Cao-Đắc Tuấn (Danlambao)
Tóm lược: Hồ Chí Minh và Đảng
cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) làm nhiều vụ lừa đảo lịch sử để gạt dân
Việt Nam. Từ khi Hồ chết, ĐCSVN tiếp tục trò lừa đảo với những lời
nói láo và dối trá vô nhân đạo để bao che những hành vi vô đạo đức
và tội phạm hoặc đánh bóng hình ảnh mình cho mục tiêu tẩy não và
nhồi sọ. Bài này phơi bày mười sáu hành động lừa đảo bởi Hồ và/
hoặc ĐCSVN trong nỗ lực họ sửa đổi lịch sử cho lợi lộc cá nhân từ
năm 1930 cho đến 2014. Những vụ lừa đảo lịch sử này có hậu quả tàn
phá trên người dân Việt, nhất là trẻ em.
"Một quốc gia mà không biết
mình là gì ngày hôm qua, không biết mình là gì ngày hôm nay." Woodrow
Wilson (1856 - 1924), Tổng thống Hoa Kỳ thứ 28.
Dẫn nhập
Lừa đảo là bản chất căn bản của
Hồ Chí Minh và phương châm của Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) trong
nhiều thập kỷ (Cao-Đắc 2014c). Trong việc cai trị Việt Nam, Hồ và
ĐCSVN dùng đủ mọi thủ thuật, hỗ trợ bằng bạo lực, để ép buộc dân
đi theo đường hướng ngoại lai của họ. Một trong những trò lừa đảo
tàn khốc và hèn hạ nhất của họ là trò lừa đảo lịch sử.
Tuy những lừa đảo lịch sử này không
trực tiếp ảnh hưởng các khía cạnh vật chất của nạn nhân trong ngắn
hạn, sức tàn phá của chúng thật sâu rộng và tác động trên toàn dân
cho nhiều thế hệ. Khi những lừa đảo lịch sử này được thiết kế,
thực hiện, thúc đẩy, khuyến khích, và bảo vệ bởi chính quyền, chúng
đưa đến một tội ác trầm trọng. Hồ và ĐCSVN là những kẻ tội phạm
thực hiện tội ác này, hỗ trợ bởi bạo lực và sự tàn nhẫn.
Cái tội ác này khốc liệt hơn cả
giết người trong máu lạnh, vì nó điều khiển ý chí nạn nhân và biến
cái ý chí đó thành niềm tin mù quáng để các thủ phạm có thể khai
thác khả năng sản xuất của nạn nhân cho lợi lộc chúng. Nó giết biết
bao nhiêu thế hệ từ năm này qua năm khác một cách chậm chạp và nạn nhân
thường không biết là họ đang bị tra tấn một cách thầm lặng để chết
dần chết mòn. Nó hủy hoại trí óc người dân, làm suy yếu khả năng
lý luận, và biến họ thành những công nhân ngoan ngoãn phục vụ kẻ
thống trị. Chẳng bao lâu, niềm tin mù quáng biến thành cảnh nô lệ.
Nạn nhân có thể hiện hữu vật chất nhưng linh hồn và trí tuệ họ
thuộc về kẻ thống trị. Hậu quả cuối cùng của tiến trình này thật
tàn khốc: dân tộc Việt từng bất khuất sẽ bị hủy diệt.
Cái tội ác này hèn hạ vì đa số
nạn nhân là những em bé ngây thơ, thanh thiếu niên, hoặc những người
hiền lành chất phác, những người không có phương tiện tự vệ vật
chất hoặc tinh thần. Là lực duy nhất nắm quyền, ĐCSVN cưỡng hiếp tâm
thần trẻ em bằng các kỹ thuật tẩy não và nhồi sọ trong trường học
và các hoạt động xã hội. Họ sử dụng lực lượng an ninh để làm câm
nín, với bạo lực và tàn ác, những người chống đối. Những người
bất đồng chính kiến bị bỏ tù. Lưu thông tin tức bị cấm đoán. Tự do
ngôn luận bị giới hạn.
Trong thế kỷ thứ 21, sự hiện hữu
của những lừa đảo lịch sử và cái tàn bạo kèm theo là một thảm
kịch nhân loại ở mức độ cao nhất. Mặc dù vài nạn nhân đã có thể
thoát khỏi những tai hại tâm thần giáng vào họ, đa số dân, nhất là
thế hệ trẻ, vẫn còn bị nhốt trong ngục tù tâm thần của lừa đảo
lịch sử. Do đó, vạch ra những lừa đảo này là bước tiến cần thiết
trong việc khôi phục chính nghĩa cho dân tộc Việt Nam. Phần sau đây phơi
bày mười sáu vụ lừa đảo lịch sử đáng kể do Hồ Chí Minh và ĐCSVN
thực hiện từ năm 1930 cho đến 2014. Những vụ lừa đảo này có các đặc
tính tiêu biểu cho người cộng sản: tàn ác, hèn hạ, hiểm độc, ngu
xuẩn, điên rồ, và ngạo mạn.
Mười sáu vụ lừa đảo lịch sử
Có đến hàng ngàn vụ lừa đảo lịch
sử do Hồ và ĐCSVN tạo ra. Cần phải có một quyển sách dày hàng ngàn
hoặc hàng chục ngàn trang mới liệt kê tất cả sự lừa đảo và gian manh
đáng kinh ngạc bởi ĐCSVN và tiền thân của nó. Ngoài lừa đảo lịch sử, Hồ
và ĐCSVN còn thực hiện các loại lừa đảo khác: chính trị, xã hội,
kinh tế, ngoại giao, văn hóa. Một loại lừa đảo đặc thù là việc tôn
thờ Hồ Chí Minh. Bài này sẽ không trình bày việc tôn thờ Hồ chỉ vì
phải cần một quyển sách thật dày mới thảo luận hết được.
Mười sáu vụ lừa đảo sau đây đại
diện mô hình lừa đảo, dối trá, và lừa gạt của cộng sản. Học giả
và sử gia Tây phương đều biết hết những vụ này dưới nhiều mức độ
sâu rộng khác nhau, nhưng dân Việt sống tại Việt Nam không biết hết
tất cả. Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) đã
đặt luật lệ khắt khe cấm đoán dân có được tài liệu, tin tức, và
thông tin chống cộng ở thế giới tự do trong biết bao năm. Ngoài ra, họ
có một ngân sách hầu như vô tận cho chi phí tuyên truyền gồm có việc
sản xuất hằng hà sa số sách vở và tài liệu có các lừa đảo lịch
sử và việc sử dụng một lực lượng khổng lồ nhân viên tuyên truyền,
phân tích, phê bình, và học giả có ́công việc chính là thực hiện và
bảo vệ các lừa đảo lịch sử này.
Nhiều vụ lừa đảo này được đưa vào
sách giáo khoa trong trường học hoặc được trình bày trong các tài
liệu phân phối hoặc có sẵn cho công chúng. Trẻ em học những sự kiện
hoặc các câu chuyện lịch sử lừa đảo này tưởng là có thật. Ngay cả
nhiều người lớn, đã trải qua cùng hệ thống trường học, cũng tưởng
lầm như vậy.
Những lừa đảo lịch sử gồm các
hành động có ý nghĩa lịch sử và có thể được phân loại thành các
loại sau: (1) các hành động lừa gạt hoặc gian trá ngay lúc
đầu; (2)các hành động bao che hoặc giấu giếm những hành động vô
đạo đức do cộng sản làm; (3) các hành động xuyên tạc sự
thật sự kiện lịch sử để tô điểm hình ảnh cộng sản hoặc mạ lị các
lực đối thủ hiện tại hay quá khứ (thí dụ thể chế VNCH) cho mục tiêu
tẩy não và nhồi sọ; và (4) các hành động làm ngơ, bỏ qua,
làm giảm thiểu, hoặc tối thiểu hóa tác dụng các sự kiện lịch sử
coi như có hại cho cộng sản.
1. Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) ban đầu
là cuộc nổi dậy của nông dân, không có sự tham gia, chứ đừng nói là lãnh đạo,
từ đảng cộng sản
Một trong những lừa đảo đầu tiên ĐCSVN
thực hiện là cái gọi là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Theo ĐCSVN, "[n]gay sau khi
thành lập, Đảng đã lãnh đạo nhân dân trong cả nước đứng lên đấu tranh, đỉnh cao
là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm (1930-1931)" (ĐCSVN 2012). ĐCSVN tuyên
bố rằng "Xô-viết Việt-nam đầu tiên trong lịch sử Đảng ta - là
sự phát triển tất yếu cho cao trào đấu tranh cách mạng của công nhân
và nông dân cả nước ta trong những năm 1930-1931" (ĐCSVN 1976,
205).
Thực ra, cuộc nổi dậy Nghệ Tĩnh ban đầu
là một cuộc nổi dậy của nông dân, không có sự tham gia, chứ đừng nói là lãnh
đạo, từ Đảng cộng sản Đông dương (ĐCSĐD), tiền thân của ĐCSVN (Duiker 1973,
198; Bernal 1981, 159; McLane 1966, 147-157). Cũng không có gì tương tự như
chính quyền địa phương "Xô-viết."
Nguyên nhân chính của phong trào là
"nông dân bất mãn về điều kiện kinh tế" (Duiker 1973, 192). Đặc
biệt, ở Nghệ An, "mùa lúa gạo tháng mười năm 1929 và tháng năm
1930 đều tệ" (Bernal 1981, 157). ĐCSVN (hoặc ĐCSĐD - lúc ấy) có thể
miễn cưỡng tham gia chỉ sau khi cuộc nổi dậy trở nên thịnh hành bởi vì "đảng
không chuẩn bị vào năm 1930 về tổ chức và về mặt lý thuyết cho một cuộc đối đầu
quan trọng với chính quyền Pháp và... ban lãnh đạo đã nhận thức rõ rằng một
cuộc nổi dậy là quá sớm" (Duiker 1973, 197) Do đó, Đảng "bị ép buộc
vào vị trí hỗ trợ một cuộc nổi dậy mà họ không thực sự muốn"
(sđd.).
Nông dân thậm chí không biết lá cờ đỏ búa
và liềm tượng trưng cho cái gì. Nhiều người nghĩ rằng lá cờ này là cờ chính
phủ (sđd., 190). "Bằng chứng dường như cho thấy lãnh đạo ĐCSĐD không khởi
động các Xô viết, cũng không chấp thuận khi chúng xuất hiện, nhưng một khi
phong trào được tiến hành, họ đành phải hỗ trợ chúng cho đến cùng"
(sđd., 198). "Không có tài liệu ghi chép nào về chỉ thị đặc biệt
gửi đến miền Trung, chứ đừng nói là Nghệ Tĩnh" (Bernal 1981,
159). "Tuyệt đối không có dấu hiệu cho thấy các lãnh tụ cảm
thấy thời cơ đã đến" (sđd.). Sự tham gia cộng sản trong cuộc nổi dậy,
do đó, chỉ đơn thuần là một phản ứng với một việc đã rồi (Duiker 1973, 197).
Ngoài sự không chuẩn bị của Đảng cho
cuộc nổi dậy, có một lý do thuyết phục tại sao ĐCSVN không muốn lãnh đạo một
phong trào "cách mạng" như thế. Trong thời gian cuộc nổi dậy, ĐCSVN
đổi tên thành ĐCSĐD trong tháng 10 năm 1930 đưới sự kiên quyết của Quốc tế Cộng
sản (Duiker 2000, 187). "Tài liệu ấn hành của hội nghị rất ngạc nhiên
là chú ý rất ít về các sự kiện diễn ra ở Nghệ-Tĩnh" (Duiker 1973,
193). Nhưng ĐCSĐD chỉ trích ban chấp hành ủng hộ các hành động đại chúng và nhận
xét rằng liên minh giữa công nhân và nông dân trong vùng không được thống nhất
cao (Duiker 2000, 188). Chuyện này rõ ràng phù hợp với chỉ trích của Quốc tế
Cộng sản vào năm 1929 rằng vai trò trung tâm của giai cấp công nhân trong cuộc
cách mạng Việt Nam không được nhấn mạnh đủ (sđd., 186).
ĐCSVN đã cố gắng mang kết nối giữa công
nhân và nông dân trong phong trào, nhưng trên thực tế, cuộc nổi dậy Nghệ Tĩnh
bản chất là một phong trào nông dân. Thống kê dân số cho thấy giới trí thức,
nông dân, tư sản bao gồm 73% đảng viên cộng sản ở Nghệ Tĩnh trong tháng 12 năm
1930 (Bernal 1981, 164), một tỷ lệ phần trăm mà hầu như không được Quốc tế Cộng
sản coi là thuận lợi. ĐCSĐD thừa nhận vấn đề này và đã đưa ra hướng dẫn "vì
chưa nhận thức đúng đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn và mắc
sai lầm hữu khuynh cho nên Nông hội đỏ đã kết nạp cả phú nông, thậm
chí có nơi phú nông tham gia Ban chấp hành" (ĐCSVN 1976, 239).
Lý do tại sao nhiều thành viên cộng sản bị
bắt hoặc bị giết trong giai đoạn này là "mọi người Pháp ở Đông Dương, từ
nhiều năm đã quen với việc đặt nhãn hiệu Bolshevik trên tất cả các hình thức chủ
nghĩa quốc gia ở Việt Nam, đã nhanh chóng thấy lãnh đạo cộng sản trong phong
trào đình công" (Duiker 1973, 190). Ngoài ra, một thành viên ban chấp
hành, Ngô Đức Trí, "bị bắt giữ bởi Pháp... và không những thú nhận
những bí mật, mà còn tiết lộ vị trí của các đảng viên khác trong Ủy ban
Trung ương" (sđd., 194; Dommel 2002, 44). Nói cách khác, các đảng
viên cộng sản bị bắt và bị giết trong cuộc nổi dậy không phải vì họ lãnh đạo cuộc
nổi dậy, nhưng vì Pháp tin mãnh liệt là cuộc nổi dậy được tổ chức bởi họ và
do đó truy nã họ.
Vậy thì làm sao nhãn hiệu "Xô
viết" được dùng để chỉ cuộc nổi dậy của nông dân? Đó là vì Hồ (Nguyễn Ái
Quốc vào lúc đó) láu táu báo cáo với Quốc tế Cộng sản vào tháng 11 năm
1930, "Hiện nay ở một số làng đỏ, Xô-viết nông dân đã được thành
lập" (trích dẫn trong Nguyễn 2001, 75). Trên thực tế, không có chính quyền
địa phương Xô viết như vậy tại các làng Nghệ Tĩnh. Có những hội nông dân
mới được thành lập, nắm quyền, và "thường tự xưng là xã
bộ nông, cái danh xưng được giữ trong suốt phong trào" (Bernal
1981, 152). Tuy nhiên, các lãnh tụ Đảng cộng sản "lập tức gọi
các tổ chức đó là ‘Xô viết’" (sđd.) Các sử gia Đảng Việt Nam
thừa nhận rằng "về chủ trương thành lập chính quyền Xô-viết
thì hồi đó không đồng chí nào nhận được chỉ thị hoặc nghe phổ
biến" (trích dẫn trong Nguyễn 2001, 75). Nếu vậy, tại sao Hồ gọi
cuộc nổi dậy nông dân là một phong trào Xô Viết? Có thể có hai lý do: (1) Hồ
muốn làm hài lòng các cấp trên của mình trong Quốc tế Cộng sản, và (2) Quốc
tế Cộng sản gợi ý cho Hồ ý muốn của họ thúc đẩy cộng sản ở các nước ngoài
thực hiện theo các thí dụ thiết lập bởi cộng sản Việt Nam (Nguyễn 2001,
76).
Bất kể chuyện gì đã khiến Hồ gọi cuộc nổi
dậy là Xô viết, nhãn hiệu Xô viết và sự mô tả các cuộc nổi dậy nông dân
là phong trào tiền phong cách mạng Đảng là hư cấu thuần túy. ĐCSVN chỉ
giành công cho cuộc nổi dậy của nông dân,"chính yếu là dưới dạng
các bài viết bởi kẻ tuyên truyền tài ba Trần Huy Liệu" (Dommen
2002, 44).
Thực ra, cái gọi là Xô Viết Nghệ Tĩnh được
gây ra bởi phong trào quốc gia bắt đầu bằng cuộc khởi nghĩa Yên Bái (McLane
1966, 147-157, gọi cuộc khởi nghĩa Yên Bái là binh biến "Enbay").
Cuộc khởi nghĩa Yên Bái và các cuộc nổi dậy tiếp theo bởi Việt Nam Quốc Dân Đảng
(VNQDĐ) bị Pháp dập tắt nhanh chóng. Nhiều thành viên của VNQDĐ, kể cả vị
lãnh tụ nổi tiếng Nguyễn Thái Học, bị bắt giữ, xử, và hành quyết. Các hoạt
động cách mạng quốc gia được hoan nghênh bởi cộng sản Liên Xô (sđd., 148-149).
Động lực của cuộc khởi nghĩa Yên Bái lan tràn sang các phần khác ở Việt Nam
và dẫn đến các cuộc đình công ở Sài Gòn và các thành phố khác và các cuộc nổi
dậy nông dân ở phần phía bắc miền Trung Việt Nam, đặc biệt là vùng Nghệ Tĩnh
(sđd., 149-150).
Xô Viết Nghệ Tĩnh là một gian lận nghiêm
trọng bởi vì không những cộng sản Việt Nam giựt công cho chuyện mà họ không
xứng đáng, mà họ còn bỏ qua sự đóng góp và hy sinh đáng kể của nông dân
Nghệ Tĩnh và VNQDĐ.
2. Việt Minh (1941) là bẫy dụ dỗ
những người quốc gia đi theo cộng sản
Một vụ lừa đảo khác là sự hình thành
Việt Minh, được Hồ và các đồng chí thành lập vào tháng 5, 1941 tại Pắc Bó
dưới sự bảo trợ của ĐCSĐD. Hồ, một tác nhân Quốc tế cộng sản, và các đồng chí
cộng sản tạo nên phần nòng cốt của lãnh đạo Việt minh, nhưng họ giấu giếm
sự dính líu cộng sản của họ.
Ngay cả danh xưng Việt Minh (gọi tắt
cho Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội) có tính chất lừa đảo. Hồ và các
đồng chí ăn cắp danh xưng này từ tổ chức quốc gia không cộng sản của
Hồ Học Lãm thành lập vào cuối thập kỷ 1930 (Duiker 1996, 71; Marr
1997, 165, 250). Mượn tên một tổ chức quốc gia cho tổ chức cộng sản
là một sự lừa đảo đê tiện. Mục đích thật hiển nhiên: để lừa dân
khiến họ tưởng Việt Minh là một tổ chức quốc gia.
Để cho phù hợp với danh xưng này,
Hồ và các đồng chí giấu giếm chủ nghĩa cộng sản và xác định rằng "các
đòi hỏi về ý thức hệ và chiến tranh giai cấp phải lệ thuộc vào
các đòi hỏi của cuộc đấu tranh chống đế quốc giành độc lập quốc
gia"(Duiker 1996, 71). Với chiến thuật mới này, Hồ và các đồng
chí kêu gọi mọi thành phần ái quốc gia nhập Việt Minh chống kẻ thù
chung. Không những giới tư bản và phú nông mà còn địa chủ giàu có,
thương gia Tàu hải ngoại, và các người Pháp yêu nước đều là đồng
minh (Duiker 1996, 72). Để ngăn ngửa nguy hiểm do việc nhận các nhóm
khác biệt này, Hồ để Đảng nắm giữ quyền trong cơ cấu mặt trận. Tuy
nhiên, "Hồ ráng che giấu vai trò Đảng để tối đa hóa việc thu hút
những nhóm dung hòa" (sđd.)
Các lãnh tụ theo chủ nghĩa quốc gia
Việt Nam "đủ khôn ngoan để nhận ra Việt Minh là một cái bẫy Cộng sản"
(Buttinger 1967, 265) nên từ chối tham gia. Tuy nhiên, Việt Minh "không
thiết kế để thu hút các lãnh tụ nhưng thu hút những người quốc gia đi theo
họ... để vận động họ theo chính trị cho đến khi họ bị buộc phải hợp tác với
đảng cộng sản" (sđd., 266). Bản chất lừa đảo của Việt minh đã nảy sinh
"niềm tin rằng để được thành công chính trị, không những phải tàn nhẫn,
mà còn phải gian dối và vô đạo đức như những người Cộng sản hình như lúc
nào cũng vậy" (sđd.).
3. Cái gọi là Cách mạng tháng Tám
(1945) chỉ là kết quả của nhiều biến cố bất ngờ tạo ra chính yếu
bởi "khoảng trống quyền lực" đột ngột sau khi Nhật đầu hàng
Đồng Minh.
Chính phủ CHXHCNVN gọi cuộc Cách
mạng tháng Tám là "thắng lợi của sự chủ động chuẩn bị lực
lượng, của nghệ thuật tạo thời cơ, chớp thời cơ và kiên quyết hành
động" (Chinhphu 2014). Họ tuyên bố rằng "[t]hành công của Cách
mạng tháng Tám không phải là giành ‘khoảng trống quyền lực’ như quan
điểm của một số học giả nước ngoài,” mà là kết quả của quá trình
chuẩn bị cho tới khi phát xít Nhật đầu hàng đồng minh và quân đội
Pháp bạc nhược (sđd.).
Mặc cho lời nói hoa mỹ cộng sản,
các sự kiện lịch sử không nói láo. Các sự kiện cho thấy việc cướp
quyền thành công của cộng sản là do bởi "một số hoàn cảnh xảy
ra tình cờ" (Duiker 1996, 104), gồm có: (1) "Các lực lượng
chiếm đóng Đồng minh đến [Việt Nam] trễ nải nên tạo ra một khoảng
trống chính trị ở các đòn bẩy quyền lực" (Duiker 1996, 104); (2)
sự rối loạn toàn bộ về tương lai Việt Nam trong khoảng thời gian quanh
việc Nhật đầu hàng (Vu 1986, 312); (3) nỗ lực của chính phủ Trần
Trọng Kim để lấy độc lập hoàn toàn và thống nhất lãnh thổ (sđd.,
313); (4) nạn đói năm Ất Dậu "tạo ra nỗi tuyệt vọng giúp cộng
sản đến được làng thôn và hun nóng cuộc nổi loạn ở đồng quê"
(Duiker 1996, 104-105); (5) trò xảo quyệt Việt Minh xưng là có Đồng minh
hỗ trợ; (6) "các mối chia rẽ bè phái và địa phương" của
mọi đảng quốc gia (Duiker 2000, 105); (7) và Nhật đảo chánh Pháp vào
tháng ba 1945 tiêu diệt sự hiện diện quân sự Pháp tại Việt Nam cho
tới 1946.
Vào thời điểm đó, Hoa Kỳ muốn thiết lập một
mạng lưới ở Đông Dương để chiến đấu chống Nhật và xóa bỏ hệ thống thực dân Pháp
(Lacouture 1968, 267-268). Chuyện Mỹ sử dụng Hồ là một hoạt động viên để
cung cấp thông tin tình báo về Nhật được biết rõ (Xem, thí dụ như,
Bartholomew-Feis 2006, 166, 209). Sự giúp đỡ Mỹ cho Việt Minh không đáng kể
dưới quan điểm quân sự, nhưng nó cung cấp Hồ một vũ khí tâm lý mạnh mẽ để
giành chiến thắng trong niềm tin và tín nhiệm của dân Việt Nam.
Hồ khai thác tối đa vũ khí tâm lý
này kể cả dùng những thủ thuật rẻ tiền. Năm 1945, tại một cuộc họp với
Thiếu tướng Hoa Kỳ Claire Chennault, Hồ xin một bức ảnh có chữ ký của tướng
(Bartholomew-Feis 2006, 157-158; Logevall 2012, 84), để ông ta có thể dùng nó
như là bằng chứng về hỗ trợ của Mỹ, ve vẩy nó "như một cây đũa thần
trong các chuyến đi khắp vùng" (Logevall 2012, 84). Trong tháng tám
năm 1945, "bức ảnh Tướng Chennault có ký tên của Hồ được hiển
thị nổi bật" (Jamieson 1995, 193). Chuyện bên lề là thủ thuật ông
ta dùng ảnh có chữ ký những người có quyền hành để hù thiên hạ
không phải lúc nào cũng thành công. Năm 1950, ông ta xin Stalin ký một bức
chân dung (hoặc một tờ tạp chí), nhưng Stalin, một bậc thầy cộng sản hiểm
độc, dường như biết thủ thuật Hồ nên sai thủ hạ lấy lại những bức ảnh hay
tờ tạp chí có ký tên (Brocheux 2007, 145; Duiker 2000, 421). Dầu sao chăng
nữa, nếu không có tuyên bố về giúp đỡ của Mỹ, sự thu giữ chính quyền của
Việt minh sẽ không nổi lên một cách nhanh chóng và mạnh mẽ như vậy (Lacouture
1968, 269).
Ngoài ra, chính phủ Trần Trọng Kim,
thành lập ngày 17 tháng 4 năm 1945, đã mở đường cho một cuộc lấy
quyền lực sau khi Nhật đầu hàng. Thực ra, "Hồ là người thừa
hưởng chính cho các thành quả của Kim" (Vu 1986, 316). Trước ngày
17 tháng 8 và trước khi đầu hàng, Nhật quyết định cho Việt Nam độc
lập hoàn toàn và thống nhất lãnh thổ. Tài liệu cho thấy là
"Kim có được thống nhất lãnh thổ ngay trước khi Nhật bất ngờ
đầu hàng, và, quan trọng hơn, Thuận Hóa và Nam Bộ đã có những bước
chuẩn bị để thực hiện việc thống nhất đó" (sđd., 314). Cũng nên
ghi chú là chính Kim đã từ chối các đề nghị bởi các cấp chỉ huy
Nhật dùng quân Nhật để dẹp Việt Minh (sđd., 315).
Oái oăm thay, "sự đóng góp không
chối bỏ được của chính phủ [Trần Trọng] Kim" cho cái gọi là
Cách mạng tháng Tám là việc họ khuyến khích tham gia chính trị đại
chúng "kể cả xuống đường, hội họp, và đi bộ phản đối, lan tràn
tinh thần độc lập văn hóa và chính trị" (sđd.,313), Quan trọng
hơn, "một thế hệ trẻ Việt được huy động dưới sự bảo bọc của
chính phủ Kim và giới thẩm quyền Nhật" (sđd.). "Các dự án
cho tuổi trẻ cho Việt Minh hàng chục ngàn thanh thiếu niên phục vụ lá
cờ ĐCSĐD trên danh nghĩa độc lập và đoàn kết quốc gia thay vì trên
danh nghĩa chủ nghĩa Marxist-Lenin" (sđd.).
Các diễn tiến thực sự xảy ra chẳng
giống một cuộc cách mạng gì cả. Vào ngày 17 tháng 8, 1945, tại Hà
Nội, cán bộ Việt Minh phá rối một cuộc biểu tình đông đảo tổ chức
bởi Tổng Hội Công Chức, nhằm vào mừng độc lập và thống nhất lãnh
thổ và hỗ trợ chính phủ Kim, và họ điều khiển thành công được cuộc
biểu tình (Vu 1986, 313; Duiker 2000, 310-311; Marr 1996, 382-387).
"Không bị cảnh sát Nhật hạn chế, các đám đông đi vòng đường
phố, vẫy biểu ngữ và hò hét khẩu hiệu," nhưng ít ai "biết
rõ tính chất phong trào Việt Minh, bây giờ xưng là đại diện cho mọi
quyền lợi cho dân Việt" (Duiker 2000, 312).
4. Bản tuyên bố độc lập của Hồ
(1945) lừa gạt dân Việt vì Hồ đã có ý định bán đứng Việt Nam cho
Pháp hai tháng trước đó.
Vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ đọc
diễn văn tuyên bố độc lập, mượn lời lẽ từ Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa
Kỳ và Bản Tuyên Ngôn Quyền Con Người và Dân từ cuộc Cách mạng Pháp.
Ông ta lên án gay gắt "bản chất tàn bạo và thiếu dân chủ của
chế độ thực dân Pháp" (Duiker 1996, 104).
Thực ra, Hồ đã sẵn sàng bán đứng
Việt Nam cho Pháp ngay cả khi Pháp bất lực tại Việt Nam. Vào tháng 7,
1945, Hồ "đề nghị tái lập tạm thời cai trị của Pháp cho đến khi nền độc
lập Việt Nam được đảm bảo... trong một thời gian 5-10 năm" (Huyen 1971,
72-73; Sainteny 1972 , 43, ghi chú dưới trang **). Đề nghị này ngay lúc Pháp
vẫn còn dưới sự kiểm soát của Nhật, cho thấy rõ ràng tuyên bố độc lập của Hồ chỉ
là lời bịp bợm của Hồ để lấy lòng người Việt. Nên nhớ rằng tuyên bố
độc lập của Hồ là y như vậy, một lời tuyên bố, không hơn không kém.
Không có nghĩa là nền độc lập của Việt Nam được đảm bảo. Hồ hiểu
chuyện đó rất rõ, như các hành xử của ông ta với Nhật và Pháp sau
này cho thấy. Cái đề nghị tháng 7, 1945, do đó, vẫn còn mới mẻ trong
đầu khi ông ta đọc diễn văn ngày 2 tháng 9.
Ngoài ra, cùng với Hồ Chí Minh, Võ
Nguyên Giáp lừa dối dân Việt bằng cách tuyên bố có sự hỗ trợ của quân Đồng
minh. Giáp, ngay sau diễn văn của Hồ, đọc diễn văn mình, tuyên bố, "Hoa
Kỳ... đóng góp lớn nhất cho sự tranh đấu Việt Nam chống lại phát xít Nhật, kẻ
thù chúng ta, và do đó, Cộng hòa Mỹ vĩ đại là bạn tốt của chúng ta" (Xem,
thí dụ như, Cao-Đắc 2014b cho danh sách tài liệu tham khảo). Nói sự
giúp đỡ nhỏ nhặt của Hoa Kỳ là "đóng góp lớn nhất cho sự tranh đấu
Việt Nam chống lại phát xít Nhật" là lời nói láo trắng trợn.
5. "Tuần lễ Vàng" (1945) là
một cuộc trá hình cho việc cướp tài sản dân để hối lộ quân Tàu và
tướng Lư Hán
Vào ngày 28 tháng 8 năm 1945, bốn quân
đoàn Trung Hoa (Tàu) quốc gia "với tổng số 180.000 người dưới sự chỉ
huy của tướng Lư Hán, vượt qua biên giới Bắc kỳ" với nhiệm vụ giải
giáp Nhật (Huyen 1971, 97). Ngày 14 tháng 9 năm 1945, quân Tàu quốc gia vào
miền Bắc Việt Nam (Willbanks 2009, 8). Hồ và các đồng chí, nhất là Võ
Nguyên Giáp, lo lắng là lính Tàu đe dọa phe cộng sản vì các cấp chỉ
huy Tàu "đã có mối liên hệ thân thiện với các đối thủ của ĐCSĐD
là Đồng Minh Hội và VNQDĐ" (Duiker 1996, 115; Marr 1996, 499).
Hồ và các đồng chí tổ chức Tuần lễ
Vàng vào ngày 22-26 tháng 9, "kêu gọi dân nộp vàng và các vật có giá
trị khác để chính phủ có thể mua vũ khí từ Trung hoa" (Willbanks 2009, 8).
"Tuần lễ Vàng" mang lại khoảng "400 kg hoặc 800 cân vàng và 20
triệu đồng [Đông Dương]" (Huyen 1971, 100). Tổng cộng giá trị của
vàng và tiền mặt do "Tuần Lễ Vàng" đem lại cho Hồ và đảng
cộng sản là khoảng 33 triệu đô la Mỹ theo thời giá năm 2014. Không nhiều,
nhưng đó là tài sản kếch xù của người dân nghèo tại miền Bắc Việt Nam vào
năm 1945.
Số vàng và tiền dùng cho chuyện gì?
Theo báo cáo cộng sản, "[s]ố tiền đó đã góp phần giúp Chính phủ khắc phục
những vấn đề về tài chính trước mắt, mua sắm được một số vũ khí cần thiết xây dựng
nền quốc phòng" (QĐND 2010). Thực ra, "phần lớn số lượng [tặng
thu] được dùng để hối lộ những người Tàu đang chiếm đóng" (Huyen 1971,
100; Willbanks 2009, 8). Đặc biệt, khi "Lư Hán đến Hà Nội, Hồ đã chào đón
ông với một món quà tuyệt vời, 'bộ hút thuốc phiện vàng' " (Huyen 1971,
100; cũng trong Buttinger 1967, 634 n79; Harrison 1989, 107).
Việc Hồ hối lộ Tàu giúp cho giảm
căng thẳng giữa phe cộng sản và quân Tàu đang chiếm đóng. Nó cũng
làm dễ dàng chuyện Hổ đối phó với các đảng phái quốc gia Việt Nam.
6. Việc giải tán ĐCSĐD (1945) chỉ là
trá hình cho hoạt động cộng sản để trấn an Trung hoa quốc gia và
những người quốc gia
Dưới áp lực của các người quốc gia
đang có hỗ trợ của Trung hoa quốc dân đảng, Hồ giải tán ĐCSĐD vào năm 1945.
Việc giải tán là để loại bỏ cái tên "cộng sản" ra khỏi hiệp hội của
Hồ để tránh vẻ bề ngoài là có liên kết cộng sản.
Trên thực tế, "việc giải tán ĐCSĐD
chỉ là một mưu mẹo của Hồ" (Huyen 1971, 103). Đảng tiếp tục công việc dưới
danh xưng Hội nghiên cứu chủ nghĩa Marx (Duiker 2000, 349-350). Đảng được
chính thức tái thành lập với một tên mới, Đảng Lao Động Việt Nam vào năm
1951 sau khi Hồ vững chắc bảo đảm sự ủng hộ của Trung cộng và Liên Xô.
Việc giải tán ĐCSĐD năm 1945 là một hành
động lừa đảo tuyệt vọng để "trấn an Trung hoa quốc gia về bản chất quốc
gia của chính phủ Việt minh và để tạo ra thiện cảm hơn với những người
không theo cộng sản Việt Nam" (Huyen 1971, 103). Chuyện đó cũng được
dùng để kêu gọi Hoa Kỳ hỗ trợ. Sự gỉải tán ĐCSĐD "quả thực làm
trơn tru các cuộc đàm thoại hòa bình" (Duiker 2000, 350). Tướng
Xiao Wen tổ chức một phiên họp giữa đại diện đảng cộng sản và các
thành phần các đảng quốc gia. "Các phe đồng ý trên nguyên tắc về
sự thành lập một chính phủ liên minh rộng rãi gồm có thành phần
của nhiều đảng phái" (Duiker 2000, 350).
Những nỗ lực phối hợp của Hồ và ĐCSVN
giấu giếm sự liên kết với cộng sản thực sự của họ khi Hồ là người lãnh đạo
phong trào cách mạng cho thấy rõ ràng bản chất lừa đảo của họ.
7. Thỏa thuận Sainteny (1946) giúp hợp
thức hoá chính quyền cộng sản và dùng Pháp để tiêu diệt phe quốc
gia
Thỏa thuận ký kết giữa Hồ và Jean
Sainteny vào ngày 6 tháng 3, năm 1946 cho phép quân Pháp trở lại miền Bắc Việt
Nam là một lừa đảo đôi. Bề ngoài, như thể Hồ nhượng bộ cho Pháp mang
25.000 lính tới Bắc Việt Nam để đổi lấy chuyện Pháp công nhận Cộng hòa
Dân chủ Việt Nam là một nước tự do trong Liên bang Đông dương và Liên hiệp
Pháp (Huyen 1971, 123, 131; Logevall 2012, 133).
Trên thực tế, đó là một hành động lừa
đảo thiết kế bởi Hồ và Đảng ông ta, hoạt động dưới danh nghĩa Hội Nghiên cứu
chủ nghĩa Mác, để đạt được hai mục tiêu chính: (i) có được công nhận là lực lượng
hợp pháp chính trị Việt Nam duy nhất tại Việt Nam (Logevall 2012, 135), và (ii)
dùng sức mạnh quân sự của Pháp trong việc loại bỏ các phe quốc gia đối thủ.
Hồ và Đảng ông ta biết sự cướp quyền của
họ trong tháng 8 năm 1945 là bất hợp pháp vì nó không có hỗ trợ dân thực sự. Cuộc
tổng tuyển cử ngày 6 tháng 1 năm 1946 được sắp đặt với quá nhiều bất thường
(Huyền 1971, 107-110) đến nỗi Hồ và Đảng ông ta phải tìm cách để tuyên bố
tính chất hợp lệ. Thỏa thuận Hồ-Sainteny cho thế giới và dân Việt Nam một cảm
giác rằng chính phủ của Hồ không những hợp pháp, mà còn là lực lượng chính
trị duy nhất đại diện cho Việt Nam. Ngoài ra, các phe quốc gia trở thành ngày
càng đe dọa, nhất là với sự hỗ trợ của quân Trung hoa quốc gia đang chiếm
đóng. Trong khi giả vờ thừa nhận 70 chỗ người quốc gia trong quốc hội, Hồ và
Đảng ông ta ngấm ngầm chuẩn bị loại bỏ lực lượng họ. Pháp thích thú giúp
một tay trong việc loại trừ này vì họ cũng sẽ dập tắt được một lực lượng đối
lập.
Để ra vẻ ông ta miễn cưỡng ký thỏa thuận
với Sainteny, Hồ nói rằng chẳng thà ông ta ngửi cứt Pháp trong một thời
gian còn hơn ăn phân Tàu suốt đời (Logevall 2012, 133). Thực ra, ông ta đã
biết Pháp sẽ quay trở lại miền Bắc Việt Nam có hoặc không có thỏa thuận giữa
ông ta và Sainteny, và quân Tàu sẽ rời Việt Nam không bao lâu. Ông ta đã
biết về cuộc đàm phán Trung-Pháp tại Chungking, dẫn đến một hiệp ước
vào ngày 28 tháng 2 năm 1946 (Huyen 1971, 111). Theo hiệp ước Trung-Pháp này, để
đổi lấy nhượng bộ rất nhiều từ Pháp, Tàu đồng ý rút quân đội ra khỏi Đông
dương trong tháng ba năm 1946 (Huyen 1971, 111). Trên thực tế, một lực lượng
khoảng 21.000 người thuộc sư đoàn 9 bộ binh thuộc địa và sư đoàn thiết giáp
Pháp đã được gửi đi trên tàu chiến từ Sài Gòn đến Bắc Bộ vào cuối tháng Hai năm
1946 (Logevall 2012, 132). Thỏa thuận Sainteny, do đó, chỉ đơn thuần cho Pháp
an tâm là lực lượng Việt Nam sẽ không tham gia vào các hoạt động thù địch với
Pháp.
Với giúp đỡ của Pháp, Việt minh dưới sự
chỉ huy của Võ Nguyên Giáp giết chết hàng ngàn người quốc gia một cách có
hệ thống vào năm 1946 (Huyen 1971, 163). Cuộc tàn sát những người quốc
gia và các lãnh tụ quốc gia tương lai được ghi rõ (Xem, thí dụ như,
Cao-Đắc 2014b). Khi chiến tranh bùng nổ giữa Pháp và Việt Minh trong tháng 12
năm 1946, "không ngạc nhiên là Hồ đã trở thành lãnh tụ của lực lượng
kháng chiến quan trọng duy nhất" vì "ông ta đã giết chết gần như tất
cả những người khác" (Nixon 1985, 35).
8. Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954)
có được là nhờ sự giúp đỡ Tàu cộng và đóng góp của dân Việt vì
được hứa hẹn cho ruộng đất
Trận Điện Biên Phủ (1954) được chính
phủ cộng sản hoan hô là chiến thắng long trời lở đất. Theo chính phủ
cộng sản, chiến thắng này “được ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một Bạch
Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX" (Chính phủ
CHXHCNVN). Câu này là lời xuyên tạc trắng trợn các sự kiện lịch sử.
Đổ đồng Điện Biên Phủ với Bạch Đằng, Chi Lăng, và Đống Đa là một sự
khinh thường tột đỉnh lịch sử Việt Nam và lăng mạ Ngô Quyền, Lê Lợi,
và Nguyễn Huệ một cách không thể tha thứ được. Trận Điện Biên Phủ lu
mờ so với các trận này về mọi phương diện.
Trận Điện Biên Phủ chỉ là một trận
do Tàu cộng chỉ đạo đổi lấy hàng chục ngàn mạng dân Việt. Sự hỗ
trợ của Tàu cộng cho Việt Minh trong trận Điện Biên Phủ đã được biết
rộng rãi (Xem, thí dụ như, Cao-Đắc 2014b).
Để huy động lực lượng hỗ trợ hậu cần, Đảng
của Hồ dựa vào nông dân nghèo với lời kêu gọi lòng yêu nước và hứa hẹn cho đất
trong chiến dịch cải cách ruộng đất (Zhai 2000, 38). Cuối cùng, phe cộng
sản huy động một lực lượng cung cấp khổng lồ gần 300.000 người nhờ vào cuộc
kêu gọi lừa đảo cho lòng yêu nước buộc giới trí thức và công nhân hợp tác
nhau để đánh Pháp (Xem, thí dụ như, Cao-Đắc 2014b cho danh sách tài
liệu tham khảo). Với 47.500 quân tổ chức thành năm sư đoàn và giúp đỡ
quân sự vĩ đại từ Tàu cộng, hỗ trợ bởi lực lượng cung cấp khổng
lồ, Việt Minh bao vây Điện Biên Phủ, phòng thủ bởi một lực lượng kết hợp khoảng
20.000 quân chiến đấu trong 55 ngày. Điện Biên Phủ xụp đổ ngày 7 tháng 5
năm 1954. Thương vong Việt Minh được ước tính là 7.900 chết và 15.000
bị thương trong khi thương vong Pháp là 2.204 chết, 6.452 bị thương và
3.610 mất tích (Fall 2002, 484, 487).
Với những con số như vậy, làm sao
mà ĐCSVN dám so sánh Điện Biên Phủ với Bạch Đằng, Chi Lăng, hoặc Đống Đa?
Người nước ngoài không biết về trận Bạch Đằng, Chi Lăng, hoặc Đống Đa
có thể tưởng là các trận lịch sử này tương tự như trận Điện Biên Phủ
về tính chất trận đánh (bao vây đồn lũy trong 55 ngày), cuộc huy động
lực lượng cung cấp và binh lính vĩ đại so với lực lượng địch nhỏ
nhoi (350,000 so với 20,000), thương vong (23,000 so với 9,000), và trợ
giúp ngoại bang dồi dào. Kẻ ngu xuẩn nào lại có thể nghĩ ra cách
hạ nhục dân Việt và các anh hùng dân tộc Ngô Quyền, Lê Lợi, và
Nguyễn Huệ như vậy?
Trận Điện Biên Phủ còn là dịp cho
ĐCSVN vinh thánh Võ Nguyên Giáp. Tính chất tàn bạo, coi thường sinh
mạng con người (kể cả lính mình), bất tài, và hèn nhát của Giáp
đã được biết rõ (Xem, thí dụ như, Cao-Đắc 2014b cho các nguồn tài
liệu; Đặng 2013).
Ngày 13 tháng 10, 2013, đám tang Võ
Nguyên Giáp được tổ chức linh đình. Hàng vạn người đứng bên lề đường
khi quan tài ông ta được mang ra phi trường để được bay về Quảng Bình,
quê ông ta. Cả ngàn người khóc lóc công khai. Gần một năm sau, ngày 2
tháng 9, 2014, cuốn phim "Sống Cùng Lịch Sử" do "hoàn toàn
bằng kinh phí Nhà nước cấp" ở 21 tỷ đồng (khoảng 1 triệu đô la Mỹ) với
nội dung ca ngợi chiến thắng Điện Biên Phủ và Võ Nguyên Giáp được trình
chiếu tại Hà Nội. Chỉ sau vài ngày, cuốn phim đã phải ngừng chiếu vì số lượng
khán giả tới xem chỉ có 2, 3 người mỗi ngày (Tuổi 2014b). Nhiều người tự
hỏi tại sao hàng vạn người chịu khó đứng bên lề đường khóc lóc
trong đám tang Giáp mà chỉ có 2, 3 người đến coi phim vinh danh ông
ta.
9. Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu là một
cuộc nổi dậy rộng lớn cần cả một sư đoàn quân đội đàn áp nhưng
ĐCSVN làm giảm cường độ, xuyên tạc các lý do, và không đề cập đến
sự đàn áp tàn bạo.
Trong tháng 11 năm 1956, nông dân từ huyện
Quỳnh Lưu ở Nghệ An, phần lớn theo Công giáo, khởi đầu một cuộc nổi
dậy kéo dài vài ngày. Nông dân phản đối "việc giam giữ thân nhân
và tịch thu tài sản cho là dính líu tới chương trình cải cách ruộng
đất, việc từ chối không cho quyền đi vào Nam..., và sự trừng phạt
nặng nề những người đã cố đi" (Nutt 1970, 3). Vấn đề thực ra
"bắt đầu xuất hiện từ 1955, khi dân làng chống đối là họ đã bị
các viên chức chính phủ ngăn cản không cho di cư vào Nam" (Duiker
2000, 486-487). "Dân trong vùng có tiếng là tự trọng và độc
lập" (JUSPAO 1966, 1), nhưng "cán bộ Đảng thường tố cáo các
lãnh tụ Công giáo địa phương là những kẻ phản động và phá hoại"
(Duiker 2000, 487).
Trong khoảng thời gian nhiều ngày,
nông dân, "khoảng 20.000 người tổng cộng, trang bị gươm kiếm và
nông cụ, đột kích lính gác cộng sản, lấy vũ khí họ, và nắm giữ
các cơ sở chính quyền huyện" (JUSPAO 1966). Các khẩu hiệu họ,
giống một cách lạ thường như các khẩu hiệu hiện đang dùng ở Việt
Nam, gồm có "Đả đảo lũ cộng sản bán nước!" và "Chúng
ta hãy đuổi bọn Tàu cộng ra khỏi Bắc Việt!" (Moyar 2006, 63). Tuy
nhiên, không giống như tình trạng hiện nay tại Việt Nam khi lực lượng
an ninh và cảnh sát ngoan ngoãn tuân theo chỉ thị chính quyền, tại
Quỳnh Lưu, "nhiều binh sĩ, chính họ cũng từ gia đình nông dân,
công khai hoặc ngầm theo phe dân nổi loạn" (JUSPAO 1966, 2). Vài đơn
vị vũ trang từ huyện Quỳnh Lưu "gia nhập dân nổi loạn hàng
loạt" (sđd.).
Hà Nội lập tức phái cả một sư
đoàn quân đội tới vùng, trước là sư đoàn 304, sau đó có thêm các đơn
vị tiểu đoàn pháo binh và hai trung đoàn (JUSPAO 1966, 3). Cũng có báo
cáo là "Giáp phái đơn vị thân nhất của mình, sư đoàn 325, để
đàn áp cuộc nổi loạn" (Currey 1999, 222). Lực lượng quân đội đàn
áp cuộc nổi loạn nhanh chóng. "Các đơn vị tàn bạo của Giáp
giết hoặc gây thương tích hơn một ngàn nông dân" (Currey 1999, 222).
Họ còn "bắn bừa bãi vào đàn ông, đàn bà, và trẻ em" (Nutt
1970, 3). "Vào đỉnh cao chiến dịch, khoảng 20.000 quân tác chiến
Bắc Việt truy nã độ 2.000 dân nổi loạn trốn chạy trên đồi núi"
(JUSPAO 1966, 3). "Sau cùng, đa số dân nổi loạn bị giết hoặc bị
bắt mặc dù vài trăm người tìm được cách chạy thoát vào Nam"
(JUSPAO 1966). Ngoài ra, lực lượng chính quyền còn bắt và tống khứ
hơn sáu ngàn người tới các trại lao động và cải tạo (Currey 1999,
222).
Tuy tính chất tàn bạo của cộng sản
không hoàn toàn bất ngờ, phản ứng lẹ làng và to lớn hơi đáng ngạc
nhiên. Thì ra lý do cho sự đàn áp nhanh chóng và tàn bạo là để cho
Tàu thấy là mọi chuyện êm thấm. "Vào ngày 18 tháng 11, Chu Ân Lai
dẫn một phái đoàn Tàu tới Hà Nội" (Ang 1997, 42). Dù chuyến thăm
của Chu không được loan báo rầm rộ, chuyến đi "đã được biết
trước" (sđd.). Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH), sốt
sắng làm vui lòng quan thầy Tàu, không muốn Chu phải bận tâm tới một
cuộc nổi dậy nào đó.
Với lý do hiển nhiên, ĐCSVN làm giảm
cường độ của cuộc nổi dậy. Một bài báo cộng sản báo cáo là cuộc
nổi dậy được dàn dựng bởi Mỹ và chính quyền Nam Việt. “Mỹ-Diệm chỉ
huy bọn phản động đội lốt tôn giáo lợi dụng tự do tín ngưỡng xuyên tạc chủ
trương sửa sai cải cách ruộng đất của ta, kích động giáo dân gây bạo loạn ở Quỳnh
Lưu” (Lê 2004). Không có báo cáo về chuyện giết nông dân và việc tống
hàng ngàn dân nổi loạn bị bắt tới các trại lao động và cải tạo.
Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu năm 1956
giống cuộc nổi dậy Nghệ Tĩnh năm 1930 trên nhiều khía cạnh: địa danh
(Nghệ An), dân nổi loạn (nông dân), cường độ, bạo lực, và sự đàn áp
tàn bạo. Tuy nhiên, trong thế giới cộng sản, cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu
đã đi vào quên lãng trong khi cuộc nổi dậy Nghệ Tĩnh được xưng với
vinh quang là do bởi lãnh đạo sáng suốt của ĐCSVN.
10. Công hàm của Phạm Văn Đồng gửi
đến Tàu cộng (1958) lộ tính chất phản bội hoặc trò lừa đảo ngay cả
với đồng bọn của ĐCSVN
Vụ công hàm Phạm Văn Đồng gửi cho
Tàu đồng ý tuyên bố Tàu về lãnh hải đã được biết rộng rãi. Sự hiệu
lực của lá thư Đồng vẫn còn trong tranh chấp, nhưng giá trị pháp lý của lá
thư đó không phải là vấn đề ở đây.
Sự tranh chấp các đảo có thể được
diễn giải theo hai cách, tùy theo ý tin của Hồ và các đồng chí về tình
trạng sở hữu của các hòn đảo lúc đó. Nếu họ tin rằng các đảo thuộc về Bắc
Việt lúc đó, thì lá thư của Đồng rõ ràng là bằng chứng về hành vi phản
quốc của họ bí mật bán một phần lãnh thổ đất nước cho ngoại bang để có
được "tình hữu nghị tốt đẹp" giữa hai nước. Nếu họ không tin rằng
các đảo thuộc về Bắc Việt lúc đó và thay đó thuộc về Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH), thì lá thư của Đồng rõ ràng là bằng chứng về hành vi lừa đảo của
họ đối với người khác, ngay cả với người bạn thân nhất của họ. Trong cả hai
trường hợp, Hồ và các đồng chí ông ta đã hành động thiếu đạo đức và vi phạm các
yếu tố cơ bản của sự tin cậy và trung thực trong việc đối phó với dân họ hay
với các nước khác trong vấn đề quốc tế.
Chính phủ CHXHCNVN có thể hoặc không thể
thắng vụ tranh chấp các đảo về phương diện pháp lý, nhưng họ không thể
thắng về phương diện đạo đức.
11. Mặt trận Giải Phóng miền Nam (1960)
là một công cụ của cộng sản Bắc Việt nhưng ĐCSVN chối bỏ cho tới khi
họ chiếm đoạt miền Nam năm 1975
Năm 1960, cộng sản Bắc Việt thành lập
và điều khiển Mặt trận Giải Phóng (MTGP) và Chính phủ Cách mạng Lâm thời
nhưng chối bỏ là có liên kết với Mặt trận Giải Phóng trong nhiều năm (Joes
2001, 49). Chỉ sau khi Bắc Việt chiếm được Nam Việt Nam, họ mới công khai thừa
nhận rằng "Chính phủ Cách mạng Lâm thời luôn luôn chỉ đơn giản là một
nhóm phát ra từ VNDCCH" (trích dẫn trong Truong 1986, 268).
Có lẽ một trong những sự lừa đảo tồi tệ
nhất của ĐCSVN là sự trở mặt với chính người của họ, MTGP và CPLT (Chính
phủ lâm thời). "Sau chiến thắng 1975, Mặt trận và CPLT không những
không có vai trò gì hơn nữa, họ còn trở thành một trở ngại tích cực trong sự
củng cố quyền lực nhanh chóng" (Truong 1986, 268). Theo lời của cựu bộ trưởng
tư pháp của CPLT, "với quyền lực trong tay, họ bắt đầu cho thấy bộ mặt
thật của họ trong kiểu tàn bạo nhất" (sđd.).
12. Chiến tranh Việt Nam (1954 – 1975)
được tiến hành bởi Hồ và ĐCSVN bằng cách lừa đảo dân miền Bắc và
tạo chia rẽ hận thù trong dân Việt để phục vụ ngoại bang
Cái lừa đảo tồi tệ nhất, và cái bạo lực
dùng để che đậy sự lừa đảo và / hoặc để đạt được các mục tiêu cộng sản,
mà Hồ và ĐCSVN thực hiện, là kế hoạch hiểm ác của họ trong việc tiến hành
chiến tranh chống lại miền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ. Kế hoạch này hiểm ác vì
nó lợi dụng tình huynh đệ thiết tha của dân Việt Nam và biến nó thành một mối
thù sâu đậm với đế quốc và chính phủ ngụy tưởng tượng đưới danh nghĩa tinh
thần yêu nước. Kết quả là sự phí phạm hàng triệu sinh mạng.
Hồ và ĐCSVN thực hiện sự lừa đảo của họ
bằng những lời nói láo trắng trợn và bịp bợm. Đối với dân Bắc Việt, Hồ và
ĐCSVN vẽ ra bức tranh miền Nam Việt Nam là một quốc gia bị áp bức bởi một
chính phủ ác độc sử dụng một quân đội to lớn phục tòng đế quốc Mỹ. Nhiều
người Bắc Việt tin rằng miền Nam Việt Nam là một nước nghèo vì dân bị lính
Nam Việt Nam cướp bóc và họ có nhiệm vụ cao cả giải phóng anh em họ ra khỏi sự
đàn áp và chấm dứt nỗi đau khổ của dân (Herrington 1982, 192). "Những
kẻ lãnh tụ Hà Nội thực hiện một việc đáng kể là bán dân Bắc Việt cái sứ mệnh
thiêng liêng cứu anh em miền Nam của họ khỏi nanh vuốt chủ nghĩa đế quốc"
(sđd., 264).
Dương Thu Hương, một nhà văn và người
bất đồng chính kiến, kinh ngạc về các lừa dối cộng sản khi bà
chứng kiến tình trạng miền Nam so với miền Bắc vào năm 1975. Bà nói,
"Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc
mù mắt con người, bịt lỗ tai con người" (Đinh 2012).
13. Vụ Lê Văn Tám (1945) và Nguyễn
Văn Bé (1967) cho thấy đầu óc ngu muội của người cộng sản trong việc
bịa đặt hình ảnh anh hùng để phục vụ mục tiêu họ.
Câu chuyện về Lê Văn Tám và Nguyễn
Văn Bé được biết rõ (Xem, thí dụ như, Nguyên 2013; Southerland 1971; Phan
2009). Cộng sản coi họ là anh hùng hy sinh tính mạng trong chiến tranh
chống Pháp và Mỹ, và đưa họ lên hàng liệt sĩ. Vấn đề là có những
yếu tố hư cấu trong các câu chuyện đó. Lê Văn Tám là một nhân vật
bịa đặt với hành động anh hùng tưởng tượng dựa vào một sự kiện có
thật, và Nguyễn Văn Bé là một người thật với câu chuyện hư cấu.
Cộng sản Việt Nam nói láo và tạo dựng các chuyện đó. Không có
người thật nào chết và không có hành động anh hùng nào được thực
hiện.
Mặc cho chứng cớ không chối cãi
được về các dối trá, chính phủ CHXHCNVN vẫn giữ hình ảnh anh hùng
của họ. Câu chuyện Lê Văn Tám được kể trong sách giáo khoa trong trường
tiểu học. Nhiều trường học, quỹ học bổng, tượng đài, công viên,
đường xá, và nhiều địa danh trên khắp Việt Nam được đặt tên anh ta.
Vài đường có tên Nguyễn Văn Bé được đổi lại sau 1975, nhưng vẫn có
nhiều trường mang tên Nguyễn Văn Bé.
Đầu óc cộng sản không thể hiểu
được. Qua việc giữ tên các anh hùng bịa đặt cho trường học, đường
xá, và công viên, chính phủ CHXHCNVN khuyến khích lừa đảo, dối trá,
và lừa gạt. Họ gợi ý cho dân là những câu chuyện về các anh hùng
hoặc liệt sĩ cộng sản khác cũng có thể bịa đặt. Một mặt, sự ngu
xuẩn này thực ra tốt vì quả thật nhiều câu chuyện về các anh hùng
cộng sản là bịa đặt. Mặt khác, cái tai hại thật khủng khiếp vì
những anh hùng thực sự trong lịch sử bị vạ lây. Thông điệp rõ ràng
họ muốn gửi tới trẻ em là, "Nói láo không sao, miễn là chuyện
đó phục vụ mục tiêu cách mạng và ca ngợi tinh thần hào hùng của dân
Việt." Thảo nào học sinh Việt Nam ghét học sử. Đối với các em,
Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ và các anh
hùng dân tộc khác chắc chỉ là những nhân vật bịa đặt, y như Lê Văn
Tám; hoặc họ có thể là người thật nhưng hành động anh hùng của họ
là hư cấu, y như hành động của Nguyễn Văn Bé.
14. Sự kiện UNESCO (1989) không những
lừa bịp dân Việt mà còn là một quốc nhục khi Hồ Chí Minh bị so
sánh tệ mạt hơn một học giả Thái Lan.
Vào năm 1987, chính phủ CHXHCNVN thông
báo UNESCO là Việt Nam sẽ kỷ niệm sinh nhật thứ 100 của Hồ vào ngày 19 tháng 5
năm 1990, và nói rằng Hồ là một người vĩ đại cho nền văn hóa Việt Nam (Bùi
2006, 82). UNESCO chỉ thông qua một kiến nghị đề nghị các nước thành viên
tham gia trong lễ tưởng niệm sinh nhật thứ 100 của Hồ, ghi nhận rằng "năm
1990 sẽ đánh dấu 100 năm sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân
tộc và người vĩ đại trong nền văn hóa Việt Nam" ("the year 1990
will mark the centenary of the birth of President Ho Chi Minh, Vietnamese hero
of national liberation and great man of culture") (Bùi 2006, 81-83; UNESCO
1987).
Bằng cách rõ ràng dùng tính từ "Việt
Nam" ở đầu nhóm chữ để mô tả toàn bộ nhóm chữ, UNESCO chỉ đơn giản
lập lại những gì mà chính phủ CHXHCNVN đòi hỏi rằng Hồ Chí Minh là một
anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và một người vĩ đại trong nền văn hóa
Việt Nam. Tất nhiên ông ta là anh hùng và người vĩ đại với cộng sản của Cộng
sản Việt Nam, cùng một cách như Hitler là anh hùng và người vĩ đại với Nazi
của Đức Quốc Xã Nazi, Kim Jong Il với người Bắc Hàn của Bắc Triều Tiên, Mao
Trạch Đông với người Tàu cộng của Trung Quốc, và Stalin với người Soviet
cộng sản của Liên Xô trong lúc họ sống.
Mặc dù sự chỉ định này thật rõ ràng,
các viên chức cộng sản Việt Nam, không biết vì ngu dốt, thiếu hiểu biết, hoặc
cố tình bóp méo sự thật, giải thích nhóm chữ của UNESCO là "anh
hùng giải phóng quốc gia Việt Nam và người vĩ nhân quốc tế về văn hóa."
(Nhấn mạnh thêm.) Chỉ định Hồ là một trong "những người văn hoá vĩ
đại trên thế giới" được bao gồm trong sách giáo khoa dùng trong các trường
học Việt Nam ("Hồ Chí Minh còn là một Danh nhân văn hoá thế giới,
một nhà thơ lớn") (BGDĐT 2011, 141). Lời tuyên bố Hồ là một "người
văn hóa nổi tiếng thế giới" được công bố trên các phương tiện truyền thông
của chính phủ (Chinhphu 2010; Trương 2014).
UNESCO rõ ràng từ chối thừa nhận Hồ là
người văn hóa quốc tế. Thay vì vậy, UNESCO thừa nhận một công dân Thái
Lan là một học giả văn chương thế giới trong cùng phiên họp và gồm
câu đó trong cùng đoạn văn. Việc này là bằng chứng cụ thể là Hồ,
một lãnh tụ quốc gia, bị coi là tệ hơn một công dân Thái.
Trong cả phân đoạn (phân đoạn 18.65)
trong nghị quyết, UNESCO chỉ dùng những từ như "quốc gia
(national)," và "Việt Nam" để mô tả Hồ. Ngoài ra, UNESCO
cẩn thận dùng từ cho hành động là "ghi chú (noting)," và
"xem xét/ cân nhắc (considering)." Ngược lại, trong phân đoạn
dành cho kỷ niệm một trăm năm sinh nhật của Phya Anuman Rajadhon, một học
giả Thái Lan, UNESCO phát biểu, "Thừa nhận rằng Phya Anuman Rajadhon
là một học giả vĩ đại, những đóng góp của ông cho thế giới văn học
sẽ luôn luôn được nhớ và quý, và là tia sáng hướng dẫn những người
đương thời với ông và các thế hệ theo sau tiến đến chân lý, tốt lành
và đẹp đẽ" ("Recognizing that Phya Anuman Rajadhon was a great
scholar whose contributions to the literary world will always be remembered and
appreciated, and was the light that guided his contemporaries and succeeding
generations towards truth, goodness and beauty") (UNESCO 1987, 133. Nhấn
mạnh trong nguyên tác.)
Sự dùng các từ "thừa nhận/
công nhận (recognizing)" và "thế giới văn học (literary
world)" trong phần mô tả Phya Anuman Rajadhon khác hẳn với những từ
"ghi chú (noting)," "xem xét/ cân nhắc (considering)"
và "quốc gia (national)" mô tả Hồ. Vì UNESCO dùng "thừa
nhận/ công nhận" và "thế giới văn học" cho Phya Anuman
Rajadhon nhưng không dùng những từ ngữ đó cho Hồ Chí Minh trong cùng một
đoạn và trong cùng một phiên họp, rõ ràng là UNESCO từ chối "thừa
nhận/ công nhận" Hồ về đóng góp của ông ta trong lãnh vực văn
hóa, giáo dục, và nghệ thuật, cho dù ở trong Việt Nam, chứ đừng có
nói là xem xét Hồ cho tầm vóc đó ở mức thế giới. Chắc chắn, thừa
nhận Hồ về đóng góp của ông ta cho thế giới văn hóa là một chuyện
không thể có được.
Thật là quái đản khi chính phủ
CHXHCNVN không hiểu được các sự khác biệt đơn giản như vậy. Vì Phya
Anuman Rajadhon chỉ đơn thuần là một học giả Thái Lan và Hồ Chí Minh là một
lãnh tụ quốc gia, chuyện này nên coi như một tủi nhục quốc gia. Thay vì
vậy, chính phủ CHXHCNVN xuyên tạc lời UNESCO, hãnh diện về chuyện đó, và
loan báo cho cả nước. Trong khi thế giới, và đặc biệt là Thái Lan, đang chê cười
Việt Nam, nhân dân Việt Nam khoe khoang Hồ là "người văn hóa nổi tiếng thế
giới." Ngoài việc dùng một kẻ không xứng đáng để đại diện cho
nền văn hóa Việt Nam, chính phủ CHXHCNVN lại còn làm tình trạng tệ
hơn qua việc xuyên tạc sự thật để lừa gạt dân.
Còn có cái ô nhục nào nghiêm trọng
hơn mà chính phủ CHXHCNVN có thể mang đến cho dân Việt Nam?
15. Bộ phim "Mậu Thân 1968"
(2013) của đạo diễn Lê Phong Lan là một nỗ lực tuyệt vọng trong việc
xóa bỏ tội ác không tả xiết của cộng sản.
Ngày 25 tháng 1 năm 2013, Đài Truyền
hình Việt Nam VTV1 khởi đầu phát hình bộ phim "Mậu Thân 1968"
gồm 12 tập, do đạo diễn Lê Phong Lan thực hiện (Lê 2013). Theo Lê Phong
Lan, bà ta đã đi đi về về giữa Việt Nam và Mỹ trong suốt 10 năm, "đã gặp
và phỏng vấn khoảng 200 nhân chứng" cả mọi bên (cộng sản, Mỹ, và
Việt Nam Cộng Hòa) để đi tìm sự thật (Lê 2013). Đáng buồn thay, cái sự
thật mà Lê Phong Lan đi tìm, thực ra chỉ là một nỗ lực tuyệt vọng
trong việc xóa bỏ tội ác không tả xiết của cộng sản. Một cách khôi
hài, bộ phim "Mậu Thân 1968" dường như cho thấy sau 45 năm im
lặng, đã đến lúc phe cộng sản đem "sự thật" ra ánh sáng.
Có ai tin là người cộng sản chịu im lặng trong 45 năm khi họ bị
"vu oan"? Tuyên truyền là tài năng họ hãnh diện mà họ chịu im
lặng trong 45 năm?
Một cách trắng trợn, tập 8, nhan đề
"Khúc ca bi tráng," chối bỏ cuộc thảm sát tại Huế do Việt
Cộng, và đổ lỗi cho bom đạn Mỹ và quân đội VNCH. Trong một khúc phim,
Lê Phong Lan phỏng vấn Nguyễn Đắc Xuân, kẻ nói rằng cuộc thảm sát là
do phản kích tâm lý chiến của phe VNCH. Đoạn phim trích dẫn lời các
học giả Hoa Kỳ Noam Chomsky, Edward S. Herman, và D. Gareth Porter cho
rằng những người chết trong các hầm chôn tại Huế là do bom đạn Mỹ,
do quân VNCH trả thù những cảm tình viên cộng sản khi tái chiếm Huế,
và là những người lính cộng sản bỏ xác tại chiến trường. Luận
điệu chống đỡ này chẳng có giá trị gì cả. Ai cũng biết Nguyễn Đắc
Xuân là một trong những tên sát nhân đã giết những người dân Huế.
Những kẻ sát nhân khác gồm có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc
Phan, và Nguyễn Thị Đoan Trinh. Phỏng vấn một chiều một kẻ bị coi là
sát nhân về tội ác mà hắn coi là gây ra là một chuyện ghê tởm trong
phim tài liệu lịch sử. Trích dẫn lời của những học giả phản chiến
về cuộc chiến quả thật là một nỗ lực ngu xuẩn của những kẻ muốn
sửa lại lịch sử.
Do đó, không ngạc nhiên khi bộ phim
"Mậu Thân 1968" không hề đề cập đến một nhân chứng vả tài
liệu quan trọng nhất về vụ thảm sát Mậu Thân: Bác sĩ Alje Vennema và
cuốn sách ông, nhan đề "Cuộc Thảm Sát tại Huế bởi Việt
Cộng" xuất bản năm 1976 (Vennema 1976). Bác sĩ Alje Vennema, một
cảm tình viên cho phong trào phản chiến, là nhân chứng đáng tin cậy
nhất về vụ thảm sát Mậu Thân vì ông đích thân tham gia trong việc tìm
các hầm chôn nạn nhân và khám xét hài cốt nạn nhân để xác định nguyên
nhân chết với cặp mắt chính xác của một bác sĩ. Chính D. Gareth
Porter, sử gia phản chiến Hoa Kỳ và là kẻ bênh vực cộng sản, công
nhận Bác sĩ Vennema là nhân chứng. Porter, tuy nhiên, dùng những báo
cáo tương phản với những báo cáo của Bác sĩ Vennema.
Trong sách ông, Bác sĩ Vennema mô tả
rất chi tiết các hầm chôn, số nạn nhân, cách thức họ chết. Ngoại
trừ một số it có thể chết vì súng đạn, đa số bị chết vì hành
quyết, tay trói ngược ra sau, giẻ nhét vào miệng. Bác sĩ Vennema tự
hỏi, "Phải chăng người Mặt Trận [Giải Phóng] và đám đỡ đầu ở
Hà Nội nghĩ rằng họ có quyền giết, như thể bất cứ ai cũng có
quyền giết người?" (Vennema 1976, 183). "Bất cứ họ muốn đạt
được chuyện gì, thảm kịch Huế sẽ mãi mãi là bản cáo trạng hành vi
họ" (sđd.). Bác sĩ Vennema nhấn mạnh là không có lẫn lộn trong
việc giết người. "Các cuộc giết người không phải do bởi nóng
giận, hoảng hốt, hoặc trước khi rút lui; chúng được cân nhắc kỹ
lưỡng trước đó. Đa số nạn nhân là những người được đánh dấu có tên
trên danh sách những người bị tiêu diệt, còn những người khác là vì
họ có dính líu với quân đội hoặc chính quyền Sài gòn" (sđd.,
184).
Ngoài cuốn sách của Bác sĩ Vennema,
có hàng trăm nhân chứng và tài liệu cho thấy cuộc thảm sát Mậu Thân
năm 1968 là một cuộc giết người tập thể dã man của cộng sản Việt
Nam theo chính sách cộng sản Bắc Việt. Chi tiết về những hầm chôn
nạn nhân và nguồn các tài liệu này được ghi chép tỉ mỉ (Xem, thí
dụ như Vennema 1976; Cao-Đắc 2014a, 356-362).
Bác sĩ Vennema từ trần năm 2011 tại
British Columbia, Canada. Nếu quả thật Lê Phong Lan là người muốn tìm
hiểu sự thật "trong suốt 10 năm" thì bà ta nên phỏng vấn ông
lúc ông còn sống, hoặc it nhất bà ta lẽ ra tham khảo cuốn sách ông.
Lê Phong Lan tuyên bố, "Có người hỏi tôi làm phim tài liệu lịch sử có
công bằng không, tôi xin trả lời, tôi phải công bằng vì đó là nghề nghiệp, là
thanh danh của tôi” (Lê 2013). Lê Phong Lan quả thật đã cho một định
nghĩa mới cho "công bằng" hoặc bà ta đã coi thường chính
thanh danh mình, nếu bà ta có thanh danh.
16. Cuộc triển lãm Cải Cách Ruộng
Đất (2014) toan tính lấp liếm tội ác giết hơn 170.000 dân vô tội
Ngày 8 tháng 9 năm 2014, Viện Bảo tàng
Lịch sử quốc gia mở cuộc triển lãm Cải Cách Ruộng Đất 1946 - 1957 với
thông cáo: "Cuộc trưng bày chuyên đề Cải cách ruộng đất 1946-1957 là một
hoạt động góp phần tuyên truyền, giáo dục cho đông đảo tầng lớp nhân dân, đặc
biệt thế hệ trẻ nhận thức đúng hơn về cuộc cách mạng ruộng đất trong tiến trình
cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta những năm 1946-1957" (Dân 2014a).
Cuộc triển lãm trưng bày gần 150 hiện vật, tài liệu gốc, và hình
ảnh về cuộc cải cách ruộng đất tại miền Bắc trong thập kỷ 1950,
nhưng không có cái gì trưng bày về cuộc hành quyết hơn 170.000 nạn
nhân.
Cuộc triển lãm dự trù mở cửa cho
công chúng cho tới cuối năm 2014 nhưng chỉ sau bốn ngày, cuộc triển
lãm đóng cửa với lý do kỳ lạ là "sự cố điện" (Tuổi
2014a). Sự đóng cửa bất ngở của cuộc triển lãm cho thấy ĐCSVN nhận
ra cái dại dột của họ khi cố gắng che đậy tội ác giết hơn 170,000
dân vô tội. Lần này, ĐCSVN không còn lừa gạt dân với những lởi lẽ
lừa đảo vì sự thật của cuộc CCRĐ đã được phổ biến khắp nơi qua các
phương tiện truyển thông và Internet.
Cuộc triển lãm khơi lại vết thương
của cuộc thảm sát dã man dân vô tội trong một trong những giai đoạn
đen tối nhất trong lịch sử Việt Nam. Nó nhắc nhở thân nhân còn sống
của những nạn nhân về mối thương đau mà họ đã chịu đựng trong hơn
nửa thế kỷ. Tại sao chính phủ CHXHCNVN muốn làm vậy?
Kết luận
ĐCSVN hiện hữu hơn tám mươi năm nhờ
vào ba yếu tố: lừa đảo, tàn bạo, và may mắn. Ta chẳng làm gì được
với may mắn. Cũng khó thay đổi bản chất tàn bạo của người cộng
sản. Nhưng lừa đảo là cái móc nối yếu nhất của họ. Nó có thể bị
phơi bày.
ĐCSVN không bao giờ thực sự thừa nhận họ
đã phạm những hành vi lừa đảo. Điều này cho thấy họ sẽ tiếp tục lừa đảo và
vi phạm hành vi tội phạm. Thực ra, đó chính là những gì đang xảy ra ngay
bây giờ tại Việt Nam. Ngoài ra, cần có thời gian cho một sự lừa đảo được
khám phá. Bất cứ những gì ĐCSVN đang làm bây giờ có thể không được biết đến
cho đến khi hai mươi, ba mươi, hay năm mươi năm sau. Hai mươi năm sau khi chiến
tranh Việt Nam kết thúc, tổng số thương vong của Bắc Việt cuối cùng mới được
tiết lộ. Năm mươi năm sau cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu, ĐCSVN mới tiết lộ
tổng số địa chủ bị hành quyết. Sáu mươi năm sau vụ Lê Văn Tám, câu
chuyện thật mới lộ ra. Dưới hệ thống độc đảng không có cơ chế kiểm tra và
cân bằng, không có cách nào mà dân Việt biết những gì chính phủ đang làm.
Phong trào "Chúng Tôi Muốn Biết,"
phát động bởi Mạng Lưới Blogger Việt Nam vào tháng 9, 2014 (Dân 2014b),
đòi hỏi chính quyền đáp ứng với công chúng về những việc ảnh hưởng
đến chủ quyền đất nước. Với cái văn hóa lừa đảo và dối trá sâu
đậm, cộng với bản chất tàn ác và hiểm độc, xác suất cho việc ĐCSVN
thỏa mãn yêu cầu này hầu như là con số không. Tuy nhiên, phong trào
"Chúng Tôi Muốn Biết" có vẻ là một hóa trang tài tình, vô
tình hay cố ý, cho một phong trào hay chiến dịch mạnh mẽ hơn, hoặc
là một chiến thuật làm chia trí hay đánh lạc hướng ĐCSVN. Bất cứ ý
định họ là gì, ĐCSVN chẳng làm gì được với người dân muốn biết
chuyện gì đang xảy ra với đất nước. Ít nhất nó là một thông điệp to
và rõ cho ĐCSVN là dân Việt Nam không còn là đàn thú ăn cỏ sợ đám
linh cẩu hiểm ác.
Phong trào "Chúng Tôi Muốn
Biết" ngầm có một phong trào em bổ sung đồng hành: phong trào
"Chúng Tôi Không Muốn Biết" hoặc "Chúng Tôi Không Thèm
Biết." Phong trào em này nhắm vào những lừa đảo lịch sử bao che
cho các tội ác quá khứ của ĐCSVN hoặc xuyên tạc sự thật để tô điểm
hình ảnh cộng sản.
Cả hai phong trào đều có thông điệp
to và rõ cho ĐCSVN.
Thực vậy, dân Việt đã quát to và
rõ thông điệp "Chúng Tôi Không Muốn Biết" hoặc "Chúng Tôi
Không Thèm Biết" vào những lừa đảo lịch sử của phim "Sống
Cùng Lịch Sử" và cuộc triển lãm Cải Cách Ruộng Đất.
Kế tiếp sẽ có những tiếng quát to
và rõ của tuổi trẻ Việt Nam.
Tuổi trẻ Việt Nam vẫn thường bị chê
trách là vô cảm với tình hình hiện tại ở Việt Nam và ít lo nghĩ
đến tương lai đất nước. Sự chỉ trích này còn sâu đậm thêm bởi các
chống đối cho dân chủ do sinh viên học sinh dẫn đầu tại Hồng Kông, gọi
là chiến dịch Chiếm Trung Tâm (Occupy Central) hoặc Cách Mạng Dù
(Umbrella Revolution). Tuy chỉ trích này có phần đúng ở chỗ nó phản
ảnh sự có vẻ thờ ơ hoặc không hành động của tuổi trẻ trong các
cuộc chống đối xâm lược Tàu tại Biển Đông hoặc các biểu tình dân
chủ khác, nó có thể không công bình. Là nạn nhân, tuổi trẻ Việt Nam
phải trước hết phá vỡ xiềng xích gông cùm đã nhốt trí tuệ các em
và giải thoát mình ra khỏi ngục tù tâm thần của cộng sản. Cái tiến
trình này cần có thời gian. Nó có thể nhanh, vài tuần, vài tháng,
hoặc chậm, vài năm. Nhưng chuyện đó có thể làm được. Thật vậy,
nhiều người trẻ đã cho thấy các em đã thoát khỏi ngục tù tâm thần
của cộng sản và đang tranh đấu cho dân chủ.
Một khi các em được giải thoát, các
em sẽ biết quý ý nghĩa của lòng yêu nước. Hai Bà Trưng, Ngô Quyền,
Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ sẽ không còn chỉ
là các tên trong sách sử hoặc các nhân vật trong kịch, phim. Hội Nghị
Diên Hồng, các trận Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa sẽ không còn chỉ là
những biến cố nhàm chán từ quá khứ xa xôi. Các em sẽ chợt nhận ra
lịch sử Việt Nam là một phần của đời các em, là cái gì tạo nên
các em bây giờ, và con cháu các em mai sau.
Bấy giờ, không cần phải ai nói, các
em sẽ đứng lên và hành động.
Đúng vậy, sẽ có những tiếng quát
to và rõ của tuổi trẻ Việt Nam. Tiếng quát của các em sẽ như là
những tiếng gầm hùng vĩ của các con sư tử trẻ trở về để lấy lại
đất đai mình từ lũ linh cẩu hiểm ác.
Và các em sẽ không chỉ quát thông
điệp. Các em sẽ kèm theo thông điệp mình với hành động cụ thể.
__________________________________
Tài liệu tham khảo
1. Ang, Cheng Guan. 1997. Vietnamese
Communists’ Relations with China and the Second Indochina Conflict, 1956-1962.
McFarland & Company, North Carolina, U.S.A
2. Bartholomew-Feis, Dixee. 2006. The OSS
and Ho Chi Minh: Unexpected Allies in the War against Japan. University Press
of Kansas, Kansas, U.S.A.
3. Bernal, Martin. 1981. The Nghe-Tinh
Soviet Movement 1930-1931. Past and Present, No. 92 (1), 148-168.
4. BGDĐT (Bộ Giáo dục và Đào tạo). 2011.
Ngữ Văn 7 tập 1 (Language, Grade 7, vol. 1). Nguyễn Khắc Phi (Chief Ed.).
Eighth edition, Giáo dục Việt Nam, Hanoi, Vietnam.
5. Brocheux, Pierre. 2007. Ho Chi Minh: A
Biography. Translated by Claire Duiker, Cambridge University Press, New York,
U.S.A.
6. Buttinger, Joseph. 1967. Vietnam: A
Dragon Embattled. Volume I – From Colonialism to the Vietminh. Frederick A.
Praeger, New York, U.S.A.
7. Bùi Tín. 2006. Bùi Tín tâm tình với tuổi
trẻ Việt Nam (Bùi Tín in heart-to-heart talk with Vietnamese youth). Vietnamese
Publishers Consortium, Virginia, U.S.A.
8. Cao-Đắc Tuấn. 2014a. Lửa Cháy
Trong Mưa. Hellgate Press, Oregon, U.S.A.
9. Cao-Đắc Tuấn. 2014b. “Không Cờ
Trắng.” 7-5-2014.
http://danlambaovn.blogspot.com/2014/05/khong-co-trang.html (truy
cập 20-9-2014).
10. Cao-Đắc Tuấn. 2014c. Tài đóng
kịch của Hồ Chí Minh dưới mắt học giả Tây phương. 21-8-2014.
http://danlambaovn.blogspot.com/2014/08/tai-ong-kich-cua-ho-chi-minh-duoi-mat.html (truy
cập 30-9-2014).
11. Chính phủ CHXHCNVN. Không rõ
ngày. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ toàn thắng, hiệp định Giơnevơ
được ký kết.
http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungchinhsachthanhtuu?categoryId=698&articleId=10001574 (truy
cập 20-9-2014).
12. Chinhphu. 2010. Trao tặng bản Nghị
quyết UNESCO tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. 2-10 2010. http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Trao-tang-ban-Nghi-quyet-UNESCO-ton-vinh-Chu-tich-Ho-Chi-Minh/201010/37063.vgp (truy
cập 25-9-2014).
13. Chinhphu. 2014. Cách mạng tháng Tám:
Bài học lịch sử, giá trị tương lai. 1-9-2014.
http://baodientu.chinhphu.vn/Tin-noi-bat/Cach-mang-thang-Tam-Bai-hoc-lich-su-gia-tri-tuong-lai/207489.vgp (truy
cập 24-9-2014).
14. Currey, Cecil B. 1999. Victory at Any
Cost. Potomac Books, Inc, Washington, D.C., U.S.A.
15. Dân Làm Báo. 2014a. Cuộc triển lãm
những oan hồn. 11-9-2014.
http://danlambaovn.blogspot.com/2014/09/cuoc-trien-lam-nhung-oan-hon.html(truy
cập 19-9-2014).
16. Dân Làm Báo. 2014b. Thư ngỏ của
MLBVN về Chiến dịch Chúng Tôi Muốn Biết. 17-9-2014. http://danlambaovn.blogspot.com/2014/09/thu-ngo-cua-mlbvn-ve-chien-dich-chung.html (truy
cập 27-9-2014).
17. Dommen, Arthur J. 2002. The
Indochinese Experience of the French and the Americans: Nationalism and
Communism in Cambodia, Laos, and Vietnam. Indiana University Press, Indiana,
U.S.A.
18. Duiker, William J. 1973. The Red
Soviets of Nghe-Tinh: An Early Communist Rebellion in Vietnam. J. of Southeast
Asian Studies, Vol. 4, No. 2 (Sept. 1973), 186-198.
19. _____. 1996. The Communist Road to
Power in Vietnam. Westview Press, Colorado, U.S.A.
20. _____. 2000. Ho Chi Minh – A Life,
Hyperion, New York, U.S.A.
21. Đặng Chí Hùng. 2013. Những sự thật
cần phải biết (phần 19) - Sự thật về Võ Nguyên Giáp. originally posted
5-9-2013, reposted 24-9-2014.
http://danlambaovn.blogspot.com/2013/09/nhung-su-that-can-phai-biet-phan-19-su.html (truy
cập 24-9-2014).
22. ĐCSVN (Đảng cộng sản Việt Nam).
1976. Những Sự Kiện Lịch Sử Đảng, Tập I (1920-1945)(Accounts/Facts on
the Party History - Volume I (1920-1945)). Ban nghiên cứu lịch sử Đảng
trung ương (Research committee on the history of Party Central). Sự Thật, Hà
Nội, Vietnam.
23. ĐCSVN. 2012. Kỷ niệm 82 năm Xô Viết
Nghệ Tĩnh, khánh thành khu di tích lịch sử Xô Viết ngã ba Nghèn (Celebrating
the 82nd anniversay of the Soviet Nghệ Tĩnh, unveiling the Soviet historical
site of the Nghèn road fork). 12-9-2012.
http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30106&cn_id=542908 (truy
cập 21-9-2014).
24. Đinh Quang Anh Thái. 2012. Dương Thu
Hương: “30 tháng Tư 75, nền văn minh đã thua chế độ man rợ.” 17-4-2012.
http://www.viet-studies.info/DuongThuHuong_DQAT_2.htm (truy
cập 28-9-2014)
25. Fall, Bernard B. 2002. Hell in a Very
Small Place: The Siege of Dien Bien Phu, Da Capo Press, U.S.A.
26. Harrison, James P. 1989. The Endless
War: Vietnam's Struggle for Independence. Columbia University Press, New York,
U.S.A.
27. Herrington, Stuart A. 1982. Stalking
the Vietcong – Inside Operation Phoenix: A Personal Account. Presidio Press,
New York, U.S.A.
28. Huyen, N. Khac. 1971. Vision
Accomplished? The Enigma of Ho Chi Minh. The Macmillan Company, New York,
U.S.A.
29. Jamieson, Neil L. 1995. Understanding
Vietnam. University of California Press, California, U.S.A.
30. Joes, Anthony James. 2001. The War
for South Vietnam, 1954-1975. Praeger Publishers, Connecticut, U.S.A.
31. JUSPAO. 1966. The Quynh Luu North
Vietnam Uprising, November 13, 1956. Added 16 May, 2002.
http://www.vietnam.ttu.edu/virtualarchive/items.php?item=0720124004 (accessed
29-9-2014).
32. Lacouture, Jean. 1968. Ho Chi Minh: A
Political Biography. Translated from the French by Peter Wiles. Translation
edited by Jane Clark Seitz. Random House, New York, U.S.A.
33. Lê Tâm. 2013. Lần đầu tiên khai mở bí
mật về Mậu Thân 1968. 23-1-2013.
http://danviet.vn/hau-truong-giai-tri/lan-dau-tien-khai-mo-bi-mat-ve-mau-than-1968-87845.html (truy
cập 18-9-2014).
34. Lê Văn Hối. 2004. Dẹp bạo loạn ở
Quỳnh Lưu. Trích QĐND 25-10-2004.
http://nhandanvietnam.org/view.php?storyid=300 (truy
cập 29-9-2014).
35. Logevall, Fredrik. 2012. Embers of
War. Random House, New York, U.S.A.
36. Marr, David G. 1997. Vietnam 1945:
The Quest for Power. First paperback printing. University of California Press,
California, U.S.A.
37. McLane, Charles B. 1966. Soviet
Strategies in Southeast Asia – An Exploration of Eastern Policy under Lenin and
Stalin. Princeton University Press, New Jersey, U.S.A.
38. Moyar, Mark. 2006. Triumph Forsaken –
The Vietnam War, 1954-1965. Cambridge University Press, New York, U.S.A.
39. Nguyên Anh. 2013. Anh hùng Nguyễn Văn
Bé !? 14-11-2013.
http://danlambaovn.blogspot.com/2013/11/anh-hung-nguyen-van-be.html (truy
cập 23-9-2014).
40. Nguyễn Minh Cần. 2001. Đảng Cộng
Sản Việt Nam qua những Biến Động trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế
(The Vietnamese Communist Party during the Turmoil of the Comintern Movement).
Tuổi Xanh. Unknown location.
41. Nixon, Richard. 1985. No More
Vietnams. Avon Books, New York, U.S.A.
42. Nutt, Anita Lauve. 1970. On the
Question of Communist Reprisals in Vietnam.
http://www.rand.org/content/dam/rand/pubs/papers/2008/P4416.pdf (truy
cập 29-9-2014).
43. Phan Huy Lê. 2009. Trả lại sự thật
hình tượng Lê Văn Tám. Bài đăng trên Tạp chí Xưa & Nay số ra tháng 10 năm
2009.
http://daotao.vtv.vn/gs-phan-huy-le-tra-lai-su-that-hinh-tuong-le-van-tam/ (truy
cập 23-9-2014).
44. QĐND. 2010. Nhớ “Tuần lễ vàng”,
nghĩ về “lòng dân” (Remember the “Gold Week,” think about the “people's
heart”). 28-8-2010.
http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/271/271/271/122209/Default.aspx (truy
cập 27-9-2014)
45. Southerland, Daniel. 1971. Christian
Science Monitor issue June 8, 1971. Also available as translated text “Vẽ và
xóa anh hung,” translated by Trần Quốc Việt. 12-2-2012.
http://danlambaovn.blogspot.com/2012/12/ve-va-xoa-anh-hung.html (truy
cập 23-9-2014).
46. Truong Nhu Tang. 1986. A Vietcong
Memoir. With David Chanoff and Doan Van Toai. Vintage Books, New York, U.S.A.
47. Trương Tấn Sang. 2014. Diễn văn của
Chủ tịch nước nhân Chiến thắng Điện Biên Phủ. 7-5-2014.
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140507/dien-van-cua-chu-tich-nuoc-nhan-chien-thang-dien-bien-phu.aspx (truy
cập 25-9-2014).
48. Tuổi Trẻ. 2014a. Triển lãm Cải cách
ruộng đất: Cần sòng phẳng với lịch sử. 9-9-2014.
http://m.tuoitre.vn/tin-tuc/Kinh-te/Du-Lich/Van-hoa/1059683173,Trien-lam-Cai-cach-ruong-dat-Can-song-phang-voi-lich-su.ttm (truy
cập 21-9-2014).
49. _____. 2014b. Đầu tư tiền tỉ, phim
“chết” khi ra rạp. 19-9-2014.
http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/20140919/dau-tu-tien-ti-phim-chet-khi-ra-rap/647782.html (truy
cập 20-9-2014).
50. UNESCO. 1987. Records of the General
Conference, Twenty-fourth Session, Paris, Volume I – Resolutions. 1987.
http://unesdoc.unesco.org/images/0007/000769/076995E.pdf (truy
cập 25-9-2014).
51. Vennema, Alje. 1976. The Viet Cong
Massacre at Hue, Vantage Press, New York, U.S.A., 1976.
52. Vu Ngu Chieu. 1986. The other side of
the 1945Vietnamese Revolution: The Empire of Vietnam (March - August 1945).
Journal of Asian Studies XLV, No. 2 (Feb. 1986), 293-328.
53. Zhai, Qiang. 2000. China and the
Vietnam Wars, 1950 – 1975. The University of North Carolina Press, North
Carolina, U.S.A.
54. Willbanks, James H. 2009. Vietnam War
Almanac. Facts on File, Inc., New York, U.S.A.
© 2014 Cao-Đắc Tuấn
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen