1. Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại (GATT) - tiền thân của tổ chức thương mại quốc tế (WTO)
Sau chiến tranh Thế giới II, nhằm khôi phục sự phát triển kinh tế và
thương mại, hơn 50 nước trên thế giới đã cùng nhau nỗ lực kiến tạo một tổ chức
mới điều chỉnh hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế, đồng thời với sự ra đời của
các định chế tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) và gắn bó chặt chẽ với các định chế này. Ban đầu, các nước dự
kiến thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là một tổ chức
chuyên môn thuộc Liên hiệp quốc. Tháng 2/1946, Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên
hợp quốc triệu tập một "Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Việc
làm" với mục tiêu dự thảo Hiến chương cho Tổ chức Thương mại Quốc tế. Dự
thảo Hiến chương thành lập ITO không những chỉ điều chỉnh các quy tắc thương
mại thế giới mà còn mở rộng ra cả các quy định về công ăn việc làm, các hành vi
hạn chế thương mại, đầu tư quốc tế và dịch vụ.
Công việc chuẩn bị
cho hiến chương này đã được các quốc gia tiến hành trong năm 1946 và 1947. Từ
tháng 4 đến tháng 10/1947, các nước đã tiến hành một hội nghị chuẩn bị toàn diện. Tại hội nghị này, bên cạnh
việc tiếp tục triển khai các công việc liên quan đến hiến chương thành lập ITO,
các nước còn tiến hành đàm phán để giảm và ràng buộc thuế quan đa phương. Trong
vòng đàm phán đầu tiên, các nước đã đưa ra được 45.000 nhân nhượng thuế quan có
ảnh hưởng đến khối lượng thương mại giá trị khoảng 10 tỷ USD, tức là khoảng 1/5
tổng giá trị thương mại thế giới. Các nước cũng nhất trí áp dụng ngay lập tức
và "tạm thời" một số quy tắc thương mại trong Dự thảo Hiến chương ITO
nhằm bảo vệ giá trị của các nhân nhượng nói trên. Kết quả trọn gói gồm các quy
định thương mại và các nhân nhượng thuế quan được đưa ra trong Hiệp đinh chung
về Thuế quan và Thương mại (GATT). Theo dự kiến, Hiệp định GATT sẽ là một hiệp
định phụ trợ nằm trong Hiến chương ITO. Cho đến thời điểm cuối 1947, Hiến
chương ITO vẫn chưa được thông qua. Chiến tranh Thế giới II vừa kết thúc, các
nước đều muốn sớm thúc đẩy tự do hoá thương mại, và bắt đầu khắc phục những hậu
quả của các biện pháp bảo hộ còn sót lại từ đầu những năm 1930. Do vậy, ngày 23/10/1947 , 23 nước đã ký "Nghị định thư về việc áp dụng tạm thời"
(PPA), có hiệu lực từ 1/1/1948 , thông qua nghị định
thư này, Hiệp định GATT đã được chấp nhận và thực thi.
Trong thời gian đó,
Hiến chương ITO vẫn tiếp tục được thảo luận. Cuối cùng, tháng 3/1948, Hiến
chương ITO đã được thông qua tại Hội nghị về Thương mại và Việc làm của Liên
hiệp quốc tại Havana . Tuy nhiên, quốc hội của một số nước đã không phê chuẩn Hiến chương
này. Đặc biệt là Quốc hội Mỹ rất phản đối Hiến chương Havana, mặc dù Chính phủ
Mỹ đã đóng vai trò rất tích cực trong việc nỗ lực thiết lập ITO. Tháng 12/1950,
Chính phủ Mỹ chính thức thông báo sẽ không vận động Quốc hội thông qua Hiến
chương Havana nữa, do vậy trên thực tế, Hiến chương này không còn tác dụng. Và
mặc dù chỉ là tạm thời, GATT trở thành công cụ đa phương duy nhất điều chỉnh
thương mại quốc tế từ năm 1948 cho đến tận năm 1995, khi Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) ra đời.
Trong 48 năm tồn tại, GATT
đã tổ chức 8 vòng đàm phán:
Năm
|
Địa điểm/Tên
|
Chủ đề đàm phán
|
Số nước
|
1947
|
Thuế quan
|
23
|
|
1949
|
Thuế quan
|
13
|
|
1951
|
Torquay
|
Thuế quan
|
38
|
1956
|
Thuế quan
|
26
|
|
1960-1961
|
(Vòng Dillon)
|
Thuế quan
|
26
|
1964-1967
|
(Vòng Kenedy)
|
Thuế quan và
các biện pháp chống bán phá giá
|
62
|
1973-1979
|
(Vòng Tokyo)
|
Thuế quan, các
biện pháp phi quan thuế, các hiệp định "khung"
|
102
|
1986-1994
|
(Vòng
|
Thuế quan, các
biện pháp phi quan thuế, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh
chấp, hàng dệt, nông nghiệp, thành lập WTO, v.v...
|
123
|
Năm vòng đàm phán đầu tiên chủ yếu tập
trung vào đàm phán giảm thuế quan. Bắt đầu từ Vòng đàm phán Kenedy, nội dung
của các vòng đàm phán mở rộng dần sang các lĩnh vực khác. Vòng đàm phán cuối
cùng - Vòng Uruguay - đã mở rộng nội dung sang hầu hết các lĩnh vực của thương mại bao
gồm: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ... và cho
ra đời một tổ chức mới thay thế cho GATT - Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Có thể nói, trong 48 năm tồn tại của mình,
GATT đã có những đóng góp to lớn vào việc thúc đẩy và đảm bảo thuận lợi hoá và
tự do hoá thương mại thế giới. Số lượng các bên tham gia cũng tăng nhanh. Cho
tới trước khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập vào ngày 1/1/1995 , GATT đã có 124 bên ký kết và đang tiếp nhận 25 đơn xin gia nhập.
Nội dung của GATT ngày một bao trùm và quy mô ngày một lớn: bắt đầu từ việc
giảm thuế quan cho tới các biện pháp phi thuế, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tư,
và tìm kiếm một cơ chế quốc tế giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các
quốc gia. Từ mức thuế trung bình 40% của năm 1948, đến năm 1995, mức thuế trung
bình của các nước phát triển chỉ còn khoảng 4% và thuế quan trung bình của các
nước đang phát triển còn khoảng 15%.
2. Sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
Mặc dù đã đạt được những thành công lớn,
nhưng đến cuối những năm 80, đầu 90, trước những biến chuyển của tình hình
thương mại quốc tế và sự phát triển của khoa học-kỹ thuật, GATT bắt đầu tỏ ra
có những bất cập, không theo kịp tình hình.
- Thứ nhất, những thành công của GATT
trong việc giảm và ràng buộc thuế quan ở mức thấp cộng với một loạt các cuộc
suy thoái kinh tế trong những năm 70 và 80 đã thúc đẩy các nước tạo ra các loại
hình bảo hộ phi quan thuế khác nhau để đối phó với hàng nhập khẩu; hoặc ký kết
các thoả thuận song phương dàn xếp thị trường giữa các chính phủ Tây Âu và Bắc
Mỹ, đồng thời nhiều hình thức hỗ trợ và trợ cấp mới đã xuất hiện trong thời
gian này. Những biến đổi này có nguy cơ làm giảm và mất đi những giá trị mà
việc giảm thuế quan mang lại cho thương mại quốc tế. Trong khi đó, phạm vi của
GATT không cho phép đề cập một cách cụ thể và sâu rộng đến các vấn đề này.
- Thứ hai, đến những năm 80, GATT đã không
còn thích ứng với thực tiễn thương mại thế giới. Khi GATT được thành lập năm
1948, Hiệp định này chủ yếu điều tiết thương mại hàng hoá hữu hình. Từ đó tới
nay, thương mại quốc tế đã phát triển nhanh chóng, mở rộng sang cả các lĩnh vực
thương mại dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển,
du lịch, xây dựng, tư vấn... và các loại hình thương mại dịch vụ này, cùng với
các vấn đề thương mại trong đầu tư và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến
thương mại đã phát triển nhanh chóng và trở thành một bộ phận quan trọng của
thương mại quốc tế.
- Thứ ba, trong một số lĩnh vực của thương
mại hàng hoá, GATT còn có những lỗ hổng cần phải được cải thiện. Ví dụ, trong
nông nghiệp và hàng dệt may, các cố gắng tự do hoá thương mại đã không đạt được
thành công lớn. Kết quả là còn rất nhiều ngoại lệ với các quy tắc chung trong
hai lĩnh vực thương mại này.
- Thứ tư, về mặt cơ cấu tổ chức và cơ chế
giải quyết tranh chấp, GATT cũng tỏ ra không thích ứng với tình hình thế giới.
GATT chỉ là một hiệp định, việc tham gia mang tính chất tuỳ ý. Thương mại quốc
tế ở những năm 80 và 90 đòi hỏi phải có một tổ chức thường trực, có nền tảng
pháp lý vững chắc để đảm bảo thực thi các hiệp định, quy định chung của thương
mại quốc tế. Về hệ thống giải quyết tranh chấp, GATT chưa có một cơ chế điều tiết thủ tục tố tụng
chặt chẽ, không đưa ra một thời gian
biểu nhất định, do đó, các vụ việc tranh chấp thường bị kéo dài, dễ bị bế tắc.
Để thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế một cách hiệu quả, rõ ràng hệ thống
này cần phải được cải tiến.
Những yếu tố trên, kết hợp với một số nhân tố khác đã thuyết phục
các bên tham gia GATT cần phải có nỗ lực để củng cố và mở rộng hệ thống thương
mại đa biên. Từ năm 1986 đến 1994, Hiệp định GATT và các hiệp định phụ trợ của
nó đã được các nước thảo luận sửa đổi và cập nhật để thích ứng với điều kiện
thay đổi của môi trường thương mại thế giới. Hiệp định GATT 1947, cùng với các
quyết định đi kèm và một vài biên bản giải thích khác đã hợp thành GATT 1994.
Một số hiệp định riêng biệt cũng đạt được trong các lĩnh vực như Nông nghiệp,
Dệt may, Trợ cấp, Tự vệ và các lĩnh vực khác; cùng với GATT 1994, chúng tạo
thành các yếu tố của các Hiệp định Thương mại đa phương về Thương mại Hàng hoá.
Vòng đàm phán Uruguay cũng thông qua một loạt các quy định mới điều chỉnh thương mại Dịch
vụ và Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến thương mại. Một trong những thành công
lớn nhất của vòng đàm phán lần này là, cuối Vòng đàm phán Uruguay, các nước đã
cho ra Tuyên bố Marrakesh thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), bắt đầu
đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995.
II. Cơ cấu tổ chức của Tổ chức
thương mại Thế giới (WTO)
1. Mục tiêu:
WTO thừa nhận các mục tiêu của GATT, tức
là quan hệ giữa các nước thành viên trong thương mại và kinh tế sẽ được tiến
hành nhằm:
¨
nâng cao mức
sống;
¨
bảo đảm tạo
đầy đủ việc làm, đảm bảo tăng trưởng vững chắc thu nhập và nhu cầu thực tế;
¨
phát triển
việc sử dụng các nguồn lực của thế giới;
¨ mở rộng sản xuất và trao đổi hàng hoá.
2. Chức năng
Theo Hiệp định Marrakesh thành lập WTO, tổ chức này có năm chức năng cơ bản như sau:
1.
Tạo thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và tiến hành các mục tiêu của Hiệp
định này và các Hiệp định thương mại đa biên khác, cũng như các Hiệp định nhiều
bên.
2.
Tạo ra diễn đàn đàm phán giữa các nước thành viên về quan hệ thương mại giữa
các nước này về các vấn đề được đề cập đến trong các Hiệp định WTO, và thực thi
kết quả của các cuộc đàm phán đó.
3.
Giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên trên cơ sở Quy định và Thủ tục
Giải quyết Tranh chấp.
4.
Thực hiện rà soát chính sách thương mại thông qua Cơ chế Rà soát Chính sách
Thương mại
5.
Nhằm đạt được một sự nhất quán hơn nữa trong việc hoạch định chính sách thương
mại toàn cầu, khi thích hợp, WTO sẽ phối hợp với IMF, WB và các cơ quan của các
tổ chức này.
3. nguyên tắc cơ bản
WTO hoạt động dựa trên một bộ các luật lệ và quy tắc tương đối phức
tạp, bao gồm trên 60 hiệp định, phụ lục, quyết định và giải thích khác nhau
điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực thương mại quốc tế. Tuy vậy, tất cả các văn bản
đó đều được xây dựng trên cơ sở năm nguyên tắc cơ bản của WTO.
1. Thương mại không có sự phân
biệt đối xử.
Nguyên tắc này được
cụ thể hoá trong các quy định về chế độ Đãi ngộ Tối huệ quốc và Đãi ngộ Quốc
gia:
1.1. Đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN):
Đãi ngộ Tối huệ
quốc là một nguyên tắc cơ bản của WTO, được nêu trong Điều I - Hiệp định GATT,
điều II - Hiệp định GATS và điều IV - Hiệp định TRIPS. Theo nguyên tắc MFN, WTO
yêu cầu một nước thành viên phải áp dụng thuế quan và các quy định khác đối với
hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên khác nhau (hoặc hàng hoá xuất khẩu
tới các nước thành viên khác nhau) một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử.
Điều đó có nghĩa là nếu một nước thành viên dành cho sản phẩm từ bất kỳ nước
thành viên nào mức thuế quan hay bất kỳ một ưu đãi nào khác thì cũng phải dành
mức thuế quan hoặc ưu đãi đó cho sản phẩm tương tự của tất cả các quốc gia
thành viên khác một cách ngay lập tức và vô điều kiện. WTO cũng cho phép các
nước thành viên được duy trì một số ngoại lệ của nguyên tắc này (Xem thêm Phụ
lục I).
1.2. Đãi ngộ
Quốc gia (NT):
Trong khi nguyên
tắc MFN yêu cầu một nước thành viên không được phép áp dụng đối xử phân biệt
giữa các nước thành viên thì nguyên tắc NT yêu cầu một nước phải đối xử bình
đẳng và công bằng giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản xuất trong
nước. Nguyên tắc này quy định rằng, bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi
đã qua biên giới (đã trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu)
sẽ được hưởng sự đối xử không kém ưu đãi hơn sản phẩm tương tự sản xuất trong
nước. (Xem thêm Phụ lục II).
Nguyên tắc MFN và
NT lúc đầu chỉ được áp dụng trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, sau khi WTO ra
đời thì nó được mở rộng cả sang thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ liên
quan đến thương mại và các lĩnh vực khác, tuy vậy mức độ áp dụng của quy tắc
này trong các lĩnh vực là khác nhau. Là
những cấu thành cơ bản của nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các thành
viên Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO), tuy nhiên, trong các quy định của WTO,
yêu cầu này được áp dụng ở mức độ khác nhau theo từng lĩnh vực:
- Trong thương mại
hàng hoá: MFN và NT được áp dụng tương đối toàn diện và triệt để;
- Trong thương mại
dịch vụ: MFN và NT cũng được áp dụng với những lĩnh vực mà một thành viên đã
cam kết mở cửa thị trường, với những lĩnh vực dịch vụ còn duy trì hạn chế thì
việc dành MFN và NT tuỳ thuộc vào kết quả đàm phán các cam kết cụ thể.
- Trong lĩnh vực
đầu tư: WTO chưa có một hiệp định đầu tư đa biên, mới đạt được Hiệp định về các
Biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, và quy chế MFN và NT chỉ giới hạn ở
Hiệp định này. Tuy nhiên, trong luật pháp đầu tư nước ngoài của các nước, quy
chế MFN và NT được áp dụng phổ biến và trên nhiều lĩnh vực.
- Trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ: các đãi ngộ quốc gia trên đã được thể chế hoá cụ thể và phổ biến
trong các công ước quốc tế liên quan đến sở hữu trí tuệ.
2. Chỉ bảo hộ bằng thuế quan
Trong WTO, việc bảo
hộ các ngành công nghiệp nội địa không bị ngăn cấm. Tuy nhiên, WTO đưa ra một
nguyên tắc là các nước chỉ được thực hiện bảo hộ chủ yếu thông qua thuế quan,
chứ không được sử dụng các biện pháp thương mại khác. Mục tiêu của nguyên tắc
này để đảm bảo sự minh bạch của việc bảo hộ và giảm thiểu những tác dụng bóp
méo thương mại phát sinh.
3. Tạo dựng một nền tảng ổn định cho thương mại
Một nguyên tắc cơ
bản của WTO là các nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định cho thương
mại quốc tế, thông qua việc các nước ràng buộc thuế quan của mình. Các nước chỉ
có thể tăng thuế quan sau khi đã tiến hành đàm phán lại và đã đền bù thoả đáng
cho lợi ích các bên bị thiệt hại do việc tăng thuế đó.
Để đảm bảo nguyên
tắc này, các nước thành viên WTO còn có nghĩa vụ phải minh bạch hoá các quy
định thương mại của mình, phải thông báo mọi biện pháp đang áp dụng và ràng
buộc chúng (tức là cam kết sẽ không thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho
thương mại, nếu thay đổi phải được thông báo, tham vấn và bù trừ hợp lý). Tính
dự báo được nhằm giúp các nhà kinh doanh nắm rõ tình hình hiện tại cũng như xác
định được cơ hội của họ trong tương lai. Nguyên tắc này giúp cho môi trường
kinh doanh có tính ổn định và lành mạnh.
4. Thương mại ngày càng tự do hơn thông qua đàm phán
WTO đảm bảo thương
mại giữa các quốc gia ngày càng tự do hơn thông qua quá trình đàm phán hạ thấp
các hàng rào thương mại để thúc đẩy buôn bán. Kể từ năm 1948 đến nay, GATT, mà
nay là WTO, đã tiến hành 8 vòng đàm phán để giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào
phi thuế quan và mở cửa thị trường. Để thực hiện nguyên tắc thương mại ngày
càng tự do này, WTO đảm nhận chức năng là diễn đàn đàm phán thương mại đa
phương để các nước có thể liên tục thảo luận về vấn đề tự do hoá thương mại.
Trước Hội nghị Bộ
trưởng WTO ngày 30/11-3/12 tại Seattle , các nước thành viên WTO đã kỳ vọng sẽ có thể đưa ra một vòng đàm
phán mới có tên là Vòng đàm phán Thiên niên kỷ nhằm mục tiêu tự do hoá thương
mại một cách toàn diện và sâu rộng hơn nữa. Song do bất đồng quan điểm giữa các
quốc gia thành viên nên Hội nghị này đã không thể đưa ra một Tuyên bố chung về
các nội dung và lịch trình đàm phán cụ thể. Trong thời gian gần đây, các nước
đã có nhiều nỗ lực để thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương mại đa phương hơn
nữa, và trong tháng 2/2000 vừa qua, WTO đã nhất trí tiến hành đàm phán tự do
hoá thương mại dịch vụ và nông sản bắt đầu từ tháng 2 và tháng 3/2000.
5. Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng
WTO là một hệ thống
các nguyên tắc nhằm thúc đẩy cạnh tranh tự do, công bằng và không bị bóp méo.
Tất cả các Hiệp định của WTO như về nông nghiệp, dịch vụ, quyền sở hữu trí
tuệ... đều nhằm mục tiêu tạo một môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn
giữa các quốc gia.
6. Hạn chế số lượng hàng nhập khẩu
Theo quy định của
WTO, các nước sẽ loại bỏ tất cả hạn chế số lượng đối với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, WTO cũng cho phép các nước thành
viên được áp dụng các hạn chế nhập khẩu trong một số trường hợp ngoại lệ như:
- Nước nhập khẩu
gặp khó khăn về cán cân thanh toán
- Có căng thẳng về
ngoại hối (do nhu cầu nhập khẩu vì mục tiêu phát triển tăng mạnh, hoặc do các
nước này thiết lập hay mở rộng hoạt động sản xuất trong nước).
Khi các nước áp
dụng các ngoại lệ này, các hạn chế số lượng phải được áp dụng trên cơ sở không
có sự phân biệt đối xử.
7. Nguyên tắc "khước từ" và khả năng áp dụng các hành động
khẩn cấp
Khi tình hình kinh
tế hay thương mại của một nước gặp khó khăn nhất thời, WTO cho phép các nước
thành viên được tạm thời miễn không thực hiện những nghĩa vụ nhất định.
WTO cũng cho phép
các chính phủ được áp dụng các biện pháp tự vệ khẩn cấp trong những trường hợp
quy định. Các thành viên có thể áp dụng các hạn chế nhập khẩu hay tạm ngừng các
nhân nhượng thuế quan đối với những sản phẩm cụ thể khi nhập khẩu các sản phẩm
này tăng mạnh, gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản
xuất trong nước.
8. Các thoả thuận thương mại khu vực
WTO thừa nhận các
thoả thuận thương mại khu vực nhằm mục tiêu đẩy mạnh tự do hoá thương mại. Các
liên kết như vậy được chấp nhận là một ngoại lệ của nguyên tắc Đãi ngộ Tối huệ
quốc (MFN) theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt, nhằm đảm bảo các thoả thuận này
tạo thuận lợi cho thương mại giữa các nước liên quan song không làm tăng các
hàng rào cản trở thương mại với các nước ngoài liên kết.
9. Điều kiện đặc biệt dành cho các nước đang phát triển
Với 2/3 số thành
viên của mình là các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi, một
trong những nguyên tắc cơ bản của WTO là khuyến khích phát triển, dành những
điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt cho các quốc gia này, với mục tiêu đảm
bảo sự tham gia sâu rộng hơn của họ vào hệ thống thương mại đa phương. Thực
hiện nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển, các nền kinh tế
chuyển đổi những linh hoạt và ưu đãi nhất định trong việc thực thi các hiệp
định, đồng thời chú ý đến trợ giúp kỹ thuật cho các nước này.
4. Cơ cấu tổ chức
của WTO
Hiện nay,
WTO có 137 nước thành viên, đồng thời có 30 nước đang trong quá trình đàm phán
gia nhập (Gần đây nhất, cuối tháng 12/1999, Đại Hội đồng WTO đã chấp thuận
Gióoc-đa-ni là thành viên thứ 137 của WTO).
Cơ
quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng (MC). Hội nghị Bộ trưởng họp ít nhất hai năm một lần.
Hội nghị Bộ trưởng WTO lần I được tổ chức tại Singapore tháng
12/1996, lần II tại Geneva tháng 5/1998 và Hội nghị Bộ trưởng lần III diễn ra tại Seattle , Mỹ từ ngày
30/11 đến ngày 3/12/1999 . Hội nghị Bộ trưởng là
cơ quan đưa ra quyết định đối với mọi vấn đề của bất kỳ hiệp định cụ thể nào.
Thông thường, Hội nghị Bộ trưởng đưa ra các đường lối, chính sách chung để các
cơ quan cấp dưới tiến hành triển khai.
Dưới Hội nghị Bộ trưởng là Đại Hội đồng (GC). Cơ quan này
tiến hành các công việc hàng ngày của WTO trong thời gian giữa các Hội nghị Bộ
trưởng, thông qua ba cơ quan chức năng là:
w
Đại Hội đồng (GC)
w
Cơ quan Giải
quyết Tranh chấp (DSB)
w
Cơ quan Rà soát
Chính sách Thương mại (TPRB)
Đại Hội đồng giải quyết các vấn đề của WTO thay mặt cho
Hội nghị Bộ trưởng và báo cáo lên Hội nghị Bộ trưởng.
Đại
Hội đồng cũng đồng thời đóng vai trò là Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) và
Cơ quan Rà soát chính sách (TPRB). Cơ quan Giải quyết Tranh chấp được phân ra
làm Ban Hội thẩm (Panel) và Uỷ ban Kháng nghị (Appellate). Các tranh chấp trước
hết sẽ được đưa ra Ban Hội thẩm để giải quyết. Nếu như các nước không hài lòng
và đưa ra kháng nghị thì Uỷ ban Kháng nghị sẽ có trách nhiệm xem xét vấn đề.
(Xem Phụ lục kèm theo).
Dưới
Đại Hội đồng, WTO có ba Hội đồng về ba lĩnh vực thương mại cụ thể là Hội đồng
Thương mại Hàng hoá, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng về Quyền sở hữu
trí tuệ liên quan đến thương mại. Các hội đồng này có các cơ quan cấp dưới (các
uỷ ban và các tiểu ban) để thực thi các công việc cụ thể trong từng lĩnh vực.
(Ví dụ, Hội đồng Thương mại Hàng hoá có 11 uỷ ban, 2 nhóm công tác và Cơ quan
Giám sát Hàng dệt, Hội đồng Thương mại Dịch vụ có 2 uỷ ban, 2 nhóm công
tác...).
Tương
đương với các Hội đồng này, WTO còn có một số uỷ ban, có phạm vi chức năng nhỏ
hơn, nhưng cũng báo cáo trực tiếp lên Đại Hội đồng, đó là các Uỷ ban về Thương
mại và Phát triển, Thương mại và Môi trường, Hiệp định Thương mại Khu vực, Hạn
chế bảo vệ Cán cân Thanh toán, Uỷ ban về Ngân sách, Tài chính và Quản lý, và
Tiểu ban về các nước Chậm phát triển. Bên cạnh các uỷ ban đó là các Nhóm công
tác về Gia nhập, và Nhóm Công tác về Mối quan hệ giữa Đầu tư và Thương mại, về
Tác động qua lại giữa Thương mại và Chính sách cạnh tranh, về Minh bạch hoá Mua
sắm của Chính phủ. Ngoài ra còn có hai uỷ ban về các hiệp định nhiều bên.
Một cơ quan quan trọng của WTO là Ban Thư ký WTO, được
đặt tại Geneva . Đứng đầu Ban Thư ký là Tổng Thư ký (hiện nay là ông Mike Moore -
người New Zealand), dưới đó là 4 Phó Tổng Thư ký, phụ trách từng mảng cụ thể. Ban
Thư ký có khoảng 500 nhân viên. Nhiệm vụ chính của Ban Thư ký là:
w
Hỗ trợ về kỹ
thuật và quản lý cho các cơ quan chức năng của WTO (các hội đồng, uỷ ban, tiểu
ban, nhóm đàm phán) trong việc đàm phán và thực thi các hiệp định;
w
Trợ giúp kỹ thuật
cho các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước chậm phát triển;
w
Phân tích các
chính sách thương mại và tình hình thương mại;
w
Giúp đỡ trong
việc giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến việc diễn giải các quy
định, luật lệ của WTO;
w
Xem xét vấn đề
gia nhập của các nước và tư vấn cho họ.
III. Các
quy định của WTO
Có thể nói, WTO là tổ chức quốc tế duy nhất điều chỉnh các quy tắc
về thương mại giữa các quốc gia. Cốt lõi của WTO là các hiệp định do các chính
phủ thành viên đàm phán và ký kết. Các hiệp định này tạo ra nền tảng pháp lý
cho việc tiến hành hoạt động thương mại quốc tế, với mục tiêu thúc đẩy giao lưu
thương mại hàng hoá, dịch vụ và hợp tác thương mại ngày càng sâu rộng và hiệu
quả hơn. Hệ thống WTO hiện nay bao gòm những hiệp định độc lập như:
- Các hiệp định đa phương về thương mại
hàng hoá bao gồm Hiệp định GATT 1994 và các hiệp định đi kèm với nó;
- Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ
(GATS);
- Hiệp định về các
khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)
1. Thương mại Hàng hoá
Hiệp định chủ chốt điều chỉnh lĩnh vực thương mại hàng hoá của WTO
là GATT 1994.
Nội dung cơ bản của GATT:
GATT đưa ra các
nguyên tắc cơ bản để tiến hành thương mại hàng hoá giữa các nước thành viên, đó
là nguyên tắc MFN, NT, không hạn chế số lượng, các hiệp định thương mại khu
vực, các điều khoản ưu tiên và ưu đãi dành cho các nước đang và chậm phát
triển, các quy tắc về đàm phán, ràng buộc thuế quan và đàm phán lại... GATT cũng
có các điều khoản cơ bản về các vấn đề chống bán phá giá, xác định trị giá hải
quan, trợ cấp, tự vệ khẩn cấp... tuy nhiên những điều khoản này chưa đầy đủ và
chi tiết, sau này chúng đã được cụ thể hoá thành các hiệp định riêng biệt.
Mục tiêu cơ bản của
GATT là tạo cơ sở để tiến hành giảm thuế quan không ngừng và ràng buộc chúng.
Đến khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay ,
các nước thành viên đã đưa ra các cam kết ràng buộc thuế đối với hầu hết các
mặt hàng công nghiệp nhập khẩu.
Sau Vòng đàm phán
Uruguay, các nước phát triển cam kết tiến hành cắt giảm thuế quan hàng công
nghiệp từ 6,3% xuống còn trung bình là 3,8% trong vòng 5 năm, tính từ 1/1/1995.
Giá trị hàng hoá nhập khẩu vào các nước này được miễn thuế hoàn toàn lên tới
44% (từ 20%). Số lượng các sản phẩm phải chịu thuế suất hải quan cao giảm
xuống, số dòng thuế nhập khẩu từ tất cả các nước phải chịu thuế suất trên 15%
giảm từ 7% xuống còn 5% (riêng đối với các nước đang phát triển thì mức giảm
này là từ 9% xuống 5%). Ngày 26/3/1997, 40 nước chiếm 92% thương mại thế giới
trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã nhất trí miễn thuế và các loại phí khác
cho tất cả các sản phẩm công nghệ thông tin nhập khẩu kể từ năm 2000. Số lượng
các dòng thuế được ràng buộc cũng tăng nhanh. Các nước phát triển cam kết ràng buộc
99% dòng thuế của họ (từ mức 77%), các nước đang phát triển ràng buộc 73% (từ
21%), các nền kinh tế chuyển đổi 98% từ (73%).
Như vậy, nội dung
chủ yếu của GATT là giảm và ràng buộc thuế quan hàng công nghiệp. Ngoài các
danh mục ràng buộc thuế quan của các nước thành viên, GATT tạo cơ sở để tiếp
tục tiến hành các cuộc đàm phán giảm thuế hơn nữa trong tương lai. GATT còn bao
gồm cả các cam kết mở cửa thị trường của các quốc gia. Các cam kết này là một
phần không thể tách rời của Hiệp định GATT. Bên cạnh đó, GATT cũng quy định
những thủ tục cần thiết như tham vấn, bồi thường khi một nước muốn rút bỏ một
ràng buộc thuế quan của mình, trong những trường hợp đặc biệt, cụ thể. GATT
cũng có các quy định về các vấn đề như định giá tính thuế, hạn chế số lượng, tự
vệ khẩn cấp, trợ cấp, bảo vệ cán cân thanh toán, gia nhập, rút lui, miễn trừ...
Tuy vậy, trong khuôn khổ của GATT thì các vấn đề này chưa được đề cập chi tiết,
cụ thể, theo kịp tình hình thương mại quốc tế. Vì vậy, sau Vòng đàm phán Uruguay ,
các nước thành viên đã nhất trí đưa ra các hiệp định cụ thể về các vấn đề này,
bao gồm:
- Hiệp định Nông nghiệp (AoA)
- Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh Dịch tễ (SPS)
- Hiệp định Dệt may (ATC)
- Hiệp định về Hàng rào Kỹ thuật Cản trở Thương mại (TBT)
- Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại (TRIMs)
(Phụ lục V)
- Hiệp định Chống Phá giá (Anti-dumping)
- Hiệp định Trị giá Hải quan (ACV)
- Hiệp định về Giám định Hàng hoá trước khi xuống tầu (PSI)
- Hiệp định về Quy tắc Xuất xứ (Rules of Origin)
- Hiệp định về Giấy phép Nhập khẩu (Import Licensing)
- Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp Đối kháng (SCM)
- Hiệp định về các Biện pháp Tự vệ (AoS)
Lĩnh vực nông nghiệp trong WTO:
Hiệp định GATT điều
chỉnh thương mại hàng công nghiệp giữa các quốc gia. Riêng hàng nông sản, do
tính chất đặc biệt nhạy cảm của mình, từ trước đến nay vẫn được hưởng nhiều
ngoại lệ. Mặc dù chỉ chiếm không quá 10% thương mại thế giới và không quá 5%
GDP của rất nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển, nhưng thương mại nông
sản luôn là đối tượng đàm phán rất nhạy cảm trong đàm phán thương mại quốc tế.
Thương mại nông sản
là lĩnh vực được bảo hộ cao nhất trong chính sách thương mại của các nước thành
viên. Trong thời kỳ GATT, thương mại nông nghiệp hầu như vẫn chịu những quy chế
riêng và chưa được đưa vào khuôn khổ của hệ thống đa biên. Nói như vậy vì hàng
nông sản chịu thuế quan cao nhất, là đối tượng của chính sách bảo đảm an ninh
lương thực và nông nghiệp được các nước phát triển áp dụng mức trợ cấp nông
nghiệp cao. Nông nghiệp thường là lĩnh vực tranh chấp và thách thức giữa các
nước thành viên.
Nhằm tạo ra một
khuôn khổ cho thương mại hàng nông sản thế giới và tăng cường trao đổi mặt hàng
này, cuối vòng đàm phán Uruguay, các nước đã cùng nhau ký Hiệp định Nông
nghiệp. Hiệp định Nông nghiệp đã đạt được những thoả thuận về mở cửa thị
trường nông sản, thuế hoá các biện pháp phi thuế và giảm trợ cấp cũng như mức
hỗ trợ trong nước của các nước thành viên.
+ Giảm trợ cấp xuất
khẩu nông sản:
Các nước công
nghiệp sẽ cắt giảm 36% nguồn ngân sách để trợ cấp dành cho xuất khẩu nông phẩm
trong vòng 6 năm tính từ 1995; khối lượng hàng hoá được hưởng trợ cấp giảm 21%
cũng trong thời gian trên. Trong giai đoạn thực thi 6 năm đó, các nước phát
triển được phép sử dụng trợ cấp để giảm giá tiếp thị và vận chuyển hàng hoá
xuất khẩu trong những trường hợp nhất định.
Các nước đang phát triển sẽ cắt giảm 24%
nguồn ngân sách để trợ cấp dành cho xuất khẩu nông phẩm, khối lượng hàng hoá
được hưởng trợ cấp sẽ được giảm 14% trong vòng 10 năm tính từ năm 1995.
Tỷ lệ trên được
tính trên mức trung bình hàng năm của thời kỳ cơ sở 1986-90 và bắt đầu từ năm
1995. Các nước không được phép áp dụng thêm bất kỳ biện pháp trợ cấp xuất khẩu
nào trước đây chưa tồn tại.
Các nước chậm phát
triển không phải đưa ra các cam kết cắt giảm.
Các cam kết cắt
giảm đó được coi là sẽ làm cho giá nông sản trên thế giới tăng lên.
·+ Mở cửa thị
trường nông sản:
·
·- Thuế hoá các hàng rào phi thuế với nông sản. Mức
thuế hoá dựa trên việc tính toán tác động bảo hộ của biện pháp phi thuế đó nhằm
đưa ra mức thuế quan có tác động bảo hộ tương đương.
·
·- Các nước phát
triển cam kết sẽ giảm thuế trung bình 36%, mức giảm tối thiểu với mỗi dòng thuế
không ít hơn 15% và thực hiện trong 6 năm (1995-2000).
·
·- Các nước đang
phát triển cam kết sẽ giảm thuế trung bình 24%, mức giảm tối thiểu với mỗi dòng
thuế không ít hơn 10% và thực hiện trong 10 năm (1995-2004).
·
·Một vài nước có vấn đề an ninh lương thực đặc biệt
nhạy cảm như Nhật, Hàn Quốc, Philippines và Israel được áp dụng ngoại lệ đặc
biệt khi thuế hoá các biện pháp phi thuế và ngược lại họ có nghĩa vụ đẩy nhanh
mức độ mở cửa thị trường cho hàng nhập khẩu. Ví dụ, mức mở cửa thị trường với
Nhật được bắt đầu là 4% và có thể lên 8% vào năm 2000.
·
·- Các nước cũng
cam kết giữ mức mở cửa thị trường tối thiểu không thấp hơn mức trung bình của
thời kỳ 1986-90 và không đưa ra thêm hàng rào phi thuế.
+ Trợ cấp trong nước với nông dân: Mức hỗ trợ tổng gộp trong nước (AMS) sẽ được cắt giảm ít nhất 20%
(và với các nước đang phát triển là 13,3%) trong thời kỳ thực thi nói trên (6
và 10 năm), tính theo mức trung bình thời kỳ 1986-88.
+ Các biện pháp vệ sinh dịch tễ: các nước
được phép tự mình đặt ra tiêu chuẩn vệ sinh nhưng chúng phải dựa trên cơ sở
khoa học (khuyến khích sử dụng những tiêu chuẩn được công nhận rộng rãi trên
thế giới).
Tuy vậy, đến nay,
các nước đang phát triển cho rằng trên thực tế, quyền lợi của họ không được đảm
bảo vì Hiệp định Nông nghiệp còn nhiều bất bình đẳng và nhiều nước đã không
tuân thủ đầy đủ Hiệp định Nông nghiệp. Cụ thể là thị phần nông sản của các nước
này không hề tăng so với trước Vòng đàm phán Uruguay
(40% tổng sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu thế giới, 43% tổng sản lượng sản phẩm
nhập khẩu nông sản của các nước phát triển). Hỗ trợ nông nghiệp của các nước
OECD vẫn còn rất cao, năm 1997 là 280 tỷ USD, năm 1998 là 307 tỷ USD, trong đó,
EU chiếm tới 142 tỷ, Hoa Kỳ 100 tỷ và Nhật Bản 60 tỷ, năm 1998 là 362 tỷ USD
(tăng khoảng 8% so với năm 1997).
Bảng: Mục tiêu cắt giảm trợ cấp - bảo hộ trong
thương mại hàng nông sản
Các nước phát triển
(6 năm: 1995 - 2000)
|
Các nước đang phát triển
(10 năm, 1995 - 2004)
|
|
Thuế quan cắt giảm trung bình
- cho tất cả sản phẩm nông nghiệp
- tối thiểu cho từng sản phẩm
|
- 36%
- 15%
|
- 24%
- 10%
|
Trợ cấp trong nước
Tổng mức cắt giảm AMS (Giai đoạn cơ
sở: 86-88)
|
-20%
|
-13%
|
Xuất khẩu
- Giá trị trợ cấp
- Khối lượng được trợ cấp (Giai đoạn
cơ sở: 86-90)
|
-36%
-21%
|
-24%
-14%
|
Mức cơ sở cho cắt giảm thuế là mức ràng
buộc trước ngày 1/1/1995, hoặc đối với những mặt hàng chưa được ràng buộc thì
áp dụng mức thực tế vào tháng 9/1986 khi Vòng đàm phán
|
Theo như thoả thuận, nông nghiệp sẽ là một trong những chủ đề chính
được thảo luận tại vòng đàm phán Thiên niên kỷ, dự kiến bắt đầu vào năm 2000.
Tuy nhiên, do quyền lợi quốc gia của mình, các nước thành viên muốn đề cập đến
vấn đề này ở những góc độ khác nhau. Các nước đang phát triển muốn thảo luận về
việc mở cửa thị trường hơn nữa, giảm trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước cho
nông nghiệp. Hoa Kỳ cũng cần mở rộng thị trường xuất khẩu cho nông sản của mình
nên muốn tập trung vào việc cắt giảm hỗ trợ của EU đối với nông nghiệp, và đặc
biệt chú ý đến vấn đề xây dựng cơ sở pháp lý cho việc xuất khẩu sản phẩm nông
nghiệp là kết quả của công nghệ tiên tiến. Trong khi đó, EU và Nhật Bản cùng
một số nước khác lại vẫn muốn giữ quyền trợ cấp, không muốn nhập khẩu sản phẩm
công nghệ sinh học với lý do bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. Do vậy, chắc chắn
các nước sẽ còn phải thảo luận rất nhiều về vấn đề nông nghiệp trong vòng đàm
phán tới.
Hàng dệt và may
Giống như nông sản,
hàng dệt may cũng là một vấn đề hóc búa trong WTO. Trước Vòng đàm phán Uruguay ,
thương mại hàng dệt may được điều chỉnh bởi Hiệp định Đa sợi (MFA). Hiệp định
này cho phép các nước được ký kết các hiệp định song phương hoặc tiến hành các
hành động đơn phương để đặt ra hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may. Hệ thống này
rất bất lợi cho các nước đang phát triển, vốn rất có tiềm năng về mặt hàng này.
Tại Vòng đàm phán Uruguay ,
Hiệp định về hàng Dệt - May (ATC) đã được ký kết:
Hiệp định cũng quy định rõ chương trình
nhất thể hoá các sản phẩm dệt và may vào hệ thống thương mại đa biên. Chương
trình được triển khai trong vòng 10 năm (1995-2005), chia làm 4 giai đoạn. Tỷ
lệ tối thiểu các sản phẩm được nhất thể hoá của từng giai đoạn sẽ là 16, 17 và
18% và trước ngày 1 tháng 1 năm 2005, toàn bộ sản phẩm hàng dệt và may sẽ hoàn
toàn được hoà nhập vào hệ thống chính sách thương mại đa phương của WTO.
Việc thực thi Hiệp định Dệt - May được
thực hiện thành hai tuyến:
· - Đưa những sản phẩm vào chịu sự điều chỉnh của
cơ chế thương mại đa biên và một khi những sản phẩm đó được nhất thể hoá
(integrated) thì không được áp dụng hạn chế số lượng nữa.
·
· - Nới lỏng các hạn chế số lượng với các sản
phẩm còn lại, từ hạn mức cơ sở được xác định (với mức tối thiểu quy định) và áp
dụng cơ chế linh hoạt cho nước xuất khẩu sử dụng hạn chế đó. Nước áp dụng hạn
ngạch cần thông báo rõ các tiêu thức trên. Trong thời gian chuyển tiếp, dần dần
tự do hoá thương mại đưa những mặt hàng trước đây thuộc diện áp dụng hạn ngạch.
Hiệp định cũng cho phép trong thời kỳ
chuyển tiếp được áp dụng những biện pháp tự vệ. Chỉ những thành viên đã tiến
hành những chương trình “nhất thể hoá” được áp dụng những biện pháp này. Việc
áp dụng chỉ có thể được tiến hành trên cơ sở đã thực hiện hai bước liên tiếp:
(1) chứng minh được có sự tổn hại hay đe doạ gây tổn hại do nhập khẩu tăng lên
đột ngột và (2) có mối liên hệ trực tiếp giữa sự tổn hại đó với sự tăng vọt số
lượng nhập khẩu đó.
Mặc dù có những kết quả tích cực như vậy,
nhưng cho đến nay, sau 4 năm Hiệp định ATC có hiệu lực, các nước đang phát
triển vẫn cho rằng quyền lợi của các nước này không được đảm bảo do việc thực
thi hiệp định này vẫn còn nhiều điểm cần phải xem xét. Các nước này yêu cầu các
nước phát triển tích cực thực thi ATC hơn nữa.
Bảng:
Thực thi Hiệp định Dệt - May
Giai đoạn
|
% sản phẩm được đưa vào GATT (bao gồm cả việc dỡ bỏ
hạn ngạch)
|
Tốc độ nới lỏng hạn ngạch hiện nay
(nếu mức năm 1994 là 6%)
|
Giai đoạn I:
|
16%
|
6,69%/năm
|
Giai đoạn II:
|
17%
|
8,7%/năm
|
Giai đoạn III:
|
18%
|
11,05%/năm
|
Giai đoạn IV: từ
Nhất thể hoá hoàn
toàn vào GATT (và xoá bỏ mọi hạn ngạch). Hiệp định ATC chấm dứt.
|
49%
(tối đa)
|
Không còn hạn ngạch
|
áp dụng mức nhập khẩu năm 1990 làm cơ sở.
|
Cơ quan Giám sát Hàng dệt được WTO
thiết lập để đảm bảo việc thực thi Hiệp định ATC một cách nghiêm túc.
Hiệp định về biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs)
Trước đây, khi bắt
đầu Vòng đàm phán Uruguay, các bên có tham vọng đi dến một hiệp định đầu tư đa
phương tương đối toàn diện, đề cập đến cả các vấn đề chính sách có tác động tới
lưu chuyển đầu tư trực tiếp nước ngoài, vấn đề áp dụng các nguyên tắc của GATT
là Đãi ngộ quốc gia (cho các công ty nước ngoài được hưởng các quyền lợi tương
tự như các công ty trong nước về đầu tư, thành lập và hoạt động trong nội
địa) và nguyên tắc Tối huệ quốc (không
cho phép các nước phân biệt đối xử giữa các nguồn đầu tư khác nhau) trong đầu
tư. Tuy nhiên, những đề xuất, mặc dù được các nước phát triển rất ủng hộ, đã
vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ phía các nước đang phát triển, với lý do là
khuôn khổ GATT không cho phép đàm phán các vấn đề đầu tư và nếu tiến hành đàm
phán thì phải đưa cả vấn đề buôn bán giữa các công ty xuyên quốc gia như giá
chuyển nhượng, các biện pháp hạn chế kinh doanh và các hành vi khác vào phạm vi
đàm phán. Kết quả là trong vòng đàm phán này, các nước chỉ đề cập đến đầu tư
trong một phạm vi hẹp - các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs).
Trong số rất nhiều
các biện pháp đầu tư có tác động bóp méo thương mại, Hiệp định TRIMs không cho
phép các nước thành viên áp dụng 5 biện pháp được coi là vi phạm nguyên tắc đãi
ngộ quốc gia và không hạn chế số lượng sau đây:
Các
TRIMS không phù hợp với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia, tức là gây ra sự phân biệt
đối xử giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu:
-
yêu cầu các doanh nghiệp phải mua hoặc sử dụng các sản phẩm có xuất xứ trong
nước hoặc từ một nguồn cung cấp trong nước, hoặc
-
yêu cầu doanh nghiệp chỉ được mua hoặc sử dụng các sản phẩm nhập khẩu được giới
hạn trong một tổng số tính theo số lượng hoặc giá trị sản phẩm nội địa mà doanh
nghiệp này xuất khẩu.
Các
TRIMS không phù hợp với điều XI - Hiệp định GATT về nghĩa vụ loại bỏ các biện
pháp hạn chế định lượng đối với xuất, nhập khẩu:
-
hạn chế việc doanh nghiệp nhập khẩu dưới hình thức hạn chế chung hoặc hạn chế
trong một tổng số liên quan đến số lượng hoặc giá trị sản xuất trong nước mà
doanh nghiệp đó xuất khẩu;
-
hạn chế việc doanh nghiệp nhập khẩu bằng cách hạn chế khả năng tiếp cận đến
nguồn ngoại hối liên quan đến nguồn thu ngoại hối của doanh nghiệp này;
-
hạn chế việc doanh nghiệp xuất khẩu hoặc bán để xuất khẩu các sản phẩm cho dù
được quy định dưới hình thức sản phẩm cụ thể hay dưới hình thức số lượng hoặc
giá trị sản xuất trong nước của doanh nghiệp.
Các nước được hưởng
một khoảng thời gian chuyển tiếp để loại bỏ dần dần các biện pháp nêu trên. Thời gian chuyển tiếp với
các nước phát triển là 2 năm, với các nước đang phát triển là 5 năm và các nước
chậm phát triển là 7 năm, tính từ ngày 1/1/1995.
(Xem thêm Phụ lục 3)
2. Thương mại dịch vụ
Ngày nay, hoạt động thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên WTO
được điều chỉnh bởi Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS). GATS bao gồm:
-
Các quy định và nguyên tắc chung được trình bày trong Hiệp định chung
-
Các phụ lục của GATS và các quyết định cấp Bộ trưởng
Phụ lục về Miễn trừ MFN
Phụ lục về Di chuyển của tự nhiên nhân của
dịch vụ
Phụ lục về Dịch vụ Vận tải hàng không
Phụ lục về Dịch vụ tài chính
Phụ lục về Vận tải biển
Phụ lục về Viễn thông cơ bản
-
Các cam kết của từng nước về các lĩnh vực dịch vụ cụ thể, về áp dụng MFN, NT và
mở cửa thị trường trong các lĩnh vực đó.
Nội dung cơ bản của Hiệp định GATS
Hiệp định GATS bao
gồm 29 điều khoản, quy định các quy tắc và nghĩa vụ cơ bản.
Các lĩnh vực dịch
vụ được điều chỉnh bởi GATS bao gồm một diện rộng với 11 ngành và 155 tiểu
ngành, được phân định thống nhất theo danh mục CPC (Danh mục phân loại sản phẩm
theo tiêu chuẩn Liên hợp quốc).
GATS đề cập đến
lĩnh vực rộng lớn này qua bốn phương thức cung cấp dịch vụ:
- Cung cấp dịch vụ qua biên giới: Dịch vụ được cung cấp
thông qua sự vận động của bản thân dịch vụ đó xuyên biên giới, tức là được cung
cấp từ lãnh thổ nước này sang lãnh thổ nước khác (chỉ có dịch vụ di chuyển,
không có sự di chuyển của người cung cấp dịch vụ) - ví dụ truyền hình tại chỗ
một hoạt động văn hoá thể thao.
- Tiêu dùng dịch vụ
ở nước ngoài - ví dụ đi du lịch và tiêu thụ dịch vụ ở nước ngoài. Dịch vụ được
cung cấp trong lãnh thổ của một nước thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của
nước khác.
- Hiện diện thương mại
- tức là cung cấp dịch vụ qua việc thiết lập cơ sở thường trú hoặc công ty tại lãnh thổ một nước thành viên
khác.
- Hiện diện của tự
nhiên nhân - tức là việc cung cấp dịch vụ được thực hiện bởi người cung cấp
dịch vụ hoặc người làm công của nhà cung cấp dịch vụ (các kỹ thuật viên, nhân
viên cung cấp dịch vụ) tại lãnh thổ của một nước khác.
Trong bốn phương thức cung cấp dịch
vụ kể trên, hiện diện thương mại được coi là phương thức được các thành viên
quan tâm nhất và cũng có nhiều cam kết chi tiết nhất.
Nhìn chung, Hiệp định Thương mại Dịch vụ
mới đạt được kết quả có mức độ về mở cửa thị trường; thành công nhất của GATS
là đã mở rộng được diện điều chỉnh của hệ thống thương mại đa biên, đặc biệt là
bao trùm cả những lĩnh vực như đầu tư trực tiếp của nước ngoài, trình độ chuyên
môn, sự di chuyển của tự nhiên nhân và cung cấp dữ liệu qua biên giới. Những
tiền đề đó đã hợp pháp hoá khuôn khổ pháp lý ban đầu chung cho các nước và là
xuất phát điểm để các quốc gia tiếp tục đàm phán cụ thể hơn về những lĩnh vực
đầy tiềm năng này qua các vòng đàm phán trong tương lai.
Về Đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN) trong
thương mại dịch vụ, đây là nghĩa vụ bắt buộc của các nước thành viên. Các nước
cam kết dành cho nhau những "ưu đãi" như nhau đối với mọi lĩnh vực
dịch vụ. Tuy vậy, Hiệp định GATS cho phép mỗi thành viên đưa ra những ngoại lệ
của MFN. Ví dụ, Việt Nam có thể đưa một cam kết về ưu đãi song biên trong hợp tác du lịch ký
với Thái Lan vào danh mục và ưu đãi đó không được mở rộng cho các thành viên
WTO.
Về Đãi ngộ quốc
gia(NT), sự áp dụng còn tuỳ thuộc vào điều kiện đạt được trong đàm phán. NT
không được áp dụng một cách tự động. Trên cơ sở kết quả các cuộc đàm phán tự do
hoá dịch vụ và các cam kết của các nước thành viên đến nay, việc áp dụng NT
trong thương mại dịch vụ còn rất chừng mực.
Về Cam kết mở
cửa thị trường cụ thể của mỗi thành viên trong từng ngành, tiểu ngành dịch
vụ: được tổng hợp trong một Danh mục các Cam kết. Danh mục này tuỳ thuộc vào kết quả đàm phán trên cơ sở trao
đổi.
Sau Vòng đàm phán Uruguay,
nhiều cuộc đàm phán về thương mại dịch vụ đã được tiến hành và đi đến ký kết
một số hiệp định về thông tin viễn thông cơ bản, công nghệ thông tin, dịch vụ
tài chính v.v... Tính đến nay, đàm phán về dịch vụ viễn thông cơ bản đã kết
thúc vào tháng 2 năm 1997 và đàm phán về dịch vụ tài chính đã kết thúc vào
trung tuần tháng 12 năm 1997. Trong các cuộc đàm phán này, các thành viên đã
đạt được phạm vi cam kết rộng hơn. Các hiệp định này được coi là những bước
tiến lớn trong quá trình tự do hoá thương mại dịch vụ kể từ khi WTO được thành
lập. Các nước cũng đã hoàn tất việc đưa các cam kết này vào Bảng cam kết theo
quy định của điều XXI-GATS. (Xem thêm Phụ lục IV).
Chắc chắn thương
mại dịch vụ sẽ đạt tốc độ tăng trưởng vượt xa thương mại hàng hoá trong một vài
thập kỷ tới. Đàm phán thương mại dịch vụ sẽ có tầm quan trọng lớn hơn trên diễn
đàn WTO, diễn đàn khu vực và liên khu vực. Các nước thành viên cũng đã nhất trí
về một Chương trình Nghị sự để tiếp tục đàm phán mở rộng tự do hoá thương mại
dịch vụ vào Thiên niên kỷ mới; trong số những chủ đề đã được dự kiến có các
biện pháp tự vệ tình huống, mua sắm của chính phủ, trợ cấp, quy chế nội địa về
trình độ chuyên môn, v.v...
Nội dung đàm phán
thương mại dịch vụ đã được các nước nhất trí đưa ra thảo luận tại Vòng đàm phán
mới, với các mục tiêu như sau:
- Tiếp tục mở rộng
minh bạch hoá trong lĩnh vực dịch vụ;
- Tự do hoá hơn
nữa;
- Tăng cường lợi
ích của các nước trên nguyên tác cùng có lợi;
- Tăng cường sự
tham gia của các nước đang phát triển vào thương mại dịch vụ và xuất khẩu dịch
vụ.
Phạm vi đàm phán trong vòng tới sẽ là:
- Giảm miễn trừ
MFN;
- Các quy định nội
địa mang tính chất quốc gia của các nước;
- Các biện pháp tự
vệ trong trường hợp khẩn cấp;
- Mua sắm của chính
phủ...;
- Các trợ cấp ảnh
hưởng đến thương mại.
Về các quy tắc, luật lệ, các nước sẽ tập trung vào các vấn đề sau:
- Tuân thủ quy tắc
đẩy nhanh tự do hoá như đã nếu trong GATS;
- Công nhận và tiếp
tục thức đẩy quá trình tự do hoá đạt được từ các cuộc đàm phán trước đây;
- Đàm phán trên cơ
sở song phương, đa phương và nhiều bên;
- Cơ sở đàm phán
dựa trên những cam kết của các nước thành viên đưa ra vào lúc kết thúc Vòng Uruguay ;
- Tăng cường sự
tham gia của các nước đang phát triển.
Về khung thời gian cho đàm phán, nhìn chung nhiều nước ủng hộ việc:
- Thông qua các kết
quả đàm phán của các lĩnh vực dịch vụ cùng lức và trên cơ sở chấp nhận toàn bộ,
trừ những trường hợp đàm phán về các biện pháp tự vệ khẩn cấp;
- Công việc của
nhóm thực hiện đàm phán cần hoàn thành trước cuối năm 2000;
- Cần tiến hành xem
xét lại quá trình đàm phán 2 năm sau khi bắt đầu;
- Thời hạn đưa ra
yêu cầu ban đầu và bản chào các cam kết cụ thể là nửa đầu năm 2000;
- Thời gian cho
vòng đàm phán tới là 3 năm.
Các nước đang phát
triển còn nêu ý kiến đề xuất mong muốn các nước phát triển dành những đối xử
đặc biệt và ưu đãi hơn, nâng cao khả năng tiếp cận thị trường cho các nước này,
trợ giúp kỹ thuật trong dịch vụ, hỗ trợ năng lực dịch vụ trong nước và tăng
cường khả năng tiếp cận thị trường đối với các kênh phân phối và mạng lưới
thông tin các nước.
Sau khi Hội nghị Bộ
trưởng WTO tại Seattle đã không đưa ra được một vòng đàm phán toàn diện như mong đợi, các
nước thành viên WTO đã nhất trí tiến hành đàm phán tự do hoá thương mại dịch vụ
vào cuối tháng 2/2000.
(Xem thêm Phụ
lục 4)
3. Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến
thương mại
Nhiều
người đã không dự kiến được rằng trong vòng đàm phán Uruguay, các nước thành
viên GATT lại đạt được những kết quả về quyền sở hữu trí tuệ liên quan tới
thương mại sâu và rộng đến như vậy. Các hiệp định chủ yếu trước đây thuộc diện
quản lý của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) đã được chấp nhận chính thức
và ràng buộc trong khuôn khổ WTO, được thực hiện trên cơ sở đãi ngộ quốc gia.
Các nước tham gia Vòng đàm phán Uruguay đã ký kết Hiệp định về các Khía cạnh
liên quan đến thương mại của Quyền Sở
hữu Trí tuệ (TRIPS) điều chỉnh quyền tác giả và các quyền có liên quan,
nhãn hàng, chỉ dẫn địa lý, thiết kế công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí mạch
tích hợp, bảo hộ thông tin bí mật và hạn chế các hoạt động chống cạnh tranh
trong các hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng. (Xem thêm Phụ lục 5). Các bên
cũng chấp nhận Cơ chế Giải quyết Tranh chấp của WTO được áp dụng cho tranh chấp
phát sinh từ các hiệp định này. TRIPS không chỉ dựa trên những hiệp định chủ
yếu của hệ thống sở hữu trí tuệ hiện có mà còn xây dựng được những quy định mới
chưa được WIPO chế định hoá.
Hiệp định có những ngoại lệ về chuyển giao
công nghệ cho các nước chậm phát triển. Đãi ngộ khác biệt chủ yếu dành cho các
nước đang phát triển là được hưởng thời gian chuyển đổi để thực thi hiệp định
(5 năm) và với các nước chậm phát triển là 10 năm.
TRIPS cũng có một
số điều khoản có quy định liên quan tới sức khoẻ và dinh dưỡng cộng đồng cho
phép thi hành chế độ li-xăng bắt buộc nhằm những mục tiêu cụ thể hoặc tránh lạm
dụng quyền sở hữu trí tuệ trong việc chuyển giao công nghệ.
Khi Hiệp định TRIPS
được thực thi, những người sử dụng và khai thác quyền sở hữu trí tuệ sẽ phải
trả một khoản tiền cho chủ sở hữu, do vậy có thể giá thành hàng hoá hay sản
phẩm liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ cũng như chi phí thuê, thù lao các
quyền này kể cả nhập khẩu và trong nước sẽ cao hơn. Trước mắt, Hiệp định sẽ làm
cho các hoạt động sử dụng các quyền này tốn kém hơn. Về lâu dài và trong một
chừng mực nhất định, quyền sở hữu trí tuệ được trả công cao sẽ khuyến khích sự
sáng tạo ngay tại các nước đang phát triển và góp phần phát triển công nghệ tại
chỗ. Nhưng phát triển công nghệ là một nội dung đầy tính phức tạp và đòi hỏi nhiều
nhân tố không chỉ có ở chế độ bảo hộ quyền của người tạo ra công nghệ. TRIPS
cũng đặt ra yêu cầu cần hoàn chỉnh và điều chỉnh hệ thống lập pháp và đảm bảo
thực thi của các nước, trước hết là các nước đang phát triển.
4. Cơ chế giải quyết tranh chấp
Trong quan hệ
thương mại quốc tế, quyền lợi của các quốc gia luôn mâu thuẫn với nhau, và rất
dễ xảy ra tranh chấp. Do vậy, hệ thống thương mại đa biên mà các nước thành
viên WTO nỗ lực xây dựng sẽ không thể tồn tại và hoạt động hiệu quả nếu như
thiếu đi cơ chế giải quyết tranh chấp.
Cho tới trước Vòng
đàm phán Uruguay, việc giải quyết tranh chấp giữa các nước ký kết GATT dựa vào
hai cơ chế chủ yếu: (1) điều khoản XXII - Tham vấn và XXIII - Bảo vệ các Ưu đãi
và Lợi ích - của Hiệp định GATT, (2) cơ chế giải quyết tranh chấp của mỗi hiệp
định đa phương.
Cơ chế giải quyết tranh chấp đó vẫn bị coi
là có những hạn chế sau:
·- Các nghị quyết đạt được không giải quyết được những
tranh chấp phát sinh, thường dẫn đến việc các bên thương lượng hoà giải là
chính;
·- Hệ thống giải quyết tranh chấp không mang tính chất
tự động, do vậy bên bị kiện có thể dễ dàng gây khó khăn để ngăn cản một nhóm
chuyên trách (Ban Hội thẩm) tiến hành hoạt động của mình;
·- Thời hạn tiến hành quy trình giải quyết tranh chấp
quá dài;
·- Hệ thống không có cơ chế bảo đảm cho các nghị quyết
được thực hiện.
Những khiếm khuyết
này làm giảm bớt hoặc mất đi những giá trị của tự do hoá thương mại mà hệ thống
thương mại đa phương mang lại. Các nước tham gia GATT, trước hết là các nước đã
vấp phải tranh chấp với đối tác có thế lực trong thương mại mạnh hơn mình, đã
quan tâm nhiều đến việc cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp của hệ thống
thương mại đa biên.
·Vì vậy, trong Vòng đàm phán Uruguay ,
cơ chế giải quyết tranh chấp là một trong 15 nội dung lớn được đưa ra đàm phán.
Vòng đàm phán Uruguay đã đạt được một thành công lớn là đưa ra được một cơ chế
giải quyết tranh chấp hoàn chỉnh hơn, cho phép các mối quan hệ trong thương mại
quốc tế được giải quyết một cách công bằng hơn, hạn chế rất nhiều những hành
động đơn phương, độc đoán của những cường quốc thương mại, cho phép nhanh chóng
tháo gỡ những bế tắc vốn thường xảy ra và khó giải quyết trước đây. Vì thế,
hiệu quả của hệ thống thương mại đa biên thế giới được nâng cao hơn nhiều. Các
nước đang phát triển, chậm phát triển và ngay cả những nước phát triển tương
đối yếu hơn coi đây là một thắng lợi và một lợi ích chính có thể có được từ hệ
thống đa biên.
Trước hết cần khẳng
định là giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ đa biên có đối tượng là tranh chấp
về chính sách thương mại của các nước thành viên chứ không phải là tranh chấp
phát sinh từ việc thực hiện hợp đồng thương mại.
Thoả thuận về Giải quyết tranh chấp của
WTO rất chú trọng giai đoạn tham vấn, nhằm tạo một cơ hội để các bên liên quan
tới vấn đề đang tranh chấp có thể tìm kiếm được một giải pháp thoả đáng. Tham
vấn là thủ tục đầu tiên nhằm tránh khả năng phải đi đến thủ tục bắt buộc. Ngoài
ra còn có những bước đi có thể mang tính chất tự nguyện như yêu cầu Tổng Giám
đốc WTO làm trung gian hoà giải hay thống nhất đưa ra trọng tài.
Nếu giai đoạn nói
trên không đi đến một giải pháp thoả đáng trong thời hạn cho phép (60 ngày),
một nhóm công tác đặc biệt sẽ được lập ra (trừ khi Cơ quan chuyên trách về giải
quyết tranh chấp nhất trí tuyên bố không chấp nhận việc này). Nhiệm vụ của nhóm
là đánh giá thực tế sự việc và khả năng sử dụng các quy định của thoả thuận,
đưa ra những đánh giá thích đáng để Cơ quan giải quyết tranh chấp có cơ sở
khuyến nghị. Thông thường nhóm đặc trách có ba thành viên, trừ khi các bên liên
quan đến tranh chấp đề nghị cần có năm thành viên. Các thành viên được lựa chọn
trên cơ sở một danh sách các chuyên gia được Ban Thư ký WTO giới thiệu. Khi có
nhiều tranh chấp về cùng một nội dung, có thể giao cho cùng một nhóm đặc nhiệm
giải quyết. Nhóm có thẩm quyền chỉ định một nhóm tư vấn làm nhiệm vụ phân tích
những vấn đề mang tính chất kỹ thuật hay khoa học.
Đặc điểm chung của
cơ chế mới về giải quyết tranh chấp là tính thống nhất và chắc chắn.
Không hạn chế những
cơ hội tham vấn và hoà giải, nhưng cơ chế mới đảm bảo để các cam kết liên quốc
gia được thực hiện nghiêm chỉnh. Thoả thuận cũng bao hàm việc loại trừ khả năng
các bên giải quyết tranh chấp bằng một cơ chế bên ngoài.
Một cơ quan phúc
thẩm cũng được thể chế hoá với những thành viên luân phiên mang đại diện cho
các thành viên - đó là Uỷ ban Kháng nghị (Appelate). Nếu kết quả giải quyết
tranh chấp không được thi hành nghiêm túc, bên có quyền lợi bị vi phạm được
quyền áp dụng những biện pháp trả đũa, thậm chí trả đũa chéo nếu những biện
pháp trả đũa áp dụng với cùng một lĩnh vực (thuộc phạm vi điều chỉnh của cùng
một hiệp định) không được coi là đạt kết quả mong muốn.
Tính đến tháng
10/1999, trong chưa đầy 5 năm tồn tại, WTO với tư cách là diễn đàn giải quyết
tranh chấp đã đưa ra 169 quyết định về các vụ tranh chấp, trong đó có 49 vụ do
Hoa Kỳ đề xuất.
Bảng: Quy trình Giải quyết Tranh chấp của WTO
60 ngày
|
Tham vấn
(Điều
4)
|
|
â
|
||
Trong kỳ họp thứ hai của DSB
|
Thành lập Ban Hội thẩm
(Do Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB)) (Điều 6)
|
|
â
|
||
0-20 ngày (thêm 10 ngày nếu Tổng Giám đốc được yêu cầu chọn BHT)
|
Điều khoản hoạt động (Điều 7)
Thành phần (Điều 8)
|
|
â
|
||
Ban Hội thẩm xem xét
Họp với các bên (điều 12)
và bên thứ 3 có liên quan (điều 10)
|
Nhóm chuyên gia thực hiện rà soát (Điều 13; Phụ lục 4)
|
|
â
|
||
Giai đoạn rà soát giữa kỳ
Phần báo cáo mô tả được gửi cho các bên để đánh giá (Điều 15.1).
Báo cáo giữa kỳ được gủi cho tất cả các bên xem xét (Điều 15.2)
|
Họp rà soát với Ban hội thẩm theo yêu cầu (Điều 15.2)
|
|
â
|
||
6 tháng kể từ khi thành lập Ban Hội thẩm, 3 tháng trong trường hợp
khẩn cấp
|
Báo cáo của Ban Hội thẩm
gửi cho tất cả các bên (điều 12.8; Phụ lục 3 đoạn 12 (j))
|
|
â
|
||
9 tháng từ khi thành lập BHT
|
Báo cáo của Ban Hội thẩm
lên DSB (Đ.21.9; Phụ lục 3, đoạn 12 (k))
|
|
â
|
Rà soát của Uỷ Ban kháng nghị (Đ 15.2)
|
|
60 ngày dàng cho báo cáo của BHT, trừ khi có kháng nghị
|
DSB chấp nhận báo cáo của Ban Hội thẩm
bao gồm bất cứ thay đổi báo cáo của Ban Hội thẩm nào do UBKN thực hiện
(Đ.16.1,16.4
và 17.14)
|
30 ngày dành cho Uỷ Ban Kháng nghị rà soát
|
â
|
||
Thời hạn hợp lý do các thành viên đề xuất, hoặc các bên tranh chấp
thoả thuận hoặc trọng tài phán quyết (khoảng 15 tháng nếu trọng tài phán
quyết)
|
Thực thi
Báo cáo của bên thua kiện về dự kiến thực thi với "một thời
hạn hợp lý"
|
Tranh chấp về việc thực thi:
Có thể kiện, bao gồm cả tham khảo với Ban Hội thẩm đầu tiên về
việc thực thi (Đ21.5)
(90 ngày)
|
â
|
||
Trong trường hợp không thực thi
các bên đàm phán việc đền bù vì ngừng thực thi đầy đủ (Đ22.2)
|
||
â
|
||
30 ngày sau khi "thời hạn hợp lý kết thúc"
|
Biện pháp Trả đũa
Nếu không nhất trí được về việc bồi thường, DSB cho phép trả đũa
việc không thực thi đầy đủ (Đ22)
Trả đũa chéo:
Trong cùng ngành hàng, các ngành hàng khác, hiệp định khác (Đ22.3)
|
Có thể đưa ra trọng tài về mức độ đình chỉ và các nguyên tắc trả
đũa
(Đ.22.6 và 22.7)
|
5. Rà soát chính sách thương mại
Một trong những chức năng cơ bản của WTO là tiến hành hoạt động rà
soát chính sách thương mại của các nước thành viên. Mục tiêu của công việc này
là nhằm đảm bảo các thành viên tuân thủ đầy đủ các quy định, luật lệ và các cam
kết của các hiệp định thương mại đa phương, tạo được sự minh bạch hơn nữa trong
các chính sách và hành vi thương mại của các nước thành viên.
Cơ quan Rà soát
chính sách thương mại (TPRB) là cơ quan tiến hành các cuộc rà soát.
Việc rà soát chính
sách thương mại được tiến hành định kỳ. Yếu tố quyết định mức độ thường xuyên
của việc phải rà soát chính sách thương mại của mỗi nước chính là ảnh hưởng của
nước đó đối với hệ thống thương mại đa phương, được tính bằng thị phần của họ
trên thương mại thế giới trong một giai đoạn cơ sở. Bốn nền kinh tế hàng đầu
thế giới là Hoa Kỳ, Nhật, EU và Canada phải tiến hành rà soát 2 năm một lần, 16
nước tiếp theo đó sẽ tiến hành rà soát 4 năm 1 lần, các nước còn lại rà soát 6
năm một lần, trừ các nước chậm phát triển nhất được chậm rà soát hơn nữa.
Đối tượng của các
cuộc rà soát là chính sách và hành vi thương mại của các nước thành viên.
TPRB sẽ tiến hành
việc rà soát dựa trên 2 tài liệu cơ bản sau đây:
- Báo cáo chính thức của nước được rà soát;
- Báo cáo do Ban Thư ký soạn thảo dựa trên những thông tin có được
và những thông tin do các thành viên có liên quan cung cấp.
Báo cáo do nước
được rà soát thực hiện phải mô tả đầy đủ những chính sách và tập quán thương
mại nước mình áp dụng, dựa trên một mẫu do TPRB đưa ra. Ban Thư ký cũng sẵn
sàng trợ giúp kỹ thuật cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước
chậm phát triển trong quá trình thực hiện báo cáo này. Giữa các kỳ rà soát, nếu
có thay đổi lớn trong chính sách thương mại, các nước sẽ đưa ra báo cáo vắn tắt
.
Hai báo cáo này,
cùng với biên bản các cuộc họp rà soát sẽ được đưa ra nhanh chóng sau cuộc rà
soát. Những báo cáo này sẽ được trình lên Hội nghị Bộ trưởng.
Cơ quan TPRB sẽ
tiến hành đánh giá hoạt động của Cơ chế Rà soát Chính sách Thương mại trong
vòng 5 năm sau khi Hiệp định thành lập WTO có hiệu lực, hoặc vào những thời
điểm khác nếu Hội nghị Bộ trưởng yêu cầu.
Hàng năm, TPRB cho
ra một Báo cáo tổng quát về những tiến triển trong môi trường thương mại quốc
tế. Báo cáo này đi kèm với báo cáo hàng năm của Tổng Giám đốc trình bày những
hoạt động chính của WTO và nêu bật những vấn đề chính sách lớn có ảnh hưởng đến
hệ thống thương mại.
IV. Tiến trình Việt Nam gia nhập WTO
1. Thủ tục đàm phán gia nhập WTO
Tiến trình đàm
phán:
Các cuộc đàm phán
gia nhập sẽ được tiến hành theo hai giai đoạn:
- Giai đoạn 1: làm rõ chính sách, cơ chế chính sách thương
mại hiện hành. Giai đoạn này thường diễn ra với 2-4 phiên họp đầu tiên của Ban
công tác. (Ban Công tác bao gồm các thành viên WTO có quan tâm đến thị trường
của nước xin gia nhập).
Nội dung chính của các phiên họp đầu tiên
này là minh bạch chính sách ngoại thương của nước xin gia nhập, cung cấp thông
tin về phương hướng phát triển các chính sách đó. Việc minh bạch hoá được thực
hiện trên cơ sở Bị vong lục về Chế độ Ngoại thương và trả lời các câu hỏi của
các nước thành viên xung quanh bản Bị vong lục này.
- Giai đoạn 2: đàm phán mở cửa thị trường, với những
trao đổi ưu đãi thương mại. Nhìn chung, để được hưởng thành quả của 50 năm đàm
phán và ưu đãi trong nội bộ WTO, nước xin gia nhập sẽ phải đưa ra ưu đãi một
chiều và mức độ ưu đãi phụ thuộc nhiều vào khả năng chứng minh chính sách của
quốc gia đó sẽ đáp ứng được các mục tiêu đã đề ra tại phần mở đầu của Hiệp định
GATT.
Phương thức đàm
phán:
Đàm phán gia nhập
WTO được tiến hành theo hai phương thức song song với nhau và bổ sung cho nhau:
đàm phán đa phương tại trụ sở Ban Thư ký WTO và đàm phán song phương tại Trụ sở
WTO hoặc tại thủ đô nước xin gia nhập (hoặc nước yêu cầu đàm phán).
Đàm phán đa phương
được thực hiện tại các phiên họp của Ban công tác về việc gia nhập WTO. Trong
khuôn khổ đàm phán đa phương, các nước khẳng định quan điểm của mình, đàm phán
các cam kết có giá trị áp dụng chung và tổng kết các thành quả của các cuộc đàm
phán song phương. Đàm phán đa phương thường ngắn, chỉ mang tính chất chính thức
hoá những cam kết song phương. Đàm phán song phương mới thực sự gay go quyết
liệt.
Đàm phán song
phương được tiến hành trước hoặc ngay sau các phiên họp đa phương. Nước xin gia
nhập chỉ được kết nạp sau khi đã đạt được thoả thuận tại tất cả các cuộc đàm
phán song phương.
2. Tiến trình đàm phán gia nhập của Việt Nam
Tháng 6/1994, Việt Nam được
công nhận là quan sát viên của GATT.
Ngày 4/1/1995 , ngày đầu mở cửa, WTO
tiếp nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam .
Ngày 30/1/1995 , Ban công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam được
thành lập.
Ngày 26/8/1996 , Việt Nam nộp bản Bị vong lục về Chế độ Ngoại thương. Bản Bị vong lục được
trình bày theo mẫu chung do Ban Thư ký WTO hướng dẫn.
Đến nay, Ban Công
tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam đã
tiến hành 3 phiên họp:
Phiên I: ngày
27-28/7/1998
Phiên II: ngày 3/12/1998
Phiên III: ngày 22/7/1999
Trong 3 phiên họp
này, đoàn Việt Nam đã thực hiện việc minh bạch hoá một cách tổng thể, toàn diện
và sâu sắc thực trạng hệ thống và diễn biến chính sách thương mại của Việt Nam
về hàng hoá, dịch vụ, sở hữu trí tuệ. Việt Nam cũng
đã đưa ra chương trình thể chế hoá pháp luật.
Tính đến tháng
2/2000, Việt Nam đã nhận được 1.376 câu hỏi và đã trả lời 1.216 câu hỏi. Các câu trả
lời của Việt Nam được đánh giá là nghiêm túc, có chất lượng cao. Hiện nay, các Bộ
Ngành đang tích cực hoàn chỉnh các câu còn lại.
Chúng ta cũng đã tiến
hành xây dựng một số tài liệu quy định của WTO như:
- Bảng hiện trạng
về hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản (theo mẫu biểu
WT/ACC/4);
- Bảng doanh nghiệp
thương mại nhà nước (theo mẫu biểu G/STR/N/4);
- Bảng trợ cấp công
nghiệp (theo mẫu biểuG/SCM/N).
Với tư cách quan sát viên, Việt Nam tham
gia các Hội nghị Bộ trưởng WTO.
Hiện nay, Việt Nam đang
tích cực chuẩn bị cho các phiên đàm phán
sắp tới. Theo Ban Thư ký WTO, đã đến lúc Việt Nam, bên cạnh việc tiếp
tục minh bạch hoá chính sách, đưa ra các bản chào mở cửa thị trường của mình,
đặc biệt là các bản chào về thương mại hàng hoá mà nội dung chủ yếu là thuế và
phi thuế.
Việt Nam cũng đang
tích cực chuẩn bị cho đàm phán song phương với một số thành viên WTO có quan
tâm, trước mắt có thể là với EU, Thuỵ Sĩ, Hoa Kỳ, Argentina, Hàn Quốc,
Australia...
·
·
3. Giải pháp trong tiến trình đàm phán gia nhập WTO
Một trong những giải pháp cơ bản mà Việt Nam cần
thực hiện để xúc tiến tiến trình gia nhập WTO là nâng cao tính chủ động thông
qua các biện pháp cơ cấu lại nền kinh tế, hệ thống lại hành lang pháp lý, điều
chỉnh môi trường kinh doanh, đào tạo cán bộ. Vừa qua, Quốc hội đã thông qua
Luật Thương mại, Luật Đầu tư sửa đổi, Luật thuế trị giá gia tăng và nhiều luật
khác... Đó là những bước đi chủ động trong tiến trình này.
Các doanh nghiệp là
những người sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quá trình gia nhập WTO. Do vậy, chúng
ta cần tăng cường công tác chuẩn bị cho doanh nghiệp để có thể đánh giá đúng những cơ hội và thách thức nhằm
có chương trình thích ứng và tận dụng những cơ hội có được.
Đàm phán gia nhập
có rất nhiều khó khăn. Vấn đề cơ bản là chúng ta phải chuẩn bị và tiến hành
thích ứng từng bước với các quy định và nghĩa vụ của WTO dựa trên cơ sở nhu cầu
phát triển kinh tế đất nước hiện nay cũng như trong tương lai trung và dài hạn.
Công tác đào tạo
đội ngũ cán bộ, cải tiến cơ chế phối hợp giữa nhiều ngành cũng cần được chú
trọng thích đáng.
Hội nhập kinh tế
quốc tế là quá trình toàn diện và phức tạp. Kinh nghiệm cho thấy Việt Nam cần
kết hợp đàm phán WTO với các diễn đàn đàm phán khác trong một tổng thể của công
cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế để đạt được hiệu quả cao nhất.
Phụ lục 1
Chi
tiết về chế Độ đãi ngộ tối huệ quốc
(Most
- Favoured Nation - MFN)
Nguyên tắc MFN yêu cầu một nước thành viên phải áp dụng thuế quan và
các quy định khác đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên khác nhau
(hoặc hàng hoá xuất khẩu tới các nước thành viên khác nhau) một cách bình đẳng,
không phân biệt đối xử.
Các lĩnh vực cho hưởng Đãi ngộ Tối huệ quốc
1.
Thuế quan và khoản thu thuộc bất kỳ loại nào nhằm vào hay có liên hệ tới
nhập khẩu và xuất khẩu hoặc đánh vào các khoản chuyển khoản để thành toán hàng
nhập xuất, nhập khẩu (I.1-điều I mục 1- Hiệp định GATT). Hàng nhập
khẩu từ nước thành viên bất kỳ không phải chịu thuế và/hoặc khoản thu nêu trên
cao hơn hàng nhập từ một nước thành viên khác
2.
Phương thức đánh thuế và thu các khoản nêu trên (I.1). Không được
đánh thuế cụ thể với hàng từ một xuất xứ song lại đánh thuế phần trăm với hàng
nhập từ xuất xứ khác,. hoặc thu thuế hay các khoản thu trên bằng ngoại tệ với
hàng nhập từ xuất xứ này nhưng với hàng đó nhập từ xuất xứ khác thu bằng nội
tệ...
3.
Luật lệ và các thủ tục liên quan tới xuất nhập khẩu (I.1). Không áp
dụng những thủ tục khác (ví dụ yêu cầu chứng từ bổ sung với một loại hàng) mang
tính chất phân biệt đối xử giữa hàng có xuất xứ từ các nước thành viên khác
nhau.
4.
Thuế nội địa và mọi khoản thu nội địa thuộc bất cứ loại nào (I.1). Không
thu phân biệt giữa hàng thuộc các xuất xứ khác nhau...
5.
Mọi luật (quốc gia hay địa phương), quy tắc, quy định có tác động
đến bán hàng, chào bán, mua, vận tải,
phân phối hay sử dụng hàng trên thị trường nội địa (I.1) (ví dụ quy định về
nhãn hàng, bao bì, đóng gói, hạn chế về vận chuyển hay kênh tiêu thụ, hay bất
kỳ một biện pháp áp dụng riêng nào khác)... phải được áp dụng không mang tính
phân biệt đối xử giữa hàng thuộc các xuất xứ khác nhau.
6.
Các quy tắc định lượng nội địa điều chỉnh việc pha trộn, chế biến hay sử
dụng tính theo khối lượng hay tỷ lệ(III.7). Ví dụ: quy định bắt buộc hay
khuyến khích dùng một định lượng tối thiểu hàng nhập phải được áp dụng không
mang tính phân biệt đối xử với hàng thuộc các xuất xứ khác nhau...
7.
Thời gian trình chiếu phim điện ảnh (VI.b)
8. Đãi ngộ với hàng hoá quá cảnh (V.2 và
V.6).
9.
Các yêu cầu áp dụng với nhãn xuất xứ hàng hoá (IX.1) ...
10. áp dụng các hạn chế số lượng (XIII.1).
11.
Hoạt động mua bán trong kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp
thương mại Nhà nước (XVII.1). (Doanh nghiệp thương mại Nhà nước là những
doanh nghiệp được dành riêng một độc quyền hay một đặc quyền trong kinh doanh
theo định nghĩa của WTO không đồng nghĩa với doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước
không chịu sự điều chỉnh của WTO).
Những
ngoại lệ của Đãi ngộ Tối huệ quốc
1. Các ưu đãi khu vực (I.2 -> 4)
2. Điều khoản cho phép đãi ngộ đặc biệt và
khác biệt dành cho các nước đang phát triển (quyết định của Các Bên Ký Kết- chữ
Các Bên Ký Kết khi được viết hoa tất cả như vậy có nghĩa là hành động tập thể
của tất cả các bên ký kết).
3. Mua sắm của Chính phủ (XVII.2)
4. Nhất thể hoá khu vực dưới hình thức
liên minh thuế quan và khu vực mậu dịch tự do (XXIV. 4 ->10)
5.
Mậu dịch biên giới (XXIV.3)
6. Các ngoại lệ chung mang (XX)
7. Ngoại lệ vì lý do an ninh (XXI)
8. Miễn trách không phải thi hành một
nghĩa vụ của GATT
9. Thuế chống
bán phá giá và thuế đối kháng (VI)
Phụ lục 2
Phụ lục 2
chế độ đãi ngộ quốc gia (National Treatment - NT)
Nguyên tắc NT yêu cầu một nước phải đối xử bình đẳng và công bằng
giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản xuất trong nước. Nguyên tắc
này quy định rằng, bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới
(đã trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu) sẽ được hưởng sự
đối xử không kém ưu đãi hơn sản phẩm tương tự sản xuất trong nước
Các lĩnh vực cho hưởng Đãi ngộ Quốc gia
1. Các khoản thuế và
khoản thu nội địa thuộc bất cứ loại nào;
2. Luật, quy tắc hay yêu
cầu tác động tới bán hàng, chào bán, mua hàng, vận tải, phân phối hay sử dụng
sản phẩm trong nội địa (III.4);
3. Những quy tắc định
lượng trong nước yêu cầu có pha trộn, chế biến hay sử dụng sản phẩm tính theo
khối lượng hay theo tỷ lệ(III.5).
Những ngoại lệ của Đãi ngộ Quốc gia
1. Mua sắm của Chính phủ
(III.8). Tuy nhiên nếu một nước tham gia Hiệp định về mua sắm của Chính phủ thì
đây không còn là ngoại lệ nữa;
2. Thanh toán các khoản
trợ cấp chỉ dành riêng cho các nhà sản xuất trong nước (III.8.b);
3. Hạn ngạch về thời gian trình chiếu phim điện
ảnh (III.10 và IV).
Phụ lục 3
những biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại
(TRIMs)
*
Hiệp định TRIMS chỉ áp dụng trong thương mại hàng hoá.
*
Trong 13 biện pháp các nước đang phát triển thường áp dụng, được liệt kê dưới
đây thì 5 biện pháp đầu (từ 1-5) bị coi là vi phạm nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia
và Hạn chế về định lượng nên bị cấm áp dụng.
1. Yêu
cầu về hàm lượng nội địa (Local Content Requirements - LCRs). Đòi hỏi phải sử dụng một tỷ lệ nhất
định nguyên liệu trong nước làm đầu vào của sản xuất.
2. Yêu
cầu cân đối thương mại (Trade Balance Requirements). Ràng buộc nhập khẩu phải tương ứng với
một tỷ lệ xuất khẩu nhất định.
3. Yêu
cầu cân đối ngoại tệ. Quy định ngoại tệ có thể sử dụng để nhập khẩu chỉ chiếm một tỷ lệ
nhất định trong tổng ngoại tệ doanh nghiệp thu được từ xuất khẩu hoặc từ các
nguồn khác.
4. Hạn
chế hối đoái. Hạn chế tiếp cận ngoại hối và do
đó hạn chế nhập khẩu.
5. Yêu
cầu tiêu thụ nội địa. Buộc công ty bán tỷ lệ
nhất định thành phẩm trên thị trường nội địa mà thực chất là hạn chế xuất khẩu.
6. Yêu
cầu về chế tác.
Đòi hỏi những sản phẩm nhất định phải được sản xuất tại nước tiếp nhận đầu tư.
7. Quy
định về xuất khẩu (EPRs). Quy định một tỷ lệ
sản phẩm nhất định phải xuất khẩu.
8. Yêu
cầu về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Buộc nhà
đầu tư cung cấp cho một thị trường xác định một hoặc những sản phẩm theo chỉ
định hoặc được sản xuất từ các thiết bị hay quy trình đã được quy định.
9. Hạn
chế về chế tác. Không cho phép sản xuất những
sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm nhất định tại nước tiếp nhận đầu tư.
10. Yêu cầu về chuyển giao công
nghệ. Quy định các công nghệ nhất định phải
được chuyển giao theo các điều kiện phi thương mại và/hoặc dạng cũng như mức độ
của các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R & D) phải được thực hiện tại
nước chủ nhà.
11. Quy định về chuyển giao bản
quyền. Buộc nhà đầu tư chuyển bản quyền các
công nghệ của họ cho nước chủ nhà.
12. Hạn chế chuyển vốn. Hạn chế quyền của nhà đầu tư được chuyển tiền thu được từ hoạt
động đầu tư về nước.
13. Yêu cầu về nắm giữ cổ phiếu. Quy định một tỷ lệ nhất định cổ phần
của liên doanh phải do các nhà đầu tư trong nước nắm giữ.
Phụ lục 4
Một số điều khoản khác trong khuôn khổ hiệp định GATS
Một số điều khoản còn lại trong khuôn khổ Hiệp định GATS có thể được
chia ra làm hai nhóm chính.
A. Các điều khoản về tiếp tục đàm phán
Khuôn khổ Hiệp định này cho phép các nước thành viên tiếp tục tiến
hành đàm phán để phát triển các quy tắc điều chỉnh việc sử dụng trợ cấp và việc
áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại dịch vụ.
B. Các điều khoản về miễn trừ
Miễn trừ Tối huệ quốc. Miễn trừ này cho
phép các nước được phép duy trì cách đối xử ưu đãi hơn mức cam kết trong GATS
đối với một số nước theo các thoả thuận hợp tác khu vực hay các thoả thuận
khác.
Hội nhập kinh tế. Hiệp định này cho phép
các nước tham gia vào các thoả thuận tự do hoá thương mại với một số ít nước,
với điều kiện là những lĩnh vực dịch vụ cơ bản phải được cam kết trong đó và
phải tuân thủ một số điều kiện khác.
Hạn chế cán cân thanh toán. Các nước
thành viên được phép áp đặt các hạn chế về chuyển khoản trong cán cân thanh
toán, thậm chí cả ở trong các lĩnh vực mà họ đã đưa ra các cam kết cụ thể, khi
cán cân thanh toán của các nước này gặp khó khăn.
Hội nhập vào thị trường lao động. Hiệp
định này không ngăn cản các nước thành viên tham gia vào một thoả thuận với một
nước khác về hội nhập hoàn toàn thị trường lao động giữa các nước này bằng cách
miễn cho công dân của nhau những yêu cầu cấp phép lao động.
Ngoại lệ chung và ngoại lệ liên quan đến an ninh. Cũng giống như với thương mại hàng hoá, Hiệp định GATS không ngăn
cản các nước áp dụng các biện pháp mà họ cho là cần thiết để bảo về các đạo đức
xã hội, đời sống con người, động, thực vật; hay các quyền lợi an ninh cốt yếu
của mình.
Phụ lục 5
quyền sở hữu trí tuệ
Các hình thức của QUyền sở hữu trí tuệ
|
Đối tượng
|
Phạm vi áp dụng
|
Các thoả thuận quốc tế chính
|
|
Sở hữu công nghiệp
|
Bằng sáng chế
|
Các phát minh mới trong lĩnh vực công
nghiệp
|
Lĩnh vực chế tạo
|
Công ước
|
Thiết kế hữu ích
|
Thiết kế vận hành
|
Lĩnh vực chế tạo
|
Công ước
|
|
Kiểu dáng công nghiệp
|
Kiểu dáng bên ngoài của sản phẩm
|
Quần áo, ô tô, thiết bị điện tử...
|
Hiệp định Hague, Công ước
|
|
Nhãn hiệu hàng hoá
|
Tên hoặc biểu tượng để phân biệt hàng hoá
và dịch vụ của một doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác
|
Các ngành
|
Công ước
|
|
Chỉ dẫn địa lý
|
Chỉ rõ xuất xứ của hàng hoá, qua đó thể
hiện chất lượng hoặc các đặc điểm khác đặc trưng cho khu vực
|
Công nghiệp chế biến nông sản và thực
phẩm, đặc biệt là rượu vang và rượu mạnh
|
Hiệp định
|
|
Sở hữu văn học và nghệ thuật
|
Bản quyền và các quyền liên quan
|
Nguyên tác của tác giả và các đóng góp
liên quan của người thể hiện, nhà sản xuất băng đĩa, và tổ chức truyền thông.
|
ấn phẩm, sản phẩm giải trí, (nghe, nhìn,
phim), phần mềm, chương trình truyền thông
|
Công ước Berne(**), Công ước
|
Bảo vệ các giống
đặc thù
|
Quyền của người gây giống
|
Các loài mới, ổn định, thuần nhất, đặc
biệt
|
Nông nghiệp và thực phẩm
|
Liên minh bảo vệ các giống cây trồng mới
(UPOV)
|
Vi mạch
|
Thiết kế gốc
|
Công nghiệp vi điện tử
|
Hiệp ước
|
|
Bí mật thương mại
|
Bí mật thông tin thương mại
|
Các ngành sản xuất
|
_____________________________________
(*)
Công ước Paris 1883, có tên gọi đầy đủ là Công ước về Bảo
hộ Quyền Sở hữu công nghiệp. Việt Nam đã tham gia Công ước này từ tháng 3 năm
1949.
(**) Công
ước về bảo hộ các tác phẩm văn hoá văn nghệ còn gọi tắt là Công ước Bern-1886.
Nội dung chủ yếu cũng là dành đãi ngộ quốc gia và quy định tiêu chuẩn bảo hộ
tối thiểu với những điều kiện dành riêng cho các nước đang phát triển.
(***) Công ước quốc tế về bảo hộ những người
trình diễn, người sản xuất các chương trình âm thanh và các tổ chức phát sóng,
gọi tắt là Công ước Rome 1961. Nội dung chính của Công ước là chế độ đãi ngộ
quốc gia và bảo hộ tối thiểu.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen