Thái Doãn Hiểu
Cách mạng Văn hóa ở Trung quốc thực chất là một cuộc
thanh trừng phe phái khốc liệt chưa từng có nếu đem so với Tần Thủy hoàng. Mười
triệu nạn nhân đã chết thảm dưới tay “người cầm lái vĩ đại” Mao Trạch Đông.
Theo trưng cầu dân ý toàn Trung Quốc thì ông ta có 7 phần tội 3 phần công. Lấy
Tần Thủy hoàng làm thần tượng, Mao đã thống nhất được Trung nguyên, nhưng xài tốn
xương máu Dân Trung Hoa đến 60 triệu nhân mạng, trong đó chưa kể đến 39 triệu
người chết đói trong phong trào đại nhảy vọt cuối thập niên 50 của thế kỷ trước.
Có hai cái chết thương tâm nhất là của Chủ tịch nước
Lưu Thiếu Kỳ và Nhà văn lớn Lão Xá. Tôi có theo dõi rất sát và kỹ những ngày tận
số của hai ông.
Ông Lưu Thiếu Kỳ và phu nhân bà Trương Quang Mỹ là
người cách mạng chân chính, nhân hậu theo đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
người đã sang thăm Việt Nam và được nhân dân ta tôn kính. Ông bị Mao Trạch đông
chụp cho cái mũ “tên lãnh đạo cao cấp chủ trương đi con đường tư bản chủ nghĩa
trong đảng”. Ông Lưu bị hành hạ đấu tố, tra tấn, bỏ đói hàng mấy tháng trời,
thân bại danh liệt.
Còn tác giả Tường Lạc đà Lão Xá người về sau được
tặng giải Nobel nhưng Hội đồng Hàn lâm viện Hoàng gia Thụy Điển rút lại vì giải
chỉ thưởng cho người còn sống. Lão Xá bị bọn thanh niên choai choai mặc sắc phục
Hồng vệ binh xông vào nhà riêng đập ông chết tươi trên bàn làm việc. Chúng hè
nhau vứt thi thể ông xuống hồ. Chưa đã, khi thấy xác ông nổi lên, chúng dùng
câu móc vào thắt lưng ông kéo lên bờ đánh, đạp phũ phàng. Mao Trạch Đông đã
thanh toán sạch những đối thủ chính trị đáng gờm của mình, những người có nguy
cơ làm cho cái ghế hoàng đế của ông ta lung lay kể từ “người bạn chiến đấu thân
mật của người” là Lâm Bưu, “tướng bọc đường” Bành Đức Hoài, Bí thư thành ủy
Bắc Kinh Bành Chân…
Ở nước ta, một số các nhà văn, nhà văn hóa Việt Nam
cũng có những cái chết bất đắc kỳ tử, mờ ám. Tôi cho rằng những kiểu chết của
các vị dưới đây là không minh bạch, vô cùng bất công, cần được công luận minh
oan, chiêu tuyết cho những oan hồn:
Tôn Nữ Thu Hồng hay Thu Hồng (1922-1948), là nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến.
Bà thuộc dòng dõi Hoàng tộc nhà
Nguyễn, trước học ở Tourane, sau vào học tại trường Đồng Khánh (Huế).
Năm 18 tuổi (1940), bà cho xuất bản tập thơ đầu tiên
(và cũng là duy nhất):Sóng thơ. Tập thơ in đẹp (chưa rõ tên nhà xuất bản), có tựa
của Đạm Phương nữ sĩ, và tranh vẽ bìa của nữ họa sĩ Mộng
Hoa.
Giới thiệu Thu Hồng, trong quyển Thi nhân Việt Nam có đoạn viết:
“… người có cái ý rất đáng quý là diễn đúng hình dáng
riêng của hồn mình. Có thể vì thế mà giọng nói của người có vẻ ngọng nghịu rất
ít có trong thơ ta....Thực ra, Thu Hồng cũng chỉ là trẻ con ở cái giọng, khi
người ta muốn sống hoài trong thời thơ ấu…(vì) người thiếu nữ ấy đã biết tình
yêu là "mầm chán nản" và người ước ao:
Mầm chán nản chớ len vào niên thiếu,
Chớ len vào sớm quá, tội em mà!
Em nghe như thời ấy vẫn còn xa,
Em chầm chậm để mong còn xa mãi,
Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái,
Hòa nồng hương mà trái lắm khi chua.
Thật là ngây thơ trong trắng :
Kìa trăng vỡ trong hồ khi nước động,
Sóng lao xao lấp loáng, ánh xa ngời.
Và búp hoa nghểnh dậy đón hương trời,
Cây tuôn bóng, lửng lơ, đò chẳng lướt!
Cảnh đẹp cứ dàn thêm bước bước,
Lời ngợi khen mỗi phút lại thay thay.
Tơ lòng với đẹp đêm nay
Rộn ràng thổn thức vì say nhiệm màu.
(Sóng thơ - Tơ lòng với đẹp)
Lúc ấy chỉ ngoài 20 tuổi, nữ sĩ đã bắt đầu nhận thức
được cái kiếp ngắn ngủi và buồn tẻ của con người.
Lịch trên tường mỗi ban mai tay xé,
Xé dần, đem vứt xuống giỏ mây đan.
Phải đây là xác chết của thời gian?
Mỗi tờ xuống, một ngày đi biệt tích?
Tay ngần ngại cũng thôi đành vô ích,
Vì hôm nay không dính dáng ngày mai.
Lúc bình minh trong sương sớm chưa phai
Là giấy biết thân mình không thể gắng
Người đâu khác dẫu trăm ngàn cay đắng,
Vói tay dài mong níu lại ngày đi
Ý điên rồ người đeo đuổi làm chi,
Tờ mỏng quá, khác đâu ngày qua chóng!
Tình lưu luyến khiến âu sầu phấp phỏng
Lịch cùng ta nào có khác chi nhau?
Lịch hàng năm đem thay đổi một màu
Người một tuổi chớ mơ mòng lui lại
Lịch còn mãi, đời đâu dài được mãi?
Tờ rã tan ra tro bụi chôn vùi...
(Lịch)
Một gịong thơ tinh tế sâu đằm. Năm 1941, bà và thơ của
bà được Hoài Thanh-Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm 1942).
Năm 1968, bà lại được Nguyễn Tấn Long-Nguyễn Hữu Trọng
giới thiệu trong bộ sách Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển trung),
xuất bản tại Sài Gòn. Và theo sách này, thì nữ sĩ Tôn Nữ
Thu Hồng đã chết trong một trường hợp bi đát.
Thu Hồng là trí thức nói tiếng Pháp thành thạo, nhà
cô thường tụ tập các thanh niên trí thức. Cô bị nghi ngờ làm gián điệp cho Tây,
bị công an bắt, giam giữ và tra khảo mấy tháng trời, không lấy được cung. Cuối
cùng, giết nhầm còn hơn bỏ sót, cô bị thủ tiêu giữa rừng Thừa Thiên. Kể lại
chuyện đau lòng này, ông Đào Hữu Thiết cán bộ an ninh người chứng kiến vẫn nhớ
như in vóc dạc cao to như gấu, khuôn mặt dữ dằn, rậm râu sâu mắt của tên sát
nhân Trừng. Trên đường giải cô lên Ty công An Thừa Thiên - Huế, hắn đã bắn lén
cô từ đằng sau lưng. Tiếng súng chát chúa vẫn còn lộng óc khi ông Hoài Nam (bút
danh của Đào Hữu Thiết) đã vào tuổi 87. Ông sĩ quan an ninh ngồi viết tiểu
thuyết tình báo trong dàn dụa nước mắt. Ông cũng bị nghi ngờ, bắt giam nhốt
cùng Thu Hồng. Ông bảo cô ấy dịu dàng nết na, đẹp lắm, tôi yêu cố ấy. Hai người
có làm thơ tặng nhau. Thu Hồng bảo Hoài Nam :
Bên bờ cát trắng phau phau ấy
Ai hiểu lòng mình ? Anh hiểu không ?
Nàng thơ ra đi ở tuổi 26. Năm đó là tháng chạp năm
1948.
Ngô Tất Tố (1894 – 1954) là một nhà văn,
nhà báo, nhà Nho học và nghiên cứu có ảnh hưởng ở Việt Nam giai đoạn trước
1954.). Ngô Tất Tố là đại diện tiêu biểu cho những thay đổi của một lớp người
trí thức trong giai đoạn giao thời, sự dung hòa tương thích giữa nền văn hóa mới
và cũ.
Ngô Tất Tố sinh năm 1893 mất năm 1954 ở làng Lộc Hà,
tổng Hội Phụ, phủTừ Sơn, Bắc Ninh (nay
là thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông
Anh, Hà Nội). Ông là con thứ hai, nhưng là trưởng nam trong một
gia đình có bảy anh chị em, ba trai, bốn gái. Lúc còn nhỏ Ngô Tất Tố được thụ
hưởng một nền giáo dục Nho học. Từ năm 1898, Ngô Tất Tố được ông nội dạy vỡ
lòng chữ Hán ở quê, sau đó ông theo học ở nhiều làng quê trong vùng. Năm 1912,
Ngô Tất Tố học tư chữ Pháp một thời gian ngắn và bắt đầu tham dự các kỳ thi
truyền thống lúc bấy giờ vẫn còn được triều đình nhà
Nguyễn tổ chức. Ông đỗ kỳ sát hạch, nhưng thi hương bị hỏng ở kỳ đệ nhất.
Đến năm 1915, ông đỗ đầu kỳ khảo hạch toàn tỉnh Bắc Ninh, nên được gọi là đầu xứ
Tố, rồi thi hương lần thứ hai, khoa Ất Mão, cũng là khoa thi hương cuối cùng ở Bắc
Kì, ông qua được kỳ đệ nhất, nhưng bị hỏng ở kỳ đệ nhị.
Năm 1926, Ngô Tất Tố ra Hà Nội làm
báo. Ông viết cho tờ An Nam tạp chí. Nhưng vì thiếu tiền, tờ báo này phải
tự đình bản, Ngô Tất Tố cùng với Tản
Đà đã vào Sài Gòn. Mặc dù không thật sự thành công
trong cuộc thử sức ởNam Kỳ, nhưng tại đây, Ngô Tất Tố đã có cơ hội tiếp cận với
tri thức và văn hóa thế giới ở vùng đất khi đó là thuộc địa chính thức của Pháp cũng như
theo đuổi nghề báo để chuẩn bị sau này trở thành một nhà báo chuyên nghiệp.
Trong thời kỳ này, ông viết với các bút danh Bắc Hà, Thiết Khẩu Nhi, Lộc Hà,
Tân Thôn Dân...
Sau gần ba năm ở Sài Gòn, Ngô Tất Tố trở ra Hà Nội.
Ông tiếp tục sinh sống bằng cách viết bài cho các báo: An Nam tạp
chí, Thần chung, Phổ thông, Đông Dương, Hải Phòng tuần
báo, Thực nghiệp, Con ong, Việt nữ,Tiểu thuyết thứ
ba, Tương lai, Công dân, Đông Pháp thời báo, Thời vụ, Hà
Nội tân văn... với 29 bút danh khác nhau như : Thục Điểu, Lộc Hà, Lộc
Đình, Thôn Dân, Phó Chi, Tuệ Nhơn, Thuyết Hải, Xuân Trào, Hy Cừ... Trong thời
gian những năm 1936-1939, Ngô Tất Tố viết nhiều tác phẩm chỉ trích quan lại
tham nhũng phong kiến. Hà Văn Đức, trong bài viết Ngô Tất Tố - Nhà văn tin
cậy của nông dân (báo Nhân dân, ngày 10 tháng 6 năm 1997), cho biết
năm 1935, Ngô Tất Tố từng bị chánh sở mật thám Hà Nội gọi lên "để mua chuộc",
nhưng ông từ chối. Ngoài ra, nhiều lần Ngô Tất Tố bị cấm viết báo và bị trục xuất
khỏi Hà Nội, Hải
Phòng, Nam Định. Năm 1939, chính quyền thuộc địa ra lệnh cấm tác
phẩm Tắt đèn. Nhà Ngô Tất Tố ở Bắc Ninh bị
nhà chức trách khám xét và ông bị bắt giam ở Hà Nội vài tháng.
Về sự nghiệp báo chí, người ta tìm thấy 1.350
tác phẩm (gần 4.500 trang) đã đăng báo của Ngô Tất Tố với 59 bút danh khác
nhau. Năm 2005, tại hội thảo Những phát hiện mới về thân thế và tư cách
nhà văn hóa của Ngô Tất Tố, một thống kê khác được công bố cho biết trong 28
năm làm báo, Ngô Tất Tố đã viết gần 1.500 bài (mới tìm thấy 1.360 bài) cho 27 tờ
báo và tạp chí với 29 bút danh. Di sản báo chí của Ngô Tất Tố trở thành những
tư liệu phong phú, chi tiết, phản ánh toán diện và trung thực xã hội Việt Nam đầu
thế kỷ XX.
Các tác giả trong đề tài nghiên cứu nói trên kết luận
rằng tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố đạt được năm thành tựu cơ bản: thuyết phục,
truyền cảm, điển hình hóa mà không hư cấu; nghệ thuật trào lộng, đả kích và
phong cách đậm đà bản sắc dân tộc. Về thái độ làm báo, Ngô Tất Tố được đánh giá
là một nhà báo có dũng khí, trung thực, thẳng thắn, nhạy bén và cập nhật tình
hình khẩn cấp
Với tư cách là nhà nghiên cứu , Ngô Tất Tố
nghiên cứu rất nhiều thể loại khác nhau ông rất giỏi về nghiên cứu các thể loại
văn thơ
Năm 1945, khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, Ngô Tất Tố tham
gia vào ủy ban giải phóng ở xã Lộc Hà quê ông. Năm 1946, Ông gia nhập Hội văn
hóa cứu quốc và lên Việt
Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp. Thời gian này, Ngô Tất
Tố đảm nhiệm cương vị Chi hội trưởng chi hội văn nghệ Việt Bắc, hoạt động ở Sở
thông tin khu XII, tham gia viết các báo Cứu quốc khu XII,Thông
tin khu XII, tạp chí Văn nghệ, báo Cứu quốc trung ương...
Ngoài ra, ông còn viết văn. Ngô Tất Tố được bầu vào vị trí ủy viên Ban chấp
hành Hội văn nghệ Việt Nam tại đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ nhất (1948).
Ngô Tất Tố được coi là nhà văn hàng đầu của trào
lưu hiện thực phê phánở Việt Nam trước
1945 với các tác phẩm tiêu biểu như Tắt
đèn, Việc làng,Tập án cái đình.
Nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912-1939) từng khen ngợi Tắt
đèn là "một tiểu thuyết có luận đề xã hội hoàn toàn phụng sự dân quê,
một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tùng lai chưa từng thấy". Phong Lê,
trên Tạp chí Sông Hươngtháng 12 năm 2003, gọi những tác phẩm viết về nông
thôn của Ngô Tất Tố là "một nhận thức toàn diện và sâu sắc, đầy trăn trở
và xúc động về cảnh ngộ và số phận người nông dân Việt Nam" đạt đến
"sự xúc động sâu xa và bền vững"
Từ một góc nhìn khác, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, trong bài Ngô Tất Tố và một cách
thích ứng trước thời cuộc trích từ cuốn Nhà văn tiền chiến và quá
trình hiện đại hóa (Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2005), viết Tắt
đèn là một thiên tiểu thuyết "rất xúc động" khiến người đọc có
thể "nhiều phen ứa nước mắt".
Còn thiên phóng sự Việc làng được coi là một
trong những tác phẩm báo chí toàn diện và chi tiết nhất về bộ mặt nông thôn Việt
Nam trước năm 1945. Phong Lê, trong bài đã dẫn, cho rằng Việc làng phản
ánh "tận chiều sâu những cội rễ của cả hai mặt phong tục và hủ tục, nó tồn
tại dai dẳng đến thế, không chỉ đến thời Ngô Tất Tố viết Việc làng, mà cả
cho đến hôm nay".
Tính chất giao thời trong ngòi bút của Ngô Tất Tố thể
hiện rõ nét trong tác phẩm Lều
chõng
Lều chõng ghi lại một thiên phóng sự tiểu thuyết
về chế độ giáo dục và khoa cử phong kiến trong những ngày cuối cùng, dưới triều
Nguyễn, miêu tả tấn bi kịch của những nhà nho có tài trong xã hội phong kiến
và được coi là lời chỉ trích sâu sắc những tồn tại của nền văn hóa cũ.
Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét về sự thay đổi ở Ngô Tất Tố:
"ông vào số những nhà Hán học đã chịu ảnh hưởng văn học Âu Tây và được người
ta kể vào hạng nhà nho có óc phê bình, có trí xét đoán có tư tưởng mới"
(Nhà văn hiện đại)
Tác phẩm của Ngô Tất Tố : Ngô Việt Xuân
Thu (dịch, 1929); Hoàng Hoa Cương (dịch, 1929); Vua Hàm
Nghi với việc kinh thành thất thủ (truyện ký lịch sử, 1935); Đề
Thám (truyện ký lịch sử, viết chung, 1935); Tắt
đèn (tiểu thuyết, báo Việt nữ, 1937), (Mai Lĩnh xuất bản,
1939); Lều chõng (phóng sự tiểu thuyết, báo Thời vụ,
1939-1944), (Mai Lĩnh xuất bản, 1952); Tập án cái đình (Phóng
sự,1939); Thơ và tình (dịch thơ Trung Quốc, 1940); Đường
thi (sưu tầm, chọn và dịch, 1940); Việc làng (phóng sự,
báo Hà Nội tân văn, 1940-1941), (Mai Lĩnh xuất bản, 1941); Thi văn
bình chú (tuyển chọn, giới thiệu, 1941); Văn học đời Lý (tập I)
và Văn học đời Trần (tập II) (trong bộ Việt Nam văn học) (nghiên
cứu, giới thiệu, 1942); Lão Tử (biên soạn chung, 1942); Mặc Tử (biên
soạn, 1942); Hoàng Lê nhất thống chí (dịch, tiểu
thuyết lịch sử, báo Đông Pháp, 1942); Suối thép (dịch, tiểu thuyết,
1946);Trước lửa chiến đấu (dịch, truyện vừa, 1946); Trời hửng (dịch,
truyện ngắn, 1946); Duyên máu (dịch, truyện ngắn, 1946); Doãn
Thanh Xuân (dịch, truyện ngắn, 1946-1954); Địa dư các nước châu
Âu (biên soạn chung với Văn Tân, 1948); Địa dư các nước châu Á, châu
Phi (biên soạn chung với Văn Tân, 1949); Địa dư Việt Nam (biên
soạn, 1951); Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác (kịch bản chèo, 1951); Đóng
góp (kịch, 1951); Kinh dịch (chú giải, 1953); Ngô Tất Tố và
tác phẩm (tuyển tập, 2 tập, Nhà xuất bản Văn học, 1971, 1976); Ngô Tất
Tố - Toàn tập (5 tập, Nhà xuất bản Văn học, 1996); Ngô Tất Tố - Toàn
tập, bộ mới (dự kiến 30 tập, Nhà xuất bản Hội nhà văn - Công ty văn hóa
Phương Nam, 2005).
Gần ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, Hội Văn nghệ Việt
Nam họp trên đồi Nhã Nam. Cuộc đấu tố của văn nghệ sĩ diễn ra gay gắt căng thẳng.
Người ta đã vu cáo những chuyện tày trời, quyết liệt dồn Ngô Tất Tố vào tận
chân tường. Tác giả Lều chõng và Việc làng đã phạm tội phục
cổ nhằm mục đích gì ? Và, Ngô Tất Tố đã qua đời vào đêm 20 tháng 4
năm 1954 bằng thắt cổ tại nhà riêng ở Yên Thế, Bắc
Giang. Cái sự chết của nhà văn khắc nghiệt đến mức nghĩa trang liệt sĩ
xã ở địa phương từ chối không cho chôn.
Nhượng Tống (1904-1949), tên thật là
Hoàng Phạm Trân, vì bút danh Nhượng Tống nên còn được gọi là Hoàng Nhượng Tống.
Ông là nhà văn, nhà báo,
dịch giả tài hoa số 1 của Việt Nam và là nhà cách mạng Việt Nam.
Ông là người làng Đô Hoàng, xã Yên Thành, huyện Ý Yên, tỉnh Nam
Định.
Thời gian ông viết và dịch sung sức nhất là khoảng thập niên 1940 với những truyện dịch cũng như
trứ tác khác.
Tháng 10 năm 1927, Nguyễn Thái Học tham gia Nam Đồng thư xã và thành lập chi bộ để tiến tới
thành một đảng cách mạng. Song khác với Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm, Nguyễn Thái Học... Nhượng Tống chủ trương "hòa
bình cách mạng", tức không ủng hộ tư tưởng "bạo lực cách mạng",
dùng "sắt và máu để giành lại độc lập dân tộc."
Ngày 25
tháng 12 năm 1927, Nhượng Tống cùng với các đồng chí thành lậpViệt Nam Quốc dân Đảng tại làng Thể
Giao, Hà Nội. Ông là ủy viên trong Trung ương Đảng bộ với vai trò
trọng yếu trong việc biên soạn văn thư tuyên truyền và huấn luyện đảng viên.
Năm 1929, theo kế hoạch của
Nguyễn Thái Học, Nhượng Tống vào Huếgặp Phan Bội Châu, nhưng khi trở ra khi thì bị Pháp đón bắt.
Hội đồng đề hình tuyên án ông 10 năm tù rồi đày ra Côn
Đảo mãi đến năm 1936 mới được tha, nhưng vẫn chịu sự quản thúc tại quê
nhà.
Khi ông đang ở nhà lao Côn
Đảo, thì các đồng chí của ông tổ chức cuộckhởi nghĩa Yên Bái (1930), nhưng bị thực dân Pháp đàn áp và khủng bố.
Sau Cách mạng tháng Tám, vào tháng 12 năm 1945, ba đảng phái
là: Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt Dân chính Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảngliên minh thành Mặt trận
quốc dân đảng Việt Nam, rồi cùng tham gia vào Chính phủ Liên hiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, đến cuối năm 1946, Pháp tái chiếm liên bang Đông Dương, thì Chính phủ Liên hiệp
Việt Nam tan vỡ.
Năm 1947, hết thời gian bị quản thúc, Nhượng Tống trở lại Hà Nội (1947), rồi cùng với một
số đồng chí tái tổ chức lại hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng tại một số vùng
do quân Pháp kiểm soát.
Ngày 17 tháng
2 năm 1947,
Việt Nam Quốc dân đảng tham gia Mặt trận Quốc gia Thống nhất Toàn quốc, chống lại
chính quyền Việt Minh và ủng hộ giải pháp Bảo
Đại, thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam. Ông làm cố vấn cho Tổng trấn Bắc
phần Nghiêm Xuân Thiện. Nhưng rồi vì những mâu thuẫn trong giới chính
khách Hà Nội, trong nội bộ Việt Nam Quốc dân Đảng, nên đầu năm 1949, ông lặng lẽ trở về
hành nghề thầy thuốc
Bắc tại 128 phố Chợ Hôm, Hà Nội.
Ngày 8 tháng 11 năm 1949, Nhượng Tống bị
công an mật Việt Minh ám sát tại Hà Nội vì
bị cho là phản quốc.
Tác phẩm dịch của Nhượng Tống :
Trang tử, Nam Hoa
kinh, Hà Nội: Tân Việt, 1945 (in lần 2: Sài Gòn: Tân Việt, 1962; tái bản
sau 1975: Văn học, 2001); Khuất Nguyên, Ly tao, 1944 (in
lại trong: Khuất Nguyên, Sở từ, Đào
Duy Anh và Nguyễn Sĩ Lâm dịch, Hà Nội, Nxb Văn học,
1974); Thơ Đỗ
Phủ, Hà Nội: Tân Việt, 1944 (tái bản sau 1975: 1996); Sử ký Tư Mã Thiên, Hà Nội: Tân Việt, 1944; Vương Thực Phủ, Mái Tây (Tây sương ký), Hà Nội: Tân Việt, 1944
(in lần 2: Sài Gòn: Tân Việt; in lần 3: Sài Gòn: Tân Việt, 1963; sau 1975: Văn
học, 1992); Tào Tuyết Cần, Hồng lâu mộng, 1945; Lão tử, Đạo đức kinh, 1945; Khổng tử, Kinh Thư, Sài Gòn: Tân Việt, 1963; Văn dịch ký
bút danh Mạc Bảo Thần: Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội: Tân Việt,
1945 (tái bản: Sài Gòn: Tân Việt, 1964); Nguyễn
Trãi, Lam Sơn thực lục, Tân Việt, 1945 (in lần 2: Sài Gòn: Tân Việt,
1949; lần 3: Sài Gòn: Tân Việt, 1956)
Thiều Chửu (1902–1954) là nhà văn
hóa, dịch giả và cư sĩ. học giả Việt Nam,
tác giả Hán Việt tự điển và
nhiều bộ sách về Phật Giáo nổi tiếng khác. Ông từng được mời tham gia Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1945 với tư cách là Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội.
Ông kể về tuổi thơ của mình: "Nhà nghèo quá, chị
em tôi 7-8 tuổi đã phải chăn bò cắt cỏ, gánh nước, thổi cơm nấu cám, 10 tuổi
tát nước, 12 tuổi cày bừa. Năm tôi 13 tuổi, bố bị giặc Pháp bắt, được hai tháng
thì mẹ sinh con thứ 8. Đẻ được ba ngày mẹ đã phải đi làm đồng". 16 tuổi, Hữu
Kha một mình xuống Đồ
Sơn bán thuốc Nam và bánh kẹo kiếm sống. Vì tin người nên mất hết vốn,
ông phải làm phu kéo thuyền, đẩy xe, thậm chí đi ăn xin. Hai năm trời cực nhục ấy
khiến ông ngày càng tin yêu triết lý cứu khổ cứu người của đạo Phật.
Cuối năm 1920, cụ Cử Cầu ra tù, ông về giúp cha mở hiệu
thuốc Lợi Nhân Đường ở Ngã Tư Sở. Ông học được nghề thuốc Nam và trở thành vị
lương y suốt đời chữa bệnh cứu người không lấy tiền. Ông lấy hiệu Tịnh Liễu (Tịnh:
trong sạch, Liễu: hiểu biết), bắt đầu tự học đạo Phật và ngoại ngữ. Được bà nội
và bác ruột dạy chữ Hán, cùng đức tính kiên trì tự học, dần dà ông đã am hiểu chữ
Hán, Nho giáo và Phật
giáo, lại thông thạo các tiếng
Anh, Pháp, Nhật. Bén duyên với Phật giáo, ông lấy hiệu là Thiều Chửu,
có nghĩa là cái chổi quét bụi, thể hiện rõ tâm nguyện của mình là "cây chổi
quét bụi ấy sẽ làm trong sáng giáo hội qua ngòi bút cải cách của mình".
Ngoài ra, "hàng ngày phải lau quét bụi trần tham nhiễm, đừng để gương lòng
vẩn đục bởi phiền não vô minh che lấp". Ông không trở thành tu sĩ mà chỉ
là một cư sĩ, tu tại gia.
Khi bà chị ruột túng bấn, ông thôi việc hiệu thuốc để
giúp chị mưu sinh bằng nghề cho thuê đòn tang. 28 tuổi, ông giúp cậu em họ kiếm
sống bằng cách cùng mua một máy in dập chân, thuê nhà số 36 phố Sinh Từ mở hiệu sách Hoà Ký (lấy
tên từ phương châm Lục Hoà của Phật).
Đi sâu nghiên cứu Phật giáo, năm 1932-1933 ông cho ra
đời bản dịch Khóa hư lục, "bộ kinh cứu khổ cho đời" mà theo ông
tác giả là vua Trần Nhân Tông, vị tổ Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam (theo Đào
Duy Anh thì tác giả là vua Trần Thái Tông).
Thiều Chửu góp công lớn trong sáng lập Hội Phật giáo
Bắc Kỳ (1934), nhưng khi Hội mời vào Ban Trị sự thì ông lại do dự vì thấy Ban
này có mấy vị quan cai trị. Sau cùng ông nhận lời với ý nghĩ có thể lợi dụng Hội
này để thực hành cái chí đánh đổ chế độ thối nát của nhà chùa thời đó
Sau khi Hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập năm 1934 và ra báo Đuốc tuệ, Thiều Chửu nhận lời làm quản lý và biên tập cho tờ báo. Ông cũng tham gia thành lập Hội truyền bá quốc ngữ vào năm 1938 để nâng cao dân trí. Năm 1936, ông cùng bà Cả Mọc (Hoàng Thị Uyển) đồng sáng lập Hội Tế Sinh và làm Tổng Thư ký Hội. Ngay năm sau Hội lao vào cứu giúp nạn nhân trận lụt Đinh Sửu. Ông kể: "Chính vì chung một chí nguyện chịu khổ sở nhọc nhằn để giúp đỡ đồng bào, cả đời không ăn ngon mặc đẹp, không ai có gia đình riêng, nên chúng tôi được nhiều người tin lắm. Rất nghèo mà tiền bao nhiêu cũng có". Năm 1937, lụt tràn hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang. Ngoài việc góp sức cho cơ quan cứu tế, ông cùng bà Cả Mọc còn vận động đi lấy tiền lấy áo; rồi cùng ông Hoàng Đạo Thúy, Trần Duy Hưng hàng ngày đem thuốc, tiền, quần áo đi tới từng nhà nạn nhân giúp cho đến khi họ sống được. Những yếu nhân của Hội đã đi cứu tế ba tháng liên tục cho đến lúc lúa chín.
Năm 1941, khi trường Phật học Phổ Quang được mở, ông
đảm nhận việc dạy chữ Hán, giảng kinh và chủ trì các khóa lễ mà nhiều học viên
sau này trở thành các bậc tu hành có uy tín như Hòa thượng Thích Tâm Tịch, đệ
nhịPháp
chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Năm 1945, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã mời ông ra làm Bộ trưởng Bộ Cứu tế Xã hội trong chính
phủ Lâm thời, nhưng ông từ chối để tiếp tục việc giảng dạy cho các lớp
Phật giáo, cùng Cô nhi, để theo con đường tu trì lợi tha mà mình đã chọn.
Năm 1946 ông cùng một lớp học tăng ni và một số trẻ mồ côi hội
Tế Sinh đi theo kháng chiến chống Pháp, tham gia lao động sản xuất, giáo dục,
viết và dịch sách. Ông ba cùng với học sinh vượt qua vô vàn gian khổ duy trì đến
cùng trường vừa học vừa làm.
Khi đội Cải cách ruộng đất về địa phương, thấy trường
làm ăn nên nổi, quy ông là địa chủ, vu cáo ông dùng Phật giáo để mê hoặc quần
chúng, cộng với sự thương cảm cho nhiều nông dân bị hàm oan trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam mà
cảm thấy mình bất lực, đêm 15 rạng ngày 16 tháng 6 năm Giáp Ngọ 1954, tức cuối
ngày giỗ cha, ông ra thác Huống trên sông Cầu tại xóm Đồng Tâm, xã Vạn Thắng,
huyện Phú Bình, tỉnh Thái
Nguyên làm lễ Tam Bảo và Thiên địa rồi gieo mình xuống sông. Trước khi
mất, Thiều Chửu thức trắng đêm viết thư tuyệt mệnh gửi Hồ Chủ Tịch, thư dặn dò
các học trò mình phấn đấu theo Kháng chiến chống Pháp đến cùng, và viết lời kết
bản Tự Bạch (cũng gửi Hồ Chủ Tịch) như sau: "Cái án “mạc tu hữu” (tức vu
cáo, ông viết chữ Nho) mà ông Nhạc Phi phải chịu đời phong kiến còn có lẽ; ai
ngờ đời nay chính bản thân tôi lại bị, thì tôi còn biết van vỉ làm sao được nữa".
Cái chết “Thiên cổ kỳ oan” của ông đã gây ra nỗi chấn động và tiếc thương vô hạn
trong dân chúng địa phương và giới Phật Tử cả nước. Ni sư Thích Đàm Ánh, một học
trò của Thiều Chửu kể Thiều Chửu có dặn đừng vớt xác ông, nhưng các hậu duệ và
học trò không ai nỡ làm thế. Sau hòa bình lập lại, họ trân trọng rước hài cốt
ông về Hà Nội mai táng. Hiện nay mộ ông đặt tại nghĩa trang Thanh Tước, số mộ
170-C3.
Trước tác:
Thiều Chửu để lại 93 tác phẩm viết và dịch. Ngoài bộ Hán
Việt tự điển có giá trị vượt thời gian, ông còn dịch 14 bộ kinh căn bản của
đạo Phật như Kinh Di Đà, Thủy Sám, Địa Tạng, Kim Cương Bát Nhã, Viên Giác,
Pháp Hoa, Dược Sư, Phả Môn, Di Giáo, Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Lễ Sáu Phương, Lục
Tổ Đàn Kinh, Khóa Hư. Các sách dịch khác của ông có thể kể:Vì sao tôi tin Phật
giáo, Phật học cương yếu, Tây du ký...
Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận (NXB
Lá Bối, 1985) đã đánh giá "các bản dịch của ông rất đặc sắc, đọc rất êm
tai, nghĩa lý khá rõ ràng", nhất là văn trong Khóa Hư "là
văn biền ngẫu rất khó dịch".
Ông cũng viết các sách về Phật học như Sự tích
Phật tổ diễn ca, Nhòm qua cửa Phật, Cải tà quy chính, Khóa tụng hàng ngày,
Con đường Phật học thế kỷ 20.
Năm 1943, ông soạn cuốn “Giải thích truyện Quan Âm Thị
Kính”, chủ yếu dùng triết lý Phật học để giải thích. Ông coi tập thơ Nôm khuyết
danh đó là kinh Phật chứ không chỉ là một tác phẩm văn chương.
Tác phẩm cuối cùng của ông là “Con đường học Phật ở
thế kỷ thứ XX” xuất bản năm 1952 thể hiện quan điểm của một Phật Tử chân chính,
tiên tiến, yêu nước, kiên quyết vạch mặt một số tăng sĩ vùng địch chiếm mưu mô
thần bí hóa đạo Phật, qua đó làm nhụt tinh thần kháng chiến của dân tộc.
Nhà văn Nguyên
Ngọc viết về Thiều Chửu: "Ngày nay nhìn lại, thật đáng kinh ngạc
về tư tưởng sâu sắc và mạnh mẽ của ông về nhân dân. Đó là một tư tưởng xã hội
có tầm cao rất đáng để chúng ta chiêm nghiệm... Tính thời sự vẫn còn
nguyên".
Học giả Vũ
Khiêu đánh giá Thiều Chửu là một con người chân chính, một nhà trí thức
lớn của dân tộc, và kính tặng đôi câu đối "Nửa kiếp trầm luân, bác cổ
thông kim, lòng bốn bể; Trăm năm phù thế, cứu dân báo quốc, phép muôn đời".
Học giả Vũ Tuấn Sán nhìn nhận Thiều
Chửu "là một hiện tượng khá đặc biệt trong giới trí thức ở thế kỷ XX, một
người sống cuộc đời thanh cao, hoàn toàn vì lý tưởng".
Dương Quảng Hàm (1898-1946), hiệu là Hải
Lượng là nhà nghiên cứu văn học, nhà giáo dục Việt Nam.Tác
phẩm Việt Nam văn học sử yếu, do ông dày công biên soạn, được xem là cuốn
văn học sử phổ thông bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam
Dương Quảng Hàm sinh trong một gia đình có truyền
thống nho học tại làng Phú Thị, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang,
tỉnhHưng
Yên. Cụ nội là Dương Duy Thanh (1804-1861),
từng làm Đốc học Hà Nội. Thân phụ là Dương Trọng Phổ, anh cả
là Dương Bá Trạc, một trong những người sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục, trường học cách mạng đầu
tiên của thành phố Hà Nội,
em là Dương Tụ Quán, đều là những
danh sĩ có tiếng đương thời.
Thuở nhỏ ông học chữ
Nho, sau ra Hà Nội học chữ quốc ngữ. Năm 1920, tốt nghiệp thủ khoa trường
cao đẳng Sư phạm Đông Dương. Từ năm 1920 đến 1946, ông làm giáo viên trường Bưởi (tức
trường trung học bảo hộ, tiền thân của trường Chu Văn
An ngày nay). Sau thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông được bổ
nhiệm làm thanh tra Trung học vụ, rồi làm Hiệu trưởng của trường Bưởi.
Trong hơn 20 năm (1920-1945), Dương Quảng Hàm đã làm
việc không mệt mỏi, vừa giảng dạy, vừa viết sách giáo khoa văn học và sử học
cho nhà trường từ bậc tiểu học đến bậc trung học, vừa bằng tiếng
Pháp vừa bằng tiếng Việt. Hai cuốn sách có giá trị nghiên cứu nhất của
ông là Việt Nam văn học sử yếu (1941),Việt Nam thi văn hợp tuyển (1942).
Riêng tác phẩm Việt Nam văn học sử yếu được Bộ Quốc
gia Giáo dục Việt Nam Cộng hòa chính thức dùng làm sách giáo khoa
chương trình lớp Đệ Tam (tức là lớp 10) trong nhiều năm liền.
Ngoài ra, ông còn biên soạn nhiều sách khác nữa.
Dương Quảng Hàm chết khi còn đang tại chức vào đêm
ngày 19 tháng 12 năm 1946, tại Hà Nội trong những ngày đầu tiên toàn quốc kháng
chiến, hưởng dương 48 tuổi. Dương Quảng Hàm mất tích bởi ông là đảng viên Quốc
dân đảng.
Hậu thế đã đánh giá về sự nghiệp trước tác của Dương
Quảng Hàm là:
Người thầy xuất sắc đã đào tạo hàng nghìn học trò
trong một phần tư thế kỷ.(có những học trò mến phục tài đức của ông mà chọn nghề
sư phạm).
Nhà nghiên cứu văn học đã đặt nền móng cho môn lịch sử văn học, văn học so sánh ở Việt Nam, người khởi xướng chương trình quốc học cho nền giáo dục hiện đại.”
Nhà nghiên cứu văn học đã đặt nền móng cho môn lịch sử văn học, văn học so sánh ở Việt Nam, người khởi xướng chương trình quốc học cho nền giáo dục hiện đại.”
Về nhân cách, ông là “một nho sĩ yêu nước, một nhà mô
phạm từ cách ăn mặc, nói năng đến mối quan hệ thầy trò, nhất nhất đều theo quan
niệm chữ Lễ của Khổng học” …
Hiện nay tại thị xã Hưng
Yên, TP Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội đều
có đường phố mang tên Dương Quảng Hàm.
Lan Khai (1906 – 1945), tên thật: Nguyễn
Đình Khải, là nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Trong lịch sử văn họchiện đại Việt Nam trước
năm 1945, ông
được xem là một cây
bút sung mãn, một nhà văn "đường rừng" sáng giá.
Dù ở thể loại nào ngòi bút của ông vẫn thuyết phục được cảm tình và lí tính của
độc giả. Đặc sắc nhất vẫn là ở lĩnh vực sáng tác hiện thực về đời sống miền
núi.
Lan Khai sinh tại xã Vĩnh Lộc, châu Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên
Quang.
Cha ông là Nguyễn Đình Chức, nguyên quán ở tỉnh Thừa Thiên-Huế. Khoảng năm 1885, ông Chức cùng hai anh hưởng ứng dụ Cần Vương, tham gia khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo ở Hương Khê (Hà Tĩnh). Năm 1895, cuộc khởi nghĩa bị dẹp tan, ba anh em ông Chức phải rời bỏ quê hương, lên thượng nguồn Việt Bắc lập nghiệp. Và ông Chức đã dừng lại ở châu Chiêm Hóa hành nghề dạy học, chữa bệnh. Mẹ Lan Khai là Lê Thị Thục, xuất thân trong một gia tộc lâu đời ở địa phương.
Cha ông là Nguyễn Đình Chức, nguyên quán ở tỉnh Thừa Thiên-Huế. Khoảng năm 1885, ông Chức cùng hai anh hưởng ứng dụ Cần Vương, tham gia khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo ở Hương Khê (Hà Tĩnh). Năm 1895, cuộc khởi nghĩa bị dẹp tan, ba anh em ông Chức phải rời bỏ quê hương, lên thượng nguồn Việt Bắc lập nghiệp. Và ông Chức đã dừng lại ở châu Chiêm Hóa hành nghề dạy học, chữa bệnh. Mẹ Lan Khai là Lê Thị Thục, xuất thân trong một gia tộc lâu đời ở địa phương.
Thuở nhỏ, Lan Khai sống gần gũi với các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Cao Lan, Hà Nhì...
Năm 8 tuổi (1914), ông theo cha mẹ chuyển về sống ở làng Xuân Hòa (nay thuộc phố Xuân Hòa, tỉnh lỵ Tuyên Quang), nơi cư trú của nhiều gia đình thợ thuyền và phu mỏ (vì làng Xuân Hòa tiếp giáp với mỏ than Tuyên Quang và mỏ kẽm Tràng Đà).
Năm 12 tuổi (1918), ông bắt đầu tập làm thơ, viết văn và sớm bộc lộ năng khiếu hội họa.|
Năm 18 tuổi (1924), ông về Hà Nội theo học trường Bưởi. Sau khi học xong bậc Thành chung, ông thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Năm 21 tuổi (1927), ông trở về quê lập gia đình với Hà Thị Minh Kim (1909 -1999), con một gia đình khá giả ở tỉnh Tuyên Quang, có nhan sắc, học thức và tâm tính nhân hậu...
Năm 8 tuổi (1914), ông theo cha mẹ chuyển về sống ở làng Xuân Hòa (nay thuộc phố Xuân Hòa, tỉnh lỵ Tuyên Quang), nơi cư trú của nhiều gia đình thợ thuyền và phu mỏ (vì làng Xuân Hòa tiếp giáp với mỏ than Tuyên Quang và mỏ kẽm Tràng Đà).
Năm 12 tuổi (1918), ông bắt đầu tập làm thơ, viết văn và sớm bộc lộ năng khiếu hội họa.|
Năm 18 tuổi (1924), ông về Hà Nội theo học trường Bưởi. Sau khi học xong bậc Thành chung, ông thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Năm 21 tuổi (1927), ông trở về quê lập gia đình với Hà Thị Minh Kim (1909 -1999), con một gia đình khá giả ở tỉnh Tuyên Quang, có nhan sắc, học thức và tâm tính nhân hậu...
Lấy vợ xong, cuối năm đó, Lan Khai trở lại trường tiếp
tục học tập, nhưng học chưa hết hai năm, ông trở lại Tuyên Quang, dạy học, dịch
sách và viết văn. Ông cũng đã dành nhiều thì giờ đi du ngoạn đó đây, để vẽ
tranh phong cảnh, sưu tầm những sáng tác dân gian của đồng bào các dân tộc thiểu
số và tìm hiểu cuộc sống của những người phu mỏ.
Sau, vì tham gia vào tổ chức bí mật kháng Pháp
do Nguyễn Thái Học lãnh đạo, Lan Khai bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa
Lò (Hà Nội). Cha mẹ ông đã phải bán hết gia sản mới cứu ông thoát chết.
Năm 1934, khi Lan Khai đã thành danh trên văn đàn, ông quyết định
đưa cả gia đình về sống ở Hà Nội (ở nhà thuê, thường đổi chỗ). Để nuôi được 8
người, ông phải viết cật lực
Năm 1938, ông bắt đầu viết cho Tiểu thuyết thứ Bảy và sau đó ông cùng với Lê Văn Trương, trở thành hai cây bút cột trụ của nhà xuất bản Tân Dân.
Năm 1939, ông làm Tổng thư ký tạp chí Tao đàn của nhà xuất bản Tân Dân, đồng thời, còn cộng tác với các báo: Loa, Ngọ báo, Đông Tây, Tiểu thuyết thứ Bảy, Phổ thông bán nguyệt san...
Năm 1938, ông bắt đầu viết cho Tiểu thuyết thứ Bảy và sau đó ông cùng với Lê Văn Trương, trở thành hai cây bút cột trụ của nhà xuất bản Tân Dân.
Năm 1939, ông làm Tổng thư ký tạp chí Tao đàn của nhà xuất bản Tân Dân, đồng thời, còn cộng tác với các báo: Loa, Ngọ báo, Đông Tây, Tiểu thuyết thứ Bảy, Phổ thông bán nguyệt san...
Ngoài ra, ông còn làm diễn viên nghiệp dư trong các vở tuồng và kịch lịch sử tại Nhà hát lớn Hà Nội, làm diễn giả thường xuyên của Hội Trí tri, cộng tác với Hội truyền bá quốc ngữ của Nguyễn Văn Tố...
Cuối năm 1943, sau khi Lan Khai
ra tù vì tội viết cuốn Lầm than, gia đình ông lâm vào tình cảnh túng quẫn,
cộng thêm bệnh hen suyễn hành hạ ông, nên ông đã phải đưa vợ con
về lại quê nhà. Tại đây, ông mở hiệu sách Lan đình bán các loại sách
báo, tiếp tục viết văn, dạy học và vẽ truyền thần.
Trong một ngày gần cuối năm 1945, Lan Khai bị một
nhóm người khác phe phái thủ tiêu tại Tuyên Quang.
Nhà văn của những người lầm than Lan Khai chết thật mờ ám. Đang ăn trưa cùng gia đình, ông được giấy của ủy ban xã kêu lên có việc. Ông bỏ bữa ra đi, đi mãi, đi luôn đến 60 năm sau thân nhân mới mò được hài cốt ở một vực sâu con suối giữa rừng Tuyên. Lan Khai bị “bọn côn đồ” (chữ dùng của vị thiếu tướng công an X) xô xuống vực chỉ vì ông là đảng viên Quốc Dân đảng !
Tác phẩm của Lan Khai:
Trong 17 năm cầm bút (1928 - 1945), vẻn vẹn có 6 năm
quyết liệt nhất, chỉ tính từ 1939 đến 1942, Lan Khai đã để lại gần 50 cuốn sách
các loại, có thể chia làm ba loại: tiểu thuyết đường rừng, tiểu thuyết tâm
lý xã hội và tiểu thuyết lịch sử.
Tiểu thuyết đường rừng: Tiếng gọi của rừng thẳm (Tân
Dân xuất bản, 1939); Truyện đường rừng (Tân Dân xuất bản,
1940); Dấu ngựa trên sương (Hương Sơn xuất bản, 1940); Chiếc nỏ
cánh dâu (Duy Tân xuất bản, 1941); Suối đàn (Cộng Lực xuất bản,
1942)
Tiểu thuyết lịch sử: Ai lên Phố Cát (Tân
Dân xuất bản, 1937); Chiếc ngai vàng (Tân Dân xuất bản, 1937); Cái
hột mận (Tân Dân xuất bản, 1938); Gái thời loạn (Tân Dân xuất bản,
1938); Liếp-Li (Tân Dân xuất bản, 1938); Bóng cờ trắng trong
sương mù (Tân Dân xuất bản, 1940); Cưỡi đầu voi dữ (Tân Dân xuất
bản, 1940); Cánh buồm thoát tục (Tân Dân xuất bản, 1941); Đỉnh
non thần (Tân Dân xuất bản, 1941); Người thù của mặt trời (Thành
Cát Tư Hãn) (Hương Sơn xuất bản, 1941); Gửi cái xuân
tàn (1941); Theo lớp mây đưa (Tân Dân xuất bản, 1942); Tình
ngoài muôn dặm (Tân Dân xuất bản, 1942); Trăng nước Hồ
Tây (Hương Sơn xuất bản, 1942); Trong cơn binh lửa (Kiến Thiết
xuất bản, 1942); Thành bại với anh hùng (Quốc Gia xuất bản, 1942);Rỡn
sóng Bạch Đằng (viết cùng Nguyễn Tố. Duy Tân xuất bản, 1942); Sầu lên
ngọn ải (Duy Tân xuất bản, 1942); Ái-tình và sự-nghiệp (Đời Mới
xuất bản, 1942); Chàng kỵ-sĩ (Đời Mới xuất bản, 1943); Treo bức
chiến bào (Hương Sơn xuất bản, 1949);
Tiểu thuyết tâm lý xã hội : Nước hồ
Gươm (Nhật Nam xuất bản, 1928); Lẩn sự đời (Lê Quang Thiệp xuất
bản, 1934); Nơi ước hẹn (1934); Kiếp con tằm (1935); Cô
Dung (Tân Dân xuất bản, 1936); Lầm than (Tân Dân xuất bản,
1938); Người hay bóng (Tân Dân xuất bản, 1939);Trang (Tân Dân xuất
bản, 1939); Cơn ác mộng (Tân Dân xuất bản, 1939); Hồng thầu (Tân
Dân xuất bản, 1940); Tiếng khóc trong sương (Tân Dân xuất bản, 1940);
Nàng (Hương Sơn xuất bản, 1940); (Đời Mới xuất bản, 1941); Mực
mài nước mắt Tội và thương (Hương Sơn xuất bản, 1941); Tình và
máu (Hương Sơn xuất bản, 1942); Tội nhân hay nạn nhân? (Kiến Thiết
xuất bản, 1942); Hối hận (Tân Dân xuất bản, 1943); Mưa xuân (Hoạt
Động xuất bản, 1944);
Nghiên cứu lý luận và phê bình văn học: Phê bình
các nhân vật hiện thời: Lê Văn Trương (1940);Phê bình các nhân vật hiện
thời: Vũ Trọng Phụng (1941); Hồ Xuân Hương (1941)...Và các bài viết trên tạp
chí Tao đàn, đáng kể như: Tính cách Việt Nam trong văn
chương (Tao đàn số 4), Thiên chức của văn sĩ Việt Nam (Tao đàn số
5), Cái nguy mất gốc (Tao đàn số 6), Một lòng tin cần phải
có (Tao đàn số 7), Bàn qua về nghệ thuật (Tao đàn số 7), Phát
họa hình dung tâm tính Tản
Đà (Tao đàn số 9-10), Con người Vũ Trọng Phụng (Tao đàn số đặc biệt)...
Sách dịch :Bức thư của người không quen, dịch của Stéfan Zweig (Đời Mới xuất
bản, 1941); Cái đẹp với nghệ-thuật, phỏng thuật Félicien Challaye (Đời
Mới xuất bản, 1943); Tuổi thơ (1944, dịch của Lev Tolstoy)
Thơ : Theo Nguyễn Vỹ, Lan Khai có làm khá nhiều thơ,
ký tên là Lâm Tuyền Khách, làm thơ chỉ để bạn làng thơ ngâm chơi, không
bao giờ thấy in trên sách báo
Đánh giá :
Thi sĩ Nguyễn
Vỹ, người cùng thời, kể:
"Nhà văn "đường rừng" là biệt hiệu của
anh em làng văn Bắc Hà đã tặng cho Lan Khai, vì anh chuyên viết các
truyện về Mạn Ngược, nghĩa là về các vùng Thượng du Bắc Việt, nơi anh đã sinh
ra...Anh bỏ nghề giáo viên, cũng chỉ vì anh mải nghe tiếng gọi của “rừng thẳm”,
tiếng gọi mà anh ghi chép say sưa thành những bóng vang huyền bí trong các tác
phẩm văn chương và trong các nét họa của anh...Ở anh, dù là văn sĩ hay họa sĩ,
cũng đều là cái “tài tử”, theo nghĩa của anh em nhà văn chúng tôi cho nó QA hồi
tiền chiến, là không “không cầu lợi”. Nói khác hơn, Lan Khai là một trong số
văn nhân chịu hy sinh cho lý tưởng nhiều hơn, thích sống đời thanh cao nho nhã
hơn...Anh, quả là một tâm hồn thuần túy mơ mộng, rất đa cảm, đa tình. Anh có
hai vợ, lại được rất đông nữ độc giả mến phục, nhưng anh không thích ở với gia
đình và có lẽ anh cũng không có cuộc tình duyên nào lâu dài và tha thiết...Cũng
có lẽ tại anh thích sống cuộc đời lý tưởng quá...
Nói về khía cạnh khác của Lan Khai, Nguyễn Vỹ viết:
...Một hôm được tin bà vợ cả ở Tuyên Quang đau nặng gần
chết. Anh đến nhà xuất bản hỏi mượn trước một món tiền để về tỉnh nhà lo thuốc
men cho vợ. Nhưng chủ một nhà in lớn ở Hà Nội, trả lời rằng không có sẵn tiền...Nài
nĩ mãi không xong, anh đành rút trong túi ra một xấp bản thảo kèm theo những lời
hứa hẹn sẽ sớm hoàn thành mới mượn được hai chục đồng...Về nhà, anh vứt xuống
giường mấy tờ giấy bạc, nước mắt chảy tràn trề trên đôi má: "Toa thấy
không, Vỹ? Mẹ cha cái kiếp chúng mình!". Hôm rôi bị người Pháp bắt và bị
còng tay đưa lên xe lửa Hà Nội, trong đám bạn bè quen thuộc tôi thấy có mặt anh
Lan Khai. Hôm ấy anh ốm quá, mặt xanh xao gầy còm, không có đánh phấn như mọi
khi. Tôi mỉm cười ngó anh. Anh đáp lại bằng một cái nhìn đăm chiêu tịch mịch.
Sau này, trong thời kỳ đồng bào miền Bắc di cư, tôi có tìm kiếm các bạn cũ đất
Hà Thành. Một đôi bạn cho tôi biết Lan Khai đã bị thủ tiêu ở Tuyên Quang. Tôi
nghẹn ngào, không nói được. Tôi biết anh là người của Việt Nam Quốc dân Đảng, bạn đồng chí rất
thân của Nhượng Tống. Đó là nguyên do người ta thù ghét anh...
Nhà văn Vũ Ngọc Phan nhận xét:
“Lan Khai là một lão tướng trong làng tiểu thuyết đang gắng tìm đường mới,
nhưng trước khi ông tới đích, người ta không thể quên lối cũ của ông, lối tiểu
thuyết truyền kỳ nó đã làm cho ông được một hồi nổi tiếng.
GS. Phạm Thế Ngũ:
Trong những nhà văn của nhóm Tân Dân, có lẽ Lan Khai là cây bút biết tự săn sóc và có nhiều đức tính văn chương hơn cả. Ở những trang viết kỹ càng, ta thấy một bút pháp thật già giặn, điêu luyện. Ông có một trí quan sát tinh tế, có một số vốn ngôn ngữ chuẩn xác, khúc chiết, nhiều khi giàu những hình ảnh rất tân kỳ…Ở tiểu thuyết đường rừng, ông thường huyễn hoặc người đọc bằng những bức tranh thiên nhiên đầy những ấn tượng hình sắc và âm thanh. Về tiểu thuyết lịch sử, Trương Tửu khen ông sở trường khi tả những cảnh oanh liệt và những cảnh say sưa tình ái...Về tiểu thuyết xã hội, ông khá thành công trong truyện "Cô Dung" và "Lầm than". Truyện "Lầm than", ông chủ ý mô tả những nỗi khổ của hạng thợ mỏ, được nhà văn Hải Triều xem nó như là một bước mới của tiểu thuyết Việt vào con đường hiện thực xã hội (réalisme social). Ông viết tác phẩm này, cốt để hưởng ứng phong trào đấu tranh thợ thuyền nổi lên ở Pháp và ở Đông Dương khi đó (1937), rồi không thấy ông trở lại khuynh hướng này nữa .
Ngoài những sách có tính chất kiếm tiền chợ, Lan Khai
để lại một tác phẩm có thể sánh ngang với Bước đường cùng của Nguyễn
Công Hoan. Ấy là cuốn Lầm than - quyển tiểu thuyết lấy nguyên mẩu những
người thợ mỏ than khốn cùng ở Tuyên mà nhà phê bình văn học macxit Hải Triều đã
dùng làm điểm tựa trong cuộc tranh luận với phái “Nghệ thuật vị nhân sinh”
Khái Hưng tên thật là Trần Dư, nhưng ông
thêm chữ Khánh thành Trần Khánh Dư để giống vị tướng Trần Khánh Dư đời
Trần. Bút danh Khái Hưng của ông được ghép từ các chữ cái của tên Khánh Dư.
Ông sinh năm 1896, xuất thân trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng. Một số tài liệu ghi ông sinh năm 1897.. Thân phụ ông giữ chức Tuần phủ. Cha vợ ông là Lê Văn Đinh cũng giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh. Em ruột ông là nhà văn Trần Tiêu.
Khái Hưng đi học ở trường
Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I, vì
không muốn làm công chức, ông về Ninh Giang mở đại lý
bán dầu hỏa. Được một thời gian Khái Hưng lên Hà Nội dạy ở
trường Tư thục Thăng Long. Trong khoảng thời gian 1930 đến 1932, Nhất Linh từ Pháp về nước và cũng dạy
tại trường này. Khái Hưng đã quen Nhất Linh ở đó và họ trở thành một cặp tác giả
nổi tiếng. Tuy Khái Hưng hơn Nhất Linh 9 tuổi nhưng là người bước vào văn đàn
sau nên được gọi Nhị Linh.
Khái Hưng tham gia Tự
Lực Văn Đoàn do Nhất Linh thành lập. Văn đoàn này bắt đầu xuất hiện
công khai từ 1932, và đến
đầu năm1933 thì tuyên bố
chính thức thành lập với ba thành viên trụ cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo
Cùng thời gian đó, Tự Lực Văn Đoàn ra tờ báo Phong Hóa. Về sau
khi Phong Hóa bị đóng cửa thì tờ Ngày
Nay thay thế. Cùng với báo, Tự Lực Văn Đoàn còn có Nhà xuất bản Đời
Nay. Toàn bộ tác phẩm của Khái Hưng đều do Ngày Nay và Đời
Nay công bố.
Là một trong những cây bút chính của nhóm, tiểu thuyết
đầu tay của Khái Hưng Hồn bướm mơ tiên (1933) là tiểu thuyết đầu tiên
của Tự Lực Văn Đoàn. Tiểu thuyết cuối cùng của ông là Thanh Đức (1943)
và cũng là tiểu thuyết cuối cùng của nhóm. Khái Hưng cũng viết chung với Nhất
Linh hai tiểu thuyết là Gánh hàng hoa và Đời mưa gió và ra
đời chung tập truyện ngắn Anh phải sống cùng năm1934.
Giống như các tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn khác, tác
phẩm của Khái Hưng thường đề cao tình yêu tự do, chống lại các lễ giáo phong kiến, ít nhiều
mang tính cải cách xã hội. Khái Hưng cũng có viết một số vở kịch, thường chỉ một
hồi, nhưng ít được công diễn. Trong những năm 1935 đến 1940, Khái Hưng là nhà văn được
nhiều thanh niên thành thị ưa chuộng. Khái Hưng cùng là một dịch giả.
Bài Tình tuyệt vọng ông dịch từ thơ của Félix Arvers rất
nổi tiếng.
Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thu
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay
Trong thời gian Đệ
nhị thế chiến, giống như Nhất Linh, Khái Hưng cũng tham gia hoạt động chính
trị. Do tham gia Đảng
Đại Việt dân chính thân Nhật nên Khái Hưng từng bị chính quyền thực
dân Pháp bắt giam. Sau ngày Nhật
đảo chính Pháp tháng
3 năm 1945, Khái
Hưng được trả tự do. Ông cùng Hoàng Đạo, Nguyễn
Tường Bách cho ra tờ Ngày
Nay Kỷ Nguyên Mới.
Sau Cách
mạng tháng Tám, Khái Hưng có viết một loạt bài báo, truyện ngắn, kịch ngắn
trên các báo của Việt
Nam Quốc dân Đảng.
Khái Hưng mất năm 1947. Một số tài liệu cho rằng
Khái Hưng bị Việt
Minh bắt giam tại Liên Khu 3 (Lạc Quần, Trực Ninh) rồi đem xử
tử hình ở bến đò Cựa Gà, phủ Xuân Trường,
tỉnh Nam Định.
Theo ông Nguyễn Tường Triệu, con nuôi Khái Hưng, tiết lộ Khái Hưng mất tích sau
Tết Ðinh Hợi (22/1/1947)
Hồi còn dạy học ở thị trấn Vĩnh Bảo, Hải Phòng năm
1973, tôi (TDH) đã nghe chính miệng những du kích Thái Bình – những kẻ thừa
hành bản án. Họ kể rằng họ được lệnh bỏ rọ trắn xuống sông nhà văn Khái
Hưng – chủ soái của Tự lực Văn đoàn. Kẻ hành quyết kể lại thái độ của
Khái Hưng rất bình thản, ung dung chui vào rọ nứa cho những kẻ chân đất đầu trần
buộc giây, gài đá, vần xuống sông. Ở dưới đáy sông sặc nước, chắc nghẹt thở lắm…
Khái Hưng chết chỉ vì ông là đảng viên đảng Đại Việt !
Thế mà, mới đây, Vu Gia người miền Trung, sống ở Sài
Gòn viết một cuốn sách khảo cứu về cuộc đời và văn nghiệp Khái Hưng khá hay
nhưng lại miêu tả như huyền thoại là Khái Hưng chết vì rơi vào ổ phục kích y
như một nghĩa sĩ, giống như thật. Không riêng gì Vu Gia, thật buồn cười, sau giải
phóng, khi đặt chân đến Sài Gòn, tôi đã nhảy vào thư viện của trường Quốc gia
Sư phạm đọc ngấu nghiến một lèo 6 cuốn sách, cuốn nào cuốn nấy to như cục gạch
viết về việc “Làm thế nào để giết một tổng thống” là ông Diệm ông Nhu. Cả 6 cuốn
kể 6 kiểu chết khác nhau, màu mè, li kỳ, sửng sốt, hấp dẫn. Ông nào cũng thề thốt
với độc giả ông ta mới là nhân chứng thứ thiệt !
Tác phẩm của Khái Hưng để lại :
Tiểu thuyết : Hồn bướm mơ
tiên (1933); Đời mưa gió (cùng Nhất Linh, 1933); Nửa chừng
xuân(1934); Gánh hàng hoa (cùng Nhất Linh, 1934); Trống mái
(1936); Gia đình (1936); Tiêu sơn tráng
sĩ (1937); Thoát ly (1938); Hạnh (1938); Đẹp (1940); Thanh
Đức (1942).
Tập truyện ngắn: Anh phải sống (cùng Nhất
Linh, 1934); Tiếng suối reo (1935).; Đợi chờ (1940);Cái
ve (1944).
Phạm Quỳnh (17 tháng 12 năm 1892 – 6 tháng 9 năm 1945) là một nhà
văn hóa, nhà
báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là người
đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và
dùng tiếng
Việt – thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp –
để viết lý luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu là Thượng Chi, bút danh: Hoa
Đường, Hồng Nhân.
Ông được xem là người chiến đấu bất bạo động nhưng
không khoan nhượng cho chủ quyền độc lập, tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục
quyền hành của Triều đình Huế trên
cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam), chống lại sự bảo hộ
của Pháp và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với thuyết Quân
chủ lập hiến.
Phạm Quỳnh sinh tại số 17 phố Hàng Trống, Hà Nội; quê quán ở
làng Lương Ngọc (nay thuộc xã Thúc Kháng), phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương,
một làng khoa bảng, có truyền thống hiếu học. Mồ côi mẹ từ 9 tháng tuổi, mồ côi
cha từ khi lên 9 tuổi; Phạm Quỳnh côi cút được bà nội nuôi ăn học.
Phạm Quỳnh học giỏi, có học bổng, đỗ đầu bằng Thành
chung (tốt nghiệp) Trường trung học Bảo hộ (tức trường
Bưởi, còn gọi là trường Thông ngôn).
Năm 1908,
Phạm Quỳnh làm việc ở Trường
Viễn Đông Bác cổ tại Hà Nội lúc vừa tuổi 16.
Từ năm 1916, Ông tham gia viết báo cho một số tờ có uy tín đương thời; làm chủ bút kỳ cựu của Nam Phong tạp chí từ ngày 1 tháng 7 năm 1917 cho đến năm 1932; tuyên truyền cho tư tưởng “Pháp Việt đề huề”.
Từ năm 1916, Ông tham gia viết báo cho một số tờ có uy tín đương thời; làm chủ bút kỳ cựu của Nam Phong tạp chí từ ngày 1 tháng 7 năm 1917 cho đến năm 1932; tuyên truyền cho tư tưởng “Pháp Việt đề huề”.
Cũng trong thời kỳ 1924-1932, ông còn là giảng viên
Trường Cao đẳng Hà Nội.
Ngày 2 tháng 5 năm 1919, ông sáng lập và là Tổng Thư ký Hội Khai trí Tiến Đức, Trần Trọng Kim là Trưởng ban Văn học của Hội; và Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ.
Năm 1922, với tư cách đại diện cho Hội Khai trí Tiến Đức, ông đã sang Pháp dự Hội chợ triển lãm Marseille rồi diễn thuyết cả ở Ban Chính trị và Ban Luân lý Viện Hàn lâm Pháp về dân tộc giáo dục.
Ngày 2 tháng 5 năm 1919, ông sáng lập và là Tổng Thư ký Hội Khai trí Tiến Đức, Trần Trọng Kim là Trưởng ban Văn học của Hội; và Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ.
Năm 1922, với tư cách đại diện cho Hội Khai trí Tiến Đức, ông đã sang Pháp dự Hội chợ triển lãm Marseille rồi diễn thuyết cả ở Ban Chính trị và Ban Luân lý Viện Hàn lâm Pháp về dân tộc giáo dục.
Năm 1924, ông được mời làm giảng viên Khoa Bác ngữ học, Văn hóa, Ngữ ngôn Hoa
Việt, Trường Cao đẳng Hà Nội, trợ bút báoFrance
– Indochine.
Từ năm 1925 – 1928, Phạm Quỳnh là Hội trưởng Hội Trí
tri Bắc Kỳ; năm 1926, ông làm ở Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ và đến năm 1929 được cử
vào Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương.
Năm 1930, Phạm Quỳnh đề xướng thuyết lập hiến, đòi hỏi
người Pháp phải thành lập hiến pháp, để quy định rõ ràng quyền căn bản của nhân
dân Việt Nam, vua quan Việt Nam và chính quyền bảo hộ.
Năm 1931, ông được giao chức Phó Hội trưởng Hội Địa
dư Hà Nội. Năm 1932, giữ chức Tổng Thư ký Ủy ban Cứu trợ xã hội Bắc Kỳ.
Ngày 11 tháng 11 năm 1932, sau khi Bảo Đại lên
làm vua thay Khải Định,
ông được triều đình nhà Nguyễn triệu vào Huế tham gia chính quyền Bảo Đại,
ông thôi không làm chủ bút Nam phong Tạp chí nữa. Tại Huế thời gian đầu ông làm
việc tại Ngự tiền Văn phòng, sau đó làm Thượng thư Bộ
Học và cuối cùng giữ chức vụ Thượng thư Bộ Lại (1944-1945).
Ngày 9 tháng 3 năm
1945, Nhật đảo
chính Pháp. Chính
phủ Trần Trọng Kim được thành lập. Ông về sống ẩn dật ở biệt thự Hoa
Đường bên bờ sông đào Phú Cam, Huế.
Ông bị Việt Minh bắt
giam ngày 23 tháng
8 năm 1945 và
giam ở lao Thừa Phủ, Huế. Người thừa hành lệnh này là Đặng Văn Việt (về sau trờ
thành con hùm xám đường 4 – tiểu tướng Napoleông). Ông bị xử bắn sau đó cùng với
nguyên Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình
Khôi (anh ruột Ngô
Đình Diệm) và Ngô Đình Huân (con trai của Ngô Đình Khôi). Chuyện này do Tố
Hữu – Chủ tịch lâm thời thành phố Huế kể cho Trần Huy Liệu nghe.
Di hài ông được tìm thấy năm 1956 trong khu rừng Hắc Thú, và được cải táng ngày 9 tháng 2 năm 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa Vạn Phước.
Thông tin về ai đã ra lệnh giết ông được lý giải theo
nhiều giả thuyết khác nhau.
Cái chết của Phạm Quỳnh
Cuốn Tác gia văn học Thăng Long Hà Nội từ
thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XX, mục về Phạm Quỳnh (1892-1945) cũng có một dòng: Đến Cách
mạng Tháng Tám 1945 chính quyền nhân dân khép án tử hình.
Có lệnh cấp tốc di dời Ngô Đình
Khôi và Phạm Quỳnh ra khỏi cố đô đề phòng những chuyện bất trắc không
hay sau này. Nhóm du kích áp tải đến một quãng rừng cách xa Huế thì nghe tiếng
tàu bay Pháp ầm ì trên đầu tưởng đâu như tiếng máy bay thả biệt kích. Sợ không
hoàn thành trách nhiệm di dời nên nhóm áp tải đã tự động thủ tiêu cả ba người
mà không chờ chỉ thị của cấp trên. Giả thuyết này không đề cập đến cấp trên là
ai hay cơ quan nào ra lệnh.
Có người cho rằng trong số người đi áp tải đó có người
nhà Thượng thư Nguyễn
Hữu Bài, người có mối hiềm từ lâu với Phạm Quỳnh nên đã lợi dụng việc này
mà giải quyết ân oán.
Có nguồn tin, vì Pháp cho biệt kích tìm Phạm Quỳnh
nhưng nhóm này bị bắt và để lộ thông tin, và Phạm Quỳnh bị dân quân địa phương
(Hiền Sĩ, Thừa
Thiên, Huế) giết.
Nhà văn Thái Vũ lý giải:
“Mà lúc ấy trong dân chúng, buổi đầu cách mạng, cũng
là trong ngày đầu chính quyền mới do dân làm chủ thì mấy tiếng Việt gian, diệt Việt
gian kèm theo hành động lan truyền… khắp mọi nơi, nhất là đối với những người
có “thành tích” thân Pháp. Mà hai cụ họ Phạm và Ngô thì rõ ràng quá, tránh sao
lúc trong dân, chỉ mới hưởng 1 ngày đầu chính quyền cách mạng, còn căm thù bọn
thống trị Pháp và đám tay chân người bản xứ của chúng, có hành động manh động.
Đó hẳn là “nỗi uẩn khúc” cuối cùng của ông chủ báo Nam Phong”
Phạm Quỳnh được coi là người đi tiên phong trong việc
dùng tiếng Việt để viết lý luận. Dương
Quảng Hàm đánh giá các công trình của ông là đã “luyện cho tiếng ta có
thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng về triết học, khoa học mới.”
Trước đây, cũng có nhiều người cho rằng ông gắn bó với
các chủ trương chính trị của thực dân Pháp. Ông bị coi là “ru ngủ” thanh niên
trí thức trong cái “hồn nước” mơ hồ, khiến họ đi chệch khỏi chí hướng làm cách
mạng chống Pháp. Trong một thời gian dài, quan điểm chính thống của Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam gọi ông là tay sai đắc lực
của Pháp.
Gần đây, tại Việt Nam bắt đầu có sự đánh giá công bằng
hơn. Từ điển Văn học bộ mới (2004) coi ông là người có tinh thần dân
tộc, ôm ấp một chủ nghĩa quốc gia theo xu hướng ôn hòa, lấy việc canh tân văn
hóa để làm sống lại hồn nước. Kể từ năm 2000, nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh
đã được xuất bản tại Việt Nam:
Mười ngày ở Huế, NXB Văn học – 2001; Luận giải
Văn học và Triết học, NXB Thông tin, 2003;Pháp du hành trình nhật ký, NXB Hội
Nhà Văn, 2004; Thượng Chi văn tập, NXB Văn học, 2007;Du ký Việt Nam, NXB
Trẻ, 2007; Phạm Quỳnh – Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp, NXB Tri thức,
2007 (gồm những bài diễn thuyết, bài báo ông viết bằng tiếng Pháp từ 1922 đến 1932)
Những đánh giá về Phạm Quỳnh :
Trước đây, khi Thượng Chi làm báo Nam
Phong người ta kết tội ông làm bồi bút cho Pháp, khi ông làm Thượng thư bộ
học bị kết tội Việt gian, bán nước. Những gì của con người này đều xấu xa tỉ
như câu danh ngôn tuyệt hay sang sảng niềm tự hào về văn hóa dân tộc “Truyện Kiều
còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn nước ta còn” bị lên án là đánh lạc hướng quần
chúng để không nghĩ tới việc cấp bách là giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh : “Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ
được lịch sử đánh giá lại sau này”
Trong báo cáo ngày mồng 8 tháng 1 năm 1945 gửi cho đô
đốc Decoux và cho Tổng đại diện Mordant, ông Thống sứ Trung Kỳ Healewyn đã báo
cáo về Phạm Quỳnh như sau:
“Vị Thượng thư này vốn đã chiến đấu suốt cuộc đời
mình bằng ngòi bút và bằng lời nói, không bao giờ bằng vũ khí chống sự bảo trợ
của Pháp và cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc,
Trung Nam) và cho việc người Việt Nam nắm trong tay vận mệnh của chính mình… Những
yêu sách của Phạm Quỳnh đòi trở lại việc chấp thuận một chế độ tự trị hoàn toàn
cho hai xứ bảo hộ (Trung
Kỳ và Bắc Kỳ) khước từ
chế độ thuộc địa ởNam Kỳ và
thành lập một quốc gia Việt Nam. Tôi xin lưu ý ngài một điều là, dưới vẻ bề
ngoài nhã nhặn và thận trọng, con người đó là một chiến sĩ không lay chuyển nổi
cho nền độc lập của Việt Nam và đừng hòng có thể làm dịu những tình cảm yêu nước
chân thành và kiên định của ông ta bằng cách bổ nhiệm ông ta vào một cương vị
danh dự hoặc trả lương một cách hậu hĩ. Cho tới nay đó là một địch thủ thận trọng
nhưng cương quyết chống lại sự đô hộ của nước Pháp và ông ta có thể sớm trở
thành một kẻ thù không khoan nhượng…”.
Nguyễn Công Hoan :
“…Phạm Quỳnh, trái lại chủ trương thuyết lập Hiến.
Người Pháp nên thi hành đúng Hiệp
ước 1884 nghĩa là chỉ đóng vai trò bảo hộ còn công việc trong nước thì
để vua quan người Nam tự đảm nhiệm lấy. Bấy giờ Phạm Quỳnh vào Huế làm quan
không phải vì danh. Quốc dân biết tên Phạm Quỳnh hơn nhiều Thượng thư Nam Triều.
Mà cũng chẳng phải vì lợi. Đơn cử làm chủ bút Nam Phong, Phạm Quỳnh được cấp
600 đồng một tháng. Món này to hơn lương Thượng thư. Phạm Quỳnh ra làm quan chỉ
đổi lấy danh nghĩa Chính phủ Nam Triều đòi Pháp trở lại Hiệp ước 1884. Vậy là một
người yêu nước như Phạm Quỳnh sở dĩ phải có mặt trên sân khấu chính trị chẳng
qua là một việc miễn cưỡng trái với ý mình để khuyến khích bạn đồng nghiệp làm
việc cho tốt hơn chứ thực lòng một người dân mất nước ai không đau đớn ai không
khóc thầm. Thế là tôi nghĩ ra được truyện Kép Tư Bền tả một anh kép nổi tiếng về
bông lơn đã phải vì giữ tín nhiệm với khán giả mà lên sân khấu nhà hát làm trò
cười ngay cái tối cha mình đang hấp hối”.
Giáo sư Văn Tạo:
“Phạm Quỳnh không có hành vi nào tàn ác với nhân
dân, không đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân như nhiều quan lại thời Nguyễn,
không ra lệnh bắt bớ tù đày các nhà yêu nước (…). Nhưng mặt khác ông lại có
công chuyển tải văn hóa Đông – Tây trên văn đàn, báo giới Việt Nam, góp phần
làm phong phú thêm cho ngôn ngữ, văn hóa dân tộc Việt Nam thời đầu thế kỷ XX,
công lao đó đáng được ghi nhận”.
Tới nay, tuy không có tranh cãi về việc mặt trận Việt
Minh sát hại Tạ Thu Thâu, vẫn còn nghi vấn về lệnh giết từ đâu đến. Giả thuyết
của nhà sử học Daniel Hémery cho rằng các cấp chỉ huy địa phương ở Quảng Ngãi
nhận lệnh cấp trên đã ra lệnh giết. Cấp trên ở đây trực tiếp là TVG. Tạ Thu
Thâu bị đưa ra pháp trường bắn ba lần mới chết nhờ tài hùng biện thuyết phục của
ông mà các đao phủ thủ không nỡ xả súng vào người anh hùng yêu nước.
Trong buổi phỏng vấn ngày 25 tháng 6 năm 1946, Hồ Chí Minh đã
trả lời đảng viên Xã hội Daniel Guérin về cái chết của Tạ Thu Thâu như sau: Ce
fut un patriote et nous le pleurons… Mais tous ceux qui ne suivent pas la ligne
tracée par moi seront brisés (Tạ Thu Thâu là một nhà ái quốc, chúng tôi
đau buồn khi hay tin ông mất… Nhưng tất cả những ai không theo con đường tôi đã
vạch đều sẽ bị tiêu diệt).[The Anti-Colonial
Movement in Vietnam]. Cũng khoảng thời gian 1945, người của Trần Trọng Kim
hỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh về cái chết của Tạ Thu Thâu. Ông Hồ Chí Minh trả
lời “Trệch đường ray” (Hồi ký Một cơn gió bụi của Trần Trọng Kim)
Vì sao Việt Minh giết Tạ Thu Thâu ? Đó là cách
mà Stalin giết Trốtsky để trừ hậu họa. Kiều bào ta hồi đó ở Pháp có xu hướng
tả, hầu hết ngả về Đệ Tứ. Còn trong nước do tuyên truyền, Trốtsky nhân vật sau
Lê Nin đòi xét lại chủ nghĩa Mác được xem là tay sai của đế quốc, cướp của giết
người.Thời đó, Tạ Thu Thâu là lãnh tụ Trốtskít ở Việt Nam. Ông là cây bút sắc
bén (giỏi viết báo Pháp ngữ và Việt ngữ), một diễn giả xuất sắc hùng biện, một
trí thức có uy tín, nhân cách ôn hòa nhũn nhặn. Tạ Thu Thâu hoạt động mạnh ở
Sài Gòn và tiếng tăm vang xa cả nước. Ông chống Pháp, bị bắt 6 lần, 5 lần bị kết
án, tổng cộng 13 năm tù 10 năm biệt xứ. Năm 1945, từ Côn Đảo được thả, Việt
Minh đón đường bắt lọng và sát hại ông trên cánh đồng Mỹ Khê, Quảng Ngãi. Một
cuộc đời xán lạn vì dân vì nước lãnh cái chết thật bi thảm, lãng nhách
Sau giải phóng, người ta đổi tên đường Tạ Thu Thâu
sau chợ Bến Thành thành đường Lưu Văn Lang, đường mang tên ông ở Mỹ Tho cũng bị
đổi. Tạ Thu Thâu chỉ được nhắc đến cái tên với định danh “Tay sai cho đế quốc,
mật thám cho phát xít Nhật”. Sao bất công thế, hả Trời ?
Những người bị giết đều là những tinh hoa,
là danh sĩ đạo cao đức trọng, yêu nước thương dân, có thành tựu văn hóa
sáng giá cống hiến cho nền văn hiến nước nhà. Họ chết mỗi người mỗi cách đau
xót và hàm oan: Nhà văn Lan Khai bị xô xuống vực, văn hào Ngô Tất Tố
bị bức cho treo cổ tự vẫn, Khái Hưng bị bỏ rọ trắn sông, Phạm Quỳnh đối thủ
đáng gờm của thực dân Pháp bị xử tử, Tạ Thu Thâu nhà yêu nước lớn bị tử bắn;
nàng thơ nữ sĩ Thu Hồng bị bắn lén từ sau lưng; Nhượng Tống dịch giả tài
hoa số 1 bị ám sát; Dương Quảng Hàm vị giáo sư đáng kính ra khỏi nhà đi
mãi không về; vị bồ tát Thiếu Chửu bị bức hại nhảy xuống sông tự tận. Cái án “mạc
tu hữu” (Giết rồi sau sẽ biết) của thời trung cổ vẫn đeo đẳng khốc liệt đến tận
bây giờ !
LỜI NHẮN :
Thưa bạn đọc. Tôi viết loạt bài “chuyện bây giờ mới kể”
từ Thân phụ tôi, Chị tôi, Những cái chết tức tưởi của nhà văn…là để làm gì ? Đấy
là những mảnh của một công trình triết học bàn về Chân Lý mà tôi đang đeo đuổi
suốt mấy năm nay chứ không phải là những lời lẽ rẻ tiền thóa mạ những sai lầm của
Đảng và Nhà nước trong quá khứ, nó chỉ là dẫn liệu cần thiết làm sáng tỏ vấn đề
khoa học đang bàn chứ không phải là mục đích. Chức năng cao cả của các bài viết
này làcảnh báo, cảnh tỉnh, ngăn chặn những sai lầm ấu trĩ đã qua sẽ
và đang xẩy ra nhỡn tiền và tương lai của giới cầm quyền hiện nay. Bởi lịch sử
bao giờ cũng đi những bước trùng lặp. Hậm hực, chửi bới, chỉ trích vô lối vô
luân như một con mụ nhà quê lắm mồm là việc làm của bọn cầm bút tiểu nhân. Đưa
ra một quyết sách cứu nước, cứu dân dẫu có đau đớn và cay đắng đến
đâu thì đó là phong cách của người cầm bút quân tử.
Thấu hiểu tinh thần đó nên bạn đọc bốn phương đã yêu
quý, trân trọng dành cho các bài viết của tôi một tình cảm thật nồng hậu của những
công dân có lương tri lương năng. Xin đa tạ.
“Tôi nghĩ mọi người Việt thế hệ chúng ta cần ôn lại
bài học này, kể cả các đảng viên ĐCSVN. Ôn lại không phải để oán trách hận thù.
Ôn lại cũng không phải để tự dày vò vì mặc cảm tội lỗi, nhưng để có một tâm
tình sám hối lành mạnh. Ôn lại để từ thế hệ chúng ta trở đi không bao giờ còn vấp
phải sai lầm kinh khủng của thời mê muội độc ác đó nữa. Và ôn lại để mở một lối
đi mới hướng về tương lai: dứt khoát tìm lại bằng được những di sản tinh thần
cao quý của tổ tiên mà đã một thời ta dại dột đánh mất, và từ đó mà vượt qua
quá khứ đau buồn để cùng nhau xây dựng cho thế hệ hôm nay và mai sau, để cho những
khổ đau và xương máu của những người đi trước chúng ta không trở thành vô ích”.
Xin mượn lời một commen ở Nguyen Xuandien.com – thay lời muốn nói gửi tới các bạn
và cả những ai đó đang chực lăm le bắt bẻ tôi.
Thái Doãn Hiểu (theo buikimanh.vn)
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen