại Tiệp Khắc. Về nước ông được cử giữ
chức phó viện trưởng viện Khoa Học Việt Nam, phân viện Đà Lạt. Nhưng rồi không
chịu vào đảng, ông bị cho “ngồi chơi xơi nước”. Ông có chân trong hội Văn Nghệ
Lâm Đồng, cộng tác với Tạp Chí Lanbiang, tại Đà Lạt.
Bạn bè ông ở Đà Lạt rất đau lòng khi thấy hai vợ chồng
ông, cả hai đều đã hai lần chắp vá mà vẫn không có con, cả ngày mải mê với mấy
món hàng lặt vặt trong cái quán cóc để kiếm tiền nuôi thân, chẳng mấy người biết
đến trong đầu nhà khoa học trẻ này có những gì.
Không được dùng vào sở trường của mình là ngành khoa
học thiên nhiên, Hà Sĩ Phu chuyển sang nghiên cứu về khoa học xã hội. Năm 1988,
vài năm sau khi Nguyễn Văn Linh tuyên bố “văn nghệ sĩ hãy tự cởi trói” ông đã
cho ra đời (đánh máy phát tay trong đám bạn hữu), bài tiểu luận nhan đề “Dắt
tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ”. Tuy không được đường đường
ra mắt độc giả nhưng bài tiểu luận vẻn vẹn mười trang đánh máy này đã bị các
tay cai văn nghệ của chế độ xúm vào phê phán, phản bác như một thứ độc dược cho
môi trường văn hóa Mác Xít.
Tính đến 1991, nghĩa là chỉ trong vòng hơn 2 năm, đã
có trên ba chục bài đả kích cái bài tiểu luận chỉ xuất hiện giữa bạn bè
kia. (1bis) Có điều lạ là người ta chỉ cho lệnh phản bác tư tưởng của
ông mà chưa có biện pháp gắt gao nào đối với con người ông. Cho đến tháng 4 năm
1991, nhân dịp ông ra Hà-nội thăm nhà văn nữ Dương Thu Hương, chẳng may vào
đúng lúc công an đang khám nhà và bắt giữ bà, thì ông cũng bị bắt luôn. Nhưng
người ta cũng chỉ giữ để tra vấn trong 10 ngày rồi thả. Sau đó ông bị canh chừng,
gần như giam lỏng tại nhà ở Đà Lạt.
Bài tiểu luận, không được in ở trong nước, đã được
chuyền ra ngoại quốc và độc giả ở Pháp đã thấy nó lần đầu tiên trên tờ Thông Luận
của nhóm các ông Trần Thanh Hiệp và Nguyễn Gia Kiểng, số tháng 5 năm 1993. Du học
sinh, sinh viên Việt Nam tại các nước Cộng Sản cũ ở Đông Âu đã nhiệt liệt hưởng
ứng lập luận của Hà Sĩ Phu, gián tiếp khuyến khích ông dấn bước thêm trên đường
“cách mạng tư tưởng”. Cuối năm 1993 trong cuốn Mặt Thật, phơi bày mặt trái của
chế độ Hà-nội, đại tá Cộng Sản Bùi Tín cũng đã hết lời ca ngợi Hà Sĩ Phu:
“Đây là một bài báo rất thú vị, của một trí thức có
chiều sâu suy nghĩ, tự tin, có trình độ nghiên cứu, lại hóm hỉnh. Một con người
quý, hiếm, có tư duy độc lập.”
Chỉ ít tháng sau Việt Kiều ở Pháp lại thấy một bài khác,
dài hơn, của Hà Sĩ Phu xuất hiện như một phụ bản của tờ Tin Nhà, Paris, nhan đề:
“Đôi điều suy nghĩ của một công dân.” Cùng với một số câu đối có tính cách phê
phán chế độ, và mấy bài chính luận vắn. Sau đó hai tác phẩm mỏng, nhưng lớn này
đã được nhiều tờ báo ở Úc, Âu và Mỹ châu đăng lại.
Tháng 10 năm 1995 độc giả nguyệt san “Thế Kỷ 21” ở Mỹ
được đọc thêm một tác phẩm nữa của Hà Sĩ Phu nhan đề “Chia Tay Ý Thức Hệ” trên
một trăm trang. Tuy là tập sách nhỏ của một người đơn độc, nó đã có tham vọng
chẳng những phê phán, phản bác mà còn lên án những công trình đồ sộ của những bộ
óc lớn như Mác, Engels, Lê-nin… coi đó như nguyên nhân của một chế độ độc tài
phi nhân, một loại phong kiến cuối cùng của lịch sử. Như một hệ luận tất yếu,
nhân danh trí tuệ và tương lai dân tộc, ông đòi loại bỏ chế độ đó.
Với những tư tưởng cực kỳ “phản động” như vậy, dĩ
nhiên ông không tránh được sự trừng phạt. Và người ta đã bắt ông, khi ông ra Bắc
thăm gia đình vào đầu tháng 12 năm đó. Ngày 22 tháng 8 năm 1996 ông bị đưa ra
tòa về tội “chiếm đoạt tài liệu bí mật của quốc gia” và lãnh án 12 tháng
tù. (2) Ngày hôm trước ông bị bắt, thì ngày hôm sau công an đến khám
nhà ông ở Đà Lạt, mang đi hàng ngàn trang tài liệu. Tưởng cũng nên nêu lên sự
kiện là chỉ trước đó mấy ngày ông đã trả lời một cuộc phỏng vấn của đài VNCR ở
California liên quan đến những tác phẩm của ông. Và người ta có thể nghĩ đây
cũng là một cái cớ khác khiến ông bị bắt.
Tin HSP bị bắt đã được nhiều tờ báo hải ngoại loan
tin, bình luận và trích dẫn các bài viết của ông, trong số đó, tại Đức có các tờ
Bản Tin Đức Quốc, Cánh Én, Sinh Hoạt Cộng Đồng, Hy vọng, Dân Chủ cho Việt Nam,
Forum, Viên Giác, Lá Thư Đông Âu, Thiện Chí; tại Pháp có các tờ Thông Luận, Tin
Nhà, Việt Nam Liên Minh, Nhân Bản, Diễn Đàn; ở Hoa Kỳ có các tờ Kháng Chiến,
Xây Dựng, Thế Kỷ 21, Ngày Nay, Người Việt v.v… Cộng Đồng Người Việt ở Đức còn tổ
chức tuyệt thực, biểu tình trước sứ quán Việt Cộng tại Bonn trong hai ngày 21
và 22 tháng 12 để đòi trả tự do cho Hà Sĩ Phu và các tù nhân chính trị
khác. (3)
Ngày 4 tháng 12 năm 1996 ông được phóng thích. Tại
sân bay Tân Sơn Nhứt (Saigon) và Liên Khường (Đà Lạt) ông đã được bạn bè và những
người ngưỡng mộ ông chờ đón với những bó hoa và cả câu đối, mặc dù vợ ông và rồi
chính ông đã gọi điện thoại can ngăn không muốn ai vì ông mà có thể bị liên lụy.
Nhưng sự thực chẳng có chuyện gì, vì đó chỉ là những người không biết sợ nhưng
cũng không dụng tâm gây rối.
Nhà báo Nguyễn Ngọc Lan trong những trang nhật ký thường
ngày, mà số lớn đã được đăng tải trên tờ Tin Nhà ở Paris, đã kể ra một số tên
trong những người đón ông ở Saigon như sau: linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan,
Thanh Vân, Bùi Minh Quốc (4), Lữ Phương , Xuân Sách, họa sĩ Minh, bác sĩ Đỗ
Thị Văn (chị Đỗ Trung Hiếu), Hồ Hiếu, ông La văn Lâm và một người bạn của Hà Sĩ
Phu. “chỉ có thế thôi, nhưng 12 bạn bè ngồi cùng bàn thì có Nam, có Trung, có Bắc,
có Bắc Kỳ chín nút (54), có Bắc Kỳ hai nút (75), có Phật tử, có Công Giáo, có Cộng
Sản, có không Cộng Sản, Cộng Sản còn trong đảng, Cộng Sản đã chào biệt đảng hay
đã “được” khai trừ, người viết văn, người làm thơ có, người viết báo, người dậy
học có, họa sĩ có, bác sĩ có, sĩ quan bộ đội hồi hưu cũng có. Cùng ngẩng cao đầu
chung quanh anh chị Hà Sĩ Phu vẫn ngẩng cao đầu.”
Với những ý kiến và lập luận của ông trong ba văn kiện
vừa kể, HSP đã làm cho một số bạn bè, văn nghệ sĩ trong cũng như ngoài nước
thán phục. Có người gọi ông là biểu tượng của trí tuệ. Người khác khi nói đến
ông thường nói hiện tượng Hà Sĩ Phu, tuy cũng có người phê bình ông không đánh
giá Mác đúng mức. Chúng tôi xin trích dẫn một ít hàng trong ba văn kiện vừa kể
để xem tác giả đã phán xét thế nào về chủ nghĩa Mác, về nền chính trị chuyên
chính vô sản, về công và tội của đảng Cộng Sản Việt Nam và của cá nhân ông Hồ
Chí Minh. Đồng thời cũng để xem ông đề xuất những gì và khả năng thực hiện những
đề xuất đó ra sao.
Chủ Nghĩa Mác-xít
“Ở nước ta, hệ tư tưởng Mác-xít cũng không khác gì một
“quốc giáo”, thực chất chỉ là biến tướng của tư tưởng phong kiến” (trang
116) (3). “Lý thuyết (Mác-xít) ấy như một cô gái cực đẹp nhưng lẩn thẩn,
chắc chắn sẽ được người ta vồ lấy và sau đó tất yếu là sự phản bội” (trang 123)
“Lý luận Marx-Lenine rất có lợi trong việc động viên,
tổ chức lực lượng đánh giặc, chống ngoại xâm, nhưng rất bất lợi trong việc hòa
giải dân tộc, bất lợi trong việc xây dựng một xã hội dân chủ pháp trị và kinh tế
thị trường.” (108)
“Học thuyết Mác-Lê không phải là cái gì cao xa chưa tới
mà chỉ là cái hoài vọng đã bị vượt qua, chỉ là biến tướng mới mang cái mốt công
nghiệp của chủ nghĩa phong kiến đã bị lịch sử vượt qua trước đây nhiều thế kỷ.
Nó không phải là thứ cẩm nang dẫn đường đầy tính súc tích huyền bí đến mức hàng
thế kỷ sau chưa có ai hiểu đúng, mà chỉ là những dự đoán lẩm cẩm không bao giờ
có thực trên đời.” (trang 140)
“Bên tai mọi người hình như luôn nghe thấy lời ám thị:
“Hãy coi chừng ! Không được trái ý Mác Lê! Hãy coi chừng! Không được trái ý Mác
Lê!” Mác Lê thế nào mấy ai biết? Có khi Mác Lê giống mấy ông công an, giống bà
trưởng phòng tổ chức, giống khoản lương hưu, giống xấp đô-la, giống những kỷ niệm
kinh hoàng một thời đói rách, giống ngôi biệt thự với chiếc xe con, giống két
bia lon với cô thư ký, hoặc có khi chỉ là một cái bóng ma rất thiêng trên bàn
thờ… Mác Lê muôn màu muôn vẻ, nhưng đã thành một ám thị tập thể. Trong khí quyển
thôi miên ấy con người phải quên nhân cách, đặc biệt là cấm không được hổ thẹn.”
(trang 165-166)
“Toàn bộ cái gọi là “chủ nghĩa xã hội khoa học” chẳng
qua là một Đại ngụy biện, nhằm biện minh cho một ảo ảnh. Học thuyết ấy đi vào
xã hội và con người Việt Nam không qua vọng gác của trí tuệ.” (trang 179)
“Ngụy biện này tận dụng triệt để những thành quả
trong quá khứ của cuộc chiến tranh vệ quốc, tận dụng tâm lý sau chiến tranh muốn
yên thân và khát khao cuộc sống vật chất và tận dụng thói quen phục tùng vô điều
kiện của dân. Tóm lại là tận dụng tình trạng dân trí thấp để không đổi mới mà vẫn
đổi mới, để nói “đổi mới của dân, do dân, vì dân” mà thực ra là “đổi mới của
mình, do mình, vì mình” để miệng nói “định hướng xã hội chủ nghĩa” mà tay làm
“định hướng tư bản chủ nghĩa” (180)
“Cuộc đấu tranh giai cấp “một mất một còn” luôn gắn
liền với bạo lực và chiến tranh, nó sẵn sàng mua chiến thắng bằng cách hủy diệt
môi trường (như “dẫu phải đốt sạch cả dẫy trường sơn”!) hủy diệt những công
trình văn hóa (như chính sách tiêu thổ kháng chiến), và hủy diệt con người
(“đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”, “Tổ quốc hay là chết”, và cả chục triệu
người Việt Nam đã thành vật hy sinh cho một cuộc chiến….) thì dẫu có anh hùng
và chính nghĩa đến đâu cũng chỉ là những trào lưu có tính văn hóa thấp. Khi nào
vươn được tới tầm văn hóa cao hơn, người ta sẽ thấy những chiến thắng ấy thật
là đáng ghê sợ. Lúc ấy hồi tưởng lại những bà mẹ đã tự hào vì cống hiến cả chồng
và bảy, tám người con cho cách mạng, người ta sẽ rùng mình hơn là kính phục.”
(trang 156-157)
“Ngày bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước … thì chủ nghĩa
Mác Lê-nin được bác coi là con đường là phương tiện giúp dân ta đi đến đích đó.
Nhưng rồi dần dần lại xuất hiện tín ngưỡng “dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa!”
Lạ như vậy đấy. Chủ nghĩa với tư cách là con đường, là phương tiện thì nó là
cái để ta dùng chứ sao lại để ta thờ? Nhưng dù gì đi nữa thì hậu quả nguy hiểm
vẫn là ở chỗ: Khi cái phương tiện đã thành cái mục đích thì lẽ tự nhiên cái mục
đích (ở đây là dân tộc) đổi chỗ để thành cái phương tiện(!) (trang 38)
“Nhưng điều thú vị là ở chỗ việc nhìn nhận lại một số
điểm trong học thuyết của Mác không làm giảm đi sự tôn kính của ta đối với Mác.
Chúng ta hãnh diện là đã có Mác là một người khổng lồ nhân từ cho ta được phép
đứng lên vai.” (trang 40)
“Chủ nghĩa Mác-Lê ngay từ đầu đã được Nguyễn Ái Quốc
coi là “con đường” là “phương tiện”, là “cái cần thiết cho chúng ta”, thì nó
không thể quý hơn “chúng ta” được.”
“…Ta biết ơn chiếc thuyền nan (M.V. viết thẳng
để nhấn mạnh là HSP không coi chủ nghĩa Mác ra gì, chỉ là một thứ thuyền nan mỏng
manh, ọp ẹp) đã đưa ta qua sông, nhưng sang bờ rồi mà cứ cắm cúi mang “chiếc
thuyền Mác xít chỉ huy” trên lưng như cái mai rùa, thì tránh sao khỏi bị người
ngoài đàm tiếu và người thân nghi ngờ rằng có sự che đậy hay cất giấu cái gì
trong đó? Cái “hành trang khác người” ấy quả tình không còn ích lợi gì cho Dân
tộc, có trút bỏ được mới mong tự giải thoát, để được lâng lâng, nhẹ nhàng, rảo
bước cho kịp bạn bè trên đường thiên lý.” (trang 112)
Về chuyên chính vô sản và đảng của giai cấp vô sản:
“Cái chất phong kiến gia trưởng thời vua chúa chưa kịp
tẩy rửa bởi một nền dân chủ đã tìm thấy chỗ đứng rất “ngon lành” trong hệ
chuyên chính “dân chủ tập trung”.
“Cái chất Đức trị sặc mùi tam cương ngũ thường chưa bị
thanh toán đã tìm thấy sự đồng điệu trong một thể chế “ý thức trị”, một thứ Đức
trị mới toàn những Nghị quyết, những Cương lĩnh, Thường vụ…” (trang 141-142).
“Sau khi đã đưa được Đức lên vị trí tối thượng, cụ Hồ
mới cho Đức mang cái nội dung cốt tử của chuyên chính vô sản: chữ TRUNG! Mà
“trung” là phải “trung với Đảng”! Rồi mới “hiếu với Dân!” v.v…
“Tuy Dân có được kể đến ở ngôi vị thứ nhì, nhưng rồi
lại có mệnh đề “Đảng với Dân là một”. Tuy được là một, nhưng ngồi chung vào cái
ghế này “Dân” sẽ bị “Đảng” thôn tính, vì dân phải nhớ rằng Đảng luôn là người
“lãnh đạo trực tiếp và tuyệt đối”! Thế thì Dân còn chỗ nào mà đứng? Thương thay
cho dân đã thực sự trở thành con đỏ, được ru, được nựng, được bế ẵm, hết chỗ
này sang chỗ kia, nhưng có cái bầu sữa thì ở trong tay “mẹ hiền” mất rồi, không
khóc thì Đảng không cho bú, mà liệu có dám khóc không, khi “mẹ hiền” cầm sữa lại
cầm cả roi!” (trang 144)
“Vừa ý Đảng thì chữ TÀI liền với chữ TIỀN. Trái ý “Đảng
thì chữ TÀI liền với chữ TAI!
Chọn đường nào thì chọn!
“Trí thức Việt nam nhậy bén, họ hiểu ý đảng, nên chẳng
dại gì mà chọn chữ TAI, cứ chọn con đường có hình bác Hồ chỉ lối, để “Bác vẫn
cùng chúng cháu hành quân” … thì “đánh đâu thắng đấy”! “Cứ có bác Hồ trong tay
là sai khiến được ráo, chuyên chính vô sản chỉ nghe lời bác Hồ”! Người Việt
ngày nay nói về đồng tiền cách mạng một cách rất đạo đức như thế!
“Đấy là đạo đức mà xã hội Mác Lê đã dạy họ.” (trang
147)
“Thử hỏi cái mà các anh cho là vững mạnh vô địch kia
là cái gì? Chủ nghĩa Mác Lê chăng? Tư tưởng Hồ Chí Minh chăng? Xin thưa những bảo
vật thiêng liêng kia chỉ còn cái vỏ bày triển lãm thôi, ruột gan bên trong bị
đánh tráo xong từ lâu rồi.” (tr.196)
Về ông Hồ Chí Minh
Sau khi nêu lên mặt tích cực là dựa vào chủ nghĩa Mác
Lê để tranh đấu thắng lợi cho cách mạng tháng tám và kháng chiến chống Pháp
thành công, tác giả nói về mặt tiêu cực như sau:
“Song đáng tiếc là sự nghiệp Hồ Chí Minh đã không đi
tiếp vào con đường dân tộc hòa bình sáng lạn. “Mặt tiêu cực của cuộc gặp gỡ giữa
dân tộc Việt Nam nói chung và Hồ Chí Minh nói riêng với trào lưu Cộng Sản là đã
du nhập vào đất nước mình một mô hình xã hội chủ nghĩa không tưởng, đặt căn bản
trên ý thức hệ phong kiến tân thời, một “thiên đường” trại lính Mao-ít, nên nước
Việt Nam độc lập đã không bắt kịp trào lưu canh tân của thế giới mà trở thành nạn
nhân bi đát nhất của cuộc chiến hai phe của các nước lớn.” (trang 148)
“Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành công trong một sự nghiệp
lớn, nhưng lại không thành công trong một sự nghiệp lớn hơn, bao quát hơn…
“Do bản năng nhạy bén, Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy từ
trào lưu Cộng Sản sức mạnh ghê gớm cần phải sử dụng, và cũng linh cảm thấy
trong đó có điều phải cảnh giác, nhưng điều kiện chủ quan cũng như khách quan
đã không cho Nguyễn Ái Quốc đủ nhận thức hệ thống để phân định vấn đề tận gốc,
nên đã sa vào thiên la địa võng của một đại bi kịch nhân loại mà những nước
khôn ngoan hơn đã tránh được. Dùng âm binh rồi không điều khiển nổi âm binh, để
lại bi kịch cho dân tộc cũng như bi kịch cho cuộc đời của riêng mình.” (149)
Về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước:
Đây là một nỗ lực đáng kể của tác giả “Chia tay ý thức
hệ”. Tuy ông để trong ngoặc đơn, làm như không quan trọng, nhưng lại là một nhận
định hết sức quan trọng trong bối cảnh lịch sử được viết lên theo nhãn quan các
người Cộng Sản. Ông viết:
“(Để bao quát hơn nên gọi là cuộc nội chiến Nam Bắc lần
thứ hai, lần thứ nhất là Trịnh Nguyễn phân tranh.)”
Với câu vừa nêu, Hà Sĩ Phu phủ nhận cái gọi là cuộc
chiến chống Mỹ. Cùng với sự phủ nhận này, như một hệ luận tất yếu, ông ngầm kết
án mọi cố gắng của miền Bắc nhằm “đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào.” Đối với ông đó
chỉ là cuộc chiến “nồi da nấu thịt.” Để khỏi phải kết tội “anh hùng” Hồ Chí
Minh và đảng Cộng Sản, là điều có thể đưa ông vào Hỏa Lò, Hà Sĩ Phu đã trưng dẫn
Lê Xuân Tá để đổ hết tội lên đầu Lê Duẫn và Lê Đức Thọ như sau:
“Xin hãy bình tĩnh để tham khảo ý kiến của ông Lê
Xuân Tá, một cán bộ của ủy ban khoa học nhà nước, những năm 60: “Khát vọng của
Lê Duẫn là phải làm một cái gì hơn cả Điện Biên Phủ, để vượt trội cả Hồ Chí
Minh lẫn Võ Nguyên Giáp. Khát vọng đó được Lê Đức Thọ đồng tình. Lập trường chủ
chiến có nguồn gốc sâu xa như vậy…Nếu không phát động được cuộc chiến tranh ở
miền Nam, thì cả Lê Duẫn lẫn Lê Đức Thọ chưa nắm được thế thượng phong trên vũ
đài chính trị. Tháng 11 năm 1960 Lê Duẫn phát động phong trào Đồng Khởi, đặt cả
nước và ban lãnh đạo ở thế đã rồi.” (trang 182)
Về cộng đồng người Việt Hải Ngoại
“Hai triệu người Việt ở nước ngoài là một nhân tố có
vai trò đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Lịch sử hình thành cộng đồng
người Việt hải ngoại này là một quá trình sàng lọc khiến nó có những ưu điểm mà
không một quốc gia tự nhiên nào có được. Sàng lọc về trình độ người ra đi và
sàng lọc về trình độ của quốc gia mà người ấy đến sinh sống. Về nhiều mặt, nếu
lấy trình độ trung bình trong nước làm chuẩn, thì những người Việt ra đi nói
chung có trình độ cao hơn, trong đó không ít người tài giỏi và giữ bền tấm lòng
với đất nước, lại được sống trong những nước tiên tiến nhất. Tuy bị hạn chế bởi
nhược điểm phân tán, phân ly, nhưng cái tổng lực khổng lồ ấy nhất định sẽ có những
đóng góp đặc biệt cả về xây dựng kinh tế lẫn xây dựng dân chủ.” (trang 192)
Sau khi được tin tướng Trần Độ bị đảng khai trừ vào đầu
năm nay, Hà Sĩ Phu đã cùng với Lữ Phương gửi cho viên tướng này mỗi người một
lá thư bày tỏ cảm nghĩ của mình, vừa để tỏ tình cảm thông, vừa để góp thêm ý về
lập trường của một người đã từng theo đảng lâu năm. Tiêu đề của bức thư là
“Chia vui với bác Trần Độ.” (5) Nguyên hai chữ chia vui đã đủ nói hết
ý nghĩa của lá thư. Tại sao lại vui? Vì không phải bị khai trừ. Mà là “được
khai trừ”, được thoát ra khỏi đảng. Chỉ nguyên cái tiêu đề đó đã nói lên hết sự
đánh giá đảng của HSP. Nhưng để yên ủi và trấn an Trần Độ, cũng như gián tiếp
trấn an những người đã từng phục vụ đảng trong một thời gian, HSP đã đặt ra một
ranh giới rõ rệt, đồng thời cũng cố dung hòa chủ nghĩa Mác-Lê với chủ nghĩa yêu
nước trong những hàng chữ rành mặch như sau:
“Trong quan hệ mục đích phương tiện thì yêu nước là mục
đích, phong trào Cộng Sản là phương tiện. Trong quan hệ trao đổi năng lượng thì
chủ nghĩa Mác-Lê đã ký sinh trên nguồn năng lượng vô tận của chủ nghĩa Yêu nước.”
Ông ngụ ý trong những hàng kế tiếp: nếu có một “tấm
lòng Cộng Sản” thì những người Cộng Sản cần phải gạt bỏ cái cây tầm gửi (“ký
sinh”) kia đi đừng để nó ăn bám vào lòng yêu nước của mình. Như vậy, cũng như
trong các bài viết của ông trước đó, HSP không dám phủ định hoàn toàn công dụng,
trong quá khứ, của chủ nghĩa Mác-Lê và của Đảng, có lẽ vì ông còn sợ, còn cần
thủ thế.
Ký giả Mõ Bà trong một số báo gần đây trên tờ Phụ Nữ
Diễn Đàn đã nêu lên một câu đối của Hà Sĩ Phu phê bình đảng một cách văn vẻ về
thái độ sợ “diễn biến hòa bình” như sau:
“Nhà vô địch luôn sợ địch vô nhà”
và đồng thời cho đăng câu đối của một độc giả L:
“Đảng độc tài chỉ có tài độc đảng” .
Trong bối cảnh đòi dân chủ đa nguyên đa đảng, chắc hẳn
“đảng ta” nghe thế cũng nhột nhạt lắm.
Nhận xét về tác giả và cố gắng lật hòn đá tảng của
ông
Căn cứ vào tin từ trong nưóc cũng như ở hải ngoại và
những gì chính tác giả đã cho biết, thì HSP phải là con người đặc biệt. Không
phải dòng giống trí thức, cũng không phải con ông cháu cha, lại không phải đảng
viên mà ông được đi du học ngoại quốc, đậu tới phó tiến sĩ sinh học, lại có khả
năng lý luận của một nhà khoa học về xã hội, dám là người đầu tiên trong chế độ
đứng lên phê bình chủ nghĩa Mác, phê bình đảng, phê bình một cách khéo léo cả
lãnh tụ tối cao Hồ Chí Minh. Nhất là, mặc dù những tư tưởng cực kỳ “phản động”
như vậy, ông ta vẫn không bị thủ tiêu, mà chỉ bị án 12 tháng tù rồi được thả để
chỉ còn bị “giam lỏng”.
Điều đó khiến có nhiều người nghi ông là “cò mồi”,
“chống cuội”. Nhưng thiết nghĩ đó chỉ là mối nghi ngờ dè dặt thường lệ do kinh
nghiệm “Cộng Sản là vua mánh lới”. Dầu sao đọc ông những người chống Cộng cũng
thấy có nhiều điều đáng khâm phục, tuy chưa hoàn toàn hài lòng, vì ông vẫn còn
kiêng nể ông Hồ, ông Mác phần nào, có lẽ cũng chỉ để thủ thế, dùng đấy như lá
bùa hộ mệnh chống lại sự hãm hại của cái đảng còn đầy quyền lực.
Tác phẩm “Chia Tay Ý Thức Hệ” đúng là một tham vọng
quá lớn. Bởi vì Mác là một triết gia (mặc dầu có nhiều người không đồng ý), một
kinh tế gia, một nhà cách mạng xã hội đã từng làm rung động Âu Châu vào nửa cuối
thế kỷ trước. Chủ nghĩa Cộng Sản, tuy nay đã chứng tỏ là ảo tưởng, vô nhân, thất
bại, nhưng đã từng lôi cuốn, mê hoặc nhiều nhà trí thức, làm nguồn cảm hứng cho
nhiều nhà ái quốc đi vào con đường giành độc lập cho xứ sở. Vậy mà chỉ để hơn
trăm trang giấy nhằm triệt hạ những thứ đó bằng một số biện luận cô đúc, vắn gọn,
thì dĩ nhiên không thể nào làm vừa ý những nhà nghiên cứu thận trọng.
Tác giả vừa là nhà khoa học thiên nhiên, vừa ham
thích xã hội học, lại có óc lãng mạn của một nhà thơ, không thoát khỏi lối lập
luận khó hiểu của một bộ óc muốn diễn đạt tư tưởng của mình với một sắc thái
riêng. Vì vậy phê bình ông không phải dễ.
Dĩ nhiên chúng tôi không có ý bàn đến lối suy luận của
ông, vẫn còn bị ảnh hưởng rất nhiều bởi duy vật biện chứng, và chưa thoát hẳn
khỏi những tư tưởng được nhồi nhét hàng chục năm bởi tuyên truyền của Cộng Sản
quốc tế cũng như quốc nội. Bàn đến đức trị, phong kiến, Khổng giáo, quốc giáo,
duy vật, duy tâm …là những thứ đòi hỏi lật lại cả một kho tàng văn học và triết
học từ cổ chí kim từ đông sang tây. Cả trăm trang sách cũng không nói hết ý để
có thể thuyết phục được ai. Hơn nữa những vấn đề đó đã được nhiều nhà phê bình
triết học và chính trị học bàn đến đầy đủ và đã được kiểm chứng bằng thực tiễn,
trong đó phải kể đến sự sụp đổ đồng loạt và nhanh chóng của khối Cộng Sản Đông
Âu và Liên Xô vào cuối thập niên trước và đầu thập niên này. Vì vậy chúng tôi
chỉ xin hết sức tóm tắt những kết luận cơ bản của tác giả về một số vấn đề cụ
thể có tác dụng đối với quảng đại quần chúng, tránh mọi khía cạnh chuyên môn rắc
rối trừu tượng. Những lời trích dẫn từ tác giả đã được chúng tôi lựa chọn theo
mục đích đó.
Trước hết tác giả ví chủ nghĩa Mác như một cô gái cực
kỳ xinh đẹp nhưng ngớ ngẩn, ai thấy cũng phải vồ ngay lấy, nhưng chắc chắn rồi
sẽ phản bội. Nó hấp dẫn vì nó hứa hẹn thiên đàng. Nhưng kết cuộc là “thiên đàng
mù”. Đó là ảo tưởng. Một chủ nghĩa không tưởng.
Chủ nghĩa đó không tưởng vì nó chối bỏ quyền tư hữu
là quyền gắn liền với bản tính con người. (Có người sẽ bĩu môi: “Không tưởng
thôi à? Phải nói phi nhân, bất nhân, vô nhân đạo, dã man mới đúng!” Điểm này
chúng tôi sẽ xin bàn ở chương cuối.)
Nó không tưởng vì coi nhẹ con người. Với nó con người
trong xã hội chỉ là những chiếc đinh ốc, những bánh xe… trong một guồng máy. Nó
chủ trương cuộc sống loài người là một cuộc đấu tranh không ngừng giữa các giai
cấp. Nhưng giai cấp là thứ gì không có thực. Thiên nhiên không tạo ra giai cấp,
mặc dầu vẫn biết Mác đã đựa vào thuyết biến hóa của Darwin để làm cơ sở cho lập
luận đấu tranh giai cấp của ông.
Từ chủ trương đấu tranh giai cấp, nó dẫn đến chủ
trương tiêu diệt giai cấp đối địch. Bạo lực, chiến tranh là không tránh được để
đưa loài người đến “những thiên đường mù”.
HSP cũng phê phán sự đánh giá sai lạc của Mác đối với
giá trị lao động đặc biệt là giá trị thặng dư. Ông đã phân tách kỹ yếu tố này,
coi như cốt lõi của chủ nghĩa Mác về kinh tế, và xã hội.
Tóm lại tất cả những điều trên đều đã được các nhà
phê bình Mác từ một thế kỷ nay nêu lên và chứng minh đầy đủ. Tác giả chỉ nói lại
với một thứ “phương pháp luận” riêng và với những thuật ngữ khá lạ tai. Nhưng lời
nói của ông có tiếng vang lớn vì là lời nói phát ra từ trong lòng chế độ, nơi từ
trước tới nay chưa ai dám nói và ít ai dám nghĩ. Nó có sức hấp dẫn lớn. Vì vậy
nó không được phổ biến trong nước. Người trong nước biết được nó qua đường vòng
từ trong nước ra hải ngoại, rồi từ hải ngoại vọng về. Nhưng đáng buồn là cũng
chỉ một số ít người ở các thành phố lớn biết một cách mơ hồ thôi. Còn ở các nơi
khác thì như chính ông đã nói với đài VNCR
“Đối với số đông dân cư ở các vùng nông thôn, miền
núi, thì người dân chưa biết cái gì tồn tại ở trên đời ngoài đảng Cộng Sản Việt
Nam”!
Để gián tiếp kêu gọi giải thể chế độ và đảng Cộng Sản,
Hà Sĩ Phu đã nêu lên một hình ảnh rất sống động vừa thiết thực vừa có tính chất
châm biếm là cái thuyền nan cần phải bỏ đi sau khi đã qua sông. Một cách cụ thể
ông đề nghị nâng cao dân trí và công khai hóa mọi việc. Đó là một thách đố đối
với nhà cầm quyền hiện nay. Vì để nâng cao dân trí ông đòi cho tự do báo chí.
Ông thách nhà cầm quyền cho phép chỉ hai tờ báo tư nhân, một ở miền Bắc và một ở
miền Nam, để đương đầu với từ 300 tới 500 tờ báo của đảng và chính quyền.
Nếu không đặt nặng vấn đề lý luận và tư tưởng mà chỉ
quan tâm đến tính thời sự chính trị thì không thể nghi ngờ lập trường chống Cộng
của HSP. Ông đòi từ bỏ chủ nghĩa Mác, bỏ tệ nạn sùng bái cá nhân, từ bỏ sự lãnh
đạo của đảng. Ông cũng lên án cuộc chiến tranh gọi là “chống Mỹ cứu nước”.
Nhưng, để tỏ vẻ công bằng và không cực đoan, cũng như phần đông các nhà trí thức
trong nước, đã từng theo kháng chiến chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của đảng
Cộng Sản, ông cho rằng đảng có công trong việc đánh thắng thực dân Pháp. Ông
cũng không dám phủ nhận công của chủ nghĩa Mác đã là con đường, là phương tiện
hữu hiệu trong công cuộc kháng chiến thắng lợi đó. Cũng như ông vẫn công nhận dầu
sao ông Hồ Chí Minh vẫn là con người đạo đức, có công trong việc giành độc lập
cho tổ quốc. Vì đó cũng là ý kiến của nhiều tác giả được chúng tôi trưng dẫn
trong soạn phẩm này, nên chúng tôi sẽ xin được bàn đến trong chương tổng kết.
Tác giả đã để nhiều trang sách nói về tính ngụy biện
của học thuyết Mác và châm biếm cay độc những lập luận và hành vi của lãnh đạo
đảng. Dẫn người đọc đến chỗ phải kết luận: chỉ còn cách phải phế bỏ sự lãnh đạo
ngu xuẩn và lưu manh đó, theo từ ngữ của Vũ Thư Hiên.
Có sống ở trong nước với Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc,
Nguyễn Ngọc Lan, hàng ngày thấy văn nghệ sĩ, vì sợ, vì nồi cơm, vì bị bưng bít,
chỉ biết nói theo đảng, thì mới thấy sự dũng cảm của Hà Sĩ Phu, dám nói lên một
số điều mà người khác không dám nói. Nếu vì thế mà Nguyễn Ngọc Lan hay Bùi Minh
Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự có ca tụng ông, bốc ông lên như một “biểu tượng” cũng
không nên bảo họ tâng bốc nhau. (6)
Một điều mà chúng tôi muốn nêu lên trước khi kết thúc
chương này đó là sự việc ông Hà Sĩ Phu bị bắt trong một bối cảnh tranh chấp nội
bộ giữa hai nhóm “đảng quyền” và “nhà nước quyền” vào lúc ấy. Nhóm đảng quyền gồm
những tay bảo thủ trong đảng như Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà
Phan chủ trương cố bám lấy chủ nghĩa Mác Lê, xhcn, chuyên chính vô sản. Trong
khi nhóm “nhà nước quyền” gồm những tay chủ trương đổi mới để mở rộng liên hệ với
thế giới bên ngoài như Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Trần Đức Lương, Võ Oanh.
Hà Sĩ Phu bị bắt được hai ngày thì Lê Hồng Hà cũng bị
bắt. Nếu ông trước bị bắt “quả tang” mang bức thư tối mật của Võ Văn Kiệt, thì
ông sau bị bắt vì có dính líu đến việc ông ta đã cùng với Nguyễn Trung Thành,
(thuộc ban tổ chức trung ương đảng, trực tiếp dưới quyền Lê Đức Thọ, khi ông
này đứng đầu ban tổ chức trung ương đảng, đầy thế lực và thực quyền, và ông
Thành cũng chính là người thụ lý vụ án “xét lại chống đảng vào thời 1967”) vận
động xét lại vụ án để minh oan cho các nạn nhân. Cả hai ông Nguyễn Trung Thành
và Lê Hồng Hà đều vì thế mà đã bị khai trừ khỏi đảng. Vì chuyện này có liên hệ
đến tranh chấp nội bộ và vụ án xét lại hơn hai chục năm trước là vụ án làm chia
rẽ đảng, mở ra một kẽ hở có triển vọng dẫn đến sự sụp đổ chế độ, nhưng sự sụp đổ
vẫn không xảy ra, nên chúng tôi sẽ xin bàn đến trong chương tổng kết, sau khi
đã ghi nhận, phân tích ý kiến của nhiều tác giả được trưng dẫn trong soạn phẩm
này.
Chú Thích
(1) Bút hiệu này không có nghĩa là sĩ phu Bắc
Hà, như Đào Duy Tùng giải thích khi phê bình ông, hay sĩ phu Hà-nội như người
ta có thể hiểu. Nó chỉ có nghĩa như là một câu hỏi, một lời than: sĩ phu, kẻ sĩ
đâu rồi, hay như ông cho biết: “Thế nào là sĩ phu”? “Ai là sĩ phu”?
(1 bis) Các tác giả phần nhiều không có tên tuổi,
trừ Quang Cận, cấp đại tá, tổng biên tập tờ Quân Đội Nhân Dân.
(2) Ngày 22-8-1996. Theo vợ ông là bà Đặng Thị
Thanh Biên thì ông Tụ đã khai tại tòa (nguyên văn lời bà trong thư khiếu nại gửi
các cơ quan công quyền ngày 30 tháng 9 năm 1996): “Ngay trang đầu của bản cáo
trạng đã ghi bắt quả tang tôi đã có hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật của nhà
nước là sai hoàn toàn với thực tế. Lúc đó tôi đang đi xe đạp về phía Bờ Hồ thì
có hai người ngồi xe gắn máy rượt sát tông vào xe làm tôi ngã. Tôi chưa kịp đứng
dậy vững thì có người giật túi, tôi kêu lên , lúc đó thấy có đông người trong
đó có công an vây quanh. Công an dẫn tôi và người giật túi về đồn công an phường
Hàng Bài. Kẻ giật túi được ngồi yên. Một người công an giật túi tôi đòi xem có
mất gì không. Tôi nói tôi không mất gì cả. Nhưng người công an vẫn giằng túi
tôi lục soát và lập biên bản là tôi đã có hành vi chiếm đoạt tài liệu bí mật
nhà nước. Thật là vô lý! Cứ làm như tôi là gián điệp biệt kích bị bắt quả tang
đang mở khóa kho lưu trữ hồ sơ quốc gia”
(3) Tờ “Viên Giác” ở Đức số 84 tháng 12 năm 1994
có đăng bài của Tâm Tràng Ngô Trọng Anh viết về bài tiểu luận của Hà Sĩ Phu
trong đó có câu: “Diệu Âm của Hà Sĩ Phu vỏn vẹn chỉ có vài trang chuyền tay mà
làm thất kinh bát đảo toàn bộ “cỗ máy nghiền” văn hóa trí thức của Đảng”
(4) Số trang trong ngoặc đơn ở chương này là
theo cuốn Hà Sĩ Phu tuyển tập do Thế Kỷ 21 xuất bản tại California tháng 1 năm
1996.
(5) Khi nhà thơ Bùi Minh Quốc, người bạn của Hà
Sĩ Phu cùng ở Dà Lạt, bị khai trừ, ông cũng có sáu câu lục bát gửi bạn:
“Cộng Trừ Nhân Chia” (Tặng BMQ ngày bị khai trừ):
Nghe tin cậu bị khai Trừ
Tấm lòng Cộng Sản có dư vẫn bền.
Lòng nhân ví được Nhân lên
Chia cho thiên hạ làm duyên bạn bầy!
Chạnh lòng, nhớ thuở thơ ngây.
Nhân Chia chưa biết, loay hoay Cộng Trừ!
(6) Ông Nguyễn Minh Cần lưu vong ở thủ đô Liên
Bang Nga, sau khi đọc bài của HSP về hoàn cảnh BMQ “bị hành hạ, tra tấn, nhục
hình đối với thể xác và tâm hồn” (Mỗi ngày phải viết hai bài tự kiểm, MV)
trên tạp chí Thế Kỷ 21 tháng 1-1999. và một câu đối của Hà Sĩ Phu nhân ngày
sinh của BMQ, đã viết cho HSP một lá thư dài để chia sẻ quan điểm và cổ võ HSP
và các người bạn cùng chí hướng của ông ở trong nước. Đồng thời ông Cần cũng hưởng
ứng lời kêu gọi tìm vế thứ hai cho câu đối, mặc dù “thú thật vốn chữ Hán của
tôi không bằng cái trứng muỗi”. Hai vế đối của Hà Sĩ Phu và Nguyễn Minh Cần như
sau:
Minh Minh Quốc
|
đối
|
Sĩ Sĩ Phu
|
Cầm Minh Quốc bất minh
|
đối
|
Đả Sĩ Phu vô sỉ
|
Minh nhật kê minh
|
đối
|
Sĩ khí chí sĩ
|
Minh Quốc phục
|
đối
|
Sĩ Phu Vinh
|
Chương 5
Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên
“Đêm Giữa Ban Ngày” (1) là cuốn hồi ký viết
về những gì xảy ra trong tù Cộng Sản giữa tác giả và tên cai tù và từ đó về những
gì xảy ra trong đầu tác giả nhân những cuộc hỏi cung, liên quan đến “nhóm xét lại
chống đảng”, rồi từ đó về cả những nhân vật khác trong chế độ Cộng Sản miền Bắc.
Khung cảnh thời gian, không gian rất nhỏ hẹp. Nhưng nội dung tác phẩm thì rất lớn,
rất đa dạng: đề cập đến rất nhiều vấn đề, rất nhiều sự việc và rất nhiều nhân vật.
Tác giả là một nhà văn, nên ông đã trình bày những sự
kiện có thực một cách rất văn vẻ, linh động, sắc nét, làm cho người đọc có cảm
tưởng như đọc một tác phẩm văn chương, nhờ vậy có đủ hứng thú đọc hết 767 trang
sách mà không cảm thấy mệt mỏi.
Vũ Thư Hiên là con Vũ Đình Huỳnh, một trong những cận
thần của ông Hồ, đồng chí và là bạn của những nhân vật trụ cột của chế độ Cộng
Sản như Nguyễn Lương Bằng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp…, đã từng ngồi tù Sơn
La của Pháp cùng với Nguyễn Lương Bằng, Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn, Đặng Kim
Giang, Tô Hiệu, Kỳ Vân, Lưu Động v.v… Ông Huỳnh đã từng có thời làm bí thư cho
HCM, luôn luôn ở bên cạnh họ Hồ trong thời gian thương thuyết với Pháp ở hội
nghị Fontainebleau, năm 1946. Vì vậy con ông cũng đã có nhiều dịp tiếp xúc trực
tiếp với hầu hết các cấp lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam, từ Hồ Chí Minh trở xuống.
Với tư cách nhà văn, nhà báo ông đã quen biết rất nhiều
văn nghệ sĩ nổi tiếng trong chế độ Cộng Sản và biết rõ tính tình, cũng như xu
hướng chính trị của rất nhiều người trong văn giới và báo giới. Là người thông
hiểu Nga ngữ, đã nhiều năm du học ở Liên Xô, ông cũng có những liên lạc với một
số người Nga, nhà văn Nga. Những kiến thức của ông nhờ tính ham đọc sách đã lôi
cuốn người đọc vì chúng cung cấp những thông tin rộng rãi về nhiều lãnh vực.
Tác giả khởi sự viết tác phẩm này vào mùa hè năm 1985
tại Saigon. Nó được tiếp tục ở Hà-Nội, ở Liên Xô, ở Balan, rồi hoàn tất ở
Paris. Tại Liên Xô bọn “côn đồ” đã cướp bản thảo, đập máy vi tính của ông, đâm
ông trào máu, cố ngăn cản không cho ông thực hiện ý định. Nhưng ông đã ôm ấp dự
tính viết một cuốn sách về “vụ án xét lại chống đảng” này ngay những ngày đầu
trong nhà đá Hỏa Lò (trang 295.) Trong những ngày quá đau khổ đến tuyệt vọng có
nhiều lúc ông đã muốn tự sát. Nhưng “tôi phải sống sót để nói lại cho đồng bào
tôi nghe về thực chất cái xã hội trong đó con người VN bị tước đoạt mọi quyền tự
do tối thiểu mà mỗi công dân bình thường của thế giới bình thường phải có.”
(trang 513).
Chính cha ông cũng là người thúc đẩy ông, góp ý với
ông, trong việc viết cuốn hồi ký này. Mục đích của cuốn sách đã được tác giả
nói đến rất cặn kẽ, chính xác, không thể hiểu lầm nơi những trang 303-305, và
513 vừa nêu. Tác giả hoàn thành cuốn sách này còn là để nói lên niềm hối hận của
cha con ông. Sau đây là một vài đoạn nói lên niềm hối hận đó:
“Với đảng của ông, cha tôi đoạn tuyệt hoàn toàn”.
– Con ạ, những ngày gần đây bố suy nghĩ nhiều về
tương lai đất nước mình. Con có biết bố đi đến kết luận gì không? Kết luận của
bố là thế này: muốn cho dân tộc ta không thua kém các dân tộc khác, muốn cho đất
nước được thịnh vượng, dân ta không nghèo khổ mãi thì không thể thiếu một điều
kiện tiên quyết: ấy là phải gạt bỏ sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản. (M.V. tô đậm)
Đảng đến nay đã hết là đội quân tiên phong của cách mạng giải phóng dân tộc rồi.
Bây giờ nó trở thành chướng ngại vật trên đường phát triển của dân tộc….
“Tôi sửng sốt. Tôi có thể chờ đợi ở cha tôi bất cứ ý
nghĩ nào khác, nhưng không phải ý nghĩ ấy.
“Cần phải có dũng khí vượt qua nỗi đau mới đoạn tuyệt
được với quá khứ dứt khoát đến như vậy.
“- Con có hiểu vì sao lâu rồi bố không về quê không?
Một hôm khác, cha tôi buồn rầu nói -Bố nhớ làng xóm lắm. Nhưng bố xấu hổ. Sau
này con về nhớ nói bố xin lỗi bà con. Bố đi làm cách mạng không phải để mọi người
phải sống cuộc sống như thế này. Là con người ai cũng vậy không khổ vì thiếu thốn
bằng khổ vì nhục. Một chế độ hạ nhục con người không phải chế độ nhân dân ta lựa
chọn.”
Xóm làng mà ông Huỳnh nói đến ở đây là làng Kiên
Lao (2), phủ Xuân trường, tỉnh Nam định, sinh quán của ông. Vì “cách
mạng” ông đã bỏ, chẳng những làng xóm của ông, mà cả tôn giáo của ông, đạo Công
Giáo. Con ông viết rằng từ cái tôn giáo đó ông chỉ còn giữ có lời “Đức Chúa
Giêsu Ki-ri-xi-tô dạy là hãy yêu người như mình vậy”. (3)
Nếu đọc không kỹ, người đọc có thể bảo tác giả chỉ nhắm
mục đích đả kích bọn Duẩn – Thọ là những kẻ chủ mưu trong việc bắt giam cha con
ông. Nhưng ông đã cố giữ lời cha ông dặn khi gần chết: “…Không phải vì mục đích
vạch tội ai mà con làm việc này, không phải vì mục đích ấy. Mục đích lớn hơn:…”
Đó là cổ võ dân chủ pháp trị, tránh độc tài. (Xin đọc tiếp giữa trang 305.) Và
tôi thiết nghĩ, Vũ Thư Hiên đã làm đúng lời trăn trối của cha ông.
Vài nét về Vũ Thư Hiên:
Vũ Thư Hiên sinh ngày 18-10-1933, nguyên quán Trung
lao, trực Ninh, Nam định. Mẹ ông là người Hà-nội. Năm 1945, khi mới 12 tuổi ông
đã xung vào đội tuyên truyền xung phong. Bốn năm sau ông vào lính và được theo
học trường lục quân Trần Quốc Tuấn. Do cương vị của cha ông bên cạnh ông Hồ, và
cũng do vai trò của cán bộ thiếu nhi tuyên truyền ông có cơ hội gặp ông Hồ rất
sớm và giữ những kỷ niệm về tình cảm tốt đẹp dành cho “người bác” của ông cũng
như hàng tá các bác khác từng chiến đấu cam khổ bên cạnh cha ông trong thời chống
Pháp. Chỉ cho đến khi ôm ấp ý định viết cuốn hồi ký này, những tình cảm ban đầu
mới phai lạt và được thay thế bằng những nhận định thực tiễn chua cay.
Tuy cha ông đã bỏ đạo, mẹ ông lại là người gốc đạo Phật,
và cả hai đều duy vật, nhưng mẹ ông không chống đối việc các con được các ông
bác bà cô đưa đi rửa tội và xem lễ. Sau khi cha ông bị bắt lúc ông lên sáu, ông
đã sống một số ngày thơ ấu ở quê nội, là nơi đã để lại trong ông nhiều kỷ niệm
êm đềm tha thiết. Hồi 24 tuổi ông lại có dịp về làng và gặp lại bà cô và được
nghe bà khuyên nên tránh xa Cộng Sản vì: “Cộng Sản bất nhân lắm”…(trang 248). Vợ
ông khi đi du học ở Ba Lan về, với những gì nhìn thấy ở Balan cũng đã nhủ chồng
mình không nên theo Cộng Sản vì nó “không được lòng dân.” (trang 249). Nhưng ảnh
hưởng bên nội và lời khuyên của chính vợ ông không làm ông kém hăng say đi theo
lý tưởng của cha mẹ. Nhất là cha ông sau khi bất mãn về những sai lầm trong cải
cách ruộng đất vẫn còn bênh đảng, nói rằng đảng đã biết lỗi và sửa sai. Vì vậy,
tuy không phải là đảng viên Cộng Sản như họ, nhưng ông vẫn lấy làm hãnh diện là
đã ở trong hàng ngũ những người kháng chiến. Cho đến khi ông cảnh tỉnh thì đã
quá muộn. Cho nên ông bảo mình “đần”, “ngu lâu”. (trang 250)
Nhờ thế lực của cha, Vũ Thư Hiên đã được cử đi học về
Điện Ảnh ở Liên Xô. Chính trong thời gian du học này ông đã được chứng kiến tại
chỗ việc tân lãnh tụ Cộng Sản nước này hạ bệ thần tượng Staline, mở đầu một
giai đoạn mới, chủ trương “các nước có xu hướng chính trị khác nhau có thể sống
chung hòa bình”.
Trong hồi ký, Vũ Thư Hiên đã nói rõ ông làm cách mạng,
cũng như ông theo chủ nghĩa duy vật chỉ vì cha mẹ ông làm cách mạng và theo chủ
nghĩa duy vật, vì lúc ấy duy vật là cái mốt. Vậy thôi. (trang 177)
Trong số gần chục tác phẩm của mình, Vũ Thư Hiên có
nhắc đến, (trang 419), những cuốn: “Đường Số 4”, bị lên án vì chủ nghĩa ấn tượng;
“Đêm mất ngủ”, bị Tố Hữu gọi là “bất mãn với chế độ hiện hành”; “Đêm cuối cùng
ngày đầu tiên”, bị ông Nguyễn Chí Thanh đánh. Cuốn “Miền Thơ Aáu”, xuất bản năm
1988, được ông viết trong xà lim, bằng những cây viết mà vợ ông lén đưa cho ông
trong lúc tên cai ngục ngó đi chỗ khác. Cuốn thứ năm được ông nhắc đến (trang
179) là tiểu thuyết “Pháo Đài Xanh” nói về quê nội của ông do cảm tình gắn bó với
cái quê nghèo bùn lầy nước đọng hơn cái quê ngoại ở thủ đô là nơi ông sống nhiều
hơn. Ngoài ra người ta cũng được biết tác phẩm đầu tay của ông là vở kịch “Lối
Thoát” ra đời khi ông mới 20 tuổi. Năm 1962 ông có thêm cuốn “Bông Hồng Vàng”,
dịch từ một tác phẩm tiếng Nga. Tập truyện ngắn “Đêm Mùa Xuân” của ông do nhà
xuất bản Lao Động cho ra năm 1963 đã bị thu hồi vì sai lập trường.
Cuốn “Đêm Giữa Ban Ngày” không biết sẽ chịu số phận
gì, nếu nó được công bố ở trong nước. Chỉ biết tác giả nó đã bị đâm và chết hụt
ở Liên Xô cũng vì nó.
Sơ lược nội dung tác phẩm
Cuốn “hồi ký chính trị của một người không làm chính
trị” mang tên “Đêm Giữa Ban Ngày”, na ná như tên tác phẩm của Arthur Koestler
mà dịch giả Daphner Hardy dịch là “Darkness At Noon”. Tác phẩm của Koestler là
tiểu thuyết dựa vào người thực, việc thực trăm phần trăm. Còn ĐGBN là hồi ký có
những đoạn hơi “văn vẻ” quá khiến có người bảo không phải văn hồi ký.
Sách gồm có 41 chương tổng cộng 767 trang, thuật lại
cuộc đời lao tù của tác giả trong gần 9 năm trường, từ 24-12-1967 đến ngày
2-9-1976. Trong quãng thời gian đó tác giả đã lần lượt trải qua những ngày biệt
giam ở xà lim Hỏa lò (Hà-nội), xà lim huyện Bất Bạt, rồi chuyển đến các trại cải
tạo Tân lập (Phú thọ) và cuối cùng là trại Phong Quang gần biên giới Hoa-Việt.
Tác phẩm mở đầu như chuyện tiểu thuyết, một cảnh xi
nê. Người ta đón đường bắt cóc ông đem đi biệt tăm lúc ông đang cỡi xe đạp trên
đường phố Hà-nội vào một ngày hưu chiến dịp Lễ Giáng Sinh, 1967. Mãi 27 tháng
sau gia đình mới được thông báo chỗ ông bị giam để thăm nuôi, mỗi năm chỉ hai lần.
Người mà ông phải đối đầu trong các cuộc hỏi cung là cục phó cục chấp pháp Huỳnh
Ngự được nhắc đến nhiều nhất trong cuốn hồi ký. Y tiêu biểu cho lớp cán bộ
trung thành với đảng, một mẫu người trong guồng máy áp chế của xã hội “Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hoà” thời ấy. Người ta cũng thấy ở y cái mặt nạ đạo đức giả mà những
lãnh tụ thời ấy thường đeo. Nhưng vốn nóng tính y đã nhiều lần đánh rớt nó trong
những buổi hỏi cung khó khăn mà tác giả kiên quyết giữ vững lập trường bất khuất
của mình, coi thường những lời hứa hẹn hay đe dọa của y. Tuy nhiên nhìn chung
người ta phải công nhận cái tài dụ dỗ và khéo dẫn dắt tù nhân tới những điều mà
y muốn. Trong toàn bộ, tác phẩm cho thấy cái pháp lý của chế độ là cố tạo ra bằng
chứng; không được, thì dựa vào lời cung khai của nạn nhân để buộc tội. Cho nên
có rất nhiều người không có tội vẫn bị xử hay bị giam. Vì, tuy cấm tra tấn,
nhưng những lời đe dọa, những hình phạt cùm, phạt biệt giam trong một thời gian
dài khiến nhiều người mất kiên nhẫn, đành nhận tội để được yên thân.
Điều mà các tên chấp pháp muốn moi từ tác giả là một
lời thú tội, một lời khai hớ hênh, một tin tức vô tình về một người nào đó
trong số những người đang bị kết vào tội “xét lại chống đảng”.
Huỳnh Ngự đã hỏi ông về cha ông, về những người có
liên hệ với cha ông từ Nguyễn Lương Bằng, (trang 309),Võ Nguyên Giáp, Ung Văn
Khiêm, Đặng Kim Giang, Lê Liêm, Hoàng Minh Chính, Minh Tranh, (Giám Đốc nhà Xuất
Bản Sự Thật) Tôn Thất Tùng, Tạ Quang Bửu, (chủ nhiệm ủy ban khoa học nhà nước),
Lê Quý Quỳnh (bí thư tỉnh ủy Hưng Yên)… cho đến những nhà văn, nhà báo, họa sĩ…
và một lô các nhà trí thức khác… mà ông từng quen biết hay có dịp gặp mặt như
Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, Phan Kế An và Phan Kế Hoành (2 người con cụ Phan
Kế Toại), Văn Cao, Bùi Xuân Phái (họa sỹ), Phạm Kỳ Vân, Dương Tường (nhà thơ),
Mạc Lân (nhà báo), Huy Vân (điện ảnh), Vũ Huy Cương (điện ảnh), các nhà văn Hứa
Văn Định, Châu Diên, Xuân Khánh, Phù Thăng vân vân…
Có lần Huỳnh Ngự hỏi tác giả về sự liên hệ giữa ông
và một nhà ngoại giao Nga tên Rashit, và trong cuộc hỏi cung này y đã quyết
đoán tác giả làm gián điệp cho ngoại nhân. Nhưng y không làm sao khiến tác giả
nhận tội hay cung khai những điều bất lợi cho người khác.
Căn cứ vào những buổi hỏi cung của Huỳnh Ngự và những
tin tác giả nhận được trước khi vào tù thì được biết những người có dính líu
trong cái gọi là vụ án XLCĐ gồm có những người sau đây:
Hoàng Minh Chính, viện trưởng viện triết học; Phạm Viết,
phó tổng biên tập tờ Hà-nội Mới; Kỳ Vân phó tổng biên tập tạp chí Học Tập; Minh
Tranh. Giám đốc nhà xuất bản Sự Thật. Những người này, ngoài Minh Tranh chỉ bị
cách chức, đã bị bắt tháng 7 năm 1967. Sau vài tháng đến lượt các ông Vũ Đình
Huỳnh, vụ trưởng vụ lễ tân phủ chủ tịch, cha tác giả; thiếu tướng Đặng Kim
Giang, nguyên tổng cục phó tổng cục Hậu Cần, chủ nhiệm cục hậu cần chiến dịch
Điện Biên Phủ, rồi thứ trưởng bộ Nông trường, các ông Trần Minh Việt, phó bí
thư thành ủy kiêm phó chủ tịch ủy ban hành chính thành phố Hà-nội; Nguyễn Kiến
Giang , biên tập viên tạp chí Học Tập; Đinh Chân, biên tập viên báo Quân Đội
Nhân Dân; Nguyễn Văn Thẩm, bí thư của thứ trưởng bộ Văn hóa Lê Liêm. Cha tác giả
bị bắt vào đúng ngày sinh con, 18 tháng 10. Về ông Hoàng Minh Chính xin xem
chương 2.
Tác giả đã nhân lúc bị hỏi cung về những nhân vật này
để nói thêm những gì ông biết về họ, và cũng nhân lúc nêu ra tên tuổi họ, ông
còn nói miên man tới những người khác, việc khác mà họ quen, biết hay có liên hệ
ở một phương diện nào đo,ù khiến cho cuốn hồi ký bao gồm luôn một số chi tiết
lý thú về cuộc đời của một số nhân vật. Về những nhân vật quan trọng trong bộ
máy đảng và nhà nước Cộng Sản, chúng tôi sẽ dành cho mỗi người ít hàng trích dẫn
của tác giả ở những trang sau.
Trong hai năm đầu khi bị giam tại xà lim Vũ Thư Hiên
đã thuật lại những câu chuyện giữa ông và người bạn tù cùng xà lim tên Thành (Mỗi
xà lim giam tối đa hai người). Và khi chỉ còn một mình thì ông nói chuyện về
con cóc Arquelin mà ông bắt được khi nó vừa mới đứt đuôi nòng nọc.
Sau hơn hai năm tác giả được biết cha ông cũng đương
bị giam trong cùng một khu và hai cha con liên lạc được với nhau qua bao thuốc
lá mà người mang cơm trao cho.
Sau 27 tháng tù VTH được gặp mẹ và vợ con. Trong dịp
này ông đã gửi được mấy hàng cho ông Nguyễn Lương Bằng lúc ấy nắm quyền thanh
tra trong đảng và chính phủ, để xin can thiệp cho cha con ông. Nhưng không có kết
quả. Vì ông Bằng chỉ hứa suông mà không dám! Về sau, trước khi chết ông Bằng có
cho mời cha tác giả đến bên giường bệnh, “xin tha thứ”.
Những năm sau, sau khi gây gỗ, sừng sổ với chấp pháp,
chửi luôn lãnh đạo, và sau mấy tuần lễ bị cùm trong xà lim biệt giam gần chết để
trừng trị tội phạm thượng, ông được áp giải tới trại cải tạo lao động Tân Lập,
tỉnh Vĩnh Phú. Rồi vài năm sau đó lại được chuyển tới trại Phong Quang, gần
biên giới Hoa Việt. Trong hai trại cải tạo này ông được gặp một số người quen.
Ông cũng gặp cả những tên tù hình sự lưu manh và cả những thiếu nhi giết người,
những tù chính trị thuộc các tôn giáo, và đảng phái quốc gia.
Tại trại Phong Quang ông đã viết khá nhiều về một số
phạm nhân đặc biệt người Trung Quốc, trong đó có Cố Thủ Chẩu và anh chàng Marinết,
quốc tịch Trung Quốc nhưng mang dòng máu Hà Lan, một người suốt đời trung thành
với đảng nhưng đã trở thành nạn nhân của đảng. Chính nhân vật này đã nói với
tác giả:
“Anh thử nghĩ mà xem có biết bao nhiêu người thành
tâm đi theo chủ nghĩa Cộng Sản và trở thành nạn nhân của nó.”
Những cái tên người mà tác giả nhắc đến ở những
chương cuối gồm có một số tên có lẽ không lạ lắm với độc giả trong chế độ Cộng
Sản, đặc biệt có Nguyễn Chí Thiện (nhà thơ nổi tiếng chống Cộng, mới được tha gần
mười năm và đã được cho ra ngoại quốc, xin xem chương 13).
Một số nhận định của tác giả về chủ nghĩa Mác, về đảng
Cộng Sản Việt Nam và một số nhân vật quan trọng trong các chính quyền Cộng Sản
Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô.
Trước hết về chủ nghĩa Mác Vũ Thư Hiên viết:
“Cả hai cái đó – chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lê-nin –
hiểu đúng và hiểu không đúng, đều không phải là chủ nghĩa Cộng Sản ở Việt Nam. Ở
Việt Nam có một chủ nghĩa Cộng Sản không dính dáng gì tới Mác hoặc Lê-nin hết.
Nó là chủ nghĩa Cộng Sản bình dân. Nó kêu gọi đấu tranh cho một xã hội không có
người bóc lột người, một cuộc sống tự do công bằng và hạnh phúc, một địa cầu
không biên giới. Đó chính là chủ nghĩa Cộng Sản mà cha mẹ tôi theo, là cái mà
ông bà muốn trao lại cho chúng tôi…Chính chủ nghĩa Mác dung tục, thô thiển, chứ
không phải chủ nghĩa Mác hàn lâm hay chủ nghĩa Mác cường đạo, mới là cái hữu
ích cho phong trào giải phóng dân tộc. Hấp lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Có người
nô lệ yêu nước nào lại từ chối một viễn cảnh huy hoàng như thế?
“Vào thời cha mẹ tôi phần lớn những người cách mạng đều
tự hào nhận mình là Cộng Sản. Chính sự lầm lẫn này về sau đã sinh ra một nghịch
lý: những nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam thường tỏ ra là những chiến sĩ tài ba
khi họ ít được học chủ nghĩa Mác, còn khi bập bõm chủ nghĩa Mác rồi thì họ lại
sa vào hết sai lầm này đến sai lầm khác.” (trang 322-323)
“Tôi hiểu các nhà lãnh đạo qua cha tôi. Phần lớn họ
thuộc thế hệ cha tôi, trạc tuổi cha tôi. Họ có tiểu sử na ná như nhau, tất cả đều
là những người yêu nước trước khi thành Cộng Sản. Họ nhập vào hàng ngũ Cộng Sản
mà không hiểu chủ nghĩa Cộng Sản là gì. Chỉ cần biết chủ nghĩa Cộng Sản hứa hẹn
một tương lai tốt đẹp cho công cuộc giải phóng dân tộc là đủ.” (trang 323)
Về Đảng Cộng Sản Việt Nam, Vũ Thư Hiên tin rằng nó có
công thực – chứ không phải cướp công – trong việc lãnh đạo cuộc khởi nghĩa thắng
lợi mùa thu năm 1945. Nó có sức thu hút các người Việt Nam có tinh thần yêu nước,
đến nỗi ông cho rằng thời đầu những người cách mạng đều cho mình là Cộng Sản!
(trang 322) Nhờ có tinh thần yêu nước, các đảng viên Cộng Sản đã kiên cường chịu
cực chịu khổ, hy sinh để cuối cùng giành được thắng lợi vẻ vang.
Nhưng từ sau kháng Pháp thành công, đảng Cộng Sản đã
phạm phải những lỗi lầm không thể tha thứ trong các chiến dịch giảm tô, cải
cách ruộng đất, và các cuộc trấn phản đối với những người có tư tưởng khác với
tư tưởng chính thống, như trong các vụ án Nhân Văn -Giai Phẩm và cái gọi là
nhóm xét lại chống đảng. Cuối cùng chắc ông cũng cùng một phán xét như cha ông
là phải gạt bỏ sự lảnh đạo của đảng Cộng Sản thì nước nhà mới khá. Sau đây là một
vài đoạn trích dẫn:
“Một trong những điều khó hiểu đối với tôi hồi ấy là
tại sao, vì lẽ gì những nhà cách mạng Việt Nam thuộc thế hệ cha chú tôi, lúc đó
còn đông đúc, lại chịu chấp nhận một mô hình xã hội quỷ quái như vậy? (trang
508)
“Những người cách mạng năm xưa đã xây dựng nên cái gì
vậy?
“Theo cái que chỉ của thợ cả , những người thợ rèn
ngày đêm quai búa, hình dung mình đang làm nên bông hoa hạnh phúc cho nhân dân.
Nhưng khi ngẩng đầu lên để lau mồ hôi đầm đìa trên mặt họ chợt nhận ra rằng trước
mặt mình không phải bông hoa, mà là cái cùm kiên cố.”(trang 316)
“Từ cải cách ruộng đất trở đi tập tục này (tôn vinh Đảng,
chú thích của M.V.) lan rộng và ăn sâu trong sinh hoạt của dân chúng. Người dân
mở miệng ra là “Nhờ ơn Đảng, Chính phủ”. Người ta nói: “Nhờ ơn đảng, chính phủ,
mùa màng năm nay khá, gia đình em tạm đủ ăn”, “Nhờ ơn Đảng, chính phủ, nhà em vừa
sinh thằng cu”. Quen miệng người ta còn nói: “Nhờ ơn đảng, chính phủ, cái mụn
chốc thằng cu nhà em đỡ rồi, em lấy cao nhà ông lang Sửu đấy ạ.!” Trong nhân
dân cũng vào thời kỳ này xuất hiện câu ca dao thú vị nói rất trúng cách tuyên
truyền của Đảng về những thành tựu lãnh đạo:
Mất mùa là tại thiên tai,
Được mùa là tại thiên tài Đảng ta…
Đảng là đấng Tối Cao, như Chúa Trời.
“Đảng còn hơn cả Chúa Trời nữa, vì Chúa Trời vô hình
vô ảnh, còn đảng là có thực, cũng như những nhà tù của Đảng là có thực, Đảng là
người quyết định hết thảy, Đảng cho thì có, Đảng lấy thì mât.”(trang 414)
Về Các chiến dịch giảm tô và cải cách ruộng đất:
“Tôi chỉ bắt đầu ngờ vực đức hiền minh của các lãnh tụ
vào thời gian cuộc giảm tô giảm tức được phát động ở khu 4 kháng chiến, năm
1953…
“Tôi kinh hoàng nhìn cảnh tượng không hiểu nổi: nườn
nượp lướt qua mắt tôi từng bày đàn người bị kích thích bởi mùi máu, hăm hở đi
dưới lá cờ đỏ sao vàng không phải để chiến đấu với quân xâm lược, mà với chính
đồng bào mình.
“Tại xã Ngô xá, làng Ngò Thanh Hóa, nơi có dinh cư cụ
cử Nguyễn Thượng Hiền, người ta trói chặt hai tay rồi dong mẹ bạn tôi đi khắp
làng chỉ vì bà trót dại nói điều gì đó mất lập trường hoặc không vừa lòng cán bộ
giảm tô giảm tức. Trước bà là hội trưởng hội Liên Hiệp Phụ Nữ Thái Bình. Mất đất,
bà mang con cái chạy vào Thanh Hóa, làm nghề hàng xáo buôn thúng bán mẹt. Chúng
tôi nghe tiếng kêu khóc chạy tới thì thấy mấy anh du kích quen đang xềnh xệch
kéo bà đi. Hai tay bị trói giơ lên trời, bà xiêu vẹo bước sau họ, kêu gào thảm
thiết: “Đi cụ Hồ ơi, cụ trông xuống mà xem người ta đối xử với con dân cụ thế
này đây.”
“Ở một xã khác, một người đàn bà bị trói vào hai cây
nứa bắt chéo, bên dưới là một đống lửa. Con mẹ ni là phú nông phản động, ngoan
cố lắm, những người bâu quanh nhao nhao nói thế. Người đàn bà quằn quại mãi đến
khi ngất đi rồi mới được người ta hạ xuống.
“Cha bạn tôi, hoạt động cách mạng từ trước 1945, bị tống
giam vì bị vu là đảng viên Quốc Dân Đảng, thắt cổ tự tử, để lại bức thư tuyệt mệnh:
“Oan cho tôi lắm, cụ Hồ ơi. Tôi trung thành với cụ, với đảng. Tôi không phản bội.
Hồ Chí Minh muôn năm.”
“Người ta lấy gai cắm vào đầu ngón tay một cô gái, có
trời biết cô ta bị tội gì, có thể cô ta chỉ có tội là con địa chủ, cứ mỗi câu hỏi
lại cắm cái gai sâu thêm một chút, làm cho cô ta rú lên vì đau, quằn quại trong
giây trói.
“Một cụ già tóc bạc phơ bị tròng giây vào cổ, bị lôi
xềnh xệch trên đường như một con chó. Lũ trẻ làng rùng rùng chạy theo sau.
Chúng vỗ tay, chúng reo hò, chúng cười ngặt nghẽo. Tôi nhìn chúng rùng mình—những
đứa trẻ này chắc chắn sẽ lớn lên với trái tim không phải của giống người. Rồi
đây với tâm hồn chai sạn, làm sao chúng có thể sống chung với những anh em khác
màu da và tiếng nói trong một thế giới đại đồng mà chủ nghĩa Cộng Sản hứa hẹn?
“Tôi cảm thấy trong mình cục cựa một cái gì giống như
sự thức tỉnh. (trang 32-33)
Về cá nhân ông Hồ Chí Minh, Vũ Thư Hiên có một nhận định
phức tạp do cảm tình của ông đối với một người tương đối thân của gia đình, và
một “anh hùng dân tộc”, bình dị, đáng yêu trong những năm đầu khi tâm hồn ông
còn non trẻ, pha lẫn với những nhận thức của một trí óc đã phát triển khi va chạm
với thực tế của cuộc đời về một Hồ Chí Minh, lãnh tụ sắt đá cố tình làm ngơ
trong những vụ tàn sát hàng vạn sinh linh, như trong cải cách ruộng đất v.v…
Chúng ta hãy nghe một vài đoạn trong tác phẩm của ông:
“Không biết tôi đúng hay không đúng, đúng được bao
nhiêu, trong ý nghĩ rằng thế hệ cha chú tôi bị sự sùng bái Hồ Chí Minh làm cho
mù quáng, tước bỏ nơi họ tinh thần độc lập suy nghĩ. Rất nhiều hậu quả tồi tệ
mà một cuộc cách mạng trong sáng về mục đích đem lại cho dân tộc là do sùng bái
cá nhân.
“Sau cách mạng tháng tám uy tín của ông Hồ Chí Minh
vút lên như diều gặp gió. Cùng với thắng lợi của cuộc kháng chiến uy tín của
ông càng lên cao hơn nữa. Ông không phải chỉ là “cha già dân tộc” của Việt Nam,
mà còn là đấng chí thánh của phong trào giải phóng dân tộc.
“Người ta sẵn sàng chết cho Bác Hồ, đồng hóa Bác với
Tổ Quốc. Các chiến sĩ sung trận hô lớn “Vì Đảng, vì Bác tiến lên”. Những đảng
viên trong lễ kết nạp giơ tay tuyên thệ trước chân dung ông đặt trang trọng
trên “bàn thờ tổ quốc”, trên nền đảng kỳ. Hiện tượng sùng bái này, nói cho
đúng, một thời có tác dụng tốt, nó kích thích quần chúng tham gia kháng chiến
chống Pháp. Không có nó cuộc kháng chiến chống Pháp khó lòng đạt được những
thành công như nó đã đạt được.
“Điều đó không lạ. Quần chúng châu Á cần có minh chủ
trong mọi cuộc nổi dậy. Không có minh chủ thì không có phong trào là hiện tượng
đặc thù và phổ biến của những quốc gia lạc hậu.” (trang 508)
“Trong xà lim tôi có thừa thời gian để suy gẫm. Trong
những điều tôi suy ngẫm có sự rà soát lại bệnh sùng bái ông Hồ Chí Minh mà thế
hệ chúng tôi, kẻ ít người nhiều, đều mắc phải. (trang 457)
“Bây giờ tôi mới hiểu: thì ra con người đối với Hồ
Chí Minh không là gì cả…Con người là vốn quý nhất, tôi từng nghe ông nói với mọi
người trong lần gặp anh hùng La Văn Cầu ở Thác Dẫng, mùa thu năm 1950. Staline
cũng nói thế. Mao trãch Đông cũng nói thế.
“Mà đúng: con người chỉ là vốn thôi, để kinh doanh
cái gì đó. Khi là vốn nó thôi là người.
“Trong hành xử ông là một
diễn viên kỳ tài, như sau này tôi được biết. Cha tôi có kể chuyện khi đi thăm bức
tường công xã Paris ở nghĩa trang Père La Chaise (1946), có các quan chức Pháp
tháp tùng, ông Hồ sụt sùi khóc, lấy khăn tay thấm nước mắt. Trở về khách sạn,
cha tôi hỏi làm sao ông khóc đuợc, ông trả lời: “Mình làm chính trị, khi cần
khóc phải khóc được, khi cần cười phải cười được, mới làm chính trị được chứ”.
Cha tôi có ghi lại việc này trong hồi ký “Tháng Tám Cờ Bay” (trang 459)
“Đến bây giờ chẳng còn
ai không biết tác giả Trần Dân Tiên của cuốn “Những Mẩu Chuyện Về Cuộc Đời Hoạt
Động Của Hồ Chủ Tịch” là chính Hồ Chí Minh.
“Trong lịch sử thế giới
có lẽ đây là lần đầu tiên và duy nhất nhân vật đứng đầu quốc gia tự viết tiểu sử
mình với những lời lẽ ca ngợi chính mình. Những lời ca tụng Bác Hồ trong tập ký
sự ký tên T.Lan , những bài báo ký tên T.L., A.G. và nhiều tên khác nữa cũng chẳng
có thể đổ cho người khác được. Ông Hồ tự ca tụng, chuyện đó là có thực. Một việc
làm thừa, hơn nữa ngớ ngẩn—không cần đến những bài báo ấy uy tín của Hồ Chí
Minh chẳng những đã tràn ngập mà còn vượt ra ngoài bờ cõi”.(tr.510-511)
Nơi trang 249, sau khi
đã thuật lại lời người cô và chính vợ mình khuyên không nên theo Cộng Sản, Vũ
Thư Hiên đã thuật lại lời một người bạn là tiểu đoàn trưởng Đích cũng cảnh giác
ông y như vậy. Hãy nghe Đích nói về ông Hồ Chí Minh, qua lời thuật của tác giả:
“Tôi không bực vì vụ án,
lầm là chuyện thường, huống hồ trong vụ này tôi cũng có cái sai. Nhưng tôi sai
là một chuyện. Cái cách đồng chí đối xử với nhau thế nào là chuyện khác. Nhà tù
cho tôi thấy một điều: Không có tình đồng chí! Chúng ta nhầm. Bây giờ tôi mới
hiểu. Ông Hồ không phải đồng chí của ta, ông ấy cũng là vua như các ông
vua khác, lại không phải vua hiền. Ông ấy biến những con người lương thiện
thành những con quỷ. Ông ấy là quỷ vương.”
Hẳn trong đầu tác giả đã
phải có ý nghĩ tiêu cục về ông Hồ đến độ nào đó ông mới thuật lại nguyên lời
nói trên.
Nơi chương 15, khi thuật
lại trường hợp ông Dương Bạch Mai đột tử với nhiều nghi vấn, tác giả đã để cho
người đọc kết luận ông bị đầu độc. Tác giả cũng nói đến chuyện Họ Dương chống
Mao, họ Dương thân các người Trốt Kít như Pham Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Trần Văn
Thạch, cả ba người này, tác giả nói là đều bị Việt Minh giết. Sau đó ông trưng
dẫn lời Hồ Chí Minh báo cáo cho quốc tế Cộng Sản năm 1939, khẳng định: “Đối với
bọn tờ rốt kít không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng nào cả. Phải lột mặt
nạ chúng như là tay sai của Phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị.”
Những điều tác giả viết
khiến người đọc thấy ngay: Dương Bạch Mai chống Mao, thân tờ- rốt- kít. Hồ Chí
Minh đòi phải tiêu diệt Tờ-rốt-kít. Dương Bạch Mai đột tử ngay trước khi đại hội
trung ương sắp sửa họp để ra nghị quyết 9 đầu năm 1964. Nghị quyết này chủ
trương theo đường lối của Mao, ngấm ngầm chống Khrutsh-chev.
Trưng dẫn lời ông Hồ nói
trên, sau khi thuật lại các sự việc cụ thể về Dương Bạch Mai, hẳn tác giả muốn
dẫn độc giả đến kết luận: Ông Hồ, nếu không chỉ thị thủ tiêu họ Dương, thì cũng
đồng ý hay làm ngơ cho đàn em thi hành.
Mấy trang đầu chương 33
Vũ Thư Hiên đã dành để nói lên “sự kính mến”, thật lòng -hay giả dối -của tên
cai ngục Huỳnh Ngự đối với Hồ Chí Minh, khi y phá bỏ khoảng cách thường có giữa
cai tù và phạm nhân, thân hành vào trong xà lim, “hiền lành ngồi xuống bên cạnh
tôi” để báo “tin buồn”, mắt rưng rưng: “Bác của chúng ta…Bác đã…đã… Bác mất rồi!”
Hãy nghe phản ứng của tác giả trước cái chết đó:
“Ý nghĩ đầu tiên đến với
tôi là cùng với cái chết của ông Hồ bọn chuyên quyền càng rảnh tay hoành hành.
Nói gì thì nói ông Hồ còn sống vẫn là một vật cản. Bởi vì ông ta đã hô hào đoàn
kết, ông có đạo đức giả khi nói thế thì ông cũng không cho phép cấp dưới bóc nốt
cái vỏ của câu nói. Không còn quyền, nhưng ông còn cái uy cái thế, buộc chúng
phải nể. Có làm gì chúng cũng phải ngó ông một cái, xem ông phản ứng ra sao.
…Tin ông Hồ qua đời
không làm tôi xúc động. Tôi không vui mà cũng chẳng buồn. Bây giờ đối với tôi
ông là người dưng. Ông đã bị xóa sổ trong trí nhớ của tôi. Ông đã đi khỏi cuộc
đời tôi.
…Tôi cũng chẳng căm thù
người đứng đầu cái nhà nước đang hành hạ tôi. Tôi biết ông không phải là thủ phạm.
Nói cách khác không phải đầu vụ. Cũng không phải tôi muốn bào chữa cho ông Hồ.
Khi ông đã kề đùi kề vế với Duẫn, với Thọ, thì mọi việc làm của họ ông đều có dự
phần, vinh cũng như nhục.
“Nhưng tôi tin nhận xét
của cha tôi -ông Hồ không phải người ác. Không hiểu sao ông lại làm ngơ để xảy
ra vụ án thảm khốc này.” (trang 579)
Nơi trang 359, sau khi
nói về cái tật hay tránh né một cách lép vế của Võ Nguyên Giáp, Vũ Thư Hiên đã
thuật lại trường hợp của tướng Lê Liêm đã được ông Hồ đồng ý về quan điểm “nên
tránh bị cuốn vào cuộc đấu tranh giữa hai cường quốc xã hội chủ nghĩa” và hy vọng
trong hội nghị sẽ đưọc ông Hồ lên tiếng bênh vực. “Nhưng ông Hồ tránh ánh mắt của
ông, quay đi nơi khác.”
“Điều tôi không ngờ là
Bác đã hứa, nhưng lại không giữ lời. – Lê Liêm kết luận – Tôi không hiểu vì lẽ
gì.”(trang 360)
Mẹ tác giả đã từng là một
chiến sĩ cách mạng bên cạnh ông Hồ, đã từng tôn thờ, cung phụng săn sóc ông những
lúc ông đau ốm. Nhưng đến khi thấy chồng bị bắt mà ông Hồ làm ngơ,
thì “trong lòng bà ông Hồ Chí Minh chết vào đêm cha tôi bị bắt. (bà bảo
con:) – Lòng người khôn lường, con ạ! Mới biết không thiếu gì kẻ quên đạo làm
người khi ngồi vào ghế vương giả.” (trang 28)
Về tội ác giết hàng vạn
người trong cải cách ruộng đất, tác giả cho biết “cha tôi khẳng định người chịu
trách nhiệm chính trong việc gây ra những sai lầm trong CCRĐ là ông Hồ Chí Minh
chứ không phải Trường Chinh, như đã có sự ngộ nhận kéo dài nhiều năm. Trường
Chinh là con dê tế thần cho sai lầm của ông Hồ.” Nhưng cha ông lại bênh ông Hồ
khi nói với con rằng “Ông (Hồ) đã buộc lòng phải làm CCRĐ khi bị Mao nhắc nhở.”
(trang 221)
Tác giả đã trích dẫn
Hoàng Văn Hoan nói về việc ông Hồ yêu cầu họ Mao đưa hơn 300 ngàn lính Tàu vào
miền Bắc vào nửa cuối thập niên 60. Ông cũng nhấn mạnh là lúc ấy Hoàng Văn Hoan
là ủy viên bộ chính trị, nên sự kiện này ông không thể không biết, và đáng tin
cậy. Ai cũng biết Hoàng Văn Hoan thân Trung Cộng ra mặt từ lâu. (Trang 229)
Trong toàn bộ tác phẩm,
tác giả nói đến ông Hồ rất nhiều, thuật lại nhiều việc , nhiều nhận xét của người
nọ người kia, kể cả của cha ông, mẹ ông nhận xét về ông Hồ. Tổng kết tất cả những
sự việc và nhận xét đó, người đọc phải hiểu tác giả kết tội ông Hồ hơn là bênh,
tuy ông không đưa ra một kết luận minh thị, xác quyết nào. Ông muốn độc giả tự
kết luận. Hơn nữa ông là người đã từng ngưỡng mộ, nếu không nói là mến yêu ông
Hồ khi còn nhỏ. Cho nên thật khó cho ông để có thể kết tội ông Hồ một cách phũ
phàng khi ông đã lớn khôn và ông Hồ không còn nữa.
Cái tâm trạng và cách
hành xử này không phải chỉ có ở Vũ Thư Hiên mà còn ở rất nhiều cán bộ, cũng như
văn nghệ sĩ đã từng theo kháng chiến chống Pháp và đã từng hoan hô ông Hồ, mặc
dầu ngày nay họ tỉnh ngộ và nhận ra bộ mặt thật của ông ta.
Tưởng cũng nên xem tác
giả nói gì về một số nhân vật ngồi làm vì trong các chức vụ nhà nước như Nguyễn
Lương Bằng, Tôn Đức Thắng chẳng hạn:
“Đến nhà cách mạng cao
niên rất mực hiền lành Tôn Đức Thắng cũng không thoát khỏi con mắt cú vọ của Lê
Đức Thọ. Mà cụ đâu phải người thèm muốn chức quyền. Với đám con cháu, cụ Tôn bảo:
“Tụi bay đừng có kêu tao bằng phó chủ tịch nước, nghe ngứa con ráy lắm! Người
ta đặït đâu tao ngồi đó, chứ tao không màng cái chức chi hết”. Ngoài việc dự
các nghi lễ long trọng bắt buộc phải có mặt cụ, cụ không làm một việc nào khác
ngoài một việc là sửa xe đạp. Làm phó chủ tịch nước, ông thợ máy ngày truớc buồn
tay buồn chân. Hết xe đạp hỏng cho cụ chữa, anh em bộ đội bảo vệ và nhân viên
phục vụ phải lấy xe của người nhà mang vào cho cụ kẻo ngồi không cụ buồn.
Thương cụ quá nhiều khi họ còn làm cho xe trục trặc đi để giắt đến nhờ cụ sửa
giùm. Một người bạn tôi quen thân với cụ Tôn, cha anh trước kia là đàn em cụ,
vào thời gian nghị quyết 9… cụ dắt anh vào phòng riêng thì thào: “Mày có thấy
lính kín theo mầy tới đây không mầy?” Anh ngạc nhiên quá. Tưởng anh lo lắng cho
cụ, cụ mỉm cười hiền hậu: “Là tao lo cho tụi bây, chớ tao hổng lo cho tao.
Trong nhà tao nè, lính kín hổng có thiếu”.
Về chế độ lao tù
“…Cứ nhìn cái hỏa lò này
đủ thấy. Thằng công dân bị bắt, chưa biết ất giáp ra so , cán bộ đã khăng khăng
bắt nó nhận tội cái đã. Nhỡ oan người ta thì sao? Cái sai, cái tồi tệ từ đó mà
ra. Làm cho lòng dạ con người thành ra cằn cỗi, hận thù, như thế là lỗi tại ai?
Bác đâu có dậy cán bộ như vậy?” (trang 475)
Trong cuộc đối thoại giữa
tác giả và bạn tù Thành, ông đã để cho người đọc hiểu ông kết án chế độ lao tù
miền Bắc là phát xít như sau:
“ (Thành: …): Cứ như thể
Hỏa Lò là một lằn ranh , bước qua nó mình hết là mình. Có lẽ mục đích của nhà
tù là thế. Nó làm cho mình có cảm giác rời bỏ cái thế giới mà mình sống, rời bỏ
hẳn, không trở lại…
“(Hiên) : -Chỉ có nhà tù
ta mới như vậy. Nhà tù khác đâu có thế.
-Tôi không biết ở các
nhà tù khác thế nào, nhưng tôi nghĩ trên thế giới chắc cũng có những nhà tù giống
nhà tù mình “.
“Tôi hiểu anh muốn ám chỉ
nhà tù của Phát Xít Đức.” (trang 383-384)
Vũ Thư Hiên có nhiều chỗ
gọi xà lim bằng một cái tên cũng giống Đào Hiếu: “Chuồng Người”:
“Nó không phải là một
cái xà lim bình thường mà là một sáng tạo độc đáo trong nghề làm chuồng người.”
(trang 530)
Ngay ở chương 3 ông đã
có ý nghĩ nó là “nấm mồ chôn người sống” (trang 57)
Những lời sau đây của
tên Huỳnh Ngự cục phó cục chấp pháp dẫn tác giả đến một kết luận bi-hài cười ra
nước mắt:
“Sở dĩ đảng giao các anh
cho cơ quan an ninh chúng tôi, vì cơ quan chúng tôi có điều kiện tốt nhất,
thích hợp nhất để giúp đỡ các anh cải tạo tư tưởng…
“Tôi không nhịn được cười.
Thì ra người ta tin rằng xà lim Hỏa Lò là điều kiện thích hợp nhất, tốt nhất
cho sự cải tạo tư tưởng. Cứ đà này đảng sẽ lần lượt cho hết thảy cán bộ vào ở
xà lim để cho tư tưởng họ tiến bộ hơn, trung thành hơn với chủ nghĩa xã hội.”
(trang 136)
Sau đây là lời của anh bạn
tù cùng xà lim với tác giả, tên Thành nói với ông khi hai người đã tin được
nhau:
“Rồi ra ông còn biết ối
chuyện lạ hơn nữa kia. Tôi biết có người hoàn toàn vô tội, ở tù sơ sơ cũng vài
năm, thế mà ra tù cậy miệng anh cũng không dám nói anh ta bị oan. Thậm chí anh
ta còn nói đảng bắt anh ta là đúng, rằng sở dĩ anh ta được tha, không bị xử là
nhờ lượng khoan hồng của Đảng…Ông có biết vì sao không? Là vì anh ta nhận tội rồi,
ký vào bản cung người ta mớm cho rồi, bây giờ há miệng mắc quai, lại còn sợ bị
trả thù vì phản cung nữa chứ. Tôi nghiệp, bị oan rồi mà đến một cái lệnh tha
cũng chẳng được cấp, chỉ được thí cho một cái lệnh tạm tha thôi. Tạm tha là thế
nào? Là người ta tạm cho về, nhưng coi chừng, bất cứ lúc nào anh cũng có thể bị
bắt lại, đừng có đùa. Trong lệnh tạm tha người ta ghi: Xét tội trạng chưa tới mức
phải xử lý theo pháp luật…” (trang 202)
Về những biện pháp tương
tự ở Liên Xô thời Staline, tác giả viết:
“Dưới thời Staline không
ít người vô tội bị hãm hại, giờ ai cũng biết. Điều ít ai biết là những người
này, sau một thời gian bị xử lý tại các xà lim, đã nhận những tội họ không hề
phạm, đã nói những lời ăn năn hối lỗi. Những nhà nghiên cứu đã tìm hiểu hiện tượng
này và họ thống nhất trong nhận định: nguyên nhân của sự đầu hàng chóng vánh là
bộ máy đàn áp hứa hẹn chắc chắn sẽ thanh toán cả gia đình họ, nếu họ không chịu
nhận tội.
“Trong nỗi tuyệt vọng
trước viễn cảnh đen tối những người bị trấn áp chỉ còn một con đường duy nhất:
làm ra vẻ khuất phục để ít nhất cũng cứu được vợ con.” (trang 218-219)
Dưới phần cước chú, tác
giả đã cho biết về trường hợp cha con ông: “Chín năm sau, hai cha con gặp nhau
tôi mới biết chính Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã vào tận xà lim dụ hàng.
Chúng hứa hẹn nếu cha tôi nghe theo chúng chấm dứt cuộc tuyệt thực đã kéo dài
hơn 10 ngày, thì chúng sẽ không khủng bố gia đình. Nhưng sau đó Lê Đức Thọ đã
cho bắt tôi mà không cho cha tôi biết.”
Về chế độ sắt máu của
Staline, Liên Xô:
“Những đứa trẻ cũng
không được yên khi cuộc trấn phản đã bùng lên thành cơn cuồng sát. Nhân danh
cách mạng người ta chuyên chính cả với con nít. Cách suy nghĩ của những nhà
chuyên chính vô sản thật đơn giản: Nếu cha mẹ đã là kẻ thù của nhân dân Xô Viết
thì con cái họ lớn lên cũng nhất định sẽ là kẻ thù của nhân dân Xô Viết. Một
trong những nghị định của bộ nội vụ thời Staline ghi rõ: “Vợ con những tên phản
bội tổ quốc phải bị giam giữ trong các trại tập trung với thời hạn không dưới
5-8 năm tùy theo mức độ nguy hại cho an ninh xã hội. Những đứa trẻ có hại cho
an ninh xã hội phải đem xử án, tùy theo tuổi, tùy theo mức độ nguy hại và khả
năng cải tạo của chúng, chúng phải bị giam giữ trong các trại tập trung, các trại
cải tạo lao động của bộ nội vụ hoặc giam giữ tại các nhà trẻ với chế độ đặc biệt.(Trích
chỉ thị của bộ trưởng nội vụ nhân dân số 00486, đề ngày 15-8-1937).
Nhân nhắc lại biến cố
Khrutshchev hạ bệ Staline tại đại hội đảng Cộng Sản Liên Xô lần thứ XX vào năm
1956 là năm tác giả đang du học ở đây, ông đã cho ta thấy những con số sau đây
nói lên sự tàn bạo của Cộng Sản:
“30,000 sĩ quan và binh
lính Ba Lan bị cộng quân thủ tiêu tại khu rừng Katưn thuộc tỉnh Smolensk vào
năm 1940. “Không thể naò tưởng tượng nổi: Bắn chết 30,000 người rồi vùi trong
các huyệt tập thể. (chú thích: Sau khi Yeltsin lên làm tổng thống, ông đã xác nhận
việc này và xin lỗi nhân dân Ba Lan).
“98 ủy viên trung ương đảng
trong số 139 người được bầu lên trong đại hội đảng XVII (1934) đã bị bắn và tống
giam.
“1,108 đại biểu trong số
1,956 người đi dự đại hội này về sau đã bị bắt và bị giết. (trang 100-101)
Dĩ nhiên Vũ Thư Hiên
chưa nói đến hơn 20 triệu đảng viên thường và nhân dân Nga bị thủ tiêu hay tàn
sát. Ông cũng không nói đến cuộc thanh trừng đẫm máu nhắm vào phe “Tờ-rốt-kít”
hồi Staline mới lên nắm chức tổng bí thư đảng.
Về chế độ ở Liên Xô
trong thời Krutshchev, Vũ Thư Hiên có cảm tình và chắc cũng mong Việt Nam đi
theo con đường đó hơn là ôm lấy chủ nghĩa Mao.
“Tại Liên Xô đang manh
nha một nhà nước pháp quyền…Nhà nước này chủ trương hoà bình tiến lên chủ nghĩa
xã hội, chứ không lấy bạo lực áp đặt chủ nghĩa xã hội lên các dân tộc…
“Chế độ xã hội Trung Quốc,
cũng như chế độ xã hội VN không hứa hẹn một cái gì tương tự. Nếu ở Trung Quốc
là chế độ toàn trị cởi truồng, thì ở Việt Nam còn giữ lại manh khố.” (trang
108)
Riêng về chế độ ở Trung
Quốc, Vũ Thư Hiên cũng để ra 3 trang nói qua về cuộc cách mạng văn hóa với
Hồng Vệ Binh mà ông gọi là những “âm binh của tay đại phù thủy Mao Trạch
Đông”. Chúng được đặt dưới quyền của Giang Thanh, vợ Mao Trạch Đông, tha hồ bắn
giết bừa bãi, tha hồ hủy diệt những thành tích văn hóa mà không ai dám đụng tới.
Ông cũng viết rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam chẳng những không dám phê bình hay
thắc mắc mà còn ca ngợi, cổ võ trên báo trên đài. Những cán bộ Mao-ít được chứng
kiến những biến loạn tại Trung Quốc do hồng vệ binh gây ra trở về nước trình
bày nhận xét của mình chẳng những không được để ý mà còn bị trù dập, như trưòng
hợp Lê Chân, phó tổng biên tập Việt Nam Thông Tấn Xã, hay nhà văn Vũ Bội Kiếm
chẳng hạn…( trang 375-379)
Có lẽ Vũ Thư Hiên cũng đồng
ý với Dương Bạch Mai (phó chủ tịch quốc hội Việt Cộng) khi ông thuật lại rằng
Dương Bạch Mai “gọi chủ nghĩa Mao là món tạp pí lù của thổ phỉ. Giữa lúc ngành
tuyên truyền Việt Nam đưa Mao Trạch Đông lên hàng thánh sống thì ông ngang
nhiên gọi Mao là tên đao phủ của đại pháp trường Trung Quốc” (trang 278-279)
Chính vì vậy mà DBM đã đột tử như đã nói trên.
Liên hệ giữa đảng và các
nhà văn:
Những đoạn trích dẫn sau
đây sẽ nói rõ tác giả nghĩ gì về mối liên hệ này:
“Cái sự lúng túng không
tìm ra chỗ của mình có trong tâm trạng nhiều nhà văn nhà thơ Việt Nam. Mọi người
sau khi đặt số phận mình vào bàn tay dìu dắt của Đảng đều phải gò mình vào cái
tôi chung, cái tôi tập thể, là một cái tôi vô hình vô ảnh, chui vào trong đó để
tự biến mình thành nó….
“…Kim Lân viết Con Chó Xấu
Xí và Vũ Tú Nam cho ra Văn Ngan Tướng Công. Cả hai con vật này cũng bị đánh nốt.
Người ta giải thích rằng Kim Lân ví đảng như ông chủ, còn trí thức như con chó.
Ông chủ hắt hủi con chó, khi nó ghẻ lở gầy còm, ông chỉ quan tâm tới nó khi nó
hứa hẹn những đĩa luộc, đĩa dồi và nồi nhựa mận bốc mùi ngào ngạt. Con chó khốn
khổ thì cứ một mực trung thành với chủ cho đến chết. Miêu tả thân phận con chó
còi cọc đói khổ trên nền xám của nông thôn Việt Nam, Kim Lân có ngòi bút cực
hay. Còn Văn Ngan Tướng Công thì bị buộc tội ám chỉ Đảng bay không biết bay,
bơi không biết bơi, chỉ nỏ mồm cạc cạc.
“Chớ có viết về những
con vật. -Kim Lân nói-Không hiểu sao cứ nói chuyện súc vật là y như rằng có người
động lòng. Mà nhiều, mới chết chứ.
“Không rõ các nhà văn
tác giả bôi nhọ đảng bao nhiêu, nhưng chính các nhà phê bình mới là người có
công vạch ra những cái xấu của đảng.” (trang 421)
Những câu đối đáp sau
đây giữa tác giả và nhà thơ nổi tiếng Chế Lan Viên cho thấy“cái hèn một
chút” – hay hèn nhiều -ấy:
“-Này anh Chế, theo anh
thơ và từ của Mao Trạch Đông có hay lắm không mà thiên hạ tán tụng om xòm đến
thế?
“-Thơ phú gì cái thằng
cha ấy? Vũ Thư Hiên thấy hay à?
…-Thơ phú là chuyện tôi
mù tịt mới phải hỏi anh.
Chế Lan Viên hạ một câu
xanh rờn:
-Làm đến hoàng đế nước Tầu
rồi thì cục cứt của hắn thiên hạ cũng khen tuốt.
Tôi ngẩn người. Chẳng lẽ
đó là tác giả câu thơ ca ngợi hai lãnh tụ vĩ đại:”Bác Hồ ta đó chính là Bác
Mao.” (trang 422)
Câu nói sau đây của Hữu
Loan với tác giả năm 1988 cũng cho thấy lý do tại sao văn nghệ sĩ trong chế độ
Cộng Sản không thể không “hèn một chút”:
“-Khổng Tử đúng mới buồn
chứ: “Đời đục ta trong làm sao được!” Thân mình, thôi chẳng nói làm gì, vì muốn
lương tâm trong sạch nên mình mới chọn con đuờng làm dân, nghèo mà thanh thản.
Nhưng các con mình vì thế mà không được học hành, thì mình sai rồi.”
Vì thế tác giả không lấy
làm lạ khi thấy trong vụ đánh Nhân Văn-Giai Phẩm có cả những tên tuổi đáng kính
của nền văn nghệ như Tú Mỡ, Thế Lữ… (trang 245)
Đã không ngại chịu “hèn
một chút”, nhiều văn nghệ sĩ đua nhau “ăn cắp văn” của đảng:
“Không ai trách anh nếu
anh viết giống bài nào đó đã in rồi trong báo đảng. Nhai lại những gì báo đảng
viết đã không mang tội đạo văn thì chớ, lại còn được khen: ý thức tổ chức cao.
(trang 129)
Câu chuyện giữa Vũ Thư
Hiên và một người bạn, bác sĩ Phan, cho thấy giới trí thức miền Bắc rất ghét
lãnh đạo cộng đảng, coi họ như một thứ hủi, tốt nhất đừng dây vào. Vì vậy họ
không lên tiếng chỉ vì khinh, hay sợ. Chứ không phải “im lặng là tán thành”.
“Anh (Phan) không thích
cái xã hội nhố nhăng với một lũ Cẩm Bá Nhạ (tiếng Pháp campagnards có nghĩa những
tên nhà quê), một lũ hủi ở trên đầu.
“Mà hủi thì tốt nhất là
không dây. Anh biết giữ mồm giữ miệng cho nên bọn công an theo dõi trí thức vẫn
đinh ninh Phan là một bác sĩ giỏi nhưng mít đặïc về chính trị.” (trang 531)
Về vụ án “Nhân Văn-Giai
Phẩm”, tác giả thuật lại lời nhạc sĩ Văn Cao nói rằng chủ mưu không phải
ông Hồ, “ông cụ không nghĩ ra cái đó. Ông cụ không tệ đến thế.” Cũng không phải
Tố Hữu hay Nguyễn Chí Thanh mà “tác giả chính là “Longue Marche”. Cậu nghe rõ
chưa? Là -Trường Chính”. Văn Cao cũng nói cho Vũ Thư Hiên biết nhận định của
mình về thái độ của văn nghệ sĩ và của các nhà lãnh đạo:
“Hồi ấy văn nghệ sĩ còn
tin đảng lắm. Gì thì gì đảng vẫn là đảng của mình. Là ruột thịt của mình. …Chẳng
ai hô hào lật đổ các ông ấy cả. Chỉ có các ông ấy chu chéo lên: ối giời ơi có địch,
có địch ngay trong hàng ngũ chúng ta, rồi dựng thành vụ để trấn áp.”
Nhưng không phải ai cũng
nghĩ như Văn Cao. Một nhà báo trong một cuộc kiểm thảo đã chửi toáng lên. “Nhà
báo Hùng Thao gầm lên: “Nuôi cán bộ như lợn, mắng như chó, thời trước địa chủ đối
với tá điền cón tử tế hơn.” (trang 576)
Tác giả có thuật lại rằng
sau đám tang Dương Bạch Mai đột tử trước khi đọc diễn văn chống đường lối thân
Mao của lãnh đạo, thấy tác giả vẫn còn đeo băng tang, có một người trong phòng
vệ sinh giả vờ đi tiểu để được đứng gần ông và nói: “—Tôi xấu hổ—anh thì thầm—Tôi
hèn. Anh khinh tôi cũng được, anh chửi tôi cũng được, nhưng xin anh thông cảm
cho tôi—tôi có 4 đứa con nhỏ và một người vợ bệnh tật. Nếu không tôi đã không xử
sự như vậy.” Tác giả viết rằng:”Trong buổi học tổ trước đó anh ta hùng hổ lên
án “bọn phản bội xét lại hiện đại”, như một người “Mác xít lê ni nít” chính cống.”
Rồi ông kết luận:
“Cái chế độ làm cho con
người hèn đi không thể là chế độ xứng đáng với con người. Con người cần phải được
sống trong tư thế đứng thẳng, ngẩng cao đầu.” (tr.282)
Nhưng trong xã hội mà
ông đương sống “hầu như các nhà văn vào thời kỳ đó đều hèn một chút nếu không
nhiều. Đó là bản năng tự vệ, có sẵn trong bất cứ sinh vật nào. Không hèn, chính
anh sẽ rơi vào sổ đen, nhẹ thì không đuợc lên lương, hoặc mất đứt cơ may được
ra nước ngoài một chuyến. Nặng anh có thể bị đẩy đi lao động, chuyển công tác,
hoặc bị tống ra ngoài biên chế. (trang 189)
Trần Dần được coi như một
trong những trụ cột của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, thế mà sau khi bị bắt cũng
không thoát được tiếng chì tiếng bấc. Chính Văn Cao nói với Vũ Thư Hiên: “Thằng
Dần tiếng thế mà không có gan. Mới bị đánh đã gục, đã phản tỉnh lung tung. Nó
khai với Tố Hữu rằng Văn Cao bảo tụi nó phục xuống mà đánh. Mà mình có nói thế
bao giờ đâu…” Tác giả bảo “tôi tin Văn Cao, nhưng tôi không nghĩ Trần
Dần hèn. Tôi biết chỉnh huấn là thế nào. Trong không khí chỉnh huấn con người
có thể bị biến đổi do tự kỷ ám thị trong một tập thể tự kỷ ám thị như trong cuộc
lên đồng. Trần Dần khi tâm thần hoảng loạn, lại bị xúi dục, có thể bị ám thị rằng
Văn Cao đã nói như thế. Còn Văn Cao trong tâm trạng hậm hực cũng dễ hiểu nhầm bạn
mình lắm.”
Cái cách lý giải của Vũ
Thư Hiên, ai không có kinh nghiệm về các hình thức tẩy não, cải tạo tư tưởng và
chỉnh huấn thì không thể nào chấp nhận hay hiểu nổi. Mà đó là cái tàn ác đến
tinh vi được Cộng Sản áp dụng thường xuyên, đối với đảng viên cũng như đối với
nhân dân.
Nơi trang 118, nhắc đến
Trần Dần tác giả viết:
“Tôi nhớ một hôm anh thủ
thỉ: “Này, mình cũng người Nam định đấy, cậu ạ. Cái vùng đất thịt này nổi tiếng
vì những văn tài và những kẻ bất phục. E rằng trong máu chúng ta có cả hai thứ,”…
“Trần Dần thương tôi, muốn
tôi học được nết sợ hãi. Như anh đã học.
“Thế hệ chúng tôi bất hạnh:
Chúng tôi ra đời trong thân phận nô lệ, lớn lên trong khói lửa chiến tranh và
trưởng thành trong nỗi sợ hãi các đồng chí.”
Tâm trạng sợ sệt của Trần
Dần, một cự tướng trong mặt trận Nhân Văn Giai Phẩm, và của Vũ Thư Hiên, một
người muốn “đứng thẳng, ngẩng cao đầu”, cho thấy sức mạnh tàn bạo của đảng mà họ
ghét nhưng sợ. Có hiểu được nỗi sợï hãi này mới hiểu được sự dè dặt trong những
lời tuyên bố hay những trang sách của các tác giả mà chúng tôi chọn trưng dẫn
trong soạn phẩm này.
Về một số nhân vật khác:
Trường Chinh:
Tác giả dựa vào nhận xét
của cha ông để gán cho Trường Chinh những tội chủ trương tiêu thổ kháng chiến
làm tan hoang các tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh hồi cuối thập niên 40 và tội chủ trương
“tích cực cầm cự, chuyển mạnh sang tổng phản công” do chính ông thảo trong nghị
quyết 9 vào đầu năm 1964. Ông cũng trưng dẫn Văn Cao bảo thủ phạm vụ án Nhân
Văn Giai Phẩm là Trường Chinh.
Lê Duẩn:
“Vốn là một tên bẻ ghi
đường sắt trước khi trở thành nhà độc tài, Lê Duẩn tất nhiên muốn chỉ bằng một
cú gạt là bắt được con tầu quốc gia chạy theo ý mình muốn.” (Trang 273)
“Theo nhận xét của các
ông Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm thì Lê Duẩn là người cực đoan về tính cách,
phóng túng về hành xử.” (trang 324)
“Bằng vào những câu chuyện
kể của họ (tác giả có ý nói những người bạn miền Nam tập kết của ông) khi họ
còn ngưỡng mộ “anh Ba” thì Lê Duẩn là người độc lập trong suy nghĩ, có biệt tài
tổ chức, trong chỉ đạo có vẻ chặt chẽ, nhưng lại linh hoạt, thoáng đấy mà
nghiêm đấy. Hồi kháng chiến chống Pháp, mặc dầu ở xa trung ương, nhưng chủ
trương của ông đề ra vẫn khớp với chủ trương của trung ương trong mọi mặt. Người
ta sùng bái ông, gọi ông là Cụ Hồ miền Nam.” (trang 325)
Tác giả nói về nghi vấn
trong việc tướng Nguyễn Bình, khá nổi danh ở miền Nam, bị giết. Ông bảo cha ông
và một số người khác nói Bình có mâu thuẫn với ban lãnh đạo trung ương cục miền
Nam (đứng đầu là Lê Duẩn ). Do đó “bị điều ra Bắc và hy sinh dọc đường trong
tình trạng không được bảo vệ đầy đủ và lộ trình bị lộ… Nhiều người nói bàn tay
Lê Duẫn trong vụ này là rõ ràng, nhưng lại không chỉ ra được chứng cứ.” (trang
348)
Nguyễn Văn Linh:
“Nguyễn Văn Linh, theo
cha tôi nhận xét, là người hiền lành , chân thật. Ông cũng đã trải qua nhà tù đế
quốc, có tinh thần cách mạng kiên định, là người thực hiện chứ không phải người
sáng tạo.
“Dưới thời tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh trên văn đàn Việt Nam đã xuất hiện một số tác phẩm dám nói lên
sự thật, tuy không nhiều….
“Chính là nhờ có Nguyễn
Văn Linh mà các văn nghệ sĩ bị buộc tội oan trong vụ Nhân Văn – Giai Phẩm mới
được phép xuất hiện trở lại với người đọc.
“Không có Nguyễn Văn
Linh thì Dương Thu Hương không thể xuất bản được Bên Kia Bờ Ảo Vọng, Thiên Đường
Mù, cho dù sau đó chị có bị trấn áp, bị bỏ tù rồi được thả ra, được xin lỗi,
sau này còn được cầm hộ chiếu đi Paris.” (trang 296-297)
Võ Nguyên Giáp:
“Nói đến Võ Nguyên Giáp,
cha tôi nhận xét ông Giáp có nhược điểm hay tránh né khi xảy ra bất đồng ý kiến.
Với vẻ ngoài bình thản, pha chút cao ngạo, nhiều người tưởng ông kiêu ngạo đặt
mình trên những cuộc tranh luận. Thực ra ông bao giờ cũng sẵn sàng chịu lép vế
trước người đối thoại hùng hổ. Tất nhiên, ở cương vị của ông số người dám áp đảo
và áp đảo được ông không nhiều.” (trang 358)
“Rồi xem Văn (Võ Nguyên
Giáp) nó có dám chống lại thằng Duẫn với thằng Thọ không? –cha tôi nói—Tính nó
vậy đấy, đứa nào to mồm là nó im. Chán lắm!
Sự việc diễn ra đúng như
cha tôi tiên đoán. Võ Nguyên Giáp im lặng ngay từ đầu, trong cuộc họp bộ chính
trị trước khi họp trung ương.” (trang 359)
“Đúng là trong thời gian
này trí thức có hướng về Võ Nguyên Giáp thật. Người ta tin tướng Giáp, bởi vì
ông đã từng là giáo sư trường Thăng Long, chẳng gì cũng là trí thức, là người
co ùhọc, chứ không phải loại dùi đục chấm mắm cáy.
“Nhưng tướng Giáp lại chẳng
phải như người ta nghĩ. Ông đã phụ lòng tin của trí thức. Thậm chí khi những
đòn chuyên chính vô sản giáng xuống những người thân cận của ông, ông đã không
dám hé răng nói một lời, mà chỉ ngoan ngoãn né sang một bên, mặc cho Lê Duẫn và
Lê Đức Thọ muốn làm gì thì làm.” (trang 334)
Nơi trang 350 và 351 tác
giả đã nói lý do tướng Giáp bị thất sủng là do Lê Đức Thọ, dưới sự chỉ đạo của
Lê Duẫn, đã khui ra bằng chứng ông tướng này khi còn là học sinh đã khúm núm
trước Pháp để xin du học, và khoảng năm 1964 có tin đồn Giáp “lén lút liên lạc
với Nikita Khrutshchev’’ bị đảng phát hiện. Nếu Hồ Chí Minh không can thiệp có
lẽ tướng Giáp đã bị thanh trừng. Có lẽ những tỳ vết đó trong lý lịch ông làm
ông đành cam phận? Nghĩa là chịu hèn cũng như nhiều người khác trong chế độ Cộng
Sản?
Phạm văn Đồng:
“Tôi là thủ tướng lâu nhất
thế giới và cũng là thủ tướng khổ nhất thế giới. Làm thủ tướng thật, tôi chẳng
có quyền gì hết….”
“Ông Ưng văn Khiêm bình
luận: Anh chàng này có một cái tội: đó là biết mình không có quyền làm bất cái
chi không có phép Ba Duẫn với Sáu Thọ mà lại không dám từ chức. Ông Trần Văn Giầu
hóm hỉnh: “Cái đít con người ta có trí nhớ. Nó nhớ cái ghế.” Tôi được nghe Phạm
Văn Đồng nói chuyện nhiều lần. Ông tỏ ra là người biết nhiều hiểu rộng, nhưng
tôi thấy ít ai nói chuyện vô duyên như ông.” (trang 294)
“…Mai Lộc vốn rất sùng
kính Phạm Văn Đồng buồn rầu nói với tôi: “Thần tượng của tôi sụp đổ rồi. Không
ai mời ông ta cứ đòi đến, leo lên bục mà ba hoa, chẳng ai buồn nghe mà vẫn cứ
nói.”
“Phạm văn Đồng, theo bà
(mẹ tác giả) nhận xét là người không xấu, nhưng ba phải, vụng về và vô tích sự…Dư
luận ca ngợi ông liêm khiết, ông đứng đắn, nhưng những ai quen biết ông đều hiểu
ông không làm nổi trò gì trong những việc lẽ ra ông phải làm….
“…Ông không nuốn mất
lòng một ai, nhất là mất lòng cấp trên. Quả nhiên đúng. Một đồng chí cũ thương
mẹ tôi đến nói với Phạm Văn Đồng chuyện cha tôi bị bắt. Ông nghe rồi thở dài
nói: “Việc tập thể quyết định, tôi làm gì được!” (trang 27)
Lê Đức Thọ (tên thật
Phan Đình Khải):
Vũ Thư Hiên coi Thọ là kẻ
chủ mưu “vụ án xét lại chống đảng” mà cha con ông là nạn nhân, nên ông đã nói đến
con người này ở rất nhiều chương, và đã để hầu trọn chương 31 để nói riêng về y
và hai người em là Đinh Đức Thiện (tên thật: Phan Đình Dinh) và Mai Chí Thọ
(Phan Đình Đống), với những cá tính và thói xấu của từng người. Ông cũng kể lại
câu chuyện về “mồ mả” với khoa “phong thổ” do một người cháu ruột của Lê Đức Thọ,
mà tác giả bảo là một nhà khoa học hẳn hòi, kể cho ông nghe vào năm 1966 là năm
thế lực của Thọ bao trùm ở miền Bắc, trong chức vụ trưởng ban tổ chức Trung
Ương Đảng, mà y đã cải tổ và biến nó thành bộ máy quyền lực cực lớn cho Đảng và
cho riêng mình. Câu chuyện phong thổ này cũng như câu chuyện ông thầy bói mù
tiên đoán đúng phoóc về số phận của tác giả đã tác động không ít đến định kiến
của người duy vật trong ông. Hãy đọc vài câu của Vũ Thư Hiên nhận xét về Lê Đức
Thọ:
“Con người cao to tóc bạc
trắng, với giọng nói cố ý kéo dài bắt người nghe chờ đợi câu tiếp theo, để lại
trong tôi ấn tượng nhạt nhẽo và khó chịu. Tôi dị ứng với những gì không thật.
Trong Lê Đức Thọ tôi nhìn thấy đầy dẫy của giả. Mọi người khúm núm sợ sệt. Tôi
dửng dưng, bằng con mắt lạnh lùng.
“Nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa đã ở tuổi 30, chính quyền đã vững vàng, đám lãnh tụ đã học thuộc bài lên xe
xuống ngựa xênh xang, đệ tử bâu quanh như ruồi thấy mật. Một chút khiêm tốn giả
vờ, một chút bình dân đóng kịch, trộn với rất nhiều phô trương quyền thế, là
nét nổi bật trong Thọ. Nói tóm lại một tên hãnh tiến điển hình.” (trang 548)
Tác giả có thuật lại lời
của nhạc sĩ Văn Cao và của nhà khoa học Bùi Quang Trừng nói với ông về mộng lập
liên bang Đông Dương với Lê Đức Thọ làm tổng bí thư. Do đó việc xua quân sang
Cam Bốt năm 1978 là chính y chủ động vì mục đích đó:
“Cuộc phiêu lưu quân sự
(sang Cam Bốt, M.V.) được tiến hành theo sáng kiến và sự chỉ đạo của Lê Đức Thọ
đã làm cho khoảng 52,000 chiến sĩ chết trận, 200,000 chiến sĩ bị thương….
“…Thọ đã chết trước khi
phải ra đứng trước vành móng ngựa một phiên tòa liên tịch hai nước, với tư cách
tội phạm chiến tranh.
“Người duy nhất đủ tư
cách thay mặt Thọ hôm nay là Lê Đức Anh.” (trang 562-563)
Vũ Thư Hiên đã thuật lại
lời Hoàng Minh Chính kể cho ông nghe có lần Lê Đức Thọ đã nói với Hoàng Minh
Chính: “ …Nó (một bà nọ) phải hiểu đảng là tao, là tao đây này! Còn đi xin
ở chỗ nào nữa?” (trang 329)
Cái người tự cho mình là
hiện thân của đảng Cộng Sản Việt Nam, cái đảng tự phụ là đảng yêu nước hơn bất
cứ đảng nào ấy được Vũ Thư Hiên nói đến như một tên làm tay sai cho thực dân
Pháp, phản bội các chiến sĩ cách mạng, mặc dầu ông bảo chỉ nghe người ta nói,
nhưng không phải không đáng tin cậy:
“…Vào thời gian này, những
cựu tù nhân Sơn La kể lại, Lê Đức Thọ một hồi được Cousso lấy ra làm tạp dịch tại
nhà y. Cũng vào thời gian này một số việc bí mật của ban lãnh đạo tù nhân bị lộ.”
Cha tác giả và tướng Đặng
Kim Giang cùng bị giam ở Sơn La cùng thời gian đó chia sẻ với nhau về mối nghi
ngờ đó. (trang 231)
“Dưới con mắt của ông (Đặng
Kim Giang) Lê Đức Thọ là tên hạ lưu hãnh tiến.” (trang 232)
Trần Ngọc Hoàn (ủy
viên Bộ Chính Trị, bộ trưởng bộ Công An)
“Thằng lưu manh khó trở
thành người tử tế, -ông (Vũ Đình Huỳnh, cha tác giả) than với ông Đặng Kim
Giang…
“… Bố anh không nói theo
nghĩa bóng đâu. Nghĩa đen đấy, -ông (Nguyễn Tạo, thứ trưởng bộ Lâm Nghiệp) trả
lời thắc mắc của tôi -chả là thằng này đích thực lưu manh anh ạ.”
“Năm 1992, tôi rời Việt
Nam lần chót thì ông Nguyễn Tạo còn sống. Tôi hy vọng ông còn sống lâu để kể
câu chuyện kỳ lạ này cho nhân dân nghe.”
Sau đó tác giả đã viết lại
những gì Nguyễn Tạo kể về cuộc đời của “Cảnh con”, tên của Trần Quốc Hoàn khi
còn nhỏ, từ nhỏ tới lớn chuyên ăn cắp ra sao. Rồi tới chuyện y, lợi dụng vai
trò “săn sóc sức khỏe” cho lãnh tụ, hãm hiếp và thủ tiêu mấy chị em cô Xuân ra
sao. Cô Xuân là vợ bí mật của ông Hồ Chí Minh, đã có với ông này một người con
và được cha đặt tên là Nguyễn Tất Trung, sau được trao cho ông “Vũ Kỳ chăm sóc
coi như con nuôi”. (4)
Hoàng Minh Chính:
“Ban lãnh đạo căm ghét
anh, quên mất rằng bằng những kiến nghị ấy HMC thể hiện một niềm tin lỗi thời ở
Đảng.” (trang 295)
Hoàng, tên cán bộ chấp
pháp thỉnh thoảng thay Huỳnh Ngự hỏi cung Vũ Thư Hiên, một buổi đã nói nhỏ với
ông về Hoàng Minh Chính như sau:
“Anh không biết đấy thôi
chứ Hoàng Minh Chính có mưu đồ lớn lắm, anh ta muốn lật đổ trung ương bằng một
Đại Hội bất thường (Hoàng không nói đến đảo chính)…” (trang 430)
o O o
Để kết thúc chương này
tôi xin đưa ra một nhận xét riêng rất giản lược về tác phẩm như sau: Một cuốn hồi
ký hay. Có nhiều chỗ hay quá khiến có người nghi là không thực. Họ bảo những đoạn
đối thoại, tranh luận với chấp pháp trong tù nói lên cái dũng khí của tác giả
có vẻ hơi cường điệu, thêm thắt. Tỷ dụ như đoạn ông đập bàn quát mắng cán bộ chấp
pháp tên Hoàng. Họ cho là tác giả tự cao mà bịa ra chứ làm gì trong tù có cái cảnh
đó. Nhưng nếu đọc kỹ tác phẩm thì thấy sau này tác giả đả được công an Việt
Hùng cho ông biết Hoàng đã về hưu và hãy còn sống. (trang 756) Chẳng lẽ ông dám
bịa ra chuyện đó mà không sợ Hoàng lên tiếng phủ nhận và bắt bẻ? Nếu bạn bị
giam trong xà lim nhiều tháng liên tục như tác giả, lại thường xuyên bị hỏi
cung theo kiểu tra tấn tinh thần đến phát điên lên được thì chuyện nổi khùng mà
mắng chửi người hỏi cung thậm chí muốn hành hung cũng có thể hiểu đuợc.
Riêng về con người tác
giả và lập trường của ông, cũng như về tình hình chính trị theo nhận xét chủ
quan của ông, chúng tôi sẽ xin bàn rộng hơn trong mục tổng kết. Tôi chỉ xin nói
gọn rằng ông vẫn coi chủ nghĩa Mác có cái đẹp, cái hay của nó ở chỗ nó là một
lý tưởng xã hội gần giống với lý tưởng Ky Tô giáo. Ông cho đó là chủ nghĩa xã hội.
Ông không nói gì đến chủ nghĩa Cộng Sản. Ông không cho chủ nghĩa xã hội là một ảo
tưởng.Nhưng ông kết án chủ nghĩa Lê-nin, chủ nghĩa Mao. Nhất là sự tàn bạo của
Staline. Vì vậy ông ủng hộ Khrutshchev là người có can đảm đánh đổ thần tượng
Staline và đưa ra một đường lối cởi mở hơn. Các bài viết và tác phẩm của ông phản
ánh tư tưởng đó cho nên mới bị đánh, bị cấm. Và cũng chính vì vậy sau này ông mới
bị bắt. Nhưng ông lại nói ông chẳng theo chủ nghĩa xét-lại nào cả. Thì cũng
đúng thôi. Chính Khrutshchev có bao giờ nói ông ta chủ trương “xét lại” đâu.
“Xét lại” là do những người chống Khrutshchev gán cho ông mà thôi. TH cũng như
hầu hết các nhà văn và trí thức Cộng Sản phản tỉnh, đều cho rằng họ theo kháng
chiến chống Pháp là đúng và đảng Cộng Sản có công thực chứ không cướp công
kháng chiến.
Ông Hồ tuy có khuyết điểm,
nhưng vẫn là lãnh tụ tốt, hay ít ra là con người khó hiểu, chứ không độc ác. Nhận
định đó, lập trường đó, dĩ nhiên người quốc gia chống Cộng không chấp nhận.
Nhưng cũng phải công nhận tác giả thành thực, và có can đảm nói lên điều mình
nghĩ là phải, ở giữa những người không đồng ý với mình. Hơn nữa ở trang 250,
ông đã thú nhận ông “đần” và “ngu lâu” vì không chịu nghe bà cô ông, vợ ông
cũng như tiểu đoàn trưởng Đích coi những người Cộng Sản là “bất nhân,” “chế
độ Cộng Sản không có tương lai”, và Hồ Chí Minh là “vua quỷ, quỷ
vương”.(249,250)
Đọc hết cuốn hồi ký tôi
có cảm tưởng tác giả đã cố biện minh cho việc cha con ông và một số đồng chí của
cha ông theo Cộng Sản, không phải vì chủ nghĩa Cộng Sản theo đúng nghĩa của nó,
đúng bản chất ảo tưởng, cường đạo, tàn bạo vì chủ trương đấu tranh giai cấp.
Cha con ông cũng như họ theo Cộng Sản vì nó có “dáng dấp Thiên Chúa Giáo, nơi mọi
người đều là con cái Chúa” (trang 99), nó hứa hẹn một xã hội tốt đẹp và nhất là
vì nó giúp giải phóng dân tộc khỏi áp bức của thực dân phong kiến. Nhưng đến
khi thấy nó thực hiện đấu tố dã man trong cải cách ruộng đất, bắt bớ giam cầm
những người vô tội trong các vụ Nhân Văn -Giai Phẩm, chỉnh đốn tổ chức và nhất
là vụ “án xét lại chống đảng” thì mới bừng tỉnh (sau CCRĐ thì chỉ mới “cảm thấy
như có cái gì cục cựa trong tôi như là sự bừng tỉnh”), thì đã muộn. Bừng tỉnh
nhưng đành bó tay. Vì những người bạo miệng nói ra ý kiến bất đồng đều bị thủ
tiêu. Mọi người đều đành sống hèn một chút cho qua ngày như phần đông văn nghệ
sĩ, kể cả Trần Dần, Văn Cao vân vân…, nhưng cũng khối người hèn nhiều nhiều, từ
Tú Mỡ, Thế Lữ, Nguyễn Tuân cho đến Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên vân vân… vì họ
còn muốn có cơm ăn, con cái được đi học… Tóm lại chính sách cào bằng kinh tế,
thắt hầu bao, kiểm soát chặt chẽ di trú v.v… đã đẩy họ vào chốn sợ hãi liên
miên, không dám có phản ứng quyết liệt. Vì vậy mà chế độ Cộng Sản tồn tại lâu ở
Việt Nam. Còn một vài lý do nữa khiến nó còn tồn tại cho đến tận ngày nay, sau
khi nó đã tan biến ở Đông Âu một thập kỷ, chúng tôi sẽ bàn kỹ nơi chương cuối.
Chú Thích
(1) Đêm Giữa Ban
Ngày, tác giả Vũ Thư Hiên, Văn Nghệ xuất bản năm 1997, trang 303.
(2) Gần xã Hành Thiện,
quê của Trường Chinh Đặng Xuân Khu. Nhưng cũng có người nói ông Huỳnh quê Trung
Lao, huyện Trực ninh, Nam định (?)
(3) Tờ Phụ Nữ Diễn
Đàn của Chử Bá Anh, số 104, tháng 9 năm 1992 có đăng một bài dài về cuộc đời
ông Vũ Đình Huỳnh, trong phần kết luận đã cho biết: Theo một người mới từ Việt
Nam sang Mỹ định cư, thì ông Huỳnh trước khi chết vào ngày 3-5-1990, đã được một
cán bộ trong ban tổ chức trung ương đảng đến bên giường tuyên bố trả lại đảng tịch
cho ông. Nhưng lúc đó ông điếc, lại bị cấm khẩu. Ông chỉ giơ cỗ tràng hạt lên,
không biết ai đã đặt vào tay ông lúc nào. Người nhà thấy thế đã đi tìm linh mục
đến làm “phép giải tội” cho ông (mặc dù không có phần “xưng tội” về phía ông,
vì đã bị cấm khẩu.) và cho ông rước lễ, như “của ăn đàng”. Chuyện này có thật
hay không, không thấy con ông nói đến trong “Đêm Giữa Ban Ngày”.
(4) Trang 597-609.
Xin xem chi tiết trong phần phụ lục.
Chương 6
Nổi Loạn hay Nỗi
Oan của Đào
Hiếu
Đầu thập niên này độc giả
trong nước háo hức đi tìm đọc một cuốn tiểu thuyết của một nhà văn có tài, mà
không tìm được. Người ta kháo nhau: hấp dẫn lắm, quậy lắm. nhiều màn mê ly lắm,
tác giả chửi chế độ đấy. Đó là cuốn Nổi Loạn của Đào Hiếu, nhà văn đã có 14 tác
phẩm xuất bản từ năm 1978 (“Giữa Cơn Lốc”) đến 1993 (“Nổi Loạn”).
Sở dĩ người ta không tìm
được là vì nó đã bị nhà nước thu hồi viện cớ: “Chuyện bẩn thỉu, đồi trụy.” Bộ
Trưởng Văn Hóa Trần Hoàn thì trả lời báo chí về lý do cuốn sách bị cấm phát
hành như sau: “Về mặt chấp hành quy chế cuốn sách có 3 vi phạm:
1) Đăng ký tên sách là
“Nỗi Oan” nhưng tự động sửa lại là “Nổi Loạn”.
2) Không nộp lưu chiếu
mà cứ phát hành.
3) Khi phát hành Cục Xuất
Bản và cả hội Nhà Văn đều yêu cầu tạm đình chỉ, nhưng không được thực hiện.”
Tuy nhiên cũng có ít người
nhanh chân mua kịp trước khi nó bị tịch thu. Đây là chuyện một ngưòi đàn bà có
chồng là cán bộ từng du học Ba Lan, có 4 con nhỏ mà còn đi ngoại tình với một cựu
sĩ quan chế độ cũ cũng đã có vợ là một bác sĩ và 3 con.
Ngọc nguyên quán miền
Nam được cha mẹ mang đi tập kết ra miền Bắc khi mới lên hai. Trong thời gian ở
miền Bắc cô cũng như phần đông các gia đình cán bộ tập kết phải sống cuộc đời
cơ cực thiếu thốn. Đến khi “hòa bình lập lại” gia đình cô trở về miền Nam. Cha
cô, một cán bộ cộng sản nghiêm khắc, ép cô lấy một cán bộ cộng sản luống tuổi:
Hùng vốn là một nhà sư đã hoàn tục vì giác ngộ chân lý của cách mạng vô sản và
khi được cô vợ “hoa hậu Cần Thơ” thì được “giác ngộ lần thứ hai “và khám phá ra
chân lý ngược với Nguyễn Du: “Tình là cõi phúc tu là giây oan.”
Nhưng vốn quen tác phong
khắc khổ của một nhà tu và cù lần của một “cán cối”, Hùng đã không chinh phục
được trái tim Ngọc. Đêm động phòng bị trì hoãn hai ba lần. Đến khi Ngọc biết
đàng nào cũng phải “làm cho xong cái chuyện đó” thì nàng ngỡ ngàng nhận ra rằng
nó chỉ có thế, và nhanh thế. Tuy cũng đã 24 tuổi nhưng cô cũng chưa được ai cho
biết thực chất chuyện vợ chồng nó ra làm sao. Hùng đối với cô chỉ là “người đàn
ông buồn tẻ như cục gạch ở đầu hè”. Mỗi lần ăn nằm với Hùng, Ngọc đều có cảm
giác như kẻ bị hiếp dâm. Nhưng hai người cũng có được 3 đứa con.
Thế rồi tình cờ Ngọc gặp
Phan tại một trại cải tạo khi cô đến thuyết minh trong một buổi chiếu phim cho
tù cải tạo xem. Lợi dụng sự quen biết với trưởng trại, Ngọc mạo nhận Phan là
anh đôi con dì với mình để xin cho chàng được thả ra khỏi cái “chuồng” giam phạm
nhân bướng bỉnh. Phan đã bị mê hoặc bởi cô gái đẹp buồn này. Khi Phan được về
sau 3 năm cải tạo họ lại gặp nhau trong những buổi chiếu phim ở các rạp. Mối
tình nảy nở. Phan thuê một căn nhà nhỏ làm tổ uyên ương. Hùng vốn ngây ngô
không hay biết gì. Nhưng bác sĩ Bích, vợ Phan thì tinh ý nên đã rình bắt được bức
thư tình Phan viết cho Ngọc. Bích nhất định đòi Phan phải chấm dứt mọi liên hệ
với Ngọc, bằng không thì hãy ra khỏi nhà. Nàng cũng viết sẵn giấy ly dị bắt
Phan phải ký. Không những thế nàng còn đi báo chuyện này cho Hùng là chồng Ngọc
biết, nói là để cùng nhau theo dõi và ngăn chặn cuộc ngọai tình.
Hùng dùng mọi cách để giữ
Ngọc. Nhưng năn nỉ, canh chừng, cấm đoán, theo dõi, bắt ghen, đánh ghen đều vô
hiệu. Cuối cùng anh ta đánh Ngọc một cách tàn nhẫn và đuổi ra khỏi nhà, để rồi
một mình ngồi ở xó nhà uống rượu với anh hàng xóm. Thế là hai gia đình tan nát.
Phan tuy yêu Ngọc, thấy mình có trách nhiệm với người yêu, nhưng không muốn bỏ
vợ con. Anh bảo Bích thế và cũng thú thực với Ngọc như thế. Thực ra anh quá
tham lam, vừa không muốn xa vợ con vừa muốn đắm mình trong thú vui nhục dục với
Ngọc, người đàn bà giống như con thú xổ lồng thả lỏng bản năng trong những giờ
làm tình bên người đàn ông mà nàng cho là “một nửa kia của chính mình” mà mình
đã tìm lại được sau bao năm không biết đến tình yêu. Có lần nàng nói với Phan:
“…Em khám phá ra mình là
một kẻ cuồng nhiệt, mê đắm và táo bạo, giống như con khủng long chuyển mình sau
một ngàn năm ngủ vùi trong lòng đất. Nó tạo ra bão tố và đổ nát.
“Em ghê sợ cho cái luật
bù trừ của Tạo Hóa.
“Có những lúc em nhớ anh
điên dại. Và thèm khát cũng điên dại. Cho nên anh đừng cười em về chuyện làm
tình nhé. Đã vào cuộc là không chấp nhận sự dừng lại, dù chỉ một giây. Liên tục,
mãnh liệt, và vắt cho kiệt hết tinh lực. Em ghét cái gì nửa vời…”
Chính những trang sách
nóng bỏng tả chân các cuộc mây mưa (trên giường cũng như dưới biển) này là cái
cớ để cuốn tiểu thuyết bị thu hồi và liệt vào loại sách cấm. Người ta bảo nó “bị
công luận lên án là truyền bá lối sống dâm ô đồi trụy”. Nhưng nguyên nhân chính
của việc thu hồi khó nói ra, đó là cuốn tiểu thuyết đã ám chỉ sự đần độn, ngu dốt
và sự khắc nghiệt, đạo đức giả của những cán bộ đảng viên như Hùng và cùng với
Hùng qua hình bóng văn chương bóng bảy người đọc sẽ hình dung ra đảng, và cái
xã hội do đảng tạo ra.
Sau đây là một vài đoạn
vắn trích từ cuốn tiểu thuyết Nổi Loạn:
Cảnh thiếu ăn trong gia
đình nữ bác sĩ Bích:
“(Phan) Thiếu úy bộ binh
quân đội Saigon cũ, hai lần bị thương, một miểng đạn còn nằm sâu trong đùi, ba
năm học tập cải tạo, vợ là bác sĩ (Bích) nhưng lương không đủ nuôi ba đứa con.
Cuối năm 1978 khi anh mới ở trại cải tạo về, gia đình ăn toàn bột mì, bo bo, sắn.
Chiếc xe đạp của anh như một con ngựa già lọm khọm. Hồi ấy mỗi khi ra đường thấy
ai đi xe đạp bị trật xính lui cui bên lề đường tôi hay nhìn. Thường là tôi gặp
anh trong tư thế ấy…” (trang 243)
Và đây một cảnh khác :
…”Đứa chị nói:- Đừng giở
giọng tham ăn.
Bích cười cười:-Vậy chứ
má thấy nó ham ăn má lại thương. Tại vì nó thiếu nên cái gì nó cũng thèm.
Mấy đứa chị:- Má đừng
binh. Nó toàn giành ăn với tụi con.”
Đó là cảnh gia đình một
bác sĩ ở miền Nam sau khi đã “được giải phóng” 18 năm. Còn đây là cuộc đời của
dân trong vùng Ngọc sống khi còn ở ngoài Bắc với gia đình trước 1975:
“Quá khứ của tôi gắn liền
với những lối mòn quanh co đỏ chói màu gạch, những mái tranh lụp sụp ẩn hiện
sau vòm cây thưa thớt, những con đê nhỏ, mương nước, những cánh đồng và đình
làng…
“Có nơi nào trên trái đất
này con người phải chui rúc vào đống lá chuối khô để ngủ trong suốt mùa đông
giá rét? Trẻ con không có quần mặc, chỉ một chiếc áo vải tả tơi khoác ngoài đứng
co ro trong gió? Những bữa cơm quanh năm chỉ có cà muối và rau muống ? Và người
chết phải bó chiếu đem chôn?
“Có xứ sở nào trên mặt đất
này, mà người dân cam chịu và hài lòng với kiếp sống hẩm hiu tăm tối như vậy?
(…)
“Thế mà tôi vẫn sống vẫn
lớn lên. Và lạ thay, giờ đây đàn ông lại quỳ dưới chân tôi, van lậy, khóc lóc tỏ
tình.
“Chẳng lẽ những quả cà,
những cọng rau muống, những con cua, con ốc, những củ khoai củ sắn kia đã tạo
ra điều kỳ diệu ấy? Tôi không tin như thế. Và tôi vẫn thầm cám ơn bố mẹ tôi,
cám ơn thiên nhiên đã tạo ra nhan sắc ấy, cám ơn những đóa hoa thủy tiên trong
chùa, những lũy tre, những luống cải bẹ xanh trong vườn bà thím, những lá trầu
không , những cơn mưa dầm gợi nhớ nhung, những hoàng hôn tím ngắt chân trời…
Nhan sắc là niềm kiêu hãnh thầm kín, nhưng đó cũng là tai họa của đời tôi.
Chúng là cội nguồn của sự ghen tuông , của tình và thù.
“Giờ đây tôi bị mang tiếng
là người đàn bà ngoại tình, nhưng tôi không có gì xấu hổ về điều ấy. Tôi yêu
Phan, đúng ra là tôi đã tìm được Phan, một người mà suốt 20 ở miền Bắc tôi
không tìm được, ở làng Trinh Lương tôi không tìm được, ở khu Kim Liên Hà-nội
tôi không tìm được, ở rừng núi Tuyên Quang tôi cũng không tìm được.
“Tôi đã tìm thấy, đã
tình cờ nhặt được anh, cái “nửa kia” của mình. Chúa trời đã lấy một chiếc xương
sườn của người đàn ông mà tạo ra tôi. Người đàn ông đó là Phan. Tôi đã nhặt được
anh một cách rất tình cờ trong một trại cải tạo. Lúc ấy anh như người rừng, tơi
tả, hoang dã và cô độc.
“Tôi đã tìm thấy anh như
tìm thấy chính bản thân mình.
“Tôi không ngọai tình.
“Trước kia tôi có yêu ai
đâu, kể cả chồng tôi….
“Tôi đã không được yêu,
bây giờ tôi có quyền yêu.
“Tôi đã không được sống,
bây giờ tôi có quyền sống.
“Ai có thể tước đoạt cái
quyền thiêng liêng ấy của một con người?
“Những bạn bè cùng trang
lứa với tôi có thể họ không may mắn tìm thấy cái “nửa kia” của đời mình, họ sống
với cái nửa khác của ai đó trôi dạt vào đời họ, ráp không vừa, không khớp, khập
khiễng tạm bợ. Và họ rán sống, họ cam chịu như họ đã từng cam chịu những quả
cà, những cọng rau muống, cái cầu ao, ổ lá chuối khô, như họ đã cam chịu những
chiếc loa phóng thanh ra rả suốt ngày. (…)
“…Bây giờ tôi phải trở lại
với quá khứ vì tôi muốn mọi người hiểu thấm thía bi kịch của tôi, của cả thế hệ
thanh niên cùng lứa với tôi để chúng ta hiểu nhau hơn và để xin bạn hãy cho
phép tôi được sống trọn vẹn mối tình của mình, một mối tình đầy sóng gió và
chưa biết sẽ kết thúc như thế nào.”
****
“Cái giếng nước đối với
tôi luôn luôn là một mối đe dọa. Bởi vì nó không phải như những cái giếng nước
thông thưòng ở miền Nam. Nó là một cái vực thẳm. Năm ấy tôi chỉ là một con bé
12 tuổi mà cái giếng thì to và sâu hun hút. Ba bên là bờ đất nham nhở đầy cỏ mọc,
còn lại một bên thì thoai thoải lần xuống dưới đáy giếng bằng 38 bực cấp bằng
đá, hẹp trơn trượt như đường về âm phủ. Giếng sâu đến độ khi tôi xuống sát mặt
nước, ngoảnh nhìn lên không còn thấy mặt đất đâu cả, chỉ thấy một cái miệng hố
lởm chởm đất đá và những lá cỏ dại.
“Dưới đáy giếng, bóng
chiều càng mờ mịt hơn, chập choạng, rình rập. Cái cảm giác cô độc lạnh lẽo làm
tôi sợ hãi. Tôi vội vàng múc hai thùng nước rồi ghé vai vào đòn gánh khó nhọc
bước lên những cấp bậc trơn nhẵn.
“Đầu làng bên kia có một
cái giếng nữa nhưng từ ngày có người tự tử ở đó thì không còn ai dám đến đó để
lấy nước về uống. Không hiểu sao dạo ấy làng tôi lại có nhiều người tự tử đến
như thế. Thường là họ treo cổ. Những cái mặt sưng to và tím bầm. Xác chết được
gói trong chiếu, vài ba người vác ngang qua nhà. Họ đi nghiêng ngả dưới trưa nắng.
Tiếng kèn khàn đục, vất vưởng lạc điệu.
“Ở cầu ao thường tấp nập
hơn. Hàng ngày dân làng đến đó tắm gội, rửa bát, vo gạo, giặt quần áo, giặt cả
chiếu chăn, cả đồ phụ nữ hành kinh nữa. Điều này ban đầu tôi không biết, nhưng
một hôm nhìn quanh bờ ao thấy có một chỗ lúa tự nhiên vươn cao lên, xanh mướt,
tôi hỏi nhưng chẳng ai giải thích được tại sao, đến khi lúa trổ bông thì chỉ
riêng cái chỗ lúa tốt ấy là không có bông . Đó là một bí mật mà tôi không thể
chia xẻ với ai được vì gần như không ai giải thích được, hoặc là không chịu giải
thích cho tôi biết. Bữa kia tôi thấy một người đàn bà trong làng ra cầu ao giặt
những mảnh vải mùng đầy máu và tạt cái thau nước đỏ lòm ấy vào chỗ lúa tốt tôi
mới hiểu được sự tương quan giữa cái thứ nước ấy và chòm lúa xanh tốt kia.
“Tôi đâm sợ nước cầu ao.
Nhưng người sợ nhất là bác tôi. Mỗi lần muốn rửa mặt ông buộc cái khăn vào cần
câu, ném nó ra giữa ao (nơi mà ông vẫn hy vọng rằng nước sẽ sạch hơn trong bờ)
rồi giật chiếc khăn lên như giật con cá. Ông vắt nước trong khăn vô miệng để
súc miệng , sau đó mới dùng khăn lau mặt…Buổi sáng ông thường dậy rất trễ vì phải
cuộn tròn trong cái ổ lá chuối khô để đợi mặt trời lên. Khi ngoài sân đã ngập nắng,
ông mới trở dậy vác cái nong ra đặt giữa sân rồi chui vào đó nằm sưởi. Ba chị
em tôi cũng bắt chước vác cái nong ra đặt kế bên. Đứa cháu nội lên hai cũng nằm
cạnh….
“Nhưng kẻ gây ấn tượng
cho tôi nhất là một người đàn ông ốm đói. Người ta gọi ông là ông Lời, tuy suốt
ngày ông chẳng hề nói một lời nào cả. Dân làng đã nghèo nhưng ông còn nghèo hơn
tất cả. Gần như ông không có gì để mà ăn, ông cứ luẩn quẩn trong vườn nhà như một
bóng ma tìm bắt con ốc sên, con châu chấu. Gần như ông ăn tất cả những sinh vật
mà ông bắt được: cóc, nhái, thằn lằn, thậm chí gà con chết người ta đã vứt đi
ông cũng nhặt về nướng ăn. Người ông cứ xanh lướt, hai mắt lõm sâu lờ đờ. (…)
“…Ba hôm sau người ta đến
báo cho ông hay rằng đứa con trai 12 tuổi của ông đi tắm sông đã bị ma da kéo
chân đi. Hàng xóm bủa đi tìm khắp nơi nhưng không thấy. Ông không khóc, vẫn lặng
lẽ, vẫn thất thểu đi ra sông. Ông không phải tìm kiếm, cứ bước thẳng xuống mé
nước, trầm mình xuống. Một lúc sau mặt nước khép kín lại, phẳng lặng xóa sạch mọi
vết tích của người đàn ông khốn khổ ấy.” (trang 103-112)
Với lối tả cái khổ và nhất
là cái chết (tự tử) của một người như vừa kể, Đào Hiếu quả thực đã đưa ngọn bút
của mình lên tuyệt đỉnh. Sau khi đọc những hàng cuối cùng vừa nêu, rồi nhớ lại
câu nói của Ngọc ở đoạn trên: “Không hiểu sao dạo ấy làng tôi lại có nhiều người
tự tử đến như thế” người đọc liền thấy cuộc sống miền Bắc lúc ấy tang thương đến
độ nào. Vì khổ quá người ta đã đi tìm cái chết một cách thản nhiên. Sở dĩ người
đàn ông kia chưa tự tử sớm hơn vì còn có đứa con. Nhưng nay đứa con đã chết đuối
thì ông cũng trầm mình đi theo. Những cảnh đói khổ của các cựu tù nhân cải tạo
được mô tả trong các cuốn hồi ký của họ có lẽ cũng chỉ đến thế. Nhưng chắc
không ai diễn tả hay bằng Đào Hiếu.
Nếu cái nạn đói khổ
không phải chỉ có trong tù, thì cái thói bắt làm “kiểm điểm”, “tự kiểm” cũng
không phải chỉ tù nhân mới phải làm. Nhân dân cũng không thoát. Tác giả “Nổi Loạn”
đã chế diễu cái tật hơi tý bắt làm tự kiểm của đảng một cách tài tình qua hành
động và thái độ của Hùng, chồng Ngọc. Trong cuốn chuyện ít nhất là 10 lần Hùng
bắt Ngọc, và cả Phan phải viết kiểm điểm, tự kiểm.
Hãy xem người chồng cán
bộ cộng sản, đã từng du học Ba Lan, dọa đánh vợ, tra khảo vợ và bắt vợ viết tự
kiểm:
“Người chồng hầm hầm rút
cái roi mây treo trong xó nhà ra. Ông ta gằn từng tiếng:
– Đừng già hàm. Hãy khai
thực đi: Hồi tối giờ cô đi đâu?
Ngọc nhìn thẳng vào mắt
chồng hỏi:
– Anh định làm gì mà cầm
roi đấy?
– Tao đánh mày nát
xương. Nói mau!
….
Ngọc nói dứt khoát:
– Tôi không khai báo gì
cả. Đây là nhà tôi chứ không phải đồn công an.
Thấy Ngọc nói cứng quá
ông ta làm thinh một lúc khá lâu. Rồi ông lại bàn lấy một xấp giấy trắng và một
cây bút. Ông đặt các thứ ấy trước mặt vợ, ra lệnh:
– Viết tờ kiểm điểm đi.
– Tôi không viết.
– Không viết thì ngồi đó
tới sáng.
…..
Ngọc mở choàng mắt chạm
vào một cái khuôn mặt to bè đỏ gay nồng nặc mùi rượu.
– Không được ngủ. Dậy viết
kiểm điểm đi dã.
Nhưng Ngọc nhắm mắt, mềm
rũ, nằm vật xuống giường. Người chồng lại ghế ngồi, lấy thuốc lá ra hút để trấn
áp cơn say. Chưa hết điếu thuốc ông đã bật dậy đến bên giường, nắm hai ngón
chân cái vợ kéo mạnh:
–
Chưa ngủ được đâu! Tôi bảo cô phải viết kiểm điểm. Cô nghe rõ chưa? (Trang
44-47)
–
Đây là một cảnh khác, tại
công ty du lịch. Thêm một người nữa bị ông cán bộ bắt viết kiểm điểm.
“Nguyễn Văn Hùng giơ tay
đấm vô lưng Ngọc. Phan đứng dậy:
– Anh là đàn ông mà làm
gì vậy? Muốn đánh thì đánh tôi đây này.
– Mày thách hả? Tao giết
mày.
Đám đông đã vây quanh
như coi đá gà. Một người có trách nhiệm trong công ty du lịch bước đến. Anh ta
bảo Nguyễn Văn Hùng:
– Đây là cơ quan. Xin
ông đừng làm mất trật tự. Chuyện riêng của các người xin đi chỗ khác giải quyết.
Hùng đành ngồi xuống ghế.
– Thôi được, ông ta nói.
Lấy giấy ra đi. Mỗi người viết một tờ kiểm điểm, ký tên vào.
Ngọc rất tức nhưng cũng
phải cười.
– Đừng làm trò hề. Anh
đi về đi là hay hơn cả.
– Tôi về để cho hai
ngưòi đi hú hý với nhau à?
– Anh ấy có đi đâu.
– Đừng qua mặt tôi. Tôi
không ngu đâu. Lấy giấy viết kiểm điểm lẹ lên.
Không thấy ai nhúc
nhích, ông ta điên tiết lên, sục sạo trong túi quần tìm kiếm. Vẫn không có, ông
ta đứng lên hỏi những người đang bu quanh:
– Ai có giấy xin cho một
tờ.
Mấy anh lơ xe và xích lô
nhìn nhau cười, họ bảo nhau:
– Đi kiếm giấy cho thủ
trưởng làm kiểm điểm kìa.
Cô bé bán tuốc lá moi ở
đâu ra đuợc một tờ giấy bằng bàn tay, nhàu nát. Hùng tiếp lấy vuốt vuốt cho thẳng
rồi đặt trước mặt vợ:
– Hai người viết chung một
tờ cũng được.
Ngọc gạt tờ giấy xuống đất.
– Không viết hả? Người
chồng thét. Được rồi tôi sẽ làm một tờ biên bản.
Ông kê tờ giấy lên đầu gối,
hí hoáy viết. Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc…Chữ
nghĩa ngoằn ngoèo rối rắm, vừa viết vừa nhíu mày, ngừng lại suy nghĩ rồi viết
tiếp. Xong ông ta đưa tờ giấy cho Phan.
– Ký đi!
Phan không cầm tờ giấy,
chỉ đọc lướt qua. Anh nói:
– Tôi không đồng ý câu
“bắt quả tang hai người đang âm mưu hẹn nhau đi hủ hóa…”
– Đó là sự thực. Người
chồng nói.
– Tôi không ký đâu.
Nguyễn Văn Hùng vụt đứng
lên giơ nắm đấm:
– Tao bảo mày ký!
– Không, vì tôi không muốn
anh làm nhục vợ anh và tự làm nhục mình. Anh sẽ làm gì với tờ giấy này?
– Làm gì mặc tao. Ký đi.
– Tôi không ký.
Một quả đấm vụt ra trúng
ngay bả vai Phan, nhưng anh vẫn ngồi im hút thuốc lá…”(tr 95)
Sau đây là một cảnh bắt
buộc viết tự kiểm khác:
“…–Không nói nhiều cô đi
ngay đi.
Ngọc ném mạnh ly nưóc
vào tường, đi thẳng ra cửa. Chị bước hấp tấp về phía cầu thang, nhưng người chồng
đã đuổi kịp, níu tay lại:
– Cô chưa đi được đâu.
– Chính anh đuổi tôi mà.
– Đúng. Nhưng trưóc khi
đi cô phải thú nhận hết mọi tội lỗi của cô đã.
Phải nộp cho tôi bản tự
kiểm thật chi tiết rồi mới được đi.
Ngọc vùng vẫy nhưng
không được, chị la lớn:
– Trò hề! Tại sao tới giờ
này anh vẫn chưa thấy đó là trò hề? “ (tr.198)
Sau đó Ngọc bị hành
hung, lột hết quần áo nhốt vào buồng, trần như nhộng.
“Bây giờ thì Ngọc không
còn một vật gì che thân ngoài tóc và lông. Tất cả đều mượt mà, đẹp một cách
kiêu hãnh. Chị cúi xuống nhặt những mảnh vải tả tơi ném ra cửa sổ.
Thành phố rất im lặng .
Ngọc thức, nhìn ngắm những
thương tích của mình .
Chị đi lại phía tủ áo. Một
cái tủ trống. Hoàn toàn trống. Chị giận dữ kéo nắm cửa nhưng nó đã bị khóa từ
bên ngoài. Chị đạp cửa rầm rầm nhưng nó không nhúc nhích. Ngọc lại giường ngồi
và nhận ra trên giường có một xấp giấy trắng, một cây bút, một dòng chữ nguệch
ngoạc: “Nếu muốn ra khỏi đây hãy viết bản tự kiểm.” Ngọc hất xấp giấy xuống đất.
Giấy bay lả tả trắng cả sàn nhà, cây bút bi bắn vào góc tường.
Ngọc bấu tay vô song cửa
sổ.
– Mở cửa! Chị la lên. Mở
cửa mau!
Bóng đen của người chồng
lù lù hiện ra, chậm chạp như con gấu già. Ông ta đang xách ấm nước sôi từ dưới
bếp lên để pha trà.
– Mở cửa!
Ông ta điếc. Rất may trong
phòng có cái gạt tàn thuốc. Ngọc ném mạnh ra cửa sổ, bay ngang mặt người chồng,
vỡ tan tành trên tường vôi.
– Mở cửa cho tôi.
– Cô sẽ không bao
giờ được ra khỏi phòng nếu không viết tự kiểm.
– Nhưng phải trả
quần áo cho tôi. Vali tôi đâu?
Người chồng im lặng
pha trà. Rồi uống nhâm nhi. Rồi đốt thuốc lá.
– Đồ tồi! Anh có
quyền gì mà nhốt tôi? Trả quần áo đây.
– Loài dâm đãng
thì cần gì quần áo.
Ngọc gầm thét:
– Tao mà ra được
tao sẽ giết mày. Đồ hèn. Mày dám mở cửa không?
– Viết tự kiểm đi.
Người chồng đã uống
xong tách trà, chùi miệng rồi bỏ đi.
Lát sau ông ta
quay lại, đến bên cửa sổ ném vào một mớ giẻ rách đen nhẻm hôi hám.
– Quần áo của mày
đấy.
Ngọc nhặt miếng giẻ
lên. Đó là cái áo ngủ bằng vải tám Ngọc đã vừt đi từ ba bốn năm nay trong kẹt tủ.
Nó đã bị chuột cắn nát, bị gián gặm nham nhở. Ngọc giũ nó trong luồng sáng của
nắng mai giọi vào cửa sổ. Bụi bay mù mịt làm chị phải quay mặt đi. Trong chiếc
áo ngủ tả tơi ấy Ngọc vừa giống ăn mày, vừa giống tù nhân, mặt mày sưng húp, đường
nét lệch lạc, biến dạng. Ngọc đóng cửa sổ, lại giường nằm.
Tự nhiên nàng bật
cười. Kẻ nào đạo diễn cái trò hề này? Ban đầu chỉ là một mối tình đơn giản, nhẹ
nhàng. Vì suốt ba mươi mấy năm tôi thiếu nên tôi phải đi tìm. Phan cũng thế. Chỉ
là bạn bè đi uống cà phê đi nghe âm nhạc. Còn bây giờ thì nổi tiếng cả nước. Quỷ
cái. Ngoại tình. Đĩ ngựa. Kẻ vô luân. Dâm đãng. Cướp vợ. Giựt chồng. Kẻ thì hăm
bắn, người thì dọa tạt át xít. Bạn bè tẩy chay. Xã hội đàm tiếu. Tất cả những
cái đó ngày càng đẩy chúng tôi lại gần nhau hơn.
“Ngọc cười lớn.
Chúng mày biết cái khỉ khô gì về tao. Hiểu quái gì về Phan, về người vợ nhạt nhẽo
của Phan, về ông chồng dở hơi của tao. Sao chúng mày ngu quá vậy? Cái bọn đạo đức
giả, bọn ăn thịt người. Cái bọn ganh tị, cả đời chỉ chực chui vào gầm giường
người khác để rình rập bêu xấu.” (trang 199-202)
Ngu mấy các cai
văn nghệ của đảng cũng hiểu rằng những câu trên nhắm vào bọn lãnh đạo (hiếu
sát, phi nhân, đạo đức giả, cai trị bằng công an cảnh sát, chuyên rình mò người
dân…). Vì thế không thể để “Nổi Loạn” được. Và họ đã vội vã cho thu lại.
Nếu không có chuyện
“cho ra rồi lại thu lại” này thì cuốn tiểu thuyết đã không gây được chú ý. Vì
thực ra nếu so với Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài hay Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Huy Thiệp,
thì Đào Hiếu không nổi tiếng bằng. Vì cuốn chuyện đã được phổ biến ở hải ngoại,
nên chúng tôi chọn cho vào một chương để độc giả có dịp nhìn vấn đề ở một khía
cạnh riêng, tương đối khác lạ, chứ không phải vì tư thế của tác giả, so với nhiều
nhà văn khác.
Chương 7
Nguyễn Hộ quay lại
chống Đảng
Nguyễn Hộ, sinh
1-5-1916 tại xã Hanh Thông, Gò Vấp, Gia Định, là một cán bộ cộng sản kỳ cựu miền
Nam, gia nhập đảng cộng sản khi mới 21 tuổi. Sau 1975 đã có thời ông làm chủ tịch
mặt trận tổ quốc Saigon. Giữa năm 1987 ông về hưu rồi cùng với một số cán bộ cựu
kháng chiến trong đảng như Tạ Bá Tòng, đứng ra xin lập hội các người kháng chiến
cũ, nhưng không được chấp thuận mà chỉ được phép lập Câu Lạc Bộ, quyền hạn và
phạm vi hoạt động giới hạn hơn. Cùng đứng trong nhóm ông, ban đầu có cả Trần
Văn Trà. Nhưng về sau tướng Trà tách ra và quay lại theo chính quyền chống
câu lạc bộ này. Tổ chức của ông vất vả lắm mới ra được tờ “Truyền Thống Kháng
Chiến”, chỉ phát hành được 3 số thì bị tịch thu, rồi đình bản. Câu Lạc Bộ bị giải
tán và thay vào đó là một câu lạc bộ khác do đảng điều khiển. Ông Hộ nói rằng
những người lũng đọan tổ chức này là các ông Võ Trần Chí (lúc ấy là bí thư
thành uỷ Saigon), Trần Bạch Đằng và Trần Văn Trà.
Thực ra thì ban đầu
tướng Trà rất tích cực trong hoạt động của Câu Lạc Bộ. Lúc đó cũng là lúc Nguyễn
Văn Linh đang có hy vọng trở thành một thứ Gorbachev của VN. Nhưng rồi ông Linh
đã không thắng nổi Lê Đức Thọ, cho nên khi ông ta chuyển hướng thì Trà cũng
chuyển hướng theo. Võ Trần Chí, Trần Bạch Đằng cũng thế. Một nguồn tin Tây
phuơng lúc ấy còn nói có cả tướng Võ Nguyên Giáp đứng đàng sau cái CLB này (xin
xem chương 20). Điều này có thể đúng. Vì cũng vào thời gian ấy tại Âu Châu, người
Việt hải ngoại đã lên tiếng tích cực ủng hộ Nguyễn Hộ làm lãnh tụ cho phong
trào Dân Chủ trong nước. Trong số những người này có tên các vị Nguyễn Cao
Hách, Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Gia Kiểng, Nguyễn Hữu Thống, hoà thượng Thích Giác
Lượng v.v…
Tờ Truyền Thống
Kháng Chiến viết gì, và Câu Lạc Bộ trước làm gì để đến nỗi báo thì bị đình bản
còn tổ chức thì biến thể theo đảng, chẳng cần nói ai cũng đoán được.
Sau đây là những
điểm chính mà nhóm ông Hộ kiến nghị:
1.“Bộ chính trị và
ban bí thư trung ương đảng cần có sự kiểm điểm định kỳ, phê và tự phê trước ban
chấp hành trung ương để qua đó điều chỉnh, kiện toàn cơ quan lãnh đạo: ai có đủ
đức tài thì tiếp tục phát huy, còn ai không đủ đức tài thì cần cho rút lui để
đưa người có đức có tài thay thế, chứ không thể cứ sống lâu lên lão làng.”
2. “Không nên “độc
diễn” khi quốc hội bầu chủ tịch hội đồng bộ trưởng, mà nên có một số người ra ứng
cử chức vụ nói trên với chương trình hành động cụ thể của mình. Quốc hội sẽ chọn
một chủ tịch hội đồng bộ trưởng trong số các ứng cử viên ấy bằng lá phiếu kín của
mình.
3. “Quốc hội cần
cách chức một số bộ, thứ trưởng không làm tròn trách nhiệm, dẫn đến hậu quả là
có trên 10 triệu người (ở miền Bắc) bị đói năm 1987, và nhân dân cả nước sống
cơ cực kéo dài.”
Trong buổi hội thảo
của câu lạc bộ cũ, lúc còn chủ động, được tổ chức từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều
chủ nhật 7-1-1990, để bàn về các biến chuyển dồn dập ở Đông Aâu lúc ấy, với tư
cách chủ tọa Nguyễn Hộ đã kết thúc 8 giờ bàn thảo sôi nổi như sau:
“Ngay trong những
điều kiện của chế độ xã hội chủ nghĩa, nếu sự bất mãn của quần chúng cứ dồn dập
mãi (theo sau sự tàng trữ những yếu tố bất công, nghèo đói ức hiếp), thì cách mạng
sẽ nổ ra. Lịch sử là do nhân dân làm nên: Ở Đông Aâu nhân dân đã làm lại lịch sử.
Ở Việt Nam nhân dân đòi hỏi chứ không xin xỏ đổi mới. Đảng hiện nay đang suy
thoái quá, cần lột xác, không thể cứ ba trợn như thế này. Cần chạy, cần nhảy, cần
bay chứ không “cà rịch, cà tàng”, may ra mới khá được. Phải trả quyền dân chủ
cho nhân dân, không thể ăn cướp quyền đó của nhân dân (cử tọa, khoảng 500 người,
vỗ tay). Đảng nên làm đầy tớ nhân dân, chứ không làm cha người ta.” (1)
Sau khi thất bại
và bị loại khỏi CLBKC mới, Nguyễn Hộ quyết định “về vườn”. Ngày 21 tháng 3 năm
1990 ông ly khai khỏi đảng, vì theo lời ông “nó đã trở thành vô nghĩa” và ông
lên đường về Phú Giáo một vùng quê cách Saigon độ 60 cây số về phía đông nam.
Sau khi ông đi khoảng hơn một tháng thì một số đồng chí của ông trong CLBKC cũ
bị bắt, trong đó có Tạ Bá Tòng (Tám Cần), Hồ văn Hiếu (Hồ Hiếu), Đỗ Trung Hiếu
(Mười Anh), rồi cả Lê Đình Mạnh, một người tích cực ủng hộ CLBKC cũng bị bắt.
Ông Võ Văn Kiệt
lúc ấy là phó thủ tướng có tới Phú Giáo thăm ông vào một ngày tháng 8. Ông Kiệt
muốn ông theo về Saigon, nhưng ông không chịu, và khi ông Kiệt hẹn gặp lại lần
thứ hai thì ông cũng từ chối. Vì vậy không đầy một tháng sau ông bị bắt bằng một
cách cũng na ná như Hà Sĩ Phu và Vũ Thư Hiên, được ông thuật lại nguyên văn như
sau:
“Lúc 7 giờ sáng,
khi tôi đang bơi xuồng (trên sông Saigon), vừa cặp vào bờ định bước lên đi vào
đám ruộng gần đó để hái rau má, rau đắng về ăn. Đúng vào thời điểm ấy một chiếc
ghe lớn đang chạy trên sông lại cặp sát xuồng tôi, trong đó có 6, 7 thanh niên
khỏe mạnh. Bỗng có tiếng hô to: “Bác ơi! Bác có thấy một chiếc ghe nhỏ chạy
ngang qua đây không?” Tôi trả lời: “Không!” Liền có tiếng hét to: “Đúng nó rồi!”
“
Đó là ghe công an.
Họ bắt ông đem về Saigon, đến đêm thì lại đưa lên Xuân Lộc, đi sau xe ông luôn
có mấy chiếc xe khác “hộ tống”. Sau một tuần ông được đưa về Bình Triệu giam
trong bốn tháng. Đến ngày 30 Tết, (năm 1991) ông được cho về nhà để quản thúc tại
gia. Ông cho biết là trong 4 tháng bị giam giữ cẩn mật ở Bình Triệu các ông Võ
Văn Kiệt , Mai Chí Thọ, Võ Trần Chí, Võ Viết Thanh, Trần Văn Danh đều khuyên
ông nên làm kiểm điểm để “giải quyết nội bộ”. Nhưng tin mình không có lỗi, ông
không tự kiểm mà chỉ viết một bài dài 20 trang “phát biểu quan điểm của ông về
tình hình chung trong nước”
Sau đây là một vài
đoạn trích từ tập tài liệu ông soạn trong thời gian hơn hai năm bị quản thúc tại
gia liên quan đến đảng, chế độ và quan niệm của ông về chủ nghĩa tư bản nói
chung và một thứ chủ nghĩa “tư bản Trung quốc”.
Về chủ nghĩa cộng
sản và đảng cộng sản Việt Nam
“Khi còn là đảng
viên của đảûng cộng sản Việt Nam, một thứ tù binh của đảng, tôi chỉ biết nói và
suy nghĩ theo những gì mà cấp trên nói và suy nghĩ…”
“Nhưng phải thú nhận
rằng chúng tôi đã chọn sai lý tưởng: cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì suốt 60 năm
trên con đường cách mạng cộng sản ấy, nhân dân Việt Nam đã chịu sự hy sinh quá
lớn lao, nhưng cuối cùng chẳng được gì…Đó là điều sỉ nhục…”
“Chủ nghĩa cộng sản
là một lý tưởng cao đẹp nhưng khi thực hành thì đầy thảm họa…”
“Chủ nghĩa xã hội
trên hai mặt có tính chất quyết định – kinh tế và chính trị – là một chế độ xã
hội không hợp lòng dân và trào lưu tiến hóa của lịch sử, nên đã bị bác bỏ ở khắp
nơi…”
“Rõ ràng thuyết đấu
tranh giai cấp và ý thức hệ Mác xít trong điều kiện kể trên của ngày nay tự nó
đã lỗi thời và phá sản…”
“Ở Việt Nam tham
nhũng đã trở thành quốc nạn, nhưng Việt Nam là nước không có dân chủ tự do, dân
không có quyền, thì làm sao chống tham nhũng có hiệu quả? Cho nên điều trớ trêu
thường xuất hiện là người hô hào chống tham nhũng lại chính là kẻ tham nhũng rất
tệ hại…”
“Chính đảng cộng sản
Việt Nam đã tước đoạt của nhân dân các quyền tự do mà nhân dân đã trả giá quá đắt,
thứ vũ khí mà nhân dân phải có để bảo vệ lợi ích của mình khi nó bị vi phạm
trong bất cứ hoàn cảnh nào. Dân chủ tự do bị chà đạp, vũ khí tự vệ bị tước đoạt
thì nhân dân giống như người bị xiềng xích, bị bịt tai, bịt mắt, khớp miệng và tất
nhiên gần 70 triệu người Việt Nam không thể không biến thành tù nhân của đảng cộng
sản Việt Nam…”
“Đảng Cộng sản Việt
Nam phát động chống đa nguyên đa đảng là chống lại sự nghiệp dân chủ tự do của
dân tộc Việt Nam, chống lại văn minh tiến bộ của đất nước, tức muốn kềm hãm dân
tộc Việt Nam trong mê muội tối tăm, mù quáng…“
“Vì sự độc quyền
lãnh đạo của đảng nên Quốc Hội chỉ biết làm theo chỉ thị của đảng. Vả lại hầu hết
đại biểu quốc hội là cán bộ đảng viên của đảng. Do đó trước khi khai mạc quốc hội,
những đảng viên cán bộ ấy được một đại diện của bộ chính trị đến để huấn thị là
quốc hội cần phải làm như thế này, như thế này… Số người ngoài đảng ở trong quốc
hội không đáng kể, hơn nữa, nếu có thì chính họ cũng đã được đảng hóa (Mác-xít
hóa) mất rồi. Cho nên có thể nói: Quốc Hội là Đảng, Đảng là Quốc Hội, Nhà Nước
là Đảng, Đảng là nhà nước. Với tính chất ấy đại biểu quốc hội không phải là người
nói lên tiếng nói trung thực của nhân dân (cử tri) mà chính là người chỉ nói tiếng
nói của đảng mà thôi.”
Vì quốc hội là của
đảng, chính phủ là của đảng, tòa án là của đảng, báo chí cũng của đảng, cả bốn
quyền lực trong một quốc gia đều nằm trong tay đảng cho nên đảng muốn làm gì
tha hồ, ngay cả những tội ác tầy trời. Nguyễn Hộ đã nói đến sự trù dập đối với
Trần Xuân Bách, Bùi Tín, Dương Thu Hương, Mười Thơ và những cái chết đầy ám muội
của một số tướng lãnh cộng sản như Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện,
Trần Bình và con của ông này. Sau đây là nguyên văn về một vài vụ:
“Trường hợp của đại
tướng Hoàng Văn Thái trước khi trút hơi thở cuối cùng đã nói với vợ ông rằng:
“Người ta đã giết tôi”. Và vợ ông trước mặt những người đến viếng thăm, đã khóc
lóc thê thảm và kêu to lên rằng: “Người ta đã giết chồng tôi.” Cái chết đột ngột
của đại tướng Lê Trọng Tấn cũng tương tự như trên (theo lời kể tỉ mỉ của hai vợ
chồng một vị trung tướng đương chức ở Hà-nội, 1987)
“Dĩ nhiên,trước đó
không lâu, một đại hội đảng bộ toàn quân diễn ra trong bầu không khí căng thẳng
của cuộc đấu tranh nội bộ chưa từng có, đưa đến kết quả là hai ủy viên bộ chính
trị đảng cộng sản Việt Nam là đại tướng Văn Tiến Dũng (bộ trưởng quốc phòng) và
đại tướng Chu Huy Mân (phó bí thư quân ủy trung ương) đều thất cử, không được bầu
vào cấp ủy đảng và đoàn đại biểu đảng bộ toàn quân đi dự đại hội lần thứ 6 của
đảng cộng sản Việt Nam. Do đó Hoàng Văn Thái được trung ương chỉ định làm bộ
trưởng quốc phòng thay thế Văn Tiến Dũng, thì bị chết bất đắc kỳ tử. Và người
được chỉ định thay ông là đại tướng Lê Trọng Tấn cũng chịu chung số phận bi thảm
liền sau đó. Thật là khủng khiếp và đáng kinh ngạc….
“Còn trung tướng
Trần Bình, cục trưởng cục tình báo quân đội, bị bắn chết ngay trên đường phố
thuộc quận 3 thành phố HCM, và sau đó con trai ông cũng bị bắn chết trong khu vực
nói trên.
“Trước các sự việc
nghiêm trọng đó, dư luận xã hội rất xôn xao, còn các cơ quan thông tin thì im
hơi lặng tiếng…Bởi vì sự độc quyền lãnh đạo—độc tài—của đảng cộng sản Việt Nam
đòi hỏi tất cả phải được bưng bít, phải được giấu kín…”
“Nhìn chung, các
cơ quan và tổ chức khác như chính phủ, tòa án, mặt trận, và các đoàn thể quần
chúng đều là công cụ tay sai của đảng mà thôi. Bất cứ việc xét xử nào ở tòa án ở
từng cấp đều phải làm đúng quyết định trước đó của cấp ủy đảng, tức là tuyên án
công khai đúng như cấp ủy đảng đã tuyên án trước đó trong nội bộ.”
Đầu đoạn D của phần
I là phần nói về quan điểm và cuộc sống Nguyễn Hộ đã viết bằng chữ cái tô đậm mấy
lời như sau:
“BÁM CHẶT CÁI ĐÃ LỖI
THỜI: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU VÀ ĐẪM MÁU”
Nguyên cái đầu đề
đó đã đủ nói lên sự giác ngộ, phản tỉnh của Nguyễn Hộ nó dứt khoát và triệt để
đến mức độ nào. Và ông đã để cả đoạn đó (dài hơn một trang lớn) để chứng minh
nó lỗi thời, nghèo đói, lạc hậu và ĐẪM MÁU ra sao. Khỏi cần phải trưng dẫn.
Về chủ nghĩa tư bản
Trong phần II của
tài liệu, ông Nguyễn Hộ đã so sánh hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản và nói về
những cái hay của chủ nghĩa tư bản và cho rằng Việt Nam chỉ có một cách đi theo
Tư Bản Chủ Nghĩa mới cứu vãn được tình thế. Ông cũng mỉa mai rằng chính sách đổi
mới của Việt Nam bắt buộc phải đổi theo tư bản chủ nghĩa, nhưng lại đổi mới nửa
vời với “cái mũ xã hội chủ nghĩa” ở trên đầu. Ông cũng cho rằng chủ nghĩa tư bản
cũng sẽ đến lúc bị tiêu diệt nhưng không bởi chủ nghĩa xã hội mà bằng hòa bình
và trí tuệ. So sánh hai chủ nghĩa nói trên ông viết:
“Như mọi người đều
biết, khi trên thế giới xuất hiện hai hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội: Tư bản
chủ nghĩa và Xã hôi chủ nghĩa song song tồn tại và đối đầu nhau quyết liệt, thì
đồng thời cũng bộc lộ khá rõ nét những hiện tượng nghịch lý:
“+ CNTB xuất phát
từ của riêng, lợi ích cá nhân, lợi nhuận – từng bị lên án là “thối nát” và”phải
bị tiêu diệt” – nhưng trong tác động thực tiễn của nó lại dẫn đến những hậu quả
kinh tế xã hội kỳ diệu, không lường trước được: năng xuất lao động cao, hàng
hóa dồi dào có thể thỏa mãn mọi nhu cầu xã hội, làm cho đất nước phồn vinh giầu
có hùng mạnh, nhân dân ấm no hạnh phúc, xã hội phát triển đạt đến đỉnh cao của
nền văn minh hiện đại ngày nay.
“+ CNXH, ngược lại
, được cho là ưu việt, xuất phát từ của chung (sở hữu công cộng), luôn luôn vì
lợi ích xã hội (tức không có của riêng , không có lợi nhuận, không có giai cấp
người bóc lột người), nhưng trong tác động thực tiễn lại dẫn đến những hậu quả
hoàn toàn khác hẳn: kinh tế bị phá hoại nghiêm trọng bởi chính sách cải tạo xã
hội chủ nghĩa, năng xuất lao động thấp kém, hàng hóa đơn điệu thiếu thốn, không
đáp ứng nổi các yêu cầu cấp bách của xã hội (tem phiếu, xếp hàng rồng rắn, quày
hàng trống rỗng…), đất nước lâm cảnh nghèo nàn lạc hậu triền miên, nhân dân sống
cơ cực, lầm than, đói rách, và không hề có dân chủ tự do…”
“Từ thực tiễn đó
ta thấy không phải là vấn đề tiêu diệt chủ nghĩa tư bản như đảng cộng sản từng
khẳng định mà chính là vấn đề học tập và làm theo mô hình tư bản chủ nghĩa như
thế nào cho tốt, cho nên cần khiêm tốn một chút vì thực tiễn luôn luôn là chân
lý sáng ngời.”
“Thật là kỳ lạ
CNTB không hề chủ trương “thế giới đại đồng”, nhưng lại thực hiện “thế giới đại
đồng”. Còn CNCS thì chủ trương , hô hào tiến tới một “thế giới đại đồng”, nhưng
lại thực hành một quốc gia khép kín, tự cung tự cấp (ích kỷ), bế môn tỏa cảng.”
“Vì lúc bấy giờ
(sau chiến thắng Điện Biên Phủ, 1954 và sau khi chiếm được miền Nam, chú thích
của M.V.), mọi người đều được giáo dục rằng: trong xã hội chủ nghĩa mọi vấn đề
đều có sự lãnh đạo của đảng, mọi thứ đều tốt cả, nên không cần có đấu tranh của
quần chúng. Đấu tranh của quần chúng chỉ tồn tại trong xã hội cũ (xã hội thuộc
địa). Trong xã hội chủ nghĩa Đảng và nhân dân là một, giữa đảng và nhân dân
không thể có ý kiến, quan điểm khác nhau, không có đối lập, đối kháng, nên
không thể có đấu tranh, đình công, biểu tình. Do đó trong CNXH không có vấn đề
đấu tranh cho dân chủ tự do, vì chế độ XHCN (chuyên chính vô sản) là chế độ dân
chủ một triệu lần hơn chủ nghĩa tư bản” (?)”
Sau khi đã so sánh
tư bản với cộng sản và khẳng định tư bản là đúng cộng sản là sai, Nguyễn Hộ hỏi
đảng cộng sản Việt Nam:
“Đảng cộng sản VN
có dám làm một cuộc cách mạng về tư tưởng, có dám “lột xác” không? Có dám vứt bỏ
ý hệ Mác Xít giáo điều lỗi thời không? Có dám vứt bỏ quan điểm tư tưởng thành
kiến cũ rích đối với đồng bào Việt Kiều (theo tư bản chủ nghĩa ) không?”
Nghe câu hỏi này,
người ta tự hỏi: Phải chăng một Việt Kiều ở Mỹ đã gà cho Nguyễn Hộ? Hay chính
ông đã thực sự “lột xác”, đã hối hận vì hơn nửa thế kỷ đi theo cộng sản chống lại
đồng bào mình, phá rối miền Nam, tàn sát những người quốc gia, chỉ vì những người
này đi theo một chủ nghĩa đúng đắn hơn cái chủ nghĩa mà ông và các đồng chí của
ông từng theo?
Về chính sách đổi
mới của Việt Nam khởi sự vào giữa thập niên 80, Nguyễn Hộ phê bình là nó què quặt
vì đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính trị, cho nên “giống như “cá mắc câu”,
càng vùng vẫy thì mắc câu càng sâu, tức càng khẳng định “kiên trì chủ nghĩa xã
hội” thì càng đi sâu vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản mà không có sức mạnh nào
cưỡng lại được.”
Về chế độ “tư bản
kiểu Trung cộng” và kiểu Việt Nam
Nguyễn Hộ so sánh
đổi mới ở TQ dưới quyền Đặïng Tiểu Bình và đổi mới ở Việt Nam dưới thời Nguyễn
Văn Linh có những điểm giống nhau và khác nhau. Ông tán thành đổi mới kiểu
Trung Quốc vì nó thực tế hơn, tuy vẫn còn què quặt vì chưa đổi mới chính trị:
“ “Chủ Nghĩa Xã Hội
mang màu sắc Trung Quốc” là “chủ nghĩa xã hội” không theo tư tưởng Mác –
Lê-nin, đảo ngược hoàn toàn chủ nghĩa Mác – Lê-nin. “Chủ Nghĩa Xã Hội mang màu
sắc Trung Quốc là chủ nghĩa tư bản đích thực ở Trung Quốc.” Như vậy chủ nghĩa
tư bản được xây dựng ở Trung Quốc là thông qua sự lãnh đạo vòng vèo đầy mưu lược
của đảng cộng sản Trung Quốc, đảng của “chủ nghĩa Mác – Lê-nin” (?) Phải chăng
đây là nghịch lý, ngược đời? Tuyên bố học tập theo chủ nghĩa tư bản, làm theo
mô hình tư bản chủ nghĩa là lời tuyên bố dũng cảm, táo bạo đầy tinh thần cách mạng
sáng tạo, thật sự cầu thị của nhà lãnh đạo cao niên (88 tuổi) Đặng Tiểu Bình. Lời
tuyên bố ấy bao hàm ý thức thừa nhận rằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
là phương thức sản xuất hoàn thiện nhất của xã hội loài người ngày nay; nó có sức
thu hút quyến dũ lạ thường và đáp ứng kịp thời mọi yêu cầu của nhân dân , của
xã hội.”
Đó là nói về Trung
Quốc. Về Việt Nam Nguyễn Hộ cũng khẳng định với chính sách đổi mới hiện nay
tình thế cũng không thể đảo ngược. Nói gì thì nói, nói xuôi nói ngược, thực chất
vẫn là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Vậy thà thành thực khiêm nhượng mà
thú nhận thì hơn. Ông kết thúc bài viết của ông như sau:
“Thưa các Ngài Tư
Bản,
“…Vì vậy giờ đây
chúng tôi thấy phải học tập các Ngài, học tập chủ nghĩa Tư Bản, làm theo mô
hình Tư Bản Chủ Nghĩa của các Ngài, và tất nhiên là phải từ bỏ chủ nghĩa Mác
Lê-nin, chủ nghĩa c.s. đã quá lỗi thời, để tiến kịp theo các Ngài trên con đường
tiến hóa của lịch sử.”
Đọc bài phát biểu
của Nguyễn Hộ, một cán bộ tự thú mình chỉ học đến sơ học yếu lược, trước khi đi
theo kháng chiến chống Pháp, những người chống cộng cực đoan chắc khoái chí, vì
thấy ông ta phê phán chủ nghĩa cộng sản và ca tụng chủ nghĩa tư bản chẳng khác
mình bao nhiêu. Và không khỏi nghi có người khác viết hộ ông. Người đó là ai?
Những người đó là ai? Vì không có thông tin chính xác nên chúng tôi không dám
khẳng định.
Nhưng chúng ta hãy
lưu ý là Nguyễn Hộ có giữ chức chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc Saigon, kiêm ủy viên
chủ tịch đoàn Mặt Trận trong cả nước trong một thời gian dài sau 30 tháng tư.
Trong vai trò trung gian giữa đảng và quần chúng ông đã có nhiều dịp tiếp xúc với
những người ngoài đảng, kể cả những người chống đảng – lấy cớ để vận động. Cũng
trong cương vị đó ông được chứng kiến tận mắt những gì mà chế độ tư bản đã ảnh
hưởng tới đời sống vật chất của người dân Saigon nói riêng và người dân miền
Nam nói chung. Chắc chắn ông phải suy nghĩ và so sánh với những gì chủ nghĩa xã
hội đã làm cho người dân miền Bắc trước 75 và cho người dân cả nước sau 75.
Ảnh hưởng của những
người xung quanh, tác động của thực tiễn xảy ra hàng ngày trước mắt, kèm theo
những suy tư của một con người có tâm huyết chắc chắn đã thay đổi con người
ông. Cho nên ông đã “lột xác”, (2) sẵn lòng từ bỏ cái đảng mà ông đã
theo trên nửa thế kỷ. Ông cương quyết đi theo con đường mới vì tin tưởng rằng
cùng với ông còn có nhiều đảng viên khác cũng suy tư như ông cũng đang muốn từ
bỏ đảng dứt khoát, chỉ chưa dám, hoặc không biết cách bày tỏ ý muốn của mình đó
thôi. Chẳng những chính ông “lột xác”, ông còn kêu gọi “Đảng phải lột xác để đi
lên. Đổi mới là phải dân chủ. Dân chủ là của dân, phải trả lại cho dân, không
phải là món quà ban phát.” Ông dõng dạc tuyên bố như thế để kết thúc cuộc mít
tinh của CLBKC tổ chức vườn Tao Đàn ngày 7-1-1990. Đáp lại lời kêu gọi này đảng
đã đẩy ông và Tạ Bá Tòng là hai người trụ cốt ra khỏi CLBKC để đặt những người
ngoan ngoãn hơn lên thay, biến nó thành một thứ con rối của đảng. (3)
Chú thích
(1) Tiến sĩ
Nguyễn Ngọc Lan, nhà báo (nguyên linh mục công giáo hoàn tục), đã dự cuộc hội
thảo này và ghi lại trong nhật ký của ông, ngày 7 tháng 1 năm 1990. Cũng trong
buổi hội thảo này Trần Văn Giầu, một cán bộ cách mạng cộng sản lão thành kỳ cựu
miền Nam, xuất thân từ trường cách mạng đông phương của Liên Xô cùng với các
lãnh tụ cộng sản đông âu và tây âu như Tito, Honecker, Thorez…và tốt nghiệp thủ
khoa, cũng đã phát biểu như sau: “Tôi có nhiều nhược điểm, mà một trong những
nhược điểm đó là tin vào Liên Xô, đánh chết cũng không chừa. Giả như tôi gặp được
đồng chí Gorbachev, tôi sẽ nói với đồng chí ấy: “Mày cứ phải tiến lên”. Nhưng
Trần Văn Giầu khôn hơn (hay hèn hơn?) Nguyễn Hộ ở chỗ biết rào đón thật cẩn thận
rồi mới phun ra câu nói trên. (“Nhật Ký Nguyễn Ngọc Lan 1989-1990, Sống Thẳng,
Nói Thật”, Nhà Xuất Bản Tin, Paris, 1991, trang 181-182).
(2) “Lột xác”
cũng là đầu đề của một bài tiểu luận của Nguyễn Hộ.
(3) “Viết cho
mẹ và quốc hội” của Nguyễn Văn Trấn, Văn Nghệ, 1995, trang 399.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen