Người
viết bài này thành thật xin lỗi phóng viên Nguyễn Tú vì đã dùng bài của ông mà
không được phép trước. Tuy nhiên đây là một bài phóng sự đã gây bàng hoàng và
xúc động cho hàng triệu người Việt Quốc Gia, vì thế tác giả xin ông thông cảm
và lượng thứ cho. Xin chân thành cảm ơn ông.)
Vân Hải Nguyễn Xuân Hùng
Mặc dầu được coi như xa
với tiền tuyến, nhưng với những tin tức chiến sự hoàn toàn thất lợi cho phía Việt
Nam Cộng Hòa như rút bỏ Huế, Đà Nẵng trong hoảng loạn, cuộc triệt thoái khỏi
Pleiku của Quân Đoàn II, phòng tuyến Khánh Dương bị bung, Nha Trang bỏ ngỏ,
phòng tuyến Phan Rang đã vỡ, tuyến thép Xuân Lộc Long Khánh đã gẫy, thủ đô
Saigòn như một cái dầu mà nửa phần thân thể phía trên đã bị chặt rời từng mảnh
đã gần như đi vào hoảng loạn và chiến tranh kịch liệt đã áp sát thủ đô.
Vùng 4
Chiến Thuật với Quân Đoàn 4 nơi tập trung các Sư Đoàn 7, 9, và 21 còn nguyên vẹn
nhưng cứ với đà này thì mọi người đều linh cảm thấy cái viễn ảnh của một ngày
đen tối đã cận kề, ngày mà nước Việt Nam Cộng Hòa sắp sửa mất vào tay cộng quân
Bắc Việt.
Lo lắng trong tôi, trong
lòng mọi người quân nhân trong đơn vị, từ cấp chỉ huy lớn nhất cho đến cấp thấp
nhất, và bầu không khí u buồn thấp thoáng trùm phủ lên những bữa cơm gia đình.
Giờ ăn sáng ở câu lạc bộ của Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Chiến Tranh Chính Trị
hình như cứ dài thêm. Trong một vài buổi học tập chính trị cuối cùng tổ chức
vào cuối tuần đặc biệt chung cho quân nhân cơ hữu và khóa sinh, các sĩ quan
Trung Tâm cũng đã bàn đến việc có thể miền Nam sẽ lâm vào tình trạng vô cùng
nguy ngập với cái đà tiến công ồ ạt của quân đội Cộng Sản Bắc Việt như hiện
nay, tuy nhiên kết luận thì cũng vẫn cố bấu víu vào một chút hy vọng rằng rồi
ra cũng sẽ có những giải pháp hay nhằm chấm dứt cuộc chiến. Dĩ chí trong những
giây phút nói chuyện bù khú có anh lại nói rằng cộng sản bây giờ cũng tiến bộ
chứ không còn sắt máu như hồi xưa, và bây giờ cục diện thế giới không phải là
thế đối đầu mà là thế tương nhượng, Mỹ nhượng Nga, Nga nhượng Mỹ, và dĩ nhiên
các quốc gia nhỏ, những vệ tinh xoay quanh hai cái trục xanh (Mỹ) và trục hồng
(Liên Sô) cũng phải thuận theo đàn anh. Tuy nhiên theo tôi nghĩ thì làm gì có
cái chuyện ấy, vì người Mỹ đã bỏ rơi miền Nam, và một khẩu pháo binh của Nam
quân chỉ còn có thể bắn một ngày hai quả pháo thì làm sao chống lại được bọn
chúng khi Nga cộng và Tầu cộng ồ ạt viện trợ. Bây giờ mới là thời cơ chín mùi
cho cộng sản Bắc Việt tiến chiếm miền Nam, nhuộm đỏ miền Nam, hoàn thành công
tác của đạo quân xung kích cộng sản quốc tế. Một dịp may hiếm có, ngàn năm một thuở
thì làm gì bọn cộng sản Bắc Việt lại chịu tương nhượng với một đối thủ bây giờ
đã lạng quạng, sắp sửa té ngã xuống sàn đấu. Và chẳng bao giờ bọn chúng lại ngu
đến thế.
Các khóa sinh Hạ Sĩ Quan
Chiến Tranh Chính Trị gốc Miền Trung lúc ấy đang tham dự khóa Chiến Tranh Chính
Trị cứ túm tụm nhau lại nói chuyện với nhau trong trạng thái lo âu, bởi vì họ
chẳng biết gia đình, vợ con họ ra sao. Một anh Đại Diện khóa gốc miền Nam nói rằng
hiện bây giờ Việt Cộng có loại súng AK báng xếp rất tối tân. Không hiểu anh ta
lấy tin tức ở đâu ra mà nói như vậy.
Trước khóa HSQ/CTCT này
là khóa 28 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Đây là những tân sĩ quan tốt nghiệp Trường Võ
Bị Quốc Gia Đà Lạt được đưa thẳng về Trung Tâm Huấn Luyện này để theo học một
khóa ba tháng về Chiến Tranh Chính Trị trước khi được bổ nhiệm đi đơn vị mới.
Đó cũng là khóa sĩ quan
cuối cùng của Trung Tâm trong những năm tháng dài đào tạo các khóa căn bản về
Chiến Tranh Chính Trị cho những sĩ quan đại đội phó. Và tôi cũng là một sĩ quan
Liên Đoàn Trưởng cuối cùng của Trung Tâm, nhận chức chưa đầy sáu tháng từ đại
úy Nguyễn Ngọc Dung[i] Tôi còn nhớ người sĩ quan đại diện cho khóa là một tân
thiếu úy tên là Quốc, người gốc Huế, cao lớn trắng trẻo. Khóa này ra trường
đúng vào lúc mà chế độ Việt Nam Cộng Hòa đang “thập phần tử, nhất phần
sinh”[ii] Họ là những thanh niên trẻ, có học và đầy nhiệt huyết nhưng tiếc thay
vận nước đã đến hồi suy mạt và cho dù họ là những thanh niên văn võ toàn tài
nhưng chẳng thể nào một tay chống trời chung sức vực dậy được một con bệnh đang
trầm kha vì cái họa cộng sản quá lớn.
Và sau này khi ra khỏi
trại cải tạo tôi gặp lại được một anh nguyên là thiếu úy của khóa ấy. Theo lời
anh ta thì toàn khóa 28 được cấp tốc bổ sung cho các đơn vị tác chiến nhưng đa
số đã anh dũng hy sinh vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến.
Trung tuần tháng 3,
1975, lệnh của Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị cho Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ
Chiến Tranh Chính Trị là phải đề cử một số khóa sinh dưới sự hướng dẫn của Sĩ
Quan Trung Tâm tháp tùng phái đoàn cứu trợ ra miền Trung bằng chuyến phi cơ C
130 cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất. Với tư cách là Liên Đoàn Trưởng Liên
Đoàn Khóa Sinh tôi bảo người Đại diện khóa cắt cử một số khóa sinh để đưa danh
sách sang Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị làm Sự Vụ Lệnh đi.
Cựu đại úy Lê Thành
Hưng, nguyên sĩ quan thuộc Khối Huấn Luyện Trung Tâm Cán Bộ Chiến Tranh Chính
Trị kể lại với tôi như sau:
“Tôi đi với Thiếu Tá Bá
thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, cùng với nhóm khóa sinh bên Liên Đoàn của
ông. Thấy vậy Trung Tá Hương[iii], Chỉ Huy Phó Trung Tâm của mình nói với tôi rằng
để cho ông ta đi thay tôi. Tuy nhiên Đại Tá Phúc[iv] không đồng ý để ổng thay
tôi với lý do là sự vụ lệnh đã ký rồi không thể sửa đổi được.”
Hưng kể tiếp:
“Theo dự trù thì các thực
phẩm cứu trợ cấp tốc như bánh mì và mì gói sẽ được phát cho dân chaỵ loạn nhưng
lúc ấy tình hình ở Nha Trang cũng rối loạn cho nên thay vì vậy phi cơ đáp xuống
phi trường Cam Ranh chứ không phải Nha Trang. Thiếu Tá Bá và tôi cùng nhóm Hạ
Sĩ Quan khóa sinh của ông được lệnh ở lại sân bay Cam Ranh không được đi đâu cả.
Và thay vì phát thẳng cho dân thì chúng tôi lại giao cho tiểu khu Khánh Hòa tùy
nghi xử dụng, và rồi lại quay về Saigòn.”
Buổi chiều họ trở về,
người nào người nấy cũng không dấu được nét xúc động, bởi vì họ đã phần nào
nhìn thấy và chứng kiến thấy cái cảnh không mấy vui ngay cả khi chỉ đáp xuống
phi trường Cam Ranh.. Họ nói với tôi là tình hình ở ngoài quân khu 2 rất là xấu.
Hỏi là xấu thế nào thì họ chỉ biết lắc đầu, bởi vì chính họ cũng chưa thực sự
là những người chứng kiến được cái cảnh các đơn vị tan rã sau cuộc rút quân khỏi
thị trấn Pleiku theo đường liên tỉnh lộ 7 chạy ngang qua thị trấn Cheo Reo, (Hậu
Bổn) tỉnh lỵ Phú Bổn.
Hỏi gặng lại là xấu thế
nào thì mấy khóa sinh này chỉ nói rằng: phi cơ được lệnh bay trở lại Saigòn,
thành thử không biết nhiều, và không tiếp xúc được với dân và dĩ nhiên là không
thể đưa ra cái kết luận dứt khoát nào trước sự “cuốn chiếu” ào ạt về Nam của
Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.
Báo chí, đài phát thanh
mỗi lúc một đưa ra những tin thất lợi dồn dập về lực lượng Việt Nam Cộng Hòa.
Tôi nhớ lại một trong những bài báo do phóng viên Nguyễn Tú của báo Chính Luận
viết về cuộc triệt thoái của Quân Đoàn 2 khỏi thị trấn Pleiku vào ngày 16 tháng
3 năm 1975 đã gây ra cho tôi niềm xót xa vô hạn. Bài báo nói rằng ký giả Nguyễn
Tú từ Pleiku tường thuật về cuộc rút quân này qua điện thoại viễn liên với tòa
soạn báo Chính Luận ở Saigòn đã nhiều lần bật khóc nức nở.
Tôi cũng phải rơi lệ khi
đọc xong bài báo này, bởi vì bản thân mình cũng là người có rất nhiều kỷ niệm gắn
bó với cái thành phố nhỏ bé thân thương ấy từ ngày còn mang cấp bậc chuẩn úy.
Vì bài báo mang tính chất của một thảm kịch lịch sử cho nên tôi đã cất kỹ số
báo này coi như là một kỷ niệm cuối cùng về một thành phố thân thương trong những
ngày tháng đầu đời quân ngũ của mình, một thành phố nhỏ bé, khiêm tốn, núp dưới
những rặng thông già lãng đãng mù sương.
Xin các bạn hãy đọc bài
viết của ký giả Nguyễn Tú sau đây:
(Saigòn 17 tháng 3) Chiều
tối chủ nhật ngày 16 tháng 3 năm 1975, bạn Nguyễn Tú, đặc phái viên Chính Luận
tại chiến trường Quân Khu 2 đã từ Pleiku gọi điện thoại cho biết về tình hình
Pleiku sau khi Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 di tản về Nha Trang. Bạn Nguyễn Tú cho biết
là trong hai ngày qua, đồng bào trong toàn tỉnh đã hoang mang đến cực độ khi nghe
tin các đài phát thanh ngoại quốc loan báo Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 đã di tản về
Nha Trang. Giới hữu trách không có lời giải thích nào để trấn an đồng bào mỗi
phút lại càng mất thêm tinh thần, mạnh ai lo liệu phương tiện di tản ra khỏi
vùng giao tranh và trán mặt quân cộng sản.
Chiều qua, các phố xá đã
đóng cửa không buôn bán cầm chừng như trước đây, và đồng bào đã đổ xô hết ra đường,
nhốn nháo ngược xuôi tìm lối chạy. Người ta thuê bao đủ mọi loại xe, chất hết đồ
đạc quần áo để chuẩn bị chạy. Những người ít tiền cũng vét túi, chung nhau thuê
xe, và các loại xe, từ xe lam, xe vận tải, xe lô, xe nhà, xe Honda, cho đến cả
xe ủi đất, xe cứu hỏa, xe cần trục, máy cày v.v.v.. đều chất đầy ắp đồ đạc, đầu
nối đuôi dài trên các đường phố chính như Hoàng Diệu, Võ Tánh, Phan Bội Châu,
Quang Trung, Hai Bà Trưng. Tất cả đều rộn ràng di chuyển, nhưng không biết di
chuyển theo lối nào, vì con đường duy nhất có thể chạy về Quy Nhơn là quốc lộ
19 thì đã bị địch cắt. Áp lực của cộng quân vẫn nặng nề trên đường băng rừng
băng núi này, cái chết có thể đe dọa tập thể tị nạn bất cứ nơi nào và bất cứ giờ
phút nào.
Những chuyến bay của
Hàng Không Việt Nam đã ngưng từ mấy hôm nay nên phi trường chỉ còn là nơi hoạt
động rộn rịp của các loại máy bay quân sự. Tin tức một số gia đình thuộc Bộ Tư
Lệnh Quân Đoàn và các ngoại kiều được di tản ra khỏi Pleiku làm cho mọi người
càng thêm hốt hoảng. Họ chỉ còn trông ngóng vào con đường sống duy nhất là quốc
lộ 19. Họ cầu nguyện và mong ngóng cho quốc lộ này được giải tỏa mau lẹ để để
lánh xa nơi quân cộng sản kéo tới. Cảnh hốt hoảng càng thêm mãnh liệt hơn khi một
số các đồng bào tị nạn ở Kontum, Thanh An, Phú Nhơn v..v kéo về Pleiku chờ mở
đường chạy giặc. Ám ảnh… đai lộ kinh hoàng và chợ Đông Ba rực cháy ngày nào ở
miền Trung là một ám ảnh khó xóa nhòa trong tâm tư mọi người. Dắt díu nhau ngược
xuôi ngoài đường phố, và đồng bào ngơ ngác thầm hỏi nhau biết chạy đi đâu bây
giờ? Từ cả tuần báo chí không lên Pleiku nữa, do đó có muốn đọc được những lời
tuyên bố rất bình tĩnh của các giới chức Saigòn cũng không được. Qua điện thoại
bạn Nguyễn Tú báo tin cho tòa soạn biết là bạn đang tìm cách thoát khỏi Pleiku
cùng đồng bào và sau đây là bản tin cuối cùng của bạn từ Pleiku gửi về cho tòa
soạn và bạn đọc Chính Luận. Lại thêm một hoàng hôn.
Bạn Nguyễn Tú cho biết
qua điện thoại nguyên văn như sau:
Lại thêm một hoàng hôn,
có thể hơn thế nữa, bắt đầu trưa hôm nay là 12 giờ, dân chúng Thanh An, Phú
Nhơn và các vùng lân cận Pleiku đều đổ xô về thị xã Pleiku. Họ đang sống những
giờ phút lo âu kinh hoàng ngoài đường phố. Trên khắp cá ngả đường đều chật các
xe đủ loại, xe quân sự, xe dân sự, xe chở hàng, xe ủi đất, xe chữa lửa, xe máy
kéo có rờ moọc bên trên chất đầy những “gia bảo” cuối cùng của dân chúng. Tất cả
các gia đình, già trẻ lớn bé, dân sự cũng như quân sự ngồi sẵn trên xe để chờ
di tản mà họ không biết là đi đường nào. Các lực lượng diện địa của ta và các lực
lượng trong ngành an ninh, quân cảnh, cảnh sát đều không còn có thể kiểm soát
được nữa, vì tất cả các nhân viên đó đều lo lắng cho chính gia đình của họ.
Ngoài đường phố đầy rẫy
những người đi bộ. Những quân nhân và thường dân tay xách nách mang và bồng bế
các trẻ thơ, xách những giỏ đồ đạc lang thang khắp phố, không biết đi đâu nữa.
Pleiku đang sống trong một không khí kinh hoàng chưa từng thấy, hơn cả cố đô Huế
năm 1972.
Kontum- Pleiku coi như bị
bỏ ngỏ vì các nhân viên có trọng trách an ninh đã chỉ lo riêng cho gia đình họ,
và không còn ai còn có tinh thần đảm nhận trách vụ của mình… Sự kiểm soát đã lọt
ra ngoài tay của các giới lãnh đạo chính quyền tỉnh. Riêng các lực lượng chính
quy còn có kỷ luật và tinh thần chiến đấu. Nhưng tình trạng hỗn loạn và xáo trộn
của dân chúng Pleiku ra đầy ngoài đường đã tạo nên một cảnh tượng thật không thể
tưởng tượng nổi. Trên khuôn mặt mỗi người đều lộ vẻ lo âu không tả hết. Chiến
tranh thực sự chưa tới Pleiku. Chưa một đạn pháo kích nào của địch bắn vào thị
xã Pleiku. Hoàng hôn của Pleiku có thể như đã bắt đầu. Đồng thời có thể tiếp
luôn những cảnh hoàng hôn khác. Tình trạng Pleiku bi thảm quá!
ký giả lão thành Nguyễn
Tú hình chụp 26-8-2009, Alexandria, Virginia
(Saigòn 18-3-1975) Sáng
nay bản báo đặc phái viên Nguyễn Tú, tại một địa điểm dừng chân trên đường rút
lui của của quân dân hai tỉnh Kontum-Pleiku báo tin qua điện thoại quang cảnh
di tản bi thảm của đồng bào.
Dưới đây là nguyên văn
ghi lại lời của bạn Nguyễn Tú đọc qua điện thoại.
Tất cả lên đường. Tối
nay, Pleiku đã thực sự hỗn loạn. Tất cả dân chúng Pleiku thêm vào đó dân chúng
ven tỉnh, dân chúng thuộc vài quận gần thị xã Pleiku, và cả dân chúng Kontum đã
đổ xô nhau chạy về Pleiku đều xuống đường và tổ chức một đêm không ngủ. Không
phải để biểu tình chống ai, mà để vội vàng hốt hoảng tiếp tục chất các hàng
hóa, bàn ghế tủ giường, cùng những vật dụng riêng lên đủ thứ xe: xe lam, xe ba
bánh, xe vận tải hạng nặng, xe Jeep, xe hốt rác, xe GMC nhà binh, xe Honda. Thậm
chí xe be, xe cần trục, xe máy kéo xe trắc tơ. Cả đến xe chữa lửa cũng được
dùng để chất đồ và chở người. Xe nào chất xong đồ là người leo lên ngồi sẵn, xe
nào đôi nhíp cũng gần như thăng bằng, vì chất quá nặng.
Từ trưa các lực lượng an
ninh trong thị xã Pleiku như Quân Cảnh, Cảnh Sát bỏ tất cả nhiệm sở không còn
thấy bóng một ai, mặc dầu hôm qua thứ vbẩy 15 tháng 3 còn canh phòng rất gay gắt
các ngả ra vào tỉnh và thị xã pleiku. Mọi đường phố không còn một nhân viên
công lực nào giữ trật tự nữa.. Tất cả mọi người đều về nhà lo di tản cho gia
đình. Liên lạc vô tuyến của hệ thống quân đội không còn được điều hòa và hữu jiệu
như trước nữa tuy vẫn chưa hẳn gián đoạn. Các nhân viên truyền tin cũng thay
nhau về nhà để lo việc di tản gia đình. Sự kiểm soát an ninh trật tự coi như đã
tuột khỏi tầm tay của chính quyền địa phương Pleiku. Tại tư dinh Đại Tá Tỉnh
Trưởng[v] Pleiku, các Nghị Viên, các Trưởng Ty, Sở, hấp tấp ra vào họp liên
miên. Chưa bao giờ các đại diện dân cử kể cả đối lập và chính quyền đã sát cánh
với nhau như thế. Chưa bao giờ lập pháp, hành pháp, tư pháp đều đồng một lòng một
dạ như thế. Đồng một lòng một dạ trong một câu hỏi duy nhất: Bao giờ thì di tản?
Mấy giờ thì di tản? Trên thực tế thì Pleiku đã sống giờ thứ 25 từ hôm qua, thứ
bẩy 15 tháng 3. Hôm nay chủ nhật 16 tháng 3 lúc 19 giờ đã có điện trở lại trong
toàn thị xã.
Đèn ngoài đường và trong
các tư gia cũng được thắp sáng. Có lẽ là một hội hoa đăng cuối cùng. Khắp các
đường phố dân chúng đi lại hết sức nhộn nhịp tất tưởi. Ngay từ xế trưa hôm nay
16 tháng 3, các xe nào đã chất xong đồ vật đều chuyển bánh trên Quốc Lộ 14 đi về
Phú Bổn thành một đoàn dài. Nhưng phải kể từ 20 giờ ngày hôm nay Chủ Nhật 16
tháng 3 năm 1975, sự di chuyển toàn diện của dân chúng mới thực sự bắt đầu,
đoàn xe ước chừng đến hàng ngàn chiếc, bật đèn pha nối đuôi nhau trên hàng chục
cây số trông như một cuộc “trở về nhà sau cuộc nghỉ ngơi cuối tuần.” Nhưng đây
đâu phải là “đoàn xe thanh bình”. Sáng kiến vĩ đại. Cuộc di tản đại qui mô của
hai tỉnh gom lại là Kontum và Pleiku do sáng kiến tư nhân có thể là “vĩ đại” ở
chốn Tây Nguyên hẻo lánh này. “Mục tiêu đầu tiên là Phú Bổn. Sau đó sẽ tính.”
Đó là lời một đồng bào di tản nói với Chính Luận. Nhưng ra khỏi thị xã được vài
cây số thì đoàn xe bị kẹt vì những chiếc xe nhỏ hơn như xe lam, xe ô tô nhỏ, xe
Honda muốn vượt trước.
Dân chúng nghèo cũng ra
đi bằng phương tiện thiên nhiên trời đã phú cho họ là đôi chân của chính họ. Họ
đây là gồm cả già, trẻ, lớn, bé, con nít còn bồng trên tay, đàn bà đang mang bầu,
tay xách, nách mang, một vài manh chiếu, một vài bọc quần áo, buồn tủi, lo âu,
gia đình nọ nối tiếp gia đình kia đi hàng một sát bên lề đường để tránh đoàn
xe. Đèn pha của đoàn xe lần lượt chiếu các bóng lưng còng xuống của người lớn,
những bóng nhỏ hơn của các trẻ em tay níu vạt áo hoặc ống quần của người bố hay
người mẹ.. Họ lặng lẽ thất thểu bước nọ trước bước kia trong đêm tối của tâm hồn.
Cuộc di tản này chắc chắn
sẽ kéo dài tới ngày hôm sau. Thế là Kontum và Pleiku đã bỏ ngỏ, chính thức và
không chính thức. Không chính thức mà chính thức vào hồi 20 giờ đêm ngày Chủ Nhật
16 tháng 3 năm 1975.
Pleiku không còn gì để
cho tôi săn thêm tin thêm nữa. Ba lô vẫn cõng trên vai, hồi 22 giờ 30 tôi theo
đoàn người di tản ra khỏi thị xã Pleiku. Bầu trời hôm nay đẹp quá, hàng ngàn vì
sao lấp lánh như thiên thần nháy mắt với trần gian hay đó là những ám hiệu dục
dã: “Lẹ lên!” Nếu tôi có một người bạn đường đi bên tôi, tôi sẽ bảo: “Bạn ơi,
trên trời có bao nhiêu vì sao thì lòng tôi đau xót còn hơn thế nữa.”
Đốt phá, bỏ rơi: Các kho
súng, kho đạn tại tỉnh Pleiku đã được lệnh thiêu hủy, tiếng nổ lớn nối liền tiếng
nổ nhỏ. Từng cột khói đen bốc lên trong lửa đỏ từ các bồn nhiên liệu cũng được
lệnh phá hủy. Tất cả đều bùng cháy. Nhiều khu phố trong thị xã Pleiku đã bị
toán người đập phá nhà cửa của các chủ nhân đã di tản, và đã bị phóng hỏa ít nhất
tôi đếm cũng được 14 đám cháy trong những khu phố khác nhau. Nhiều tiếng súng
cũng đã nổ trong thị xã. Có tin Đại Tá Tỉnh Trưởng Pleiku đã hạ lệnh cho đốt
kho giấy bạc trong Ngân Khố, ước lượng khoảng 300 triệu và trong khi tưới xăng
để đốt, ông Trưởng Ty Ngân Khố đã bị phỏng. Không còn một bác sĩ tư nào trong
thành phố.. Quân cũng như Dân Y Viện không còn hoạt động. Một số bệnh nhân tại
Dân Y Viện cũng như một số thương binh tại Quân Y Viện Pleiku đã bị bỏ rơi lại
vì không còn ai lo cho họ nữa. Chính họ trong tình trạng bệnh hoạn chẳng tự
mình làm được, ngoài sự chết đói dần mòn trên giường bệnh.
Một nguồn tin đáng tin cậy
cho hay là Chuẩn Tướng Tất[vi], Tư Lệnh Mặt Trận Kontum-Pleiku đang chỉ huy cuộc
triệt thoái lực lượng chính quy đi đi về hướng Nam trên quốc lộ 14. Trên đường
nóng bỏng (Pleiku 17-3). Sáng nay, cuộc di tản đang tiếp diễn dưới ánh mặt trời
huy hoàng của một ngày đầu tuần. Hàng ngàn chiếc xe dân sự và quân sự vẫn nối
tiếp nhau trên quốc lộ 19 đi về hướng Phú Bổn. Nhiều xe vì chở quá nặng không
chạy nổi đã bỏ lại trên đường. Các quân nhân được lệnh triệt thoái dưới quyền
tư lệnh của tướng Tất đã thi hành một cách rất trật tự và kỷ luật. Các đơn vị
Biệt Động Quân đã được lệnh đi hai bên quốc lộ 14 ở những chỗ xung yếu để bảo vệ
đoàn xe di tản dân sự và quân sự. Các đoàn người đi bộ thật là thảm thương. Đàn
bà, con trẻ đi bên lộ dưới ánh nắng nóng bỏng không giọt nước để uống.
Dọc quốc lộ từ Pleiku đến
Hậu Bổn là tỉnh lỵ của Phú Bổn, đoàn xe cứ nối dài. Đoàn người đi bộ bị bỏ lại
sau, nhưng họ cũng vẫn cố gắng lết đi trên đường nóng bỏng dưới ánh nắng của
Pleiku. Chưa biết tối nay họ có thể tới Phú Bổn bằng đôi chân của chính họ hay
không. Sẽ có nhiều người bị chết đói, chết khát dọc đường. Đọc Quốc Lộ 14 đi về
Phú Bổn, các làng, các ấp, các Buôn đều trống trơn không còn một ai. Cảnh hoang
tàn dọc quốc lộ 14 tôi không làm sao mà còn trí óc để nghĩ ra những danh từ tường
trình với độc giả. Bi thảm quá đồng bào ơi!
Hôm nay thay vì lá thư
hàng tuần sự tường trình của tôi có thể ngắn ngủi và không mạch lạc. Mong quý vị
độc giả phương xa ở tại cái thủ đô đầy ánh sáng hiểu cho. Cho tới nay vẫn không
thể hiểu được lệnh bỏ ngỏ Kontum Pleiku là ở đâu mà ra và và tại sao lại có sự
ra đi hấp tấp trong dân chúng trong khi các nhà cầm quyền quân sự đã trù liệu kế
hoạch từ trước. Không có giải thích nào cho dân chúng. Không có tổ chức nào để
di tản dân chúng trong trật tự và an ninh, không có một sự trợ giúp nào cho các
dân nghèo không có phương tiện đi xe. Từ năm 1954 cho tới nay chính tôi đã chứng
kiến bao cuộc di tản. Cuộc di tản Pleiku- Kontum để lại cho tôi một nỗi chán
chường. Sống với những hy vọng mong manh từ năm 1954 đến năm 1975 tới nay tôi cảm
thấy không còn đủ sức, đủ ý chí để bấu víu lấy cái chút hy vọng mong manh ấy nữa.
Ngoảnh về Pleiku khói vẫn ngùn ngụt bốc lên vì những đám cháy đêm qua. Dọc lộ,
xe tăng và đại pháo dạt ra hai bên đường để bảo vệ những chỗ xung yếu để cho đoàn
xe di tản dân sự và quân sự có thể đi chót lọt tới Hậu Bổn[vii] tức tỉnh lỵ Phú
Bổn. Nhưng trên đoạn quốc lộ 14 từ Pleiku đến Hậu Bổn vẫn xẩy ra nhiều đoạn
đương kẹt xe.. có thể hàng 5 đến 10 cây số chưa biết rằng đoàn xe có thể tới Hậu
Bổn được không. Và từ Hậu Bổn sẽ đi đâu chưa ai rõ. Riêng cho tôi không còn có
trí óc nào để nghĩ đến tương lai dù rằng tương lai chỉ là ở một giây, một phút
sau đó. Điện đàm đứt đoạn.
(Nguyễn Tú, Chính Luận)
“Phố núi cao, phố núi đầy
sương, phố núi không xa, trời thấy thật gần. Anh khách lạ đi lên đi xuống, may
mà có em, đời còn dễ thương. Em Pleiku má đỏ môi hồng, ở đây buổi chiều quanh
năm mùa đông. Nên tóc em ướt, nên mắt em ướt, môi em mềm như mây chiều trôi. Phố
núi cao, phố núi đầy sương, phố núi không xa, nên thấy tình thân. Đi năm phút,
trở về chốn cũ, một buổi chiều nao, lòng thấy bâng khuâng. Xin cảm ơn thành phố
có em. Xin cảm ơn, một mái tóc mềm,. Mai xa lắc, trên đồn biên giới, còn một
chút gì để nhớ để thương.”
Bài hát về cái thành phố
sương mù này đã gây cho tôi những nỗi xúc động đến bàng hoàng. Âm hưởng của bài
hát cứ lãng đãng, cứ như dãn ra trong cái buổi chiều đông năm nào chầm chậm về
với những làn gió bấc thổi luồn qua những hàng thông già muôn thuở.
Thế là thành phố thân
yêu đã mất vào tay giặc. Đọc tờ báo xong chính tôi cũng không thể nào ngăn được
giòng lệ khóc cho một thành phố miền cao, nơi đó đã ấp ủ trong lòng tôi những
tình cảm thân thương trong suốt một thời gian dài từ khi mình còn là một chuẩn
úy mới ra trường được bổ nhiệm về phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 2 Chiến
Tranh Tâm Lý đồn trú trong thị xã Pleiku.
****
Đại Úy, có mấy bà nào
tìm đại úy kìa.
Ai vậy?
Tôi đâu có biết. Lạ lắm
Anh mời hai bà ấy vào
trong văn phòng dùm tôi
—–
Đại Úy. . à dạ thưa anh
Ồ chị K’Lan. À mà có cả
chị Nghiêm[viii]nữa. Hai chị đến tìm tôi có chuyện gì không?
Người đàn bà mà tôi gọi
là chị K’Lan là vợ của một người sĩ quan Thượng gốc Koho, một sắc tộc cư ngụ tại
vùng phía Nam tỉnh Tuyên Đức. Anh K’Lan tốt nghiệp khóa khóa 21 Sĩ Quan Trừ Bị
Thủ Đức, và khi về trình diện Tiểu Đoàn 20 Tâm Lý Chiến thì được bổ nhiệm về
Đai Đội của tôi để làm công tác thượng vận. Chị K’Lan là một người phụ nữ miền
Bắc nhưng sinh ra và lớn lên ở Saigòn. Việc làm sao mà một người thiếu nữ Việt
sống ở giữa lòng thành phố Saigòn mà lại kết hôn với một sĩ quan Thượng cũng là
cả một chuyện khá ngộ nghĩnh và ly kỳ. Theo lới anh K’Lan kể thì hai người chơi
tìm bạn bốn phương lúc anh ta bắt đầu vào học khóa 21 Thủ Đức. Anh lấy tên là
Hoàng Minh Lan, và hai người bắt đầu quen nhau qua những cánh thư. Anh ta nói với
chị Dung (Nguyễn Thị Dung) rằng anh “lai” nhưng không nói là lai gì. Tình yêu một
khi đã đến thì cái gì cũng đẹp cả. Anh K’Lan[ix] nhờ bạn bè mai mối và đứng ra
tổ chức cưới tại Saigòn. Rồi anh được bổ nhiệm về miền Cao Nguyên làm Sĩ Quan
Chiến Tranh Tâm Lý của Tiểu Đoàn 20 Tâm Lý Chiến. Thấy tôi là cấp chỉ huy nhưng
vui vẻ và mến anh, K’Lan thường tâm sự với tôi rằng anh muốn đổi tên K’Lan
thành ra Hoàng Minh Lan như anh đã từng xử dụng trong những bức thư trao đổi với
người “bạn gái” của anh ngày trước (nay là “bạn đời” của anh) khi còn là sinh viên
sĩ quan. Một hôm nhân có Đại Úy Phạm Văn Tải[x], Đại Đội Trưởng Đại Đội 204
(thay thế cho Đại Úy Bùi Văn Hường[xi] bị cộng sản sát hại trong đêm 30 Tết Mậu
Thân tại chính doanh trại của Đại Đội ở thị xã Kontum) đang ngồi chơi tôi thì
K’Lan bước vào chào chúng tôi. Tôi đem chuyện của anh ta muốn đổi tên là Hoàng
Minh Lan thì Tải nói ngay: “Khôông..đừng đổi thế. Tôi đề nghị anh K’LAN thế này
nhé: Ta đem chữ K ghép AO thành KAO. Và chữ LAN đọc theo Tây là LĂNG cho nên ta
ta thêm G và viết thành LĂNG. KAO LĂNG. Ta có hai chữ KAO LĂNG. Nhưng tiếng Việt
không ai viết như thế mà mẫu tự K phải đổi thành mẫu tự C. Cuối cùng mình có chữ
CAO. Phải, mình có hai chữ CAO LĂNG. Cuối cùng chỉ cần thêm một cái họ Việt Nam
nữa là xong rồi. Tôi thấy anh nên lấy họ Nguyễn, và như vậy có cái tên mới là
NGUYỄN CAO LĂNG. Hai chữ CAO LĂNG đọc nhanh có cái âm na ná chữ K’LAN. Vả lại lấy
là NGUYỄN CAO LĂNG là oai lắm đấy. Ông Nguyễn Cao Kỳ đang làm Phó Tổng Thống mà
anh lấy là Nguyễn Cao Lăng biết đâu có kẻ nói anh là bà con với ông Kỳ chưa biết
chừng. Nếu có như vậy thì cứ nhận đại đi cho nó oai. K’LAN cười. Và việc anh ta
tính làm đơn xin Bộ Quốc Phòng đổi thành HOÀNG MINH LAN theo như ý anh hay NGUYỄN
CAO LĂNG theo ý Đại Úy Tải đề nghị cũng chẳng thấy nhắc lại dù chỉ một lần. Rồi
chuyện ấy cũng chìm trong quên lãng cho đến một ngày…
Tôi hỏi chị K’LAN:
Chị cần tôi giúp gì
trong lúc này?
Chị buồn buồn nói:
Em muốn “đại úy” gọi dùm
lên Pleiku xem có gặp được nhà em không. Sốt ruột quá đi. Chị cứ bồn chồn lo lắng.
Tôi an ủi chị:
Chị cứ bình tĩnh đi. Tôi
sẽ cố gắng liên lạc với trên ấy xem sao. Nghe nói tình hình chộn nhộn lắm.
Ngồi suy nghĩ một chút
tôi nói:
Được, tôi sẽ cố gắng.
Tôi sẽ dùng cái điện thoại viễn liên của Chỉ Huy Trưởng[xii] Trung Tâm Huấn Luyện
này gọi lên Quân Đoàn và hy vọng có thể biết được tin. Chị ngồi đây đợi chờ tin
của tôi.
Tôi lên Văn Phòng Chỉ
Huy Trưởng, nói với đại úy Nguyễn Thanh Hóa[xiii] sĩ quan an ninh mà cũng là
chánh văn phòng cho tôi gọi nhờ đường giây ưu tiên của Chỉ Huy Trưởng
Hóa vui vẻ bảo tôi:
Gọi đi bồ!
Tôi bốc điện thoại lên
chuẩn bị quay số O gọi Tổng Đài Thống Nhất thì Hóa cười nói:
Nghe nói trên Vùng 2 lộn
xộn lắm Hung ơi. Chưa chắc đã gọi được.
Tôi cười:
Còn nước còn tát
Tôi quay số 0 và yêu cầu
tổng đài Thống Nhất ở Saigòn cho tôi liên lạc với tổng đài Oanh Liệt, tức tổng
đài của Tiểu Đoàn Truyền Tin của Quân Đoàn 2 trên Pleiku. Tiếng dial tone kêu u
u dòn dã, nhưng bên kia đầu dây không có ai trả lời. Một lúc sau mới nghe thấy
tiếng nói gọn lỏn “A lô” rồi lại cúp. Tôi lại gọi, và lần này thì cho dù có tiếng
u u nhưng chẳng có ai trả lời. Lúc đó vào khoảng giữa tháng ba 1975.
Trở lại văn phòng Liên
Đoàn Khóa Sinh tôi nói với chị K’LAN một câu buông thõng:
Không liên lạc được
Chị K’LAN nhổm dậy, hai
mắt tròn xoe hỏi:
Sao vậy? Không liên lạc
được?
Đúng vậy, đến tổng đài
Oanh Liệt của Quân Đoàn rồi nhưng chẳng có ai trả lời. Lần đầu có một người nào
đó nói hai chữ “A lô” rồi bỏ máy xuống. Lần thứ hai thì họ không thèm trả lời luôn.
“Dial tone” kêu mấy lần rồi bụp. Thế là máy cúp luôn. Có lẽ trên Pleiku bây giờ
chộn nhộn lắm. Gọi đến mấy lần và lần nào cũng đều như thế chị a.
Nghĩa
là….
Nghĩa
là… hết cách
Chị
K’LAN dùng tay áo quẹt nước mắt nói:
Thôi
em về. Cám ơn anh, và chào anh. Miệng nói nhưng cặp mắt chị xa xăm. Tôi hiểu
tâm trạng của chị. Tôi tiễn chân chị ra cửa Liên Đoàn Khóa Sinh. Chị quay lại
nhìn tôi hai mắt đẫm lệ rồi quay đi.
Bầu
trời mùa hạ xanh trong không gợn một chút mây, tuy nhiên mây gió chiến tranh
đang ào ạt kéo về thành phố thủ đô này rồi.
April
30, 2000
Viết
tại Nghênh Phong Các thành phố Santa Ana, quận Orange California, Hoa Kỳ
Vân
Hải Nguyễn Xuân Hùng
[i]
Tốt nghiệp Thủ Đức Khóa 15 Địa Phương Quân
[ii]
Nghĩa là mười phần chết thì mới có hy vọng một phần sống mà thôi
[iii]
Tức Trung tá Phạm Anh Hương
[iv]
Tức Đại Tá Nguyễn Văn Phúc
[v]
Đại Tá Biệt Động Quân Nguyễn Thế Nhu
[vi]
Tức là Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, nguyên Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu
2. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn 2 trong một cuộc họp ngắn tại
Cam Ranh đã đôi ba lân khẩn thiết xin Tổng Thống Thiệu chấp nhận thăng cấp Chuẩn
Tướng một sao cho đại tá Phạm Duy Tất để ông này thay ông chỉ huy cuộc rút lui
từ Pleiku về Phú Yên. Tướng Tất đã bị cộng sản bắt sống ở Phú Bổn
[vii]
Hậu Bổn trước có tên là Cheo Reo, thị trấn Cheo Reo. Tổng Thống Ngô Đình Diệm
cho thành lập tỉnh Phú Bổn và đổi tên thị trấn Cheo Reo thành Hậu Bổn
[viii]
Vợ Trung Úy Nguyễn Văn Nghiêm, Sĩ Quan Chính Huấn thuộc Đại Đội 201 Chiến Tranh
Chính Trị
[ix]
Sau này năm 1967 Chuẩn Úy K’LAN và vợ có làm một tiệc rượu tại Khu Gia Binh Tiểu
Đoàn 20 Chiến Tranh Chính Trị mời tất cả các sĩ quan trong tiểu đoàn tham dự. Hồi
ấy Đại Úy Ngô Vân Hòa cũng vẫn còn là Tiểu Đoàn Trưởng. Trong lần triệt thoái về
Phú Yên xuyên qua liên tỉnh lộ 7, Đại Úy K’Lan mất tích ở khoảng giữa Pleiku và
Phú Bổn, và không còn tin tức gì nữa. Có người thuộc Tiểu Đoàn 20 Chiến Tranh
Chính Trị nói K’LAN bị trúng đạn Việt Cộng và từ trần ngay trên đường rút lui.
[x]
Đại Úy Tải và gia đình hiện giờ cư ngụ tại tiểu bang Oregon Hoa Kỳ
[xi]
Quê ở Cây Dầu Đôi Nha Trang, tốt nghiệp khóa 15 Thủ Đức. Hường trước là sĩ quan
Dân Sự Vụ thuộc Đại Đội 2 Dân Sự Vụ sau đổi thành 21 Dấn Sự Vụ, để rồi cuối
cùng sát nhập vào Tiểu Đoàn 2 Chiến Tranh Tâm Lý với danh xưng mới là Tiểu Đoàn
20 Tâm Lý Chiến
[xii]
Tức Trung Tá Nguyễn Văn Minh, nguyên Trưởng Khối Tổ Chức Tổng Cục Chiến Tranh
Chính Trị
[xiii]
Đại Úy Hóa theo học khóa 16 Thủ Đức nhưng thuộc tài nguyên Sĩ Quan Địa Phương
Quân cho nên khi ra trường, thay vì đeo lon chuẩn úy như chúng tôi anh đeo lon
thiếu úy. Kết hôn với con gái Trung Tá Phạm Văn Khanh một cựu Chỉ Huy Trưởng của
Trung Tâm. Thời Đại Tá Phúc và cả thời Trung Tá Minh, anh làm Sĩ Quan An Ninh Của
Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Chiến Tranh Chính Trị nhưng sau ngày 30 tháng 4 năm
1975 người ta mới vỡ lẽ ra rằng anh là con của một sĩ quan cấp đại tá của cộng
sản Bắc Việt. Tuy nhiên Hóa tính tình hiền lành, và cũng không có hành động nào
phản bội lại đơn vị mà anh phục vụ. Sau này Hóa hành nghề “chung tiền” cho những
gia đình nào có thân nhân từ Mỹ gửi tiền về, và tình cờ anh ta đến nhà tôi
chung tiền cho mẹ tôi cho nên tôi mới gặp lại anh. Có lẽ Hóa nghĩ có thể tôi đã
biết chuyện của anh với bố ruột anh cho nên câu chuyện giữa chúng tôi cũng
không mặn mà lắm, dù cả mười năm sau mới gặp lại nhau.
Một số hình ảnh xưa và nay của thành phố Pleiku.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen