NHÂN VẬT VIỆT CỘNG Số 2:
LÊ DUẨN (1907-86)
Sinh tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị, cha làm thợ mộc.
Duẩn còn có tên là Lê Văn Duẩn, Lê Văn Nhuận, là nhân
viên hỏa xa ga xép (bán vé? bẻ ghi?).
1928 Duẩn tham gia Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Ðồng
Chí Hội. Năm 1930 là một trong những đảng viên lớp đầu của Ðảng Cộng Sản Ðông
Dương.
Duẩn đã giữ nhiều chức vụ quan trọng. Năm 1931 là ủy
viên xứ ủy Bắc Kỳ, bị Pháp bắt tại Hải Phòng, kết án 20 năm tù cấm cố. Năm 1936
được trả tự do và giữ chức bí thư xứ ủy Trung Kỳ (1937-39), ủy viên thường vụ
lâm thời trung ương đảng (1939-40). Năm 1940 lại bị Pháp bắt ở Sài Gòn đày đi
Côn Ðảo cho đến khi cộng sản cướp được chính quyền đưa về Sài Gòn. Tháng 9,
1945 Duẩn được Hồ Chí Minh gọi ra Hà Nội. Cuối 1946, Hồ Chí Minh cử Duẩn trực
tiếp lãnh đạo "kháng chiến" Nam Bộ, giữ chức bí thư xứ ủy, rồi năm
năm sau, khi trung ương cục Miền Nam (bao gồm Nam Bộ và Cao Miên) thành lập, Duẩn
giữ chức bí thư.
Sau Hiệp Ðịnh Geneva, Duẩn ở lại Miền Nam. Ðầu năm
1957, Trường Chinh bị thất sủng, Duẩn được gọi ra Bắc, tháp tùng Hồ Chí Minh đi
Moskva vào tháng 10 và bắt đầu lên chân. Năm 1958, Duẩn vào Nam thị sát, đưa đến
Quyết Ðịnh 15 tháng 5/1959 xâm lăng Miền Nam bằng võ lực. Và tại Ðại Hội Ðảng Lần
Thứ Ba (1960), Duẩn được Hồ Chí Minh cho giữ chức bí thư thứ nhất.
Có lẽ vì hoạt động nhiều tại Nam Bộ, Duẩn nghiêng về
phe cộng sản Miền Nam. Sau 1975, bắt buộc phải lựa chọn giữa hai đàn anh, Duẩn
theo Nga Xô, đưa đến các lộn xộn tại biên giới.
Ngày 23-11-78, Duẩn ký với Nga Xô hiệp ước liên minh
quân sự rồi xua quân qua đánh Cao Miên. Ðầu năm 1979, Ðặng Tiểu Bình, sau khi
qua Mỹ, quyết định "dạy Hà Nội một bài học", kéo quân qua biên giới
hơn 20 cây số tàn phá các công sở, cầu cống, quặng mỏ rồi rút về.
Duẩn giữ chức tổng bí thư từ năm 1976 cho đến khi chết
tại Hà Nội ngày 10-7-1986, thọ 79 tuổi.
Ông được Ðảng và Nhà Nước Việt Nam cùng các nước
"xã hội chủ nghĩa" tặng nhiều huân chương, trong đó có huân chương
Sao Vàng và giải thưởng Lenin.
Chuyện Bên Lề: Lê Duẩn được các đảng viên suy tôn là
Hồ Chí Minh của Miền Nam, nhưng Duẩn khác "Bác" ở điểm là không giấu
giếm chuyện vợ nọ con kia.
Chính thức, Duẩn có bà vợ tấm mẳn cùng quê hương, bán
cá tại chợ Triệu Phong. Nhưng khi "cách mạng thành công", được Hồ Chí
Minh giao cho Miền Nam, được thuộc cấp tiến cống, Duẩn cặp một cô nữ sinh trẻ
măng.
Cô này thực ra là con nhà dòng dõi, nổi tiếng hoa
khôi. Nhưng thời loạn, Nguyễn Văn Trấn hồi đó phụ trách cảnh sát công an, chém
giết, hãm hiếp thả giàn. Cô bị Trấn hiếp và giữ làm vật sở hữu. Khi Duẩn vô, Trấn
lập công bằng cách ép cô lấy thượng cấp y, thí dỗ rằng tuy Duẩn lớn tuổi, xí
trai nhưng vì bận... tranh đấu, tù đày nên vẫn còn tơ.
Trong tình cảnh đó, hẳn cô nghĩ thà làm vợ chính thức
một lãnh tụ còn hơn là công cụ của thằng cướp của giết người. Và thế là có con
có cái với nhau đàng hoàng. (Một con chính là Lê Thị Phương Anh du học Liên Xô
và lấy một giáo sư người Nga). Ðến khi Duẩn được Bác gọi ra cho làm bí thư thứ
nhất, thì cùng ra.
Lúc đó bà lớn ở Triệu Phong mới mò ra Hà Nội, đánh bà
nhỏ một trận, xé quần xé áo tô hô. Duẩn phải mang bà nhỏ xuống Hải Phòng. Những
tưởng yên chuyện. Ai ngờ nơi đây bà nhỏ hận đời, cặp với anh chàng phó tổng
biên tập báo Hải Phòng Kiến Thiết, rồi thỉnh thoảng bà lớn lại tới làm một trận.
Duẩn đành phải gửi bà nhỏ sang Bắc Kinh, công tác tại sứ quán, lâu lâu nhảy máy
bay tới... tham quan. Và cũng có lẽ vì quí phi hận anh lưu manh Nguyễn Văn Trấn,
cấm đoán Duẩn, nên khi Duẩn nhiều quyền thế, mà không hề ban cho Trấn một chức
vụ gì ra hồn, vẫn cứ là "giảng viên thường trực" của Trường Ðại Học
Nhân Dân không có thày, không có trò, cho nên sau này Trấn viết cuốn Viết Cho Mẹ
Và Quốc Hội... chê chế độ!
Còn tại sao Duẩn không giám trừng trị anh chàng phó tổng
to gan, lớn mật? Là vì anh này là đàn em của Trường Chinh.
Sau "chiến thắng Ðiện Biên", tuy là công tướng
Tàu, pháo binh Tàu, hỏa tiễn Nga, biển người Việt nhưng quân lính và dân chúng
vẫn cứ nghĩ là tướng Giáp có tài. Hồ đâm hoảng, sợ cái việc âm binh vật phù thủy,
bèn nâng Nguyễn Chí Thanh lên, đẩy Giáp ngồi một xó. Rồi bày ra trò cho Trường
Chinh và Lê Duẩn kình nhau, cân bằng lực lượng, để Hồ yên vị.
Khoảng 1960, Duẩn có luẩn quẩn ở Miền Nam, yên trí
vào sự bố trí của cán bộ nằm vùng nên về Vùng IV họp, không ngờ bị phát giác và
bị bắt. May thay, lúc này ông Diệm chủ trương không bắt Việt Cộng, ra lệnh thả.
Thế là Hồ đang buồn bỗng hóa vui, còn Trường Chinh đang vui đâm ra... buồn! Phần...
tham quan, có lẽ Duẩn muốn chứng tỏ với Hồ là tiết kiệm cho công quỹ quốc gia,
nên "người" đành tuyển thêm một bà ba tại quốc nội, ngoài những bà
không chính thức.
LÊ ÐỨC THỌ (1911-91) Tên thật là Phan Ðình Khải, người
làng Ðịch Lễ, tổng Ðồng Phù, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Ðịnh, con hương chức Phan
Ðình Quế và bà Ðinh Thị Hoàng.
Thọ có học vài năm trung học cấp I tại trường Thành
Chung Nam Ðịnh (école Primaire Supérieure de Namdinh), cùng thời với Trường
Chinh, tham gia bãi khóa xin ân xá cho cụ Phan Bội Châu cũng như truy điệu cụ
Phan Chu Trinh (1925-26), bị đuổi học, hoạt động cho cộng sản, từ 1931 đến
1945, bị bắt nhiều lần nên quen biết với các đảng viên cả Trung Nam Bắc.
Tháng 3, 1945, Nhật lật đổ Pháp, Thọ được ân xá. Ðầu
tháng 8, được Trường Chinh gọi lên Tân Trào tham dự hội nghị chuẩn bị lật đổ
chính phủ Trần Trọng Kim.
Năm 1949, Thọ được Hồ Chí Minh phái vào Nam, đại diện
Tổng Bộ Việt Minh. Năm 1950-51, Thọ phụ tá Lê Duẩn tổ chức Trung Ương Cục Miền
Nam. Trong dịp này, cũng có chính sách chỉnh đảng, Lê Duẩn ra Bắc khai báo. Thọ
lên nắm chức bí thư Trung Ương Cục Miền Nam.
Từ cuối thập niên 1950, với phương vị Trưởng Ban Tổ
Chức Ðảng, Thọ giúp đỡ đắc lực bí thư thứ nhất Lê Duẩn trong việc tranh chấp
quyền lực.
Trong hòa đàm Paris, từ 1968 tới 1973, Thọ là cố vấn
tối cao của trưởng phái đoàn Xuân Thủy (Nguyễn Trọng Nhân), chuyên thương thuyết
mật với Kissinger, cố vấn an ninh của Nixon, và được giải thưởng hòa bình Nobel
chung. Tuy nhiên Thọ, hơn Kissinger về liêm sỉ tối thiểu, từ chối không lãnh.
Tháng 4, 1975, Thọ vào Nam với tư cách đại diện Bộ
Chính Trị trong trận vây đánh Sài Gòn. Thọ bị mất chức Trưởng Ban Tổ Chức năm
1980 và bị lu mờ, mãi khi Lê Duẩn mắc bệnh nặng, Thọ mới được tái xuất hiện. Là
tại Duẩn biết Thọ manh tâm dùng Lê Ðức Anh xua quân chiếm Cao Miên và Lào, để rồi
nhảy lên làm chủ tịch Liên Bang Ðông Dương, trong khi Duẩn mới chỉ là chủ tịch
có Việt Nam mà thôi. Tham vọng này của Thọ sơ sơ khiến cỡ 52,000 thanh niên Việt
chết cộng khoảng 200,000 bị thương tật.
Tại Ðại Hội Kỳ VI, vào tháng 12, 1986, Thọ biết thế yếu,
ép Trường Chinh và Phạm Văn Ðồng cùng "tự nguyện" không ra tranh cử.
Thọ té chết năm 1991, lúc 80 tuổi.
Chuyện Bên Lề: Thọ bị gán cho tội trù dập nhiều đồng
chí cố cựu, nổi danh... Sáu Búa, đặc biệt trong vụ gọi là "xét lại chống đảng".
Thực ra chỉ là do, vào năm 1956, tại Ðại Hội Ðảng Cộng
Sản Liên Xô Lần Thứ XX, Khrushchev tố cáo tệ nạn sùng bái cá nhân của Stalin và
kêu gọi sửa sai. Thế là thế giới xã hội chủ nghĩa "Nhà Bè nước chảy chia
hai". Nga "xét lại, đi vào con đường tư bản". Tàu cương quyết
"bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lenin".
Ở Việt Nam, quí vị cộng sản chưa bằng lòng với chức vụ,
địa vị hiện hữu ngỡ rằng cơ hội tới tay, nhấp nhổm chọn quan thày. Riêng Bác,
Bác đâu có chịu dẹp chuyện sùng bái Bác. Thì hẳn Bác đồng ý với Tàu. Nhưng Bác
lại cũng cần sự "viện trợ" của Nga Xô. Thành ra bề ngoài Bác lửng lơ
con cá vàng, nhưng bên trong, Bác mặc nhiên khuyến khích việc thanh trừng đám
theo Nga. Giản dị chỉ có thế. Chứ lấy đâu ra chuyện tranh đấu cho tự do dân chủ,
dân sinh hạnh phúc như sau này quí vị đó rêu rao. Nếu nghĩ đến dân đến nước, việc
gì phải chờ Khrushchev, là kẻ cùng thế hệ (sinh năm 1894), nhưng chỉ sống và
trưởng thành trong xã hội lạc hậu phong kiến của Xa Hoàng và bức màn sắt bưng
bít của Lê Xít, trong khi quí vị này sinh ra và lớn lên thấm nhuần văn hóa tự
do, dân chủ phóng khoáng của tây phương?
Gia đình Sáu Búa có lẽ là gia đình duy nhất có nhiều
người là đảng viên cộng sản. Ngoại trừ anh em họ, Sáu Búa có ba người em ruột
cùng làm lớn. Ðó là hai em trai Ðinh Ðức Thiện (Phan Ðình Dinh), thượng tướng bộ
trưởng Bộ Công Nghiệp Nặng, tổng cục trưởng Cục Dầu Khí; Mai Chí Thọ (Phan Ðình
Ðống), đại tướng công an và một em gái Lê Thanh Bình.
Thiên hạ đồn rằng ông Phan Ðình Quế được chôn vào huyệt
"Lỗ Ao", bạo phát bạo tàn, chỉ được một đời mà thôi.
Trích : Chương 18 của Tác giả: Vũ Thư Hiên
Cái làm cho tôi suy nghĩ nhiều hơn cả trong những
ngày tù đầu tiên là : lý do gì đã làm cho Lê Duẩn cấu kết với Lê Ðức Thọ trong
việc làm bất minh, thậm chí không hợp với tính cách anh chị của Lê Duẩn là vu vạ
để trấn áp những người chưa từng chống lại họ ? Không phải lúc nào khác, mà lúc
này ?
Tôi biết quá ít về tổng bí thư Lê Duẩn. Tôi không có
dịp gần gụi nhà lãnh đạo nổi tiếng quyết đoán để có nhận định riêng. Những nhận
xét của người khác về nhân vật lịch sử này không làm tôi hài lòng. Con người
trong đời thường bao giờ cũng thật hơn, đúng hơn, giống họ hơn nhìn họ trong trạng
thái trưng diễn.
Tôi chỉ là nhà báo ở cấp bậc cuối cùng trong nấc
thang đánh giá cán bộ theo mức độ tin tưởng của Ðảng. Trong số rất ít phóng
viên được thoải mái ra vào cung đình chỉ có Thép Mới(1) là người gần Lê Duẩn
hơn cả. Trong kháng chiến chống Pháp anh cũng được Trường Chinh sủng ái. Các
nhà lãnh đạo có thói quen không dùng đệ tử của người tiền nhiệm, thế mà Lê Duẩn
vẫn tiếp tục sử dụng Thép Mới, đủ hiểu Lê Duẩn tín nhiệm anh thế nào. Một mình
anh được Lê Duẩn dành cho cái vinh dự không ai có được là chấp bút cuốn Thời Thắng
Mỹ. Ðó là bản anh hùng ca xưng tụng vị tổng bí thư anh minh một mình một ngựa
lãnh đạo cuộc kháng chiến tới ngày toàn thắng. Hình ảnh Hồ Chí Minh, Phạm Văn Ðồng,
Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh trong cuốn sách nhập nhòa như mấy cọng tầm gửi.
Cuốn sách gây ra nhiều tranh cãi. Người ta nói nó bóp
méo lịch sử.
Những người gần Lê Duẩn nói rằng bệnh "kiêu ngạo
cộng sản" trong con người Lê Duẩn đã có ngay từ khi Lê Duẩn nắm quyền lãnh
đạo tại miền Nam. Cộng với bệnh "kiêu ngạo cộng sản" là bệnh độc tài,
độc đoán, coi thường quần chúng.
Song song với Thời Thắng Mỹ. trong những năm sau chiến
tranh có cuốn Ðại Thắng Mùa Xuân của đại tướng Văn Tiến Dũng do Hồng Hà, em ruột
Thép Mới, sau làm tổng biên tập báo Nhân dân chấp bút. Cuốn này bị các nhà lãnh
đạo phê phán mạnh mẽ tuy nó cũng giống Thời Thắng Mỹ ở chỗ ca ngợi chính tác giả
trong chiến thắng. Cái Lê Duẩn làm được thì Văn Tiến Dũng không được phép. Một
cuốn khác của đại tướng Hoàng Văn Thái, hồi ký Những Năm Tháng Quyết Ðịnh, được
cả chính giới và người đọc bình thường đánh giá là nghiêm túc. Vai trò nhân dân
được nhắc đến nhiều hơn cả trong cuốn Kết Thúc 30 Năm Chiến Tranh của Trần Văn
Trà. Những sĩ quan có mặt trong suốt cuộc chiến cho nó là cuốn sách chân thực
nhất, trong đó tác giả muốn nhìn lại và khách quan đánh giá các sự kiện chứ
không phải muốn khoe mẽ. Cuốn sách vừa in ra đã bị Lê Ðức Thọ cấm lưu
hành.
Tôi có lần gặp thượng tướng Trà tại nhà riêng của
ông, khi viên tư lệnh trận đánh chiếm Sài Gòn đang cùng các ông Nguyễn Hộ, Tạ
Bá Tòng dùng Câu lạc bộ những người Kháng chiến cũ đấu tranh cho đổi mới, đòi mở
rộng tự do dân chủ. Cuộc gặp gỡ tại nhà riêng của ông ở đường Pasteur để lại
trong tôi ấn tượng dễ chịu - Trần Văn Trà chính là nhà lãnh đạo mà những người
cộng sản cấp tiến muốn có. Ông biết nghe, biết tranh luận bình đẳng, biết rút
lui ý kiến trước lẽ phải. Tiếc thay, như đối với những người bình thường bỗng nổi
bật lên một cách không ngờ tới trong những tình huống không dự kiến, Lê Duẩn và
Lê Ðức Thọ không ưa Trần Văn Trà. Họ bèn cho ông ngồi chơi xơi nước.
Tướng Trà đã được giới thiệu trước tôi là ai, ông nói
ông không hề biết gì về vụ trấn áp "nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng"
ở miền Bắc, khi xảy ra vụ án ông đang bận tổ chức đường dây trên biển để chuyển
vũ khí vào Nam. Ông đòi tôi kể cho ông nghe về vụ án, tôi chỉ kể qua, tôi đã
ngán kể về nó. Ông nói hồi ấy ông cũng nghe có một thông báo vắn tắt của Trung
ương, ông không ngờ sự việc lại trầm trọng như vậy. Ông rủ tôi tham gia tờ Truyền
Thống Kháng Chiến. Tôi nói tôi không tin những tiếng nói trung thực sẽ được lắng
nghe. Ðiều tôi tin chắc là tờ báo sẽ bị đóng cửa, không nay thì mai, và những
người làm báo không thể tránh khỏi bị khủng bố, là điều ông cần tiên liệu,
không nên để xảy ra. Tướng Trà không đồng ý với tôi. Ông cho rằng bây giờ tình
hình đã khác trước, bây giờ Ðảng đã thấy cần thiết phải có sự góp ý với Ðảng của
nhiều người nhằm mau chóng xây dựng lại đất nước.
Những chuyện xảy ra sau đó chứng tỏ cái nhìn không lạc
quan của tôi là đúng. Tờ Truyền Thống Kháng Chiến bị cấm, những người chủ
trương tờ báo bị làm khó dễ, thậm chí bị bắt. Về sau không hiểu tại sao chính
tướng Trà lại ra tuyên bố lên án tờ Truyền Thống Kháng Chiến. Việc này, dù ông
làm trong tình thế bị ép buộc, đã làm vấy bẩn danh tiếng của ông.
Tôi có gặp lại Thép Mới vài lần sau khi anh rời miền
Bắc vào sống hẳn trong Sài Gòn, khoảng cuối những năm 80. Nghe nhiều người chê
Thời Thắng Mỹ về sự không trung thực, tôi hỏi anh nghĩ gì về dư luận đó. Ðang
vui chuyện, Thép Mới quay ra nhìn tôi như nhìn một thằng bới móc. Sau khi tin rằng
tôi không có ý xấu, Thép Mới vui vẻ trở lại, anh mỉm cười tội nghiệp :"Cậu
chưa viết theo com-măng(2) bao giờ à ?". Rõ ràng anh không muốn thừa nhận
đứa con tinh thần đã trót dại đẻ ra.
Thép Mới từng là một nhà báo tài ba. Tôi đọc bản dịch
tuyệt hay cuốn Thời Gian ỷng Hộ Chúng Ta của Ilya Erenburg do Thép Mới dịch
trong kháng chiến chống Pháp. Chúng tôi, những người lính trẻ, coi Thép Mới như
thần tượng. Tôi quen Thép Mới từ ngày đó. Năm 1956 chúng tôi gặp lại nhau tại
Moskva. To béo hơn trước, không còn vẻ ngượng ngùng khi hỏi người khác về văn
phong của mình, Thép Mới hỏi tôi có đọc mấy bài báo anh mới viết hay không. Tôi
không tiện nói với anh về cảm giác của tôi - những bài báo của Thép Mới mỗi
ngày một oang oang, với những câu chữ sáo rỗng. Thép trong anh rỉ rồi. Thép Mới
cho tôi biết anh vừa cưới vợ. Vợ anh hóa ra là một bạn gái thời học trò của
tôi. Chúng tôi uống rượu mừng ngay trong phòng anh tại khách sạn Belgrad. Ba
mươi năm sau, anh già xọm, mắt mờ, má chảy xệ, đã bỏ vợ, đã lấy vợ mới, nhưng
chẳng có gì để khoe.
Kể cũng nên nói vài dòng ở đây về cái sự phỏng vấn
lãnh tụ. Thường thì chẳng có báo nào tự dưng phỏng vấn các vị. Nếu có nhu cầu
quảng bá ý kiến của nhà lãnh đạo Ðảng thì văn phòng lãnh tụ tự sáng tác ra một
cuộc phỏng vấn rồi gửi nó cho báo Ðảng. Các báo khác sẽ đăng lại bài này. Còn
khi có phóng viên nước ngoài xin phỏng vấn thì anh ta sẽ được mời tới gặp lãnh
tụ, hai bên nói chuyện tầm phào một lát, chụp ảnh chung, những câu phỏng vấn được
để lại, những câu trả lời anh ta sẽ nhận sau. Những bài phỏng vấn của Winfred
Burchet(3) gửi đi từ Hà Nội những năm chiến tranh được chế tạo đúng như thế.
Trong khi chờ đợi, Burchet tối tối đi uống rượu mời ở Métropole hoặc Splendid
(Hòa bình), hoặc đi ăn chim quay với Nguyễn Tuân ở phố Tạ Hiền. Bài phỏng vấn rồi
được gửi đi bằng télex của Việt Nam Thông tấn xã, không mất tiền.
Người ta phải làm như vậy vì các vị lãnh tụ sợ nói ngẫu
hứng dễ bị hớ. Ðem so bài nói chuyện của Lê Duẩn với cũng bài ấy được đăng trên
tờ Nhân dân thì thấy chúng khác nhau một trời một vực. Tôi được nghe Lê Duẩn
vài lần, cảm giác của tôi là chán. Bài nói cương giọng bình dân, đôi khi lăng
nhăng, lẩm cẩm đến nỗi người nghe không hiểu ông tổng định nói gì, thế nhưng
bài đăng báo thì đặc giọng hàn lâm, với rất nhiều trích dẫn các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác. Sau mới biết những viên thư ký của lãnh tụ là tác giả.
Theo lời kể của những người biết gốc gác đương kim tổng
bí thư thì Lê Duẩn quê ở Triệu Phong, Quảng Trị, con một gia đình khá giả. Lê
Duẩn đã học qua bậc tiểu học, có hồi làm đường sắt, giữ chân bẻ ghi, những người
tâng bốc gọi là thư ký hỏa xa. Cũng theo họ, từ nhỏ ông tỏ ra có tư chất thông
minh. Thông minh như thế nào thì họ dẫn ra nhiều chuyện làm bằng, tiếc thay, những
bằng chứng ấy lại không chứng tỏ một hệ số thông minh cao đáng kể. Ðành phải mở
một cái ngoặc đơn để nói rằng người Việt ta thường hay lầm lẫn hai khái niệm
thông minh và láu cá. Chúng có ranh giới khá nhòe nhoẹt. Người thông minh thường
không làm nổi cái mà kẻ láu cá làm được. Ngược lại, tên láu cá có gắng mấy cũng
không nghĩ ra cái mà bộ óc thông minh có.
Ðược trực tiếp gặp gỡ các nhà cách mạng Việt Nam, được
quan sát họ ở khoảng cách gần, tôi hiểu họ là ai. Phần nhiều họ là những người
yêu nước, xuất thân từ những tầng lớp dưới, do ý thức được thân phận nô lệ mà
theo chân các nghĩa sĩ Cần vương, Ðông kinh Nghĩa thục và những người cách mạng
lớp đàn em có xu hướng cộng sản. Trước khi vào Ðảng cộng sản họ là thành viên của
các tổ chức Thanh niên Cách mạng Ðồng chí hội, Tân Việt cách mạng đảng, Ðông
Dương Cộng sản Liên đoàn. Kiến thức học đường của họ gồm có một chút chữ Hán, một
chút quốc ngữ, cả hai chút này không đủ dùng cho sự tiếp cận triết học phương
Tây, mà chủ nghĩa Mác lại bắt nguồn từ đó, với phép biện chứng Hégel làm cơ sở.
Những tác phẩm chính bản của Mác và Engels chưa từng tới Việt Nam trong thời kỳ
thuộc Pháp. Những người có học nhất trong những nhà mác-xít Việt Nam chỉ được
tiếp xúc với chủ nghĩa Mác qua những cuốn giáo trình nhập môn. Lác đác có vài
người được đọc dăm ba cuốn khảo cứu nghiêm túc chủ nghĩa Mác bằng tiếng Pháp.
Trường Chinh là một trong những người hiếm hoi đó.
Chủ nghĩa Mác thường được nói tới ở Việt Nam thực chất
là chủ nghĩa Lênin, hay là chủ nghĩa Mác theo cách diễn dịch của Lênin, tước bỏ
phần khoa học (nghiên cứu về hàng hóa trong chủ nghĩa tư bản, về giá trị và giá
trị thặng dư), nhấn mạnh khía cạnh cách mạng bạo lực, đấu tranh giai cấp và
chuyên chính vô sản. Những khía cạnh này cũng không được Ðảng nói tới trong thời
kỳ bí mật. Thời kỳ đó Ðảng chỉ nói nhiều tới đấu tranh phản đế, giành độc lập.
Cướp được chính quyền rồi, thiết lập nhà nước Cộng hòa Dân chủ rồi, bước vào cuộc
kháng chiến chống Pháp rồi người ta cũng chưa nói tới. Chỉ sau khi đã ăn sống
nuốt tươi chủ nghĩa Mao người ta mới nhấn mạnh mấy thứ đó.
Chủ nghĩa Lênin là do Stalin đặt ra, từ léninisme là
do Stalin dùng đầu tiên, để trình bày không phải tư tưởng của Mác về thủ tiêu
chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội cộng sản, mà là quan điểm của Sta-lin về những
vấn đề này, cho nên gọi là chủ nghĩa Stalin mới đúng. Những nhà nghiên cứu chủ
nghĩa Mác ở Việt Nam chỉ được tiếp xúc với những ấn phẩm do Liên Xô cung cấp.
Những trước tác thời Mác trẻ ít được biết đến. Nguyên do là chúng không được giới
học giả Liên Xô quan tâm, hoặc giả họ biết đấy nhưng không dám nêu lên những luận
điểm yêu tự do ngỗ ngược của Mác, là những cái không hợp ý Stalin. Hậu quả là
những nhà nghiên cứu đàn em không có sách để đọc. Trong Mác có hai con người,
Mác trẻ và Mác già. Mác trẻ là người dân chủ và thực tiễn, Mác già thiên về tư
biện, mà là tư biện khiên cưỡng, ý muốn thuyết phục đi trước sự lý giải cần
có.
Cả hai cái đó - chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lênin hiểu
đúng và hiểu không đúng, đều không phải là chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. ê Việt
Nam có một chủ nghĩa cộng sản không dính dáng gì tới Mác hoặc Lênin hết. Nó là
chủ nghĩa cộng sản bình dân. Nó kêu gọi đấu tranh cho một xã hội không có người
bóc lột người, một cuộc sống tự do, công bằng và hạnh phúc, một địa cầu không
biên giới. Ðó chính là chủ nghĩa cộng sản mà cha mẹ tôi theo, là cái mà ông bà
muốn trao lại cho chúng tôi. Chủ nghĩa cộng sản này còn giữ tên gọi cũ hay mang
tên mới trong tương lai, theo tôi nghĩ, sẽ mãi mãi còn với loài người với tư
cách một ước mơ. Chính chủ nghĩa Mác dung tục và thô thiển, chứ không phải chủ
nghĩa Mác hàn lâm hoặc chủ nghĩa Mác cường đạo, mới là cái hữu ích cho phong
trào giải phóng dân tộc. Hấp lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Có người nô lệ yêu nước
nào lại từ chối một viễn cảnh huy hoàng như thế ? Vào thời cha mẹ tôi phần lớn
những người cách mạng đều tự hào nhận mình là cộng sản. Chính sự lầm lẫn này về
sau đã sinh ra một nghịch lý : những nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam thường tỏ
ra là những chiến sĩ tài ba khi họ ít được học chủ nghĩa Mác, còn khi bập bõm
chủ nghĩa Mác rồi thì họ lại sa vào hết sai lầm này tới sai lầm khác.
Giữa hai cha con tôi đôi khi cũng có những cuộc trò
chuyện về lý thuyết cách mạng. Cha tôi nói rằng trong công tác bí mật bề bộn, vừa
phải lẩn trốn địch vừa vận động quần chúng, tổ chức và chắp nối các cơ sở cách
mạng (là công việc chính trong hoạt động của ông), ông không có thời giờ đọc hết
một tác phẩm nào của Mác hoặc Engels. Ông chỉ bắt đầu đọc Mác sau khi hòa bình
lập lại. Ðọc một cách vất vả. "Những cuốn sách quá khó hiểu đối với bố,
ông nói. Bố ít học, lại không có năng khiếu về triết. Xét cho cùng, bố chỉ có
thể là con kiến thợ của cách mạng mà thôi. Cho nên thế hệ các con có điều kiện
để nghiên cứu thì ráng nghiên cứu cho kỹ các lý thuyết xã hội học. Lý thuyết là
lý thuyết, nó không thay thế được thực tiễn, nhưng không thể bỏ qua không
nghiên cứu những gì các thế hệ đi trước nếu không muốn sa vào những sai lầm lẽ
ra có thể tránh được". Người thường giảng cho cha tôi nghe về triết học là
ông Trần Ðức Thảo(4). Ông đến ăn cơm với cha tôi, bộ quần áo nhàu nát nhiều
ngày không giặt và bốc mùi, say sưa nói về những vấn đề thuộc những tầng trời
xa lắc. Xong bữa, ông chiếu cố bước xuống trần thế, giải thích cho cha tôi những
khái niệm của Mác, thỉnh thoảng lại chêm vào những lời bình chướng tai đối với
tư tưởng chính thống đang ngự trị trong Ðảng cộng sản. Cha tôi chăm chú nghe,
chỗ nào chưa hiểu, ông hỏi lại. Cha tôi kém hiểu biết, nhưng ông không giáo điều.
Ông thường lấy hình ảnh con ngựa nhà đòn, với hai miếng da che mắt, chỉ nhìn thấy
một đường để khuyên chúng tôi không được nhìn một chiều, nghe một tiếng.
Tôi hiểu các nhà lãnh đạo qua cha tôi. Phần lớn họ
thuộc thế hệ cha tôi, trạc tuổi cha tôi. Họ có tiểu sử na ná như nhau, tất cả đều
là những người yêu nước trước khi thành cộng sản. Họ nhập vào hàng ngũ cộng sản
mà không hiểu chủ nghĩa cộng sản là gì. Chỉ cần biết chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn
một tương lai tốt đẹp cho công cuộc giải phóng dân tộc là đủ. Trong đám đồng
chí của mình cha tôi thuộc số ít những người tương đối có học, vậy mà ông còn
phải thú nhận sự dốt nát của ông về học thuyết cộng sản. Ðủ thấy những người
kia cũng chẳng hiểu biết hơn ông bao nhiêu, nếu như trời không phú cho cho họ
trí thông minh lớn hơn. Bi kịch xảy ra cho cha tôi bắt nguồn từ đây - do ý thức
được sự dốt nát của mình, ông chịu khó đọc, chịu khó học, để rồi kiến thức mà
ông thu lượm được cuối cùng lại tách ông khỏi những đồng chí tự thị.
Lê Duẩn sớm tham gia các hoạt động chống Pháp, được
các bậc cách mạng đàn anh dìu dắt vào đường cộng sản, có thời đã làm bí thư xứ ủy
Trung kỳ, tham gia khởi nghĩa Nam kỳ, từng bị đi đầy Côn đảo. Theo nhận xét của
các ông Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm thì Lê Duẩn là người cực đoan về tính
cách, phóng túng trong hành xử. Ngay tại Côn Ðảo, nơi những người tù không phân
biệt xu hướng phải nương tựa nhau để chống lại kẻ thù chung, Lê Duẩn không chịu
hòa hợp với những người yêu nước không cộng sản khác - những người tờ-rốt-kít,
những đảng viên Quốc dân đảng. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Lê Duẩn còn
lâu mới được coi là ngang hàng với những nhân vật nổi tiếng trong phong trào
cách mạng miền Nam như Trần Văn Giàu, Phạm Văn Bạch, Dương Bạch Mai...Những nhà
cách mạng trí thức khi ra Hà Nội họp Quốc Hội và tham gia chính phủ đoàn kết
dân tộc với tư cách đại diện miền Nam thành đồng bị kẹt lại ở miền Bắc vào thời
điểm cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Vắng mặt họ Lê Duẩn mới dần dần từ những
chức vụ khiêm tốn bước lên địa vị người lãnh đạo kháng chiến Nam bộ.
Cần phải thừa nhận rằng Lê Duẩn là người lãnh đạo giỏi.
Những người bạn miền Nam tập kết của tôi nói về "anh Ba Duẩn" với giọng
kính trọng và tự hào. Niềm tự hào này kéo dài không lâu. Sau khi "anh
Ba" trở thành tổng bí thư, ông không làm gì được cho họ hơn là đẩy họ tới
những miền hoang vu để khai hoang, lập ra các nông trường, khuyến dụ họ họp
thành những tập đoàn sản xuất nhỏ nhoi để tự nuôi thân. Ðến lúc ấy thì họ giận
dữ. Khi con người nổi giận thì lẽ công bằng không còn nữa. Thay vì ca ngợi họ
nguyền rủa ông. Tôi tin niềm tự hào trước kia của họ hơn những lời nguyền rủa
sau này. Lê Duẩn hay bất kỳ ai khác ở địa vị ông đều không thể làm gì hơn cho
những người từ miền Nam màu mỡ ra miền Bắc nghèo khổ vừa bước ra khỏi cuộc chiến
tranh kéo dài chín năm.
Bằng vào những câu chuyện kể của họ khi họ còn ngưỡng
mộ "anh Ba" thì Lê Duẩn là người độc lập trong suy nghĩ, có biệt tài
tổ chức, trong chỉ đạo có vẻ chặt chẽ nhưng lại linh hoạt, thoáng đấy mà nghiêm
đấy. Hồi kháng chiến chống Pháp, mặc dầu ở xa Trung ương, những chủ trương chủ
trương của ông đề ra vẫn khớp với chủ trương của Trung ương trong mọi mặt. Người
ta sùng bái ông, gọi ông là Cụ Hồ miền Nam.
Thật vậy, trong một số lĩnh vực Lê Duẩn không sao
chép những chủ trương của Trung ương Ðảng đóng trong rừng già Việt Bắc mà làm
theo cách của mình. Trong khi miền Bắc được sự chỉ đạo trực tiếp của các cố vấn
Trung Quốc ầm ầm bước vào Cải cách ruộng đất theo hình mẫu Cải cách thổ địa của
Trung Quốc thì ở miền Nam Lê Duẩn kiên quyết không cho tiến hành Cải cách ruộng
đất, tránh cho cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Nam những tổn thất chắc chắn
là rất lớn. Một sự cưỡng lại cấp trên như thế không thể làm cho tổng bí thư Trường
Chinh hài lòng.
Hiệp nghị Genève 1954 chia nước Việt Nam thành hai miền
Nam Bắc. Tại Ðại hội Ðảng lao động Việt Nam lần thứ III năm 1960, trước sự sa
sút trầm trọng uy tín của Ðảng vì những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, và
cũng để xoa dịu nỗi bất bình trong quần chúng, chức vụ tổng bí thư do chủ tịch
Ðảng Hồ Chí Minh tạm kiêm nhiệm một thời gian nay được chính thức trao cho Lê
Duẩn(5).
Mọi người đều ngạc nhiên trước kết quả của Ðại hội.
Trong kháng chiến chống Pháp Võ Nguyên Giáp là nhân vật lãnh đạo đứng hàng thứ
ba, chỉ sau có Hồ Chí Minh và Trường Chinh. Trường Chinh ra đi, chức tổng bí
thư mặc nhiên phải thuộc về Võ Nguyên Giáp, ai chả nghĩ thế. Nhưng sự đời lại
diễn ra theo cách khác. Theo nhận xét của những người cộng sản thuộc thế hệ đầu
tiên thì cả Hồ Chí Minh lẫn Trường Chinh đều lo ngại ông tướng đã có quá nhiều
vinh quang sẽ trở nên không dễ bảo sau cuộc đảo lộn ngôi thứ. Mà cả Hồ Chí Minh
lẫn Trường Chinh đều muốn giữ lại vị trí trước kia của họ về thực chất, cho dù
danh nghĩa không còn. Cần phải chọn một người có vị trí và uy tín kém hơn Võ
Nguyên Giáp. Do biết ơn người cất nhắc mình, người đó sẽ vừa ngoan ngoãn vừa
trung thành. Lê Duẩn thích hợp hơn cả với vai trò đó. Trong điều kiện đất nước
chia hai, mà trước mắt là mục tiêu thống nhất đất nước thì đưa một người từng
lãnh đạo miền Nam lên làm tổng bí thư cũng là lý do dễ thuyết phục. Tôi tin
cách lý giải này hơn là cách lý giải của những người cho rằng Lê Duẩn được chọn
vì có thâm niên ở tù cao hơn tướng Giáp.
Ðó là may mắn trời cho đối với Lê Duẩn. Theo truyền
thống lãnh tụ suốt đời Trường Chinh sẽ chẳng bao giờ rời khỏi ghế tổng bí thư nếu
như không xảy ra những tổn thất rùng rợn chưa từng có trong lịch sử dân tộc.
Không phải những đồng chí nghiêm khắc trong Ðảng mà những oan hồn Cải cách ruộng
đất đã quật ngã không thương tiếc vị lãnh tụ đứng ở vị trí thứ hai trong Ðảng,
người mà chân dung đã được treo ở khắp các công sở, trong mọi nhà, được tung hô
vạn tuế không kém Hồ Chí Minh là mấy(6).
Nhưng cũng từ đây Lê Duẩn bắt đầu những sai lầm làm mất
đi uy tín đã có trong quần chúng, dù mới chỉ trên một phần đất nước.
Quyền lực là một thứ ma túy cực mạnh. Nó đã thấm vào
máu thì con người mất hết tỉnh táo.
Miền Bắc cho đến khi ấy hoàn toàn nằm trong tay lớp
cán bộ do Trường Chinh đào tạo. Tình hình này không thể không làm cho tân tổng
bí thư lo ngại. Như một kỵ sĩ bất ngờ phải nhảy lên lưng con ngựa của người
khác, Lê Duẩn lúng túng, lo con ngựa sẽ không phục tùng tay cương của chủ mới.
Cần phải tìm người tháo gỡ tình hình. Sự lựa chọn rơi vào Sáu Búa Lê Ðức Thọ.
Là người miền Bắc, được Trường Chinh cử vào Nam năm
1947 với tư cách ủy viên thường vụ Trung ương Ðảng để nắm Trung ương cục miền
Nam, nhưng Lê Ðức Thọ đã không một lần tranh được chức bí thư miền. Cũng có lúc
hục hặc với Lê Duẩn, nhưng sau đó ý thức được thân phận mình trên đất lạ, Lê Ðức
Thọ lại tìm sự liên minh với Ba Duẩn để trở thành Sáu Búa. Ðược bầu vào Bộ
Chính trị trong Ðại hội III, Lê Ðức Thọ chính thức giữ chức Trưởng ban Ban tổ
chức Trung ương (mặc dầu trước đó đã tạm nắm vài năm) thay cho Lê Văn Lương phải
ra đi do những sai lầm Chỉnh đốn tổ chức. Cái chuồng ngựa của Lê Văn Lương được
phá đi. Thay vào đó là một hệ thống tổ chức hoàn toàn mới.
Hệ thống này không biết do chính Thọ nghĩ ra hay do
quân sư nào mách nước, là đứa con lai mang hai dòng máu Gestapo-Stasi và Khang
Sinh (Kang Sheng)(7). Theo nguyên tắc mới của Thọ mọi việc tổ chức và nhân sự
nhất nhất phải qua sự kiểm tra của Ban tổ chức Trung ương. Mỗi đảng viên phải
làm lại lý lịch, căn cứ vào thành phần xuất thân và quá trình công tác mà được
ngành tổ chức đặt vào vị trí này hay vị trí khác. Thậm chí các đại biểu được
các cấp bộ đảng bầu ra để đi dự Ðại hội Ðảng cũng phải trải qua một kỳ kiểm tra
ngặt nghèo tư cách đại biểu. Với một quy chế như thế nền dân chủ trong Ðảng chỉ
là một nền dân chủ bị thiến. Nhưng về mặt khác thì đây thật là một tổ chức hoàn
hảo mà bất cứ tên độc tài nào cũng muốn có.
Sự lựa chọn của Lê Duẩn là sáng suốt. Không ai có thể
bằng Lê Ðức Thọ trong số những người miền Bắc đã nhiều năm làm việc ở miền Nam
dưới quyền Duẩn. Thêm nữa, được Lê Duẩn cất nhắc Thọ chắc chắn phải mang ơn Duẩn.
Thọ chính là người duy nhất cần có để tạo dựng một bộ máy cai trị vững chắc, loại
trừ ảnh hưởng của Trường Chinh.
Thọ không phụ lòng tin cậy của đàn anh. Một mặt, dưới
sự chỉ đạo của Thọ đội ngũ cán bộ mau chóng được sắp xếp lại theo ý muốn của Lê
Duẩn. Những người tỏ ra quá trung thành với Trường Chinh dần dần bị thuyên chuyển
khỏi những chức vụ quan trọng, thay chân họ là những đệ tử ruột của Thọ, tức của
Duẩn.
Sự cải cách bộ máy quyền lực vô hình trung đã đem lại
cho Thọ ảnh hưởng mỗi ngày một lớn, tạo ra một quyền lực nhị trùng trong thực tế.
Mặt này là mặt Lê Duẩn không lường trước.
Người ta ví triều đại Lê Duẩn như thời Vua Lê - Chúa
Trịnh. Vào những ngày lễ, ngày tết cứ trông số xe cộ đậu trước cung Vua và phủ
Chúa mà biết quyền lực thực sự nằm trong tay ai. Mọi quan chức trong Ðảng cũng
như trong chính quyền (mà hai cái chỉ là một) đều lệ thuộc ngành tổ chức có hệ
thống dọc từ Trung ương xuống đến cơ sở. Việc thuyên chuyển, bổ nhiệm, cách chức
nhất nhất đều liên quan trực tiếp tới Ban tổ chức Trung ương, mà người quyết định
tối hậu là Sáu Búa. Cho nên nếu số xe cộ đến chầu chực trước phủ Chúa có nhiều
hơn trước cung Vua cũng là chuyện thường tình.
Lê Duẩn hiểu ra cơ sự khá muộn màng. Vua Lê mới không
biết rằng Ban tổ chức Trung ương, hay phủ Chúa, quyền lực còn lớn hơn cả Vua.
Ban tổ chức Trung ương nhúng
tay vào mọi việc lớn nhỏ, sai phái mọi quan chức, chỉ
đạo các địa phương(8). Vì cơ quan tổ chức quan trọng như vậy cho nên các vụ trưởng
trong Ban tổ chức Trung ương được Thọ cho ăn lương (của Nhà nước) theo cấp
chuyên viên 9, nghĩa là ngang lương bộ trưởng các bộ quan trọng (bộ trưởng các
bộ làng nhàng chỉ ăn lương chuyên viên 7, chuyên viên 8).
Bên dưới Ban tổ chức Trung ương là Bộ Nội Vụ. Nó là bộ
máy thực hành trấn phản, được Thọ trao cho đệ tử ruột là Trần Quốc Hoàn. Tôi sẽ
nói tới mối quan hệ chủ tớ Thọ-Hoàn vào lúc khác. Nó là một chuyện thú vị,
không phải chuyện thọc mạch đời tư, nhờ đó ta thấy cơ cấu băng đảng trong một
nhà nước chuyên chế hình thành như thế nào.
Một hôm Hoàng Minh Chính đến chơi nhà Lê Ðức Thọ gặp lúc
Thọ đang nổi nóng vì một bà vụ trưởng. Bà ta đang vật nài thư ký riêng của Thọ
xin gặp Thọ.
- Con mẹ ngu hết chỗ nói ! - Thọ bực bội lớn tiếng
trong khi tiếp Hoàng Minh Chính - Nó lải nhải suốt, một xin Ðảng xét, hai xin Ðảng
xét. Mẹ kiếp, tao chưa có thời giờ xem lại nhân sự các Bộ, nó đã đâm đơn hết cửa
này đến cửa khác. Tao chưa duyệt thì đừng có hòng. Nó phải hiểu Ðảng là tao, là
tao đây này ! Còn đi xin ở chỗ nào nữa ?
Bà này, tất nhiên, đã tính sai. Rồi bà ta cũng được
làm thứ trưởng "Ba đảm đang"(9), Hoàng Minh Chính cho biết, sau một
cuộc tạ tội đầy nước mắt với "Anh Sáu".
Những đảng viên kỳ cựu biết bản chất của Thọ, thấy Thọ
nắm quá nhiều quyền lực, lại được Lê Duẩn ưu ái, lấy làm lo cho Ðảng, đặt mọi
hi vọng vào Trường Chinh, hi vọng cựu tổng bí thư sẽ tìm cách ngăn cản sự lộng
hành của Thọ.
Nhưng Trường Chinh hoặc không biết âm mưu sâu xa của
Thọ, hoặc ý thức được thế yếu của mình, luôn tỏ ra khiêm tốn và nhường nhịn,
khép nép đứng ké vào liên minh Duẩn-Thọ như một kẻ thua cuộc biết điều. Chí ít
thì người ta cũng không bao giờ thấy ông có thái độ khó chịu với kẻ đang chễm
chệ ngồi trên ngôi vị vốn dĩ thuộc về ông.
Cho đến lúc xảy ra vụ xung đột giữa hai đường lối
trong phong trào cộng sản quốc tế vị thế của Lê Duẩn đã vững lắm. Cũng vào thời
điểm này Lê Duẩn bắt đầu cảm thấy e ngại những ý kiến bất bình của các đảng
viên kỳ cựu đối với cách lãnh đạo tự quyền, phớt lờ những chuẩn mực sinh hoạt
dân chủ tối thiểu, của ông ta. Việc Lê Duẩn chống những nghị quyết của Ðại Hội
XX về thực chất là sự bảo vệ quyền lực độc tôn.
Cần phải chặn đứng trào lưu đòi tự do dân chủ âm ỉ đã
được Thọ phát hiện. Khẩu hiệu bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin là lá bài tốt. Nó cho
phép Ba Duẩn bóp chết mọi mưu toan phá hủy chế độ độc tài. Nó gìn giữ sự an
toàn của ngai vàng.
Nhưng không thể trắng trợn theo Bắc Kinh. Ðể chủ soái
vui lòng, các lý thuyết gia nội hóa múa bút tạo nên hệ lý thuyết riêng của Lê
Duẩn, gồm mấy điểm chủ chốt : một là xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên tinh thần
làm chủ tập thể, hai là tinh thần cách mạng tiến công - tiến công không ngừng,
tiến công liên tục, lấn tới từng bước, đánh đổ từng bộ phận của chủ nghĩa đế quốc
dựa trên sức mạnh kết hợp của ba dòng thác cách mạng. Với tư cách lý thuyết gia
hàng đầu của cách mạng Việt Nam, thái thượng hoàng hụt cũng ra công giúp rập Lê
Duẩn trong mưu toan trở thành một trong những nhà kinh điển mác-xít cấp châu lục
trong giai đoạn mới, để chứng minh Lê Duẩn không phải mao-ít. Trường Chinh tự lột
xác hay bị lép vế, là điều đến nay còn là bí mật.
Hoàng Minh Chính kể khi Nikita Khrusov nổ phát súng đầu
tiên vào chế độ toàn trị và cá nhân Stalin, vào đầu năm 1956, Trường Chinh còn
tỏ ra rất hăng hái ủng hộ cuộc cách tân chủ nghĩa xã hội. "Chủ nghĩa xã hội
không thể cùng tồn tại với tệ sùng bái cá nhân. - Trường Chinh nói - Chủ nghĩa
xã hội là dân chủ, sùng bái cá nhân là phản dân chủ, hai cái như nước với lửa,
chỉ có thể là cái này hoặc cái kia, không thể hai cái cùng một lúc. Ðồng chí
Khrusov làm thế là phải lắm, mà dũng cảm lắm". Quan điểm này Trường Chinh
không phải chỉ nói với một Hoàng Minh Chính.
Cũng theo Hoàng Minh Chính thì trong thâm tâm Trường
Chinh không hài lòng với sự sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh, mà ông ta nhận định
là có, tuy ở mức độ không đến nỗi trầm trọng. Còn theo một số người biết Trường
Chinh nhiều hơn thì Trường Chinh là người háo danh ghê gớm, nhưng háo danh một
cách kín đáo. Ông ta cần chống sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh để kiến tạo sùng
bái cá nhân mình. Vì lẽ đó ông ta đã tán thành Khrushov.
Nhà báo Trần Ðĩnh có thời gian giúp việc Trường Chinh
cho rằng đặc điểm nổi bật trong con người Trường Chinh là chủ nghĩa giáo điều,
kinh viện. Chủ nghĩa xét lại (hiện đại hay không hiện đại là chuyện tầm phào,
chuyện ngôn từ khẩu chiến lăng nhăng của đám mao-ít) chưa đủ vững chắc để trở
thành giáo điều mới, cho nên Trường Chinh dễ dàng bỏ nó để chạy theo chủ nghĩa
thực dụng. Tôi nghĩ rằng nhận xét của anh gần với sự thật.
Trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp kiến thức
về chủ nghĩa Mác của tôi, cũng như của nhiều anh em khác, chỉ gói tròn trong một
mớ chắp vá từ những cuốn triết học nhập môn của Politzer, Trần Văn Giàu, Ðào
Duy Anh (Hình nhi thượng học và Hình nhi hạ học). Ngoài ra, có hai trước tác
cũng được kể như sách gối đầu giường là cuốn Chủ Nghĩa Mác và Vấn Ðề Văn Hóa Việt
Nam và cuốn Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Ðịnh Thắng Lợi(10) của Trường
Chinh.
Vào thời kỳ này sách rất hiếm, dùng sách phải rất cẩn
thận - chỉ cần sơ ý một chút là những trang giấy bản mủn ngay ra trên tay. Nếu
chẳng may nhà in đóng thiếu vài trang thì chúng tôi, những kẻ ham đọc, phải cần
mẫn chép tay những trang thiếu để dán bù vào cho đủ. Tôi đã chép không biết bao
nhiêu trang sách trong thời kỳ đó.
Về sau này, khoảng đầu thập niên 50, tôi tình cờ vớ
được cuốn Chủ Nghĩa Mác Và Công Cuộc Phục Hưng Nền Văn Hóa Pháp(11) của Roger
Garaudy(12). Ðọc xong tôi mới ngã ngửa ra rằng ông Trường Chinh đáng kính của
tôi đã làm một bản sao tuyệt vời của cuốn này trong trước tác Chủ Nghĩa Mác và
Vấn Ðề Văn Hóa Việt Nam, được ca tụng như một văn kiện có tính chất cương lĩnh.
Bố cục cuốn sách gần như giữ nguyên, thậm chí Trường Chinh trích dẫn đúng những
đoạn mà Roger Garaudy trích dẫn Mác, Engels, và cả Jean Fréville. Tiếp đó là sự
phát hiện đáng buồn của tôi về cuốn Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Ðịnh Thắng Lợi.
Nó quá giống cuốn Trì Cửu Chiến Luận (Bàn về đánh lâu dài) của Mao Trạch-đông,
trừ đoạn mở đầu rất đẹp, là một áng văn rất hay. Tôi vẫn chịu ơn ông Trường
Chinh về những gì tôi đã học được trong hai cuốn sách của ông, đặc biệt về văn
chính luận. Cách hành văn của Trường Chinh không những đẹp mà còn trong sáng, dễ
hiểu. Còn chuyện như thế có phải đạo văn hay không lại là chuyện khác. Nguyễn
Du lấy cốt Ðoạn Trường Tân Thanh mà làm ra Kiều, nhưng không phải vì thế mà người
ta coi Kiều là tác phẩm đạo văn.
Nếu hai tác phẩm của Trường Chinh là đạo văn thì cuốn
Sửa Ðổi Lề Lối Làm Việc của ông Hồ Chí Minh cũng là đạo văn nốt. Nó là bản diễn
nôm cuốn Chỉnh Ðốn Văn Phong của Mao Trạch-đông cộng một chút Sự Tu Dưỡng Của
Người Ðảng Viên Cộng Sản của Lưu Thiếu Kỳ.
Hình như khi mình chưa đủ sức tự làm lấy thì bắt chước
người không phải là xấu. Học giả Nguyễn Văn Ngọc(13) khi viết bài :"Tính
hay bắt chước của người mình" cũng chỉ mới phàn nàn thôi, chứ cũng không
có ý lên án. Tệ nhất là cái khác, như danh họa Picasso nói :"Bắt chước
không xấu, tự bắt chước mới xấu".
Ðáng buồn là sau này, khi Ðảng cộng sản Việt Nam bớt
bắt chước người ngoài thì lại sa vào thói quen tự bắt chước, mà lại tự bắt chước
rặt những cái xấu.
Tôi đã đi lan man khỏi chủ đề.
Một câu hỏi khác được đặt ra là : vậy thì, trong tình
hình vị thế của Lê Duẩn đã vững vàng như thế, ông ta cần gì phải trấn áp những
người có ý kiến ngược ?
Anh Phùng Mỹ, cán bộ Viện Triết học, trong khi bị
giam chung cùng với tôi tại trại Tân Lập, cho rằng chúng tôi chẳng qua là vật
hiến tế của Lê Duẩn dâng lên ban thờ Mao Trạch-đông. Ðường lối đánh đu giữa hai
cọc, chính chuyên với hai chồng cùng một lúc đã hết thời của nó, chẳng còn lừa
được ai. Ban lãnh đạo Ðảng quyết định bắt chúng tôi để chứng tỏ Việt Nam có đường
lối đối ngoại độc lập, vừa có tác dụng xoa dịu Mao, vừa làm mình làm mẩy trước
Liên Xô.
Trong chuyện đường lối của Ðảng cộng sản Việt Nam thời
kỳ ấy, với tất cả sự rối rắm làm nhiều người hiểu theo nhiều cách khác nhau,
tôi nhớ tới nhận xét của nhà báo Liên Xô Evguéni Kobélev nói với tôi vào giữa
thập niên 60 :"Lê Duẩn tỏ ra thân Liên Xô nhiều quá là không có lợi cho Việt
Nam đang chống Mỹ". Tôi cười, không tranh luận. Tôi biết, trong thời kỳ
này Kobélev đã đánh mất tính độc lập suy nghĩ của người làm báo. Ông đang viết
cuốn Bông Sen Việt Nam ca ngợi chủ tịch Hồ Chí Minh, ông được các nhà lãnh đạo
Việt Nam ưu ái. Cũng có cái nhìn tương tự Kobélev, khi nhân viên KGB ở Việt Nam
báo cáo về cho ban lãnh đạo Ðảng cộng sản Liên Xô biết dường như có một âm mưu
đảo chính bất thành vừa xảy ra tại Hà Nội, tức là nhân viên này chẳng biết quái
gì về những việc xảy ra. Báo cáo của KGB chỉ chứng tỏ Liên Xô không hề nhúng
tay vào chuyện âm mưu đảo chính, như Lê Ðức Thọ vu cáo. Về bản báo cáo của KGB
tôi chỉ được biết vào năm 1993, do chị Inna Malkhanova, một nhà Việt Nam học
người Nga kể lại. Chị được nghe nội dung bản báo cáo nói trên vào năm 1968, được
đọc nguyên bản năm 1991, khi có điều kiện tiếp cận những kho tư liệu mật và tối
mật của Ðảng và Nhà nước xô-viết.
Trong thực tế, theo tôi, cuộc đấu tranh về quan điểm,
đường lối mang tính chất dung tục, tính chất đời thường hơn người ta nghĩ.
Trong nỗi lo lắng về quyền lực của Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp lồ lộ như một hiểm họa.
Chính vì thế mà Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ bao giờ cũng nhất quán trong mục tiêu hạ
uy thế tướng Giáp. Cả hai hiểu rất rõ rằng vị trí cao nhất trong Ðảng lẽ ra phải
thuộc tướng Giáp, chứ không thuộc về họ và tướng Giáp là người bất cứ lúc nào
cũng có thể thay thế họ một khi họ trượt chân.
Trong cách tính toán của Duẩn - Thọ có sự đánh giá
quá cao đối thủ !
Họ quá lo sợ trước uy tín của tướng Giáp trong quân đội.
Họ quá lo sợ trước vầng hào quang người chiến thắng Ðiện Biên trong dân chúng.
Tội thay, trên thực tế tướng Giáp không phải là đối thủ của cả Lê Duẩn võ biền
lẫn Lê Ðức Thọ mưu lược. Chiến lược đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận của
Lê Duẩn chưa kịp đem ra dùng cho tướng Giáp thì tướng Giáp đã cài số lùi rồi.
Tôi đã nói tới chuyện nhà cầm quyền e dè trí thức như
thế nào. Ðúng là trong thời gian này trí thức có hướng về Võ Nguyên Giáp thật.
Người ta tin tướng Giáp, bởi vì ông đã từng là "giáo sư trường Thăng
Long", chẳng gì cũng là trí thức, là người có học, chứ không phải loại dùi
đục chấm mắm cáy.
Nhưng tướng Giáp lại chẳng phải như người ta nghĩ.
Ông đã phụ lòng tin của trí thức. Thậm chí khi những đòn chuyên chính vô sản
giáng xuống những người thân cận của ông, những chiến hữu của ông, ông đã không
dám hé răng nói một lời, mà chỉ ngoan ngoãn né qua một bên, mặc cho Lê Duẩn và
Lê Ðức Thọ muốn làm gì thì làm. Như một kẻ vô can, ông hiền lành khoanh tay
nhìn cuộc khủng bố trắng diễn ra trước mắt.
Bây giờ thì ai cũng biết những người bị bắt trong vụ
"nhóm xét lại chống Ðảng" không hề có liên quan gì với tướng Giáp
trong bất cứ mưu mô nào. Việc Lê Ðức Thọ đính họ vào tướng Giáp là sự ngụy tạo
hoàn toàn. Âm mưu đảo chính không hề có. Thọ làm những việc đó chỉ để vu vạ cho
tướng Giáp, để hạ bệ tướng Giáp, kẻ thù tiềm tàng, kẻ thù khả dĩ của Duẩn-Thọ
mà thôi.
Những người bị Ðảng coi là xét lại biết rõ Võ Nguyên
Giáp chẳng đại diện cho ai. Ông chưa từng và không hề là đối cực của liên minh
Duẩn-Thọ. Chưa bao giờ ông dám chống lại những chủ trương của liên minh này.
Ông có những bực mình nho nhỏ với Lê Duẩn, là chuyện có thật, nhưng không hơn.
Ông có đưa ra một số vấn đề hiện đại hóa quân đội, tức là có đi ngược tí chút với
đường lối lấy chiến tranh du kích chống chiến tranh hiện đại của đương kim tổng
bí thư và tướng Nguyễn Chí Thanh, nhưng ông không dám hé răng nói lấy một lời về
dân chủ và tự do là những vấn đề cốt lõi của mọi phong trào phản kháng.
Ðiều làm tôi phải suy nghĩ là : nếu Duẩn-Thọ muốn
dùng chúng tôi làm dê tế thần trong đền thờ Mao thì thời điểm 1967 đâu có phải
là thời điểm đẹp nhất để dâng hương. Ðáng lẽ phải làm việc này sớm hơn nhiều, từ
đầu năm 1964 kia, bởi vì đó mới là thời điểm Mao và ban lãnh đạo Ðảng cộng sản
Trung Quốc cần Việt Nam có thái độ dứt khoát trong cuộc xung đột quan điểm giữa
hai cường quốc xã hội chủ nghĩa.
Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ đã không bắt chúng tôi vào cuối
năm 1963, hoặc 1964, hoặc chậm hơn nữa - 1965. Họ đã không làm gì hết. Họ tử tế,
nhân đạo với các đồng chí chăng ? Họ tôn trọng luật pháp, chỉ bắt khi đã hội thật
đầy đủ những cái theo họ là chứng cứ chăng ? Ðó là điều không ai biết. Có vẻ
như họ cắn răng chịu đựng bọn xét lại ngang tàng dám cãi bướng bề trên thêm mấy
năm nữa, tới tận 1967 mới xuống tay.
Hóa ra không phải thế.
Duyên do là giữa canh bạc quốc tế mà hai tay chơi
khát nước Duẩn-Thọ lao vào với vận mệnh Tổ quốc giắt lưng, cả hai bỗng giật
mình thấy xì thẩu láng giềng đang sa vào bĩ cực. Bắc Triều Tiên bắt đầu đánh trống
lảng. Anbani đột nhiên lừng chừng, lập trường chẳng ra ngô cũng chẳng ra khoai.
Mặc dầu quan hệ Cuba-Liên Xô lủng củng, nhưng Cuba không ngả về phía Trung Quốc.
Ông luật sư Fidel Castro thừa hiểu rằng ở Trung Quốc không có gì của chủ nghĩa
Mác, rằng dưới sự lãnh đạo của ông giáo làng ở Hồ Nam cả một đại lục mênh mông
đang biến thành một chảo tạp pí lù lổn nhổn thịt xương đồng chí. Các đảng cộng
sản mất dần uy tín trong quần chúng, đảng viên ra đảng ngày một nhiều. Trong Ðảng
Lao động Việt Nam cũng xuất hiện sự phân hóa về quan điểm quốc tế, sự hoài nghi
đường lối thân Trung Quốc của ban lãnh đạo Ðảng.
Nhưng Duẩn-Thọ là người cẩn thận. Họ không dại gì tỏ
ra cứng đầu với ông đồng chí nông dân vùng Ukraina vốn nóng tính. Ngộ nhỡ ông
ta nổi cơn giận lôi đình cắt giảm những khoản viện trợ khổng lồ cho cuộc chiến
tranh ngày một tốn kém thì sao ?
Chỉ từ đầu năm 1967 trở đi, sau khi biết chắc chắn rằng
Leonid Brezhnev không phải là Khrusov, rằng đồng chí Brezhnev ưa các cuộc liên
hoan trao huân chương hữu nghị và sưu tầm xe ô tô du lịch hơn là những cuộc cãi
vã đã kiên quyết đưa Liên Xô trở về lối cũ, họ mới dám xuống tay diệt trừ hậu họa(14).
Ðến đây kẻ đánh lên tiếng kẻng báo động về một đường
lối sai lầm mới bị hạ ngục.
(1) Tên thật là Hà Văn Lộc, một nhà báo tên tuổi
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
(2) Ðơn đặt hàng (commande, tiếng Pháp)
(3) Phóng viên làm việc cho nhiều tờ báo Úc, thân
Mao.
(4) Nhà triết học, từng ở Pháp nhiều năm, xu hướng
mác-xít, tác giả Phénoménologie et matérialisme dialectique (Hiện tượng luận và
chủ nghĩa duy vật biện chứng), Paris 1951. Từng làm chủ nhiệm bộ môn triết ở Ðại
học tổng hợp Hà Nội, đề xướng hạt nhân duy lý, bị cấm giảng dạy, nhưng được
phép sống vất vưởng trong sự đe nẹt và o ép.
(5) Từ năm 1956 Trường Chinh đã không còn là tổng bí
thư Ðảng. Hồ Chí Minh kiêm nhiệm hai chức - chủ tịch Ðảng và tổng bí thư. Tân tổng
bí thư chỉ được bầu chính thức trong Ðại hội III (1960).
(6) Hồi ấy đã có một bài hát khá phổ biến, tôi không
nhớ tên tác giả, với những lời lẽ như sau :"Sông núi này bừng lên xanh
tươi vui đón Ngày mai. Ta đón chào Tương lai ta vẫy tay chào đồng chí. Ta hoan
hô Người Anh Cả Trường Chinh. Bao năm lo cho đất Việt tự do ..."
(7) Ủy viên Bộ Chính trị Ðảng cộng sản Trung Quốc phụ
trách tổ chức và an ninh.
(8) Theo điều lệ Ðảng, Ban tổ chức Trung ương là cơ
quan trông nom công việc tổ chức và nhân sự của Ðảng. Ðáng chú ý là Ðảng Công
nhân Dân tộc Xã hội chủ nghĩa Ðức (mà ta quen gọi là Ðảng Quốc Xã) cũng lập ra
một cơ quan tương tự là Gestapo (Geheime Staatspolizei) để bảo vệ Ðảng Quốc Xã
và nhà nước phát-xít. Lúc đầu (1933) Gestapo chỉ là bộ phận chính trị của nước
Cộng hòa Weimar, sau phình to ra với quyền lực vô biên. Mục đích của Gestapo
(cũng như của các thứ Ban tổ chức Trung ương nói trên) là tiêu diệt mọi lực lượng
chính trị chống đối nhà nước phát-xít. ê Liên Xô cơ quan có chức năng tương tự
là KGB (Komitet Gosudarstvennoi Bezopasnosti) với một chút khác biệt : về danh
nghĩa nó trực thuộc Hội đồng bộ trưởng, trong thực tế nó thực hiện những mệnh lệnh
trực tiếp từ Bộ Chính trị của Ðảng, phối hợp chặt chẽ với MVD (Bộ Nội Vụ). Sự
tương đổng này cho ta thấy cơ cấu nhà nước phát-xít và nhà nước xã hội chủ
nghĩa có giống nhau.
(9) Ba đảm đang - phong trào do Ðảng cộng sản đề xướng,
nhằm động viên lực lượng phụ nữ phục vụ chiến tranh.
(10) Tháng 7 năm 1948 tại Hội nghị văn hóa toàn quốc
lần thứ II, Trường Chinh đọc bản báo cáo nổi tiếng : Chủ Nghĩa Mác và Vấn Ðề
Văn Hóa Việt Nam. Cuốn Trường Kỳ Kháng chiến Nhất định Thắng lợi ra đời vào
giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
(11) Le Marxisme et la
Renaissance de la culture Francaise, Edit. Sociale 1946 (?).
(12) Nguyên ủy viên Bộ
Chính trị Ðảng cộng sản Pháp, trong thập niên 60 tuyên bố tự do sáng tác, không
cần đến Chủ Nghĩa Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa, trong cuốn Chủ nghĩa Hiện Thực
Không Kiềm Tỏa (Réalisme Sans Rivage), bị các giới chức văn hóa Việt Nam lên án
dữ dội, coi như một thứ hoa độc trong văn học.
(13) (1890-1942), tác giả
nhiều sách giáo khoa, sách giới thiệu văn học dân gian và văn học cổ Việt Nam.
(14) Tháng 10 năm 1964
Nikita Krusov bị hạ bệ, nhưng ở Liên Xô về đường lối đối nội và 61 ngoại dường
như không có gì thay đổi. Trung Quốc vẫn gọi bộ ba Leonid Brezhnev, Aleksei
Kosyghin, Nikolai Podgorny là "cỗ xe tam mã của tên xà ích giấu mặt"
(chữ dùng của tờ Pekin Information). Do đó ban lãnh đạo Ðảng Việt Nam vẫn còn e
ngại, chưa dám thẳng tay đàn áp những người cộng sản đòi mở rộng dân chủ.
Theo Hoàng Văn Hoan Hoan
trong hồi ký Giọt nước trong biển cả (NXV Tin Việt Nam, Bắc Kinh, 1986) thì khi
từ Nam ra Bắc vào năm 1957, Lê Duẫn đã gây sự chú ý trong một hội nghị Trung
ương đảng nhờ đã phân tích nguyên nhân của sai lầm trong trong cải cách ruộng đất
một cách 'thông minh'. Hoàng Văn Hoan viết:
- 'Vào khoảng cuối năm
1956 đầu năm 1957, Lê Duẩn đến Hà Nội, Trung ương quyết định ủy nhiệm làm quyền
Tổng Bí thư để giúp Hồ Chủ tịch giải quyết các việc hàng ngày của Ban Chấp hành
Trung ương. Với tư cách là quyền Tổng Bí thư Trung ương Đảng, nhưng Lê Duẩn
không mải miết ở bàn giấy như Trường Chinh, mà liên hệ rộng rãi với cán bộ đảng
viên với các nhân sĩ dân chủ. Trong các cuộc họp Bộ Chính trị hay Trung ương
cũng tỏ ra khiêm tốn, lắng nghe ý kiến của người khác và phát biểu không nhiều.
Theo anh ta nói, thì mới ra miền Bắc chưa hiểu tình hình, cần phải học hỏi, đặc
biệt là cần phải nghiên cứu tình hình kinh tế để xây dựng miền Bắc. Về việc sửa
sai trong cải cách ruộng đất, trong một cuộc họp Bộ Chính trị, Lê Duẩn có nêu một
số ý kiến, cho rằng cải cách ruộng đất sai lầm chủ yếu là ở chỗ không dựa vào Đảng,
mà chỉ dựa vào các tổ cải cách ruộng đất. Ở Trung Quốc sau khi giải phóng, cải
cách ruộng đất ở các vùng Hoa Trung, Hoa Nam phải dựa vào tổ cải cách ruộng đất
là vì ở đó cơ sở Đảng rất yếu, có chỗ hầu như không có. Còn ở Việt Nam, qua nhiều
năm chiến đấu, cơ sở Đảng đã phát triển sâu rộng trong nhân dân, nhưng cải cách
ruộng đất chẳng những không dựa vào Đảng mà lại còn đánh tràn lan cả vào cơ sở
Đảng.'
Ông Hoan là người chủ
trương thân Trung Quốc, người từng giữ chức Phó chủ tịch quốc hội và đã bỏ trốn
sang Trung Quốc sau khi bị loại khỏi Bộ chính trị vào năm 1978. Nếu đúng như thế
thì rõ ràng, Lê Duẫn là một con cáo già chính trị khi biết ẩn nhẫn chờ thời, mà
cũng có lẽ đúng như vậy thật. Theo những lời lẽ đầy cay cú của ông Hoan thì
trong giai đoạn này Lê Duẫn đã hạ mình, luôn làm ra vẻ khiêm tốn, cầu học và do
đó đã đánh lừa được cả bộ máy quyền lực ở miền Bắc thời bấy giờ để khi có cơ hội
mới trở mặt thao túng.
Theo phân tích của tác
giả Vũ Thư Hiên thì sau sai lầm tồi tệ của cải cách ruộng đất, Trường Chinh phải
từ chức và Hồ Chí Minh tạm kiêm nhiệm cả vai trò chủ tịch nước và tổng bí thư.
Lúc đó Võ Nguyễn Giáp, người nổi danh nhờ chiến thắng Điện Biên Phủ và 'vô can'
với cải cách, được xem là người đương nhiên thay thế trong đại hội đảng thứ III
vào năm 1960. Tuy nhiên cả Hồ Chí Minh lẫn Trường Chinh đều lo ngại cho viễn ảnh
này: nếu Võ Nguyên Giáp lên làm tổng bí thư thì - với uy tín và với đội ngũ tướng
tá dưới quyền làm vây cánh - ông ta sẽ hoàn toàn lất át họ và cả Hồ Chí Minh lẫn
Trường Chinh chỉ còn là những bóng ma mờ nhạt.
Bởi vậy, Hồ Chí Minh và
Trường Chinh phải tìm ra một nhân vật làng nhàng, không thể nào qua mặt họ, lại
không có hệ thống vây cánh. Như vậy thì Lê Duẫn, mới chân ướt chân ráo từ miền
Nam ra, đúng là týp người mà họ cần. Theo tính toán của cả Hồ Chí Minh lẫn Trường
Chinh thì khi làm như vậy Lê Duẫn sẽ biết ơn họ, do đó sẽ trở nên ngoan ngoãn
và trung thành. Và chính vì quá xem nhẹ Lê Duẫn nên cả cái ghế mà
Trường Chinh bỏ lại cho
ông ta ngồi không được gọi là 'tổng bí thư', thay vào đó Lê Duẫn được gọi là
'bí thư thứ nhất trung ương đảng'
Nếu cách lý giải này là
đúng thì rõ ràng Hồ Chí Minh và nhất là Trường Chinh đã tính sai. Có lẽ đây
cũng là một sai lầm khác của Trường Chinh, một con người hãy còn kiêu ngạo với
ngôi vị quyền lực số hai ở miền Bắc lúc đó, chỉ ở dưới Hồ Chí Minh và trên cơ
Võ Nguyên Giáp. Sự kiêu ngạo của Trường Chinh còn thể hiện ở thái độ của ông ta
sau hội nghị sửa sai của Trung ương đảng năm 1956 qua hồi ức của Hoàng Văn
Hoan:
- 'Qua sự phân tích đó
(của Lê Duẫn, đã dẫn ở trên), Bộ Chính trị thấy rằng việc thảo nghị quyết Trung
ương tổng kết kinh nghiệm cải cách ruộng đất, giao cho Lê Duẩn phụ trách là hợp
lý. Lê Duẩn từ chối với lý do Trường Chinh là người phụ trách cải cách ruộng đất
thì cứ để Trường Chinh phụ trách thảo nghị quyết là tốt hơn. Nhưng rồi Trường
Chinh cứ mắc míu dây dưa mãi cho đến Đại hội lần thứ ba của Đảng cuối năm 1960
mà nghị quyết vẫn không thảo ra được. Trong lịch sử Đảng, lần đầu tiên một cuộc
họp Trung ương quan trọng như thế mà không có một bản nghị quyết tổng kết là một
việc làm cho đảng viên hết sức thắc mắc. Chẳng những hội nghị Trung ương không
có nghị quyết, mà ngay cả trong quá trình sửa sai, Trường Chinh vẫn không dứt
khoát, nên những án oan, án giả không được minh oan và người bị quy sai thành
phần cũng không được tuyên bố một cách rõ rệt, cho nên mối oán thù trong cải
cách ruộng đất vẫn ăn sâu trong lòng một số người, thậm chí cho đến ngày nay vẫn
chưa phai nhạt.'
Lúc đó hệ thống quyền lực
của đảng và chính quyền ở miền Bắc hầu như nằm trọng trong tay Trường Chinh bởi
tất cả đều được cất nhắc, phân bổ bởi Lê Văn Lương, đàn em của ông ta. Tuy
nhiên Lê Văn Lương không chỉ có trách nhiệm trong cải cách ruộng đất mà còn đi
xa hơn trong chiến dịch 'chỉnh đốn tổ chức' ngay sau đó theo lời Hoàng Văn
Hoan:
- 'Tai hại hơn là lúc
chuyển sang giai đoạn 'chỉnh đốn tổ chức' thì chẳng những đánh vào trung nông
và phú nông, mà còn đánh cả vào các tổ chức cơ sở Đảng, phần lớn những người đảng
viên vào Đảng từ năm 1930, hoặc tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí hội từ
những năm 1925-1926 đều bị đấu tố và giam cùm. Đặc biệt là ở Nghệ-Tĩnh, do Đặng
Thí phụ trách thì nhà tù dựng lên khắp nơi, hầu hết cơ sở Đảng đều bị đánh phá
tan nát.'
Bởi thế Lê Văn Lương phải
rời khỏi Bộ chính trị và để cái ghế Trưởng ban tổ chức trung ương đảng cho Lê Đức
Thọ tạm nắm giữ, và đây cũng là một nước cờ rất sai của Trường Chinh.
Chính Trường Chinh đã cử
Lê Đức Thọ từ Việt Bắc vào Trung ương Cục miền Nam năm 1947 với tư cách phái
viên của trung ương đảng, kiểm soát đảng bộ miền Nam. Thế nhưng khi đến đây,
đơn độc thế cô thì Thọ không còn là người của Trường Chinh nữa mà lại liên minh
chặt chẽ với Lê Duẫn: chính nhờ làm việc ăn ý với Lê Duẫn mà Thọ mới khét danh
là Sáu Búa. Sau 8 năm làm việc với Lê Duẫn, năm 1955 Thọ lên tàu tập kết ra Bắc
và được bổ làm Trưởng ban Thống nhất trung ương và đến năm 1956 trở thành quyền
Trưởng ban tổ chức trung ương đảng.
Đến Đại hội III 1960 Lê
Duẫn chính thức trở thành Bí thư thứ nhất trung ương đảng thì Thọ được bầu vào
Bộ chính trị và chính thức trở thành Trưởng ban tổ chức trung ương và lúc này bộ
đôi họ Lê này chính thức gầy dựng vây cánh. Trong vai trò này, Thọ đã phá nát hệ
thống cán bộ do Chinh và Lương tạo nên, thay thế bằng một lớp lang cán bộ hoàn
toàn mới, hoàn toàn trung thành với mình. Và trong cuộc chiến phe phái này, Lê
Duẫn và Lê Đức Thọ cũng ra sức chặt bỏ vây cánh hay dằn mặt Võ Nguyên Giáp
trong vụ án xét lại chống đảng khi bắt giữ, bỏ tù không thời hạn nhiều tướng
lãnh, sĩ quan cao cấp thân cận với ông ta, làm nên một triều đại họ Lê cho tới
giữa thập niên 80.
Từ những thông tin hay
nhận định của Hoàng Văn Hoan và Vũ Thư Hiên, chúng ta quay trở lại với Lê Duẫn
qua nhận định của cựu phó thủ tướng Trần Phương về tư duy đổi mới của Lê Duẫn.
Lê Duẩn và 'sự nghiệp đổi
mới'
Trần Phương từng học
kinh tế ở Liên Xô về, làm trợ lý cho Lê Duẫn rồi sau lên làm bộ trưởng nội
thương, rồi phó thủ tướng. Trong bài phỏng vấn mang tựa đề 'Cố Tổng bí thư Lê
Duẩn và 'Đêm trước đổi mới'' đăng trên báo điện tử VietNamNet ngày 05.04.2007,
ông Phương cho biết Lê Duẫn là người có tầm nhìn xa, có tư duy sáng tạo không
ngừng và là người 'trăn trở đổi mới'. Thế nhưng, những gì mà ông Phương 'lý giải'
đã hoàn toàn đi ngược lại nhận định này, thí dụ như phản ứng của Lê Duẫn với số
phận của Kim Ngọc vào năm 1963.
Đó là thời gian mà đời sống
người nông dân miền Bắc vô cùng khốn khó, đúng như lời kể của Trần Phương: 'Tôi
vẫn nhớ từ những năm 60, trong nhiều cuộc họp ở Đồ Sơn, rất nhiều lần ông nổi
nóng với Chính phủ: 'Chúng ta điều hành mà không lo nổi cho dân rau muống ăn,
nước lã'.
Trong tâm trạng ấy, bí
thư tỉnh ủy Vĩnh Phú (Vĩnh Phúc nhập cùng Phú Thọ) Kim Ngọc không chỉ 'nổi
nóng' suông mà bắt tay hành động với tầm nhìn xa: phá rào hợp tác xã. Giữa lúc
phong trào hợp tác hóa nông nghiệp được tuyên truyền rầm rộ với thơ Tố Hữu như:
'Dân có ruộng dập dìu hợp tác. Lúa mượt đồng ấp áp làng quê' thì Kim Ngọc đã nhận
ra thực tế: hợp tác xã làm đình đốn sản xuất và làm dân đói. Từ đó, tỉnh Vĩnh
Phúc tiến hành 'xé rào', thực hiện việc giao ruộng và khoán sản phẩm tới nông
dân và mang lại những kết quả rất khả quan.
Thế nhưng chủ trương này
bị xem là đi 'phản chủ nghĩa xã hội' và chính Trường Chinh - trong vai trò Chủ
tịch quốc hội - đã viết bài trên tạp chí Học Tập phê phán Kim Ngọc: 'Những sai
lầm và khuyết điểm trên đã dẫn tới bằng nhiều hình thức khác nhau, đem chia lại
một phần ruộng đất từ tập thể sang cá nhân...'. Và ở đây Lê Duẫn cũng chỉ 'nổi
nóng' suông, ông Phương kể lại:
- 'Tôi nhớ một lần, sáng
ra, anh Ba 'quẳng' xuống bàn chúng tôi một tờ báo và nói: 'Đọc đi!'. Trông nét
mặt anh bộc lộ một cảm xúc khó tả, nhưng rõ ràng nhất là không thể nào chấp nhận
được những gì người ta đã viết trong đó. Chúng tôi cầm tờ báo lên: Trên trang
nhất là một bài viết dài phê phán ông Kim Ngọc và quan điểm khoán hộ. Tôi từng
hỏi anh: 'Tại sao anh không thẳng thắn, công khai phản bác lại những quan điểm
bảo thủ…'.Anh nói: 'Quan trọng nhất là phải giữ sự đoàn kết trong Đảng…'.'
Như vậy, ở đây chúng ta thấy được ít nhất hai đặc điểm
của Lê Duẫn. Thứ nhất, ông ta không dám đấu tranh hết mình cho lẽ phải: biết
Kim Ngọc đúng mà không có lấy nửa lời bênh vực Kim Ngọc. Thứ hai, nếu nhân danh
'sự đoàn kết trong đảng' thì ông ta đã đặt quyền lợi đảng lên trên quyền lợi của
người dân: chuyện của đảng quan trọng hơn chuyện dân sinh.
Nhưng thực ra cái gọi 'sự đoàn kết trong Đảng…' ở đây
chỉ là quan hệ dè chừng, ở thế cân bằng phe phái. Năm 1960 thì thế lực của Lê
Duẫn còn yếu và vây cánh tạo dựng vẫn chưa đủ mạnh để lấn át vây cánh của Trường
Chinh.. Về mặt đảng, ông ta thay thế Trường Chinh nhưng bị xem yếu phé hơn Trường
Chinh: sau khi chính thức thay thế thì chỉ được gọi là 'bí thư thứ nhất' chứ
không phải là 'tổng bí thư'. Trong hoàn cảnh đó Lê Duẫn phải giữ mình, không
dám động chạm đến Trường Chinh đúng như nhận định của Hoàng Văn Hoan đã nêu ở
phần trên.
Nếu lý lịch Trường Chinh dính vào vết nhơ 'cải cách
ruộng đất' và chiến dịch 'đánh Kim Ngọc' thì có vẻ như Lê Duẫn vô can. Thế
nhưng chính Lê Duẫn, trong vai trò người lãnh đạo cao nhất, phải chịu trách nhiệm
trước chính sách 'cải tạo công thương nghiệp' ở miền Nam sau năm 1975. Về điểm
này thì ông Trần Phương cho rằng Lê Duẫn cũng không là 'ngoại lệ' so với những
nhà lãnh đạo khác: họ tôn thờ Liên Xô, đi theo cái gương của Liên Xô:
- 'Thế hệ của anh Ba - những nhà cách mạng Việt Nam-
khi bắt đầu trưởng thành đã được chứng kiến câu chuyện Liên xô chiến thắng chủ
nghĩa phát xít một cách oai hùng như thế nào. Một đất nước nghèo khổ như Liên
xô sau chiến tranh đạt được những thành tựu lớn về kinh tế, làm thay đổi hẳn đất
nước, đem đến cho người dân phác hoạ tốt đẹp về mô hình XHCN đã trở thành thần
tượng duy nhất cho nhiều nhà cách mạng vô sản lúc đó. Theo tôi, Lê Duẩn cũng
không thể là một ngoại lệ. Trong bối cảnh chính trị lúc đó, nhiều nhà cộng sản
xuất sắc của thế giới cũng đã không thoát ra khỏi sự áp đặt của mô hình kinh tế
của Liên Xô. Lê cũng chỉ có thể sửa đổi những điều nhỏ của một tư duy lỗi thời
về mặt kinh tế mà không thể nào đưa đất nước đi ra khỏi những vạch chỉ sẵn của
lịch sử và thời thế.'
Nghĩa là những lãnh tụ này chỉ biết nhắm mắt đi theo
Liên Xô chứ không hề tư duy, không hề động não suy nghĩ. Họ phải đợi đến khi những
'mối họa' của hệ thống kinh tế XHCN bị bộc lộ rõ và được công khai hóa dưới thời
Gorbachev từ giữa thập niên 80, họ mới bắt đầu nhìn lại mình.
Như vậy thì đó là những nhà lãnh đạo chỉ biết nhắm mắt
rập khuôn theo một mô hình có sẵn ở nước Nga. Và như vậy thì làm sao chúng ta
có thể gọi đó là những nhà lãnh đạo với 'tầm nhìn chiến lược', hay 'tư duy đổi
mới, sáng tạo không ngừng'. Đó là những lãnh tu nhắm nghiền con mắt ắt trước thục
tế 'không lo nổi bó rau muống' cho người dân và chỉ biết có thực tế qua nhũng
báo cáo tốt đẹp trên sách báo, trên bản tin các hãng thông tấn nhà nước; làm sao
có thể gọi là người 'luôn suy nghĩ, tìm tòi, xuất phát từ tình hình thực tế,
phân tích, giải quyết những vấn đề mới do cuộc sống đề ra'?
Mọi lời lẽ ca ngợi Lê Duẫn đều là những lời rỗng tuếch,
tự mâu thuẫn, và do đó chỉ là những lời nói lấy được.
Thay lời kết
Với Đảng cộng sản Việt Nam thì có thể Lê Duẫn là người
có công: chính vì có Lê Duẫn mà cái đảng này mới có thể kêu gào về 'thời thắng
Mỹ', mới biến đất nước giàu đẹp này thành sân sau, thành gia tài riêng của mấy
triệu đảng viên, đặc biệt là của mấy ngàn đảng viên quý tộc có tên trong hàng
ngũ trung ương đảng qua nhiều đời (đại hội) khác nhau. Nhưng với dân tộc Việt
Nam thì Lê Duẫn là một tội phạm.
Trước hết, Lê Duẫn là một tội phạm chiến tranh.
So với những lãnh tụ khác trí thức hơn trong hàng ngũ
cộng sản thì Lê Duẫn chẳng là cái gì. Năm 1945, so với những Trần Văn Giàu,
Dương Bạch Mai, Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm, những người được đào tạo chính
quy vè chủ nghĩa Stalinist ở Nga về trong Xứ ủy Nam thì người công nhân ường sắt
chỉ học hết tiểu học này tỏ ra lép vé. Thế nhưng chính chiến tranh đã làm nên
danh vọng của Lê Duẫn: qua 9 năm đánh Pháp ở Nam kỳ Lê Duẫn đã qua mặt đám trí
thức cộng sản này và vươn tới thế giá của một nhà lãnh đạo tài ba.
Bởi vậy, để nuôi nấng thế giá lãnh đạo của mình thì
Lê Duẫn phải nuôn nấng chiến tranh: không có chiến tranh thì vai trò lãnh đạo của
Lê Duẫn sẽ không còn. Chính vì vậy mà, cùng với Lê Đức Thọ, ông ta đã sát hại,
trấn áp, đày đọa bao nhiêu đảng viên cộng sản khác chủ trương thống nhất đất nước
bằng con đường hoà bình. Và cái cuộc chiến mà Lê Duẫn say mê ấy đã đem lại những
cái giá vô cùng đắt về người, về của và một cái giá còn lớn hơn cho thế hệ
tương lai: thời gian phí phạm cho chiến tranh và sự tụt hậu.
Không những chỉ là một tội phạm chiến tranh, Lê Duẫn
còn là tội phạm trong hòa bình. Không chỉ làm đất nước tụt hậu với 30 năm chiến
tranh, Lê Duẫn còn làm đất nước tụt hậu trong suốt 20 năm hòa bình bằng cách nhắm
mắt đi theo mô hình của Liên Xô, những điều mà chúng ta đã bàn ở trên!
[1] 'Hội nghị Trung ương về sửa sai cải cách ruộng đất'
diễn trong tháng 9.1956, là một hội nghị 'kéo dài nhiều ngày nhất từ khi có đảng.
Hội nghị quyết định:
Về việc thi hành kỷ luật, Trung ương quyết định như
sau:
- Trường Chinh thôi chức Tổng Bí thư Trung ương Đảng,
tạm giao chức vụ này cho Hồ Chí Minh.
- Đưa Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính
trị.
- Lê Văn Lương còn phải thôi giữ chức Trưởng Ban Tổ
chức Trung ương Đảng, giao cho Lê Đức Thọ, ủy viên trung ương đảng tạm nắm quyền.
- Đưa Hồ Viết Thắng rút ra khỏi Trung ương đảng.
- Bầu bổ sung Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị và
Hoàng Văn Hoan vào Bộ Chính trị.
NHÂN VẬT VIỆT CỘNG Số 2:
LÊ DUẨN (1907-86)
Sinh tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị, cha làm thợ mộc.
Duẩn còn có tên là Lê Văn Duẩn, Lê Văn Nhuận, là nhân
viên hỏa xa ga xép (bán vé? bẻ ghi?).
1928 Duẩn tham gia Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Ðồng
Chí Hội. Năm 1930 là một trong những đảng viên lớp đầu của Ðảng Cộng Sản Ðông
Dương.
Duẩn đã giữ nhiều chức vụ quan trọng. Năm 1931 là ủy
viên xứ ủy Bắc Kỳ, bị Pháp bắt tại Hải Phòng, kết án 20 năm tù cấm cố. Năm 1936
được trả tự do và giữ chức bí thư xứ ủy Trung Kỳ (1937-39), ủy viên thường vụ
lâm thời trung ương đảng (1939-40). Năm 1940 lại bị Pháp bắt ở Sài Gòn đày đi
Côn Ðảo cho đến khi cộng sản cướp được chính quyền đưa về Sài Gòn. Tháng 9,
1945 Duẩn được Hồ Chí Minh gọi ra Hà Nội. Cuối 1946, Hồ Chí Minh cử Duẩn trực
tiếp lãnh đạo "kháng chiến" Nam Bộ, giữ chức bí thư xứ ủy, rồi năm
năm sau, khi trung ương cục Miền Nam (bao gồm Nam Bộ và Cao Miên) thành lập, Duẩn
giữ chức bí thư.
Sau Hiệp Ðịnh Geneva, Duẩn ở lại Miền Nam. Ðầu năm
1957, Trường Chinh bị thất sủng, Duẩn được gọi ra Bắc, tháp tùng Hồ Chí Minh đi
Moskva vào tháng 10 và bắt đầu lên chân. Năm 1958, Duẩn vào Nam thị sát, đưa đến
Quyết Ðịnh 15 tháng 5/1959 xâm lăng Miền Nam bằng võ lực. Và tại Ðại Hội Ðảng Lần
Thứ Ba (1960), Duẩn được Hồ Chí Minh cho giữ chức bí thư thứ nhất.
Có lẽ vì hoạt động nhiều tại Nam Bộ, Duẩn nghiêng về
phe cộng sản Miền Nam. Sau 1975, bắt buộc phải lựa chọn giữa hai đàn anh, Duẩn
theo Nga Xô, đưa đến các lộn xộn tại biên giới.
Ngày 23-11-78, Duẩn ký với Nga Xô hiệp ước liên minh
quân sự rồi xua quân qua đánh Cao Miên. Ðầu năm 1979, Ðặng Tiểu Bình, sau khi
qua Mỹ, quyết định "dạy Hà Nội một bài học", kéo quân qua biên giới
hơn 20 cây số tàn phá các công sở, cầu cống, quặng mỏ rồi rút về.
Duẩn giữ chức tổng bí thư từ năm 1976 cho đến khi chết
tại Hà Nội ngày 10-7-1986, thọ 79 tuổi.
Ông được Ðảng và Nhà Nước Việt Nam cùng các nước
"xã hội chủ nghĩa" tặng nhiều huân chương, trong đó có huân chương
Sao Vàng và giải thưởng Lenin.
Chuyện Bên Lề: Lê Duẩn được các đảng viên suy tôn là
Hồ Chí Minh của Miền Nam, nhưng Duẩn khác "Bác" ở điểm là không giấu
giếm chuyện vợ nọ con kia.
Chính thức, Duẩn có bà vợ tấm mẳn cùng quê hương, bán
cá tại chợ Triệu Phong. Nhưng khi "cách mạng thành công", được Hồ Chí
Minh giao cho Miền Nam, được thuộc cấp tiến cống, Duẩn cặp một cô nữ sinh trẻ
măng.
Cô này thực ra là con nhà dòng dõi, nổi tiếng hoa
khôi. Nhưng thời loạn, Nguyễn Văn Trấn hồi đó phụ trách cảnh sát công an, chém
giết, hãm hiếp thả giàn. Cô bị Trấn hiếp và giữ làm vật sở hữu. Khi Duẩn vô, Trấn
lập công bằng cách ép cô lấy thượng cấp y, thí dỗ rằng tuy Duẩn lớn tuổi, xí
trai nhưng vì bận... tranh đấu, tù đày nên vẫn còn tơ.
Trong tình cảnh đó, hẳn cô nghĩ thà làm vợ chính thức
một lãnh tụ còn hơn là công cụ của thằng cướp của giết người. Và thế là có con
có cái với nhau đàng hoàng. (Một con chính là Lê Thị Phương Anh du học Liên Xô
và lấy một giáo sư người Nga). Ðến khi Duẩn được Bác gọi ra cho làm bí thư thứ
nhất, thì cùng ra.
Lúc đó bà lớn ở Triệu Phong mới mò ra Hà Nội, đánh bà
nhỏ một trận, xé quần xé áo tô hô. Duẩn phải mang bà nhỏ xuống Hải Phòng. Những
tưởng yên chuyện. Ai ngờ nơi đây bà nhỏ hận đời, cặp với anh chàng phó tổng
biên tập báo Hải Phòng Kiến Thiết, rồi thỉnh thoảng bà lớn lại tới làm một trận.
Duẩn đành phải gửi bà nhỏ sang Bắc Kinh, công tác tại sứ quán, lâu lâu nhảy máy
bay tới... tham quan. Và cũng có lẽ vì quí phi hận anh lưu manh Nguyễn Văn Trấn,
cấm đoán Duẩn, nên khi Duẩn nhiều quyền thế, mà không hề ban cho Trấn một chức
vụ gì ra hồn, vẫn cứ là "giảng viên thường trực" của Trường Ðại Học
Nhân Dân không có thày, không có trò, cho nên sau này Trấn viết cuốn Viết Cho Mẹ
Và Quốc Hội... chê chế độ!
Còn tại sao Duẩn không giám trừng trị anh chàng phó tổng
to gan, lớn mật? Là vì anh này là đàn em của Trường Chinh.
Sau "chiến thắng Ðiện Biên", tuy là công tướng
Tàu, pháo binh Tàu, hỏa tiễn Nga, biển người Việt nhưng quân lính và dân chúng
vẫn cứ nghĩ là tướng Giáp có tài. Hồ đâm hoảng, sợ cái việc âm binh vật phù thủy,
bèn nâng Nguyễn Chí Thanh lên, đẩy Giáp ngồi một xó. Rồi bày ra trò cho Trường
Chinh và Lê Duẩn kình nhau, cân bằng lực lượng, để Hồ yên vị.
Khoảng 1960, Duẩn có luẩn quẩn ở Miền Nam, yên trí
vào sự bố trí của cán bộ nằm vùng nên về Vùng IV họp, không ngờ bị phát giác và
bị bắt. May thay, lúc này ông Diệm chủ trương không bắt Việt Cộng, ra lệnh thả.
Thế là Hồ đang buồn bỗng hóa vui, còn Trường Chinh đang vui đâm ra... buồn! Phần...
tham quan, có lẽ Duẩn muốn chứng tỏ với Hồ là tiết kiệm cho công quỹ quốc gia,
nên "người" đành tuyển thêm một bà ba tại quốc nội, ngoài những bà
không chính thức.
LÊ ÐỨC THỌ (1911-91) Tên thật là Phan Ðình Khải, người
làng Ðịch Lễ, tổng Ðồng Phù, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Ðịnh, con hương chức Phan
Ðình Quế và bà Ðinh Thị Hoàng.
Thọ có học vài năm trung học cấp I tại trường Thành
Chung Nam Ðịnh (école Primaire Supérieure de Namdinh), cùng thời với Trường
Chinh, tham gia bãi khóa xin ân xá cho cụ Phan Bội Châu cũng như truy điệu cụ
Phan Chu Trinh (1925-26), bị đuổi học, hoạt động cho cộng sản, từ 1931 đến
1945, bị bắt nhiều lần nên quen biết với các đảng viên cả Trung Nam Bắc.
Tháng 3, 1945, Nhật lật đổ Pháp, Thọ được ân xá. Ðầu
tháng 8, được Trường Chinh gọi lên Tân Trào tham dự hội nghị chuẩn bị lật đổ
chính phủ Trần Trọng Kim.
Năm 1949, Thọ được Hồ Chí Minh phái vào Nam, đại diện
Tổng Bộ Việt Minh. Năm 1950-51, Thọ phụ tá Lê Duẩn tổ chức Trung Ương Cục Miền
Nam. Trong dịp này, cũng có chính sách chỉnh đảng, Lê Duẩn ra Bắc khai báo. Thọ
lên nắm chức bí thư Trung Ương Cục Miền Nam.
Từ cuối thập niên 1950, với phương vị Trưởng Ban Tổ
Chức Ðảng, Thọ giúp đỡ đắc lực bí thư thứ nhất Lê Duẩn trong việc tranh chấp
quyền lực.
Trong hòa đàm Paris, từ 1968 tới 1973, Thọ là cố vấn
tối cao của trưởng phái đoàn Xuân Thủy (Nguyễn Trọng Nhân), chuyên thương thuyết
mật với Kissinger, cố vấn an ninh của Nixon, và được giải thưởng hòa bình Nobel
chung. Tuy nhiên Thọ, hơn Kissinger về liêm sỉ tối thiểu, từ chối không lãnh.
Tháng 4, 1975, Thọ vào Nam với tư cách đại diện Bộ
Chính Trị trong trận vây đánh Sài Gòn. Thọ bị mất chức Trưởng Ban Tổ Chức năm
1980 và bị lu mờ, mãi khi Lê Duẩn mắc bệnh nặng, Thọ mới được tái xuất hiện. Là
tại Duẩn biết Thọ manh tâm dùng Lê Ðức Anh xua quân chiếm Cao Miên và Lào, để rồi
nhảy lên làm chủ tịch Liên Bang Ðông Dương, trong khi Duẩn mới chỉ là chủ tịch
có Việt Nam mà thôi. Tham vọng này của Thọ sơ sơ khiến cỡ 52,000 thanh niên Việt
chết cộng khoảng 200,000 bị thương tật.
Tại Ðại Hội Kỳ VI, vào tháng 12, 1986, Thọ biết thế yếu,
ép Trường Chinh và Phạm Văn Ðồng cùng "tự nguyện" không ra tranh cử.
Thọ té chết năm 1991, lúc 80 tuổi.
Chuyện Bên Lề: Thọ bị gán cho tội trù dập nhiều đồng
chí cố cựu, nổi danh... Sáu Búa, đặc biệt trong vụ gọi là "xét lại chống đảng".
Thực ra chỉ là do, vào năm 1956, tại Ðại Hội Ðảng Cộng
Sản Liên Xô Lần Thứ XX, Khrushchev tố cáo tệ nạn sùng bái cá nhân của Stalin và
kêu gọi sửa sai. Thế là thế giới xã hội chủ nghĩa "Nhà Bè nước chảy chia
hai". Nga "xét lại, đi vào con đường tư bản". Tàu cương quyết
"bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lenin".
Ở Việt Nam, quí vị cộng sản chưa bằng lòng với chức vụ,
địa vị hiện hữu ngỡ rằng cơ hội tới tay, nhấp nhổm chọn quan thày. Riêng Bác,
Bác đâu có chịu dẹp chuyện sùng bái Bác. Thì hẳn Bác đồng ý với Tàu. Nhưng Bác
lại cũng cần sự "viện trợ" của Nga Xô. Thành ra bề ngoài Bác lửng lơ
con cá vàng, nhưng bên trong, Bác mặc nhiên khuyến khích việc thanh trừng đám
theo Nga. Giản dị chỉ có thế. Chứ lấy đâu ra chuyện tranh đấu cho tự do dân chủ,
dân sinh hạnh phúc như sau này quí vị đó rêu rao. Nếu nghĩ đến dân đến nước, việc
gì phải chờ Khrushchev, là kẻ cùng thế hệ (sinh năm 1894), nhưng chỉ sống và
trưởng thành trong xã hội lạc hậu phong kiến của Xa Hoàng và bức màn sắt bưng
bít của Lê Xít, trong khi quí vị này sinh ra và lớn lên thấm nhuần văn hóa tự
do, dân chủ phóng khoáng của tây phương?
Gia đình Sáu Búa có lẽ là gia đình duy nhất có nhiều
người là đảng viên cộng sản. Ngoại trừ anh em họ, Sáu Búa có ba người em ruột
cùng làm lớn. Ðó là hai em trai Ðinh Ðức Thiện (Phan Ðình Dinh), thượng tướng bộ
trưởng Bộ Công Nghiệp Nặng, tổng cục trưởng Cục Dầu Khí; Mai Chí Thọ (Phan Ðình
Ðống), đại tướng công an và một em gái Lê Thanh Bình.
Thiên hạ đồn rằng ông Phan Ðình Quế được chôn vào huyệt
"Lỗ Ao", bạo phát bạo tàn, chỉ được một đời mà thôi.
Trích : Chương 18 của Tác giả: Vũ Thư Hiên
Cái làm cho tôi suy nghĩ nhiều hơn cả trong những
ngày tù đầu tiên là : lý do gì đã làm cho Lê Duẩn cấu kết với Lê Ðức Thọ trong
việc làm bất minh, thậm chí không hợp với tính cách anh chị của Lê Duẩn là vu vạ
để trấn áp những người chưa từng chống lại họ ? Không phải lúc nào khác, mà lúc
này ?
Tôi biết quá ít về tổng bí thư Lê Duẩn. Tôi không có
dịp gần gụi nhà lãnh đạo nổi tiếng quyết đoán để có nhận định riêng. Những nhận
xét của người khác về nhân vật lịch sử này không làm tôi hài lòng. Con người
trong đời thường bao giờ cũng thật hơn, đúng hơn, giống họ hơn nhìn họ trong trạng
thái trưng diễn.
Tôi chỉ là nhà báo ở cấp bậc cuối cùng trong nấc
thang đánh giá cán bộ theo mức độ tin tưởng của Ðảng. Trong số rất ít phóng
viên được thoải mái ra vào cung đình chỉ có Thép Mới(1) là người gần Lê Duẩn
hơn cả. Trong kháng chiến chống Pháp anh cũng được Trường Chinh sủng ái. Các
nhà lãnh đạo có thói quen không dùng đệ tử của người tiền nhiệm, thế mà Lê Duẩn
vẫn tiếp tục sử dụng Thép Mới, đủ hiểu Lê Duẩn tín nhiệm anh thế nào. Một mình
anh được Lê Duẩn dành cho cái vinh dự không ai có được là chấp bút cuốn Thời Thắng
Mỹ. Ðó là bản anh hùng ca xưng tụng vị tổng bí thư anh minh một mình một ngựa
lãnh đạo cuộc kháng chiến tới ngày toàn thắng. Hình ảnh Hồ Chí Minh, Phạm Văn Ðồng,
Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh trong cuốn sách nhập nhòa như mấy cọng tầm gửi.
Cuốn sách gây ra nhiều tranh cãi. Người ta nói nó bóp
méo lịch sử.
Những người gần Lê Duẩn nói rằng bệnh "kiêu ngạo
cộng sản" trong con người Lê Duẩn đã có ngay từ khi Lê Duẩn nắm quyền lãnh
đạo tại miền Nam. Cộng với bệnh "kiêu ngạo cộng sản" là bệnh độc tài,
độc đoán, coi thường quần chúng.
Song song với Thời Thắng Mỹ. trong những năm sau chiến
tranh có cuốn Ðại Thắng Mùa Xuân của đại tướng Văn Tiến Dũng do Hồng Hà, em ruột
Thép Mới, sau làm tổng biên tập báo Nhân dân chấp bút. Cuốn này bị các nhà lãnh
đạo phê phán mạnh mẽ tuy nó cũng giống Thời Thắng Mỹ ở chỗ ca ngợi chính tác giả
trong chiến thắng. Cái Lê Duẩn làm được thì Văn Tiến Dũng không được phép. Một
cuốn khác của đại tướng Hoàng Văn Thái, hồi ký Những Năm Tháng Quyết Ðịnh, được
cả chính giới và người đọc bình thường đánh giá là nghiêm túc. Vai trò nhân dân
được nhắc đến nhiều hơn cả trong cuốn Kết Thúc 30 Năm Chiến Tranh của Trần Văn
Trà. Những sĩ quan có mặt trong suốt cuộc chiến cho nó là cuốn sách chân thực
nhất, trong đó tác giả muốn nhìn lại và khách quan đánh giá các sự kiện chứ
không phải muốn khoe mẽ. Cuốn sách vừa in ra đã bị Lê Ðức Thọ cấm lưu
hành.
Tôi có lần gặp thượng tướng Trà tại nhà riêng của
ông, khi viên tư lệnh trận đánh chiếm Sài Gòn đang cùng các ông Nguyễn Hộ, Tạ
Bá Tòng dùng Câu lạc bộ những người Kháng chiến cũ đấu tranh cho đổi mới, đòi mở
rộng tự do dân chủ. Cuộc gặp gỡ tại nhà riêng của ông ở đường Pasteur để lại
trong tôi ấn tượng dễ chịu - Trần Văn Trà chính là nhà lãnh đạo mà những người
cộng sản cấp tiến muốn có. Ông biết nghe, biết tranh luận bình đẳng, biết rút
lui ý kiến trước lẽ phải. Tiếc thay, như đối với những người bình thường bỗng nổi
bật lên một cách không ngờ tới trong những tình huống không dự kiến, Lê Duẩn và
Lê Ðức Thọ không ưa Trần Văn Trà. Họ bèn cho ông ngồi chơi xơi nước.
Tướng Trà đã được giới thiệu trước tôi là ai, ông nói
ông không hề biết gì về vụ trấn áp "nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng"
ở miền Bắc, khi xảy ra vụ án ông đang bận tổ chức đường dây trên biển để chuyển
vũ khí vào Nam. Ông đòi tôi kể cho ông nghe về vụ án, tôi chỉ kể qua, tôi đã
ngán kể về nó. Ông nói hồi ấy ông cũng nghe có một thông báo vắn tắt của Trung
ương, ông không ngờ sự việc lại trầm trọng như vậy. Ông rủ tôi tham gia tờ Truyền
Thống Kháng Chiến. Tôi nói tôi không tin những tiếng nói trung thực sẽ được lắng
nghe. Ðiều tôi tin chắc là tờ báo sẽ bị đóng cửa, không nay thì mai, và những
người làm báo không thể tránh khỏi bị khủng bố, là điều ông cần tiên liệu,
không nên để xảy ra. Tướng Trà không đồng ý với tôi. Ông cho rằng bây giờ tình
hình đã khác trước, bây giờ Ðảng đã thấy cần thiết phải có sự góp ý với Ðảng của
nhiều người nhằm mau chóng xây dựng lại đất nước.
Những chuyện xảy ra sau đó chứng tỏ cái nhìn không lạc
quan của tôi là đúng. Tờ Truyền Thống Kháng Chiến bị cấm, những người chủ
trương tờ báo bị làm khó dễ, thậm chí bị bắt. Về sau không hiểu tại sao chính
tướng Trà lại ra tuyên bố lên án tờ Truyền Thống Kháng Chiến. Việc này, dù ông
làm trong tình thế bị ép buộc, đã làm vấy bẩn danh tiếng của ông.
Tôi có gặp lại Thép Mới vài lần sau khi anh rời miền
Bắc vào sống hẳn trong Sài Gòn, khoảng cuối những năm 80. Nghe nhiều người chê
Thời Thắng Mỹ về sự không trung thực, tôi hỏi anh nghĩ gì về dư luận đó. Ðang
vui chuyện, Thép Mới quay ra nhìn tôi như nhìn một thằng bới móc. Sau khi tin rằng
tôi không có ý xấu, Thép Mới vui vẻ trở lại, anh mỉm cười tội nghiệp :"Cậu
chưa viết theo com-măng(2) bao giờ à ?". Rõ ràng anh không muốn thừa nhận
đứa con tinh thần đã trót dại đẻ ra.
Thép Mới từng là một nhà báo tài ba. Tôi đọc bản dịch
tuyệt hay cuốn Thời Gian ỷng Hộ Chúng Ta của Ilya Erenburg do Thép Mới dịch
trong kháng chiến chống Pháp. Chúng tôi, những người lính trẻ, coi Thép Mới như
thần tượng. Tôi quen Thép Mới từ ngày đó. Năm 1956 chúng tôi gặp lại nhau tại
Moskva. To béo hơn trước, không còn vẻ ngượng ngùng khi hỏi người khác về văn
phong của mình, Thép Mới hỏi tôi có đọc mấy bài báo anh mới viết hay không. Tôi
không tiện nói với anh về cảm giác của tôi - những bài báo của Thép Mới mỗi
ngày một oang oang, với những câu chữ sáo rỗng. Thép trong anh rỉ rồi. Thép Mới
cho tôi biết anh vừa cưới vợ. Vợ anh hóa ra là một bạn gái thời học trò của
tôi. Chúng tôi uống rượu mừng ngay trong phòng anh tại khách sạn Belgrad. Ba
mươi năm sau, anh già xọm, mắt mờ, má chảy xệ, đã bỏ vợ, đã lấy vợ mới, nhưng
chẳng có gì để khoe.
Kể cũng nên nói vài dòng ở đây về cái sự phỏng vấn
lãnh tụ. Thường thì chẳng có báo nào tự dưng phỏng vấn các vị. Nếu có nhu cầu
quảng bá ý kiến của nhà lãnh đạo Ðảng thì văn phòng lãnh tụ tự sáng tác ra một
cuộc phỏng vấn rồi gửi nó cho báo Ðảng. Các báo khác sẽ đăng lại bài này. Còn
khi có phóng viên nước ngoài xin phỏng vấn thì anh ta sẽ được mời tới gặp lãnh
tụ, hai bên nói chuyện tầm phào một lát, chụp ảnh chung, những câu phỏng vấn được
để lại, những câu trả lời anh ta sẽ nhận sau. Những bài phỏng vấn của Winfred
Burchet(3) gửi đi từ Hà Nội những năm chiến tranh được chế tạo đúng như thế.
Trong khi chờ đợi, Burchet tối tối đi uống rượu mời ở Métropole hoặc Splendid
(Hòa bình), hoặc đi ăn chim quay với Nguyễn Tuân ở phố Tạ Hiền. Bài phỏng vấn rồi
được gửi đi bằng télex của Việt Nam Thông tấn xã, không mất tiền.
Người ta phải làm như vậy vì các vị lãnh tụ sợ nói ngẫu
hứng dễ bị hớ. Ðem so bài nói chuyện của Lê Duẩn với cũng bài ấy được đăng trên
tờ Nhân dân thì thấy chúng khác nhau một trời một vực. Tôi được nghe Lê Duẩn
vài lần, cảm giác của tôi là chán. Bài nói cương giọng bình dân, đôi khi lăng
nhăng, lẩm cẩm đến nỗi người nghe không hiểu ông tổng định nói gì, thế nhưng
bài đăng báo thì đặc giọng hàn lâm, với rất nhiều trích dẫn các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác. Sau mới biết những viên thư ký của lãnh tụ là tác giả.
Theo lời kể của những người biết gốc gác đương kim tổng
bí thư thì Lê Duẩn quê ở Triệu Phong, Quảng Trị, con một gia đình khá giả. Lê
Duẩn đã học qua bậc tiểu học, có hồi làm đường sắt, giữ chân bẻ ghi, những người
tâng bốc gọi là thư ký hỏa xa. Cũng theo họ, từ nhỏ ông tỏ ra có tư chất thông
minh. Thông minh như thế nào thì họ dẫn ra nhiều chuyện làm bằng, tiếc thay, những
bằng chứng ấy lại không chứng tỏ một hệ số thông minh cao đáng kể. Ðành phải mở
một cái ngoặc đơn để nói rằng người Việt ta thường hay lầm lẫn hai khái niệm
thông minh và láu cá. Chúng có ranh giới khá nhòe nhoẹt. Người thông minh thường
không làm nổi cái mà kẻ láu cá làm được. Ngược lại, tên láu cá có gắng mấy cũng
không nghĩ ra cái mà bộ óc thông minh có.
Ðược trực tiếp gặp gỡ các nhà cách mạng Việt Nam, được
quan sát họ ở khoảng cách gần, tôi hiểu họ là ai. Phần nhiều họ là những người
yêu nước, xuất thân từ những tầng lớp dưới, do ý thức được thân phận nô lệ mà
theo chân các nghĩa sĩ Cần vương, Ðông kinh Nghĩa thục và những người cách mạng
lớp đàn em có xu hướng cộng sản. Trước khi vào Ðảng cộng sản họ là thành viên của
các tổ chức Thanh niên Cách mạng Ðồng chí hội, Tân Việt cách mạng đảng, Ðông
Dương Cộng sản Liên đoàn. Kiến thức học đường của họ gồm có một chút chữ Hán, một
chút quốc ngữ, cả hai chút này không đủ dùng cho sự tiếp cận triết học phương
Tây, mà chủ nghĩa Mác lại bắt nguồn từ đó, với phép biện chứng Hégel làm cơ sở.
Những tác phẩm chính bản của Mác và Engels chưa từng tới Việt Nam trong thời kỳ
thuộc Pháp. Những người có học nhất trong những nhà mác-xít Việt Nam chỉ được
tiếp xúc với chủ nghĩa Mác qua những cuốn giáo trình nhập môn. Lác đác có vài
người được đọc dăm ba cuốn khảo cứu nghiêm túc chủ nghĩa Mác bằng tiếng Pháp.
Trường Chinh là một trong những người hiếm hoi đó.
Chủ nghĩa Mác thường được nói tới ở Việt Nam thực chất
là chủ nghĩa Lênin, hay là chủ nghĩa Mác theo cách diễn dịch của Lênin, tước bỏ
phần khoa học (nghiên cứu về hàng hóa trong chủ nghĩa tư bản, về giá trị và giá
trị thặng dư), nhấn mạnh khía cạnh cách mạng bạo lực, đấu tranh giai cấp và
chuyên chính vô sản. Những khía cạnh này cũng không được Ðảng nói tới trong thời
kỳ bí mật. Thời kỳ đó Ðảng chỉ nói nhiều tới đấu tranh phản đế, giành độc lập.
Cướp được chính quyền rồi, thiết lập nhà nước Cộng hòa Dân chủ rồi, bước vào cuộc
kháng chiến chống Pháp rồi người ta cũng chưa nói tới. Chỉ sau khi đã ăn sống
nuốt tươi chủ nghĩa Mao người ta mới nhấn mạnh mấy thứ đó.
Chủ nghĩa Lênin là do Stalin đặt ra, từ léninisme là
do Stalin dùng đầu tiên, để trình bày không phải tư tưởng của Mác về thủ tiêu
chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội cộng sản, mà là quan điểm của Sta-lin về những
vấn đề này, cho nên gọi là chủ nghĩa Stalin mới đúng. Những nhà nghiên cứu chủ
nghĩa Mác ở Việt Nam chỉ được tiếp xúc với những ấn phẩm do Liên Xô cung cấp.
Những trước tác thời Mác trẻ ít được biết đến. Nguyên do là chúng không được giới
học giả Liên Xô quan tâm, hoặc giả họ biết đấy nhưng không dám nêu lên những luận
điểm yêu tự do ngỗ ngược của Mác, là những cái không hợp ý Stalin. Hậu quả là
những nhà nghiên cứu đàn em không có sách để đọc. Trong Mác có hai con người,
Mác trẻ và Mác già. Mác trẻ là người dân chủ và thực tiễn, Mác già thiên về tư
biện, mà là tư biện khiên cưỡng, ý muốn thuyết phục đi trước sự lý giải cần
có.
Cả hai cái đó - chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lênin hiểu
đúng và hiểu không đúng, đều không phải là chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. ê Việt
Nam có một chủ nghĩa cộng sản không dính dáng gì tới Mác hoặc Lênin hết. Nó là
chủ nghĩa cộng sản bình dân. Nó kêu gọi đấu tranh cho một xã hội không có người
bóc lột người, một cuộc sống tự do, công bằng và hạnh phúc, một địa cầu không
biên giới. Ðó chính là chủ nghĩa cộng sản mà cha mẹ tôi theo, là cái mà ông bà
muốn trao lại cho chúng tôi. Chủ nghĩa cộng sản này còn giữ tên gọi cũ hay mang
tên mới trong tương lai, theo tôi nghĩ, sẽ mãi mãi còn với loài người với tư
cách một ước mơ. Chính chủ nghĩa Mác dung tục và thô thiển, chứ không phải chủ
nghĩa Mác hàn lâm hoặc chủ nghĩa Mác cường đạo, mới là cái hữu ích cho phong
trào giải phóng dân tộc. Hấp lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Có người nô lệ yêu nước
nào lại từ chối một viễn cảnh huy hoàng như thế ? Vào thời cha mẹ tôi phần lớn
những người cách mạng đều tự hào nhận mình là cộng sản. Chính sự lầm lẫn này về
sau đã sinh ra một nghịch lý : những nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam thường tỏ
ra là những chiến sĩ tài ba khi họ ít được học chủ nghĩa Mác, còn khi bập bõm
chủ nghĩa Mác rồi thì họ lại sa vào hết sai lầm này tới sai lầm khác.
Giữa hai cha con tôi đôi khi cũng có những cuộc trò
chuyện về lý thuyết cách mạng. Cha tôi nói rằng trong công tác bí mật bề bộn, vừa
phải lẩn trốn địch vừa vận động quần chúng, tổ chức và chắp nối các cơ sở cách
mạng (là công việc chính trong hoạt động của ông), ông không có thời giờ đọc hết
một tác phẩm nào của Mác hoặc Engels. Ông chỉ bắt đầu đọc Mác sau khi hòa bình
lập lại. Ðọc một cách vất vả. "Những cuốn sách quá khó hiểu đối với bố,
ông nói. Bố ít học, lại không có năng khiếu về triết. Xét cho cùng, bố chỉ có
thể là con kiến thợ của cách mạng mà thôi. Cho nên thế hệ các con có điều kiện
để nghiên cứu thì ráng nghiên cứu cho kỹ các lý thuyết xã hội học. Lý thuyết là
lý thuyết, nó không thay thế được thực tiễn, nhưng không thể bỏ qua không
nghiên cứu những gì các thế hệ đi trước nếu không muốn sa vào những sai lầm lẽ
ra có thể tránh được". Người thường giảng cho cha tôi nghe về triết học là
ông Trần Ðức Thảo(4). Ông đến ăn cơm với cha tôi, bộ quần áo nhàu nát nhiều
ngày không giặt và bốc mùi, say sưa nói về những vấn đề thuộc những tầng trời
xa lắc. Xong bữa, ông chiếu cố bước xuống trần thế, giải thích cho cha tôi những
khái niệm của Mác, thỉnh thoảng lại chêm vào những lời bình chướng tai đối với
tư tưởng chính thống đang ngự trị trong Ðảng cộng sản. Cha tôi chăm chú nghe,
chỗ nào chưa hiểu, ông hỏi lại. Cha tôi kém hiểu biết, nhưng ông không giáo điều.
Ông thường lấy hình ảnh con ngựa nhà đòn, với hai miếng da che mắt, chỉ nhìn thấy
một đường để khuyên chúng tôi không được nhìn một chiều, nghe một tiếng.
Tôi hiểu các nhà lãnh đạo qua cha tôi. Phần lớn họ
thuộc thế hệ cha tôi, trạc tuổi cha tôi. Họ có tiểu sử na ná như nhau, tất cả đều
là những người yêu nước trước khi thành cộng sản. Họ nhập vào hàng ngũ cộng sản
mà không hiểu chủ nghĩa cộng sản là gì. Chỉ cần biết chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn
một tương lai tốt đẹp cho công cuộc giải phóng dân tộc là đủ. Trong đám đồng
chí của mình cha tôi thuộc số ít những người tương đối có học, vậy mà ông còn
phải thú nhận sự dốt nát của ông về học thuyết cộng sản. Ðủ thấy những người
kia cũng chẳng hiểu biết hơn ông bao nhiêu, nếu như trời không phú cho cho họ
trí thông minh lớn hơn. Bi kịch xảy ra cho cha tôi bắt nguồn từ đây - do ý thức
được sự dốt nát của mình, ông chịu khó đọc, chịu khó học, để rồi kiến thức mà
ông thu lượm được cuối cùng lại tách ông khỏi những đồng chí tự thị.
Lê Duẩn sớm tham gia các hoạt động chống Pháp, được
các bậc cách mạng đàn anh dìu dắt vào đường cộng sản, có thời đã làm bí thư xứ ủy
Trung kỳ, tham gia khởi nghĩa Nam kỳ, từng bị đi đầy Côn đảo. Theo nhận xét của
các ông Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm thì Lê Duẩn là người cực đoan về tính
cách, phóng túng trong hành xử. Ngay tại Côn Ðảo, nơi những người tù không phân
biệt xu hướng phải nương tựa nhau để chống lại kẻ thù chung, Lê Duẩn không chịu
hòa hợp với những người yêu nước không cộng sản khác - những người tờ-rốt-kít,
những đảng viên Quốc dân đảng. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Lê Duẩn còn
lâu mới được coi là ngang hàng với những nhân vật nổi tiếng trong phong trào
cách mạng miền Nam như Trần Văn Giàu, Phạm Văn Bạch, Dương Bạch Mai...Những nhà
cách mạng trí thức khi ra Hà Nội họp Quốc Hội và tham gia chính phủ đoàn kết
dân tộc với tư cách đại diện miền Nam thành đồng bị kẹt lại ở miền Bắc vào thời
điểm cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Vắng mặt họ Lê Duẩn mới dần dần từ những
chức vụ khiêm tốn bước lên địa vị người lãnh đạo kháng chiến Nam bộ.
Cần phải thừa nhận rằng Lê Duẩn là người lãnh đạo giỏi.
Những người bạn miền Nam tập kết của tôi nói về "anh Ba Duẩn" với giọng
kính trọng và tự hào. Niềm tự hào này kéo dài không lâu. Sau khi "anh
Ba" trở thành tổng bí thư, ông không làm gì được cho họ hơn là đẩy họ tới
những miền hoang vu để khai hoang, lập ra các nông trường, khuyến dụ họ họp
thành những tập đoàn sản xuất nhỏ nhoi để tự nuôi thân. Ðến lúc ấy thì họ giận
dữ. Khi con người nổi giận thì lẽ công bằng không còn nữa. Thay vì ca ngợi họ
nguyền rủa ông. Tôi tin niềm tự hào trước kia của họ hơn những lời nguyền rủa
sau này. Lê Duẩn hay bất kỳ ai khác ở địa vị ông đều không thể làm gì hơn cho
những người từ miền Nam màu mỡ ra miền Bắc nghèo khổ vừa bước ra khỏi cuộc chiến
tranh kéo dài chín năm.
Bằng vào những câu chuyện kể của họ khi họ còn ngưỡng
mộ "anh Ba" thì Lê Duẩn là người độc lập trong suy nghĩ, có biệt tài
tổ chức, trong chỉ đạo có vẻ chặt chẽ nhưng lại linh hoạt, thoáng đấy mà nghiêm
đấy. Hồi kháng chiến chống Pháp, mặc dầu ở xa Trung ương, những chủ trương chủ
trương của ông đề ra vẫn khớp với chủ trương của Trung ương trong mọi mặt. Người
ta sùng bái ông, gọi ông là Cụ Hồ miền Nam.
Thật vậy, trong một số lĩnh vực Lê Duẩn không sao
chép những chủ trương của Trung ương Ðảng đóng trong rừng già Việt Bắc mà làm
theo cách của mình. Trong khi miền Bắc được sự chỉ đạo trực tiếp của các cố vấn
Trung Quốc ầm ầm bước vào Cải cách ruộng đất theo hình mẫu Cải cách thổ địa của
Trung Quốc thì ở miền Nam Lê Duẩn kiên quyết không cho tiến hành Cải cách ruộng
đất, tránh cho cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Nam những tổn thất chắc chắn
là rất lớn. Một sự cưỡng lại cấp trên như thế không thể làm cho tổng bí thư Trường
Chinh hài lòng.
Hiệp nghị Genève 1954 chia nước Việt Nam thành hai miền
Nam Bắc. Tại Ðại hội Ðảng lao động Việt Nam lần thứ III năm 1960, trước sự sa
sút trầm trọng uy tín của Ðảng vì những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, và
cũng để xoa dịu nỗi bất bình trong quần chúng, chức vụ tổng bí thư do chủ tịch
Ðảng Hồ Chí Minh tạm kiêm nhiệm một thời gian nay được chính thức trao cho Lê
Duẩn(5).
Mọi người đều ngạc nhiên trước kết quả của Ðại hội.
Trong kháng chiến chống Pháp Võ Nguyên Giáp là nhân vật lãnh đạo đứng hàng thứ
ba, chỉ sau có Hồ Chí Minh và Trường Chinh. Trường Chinh ra đi, chức tổng bí
thư mặc nhiên phải thuộc về Võ Nguyên Giáp, ai chả nghĩ thế. Nhưng sự đời lại
diễn ra theo cách khác. Theo nhận xét của những người cộng sản thuộc thế hệ đầu
tiên thì cả Hồ Chí Minh lẫn Trường Chinh đều lo ngại ông tướng đã có quá nhiều
vinh quang sẽ trở nên không dễ bảo sau cuộc đảo lộn ngôi thứ. Mà cả Hồ Chí Minh
lẫn Trường Chinh đều muốn giữ lại vị trí trước kia của họ về thực chất, cho dù
danh nghĩa không còn. Cần phải chọn một người có vị trí và uy tín kém hơn Võ
Nguyên Giáp. Do biết ơn người cất nhắc mình, người đó sẽ vừa ngoan ngoãn vừa
trung thành. Lê Duẩn thích hợp hơn cả với vai trò đó. Trong điều kiện đất nước
chia hai, mà trước mắt là mục tiêu thống nhất đất nước thì đưa một người từng
lãnh đạo miền Nam lên làm tổng bí thư cũng là lý do dễ thuyết phục. Tôi tin
cách lý giải này hơn là cách lý giải của những người cho rằng Lê Duẩn được chọn
vì có thâm niên ở tù cao hơn tướng Giáp.
Ðó là may mắn trời cho đối với Lê Duẩn. Theo truyền
thống lãnh tụ suốt đời Trường Chinh sẽ chẳng bao giờ rời khỏi ghế tổng bí thư nếu
như không xảy ra những tổn thất rùng rợn chưa từng có trong lịch sử dân tộc.
Không phải những đồng chí nghiêm khắc trong Ðảng mà những oan hồn Cải cách ruộng
đất đã quật ngã không thương tiếc vị lãnh tụ đứng ở vị trí thứ hai trong Ðảng,
người mà chân dung đã được treo ở khắp các công sở, trong mọi nhà, được tung hô
vạn tuế không kém Hồ Chí Minh là mấy(6).
Nhưng cũng từ đây Lê Duẩn bắt đầu những sai lầm làm mất
đi uy tín đã có trong quần chúng, dù mới chỉ trên một phần đất nước.
Quyền lực là một thứ ma túy cực mạnh. Nó đã thấm vào
máu thì con người mất hết tỉnh táo.
Miền Bắc cho đến khi ấy hoàn toàn nằm trong tay lớp
cán bộ do Trường Chinh đào tạo. Tình hình này không thể không làm cho tân tổng
bí thư lo ngại. Như một kỵ sĩ bất ngờ phải nhảy lên lưng con ngựa của người
khác, Lê Duẩn lúng túng, lo con ngựa sẽ không phục tùng tay cương của chủ mới.
Cần phải tìm người tháo gỡ tình hình. Sự lựa chọn rơi vào Sáu Búa Lê Ðức Thọ.
Là người miền Bắc, được Trường Chinh cử vào Nam năm
1947 với tư cách ủy viên thường vụ Trung ương Ðảng để nắm Trung ương cục miền
Nam, nhưng Lê Ðức Thọ đã không một lần tranh được chức bí thư miền. Cũng có lúc
hục hặc với Lê Duẩn, nhưng sau đó ý thức được thân phận mình trên đất lạ, Lê Ðức
Thọ lại tìm sự liên minh với Ba Duẩn để trở thành Sáu Búa. Ðược bầu vào Bộ
Chính trị trong Ðại hội III, Lê Ðức Thọ chính thức giữ chức Trưởng ban Ban tổ
chức Trung ương (mặc dầu trước đó đã tạm nắm vài năm) thay cho Lê Văn Lương phải
ra đi do những sai lầm Chỉnh đốn tổ chức. Cái chuồng ngựa của Lê Văn Lương được
phá đi. Thay vào đó là một hệ thống tổ chức hoàn toàn mới.
Hệ thống này không biết do chính Thọ nghĩ ra hay do
quân sư nào mách nước, là đứa con lai mang hai dòng máu Gestapo-Stasi và Khang
Sinh (Kang Sheng)(7). Theo nguyên tắc mới của Thọ mọi việc tổ chức và nhân sự
nhất nhất phải qua sự kiểm tra của Ban tổ chức Trung ương. Mỗi đảng viên phải
làm lại lý lịch, căn cứ vào thành phần xuất thân và quá trình công tác mà được
ngành tổ chức đặt vào vị trí này hay vị trí khác. Thậm chí các đại biểu được
các cấp bộ đảng bầu ra để đi dự Ðại hội Ðảng cũng phải trải qua một kỳ kiểm tra
ngặt nghèo tư cách đại biểu. Với một quy chế như thế nền dân chủ trong Ðảng chỉ
là một nền dân chủ bị thiến. Nhưng về mặt khác thì đây thật là một tổ chức hoàn
hảo mà bất cứ tên độc tài nào cũng muốn có.
Sự lựa chọn của Lê Duẩn là sáng suốt. Không ai có thể
bằng Lê Ðức Thọ trong số những người miền Bắc đã nhiều năm làm việc ở miền Nam
dưới quyền Duẩn. Thêm nữa, được Lê Duẩn cất nhắc Thọ chắc chắn phải mang ơn Duẩn.
Thọ chính là người duy nhất cần có để tạo dựng một bộ máy cai trị vững chắc, loại
trừ ảnh hưởng của Trường Chinh.
Thọ không phụ lòng tin cậy của đàn anh. Một mặt, dưới
sự chỉ đạo của Thọ đội ngũ cán bộ mau chóng được sắp xếp lại theo ý muốn của Lê
Duẩn. Những người tỏ ra quá trung thành với Trường Chinh dần dần bị thuyên chuyển
khỏi những chức vụ quan trọng, thay chân họ là những đệ tử ruột của Thọ, tức của
Duẩn.
Sự cải cách bộ máy quyền lực vô hình trung đã đem lại
cho Thọ ảnh hưởng mỗi ngày một lớn, tạo ra một quyền lực nhị trùng trong thực tế.
Mặt này là mặt Lê Duẩn không lường trước.
Người ta ví triều đại Lê Duẩn như thời Vua Lê - Chúa
Trịnh. Vào những ngày lễ, ngày tết cứ trông số xe cộ đậu trước cung Vua và phủ
Chúa mà biết quyền lực thực sự nằm trong tay ai. Mọi quan chức trong Ðảng cũng
như trong chính quyền (mà hai cái chỉ là một) đều lệ thuộc ngành tổ chức có hệ
thống dọc từ Trung ương xuống đến cơ sở. Việc thuyên chuyển, bổ nhiệm, cách chức
nhất nhất đều liên quan trực tiếp tới Ban tổ chức Trung ương, mà người quyết định
tối hậu là Sáu Búa. Cho nên nếu số xe cộ đến chầu chực trước phủ Chúa có nhiều
hơn trước cung Vua cũng là chuyện thường tình.
Lê Duẩn hiểu ra cơ sự khá muộn màng. Vua Lê mới không
biết rằng Ban tổ chức Trung ương, hay phủ Chúa, quyền lực còn lớn hơn cả Vua.
Ban tổ chức Trung ương nhúng
tay vào mọi việc lớn nhỏ, sai phái mọi quan chức, chỉ
đạo các địa phương(8). Vì cơ quan tổ chức quan trọng như vậy cho nên các vụ trưởng
trong Ban tổ chức Trung ương được Thọ cho ăn lương (của Nhà nước) theo cấp
chuyên viên 9, nghĩa là ngang lương bộ trưởng các bộ quan trọng (bộ trưởng các
bộ làng nhàng chỉ ăn lương chuyên viên 7, chuyên viên 8).
Bên dưới Ban tổ chức Trung ương là Bộ Nội Vụ. Nó là bộ
máy thực hành trấn phản, được Thọ trao cho đệ tử ruột là Trần Quốc Hoàn. Tôi sẽ
nói tới mối quan hệ chủ tớ Thọ-Hoàn vào lúc khác. Nó là một chuyện thú vị,
không phải chuyện thọc mạch đời tư, nhờ đó ta thấy cơ cấu băng đảng trong một
nhà nước chuyên chế hình thành như thế nào.
Một hôm Hoàng Minh Chính đến chơi nhà Lê Ðức Thọ gặp lúc
Thọ đang nổi nóng vì một bà vụ trưởng. Bà ta đang vật nài thư ký riêng của Thọ
xin gặp Thọ.
- Con mẹ ngu hết chỗ nói ! - Thọ bực bội lớn tiếng
trong khi tiếp Hoàng Minh Chính - Nó lải nhải suốt, một xin Ðảng xét, hai xin Ðảng
xét. Mẹ kiếp, tao chưa có thời giờ xem lại nhân sự các Bộ, nó đã đâm đơn hết cửa
này đến cửa khác. Tao chưa duyệt thì đừng có hòng. Nó phải hiểu Ðảng là tao, là
tao đây này ! Còn đi xin ở chỗ nào nữa ?
Bà này, tất nhiên, đã tính sai. Rồi bà ta cũng được
làm thứ trưởng "Ba đảm đang"(9), Hoàng Minh Chính cho biết, sau một
cuộc tạ tội đầy nước mắt với "Anh Sáu".
Những đảng viên kỳ cựu biết bản chất của Thọ, thấy Thọ
nắm quá nhiều quyền lực, lại được Lê Duẩn ưu ái, lấy làm lo cho Ðảng, đặt mọi
hi vọng vào Trường Chinh, hi vọng cựu tổng bí thư sẽ tìm cách ngăn cản sự lộng
hành của Thọ.
Nhưng Trường Chinh hoặc không biết âm mưu sâu xa của
Thọ, hoặc ý thức được thế yếu của mình, luôn tỏ ra khiêm tốn và nhường nhịn,
khép nép đứng ké vào liên minh Duẩn-Thọ như một kẻ thua cuộc biết điều. Chí ít
thì người ta cũng không bao giờ thấy ông có thái độ khó chịu với kẻ đang chễm
chệ ngồi trên ngôi vị vốn dĩ thuộc về ông.
Cho đến lúc xảy ra vụ xung đột giữa hai đường lối
trong phong trào cộng sản quốc tế vị thế của Lê Duẩn đã vững lắm. Cũng vào thời
điểm này Lê Duẩn bắt đầu cảm thấy e ngại những ý kiến bất bình của các đảng
viên kỳ cựu đối với cách lãnh đạo tự quyền, phớt lờ những chuẩn mực sinh hoạt
dân chủ tối thiểu, của ông ta. Việc Lê Duẩn chống những nghị quyết của Ðại Hội
XX về thực chất là sự bảo vệ quyền lực độc tôn.
Cần phải chặn đứng trào lưu đòi tự do dân chủ âm ỉ đã
được Thọ phát hiện. Khẩu hiệu bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin là lá bài tốt. Nó cho
phép Ba Duẩn bóp chết mọi mưu toan phá hủy chế độ độc tài. Nó gìn giữ sự an
toàn của ngai vàng.
Nhưng không thể trắng trợn theo Bắc Kinh. Ðể chủ soái
vui lòng, các lý thuyết gia nội hóa múa bút tạo nên hệ lý thuyết riêng của Lê
Duẩn, gồm mấy điểm chủ chốt : một là xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên tinh thần
làm chủ tập thể, hai là tinh thần cách mạng tiến công - tiến công không ngừng,
tiến công liên tục, lấn tới từng bước, đánh đổ từng bộ phận của chủ nghĩa đế quốc
dựa trên sức mạnh kết hợp của ba dòng thác cách mạng. Với tư cách lý thuyết gia
hàng đầu của cách mạng Việt Nam, thái thượng hoàng hụt cũng ra công giúp rập Lê
Duẩn trong mưu toan trở thành một trong những nhà kinh điển mác-xít cấp châu lục
trong giai đoạn mới, để chứng minh Lê Duẩn không phải mao-ít. Trường Chinh tự lột
xác hay bị lép vế, là điều đến nay còn là bí mật.
Hoàng Minh Chính kể khi Nikita Khrusov nổ phát súng đầu
tiên vào chế độ toàn trị và cá nhân Stalin, vào đầu năm 1956, Trường Chinh còn
tỏ ra rất hăng hái ủng hộ cuộc cách tân chủ nghĩa xã hội. "Chủ nghĩa xã hội
không thể cùng tồn tại với tệ sùng bái cá nhân. - Trường Chinh nói - Chủ nghĩa
xã hội là dân chủ, sùng bái cá nhân là phản dân chủ, hai cái như nước với lửa,
chỉ có thể là cái này hoặc cái kia, không thể hai cái cùng một lúc. Ðồng chí
Khrusov làm thế là phải lắm, mà dũng cảm lắm". Quan điểm này Trường Chinh
không phải chỉ nói với một Hoàng Minh Chính.
Cũng theo Hoàng Minh Chính thì trong thâm tâm Trường
Chinh không hài lòng với sự sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh, mà ông ta nhận định
là có, tuy ở mức độ không đến nỗi trầm trọng. Còn theo một số người biết Trường
Chinh nhiều hơn thì Trường Chinh là người háo danh ghê gớm, nhưng háo danh một
cách kín đáo. Ông ta cần chống sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh để kiến tạo sùng
bái cá nhân mình. Vì lẽ đó ông ta đã tán thành Khrushov.
Nhà báo Trần Ðĩnh có thời gian giúp việc Trường Chinh
cho rằng đặc điểm nổi bật trong con người Trường Chinh là chủ nghĩa giáo điều,
kinh viện. Chủ nghĩa xét lại (hiện đại hay không hiện đại là chuyện tầm phào,
chuyện ngôn từ khẩu chiến lăng nhăng của đám mao-ít) chưa đủ vững chắc để trở
thành giáo điều mới, cho nên Trường Chinh dễ dàng bỏ nó để chạy theo chủ nghĩa
thực dụng. Tôi nghĩ rằng nhận xét của anh gần với sự thật.
Trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp kiến thức
về chủ nghĩa Mác của tôi, cũng như của nhiều anh em khác, chỉ gói tròn trong một
mớ chắp vá từ những cuốn triết học nhập môn của Politzer, Trần Văn Giàu, Ðào
Duy Anh (Hình nhi thượng học và Hình nhi hạ học). Ngoài ra, có hai trước tác
cũng được kể như sách gối đầu giường là cuốn Chủ Nghĩa Mác và Vấn Ðề Văn Hóa Việt
Nam và cuốn Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Ðịnh Thắng Lợi(10) của Trường
Chinh.
Vào thời kỳ này sách rất hiếm, dùng sách phải rất cẩn
thận - chỉ cần sơ ý một chút là những trang giấy bản mủn ngay ra trên tay. Nếu
chẳng may nhà in đóng thiếu vài trang thì chúng tôi, những kẻ ham đọc, phải cần
mẫn chép tay những trang thiếu để dán bù vào cho đủ. Tôi đã chép không biết bao
nhiêu trang sách trong thời kỳ đó.
Về sau này, khoảng đầu thập niên 50, tôi tình cờ vớ
được cuốn Chủ Nghĩa Mác Và Công Cuộc Phục Hưng Nền Văn Hóa Pháp(11) của Roger
Garaudy(12). Ðọc xong tôi mới ngã ngửa ra rằng ông Trường Chinh đáng kính của
tôi đã làm một bản sao tuyệt vời của cuốn này trong trước tác Chủ Nghĩa Mác và
Vấn Ðề Văn Hóa Việt Nam, được ca tụng như một văn kiện có tính chất cương lĩnh.
Bố cục cuốn sách gần như giữ nguyên, thậm chí Trường Chinh trích dẫn đúng những
đoạn mà Roger Garaudy trích dẫn Mác, Engels, và cả Jean Fréville. Tiếp đó là sự
phát hiện đáng buồn của tôi về cuốn Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Ðịnh Thắng Lợi.
Nó quá giống cuốn Trì Cửu Chiến Luận (Bàn về đánh lâu dài) của Mao Trạch-đông,
trừ đoạn mở đầu rất đẹp, là một áng văn rất hay. Tôi vẫn chịu ơn ông Trường
Chinh về những gì tôi đã học được trong hai cuốn sách của ông, đặc biệt về văn
chính luận. Cách hành văn của Trường Chinh không những đẹp mà còn trong sáng, dễ
hiểu. Còn chuyện như thế có phải đạo văn hay không lại là chuyện khác. Nguyễn
Du lấy cốt Ðoạn Trường Tân Thanh mà làm ra Kiều, nhưng không phải vì thế mà người
ta coi Kiều là tác phẩm đạo văn.
Nếu hai tác phẩm của Trường Chinh là đạo văn thì cuốn
Sửa Ðổi Lề Lối Làm Việc của ông Hồ Chí Minh cũng là đạo văn nốt. Nó là bản diễn
nôm cuốn Chỉnh Ðốn Văn Phong của Mao Trạch-đông cộng một chút Sự Tu Dưỡng Của
Người Ðảng Viên Cộng Sản của Lưu Thiếu Kỳ.
Hình như khi mình chưa đủ sức tự làm lấy thì bắt chước
người không phải là xấu. Học giả Nguyễn Văn Ngọc(13) khi viết bài :"Tính
hay bắt chước của người mình" cũng chỉ mới phàn nàn thôi, chứ cũng không
có ý lên án. Tệ nhất là cái khác, như danh họa Picasso nói :"Bắt chước
không xấu, tự bắt chước mới xấu".
Ðáng buồn là sau này, khi Ðảng cộng sản Việt Nam bớt
bắt chước người ngoài thì lại sa vào thói quen tự bắt chước, mà lại tự bắt chước
rặt những cái xấu.
Tôi đã đi lan man khỏi chủ đề.
Một câu hỏi khác được đặt ra là : vậy thì, trong tình
hình vị thế của Lê Duẩn đã vững vàng như thế, ông ta cần gì phải trấn áp những
người có ý kiến ngược ?
Anh Phùng Mỹ, cán bộ Viện Triết học, trong khi bị
giam chung cùng với tôi tại trại Tân Lập, cho rằng chúng tôi chẳng qua là vật
hiến tế của Lê Duẩn dâng lên ban thờ Mao Trạch-đông. Ðường lối đánh đu giữa hai
cọc, chính chuyên với hai chồng cùng một lúc đã hết thời của nó, chẳng còn lừa
được ai. Ban lãnh đạo Ðảng quyết định bắt chúng tôi để chứng tỏ Việt Nam có đường
lối đối ngoại độc lập, vừa có tác dụng xoa dịu Mao, vừa làm mình làm mẩy trước
Liên Xô.
Trong chuyện đường lối của Ðảng cộng sản Việt Nam thời
kỳ ấy, với tất cả sự rối rắm làm nhiều người hiểu theo nhiều cách khác nhau,
tôi nhớ tới nhận xét của nhà báo Liên Xô Evguéni Kobélev nói với tôi vào giữa
thập niên 60 :"Lê Duẩn tỏ ra thân Liên Xô nhiều quá là không có lợi cho Việt
Nam đang chống Mỹ". Tôi cười, không tranh luận. Tôi biết, trong thời kỳ
này Kobélev đã đánh mất tính độc lập suy nghĩ của người làm báo. Ông đang viết
cuốn Bông Sen Việt Nam ca ngợi chủ tịch Hồ Chí Minh, ông được các nhà lãnh đạo
Việt Nam ưu ái. Cũng có cái nhìn tương tự Kobélev, khi nhân viên KGB ở Việt Nam
báo cáo về cho ban lãnh đạo Ðảng cộng sản Liên Xô biết dường như có một âm mưu
đảo chính bất thành vừa xảy ra tại Hà Nội, tức là nhân viên này chẳng biết quái
gì về những việc xảy ra. Báo cáo của KGB chỉ chứng tỏ Liên Xô không hề nhúng
tay vào chuyện âm mưu đảo chính, như Lê Ðức Thọ vu cáo. Về bản báo cáo của KGB
tôi chỉ được biết vào năm 1993, do chị Inna Malkhanova, một nhà Việt Nam học
người Nga kể lại. Chị được nghe nội dung bản báo cáo nói trên vào năm 1968, được
đọc nguyên bản năm 1991, khi có điều kiện tiếp cận những kho tư liệu mật và tối
mật của Ðảng và Nhà nước xô-viết.
Trong thực tế, theo tôi, cuộc đấu tranh về quan điểm,
đường lối mang tính chất dung tục, tính chất đời thường hơn người ta nghĩ.
Trong nỗi lo lắng về quyền lực của Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp lồ lộ như một hiểm họa.
Chính vì thế mà Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ bao giờ cũng nhất quán trong mục tiêu hạ
uy thế tướng Giáp. Cả hai hiểu rất rõ rằng vị trí cao nhất trong Ðảng lẽ ra phải
thuộc tướng Giáp, chứ không thuộc về họ và tướng Giáp là người bất cứ lúc nào
cũng có thể thay thế họ một khi họ trượt chân.
Trong cách tính toán của Duẩn - Thọ có sự đánh giá
quá cao đối thủ !
Họ quá lo sợ trước uy tín của tướng Giáp trong quân đội.
Họ quá lo sợ trước vầng hào quang người chiến thắng Ðiện Biên trong dân chúng.
Tội thay, trên thực tế tướng Giáp không phải là đối thủ của cả Lê Duẩn võ biền
lẫn Lê Ðức Thọ mưu lược. Chiến lược đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận của
Lê Duẩn chưa kịp đem ra dùng cho tướng Giáp thì tướng Giáp đã cài số lùi rồi.
Tôi đã nói tới chuyện nhà cầm quyền e dè trí thức như
thế nào. Ðúng là trong thời gian này trí thức có hướng về Võ Nguyên Giáp thật.
Người ta tin tướng Giáp, bởi vì ông đã từng là "giáo sư trường Thăng
Long", chẳng gì cũng là trí thức, là người có học, chứ không phải loại dùi
đục chấm mắm cáy.
Nhưng tướng Giáp lại chẳng phải như người ta nghĩ.
Ông đã phụ lòng tin của trí thức. Thậm chí khi những đòn chuyên chính vô sản
giáng xuống những người thân cận của ông, những chiến hữu của ông, ông đã không
dám hé răng nói một lời, mà chỉ ngoan ngoãn né qua một bên, mặc cho Lê Duẩn và
Lê Ðức Thọ muốn làm gì thì làm. Như một kẻ vô can, ông hiền lành khoanh tay
nhìn cuộc khủng bố trắng diễn ra trước mắt.
Bây giờ thì ai cũng biết những người bị bắt trong vụ
"nhóm xét lại chống Ðảng" không hề có liên quan gì với tướng Giáp
trong bất cứ mưu mô nào. Việc Lê Ðức Thọ đính họ vào tướng Giáp là sự ngụy tạo
hoàn toàn. Âm mưu đảo chính không hề có. Thọ làm những việc đó chỉ để vu vạ cho
tướng Giáp, để hạ bệ tướng Giáp, kẻ thù tiềm tàng, kẻ thù khả dĩ của Duẩn-Thọ
mà thôi.
Những người bị Ðảng coi là xét lại biết rõ Võ Nguyên
Giáp chẳng đại diện cho ai. Ông chưa từng và không hề là đối cực của liên minh
Duẩn-Thọ. Chưa bao giờ ông dám chống lại những chủ trương của liên minh này.
Ông có những bực mình nho nhỏ với Lê Duẩn, là chuyện có thật, nhưng không hơn.
Ông có đưa ra một số vấn đề hiện đại hóa quân đội, tức là có đi ngược tí chút với
đường lối lấy chiến tranh du kích chống chiến tranh hiện đại của đương kim tổng
bí thư và tướng Nguyễn Chí Thanh, nhưng ông không dám hé răng nói lấy một lời về
dân chủ và tự do là những vấn đề cốt lõi của mọi phong trào phản kháng.
Ðiều làm tôi phải suy nghĩ là : nếu Duẩn-Thọ muốn
dùng chúng tôi làm dê tế thần trong đền thờ Mao thì thời điểm 1967 đâu có phải
là thời điểm đẹp nhất để dâng hương. Ðáng lẽ phải làm việc này sớm hơn nhiều, từ
đầu năm 1964 kia, bởi vì đó mới là thời điểm Mao và ban lãnh đạo Ðảng cộng sản
Trung Quốc cần Việt Nam có thái độ dứt khoát trong cuộc xung đột quan điểm giữa
hai cường quốc xã hội chủ nghĩa.
Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ đã không bắt chúng tôi vào cuối
năm 1963, hoặc 1964, hoặc chậm hơn nữa - 1965. Họ đã không làm gì hết. Họ tử tế,
nhân đạo với các đồng chí chăng ? Họ tôn trọng luật pháp, chỉ bắt khi đã hội thật
đầy đủ những cái theo họ là chứng cứ chăng ? Ðó là điều không ai biết. Có vẻ
như họ cắn răng chịu đựng bọn xét lại ngang tàng dám cãi bướng bề trên thêm mấy
năm nữa, tới tận 1967 mới xuống tay.
Hóa ra không phải thế.
Duyên do là giữa canh bạc quốc tế mà hai tay chơi
khát nước Duẩn-Thọ lao vào với vận mệnh Tổ quốc giắt lưng, cả hai bỗng giật
mình thấy xì thẩu láng giềng đang sa vào bĩ cực. Bắc Triều Tiên bắt đầu đánh trống
lảng. Anbani đột nhiên lừng chừng, lập trường chẳng ra ngô cũng chẳng ra khoai.
Mặc dầu quan hệ Cuba-Liên Xô lủng củng, nhưng Cuba không ngả về phía Trung Quốc.
Ông luật sư Fidel Castro thừa hiểu rằng ở Trung Quốc không có gì của chủ nghĩa
Mác, rằng dưới sự lãnh đạo của ông giáo làng ở Hồ Nam cả một đại lục mênh mông
đang biến thành một chảo tạp pí lù lổn nhổn thịt xương đồng chí. Các đảng cộng
sản mất dần uy tín trong quần chúng, đảng viên ra đảng ngày một nhiều. Trong Ðảng
Lao động Việt Nam cũng xuất hiện sự phân hóa về quan điểm quốc tế, sự hoài nghi
đường lối thân Trung Quốc của ban lãnh đạo Ðảng.
Nhưng Duẩn-Thọ là người cẩn thận. Họ không dại gì tỏ
ra cứng đầu với ông đồng chí nông dân vùng Ukraina vốn nóng tính. Ngộ nhỡ ông
ta nổi cơn giận lôi đình cắt giảm những khoản viện trợ khổng lồ cho cuộc chiến
tranh ngày một tốn kém thì sao ?
Chỉ từ đầu năm 1967 trở đi, sau khi biết chắc chắn rằng
Leonid Brezhnev không phải là Khrusov, rằng đồng chí Brezhnev ưa các cuộc liên
hoan trao huân chương hữu nghị và sưu tầm xe ô tô du lịch hơn là những cuộc cãi
vã đã kiên quyết đưa Liên Xô trở về lối cũ, họ mới dám xuống tay diệt trừ hậu họa(14).
Ðến đây kẻ đánh lên tiếng kẻng báo động về một đường
lối sai lầm mới bị hạ ngục.
(1) Tên thật là Hà Văn Lộc, một nhà báo tên tuổi
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
(2) Ðơn đặt hàng (commande, tiếng Pháp)
(3) Phóng viên làm việc cho nhiều tờ báo Úc, thân
Mao.
(4) Nhà triết học, từng ở Pháp nhiều năm, xu hướng
mác-xít, tác giả Phénoménologie et matérialisme dialectique (Hiện tượng luận và
chủ nghĩa duy vật biện chứng), Paris 1951. Từng làm chủ nhiệm bộ môn triết ở Ðại
học tổng hợp Hà Nội, đề xướng hạt nhân duy lý, bị cấm giảng dạy, nhưng được
phép sống vất vưởng trong sự đe nẹt và o ép.
(5) Từ năm 1956 Trường Chinh đã không còn là tổng bí
thư Ðảng. Hồ Chí Minh kiêm nhiệm hai chức - chủ tịch Ðảng và tổng bí thư. Tân tổng
bí thư chỉ được bầu chính thức trong Ðại hội III (1960).
(6) Hồi ấy đã có một bài hát khá phổ biến, tôi không
nhớ tên tác giả, với những lời lẽ như sau :"Sông núi này bừng lên xanh
tươi vui đón Ngày mai. Ta đón chào Tương lai ta vẫy tay chào đồng chí. Ta hoan
hô Người Anh Cả Trường Chinh. Bao năm lo cho đất Việt tự do ..."
(7) Ủy viên Bộ Chính trị Ðảng cộng sản Trung Quốc phụ
trách tổ chức và an ninh.
(8) Theo điều lệ Ðảng, Ban tổ chức Trung ương là cơ
quan trông nom công việc tổ chức và nhân sự của Ðảng. Ðáng chú ý là Ðảng Công
nhân Dân tộc Xã hội chủ nghĩa Ðức (mà ta quen gọi là Ðảng Quốc Xã) cũng lập ra
một cơ quan tương tự là Gestapo (Geheime Staatspolizei) để bảo vệ Ðảng Quốc Xã
và nhà nước phát-xít. Lúc đầu (1933) Gestapo chỉ là bộ phận chính trị của nước
Cộng hòa Weimar, sau phình to ra với quyền lực vô biên. Mục đích của Gestapo
(cũng như của các thứ Ban tổ chức Trung ương nói trên) là tiêu diệt mọi lực lượng
chính trị chống đối nhà nước phát-xít. ê Liên Xô cơ quan có chức năng tương tự
là KGB (Komitet Gosudarstvennoi Bezopasnosti) với một chút khác biệt : về danh
nghĩa nó trực thuộc Hội đồng bộ trưởng, trong thực tế nó thực hiện những mệnh lệnh
trực tiếp từ Bộ Chính trị của Ðảng, phối hợp chặt chẽ với MVD (Bộ Nội Vụ). Sự
tương đổng này cho ta thấy cơ cấu nhà nước phát-xít và nhà nước xã hội chủ
nghĩa có giống nhau.
(9) Ba đảm đang - phong trào do Ðảng cộng sản đề xướng,
nhằm động viên lực lượng phụ nữ phục vụ chiến tranh.
(10) Tháng 7 năm 1948 tại Hội nghị văn hóa toàn quốc
lần thứ II, Trường Chinh đọc bản báo cáo nổi tiếng : Chủ Nghĩa Mác và Vấn Ðề
Văn Hóa Việt Nam. Cuốn Trường Kỳ Kháng chiến Nhất định Thắng lợi ra đời vào
giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
(11) Le Marxisme et la
Renaissance de la culture Francaise, Edit. Sociale 1946 (?).
(12) Nguyên ủy viên Bộ
Chính trị Ðảng cộng sản Pháp, trong thập niên 60 tuyên bố tự do sáng tác, không
cần đến Chủ Nghĩa Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa, trong cuốn Chủ nghĩa Hiện Thực
Không Kiềm Tỏa (Réalisme Sans Rivage), bị các giới chức văn hóa Việt Nam lên án
dữ dội, coi như một thứ hoa độc trong văn học.
(13) (1890-1942), tác giả
nhiều sách giáo khoa, sách giới thiệu văn học dân gian và văn học cổ Việt Nam.
(14) Tháng 10 năm 1964
Nikita Krusov bị hạ bệ, nhưng ở Liên Xô về đường lối đối nội và 61 ngoại dường
như không có gì thay đổi. Trung Quốc vẫn gọi bộ ba Leonid Brezhnev, Aleksei
Kosyghin, Nikolai Podgorny là "cỗ xe tam mã của tên xà ích giấu mặt"
(chữ dùng của tờ Pekin Information). Do đó ban lãnh đạo Ðảng Việt Nam vẫn còn e
ngại, chưa dám thẳng tay đàn áp những người cộng sản đòi mở rộng dân chủ.
Theo Hoàng Văn Hoan Hoan
trong hồi ký Giọt nước trong biển cả (NXV Tin Việt Nam, Bắc Kinh, 1986) thì khi
từ Nam ra Bắc vào năm 1957, Lê Duẫn đã gây sự chú ý trong một hội nghị Trung
ương đảng nhờ đã phân tích nguyên nhân của sai lầm trong trong cải cách ruộng đất
một cách 'thông minh'. Hoàng Văn Hoan viết:
- 'Vào khoảng cuối năm
1956 đầu năm 1957, Lê Duẩn đến Hà Nội, Trung ương quyết định ủy nhiệm làm quyền
Tổng Bí thư để giúp Hồ Chủ tịch giải quyết các việc hàng ngày của Ban Chấp hành
Trung ương. Với tư cách là quyền Tổng Bí thư Trung ương Đảng, nhưng Lê Duẩn
không mải miết ở bàn giấy như Trường Chinh, mà liên hệ rộng rãi với cán bộ đảng
viên với các nhân sĩ dân chủ. Trong các cuộc họp Bộ Chính trị hay Trung ương
cũng tỏ ra khiêm tốn, lắng nghe ý kiến của người khác và phát biểu không nhiều.
Theo anh ta nói, thì mới ra miền Bắc chưa hiểu tình hình, cần phải học hỏi, đặc
biệt là cần phải nghiên cứu tình hình kinh tế để xây dựng miền Bắc. Về việc sửa
sai trong cải cách ruộng đất, trong một cuộc họp Bộ Chính trị, Lê Duẩn có nêu một
số ý kiến, cho rằng cải cách ruộng đất sai lầm chủ yếu là ở chỗ không dựa vào Đảng,
mà chỉ dựa vào các tổ cải cách ruộng đất. Ở Trung Quốc sau khi giải phóng, cải
cách ruộng đất ở các vùng Hoa Trung, Hoa Nam phải dựa vào tổ cải cách ruộng đất
là vì ở đó cơ sở Đảng rất yếu, có chỗ hầu như không có. Còn ở Việt Nam, qua nhiều
năm chiến đấu, cơ sở Đảng đã phát triển sâu rộng trong nhân dân, nhưng cải cách
ruộng đất chẳng những không dựa vào Đảng mà lại còn đánh tràn lan cả vào cơ sở
Đảng.'
Ông Hoan là người chủ
trương thân Trung Quốc, người từng giữ chức Phó chủ tịch quốc hội và đã bỏ trốn
sang Trung Quốc sau khi bị loại khỏi Bộ chính trị vào năm 1978. Nếu đúng như thế
thì rõ ràng, Lê Duẫn là một con cáo già chính trị khi biết ẩn nhẫn chờ thời, mà
cũng có lẽ đúng như vậy thật. Theo những lời lẽ đầy cay cú của ông Hoan thì
trong giai đoạn này Lê Duẫn đã hạ mình, luôn làm ra vẻ khiêm tốn, cầu học và do
đó đã đánh lừa được cả bộ máy quyền lực ở miền Bắc thời bấy giờ để khi có cơ hội
mới trở mặt thao túng.
Theo phân tích của tác
giả Vũ Thư Hiên thì sau sai lầm tồi tệ của cải cách ruộng đất, Trường Chinh phải
từ chức và Hồ Chí Minh tạm kiêm nhiệm cả vai trò chủ tịch nước và tổng bí thư.
Lúc đó Võ Nguyễn Giáp, người nổi danh nhờ chiến thắng Điện Biên Phủ và 'vô can'
với cải cách, được xem là người đương nhiên thay thế trong đại hội đảng thứ III
vào năm 1960. Tuy nhiên cả Hồ Chí Minh lẫn Trường Chinh đều lo ngại cho viễn ảnh
này: nếu Võ Nguyên Giáp lên làm tổng bí thư thì - với uy tín và với đội ngũ tướng
tá dưới quyền làm vây cánh - ông ta sẽ hoàn toàn lất át họ và cả Hồ Chí Minh lẫn
Trường Chinh chỉ còn là những bóng ma mờ nhạt.
Bởi vậy, Hồ Chí Minh và
Trường Chinh phải tìm ra một nhân vật làng nhàng, không thể nào qua mặt họ, lại
không có hệ thống vây cánh. Như vậy thì Lê Duẫn, mới chân ướt chân ráo từ miền
Nam ra, đúng là týp người mà họ cần. Theo tính toán của cả Hồ Chí Minh lẫn Trường
Chinh thì khi làm như vậy Lê Duẫn sẽ biết ơn họ, do đó sẽ trở nên ngoan ngoãn
và trung thành. Và chính vì quá xem nhẹ Lê Duẫn nên cả cái ghế mà
Trường Chinh bỏ lại cho
ông ta ngồi không được gọi là 'tổng bí thư', thay vào đó Lê Duẫn được gọi là
'bí thư thứ nhất trung ương đảng'
Nếu cách lý giải này là
đúng thì rõ ràng Hồ Chí Minh và nhất là Trường Chinh đã tính sai. Có lẽ đây
cũng là một sai lầm khác của Trường Chinh, một con người hãy còn kiêu ngạo với
ngôi vị quyền lực số hai ở miền Bắc lúc đó, chỉ ở dưới Hồ Chí Minh và trên cơ
Võ Nguyên Giáp. Sự kiêu ngạo của Trường Chinh còn thể hiện ở thái độ của ông ta
sau hội nghị sửa sai của Trung ương đảng năm 1956 qua hồi ức của Hoàng Văn
Hoan:
- 'Qua sự phân tích đó
(của Lê Duẫn, đã dẫn ở trên), Bộ Chính trị thấy rằng việc thảo nghị quyết Trung
ương tổng kết kinh nghiệm cải cách ruộng đất, giao cho Lê Duẩn phụ trách là hợp
lý. Lê Duẩn từ chối với lý do Trường Chinh là người phụ trách cải cách ruộng đất
thì cứ để Trường Chinh phụ trách thảo nghị quyết là tốt hơn. Nhưng rồi Trường
Chinh cứ mắc míu dây dưa mãi cho đến Đại hội lần thứ ba của Đảng cuối năm 1960
mà nghị quyết vẫn không thảo ra được. Trong lịch sử Đảng, lần đầu tiên một cuộc
họp Trung ương quan trọng như thế mà không có một bản nghị quyết tổng kết là một
việc làm cho đảng viên hết sức thắc mắc. Chẳng những hội nghị Trung ương không
có nghị quyết, mà ngay cả trong quá trình sửa sai, Trường Chinh vẫn không dứt
khoát, nên những án oan, án giả không được minh oan và người bị quy sai thành
phần cũng không được tuyên bố một cách rõ rệt, cho nên mối oán thù trong cải
cách ruộng đất vẫn ăn sâu trong lòng một số người, thậm chí cho đến ngày nay vẫn
chưa phai nhạt.'
Lúc đó hệ thống quyền lực
của đảng và chính quyền ở miền Bắc hầu như nằm trọng trong tay Trường Chinh bởi
tất cả đều được cất nhắc, phân bổ bởi Lê Văn Lương, đàn em của ông ta. Tuy
nhiên Lê Văn Lương không chỉ có trách nhiệm trong cải cách ruộng đất mà còn đi
xa hơn trong chiến dịch 'chỉnh đốn tổ chức' ngay sau đó theo lời Hoàng Văn
Hoan:
- 'Tai hại hơn là lúc
chuyển sang giai đoạn 'chỉnh đốn tổ chức' thì chẳng những đánh vào trung nông
và phú nông, mà còn đánh cả vào các tổ chức cơ sở Đảng, phần lớn những người đảng
viên vào Đảng từ năm 1930, hoặc tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí hội từ
những năm 1925-1926 đều bị đấu tố và giam cùm. Đặc biệt là ở Nghệ-Tĩnh, do Đặng
Thí phụ trách thì nhà tù dựng lên khắp nơi, hầu hết cơ sở Đảng đều bị đánh phá
tan nát.'
Bởi thế Lê Văn Lương phải
rời khỏi Bộ chính trị và để cái ghế Trưởng ban tổ chức trung ương đảng cho Lê Đức
Thọ tạm nắm giữ, và đây cũng là một nước cờ rất sai của Trường Chinh.
Chính Trường Chinh đã cử
Lê Đức Thọ từ Việt Bắc vào Trung ương Cục miền Nam năm 1947 với tư cách phái
viên của trung ương đảng, kiểm soát đảng bộ miền Nam. Thế nhưng khi đến đây,
đơn độc thế cô thì Thọ không còn là người của Trường Chinh nữa mà lại liên minh
chặt chẽ với Lê Duẫn: chính nhờ làm việc ăn ý với Lê Duẫn mà Thọ mới khét danh
là Sáu Búa. Sau 8 năm làm việc với Lê Duẫn, năm 1955 Thọ lên tàu tập kết ra Bắc
và được bổ làm Trưởng ban Thống nhất trung ương và đến năm 1956 trở thành quyền
Trưởng ban tổ chức trung ương đảng.
Đến Đại hội III 1960 Lê
Duẫn chính thức trở thành Bí thư thứ nhất trung ương đảng thì Thọ được bầu vào
Bộ chính trị và chính thức trở thành Trưởng ban tổ chức trung ương và lúc này bộ
đôi họ Lê này chính thức gầy dựng vây cánh. Trong vai trò này, Thọ đã phá nát hệ
thống cán bộ do Chinh và Lương tạo nên, thay thế bằng một lớp lang cán bộ hoàn
toàn mới, hoàn toàn trung thành với mình. Và trong cuộc chiến phe phái này, Lê
Duẫn và Lê Đức Thọ cũng ra sức chặt bỏ vây cánh hay dằn mặt Võ Nguyên Giáp
trong vụ án xét lại chống đảng khi bắt giữ, bỏ tù không thời hạn nhiều tướng
lãnh, sĩ quan cao cấp thân cận với ông ta, làm nên một triều đại họ Lê cho tới
giữa thập niên 80.
Từ những thông tin hay
nhận định của Hoàng Văn Hoan và Vũ Thư Hiên, chúng ta quay trở lại với Lê Duẫn
qua nhận định của cựu phó thủ tướng Trần Phương về tư duy đổi mới của Lê Duẫn.
Lê Duẩn và 'sự nghiệp đổi
mới'
Trần Phương từng học
kinh tế ở Liên Xô về, làm trợ lý cho Lê Duẫn rồi sau lên làm bộ trưởng nội
thương, rồi phó thủ tướng. Trong bài phỏng vấn mang tựa đề 'Cố Tổng bí thư Lê
Duẩn và 'Đêm trước đổi mới'' đăng trên báo điện tử VietNamNet ngày 05.04.2007,
ông Phương cho biết Lê Duẫn là người có tầm nhìn xa, có tư duy sáng tạo không
ngừng và là người 'trăn trở đổi mới'. Thế nhưng, những gì mà ông Phương 'lý giải'
đã hoàn toàn đi ngược lại nhận định này, thí dụ như phản ứng của Lê Duẫn với số
phận của Kim Ngọc vào năm 1963.
Đó là thời gian mà đời sống
người nông dân miền Bắc vô cùng khốn khó, đúng như lời kể của Trần Phương: 'Tôi
vẫn nhớ từ những năm 60, trong nhiều cuộc họp ở Đồ Sơn, rất nhiều lần ông nổi
nóng với Chính phủ: 'Chúng ta điều hành mà không lo nổi cho dân rau muống ăn,
nước lã'.
Trong tâm trạng ấy, bí
thư tỉnh ủy Vĩnh Phú (Vĩnh Phúc nhập cùng Phú Thọ) Kim Ngọc không chỉ 'nổi
nóng' suông mà bắt tay hành động với tầm nhìn xa: phá rào hợp tác xã. Giữa lúc
phong trào hợp tác hóa nông nghiệp được tuyên truyền rầm rộ với thơ Tố Hữu như:
'Dân có ruộng dập dìu hợp tác. Lúa mượt đồng ấp áp làng quê' thì Kim Ngọc đã nhận
ra thực tế: hợp tác xã làm đình đốn sản xuất và làm dân đói. Từ đó, tỉnh Vĩnh
Phúc tiến hành 'xé rào', thực hiện việc giao ruộng và khoán sản phẩm tới nông
dân và mang lại những kết quả rất khả quan.
Thế nhưng chủ trương này
bị xem là đi 'phản chủ nghĩa xã hội' và chính Trường Chinh - trong vai trò Chủ
tịch quốc hội - đã viết bài trên tạp chí Học Tập phê phán Kim Ngọc: 'Những sai
lầm và khuyết điểm trên đã dẫn tới bằng nhiều hình thức khác nhau, đem chia lại
một phần ruộng đất từ tập thể sang cá nhân...'. Và ở đây Lê Duẫn cũng chỉ 'nổi
nóng' suông, ông Phương kể lại:
- 'Tôi nhớ một lần, sáng
ra, anh Ba 'quẳng' xuống bàn chúng tôi một tờ báo và nói: 'Đọc đi!'. Trông nét
mặt anh bộc lộ một cảm xúc khó tả, nhưng rõ ràng nhất là không thể nào chấp nhận
được những gì người ta đã viết trong đó. Chúng tôi cầm tờ báo lên: Trên trang
nhất là một bài viết dài phê phán ông Kim Ngọc và quan điểm khoán hộ. Tôi từng
hỏi anh: 'Tại sao anh không thẳng thắn, công khai phản bác lại những quan điểm
bảo thủ…'.Anh nói: 'Quan trọng nhất là phải giữ sự đoàn kết trong Đảng…'.'
Như vậy, ở đây chúng ta thấy được ít nhất hai đặc điểm
của Lê Duẫn. Thứ nhất, ông ta không dám đấu tranh hết mình cho lẽ phải: biết
Kim Ngọc đúng mà không có lấy nửa lời bênh vực Kim Ngọc. Thứ hai, nếu nhân danh
'sự đoàn kết trong đảng' thì ông ta đã đặt quyền lợi đảng lên trên quyền lợi của
người dân: chuyện của đảng quan trọng hơn chuyện dân sinh.
Nhưng thực ra cái gọi 'sự đoàn kết trong Đảng…' ở đây
chỉ là quan hệ dè chừng, ở thế cân bằng phe phái. Năm 1960 thì thế lực của Lê
Duẫn còn yếu và vây cánh tạo dựng vẫn chưa đủ mạnh để lấn át vây cánh của Trường
Chinh.. Về mặt đảng, ông ta thay thế Trường Chinh nhưng bị xem yếu phé hơn Trường
Chinh: sau khi chính thức thay thế thì chỉ được gọi là 'bí thư thứ nhất' chứ
không phải là 'tổng bí thư'. Trong hoàn cảnh đó Lê Duẫn phải giữ mình, không
dám động chạm đến Trường Chinh đúng như nhận định của Hoàng Văn Hoan đã nêu ở
phần trên.
Nếu lý lịch Trường Chinh dính vào vết nhơ 'cải cách
ruộng đất' và chiến dịch 'đánh Kim Ngọc' thì có vẻ như Lê Duẫn vô can. Thế
nhưng chính Lê Duẫn, trong vai trò người lãnh đạo cao nhất, phải chịu trách nhiệm
trước chính sách 'cải tạo công thương nghiệp' ở miền Nam sau năm 1975. Về điểm
này thì ông Trần Phương cho rằng Lê Duẫn cũng không là 'ngoại lệ' so với những
nhà lãnh đạo khác: họ tôn thờ Liên Xô, đi theo cái gương của Liên Xô:
- 'Thế hệ của anh Ba - những nhà cách mạng Việt Nam-
khi bắt đầu trưởng thành đã được chứng kiến câu chuyện Liên xô chiến thắng chủ
nghĩa phát xít một cách oai hùng như thế nào. Một đất nước nghèo khổ như Liên
xô sau chiến tranh đạt được những thành tựu lớn về kinh tế, làm thay đổi hẳn đất
nước, đem đến cho người dân phác hoạ tốt đẹp về mô hình XHCN đã trở thành thần
tượng duy nhất cho nhiều nhà cách mạng vô sản lúc đó. Theo tôi, Lê Duẩn cũng
không thể là một ngoại lệ. Trong bối cảnh chính trị lúc đó, nhiều nhà cộng sản
xuất sắc của thế giới cũng đã không thoát ra khỏi sự áp đặt của mô hình kinh tế
của Liên Xô. Lê cũng chỉ có thể sửa đổi những điều nhỏ của một tư duy lỗi thời
về mặt kinh tế mà không thể nào đưa đất nước đi ra khỏi những vạch chỉ sẵn của
lịch sử và thời thế.'
Nghĩa là những lãnh tụ này chỉ biết nhắm mắt đi theo
Liên Xô chứ không hề tư duy, không hề động não suy nghĩ. Họ phải đợi đến khi những
'mối họa' của hệ thống kinh tế XHCN bị bộc lộ rõ và được công khai hóa dưới thời
Gorbachev từ giữa thập niên 80, họ mới bắt đầu nhìn lại mình.
Như vậy thì đó là những nhà lãnh đạo chỉ biết nhắm mắt
rập khuôn theo một mô hình có sẵn ở nước Nga. Và như vậy thì làm sao chúng ta
có thể gọi đó là những nhà lãnh đạo với 'tầm nhìn chiến lược', hay 'tư duy đổi
mới, sáng tạo không ngừng'. Đó là những lãnh tu nhắm nghiền con mắt ắt trước thục
tế 'không lo nổi bó rau muống' cho người dân và chỉ biết có thực tế qua nhũng
báo cáo tốt đẹp trên sách báo, trên bản tin các hãng thông tấn nhà nước; làm sao
có thể gọi là người 'luôn suy nghĩ, tìm tòi, xuất phát từ tình hình thực tế,
phân tích, giải quyết những vấn đề mới do cuộc sống đề ra'?
Mọi lời lẽ ca ngợi Lê Duẫn đều là những lời rỗng tuếch,
tự mâu thuẫn, và do đó chỉ là những lời nói lấy được.
Thay lời kết
Với Đảng cộng sản Việt Nam thì có thể Lê Duẫn là người
có công: chính vì có Lê Duẫn mà cái đảng này mới có thể kêu gào về 'thời thắng
Mỹ', mới biến đất nước giàu đẹp này thành sân sau, thành gia tài riêng của mấy
triệu đảng viên, đặc biệt là của mấy ngàn đảng viên quý tộc có tên trong hàng
ngũ trung ương đảng qua nhiều đời (đại hội) khác nhau. Nhưng với dân tộc Việt
Nam thì Lê Duẫn là một tội phạm.
Trước hết, Lê Duẫn là một tội phạm chiến tranh.
So với những lãnh tụ khác trí thức hơn trong hàng ngũ
cộng sản thì Lê Duẫn chẳng là cái gì. Năm 1945, so với những Trần Văn Giàu,
Dương Bạch Mai, Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm, những người được đào tạo chính
quy vè chủ nghĩa Stalinist ở Nga về trong Xứ ủy Nam thì người công nhân ường sắt
chỉ học hết tiểu học này tỏ ra lép vé. Thế nhưng chính chiến tranh đã làm nên
danh vọng của Lê Duẫn: qua 9 năm đánh Pháp ở Nam kỳ Lê Duẫn đã qua mặt đám trí
thức cộng sản này và vươn tới thế giá của một nhà lãnh đạo tài ba.
Bởi vậy, để nuôi nấng thế giá lãnh đạo của mình thì
Lê Duẫn phải nuôn nấng chiến tranh: không có chiến tranh thì vai trò lãnh đạo của
Lê Duẫn sẽ không còn. Chính vì vậy mà, cùng với Lê Đức Thọ, ông ta đã sát hại,
trấn áp, đày đọa bao nhiêu đảng viên cộng sản khác chủ trương thống nhất đất nước
bằng con đường hoà bình. Và cái cuộc chiến mà Lê Duẫn say mê ấy đã đem lại những
cái giá vô cùng đắt về người, về của và một cái giá còn lớn hơn cho thế hệ
tương lai: thời gian phí phạm cho chiến tranh và sự tụt hậu.
Không những chỉ là một tội phạm chiến tranh, Lê Duẫn
còn là tội phạm trong hòa bình. Không chỉ làm đất nước tụt hậu với 30 năm chiến
tranh, Lê Duẫn còn làm đất nước tụt hậu trong suốt 20 năm hòa bình bằng cách nhắm
mắt đi theo mô hình của Liên Xô, những điều mà chúng ta đã bàn ở trên!
[1] 'Hội nghị Trung ương về sửa sai cải cách ruộng đất'
diễn trong tháng 9.1956, là một hội nghị 'kéo dài nhiều ngày nhất từ khi có đảng.
Hội nghị quyết định:
Về việc thi hành kỷ luật, Trung ương quyết định như
sau:
- Trường Chinh thôi chức Tổng Bí thư Trung ương Đảng,
tạm giao chức vụ này cho Hồ Chí Minh.
- Đưa Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính
trị.
- Lê Văn Lương còn phải thôi giữ chức Trưởng Ban Tổ
chức Trung ương Đảng, giao cho Lê Đức Thọ, ủy viên trung ương đảng tạm nắm quyền.
- Đưa Hồ Viết Thắng rút ra khỏi Trung ương đảng.
- Bầu bổ sung Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị và
Hoàng Văn Hoan vào Bộ Chính trị.
Ông Đỗ Mười “đẻ ra” Lý Mỹ
Lý Mỹ là con gái một gia đình kinh doanh buôn bán, có một cửa hàng ở đường Cách mạng Tháng Tám, quận 10. Khi X-3 nổ ra, Lý Mỹ mới 17 tuổi, được tổ chức đoàn tuyên truyền giáo dục lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, được kết nạp đoàn khóa 26-3, được nghe đích thân ông Đỗ Mười nói chuyện về chính sách cải tạo công thương nghiệp. Trái tim non trẻ của cô học sinh mười bảy tuổi như sôi sục bầu máu nóng đấu tranh giai cấp, cô đã chọn đối tượng để đấu tranh, đó chính là cha mẹ mình...
X-3, với “công lao to lớn” của Đỗ Mười, thu được khoảng hơn 4.000 kg vàng, gần 1.200.000 đô la, và một khối lượng hàng hóa không thống kê hết. Từ chiếc xe hơi, TiVi, tủ lạnh, đến bịch bột giặt, quả trứng gà đều khê khai và tịch thu chất trong các kho, để rồi không cánh mà bay, hoặc biến thảnh phế thải...
*
Chiều 21-3-1978, Hội trường của trường đảng Nguyễn Ái Quốc II, Thủ Đức, như nghẹt thở. Mấy trăm cán bộ cơ quan trung ương và các tỉnh, thành phố phía Nam được triệu tập về đây từ hai, ba ngày trước. Ăn, ngủ ngay tại đây, nội bất xuất, ngoại bất nhập, công an giám sát chặt chẽ. Tôi là phóng viên báo Tiền Phong, Trung ương Đoàn trưng dụng làm “nhiệm vụ đặc biệt” cũng nằm trong số đó.
Nhiệm vụ đặc biệt gì không ai được biết. Qua vài thông tin rò rỉ, các “quân sư quạt mo” nhận định chuẩn bị đánh tư sản thương nghiệp, mật danh X-3, dưới sự chỉ huy của “Bàn tay sắt” Đỗ Mười và giờ G đã điểm! Khi đó, ông Đỗ Mười là Phó Thủ tướng kiêm nhiệm Trưởng ban Cải tạo Công thương nghiệp Xã hội chủ nghĩa, phụ trách vấn đề cải tạo Công thương nghiệp XHCN tại miền Nam.
Hôm đó, ông Đỗ Mười mặc chiếc quần Kaki màu cà phê đậm, chiếc áo sơ mi ngắn tay cùng màu, chân đi dép. Ông có khổ người khệnh khạng, mặt chữ “nãi”, trán ngắn đầy nếp nhăn, miệng cá trê, bờm tóc dựng trông rất dữ. Tôi đã được nghe nói nhiều về tính bốc đồng, nóng nảy của ông Đỗ Mười, hôm đó được giáp mặt, quả đúng vậy.
Đúng như mọi người dự đoán, chiến dịch X-5 đã bắt đầu.
Ông Đỗ Mười đọc Quyết định của Thủ tướng, đọc Chỉ thị 100-CP, và triển khai kế hoạch cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam.
Ông nói: “Từ sau giải phóng chúng ta đã thực hiện X-1, tập trung bọn ngụy quân, ngụy quyền học tập cải tạo. Đã thực hiện X-2 đánh bọn tư sản mại bản. Bây giờ chiến dịch X-3, quyết liệt nhất, nhằm tiêu diệt tận gốc rễ chủ nghĩa tư bản, tay sai đế quốc Mỹ...
“Đánh rắn phải đánh dập đầu, ta đã đánh dập đầu rồi, nhưng con rắn tư bản đánh dập đầu nó chưa chết, cái đuôi nó còn nguy hiểm hơn cái đầu. Không giần cho nát cái đuôi của nó, thì nó vẫn tác oai tác quái phá chúng ta. Vừa qua kẻ nào vơ vét mì chính (bột ngọt), vải vóc, đường, sữa đầu cơ trục lợi, rồi lại đổ tội cho nhà nước ta chuyển ra Bắc nên thị trường khan hiếm? Chính là bọn tư sản thương nghiệp! Kẻ nào tích trữ thóc gạo để dân ta đói? Chính là bọn đầu nậu lúa gạo. Tôi hỏi các đồng chí, kẻ nào cung cấp lương thực, thực phẩm cho tổ chức phản động trên Lâm Đồng chống phá cách mạng? Kẻ nào? Chính là bọn tư sản đấy! Bọn gian thương đầu cơ, phá hoại, bọn ngồi mát ăn bát vàng, rút rỉa máu xương đồng bào ta, ngăn cản con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa của đảng ta...”
Ông Đỗ Mười nói say sưa, hùng hồn, quyết liệt. Mép ông sủi bọt. Tay ông vung vẩy. Mồ hôi trán đầm đìa.
Lúc đầu ông mặc quần áo nghiêm chỉnh, sau một hồi diễn thuyết khoa chân múa tay, ông bật nút áo sơ mi phanh ngực ra. Cuối cùng cởi phăng cái áo sơ mi ướt đẫm mồ hôi, trên người ông chỉ còn mỗi chiếc áo may ô ba lỗ.
Ông vẫn hăng nói: “Cho nên chúng ta phải róc thịt chúng ra. Bắt chúng lao động sản xuất, tự làm lấy mà ăn. Phải biết cày ruộng, cấy lúa, trồng ngô. Đất hoang còn nhiều, bắt chúng đổ mồ hôi sôi nước mắt kiếm miếng ăn...”
Bầu không khí ngột ngạt và kích động muốn nổ tung hội trường. Sức nóng từ Đỗ Mười truyền đến từng người. Tiếng vỗ tay rào rào, tiếng cười tiếng nói hả hê. Những gương mặt hừng hực khí thế "xung trận".
Xin đừng ở vị trí hôm nay phán xét những người trong cuộc ba mươi lăm năm trước, thời điểm đó tư duy của mọi người khác bây giờ, nhất là tư duy của những cán bộ đảng viên vốn tin tưởng tuyệt đối vào đường lối chính sách của đảng. Những người mà đảng bảo sao cứ làm đúng phắc như vậy. Hãy bình tĩnh nhìn lại một cách trung thực, khách quan, để thấy một phần nỗi đau của mình, bạn bè mình, dân tộc mình, nỗi đau từ sự ấu trĩ, nóng vội, làm ào ào, đặt trái tim không đúng chỗ ngay từ khởi đầu!
Ông Đỗ Mười kết thúc buổi triển khai chiến dịch X-3, bằng một mấy cái chém tay như có 'thượng phương bảo kiếm': “Anh nào, chị nào nhụt ít chí thì lui ra một bên. Kẻ nào tỏ ra nhân nhượng với bọn tư sản là phản bội giai cấp, không phải Bôn-sê-vích, có tội với đảng với dân, sẽ bị trừng trị!”
Chúng tôi ra về với một tâm trạng nặng nề, mang theo lời cảnh tỉnh “Tuyệt đối bí mật”.
Nhưng hình như linh tính đã báo điềm chẳng lành cho thành phố Sài Gòn. Đó là cảm giác của tôi khi chạy xe máy từ cầu Công Lý lên cảng Bạch Đằng vòng qua Chợ Lớn. Người dân đổ ra đường nhiều hơn, vội vã, tất tưởi, gương mặt thất thần, nhiều tốp người tụm nhau bàn tán. Người ta nháo nhào đi mua từng cân muối ký gạo, như sắp chạy càn. Người dân thành phố vốn nhạy cảm và đó lại là cảm giác đúng: Thủ tướng nào thì chưa biết, nhưng trước hết phải lo thủ lấy miếng ăn!
Bảy giờ sáng hôm sau, ngày 23-3-1978, tất cả các cửa hàng kinh doanh to nhỏ, đủ mọi ngành nghề, ngóc ngách, đóng cửa, án binh bất động theo lệnh của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Một bản thông báo ngắn gọn do ông Vũ Đình Liệu thay mặt UBND thành phố ký được ban hành ngay sau đó, xác nhận “Chiến dịch X-3”, bắt đầu ở thành phố mang tên Bác.
Tất cả các cơ sở kinh doanh, buôn bán, nhà hàng, cửa hàng, kho tàng, trung tâm dịch vụ bị niêm phong. Danh sách đã được lên từ trước. Họ làm bí mật lâu rồi. Như một trận đánh giặc đã được trinh sát, điều nghiên tỉ mỉ, chính xác. Các tổ công tác ập vào từng điểm bất ngờ, nhanh chóng niêm phong tài sản, khống chế mọi người trong gia đình nội bất xuất, ngoại bất nhập. Mỗi điểm niêm phong có tối thiểu một tổ ba người, không cùng cơ quan, không quen biết nhau. Họ là thanh niên xung phong, thanh niên công nhân các nhà máy, sinh viên các trường đại học, cả những thanh niên các phường được huy động vào chiến dịch.
Ngay buổi chiều hôm ấy một cuộc mít tinh tuần hành từ Nhà văn hóa thanh niên do Thành đoàn tổ chức. Hàng ngàn học sinh, sinh viên rầm rộ xuống đường, diễu hành khắp các phố chính Sài gòn, Chợ Lớn, hoan nghênh chính sách cải tạo công thương nghiệp của đảng, đả đảo bọn gian thương. Suốt đêm Câu lạc bộ thanh niên vang lên bài ca “Tình nguyện”, “Dậy mà đi”. Khi chống Mỹ sinh viên học sinh hát những bài hát ấy, giờ cũng hát những bài hát ấy để tăng bầu nhiệt huyết đánh tư sản!
Ngày 26-3-1978, cô công nhân Nguyễn Thị Bé B. ở nhà máy dệt Phong Phú được kết nạp đoàn vì từ chối nhận một món quà của một cơ sở kinh doanh mà cô canh giữ. Tiếp theo một trường hợp tương tự, anh thanh niên Vũ Ngọc Ch. ở nhà máy dệt Thắng Lợi.
Mấy ngày sau tiếng trống ở trường Trần Khai Nguyên quận 5, vang lên, như trống trận. Đó là nơi tập trung của 1.200 thanh niên học sinh người Hoa xuống đường ủng hộ chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, người dẫn đầu là cô học sinh lớp 11, có gương mặt búp bê, mái tóc cắt ngắn: Lý Mỹ.
Lý Mỹ là con gái một gia đình kinh doanh buôn bán, có một cửa hàng ở đường Cách mạng Tháng Tám, quận 10. Khi X-3 nổ ra, Lý Mỹ mới 17 tuổi, được tổ chức đoàn tuyên truyền giáo dục lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, được kết nạp đoàn khóa 26-3, được nghe đích thân ông Đỗ Mười nói chuyện về chính sách cải tạo công thương nghiệp. Trái tim non trẻ của cô học sinh mười bảy tuổi như sôi sục bầu máu nóng đấu tranh giai cấp, cô đã chọn đối tượng để đấu tranh, đó chính là cha mẹ mình.
Lý Mỹ vận động thuyết phục cha mẹ kê khai tài sản, cha mẹ chần chừ, cô trực tiếp đứng ra kê khai. Cô theo dõi bố mẹ cất giấu vàng bạc, của cải, báo cho tổ kê khai moi móc ra bằng hết. Lý Mỹ phát biểu trên báo: “Tinh thần Pavel Corsaghin sáng chói trong trái tim tôi! Tôi không cần vàng bạc, của cải, cha mẹ tôi bóc lột của nhân dân. Từ hôm nay tôi từ bỏ giai cấp bóc lột, bước sang cuộc sống mới, hòa vào dòng người lao động vinh quang xây dựng xã hội chủ nghĩa” (Báo Tiền Phong số 40,1978).
Khi cha mẹ vật vã than khóc, và dọa ra nước ngoài, Lý Mỹ tuyên bố nếu cha mẹ xuất cảnh, cô sẽ ở lại một mình, chấp nhận cuộc sống cô đơn để cống hiến cho lý tưởng cộng sản!
Không phải chỉ có một Lý Mỹ, mà hàng trăm “Lý Mỹ” như vậy. Những “Lý Mỹ” được sinh ra nóng hổi dưới lá cờ Đoàn thanh niên cộng sản Hổ Chí Minh.
Khi cải cách ruộng đất ở miền Bắc tôi là đứa trẻ sáu tuổi đi xem đấu tố như xem hội hè, khi cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam, tôi ba mươi tuổi, là người trong cuộc. Trước con mắt tôi, cuộc cách mạng sau chỉ khác cuộc cách mạnh trước là không bắn giết, còn giống hệt nhau. Cũng con tố cha mẹ, vợ tố chồng, bạn bè tố nhau. Những cán bộ từng hoạt động bí mật trong chiến tranh, được những gia đình buôn bán, giàu có bao bọc, giờ quay ngoắt lại tịch thu tài sản ân nhân của mình. Những tính từ bọn, đồng bọn, “tên tư sản”, “con buôn” thay danh từ ông, bà, anh, chị. Gần ba chục năm trước, người bị quy là địa chủ, phú nông xấu xa thế nào, thì 1978, người bị gọi là tư sản, con buôn xấu xa như vậy. Người ta đã phủ nhận một tầng lớp tiên tiến của xã hội, nhục mạ tầng lớp đó, đào hố ngăn cách giữa các tầng lớp nhân dân, và kéo lùi sự phát triển của đất nước, đó là một sự thật lịch sử cần ghi nhận.
Chiến dịch X-3 thành phố Hồ Chí Minh, đã đánh gục 28.787 nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, hộ buôn bán.
Ông Nguyễn Văn Linh nói: “Khi tôi làm Trưởng ban cải tạo trung ương, tìm hiểu và dự kiến Sài Gòn, Chợ Lớn có khoảng 6.000 hộ kinh doanh buôn bán lớn. Khi anh Đỗ Mười thay tôi, anh ấy áp dụng theo quy chuẩn cuộc cải tạo tư sản Hà Nội từ năm 1955, nên con số mới phồng to lên như vậy” (Nguyễn Văn Linh, Những trăn trở trước đổi mới).
Ông Đỗ Mười đưa hàng ngàn hộ tiểu thương, trung lưu vào diện cài tạo, gộp luôn những hộ sản xuất vào đối tượng đó.
Ông Nguyễn Văn Linh nói: “Anh Mười không trao đổi với chúng tôi. Anh ấy có 'thượng phương bảo kiếm' trong tay, toàn quyền quyết định” (Nguyễn Văn Linh trăn trở cuộc đổi mới).
Ông Đỗ Mười thay ông Nguyễn Văn Linh làm Trưởng ban cải tạo ngày 16-2-1978. Trong chiến dịch X-3, Đỗ Mười không sử dụng người của Nguyễn Văn Linh, mà đưa hầu hết cán bộ từ miền Bắc vào nắm giữ những vị trí quan trọng. Đồng thời ông bố trí cán bộ các ngành thương nghiệp, giao thông vận tải, công nghiệp nhẹ, kho hàng vào tiếp quản. Ông đóng đại bản doanh ở Thủ Đức, trực tiếp chỉ đạo, không tham khảo bất cứ ý kiến ai trong cơ quan lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả X-3, với “công lao to lớn” của Đỗ Mười, thu được khoảng hơn 4.000 kg vàng, gần 1.200.000 đô la, và một khối lượng hàng hóa không thống kê hết. Từ chiếc xe hơi, TiVi, tủ lạnh, đến bịch bột giặt, quả trứng gà đều khê khai và tịch thu chất trong các kho, để rồi không cánh mà bay, hoặc biến thành phế thải.
X-3, cú đòn trời giáng cuối cùng, biến “Hòn ngọc Viễn Đông” thành “Thành phố chết”, đẩy thêm dòng người bỏ đất nước ra đi bất chấp hiểm nguy, bao nhiêu số phận đã rã rời trên biển sâu. Năm 2005, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhìn nhận: “Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế”.
Có lần chúng tôi hỏi nhà báo Trần Bạch Đằng: “Hình như trong 63 năm tham gia cách mạng và làm lãnh đạo, ông Đỗ Mười không để lại một tác phẩm nào?”. Ông Trần Bạch Đằng chớp mắt nhếch cái miệng méo xẹo: “Cha ấy để lại cho đời tác phẩm cải tạo công thương nghiệp!” .
Ông Đỗ Mười sinh ngày 2-2-1917 tại Thanh Trì, Hà Nội. Ông làm rất nhiều chức vụ quan trọng, từng làm Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam 1991-1997.
Tôi không muốn viết chân dung ông bởi chẳng có gì đáng viết, chỉ ghi lại vài dòng những người đồng chí của ông, nhận xét về ông.
Ông Đoàn Duy Thành, nguyên Phó Thủ tướng chính phủ kể: “Một lần anh Mười xuống Hải Phòng, tôi và anh Nguyễn Dần dẫn anh ấy đi thăm nhà máy đóng tàu. Đi ngang Quán Toan thấy cái nhà hai tầng, anh Mười hỏi: “Nhà ai đây?” tôi trả lời: “Dạ nhà anh Bút lái xe”, anh Mười nói: “Nếu tôi mà là bí thư, chủ tịch thành phố tôi sẽ tịch thu ngay cái nhà này làm nhà mẫu giáo!” .
Ông Đỗ Mười là người đố kỵ với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không biết vì ghen ghét tài năng hay nguyên nhân gì. Ông Đoàn Duy Thành kể: “Chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, anh Mười gọi tôi tới, nêu vấn đề anh Văn năm 16 tuổi được thực dân Pháp cho sang Pháp học 6 tháng. Rồi anh Mười bảo, về nói cho đoàn đại biểu Hải Phòng biết, và những ai quen biết ở các đoàn khác cũng nói cho các đồng chí ấy biết. Tôi hỏi anh Trường Chinh, anh Trường Chinh bảo: “Võ Nguyên Giáp năm 1941-1942, kể cả việc làm con nuôi Martin trùm mật thám Đông Dương là chuyện bịa hết!... Anh Mười, anh ấy rất võ biền. Các cuộc họp tôi nói, anh ta thường chặn lời tôi..." (Làm người là khó).
Ông Nguyễn Văn Linh trong một lần hội nghị ở T78 đã nói thẳng với ông Đỗ Mười: “Anh Mười tưởng rằng làm Ủy viên Bộ chính trị là to lắm, muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, muốn phê bình ai cũng được... Anh Mười đứng dậy nói: “Tôi nói đó là tinh thần Bôn-sê-vich” (Làm người là khó).
Ông Đoàn Duy Thành kể tiếp: “Có lần tôi hỏi anh Tô (Phạm Văn Đồng): “Còn Đỗ Mười thì sao?”. Anh Tô suy nghĩ hai ba phút rồi nói: “Chỉ có phá!”.
Nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói rất đúng với trường hợp cải tạo công thương nghiệp.
Cụ Tổng Mười thăm các cháu tại Trung tâm Nhân đạo Quê hương (tỉnh Bình Dương),
tháng 11/2006. - Ảnh: binhduong.gov.vn
Năm nay ông Đỗ Mười hơn chín chục tuổi rồi. Nghe nói ông vẫn phải nuôi con mọn. Tôi không biết có đúng không, và nếu đúng, tương lai nó sẽ ra sao? Cầu trời, nó đừng như những “đứa con” sinh ra từ cuộc cải tạo công thương nghiệp 1978 như Lý Mỹ!
I. Hoạn lợn Đỗ Mười:
Đỗ Mười theo thông tin của nhà xuất bản chính trị quốc gia (Cộng sản) có một lý lịch rất “đỏ” từ đầu tới chân. Chính vì thế Mười nắm chức tổng bí thư của đảng cướp cộng sản Việt Nam và cho tới già vẫn “kiên định” đi theo chủ nghĩa hoang tưởng và cướp bóc mà nhân loại đã bỏ vào sọt rác của thế kỷ:
“Đồng chí Đỗ Mười, tên thật là Nguyễn Duy Cống, sinh ngày 2-2-1917 tại xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Là một thanh niên yêu nước sớm giác ngộ cách mạng, năm 19 tuổi, đồng chí đã tham gia hoạt động trong phong trào vận động dân chủ 1936-1939. Năm 1939, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1941, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và kết án 10 năm tù, giam tại Nhà tù Hỏa Lò - Hà Nội. Tháng 3-1945, đồng chí vượt ngục và tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia Tỉnh ủy Hà Đông, trực tiếp lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Đông.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đồng chí được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Hà Đông. Đầu năm 1946, đồng chí được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam, đến cuối năm 1946, làm Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến - hành chính tỉnh Nam Định. Năm 1948, đồng chí làm Khu ủy viên Khu III kiêm Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình. Năm 1950, làm Phó Bí thư Liên khu ủy III kiêm Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến - hành chính Liên khu III, Chính ủy Bộ Tư lệnh Liên khu III. Từ năm 1951 đến năm 1954, làm Bí thư Khu ủy Tả ngạn sông Hồng kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến - hành chính và Chính ủy Bộ Tư lệnh Khu Tả ngạn sông Hồng.
Năm 1955, đồng chí là Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban quân chính thành phố Hải Phòng. Tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa II (3-1955), đồng chí được bầu bổ sung làm Ủy viên dự khuyết và tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960), đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Từ năm 1956 đến năm 1973, đồng chí đã giữ các chức vụ: Thứ trưởng Bộ Nội thương rồi Bộ trưởng Bộ Nội thương, Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước, Trưởng phái đoàn thanh tra Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước, Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Xây dựng.
Tháng 12-1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, tiếp tục giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ. Tháng 3-1982, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, tiếp tục giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Tháng 12-1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và sau đó được phân công làm Thường trực Ban Bí thư. Tháng 6-1988, đồng chí được Quốc hội khóa VIII bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và VIII của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đồng chí là đại biểu Quốc hội các khóa II, IV, V, VI, VII, VIII, IX.
Tháng 12-1997, đồng chí đã đề nghị chuyển giao chức vụ Tổng Bí thư và được Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) suy tôn làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Trên cương vị Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong giai đoạn đầy khó khăn do những biến động tiêu cực ở Liên Xô và Đông Âu, đồng chí Đỗ Mười đã góp phần cùng Trung ương Đảng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi thử thách, cam go, đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục tiến lên.” (1)
Đỗ Mười được biết đến là một kẻ vô học, ông ta từng thẳng thừng chửi bới người vệ sỹ riêng của mình vì đã cho một người tự nhận là “bạn học” của ông Tổng bí thư vào phòng riêng chờ được gặp. Lý do mà ông Mười chửi bới người vệ sỹ đó là “Tao có đi học ngày nào đâu mà có thằng nhận là bạn học”. Câu chuyện này là có thật 100% do chính anh em vệ sỹ kể chứ không phải là chuyện bịa. Tuy nhiên việc đó không quan trọng. Nó chỉ là một điều bình thường trong chế độ cộng sản vì Nguyễn Tấn Dũng học lớp 3 làm thủ tướng, Hồ Chí Minh viết sai chính tả tòe loe còn làm “danh nhân văn hóa” thì việc ông Mười vô học làm tổng bí cũng chẳng có gì lạ.
Ngoài ra còn phải nói đến việc ông Mười có gốc gác là một anh thiến heo. Thiết tưởng làm nghề gì đâu có phải là vấn đề? Miễn nghề đó không phải là cướp của, giết người. Tuy nhiên điều đáng nói là Đỗ Mười và cộng sản không bao giờ nhận về điều này. Ngay tại Liên Xô (cũ) thì Tổng bí thư Nikita Khrushchev đã hãnh diện về nguồn gốc chăn lợn của mình, mỗi ngày chỉ được trả có hai kopeks. Tại sao Đỗ Mười không dám nhận? Có phải Đỗ Mười muốn nhận mình là “thánh” giống cái cách Hồ Chí Minh tự bơm mình bằng cái tên Trần Dân Tiên? Có lẽ như vậy.
Chuyện ông Mười làm nghề thiến heo là hoàn toàn có căn cứ:
Thứ nhất, đọc bài thơ được nhà thơ Trần Ái Dân, nhan đề “Thế này là thế nào...” (2); đoạn chót như sau:
“Thời buổi thế này là thế nào hả giời
Vua xuất xứ từ một anh hoạn lợn
Diễn văn eng éc tiếng lợn kêu
Đất nước tàn tạ xót xa
Triều đình cắn xé thối tha
Vua vẫy tai nhởn nhơ, hếch mũi lên hơn hớn”
Đây chính là những câu ám chỉ nghề của Đỗ Mười trước khi đi làm “cắt mạng”.
Thứ hai, chính nhà văn Vũ Thư Hiên (con ông Vũ Đình Huỳnh - Người thân tín của Hồ Chí Minh) đã viết trong “Đêm giữa ban ngày” chương 16 như sau: “Cái gọi là đường lối xây dựng xã hội chủ nghĩa bằng kinh tế thị trường có điều tiết, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ra đời chính là trong thời kỳ này. Cha tôi đã nhận định sai về con người Đỗ Mười. Ông chỉ không sai khi nói rằng trước Cách mạng Tháng Tám Đỗ Mười làm nghề hoạn lợn chứ không phải phu hồ, thợ sơn gì sất như được ghi trong tiểu sử chính thức: "Nói mọi nghề đều quý thì làm hoạn lợn cũng quý chứ sao, xưng công nhân làm quái gì! Người không biết thì thôi, người biết họ cười cho mất mặt. Thế không phải khôn, mà dại". Các nhà cách mạng biết Đỗ Mười cũng xác nhận nghề hoạn lợn của ông, chỉ nói thêm rằng ông hoạn vụng, có lần hoạn chết lợn của người ta, bị đuổi chạy chí chết”. (3)
Thứ ba, trong cuộc gặp với Giang Trạch-Dân năm 1991, Dân là người có học, thâm trầm, mưu cơ, tính toán rất cẩn thận. Mỗi lời, mỗi ý đều nói rất văn hoa, lại ưa xen vào những câu trong kinh điển cổ, hoặc những câu thơ, câu từ. Thế nhưng trong buổi họp ông ta gặp gã Đỗ Mười dốt đặc cán mai. Giang nói móc Đỗ Mười trong bữa ăn rằng Mười xuất thân là tên hoạn lợn bằng câu: “Lợn Trung quốc không to béo như lợn Việt Nam, vì chúng ham nhảy cái quá. Còn lợn Việt Nam hầu hết là lợn thái giám, nên to lớn”.
Điều đó cho thấy Đỗ Mười đích thị là anh chàng hoạn lợn!
Vì đã có thời ông Mười hành nghề hoạn lợn mà (người Nam gọi là “thiến heo”). Chuyện kể của nhà văn Vũ Thư Hiên rằng Đỗ Mười thiến làm sao đó mà nhiều lần con heo ngỏm củ tử. Vì thế Đỗ Mười bị đuổi đánh chạy vãi ra quần. Do thấy nghề thiến heo không khá, “đồng chí” bỏ nghề và đi làm ”Cắt Mạng”. Bị Tây bắt giam nhiều năm tới 1945 mới được tự do và tham gia cướp chính quyền ở Hà Đông. Sau đó giữ chức Bí Thư Tỉnh Ủy kiêm Chủ Tịch UBND tỉnh. Từ đó đường hoạn lợn biến thành hoạn lộ của Đỗ Mười thênh thang rộng mở và phất lên thành tỷ phú USD. Rõ ràng nghề làm “Cắt Mạng” khá hơn nghề thiến heo rất nhiều. Thậm chí Đỗ Mười còn ngạo mạn tuyên bố: “Có đảng Cộng Sản mới có đổi mới”. Nhưng đó chỉ thật sự chỉ là ngụy biện mà thôi!
Đỗ Mười và Võ Nguyên Giáp
II. Tội ác độc tài và cướp ngày:
Độc tài:
Đã là cộng sản thì không ai không có tư tưởng độc tài. Đỗ Mười cũng không là ngoại lệ. Trong thời kỳ làm chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay gọi là thủ tướng) và sau này làm tổng bí thư của mình thì Đỗ Mười đã tự mình hoặc cùng Võ Văn Kiệt gây ra nhiều tội ác với dân chủ. Tiêu biểu xin kể tên lại một số vụ án với dân chủ và người yêu nước điển hình như sau:
- Tháng 11/1991: Bác sĩ Nguyễn Đan Quế bị xử 20 năm tù và 5 năm quản thúc tại gia, cùng với nhà báo Châu Sơn Nguyễn Văn Thuận án 10 năm, trong một phiên tòa chớp nhoáng, không có luật sư biện hộ và không cho công chúng tham dự.
- Tháng 5/1992: Luật sư Đoàn Thanh Liêm bị xử 12 năm tù vì bài viết “Năm Điểm Thỏa Thuận Căn Bản” nhằm đặt cơ sở luận lý và pháp lý cho một Hiến Pháp tương lai.
- Tháng 3/1993: Giáo sư Đoàn Viết Hoạt bị xử 15 năm tù, và những bạn đồng chí hướng khác với mức án trên dưới 10 năm, vì ấn hành tờ báo bí mật “Diễn Đàn Tự Do”.
- Tháng 12/1993: Việt kiều Kỳ Ngọc Thanh và 4 người thuộc Liên Minh Hùng Gia Đại Việt cùng 2 nông dân với bản án tổng cộng 47 năm, về vụ thực hiện Chiến Dịch Nguyễn Trãi đòi hỏi đa nguyên đa đảng, và tổ chức 150 nông dân biểu tình trước Sở Thú Sài-gòn vào ngày 20/5/1991 nhằm yêu cầu giải quyết công bằng ruộng đất.
- Tháng 8/1995: Giáo sư Nguyễn Đình Huy bị xử 15 năm tù giam, và những bạn đồng chí hướng khác với mức án trên dưới 10 năm, vì hoạt động trong Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc Và Xây Dựng Dân Chủ, tiến hành tổ chức công khai Hội Nghị Quốc Tế Về Vấn Đề Phát Triển Việt Nam tại Sài Gòn.
Đỗ Mười là người đứng đầu chính phủ, sau này là đứng đầu đảng cộng sản độc tài thì không có gì thể bao biện cho những việc trên. Thậm chí sau này chính Đỗ Mười còn cho hành hạ nhà đấu tranh dân chủ Hoàng Minh Chính lúc mới tù về và bắt ông Chính lần sau nữa. Việc này đã được nhà văn Vũ Thư Hiên viết như sau: “Cũng dưới thời Đỗ Mười tên xét lại hiện đại Hoàng Minh Chính được thả ra sau lần giam giữ cuối cùng vẫn bị tiếp tục hành hạ về tinh thần trong cuộc sống quản thúc. Không hề có một thiện ý lật lại trang sử để xem xét vụ án, cũng không có một biệt đãi nào, dù là biệt đãi chui, dành cho những người bị giam giữ trái phép nhiều năm, để đền bù phần nào những đau khổ và thiệt thòi mà họ và thân nhân đã phải chịu đựng trong những năm đó (12)...
(12) Tôi viết những dòng này khi Hoàng Minh Chính chưa bị bắt thêm một lần nữa (lần thứ ba) và bị xử án một năm tù giam vì tội "lạm dụng những quyền tự do dân chủ", thời tổng bí thư Đỗ Mười”. (4)
Đỗ Mười khi tới Bình Dương tháng 11/2006
(Đã già nhưng rất thích khoác tay phụ nữ trẻ)
(Đã già nhưng rất thích khoác tay phụ nữ trẻ)
Theo cuốn sách “Những mẩu chuyện về đồng chí Đỗ Mười” của nhà xuất bản dân trí cộng sản Việt Nam ca tụng Đỗ Mười như sau:
“Trần Quân Ngọc, nguyên Thư ký chuyên trách về dầu khí và công nghiệp của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười cho biết: trong nhà, đồng chí Đỗ Mười để vào vị trí trang trọng nhất tấm chân dung Bác Hồ với bút tích của Bác Hồ "Tặng chú Mười". Ông bảo đó là món quà quý nhất của đời ông... Tấm ảnh Bác Hồ đó, được đặt trang trọng ở trang đầu tiên của cuốn sách "Những câu chuyện về đồng chí Đỗ Mười- nguyên Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam".
Trong bài viết của mình, nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu nêu rõ: Tham gia cách mạng từ khi còn trẻ, đến nay tuổi đã gần 100 nhưng đồng chí Đỗ Mười giữ nguyên tính cách của một người Cộng sản trung kiên, một con người của hoạt động….
Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh tâm sự:. Đồng chí sống chân thành, giản dị, gần gũi chan hòa với mọi người. Được sống gần đồng chí Đỗ Mười và những lần làm việc trực tiếp với đồng chí, tôi đã cảm nhận được nhiều điều sâu đậm về Anh- người Đảng viên cộng sản trung kiên, hết lòng vì nước, vì dân...”
Qua đoạn bốc thơm của cuốn sách chúng ta thấy được điều gì? Đó là cộng sản thật giống nhau. Đỗ Mười chính vì tôn thờ Hồ Chí Minh và “kiên định” theo cách mạng nên hậu quả là rất nhiều tấm gương yêu nước và đấu tranh cho dân chủ đã vào tù dưới bàn tay của Đỗ Mười cũng không có gì quá xa lạ.
Đỗ Mười và đàn em tại một công trình Dầu Khí.
Tội ác cướp ngày:
Hẳn bạn đọc còn nhớ trong “Những sự thật cần phải biết” - phần 13: Những kẻ cướp ngày đã đề cập đến tội ác cướp ngày của Đỗ Mười. Tuy nhiên để hiểu rõ hơn về việc này, xin trình bày lại và thêm một sô tư liệu về việc này của Đỗ Mười để thấy rõ hơn tội ác của Mười.
Thứ nhất, chính Nguyễn Văn Linh trong một lần hội nghị ở T78 đã nói thẳng với Đỗ Mười: “Anh Mười tưởng rằng làm Ủy viên Bộ chính trị là to lắm, muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, muốn phê bình ai cũng được… Anh Mười đứng dậy nói: “Tôi nói đó là tinh thần Bôn-sê-vich” (Trích“Làm người là khó” - Đoàn Duy Thành - cựu phó thủ tướng nhà cầm quyền cộng sản). Ông Đoàn Duy Thành cho biết Phạm Văn Đồng đánh giá về cải tạo công thương Nghiệp của Đỗ Mười: “Có lần tôi hỏi anh Tô (Phạm Văn Đồng): “Còn Đỗ Mười thì sao?”. Anh Tô suy nghĩ hai ba phút rồi nói: “Chỉ có phá!”.
Khi chiến dịch X-3 đã bắt đầu:
Đỗ Mười đọc Quyết định của Thủ tướng, đọc Chỉ thị 100 - CP, và triển khai kế hoạch cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tại thành phố Sài Gòn (đã bị đổi tên thành Tp. HCM) và các tỉnh phía Nam. Đỗ Mười nói:
“Từ sau giải phóng chúng ta đã thực hiện X-1, tập trung bọn ngụy quân, ngụy quyền học tập cải tạo. Đã thực hiện X-2 đánh bọn tư sản mại bản. Bây giờ chiến dịch X-3, quyết liệt nhất, nhằm tiêu diệt tận gốc rễ chủ nghĩa tư bản, tay sai đế quốc Mỹ... Đánh rắn phải đánh dập đầu, ta đã đánh dập đầu rồi, nhưng con rắn tư bản đánh dập đầu nó chưa chết, cái đuôi nó còn nguy hiểm hơn cái đầu. Không giần cho nát cái đuôi của nó, thì nó vẫn tác oai tác quái phá chúng ta... Cho nên chúng ta phải róc thịt chúng ra. Bắt chúng lao động sản xuất, tự làm lấy mà ăn. Phải biết cày ruộng, cấy lúa, trồng ngô. Đất hoang còn nhiều, bắt chúng đổ mồ hôi sôi nước mắt kiếm miếng ăn...”
Đỗ Mười kết thúc buổi triển khai chiến dịch X-3, bằng một mấy cái chém tay như có ‘thượng phương bảo kiếm:
“Anh nào, chị nào nhụt ít chí thì lui ra một bên. Kẻ nào tỏ ra nhân nhượng với bọn tư sản là phản bội giai cấp, không phải Bôn-sê-vích, có tội với đảng với dân, sẽ bị trừng trị!”.
“Anh nào, chị nào nhụt ít chí thì lui ra một bên. Kẻ nào tỏ ra nhân nhượng với bọn tư sản là phản bội giai cấp, không phải Bôn-sê-vích, có tội với đảng với dân, sẽ bị trừng trị!”.
7 giờ sáng hôm sau, ngày 23-3-1978, tất cả các cửa hàng kinh doanh to nhỏ, đủ mọi ngành nghề, ngóc ngách, đóng cửa, án binh bất động theo lệnh của Ủy ban nhân dân thành phố. Một bản thông báo ngắn gọn do ông Vũ Đình Liệu thay mặt UBND thành phố ký được ban hành ngay sau đó, xác nhận “Chiến dịch X-3”, bắt đầu. Và tất cả các cơ sở kinh doanh, buôn bán, nhà hàng, cửa hàng, kho tàng, trung tâm dịch vụ bị niêm phong. Danh sách đã được lên từ trước.
Đỗ Mười và đàn em Võ Văn Kiệt vui mừng vì cướp được của nhân dân Miền Nam
Thứ hai, về tội cướp ngày của Đỗ Mười thì trên Dân Làm Báo cũng có một bài của nhà báo Minh Diện nói về điều đó. Bài báo có tên “Ông Đỗ Mười “đẻ ra” Lý Mỹ”. Bài viết có đoạn:
“Lý Mỹ là con gái một gia đình kinh doanh buôn bán, có một cửa hàng ở đường Cách mạng Tháng Tám, quận 10. Khi X-3 nổ ra, Lý Mỹ mới 17 tuổi, được tổ chức đoàn tuyên truyền giáo dục lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, được kết nạp đoàn khóa 26-3, được nghe đích thân ông Đỗ Mười nói chuyện về chính sách cải tạo công thương nghiệp. Trái tim non trẻ của cô học sinh mười bảy tuổi như sôi sục bầu máu nóng đấu tranh giai cấp, cô đã chọn đối tượng để đấu tranh, đó chính là cha mẹ mình...
Lý Mỹ vận động thuyết phục cha mẹ kê khai tài sản, cha mẹ chần chừ, cô trực tiếp đứng ra kê khai. Cô theo dõi bố mẹ cất giấu vàng bạc, của cải, báo cho tổ kê khai moi móc ra bằng hết. Lý Mỹ phát biểu trên báo: “Tinh thần Pavel Corsaghin sáng chói trong trái tim tôi! Tôi không cần vàng bạc, của cải, cha mẹ tôi bóc lột của nhân dân. Từ hôm nay tôi từ bỏ giai cấp bóc lột, bước sang cuộc sống mới, hòa vào dòng người lao động vinh quang xây dựng xã hội chủ nghĩa” (Báo Tiền Phong số 40,1978).
Khi cha mẹ vật vã than khóc, và dọa ra nước ngoài, Lý Mỹ tuyên bố nếu cha mẹ xuất cảnh, cô sẽ ở lại một mình, chấp nhận cuộc sống cô đơn để cống hiến cho lý tưởng cộng sản!
Không phải chỉ có một Lý Mỹ, mà hàng trăm “Lý Mỹ” như vậy. Những “Lý Mỹ” được sinh ra nóng hổi dưới lá cờ Đoàn thanh niên cộng sản Hổ Chí Minh….
X-3, với “công lao to lớn” của Đỗ Mười, thu được khoảng hơn 4.000 kg vàng, gần 1.200.000 đô la, và một khối lượng hàng hóa không thống kê hết. Từ chiếc xe hơi, TiVi, tủ lạnh, đến bịch bột giặt, quả trứng gà đều khê khai và tịch thu chất trong các kho, để rồi không cánh mà bay, hoặc biến thảnh phế thải...
X-3, cú đòn trời giáng cuối cùng, biến “Hòn ngọc Viễn Đông” thành “Thành phố chết”, đẩy thêm dòng người bỏ đất nước ra đi bất chấp hiểm nguy, bao nhiêu số phận đã rã rời trên biển sâu...” (5)
Rõ ràng qua đấy chúng ta thấy rõ hơn tội ác của Đỗ Mười làm băng hoại đạo đức xã hội cũng như là kẻ đầu têu cho sự cướp bóc của cộng sản đối với nhân dân Miền Nam.
Đỗ Mười vẫn chơi “Đại cán” Tầu
Thứ ba, trong báo cáo về thành tích “cướp” của nhân dân Miền Nam, cuốn sách “Thông tin lịch sử của TP. HCM” của ủy ban nhân dân TPHCM có cho biết:
“Cho đến ngày giải phóng 1975, Sài Gòn đã có một cơ sở vật chất, kinh tế kỹ thuật lớn nhất miền Nam, nơi tập trung hơn 80% năng lực sản xuất công nghiệp cả miền Nam. Nơi đây tập trung hơn 38. 000 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp lớn nhỏ, trong đó có 766 công ty và 8. 548 cơ sở công nghiệp tư nhân. Để công hữu hóa tư liệu sản xuất và đưa công nhân lao động làm chủ nhà máy, xí nghiệp, sau năm 1975 chính quyền cách mạng đã tiến hành vận động hai đợt cải tạo công thương nghiệp. Kết quả là đã quốc hữu hóa tài sản của 171 tư sản mại bản, 59 tư sản thương nghiệp cỡ lớn... ”
Cuốn sách cũng khẳng định thêm:
“Trong những chiến dịch lịch sử này có sự đóng góp không nhỏ của Bộ Chính Trị mà đặc biệt là vai trò lãnh đạo của đồng chí Phạm Văn Đồng - thủ tướng chính phủ và đồng chí Đỗ Mười - phó thủ tướng chính phủ...”
Đó chính là những đoạn báo cáo tố cáo tội ác của cộng sản mà đặc biệt là Đỗ Mười. Đó là tội ác không thể chối cãi.
Đỗ Mười và đồng chí “LÚ”
III. Trùm sò Bán nước:
Lịch sử và sự thật cho biết Đỗ Mười chính là một kẻ bán nước. Điều đó là hoàn toàn không thể chối bỏ. Ngày nay nhiều tài liệu được bạch hóa đã chỉ ra Đỗ Mười chính là một tay trùm sò bán nước. Điều đó sẽ được gửi tới bạn đọc ngay dưới đây. Trước đó, xin quý bạn đọc tìm đọc lại“Những sự thật cần phải biết - Phần 23” để thấy rõ đường dây và tiến trình bán nước của cộng sản gồm: Phiêu, Linh, Khải, Kiệt, Mười, Mạnh v.v... Ở đây chỉ xin tóm tắt một số sự kiện chính để thấy rõ bộ mặt bán nước của Đỗ Mười hơn.
Thứ nhất, ngày 7-11-1991, trong chuyến đi Bắc Kinh của Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt, “Hiệp định tạm thời về việc giải quyết các công việc trên vùng biên giới hai nước”, Việt Nam - Trung cộng, đã được ký kết. Đường biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung cộng dài 1.406 km, có truyền thống lâu đời bắt đầu được phân định lại.
Đường biên giới truyền thống đó là cơ sở để người Pháp, sau khi chiếm Bắc Kỳ, đàm phán với triều đình Mãn Thanh, ký Công ước 26-6-1887 và Công ước bổ sung 20-6-1895. Đây là hai văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên xác định biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, đường biên giới dài 1.406 km, từ Móng Cái đến biên giới Lào - Trung, chỉ có 341 cột mốc.
Đỗ Mười và Lê Đức Anh - Những kẻ bán nước
Theo Phan Văn Khải kể lại: “Thác Bản Giốc mình không thể nào lấy hết... Bãi Tục Lãm họ có ý đồ lấn thật. Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu và Cố vấn Đỗ Mười cũng phải đấu với Trung Quốc trên tình hữu hảo mới được như vậy. Tôi, ông Vũ Khoan và ông Lê Khả Phiêu đã đấu tranh rất căng thẳng nhưng đôi bên cũng phải có nhân nhượng, chẳng thà mình có một phân định sau này còn có cơ sở để đấu tranh”.
Qua đây cho thấy chính Khải và Phiêu đã xác nhận hành động bán nước của mình. Tại sao lãnh thổ của Việt Nam lại phải nhân nhượng? Và việc để mất thác Bản Giốc và bãi Tục Lãm mà Khải kể chính là hành động bán nước không thể chối cãi. Và việc Mười và Kiệt đã ký “hiệp định” đã cho thấy Mười và đồng bọn chính là những tên Lê Chiêu Thống ngày thời cộng sản không thể chối cãi.
Thứ hai, trên một bài báo của Vietnamnet (cộng sản) đã chỉ rõ vai trò kết nối bán nước của Lê Đức Anh như sau: “Sau khi ông Lê Đức Anh đi "tiền trạm" về. Từ ngày 3 đến ngày 10/11/1991, Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã thăm chính thức Trung Quốc. Hai bên Hội đàm, ra thông cáo chung và kí kết Hiệp định chính thức quan hệ bình thường giữ hai nước trên cơ sở 5 nguyên tắc hòa bình, đồng thời kí cả quan hệ bình thường giữa hai Đảng, khép lại 15 năm đối đầu căng thẳng.” (6)
Tất nhiên là bài báo không được phép nói thẳng ra Anh, Mười, Kiệt bán nước nhưng chúng ta thấy sự thật đã rõ ràng khi Kiệt và Mười đi thăm bán nước cho Trung cộng... Sự kiện này đã được chính báo cáo của bộ chính trị cộng sản về Lê Đức Anh, Mười, Kiệt kể công bán nước như sau:
“Đồng chí Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh v.v… đã có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng khởi đầu cho mối quan hệ bằng 16 chữ vàng và 4 tốt hiện nay. Tiếp nối truyền thống của Mao chủ tịch và Hồ chủ tịch đã xây dựng …” (7)
“Ngày 19-11-1994 Tại Hà Nội, Đỗ Mười và Lê Đức Anh tại lễ đón tiếp Tổng bí thư Đảng Cộng sản, Chủ tịch nước Trung Quốc sang thăm Việt Nam. Chuyến thăm kéo dài đến 22-11-1994”./ Nguồn: Trung Quốc-Việt Nam (sách ảnh) Văn phòng Báo chí Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa biên soạn. China Intercontinental Press, 2003, tr. 26/ (8)
Thứ ba, Hội nghị Thành Đô 1990, từ trái Lý Bằng, Giang Trạch Dân, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng (phải) “16 chữ vàng” và “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, trên thực tế là Tà quyền Việt cộng chịu sự phụ thuộc về nhiều mặt đối với Trung cộng.
Sự kiện Thành Đô và vai trò của Đỗ Mười đã được khẳng định bằng việc trong hồi ký của Lý Bằng nói rất rõ vai trò của Mười:
“Về việc đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đi Thành Đô hội đàm nội bộ với TBT ĐCSVN Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch HĐBT VN Đỗ Mười, đã gửi lời mời đến phía Việt Nam. Hiện còn phải chờ xem phúc đáp của phía Việt Nam thế nào?
Ngày 2/9 - Chủ nhật. Trời quang tạnh.
Buổi chiều, 3 giờ 30 tôi lên chuyên cơ khởi hành từ sân bay ở ngoại ô phía tây Bắc Kinh. Khoảng gần 6 giờ đến sân bay Thành Đô. Tôi đi ô tô mất khoảng 20 phút đến Khách sạn Kim Ngưu. Bí thư Tỉnh ủy Dương Nhữ Đại chờ đón tôi tại đó. Đồng chí Giang Trạch Dân đi một chuyên cơ khác, đến Thành Đô muộn hơn tôi 30 phút. Buổi tối từ 8g30 đến 11g tôi và đồng chí Giang Trạch Dân trao đổi ý kiến về phương châm hội đàm với phía Việt Nam ngày mai.
Ngày 3/9 Thứ hai. Thành Đô trời tạnh sáng.
Buổi sáng tôi đến chỗ đồng chí Giang Trạch Dân cùng đồng chí ấy tiếp tục nghiên cứu phương châm sẽ hội đàm với phía Việt Nam vào buổi chiều.
Khoảng gần 2g chiều, TBT ĐCSVN Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười và Cố vấn BCHTƯ ĐCSVN Phạm Văn Đồng đến khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô. Đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đón tiếp họ ở sảnh tầng 1. Nguyễn Văn Linh mặc Âu phục màu cà phê, phần nào có phong độ như một học giả. Đỗ Mười thân thể tráng kiện, đầu tóc bạc trắng, vận âu phục xanh lam. Cả hai người đều vào khoảng 73-74 tuổi. Còn Phạm Văn Đồng cả hai mắt bị lòng trắng che, thị lực rất kém, mặc áo kiểu đại cán xanh lam, giống như một lão cán bộ Trung Quốc...”
Rõ ràng những kẻ như Đồng, Linh, Kiệt và Mười là những tên bán nước thật sự. Đó chính là những kẻ tội đồ của dân tộc.
Những tên bán nước tại Thành Đô.
Thứ tư, trong cuộc gặp với Giang Trạch Dân thì Đỗ Mười đã đồng ý với công hàm Phạm Văn Đồng và nhượng bộ Trung cộng. Nó thể hiện rất rõ sự bán nước của Mười. Trong báo cáo chính trị của cộng sản về cuộc gặp này được lưu lại tại Bộ Ngoại Giao cộng sản có ghi như sau:
“Trong cuộc họp với đồng chí Giang Trạch Dân, Đồng chí Đỗ Mười than rằng trong khi các bên bàn luận chưa ngã ngũ ra sao, thì hải quân Trung cộng cứ nhằm hải quân Việt Nam mà tấn công là không hay.
Đồng chí Giang cười xòa, rồi nói rằng:
Quần đảo Tây sa (Hoàng sa) do Trung quốc chiếm từ chính quyền miền Nam Việt Nam, không liên quan gì tới đảng Cộng sản Việt Nam cả. Còn những cuộc đụng độ mới đây tại quần đảo Nam sa (Trường sa) thì đó là những biến cố nhỏ. Chúng ta gặp nhau đây, hãy bàn đại cuộc thì hơn.
Đồng chí Đỗ Mười đáp lại:
Đụng chạm nhỏ gì mà tới 9 lần. Thiệt hại lên tới hàng trăm người của chúng tôi. Nhất là cuộc tấn công của hải quân Trung-quốc ngày 14-3-1988, khiến ba tàu Hải Quân Việt Nam bị chìm, mấy trăm người mạng bị chết.
Đồng chí Giang bèn đưa ra một văn kiện, do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký trước đây. Đồng chí Giang nói:
Ngày 4-9-1958, khi Trung quốc ra bản tuyên cáo lãnh thổ 12 hải lý, với bản đồ đính kèm, thì ngày 14-9-1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng của Việt Nam, ký văn thư gửi cho Thủ tướng Chu Ân Lai của Trung quốc, công nhận bản tuyên bố lãnh hải. Từ ngày ấy cho đến nay, phía Việt Nam chưa bao giờ chống đối văn kiện này. Như vậy rõ ràng Việt Nam công nhận toàn bộ vùng biển Đông, trong đó có hai quần đảo Tây sa (Hoàng sa) và Nam sa (Trường sa) thuộc Trung quốc. Quần đảo Tây sa, Trung quốc đã đánh chiếm từ chính quyền Sài-gòn ngày 19-1-1974. Còn quần đảo Nam sa (Trường-sa), sau ngày 30-4-1975, VN đem quân tới chiếm đóng. Như vậy là Việt Nam xâm lăng, lấn chiếm lãnh thổ Trung quốc, nên hải quân Trung quốc phải nổ súng đuổi quân xâm lược là lẽ thường tình.
Đồng chí Đỗ Mười không chịu nhượng bộ: Tại Trường sa còn có quân đội của Phi-luật-tân, Đài-loan, Mã-lai. Tại sao thủy quân Trung-quốc không tấn công vào quân hai nước đó, mà chỉ tấn công vào Hải Quân Việt-Nam?
Đồng chí Giang tiếp: Quần đảo này hiện đang trong vòng tranh chấp giữa Trung quốc với Philippines, Malaysia, nên Trung-quốc không thể tấn công họ, như vậy là bá quyền. Còn quân của Đài loan cũng là quân Trung quốc đóng trên lãnh thổ Trung quốc, nên hải quân Trung quốc không thể nổ súng, vì như vậy là huynh đệ tương tàn.
Đồng chí Đỗ Mười cho biết: Nhưng tại Trường sa từ trước đến giờ không hề có quân Trung quốc đóng. Nay Trung quốc dùng sức mạnh, chiếm mất mấy đảo của Việt Nam làm ảnh hưởng đến quan hệ tốt đẹp mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp.
Đồng chí Giang bèn trả lời rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nêu cao việc dùng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì đồng chí hãy tuân thủ tư tưởng của Hồ Chủ tịch, vì chính Hồ chủ tịch ra lệnh cho đồng chí Phạm Văn Đồng ký văn thư công nhận các quần đảo Tây Sa và Nam Sa là của Trung quốc…
Đồng Chí Đỗ Mười: Thôi! Chúng ta hãy dừng lại ở đây để không ảnh hưởng đến hòa khí của hai đảng. Chúng ta bàn tiếp vấn đề Campuchia...” (9)
Qua đoạn trích chúng ta thấy gì? Đó là Đỗ Mười đã im lặng trước hành động bán nước của Phạm Văn Đồng, HCM vì vậy sau đó Mười bán nước không có gì lạ.
Đỗ Mười bán nước
Trước đó thì Linh và Mười đã rất tâm đắc với việc bán nước và thần phục Trung cộng. Hãy đọc đoạn sau từ hồi ký Trương Đức Duy - sứ Tầu tại Việt Nam để thấy rõ điều này:
“Hai vị Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười bàn bạc ngay tại chỗ xong, Nguyễn Văn Linh bày tỏ: Tôi và Chủ tịch Đỗ Mười rất phấn khởi, rất hoan nghênh, rất cảm ơn lời mời của Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng. Chúng tôi hết sức vui mừng khi nhận được lời mời, đồng ý với sự bố trí thời gian, địa điểm và những việc có liên quan do phía Trung Quốc đề xuất. Chúng tôi sẽ báo cáo ngay lên Bộ chính trị, nhanh chóng xác định danh sách đoàn đại biểu và bắt tay vào công tác chuẩn bị, thậm chí ngay cả đồng chí Phạm Văn Đồng, nếu như tình trạng sức khỏe cho phép, cũng nhất định sẽ tiếp nhận chuyến đi thăm theo lời mời này.
Cuộc gặp mặt được diễn ra hơn nửa giờ trong bầu không khí thân mật, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh còn đề xuất một lần nữa nguyện vọng được gặp đồng chí Đặng Tiểu Bình, được đích thân lắng nghe những ý kiến và kinh nghiệm quý báu từ đồng chí ấy”.
Đỗ Mười và đồng chí X
IV. Kết luận:
Đỗ Mười cũng là một trong những tội đồ của dân tộc. Ngoài độc tài và cướp đoạt của dân còn cho thấy là một trong những hiện thân của Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc thời đại cộng sản. Điều đó cho thấy chúng ta phải tìm mọi phương thức để lật đổ chế độ cộng sản để cứu dân tộc khỏi con đường mà cộng sản đang tìm cách dâng giang sơn, gấm vóc của tổ tiên cho giặc. Chúng ta chỉ có thể lật đổ cộng sản mới có thể cứu được sản nghiệp mà những Trần Hưng Đạo, Hai bà Trưng v.v... đã dày công vun đắp. Đó là trách nhiệm mà chúng ta, tất cả bạn đọc có lương tri phải phấn đấu.
Đỗ Mười thật sự là Đỗ Mười vì dù có là anh hoạn lợn hay anh tổng bí thư vô học thì cũng phải nói: Đỗ Mười cộng sản!
06/10/2013.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen