Bắt đầu từ cuối tháng 8/1969, cùng với nhiều tờ báo lớn ở Mỹ, hàng loạt các tờ báo xuất bản tại Sài Gòn đã cho đăng tải trên trang nhất loạt bài dài với những hàng tít đậm nét: "Phát hiện một điệp viên nhị trùng của Hà Nội ngay trong cơ quan CIA ở Việt Nam?", "Thái Khắc Chuyên, điệp viên nhị trùng hay tam trùng?", "Ai giết Thái Khắc Chuyên?"…
Nhưng phải đến 35 năm sau - năm 2014 - hồ sơ sự thật về vụ xử tử "điệp viên Thái Khắc Chuyên" mới được bạch hóa và một lần nữa, đã minh chứng cho tội ác lẫn sự thất bại của CIA trong cuộc chiến Việt Nam…
ĐIỆP VIÊN NHỊ TRÙNG HAY TAM TRÙNG?
1. Sinh năm 1938 tại miền Bắc Việt Nam, Thái Khắc Chuyên là con ông Thái Khắc Qui và bà Thái Thị Lục. Năm 1954, từ Hải Phòng, gia đình Chuyên theo tàu Mirabelle di cư vào Nam. Do thương nhớ ba đứa con trai và hai đứa con gái còn ở lại miền Bắc nên bà Lục quay về Bắc.
Vào Sài Gòn một thời gian ngắn, gia đình Chuyên lên Đà Lạt sinh sống theo chính sách "khu dinh điền, khu trù mật" của Ngô Đình Diệm. Thái Khắc Chuyên - lúc ấy 17 tuổi - phụ bán thuốc Tây cho một người anh trai. Được gần nửa năm, Chuyên về Sài Gòn đi học tiếp.
Giỏi tiếng Anh, nói tiếng "lóng" thành thạo như người Mỹ nhưng thi tú tài hai lần đều rớt, Chuyên trở lại Đà Lạt. Khi người Mỹ ra mặt công khai ủng hộ chính phủ Ngô Đình Diệm, Thái Khắc Chuyên xin được việc làm trong Hãng thầu RMK-BRJ - là hãng thầu của Mỹ đến Việt Nam để thi công xây dựng sân bay, đường sá, cầu cống, nhà cửa cho cố vấn Mỹ và các doanh trại, đồn bốt cho quân đội Sài Gòn bằng tiền viện trợ.
Tháng 5/1961, Tổng thống Kennedy ra lệnh gửi 400 lính biệt kích Mũ nồi xanh (Green Berets) sang Việt Nam nhằm đối phó với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam vừa ra đời. Trong số 400 biệt kích Mũ nồi xanh ấy, có một đơn vị tình báo mang tên B57, bí danh Project Gamma.
Biết Mũ nồi xanh cần tuyển thông dịch viên, Chuyên bỏ Hãng thầu RMK-BRJ để đầu quân vào đơn vị này. Sau gần 7 năm hoạt động ở Mộc Hóa, Cần Thơ, Tây Ninh, Campuchia, địa điểm cuối cùng mà Chuyên được điều động đến là một căn cứ của Mũ nồi xanh, đóng tại thung lũng Ashau, Huế.
Nhưng chỉ hơn một tháng, nhân lúc trực thăng đáp xuống căn cứ Ashau để chuyển hàng tiếp liệu, Thái Khắc Chuyên lấy cớ bị ốm, xin ra Huế điều trị rồi đi thẳng về Tây Ninh. Ba hôm sau, căn cứ Ashau bị Quân Giải phóng tràn ngập.
Phù hiệu của Đơn vị Tình báo B57. |
Sự trùng hợp này và nhiều sự kiện tương tự xảy ra sau đó khiến Bộ chỉ huy Mũ nồi xanh nghi Chuyên là gián điệp của Hà Nội. Họ đặt câu hỏi: "Tại sao một người giỏi Anh ngữ như Chuyên lại không ở Sài Gòn, nơi có thể dễ dàng tìm việc, lương cao như dạy học hoặc đi làm cho các sở Mỹ mà lại chọn những nơi nguy hiểm, lương thấp như căn cứ Ashau?".
Thời điểm ấy, lực lượng Mũ nồi xanh ở miền Nam Việt Nam chia thành nhiều tổ, đóng quân tại một số nơi như Mộc Hóa, Đà Nẵng, Tây Ninh, Cần Thơ, Pleiku. Riêng căn cứ của đơn vị tình báo B57 đặt tại Nha Trang, do CIA trực tiếp chỉ huy.
Theo sự phân công, Thái Khắc Chuyên làm phiên dịch viên cho tổ A 414, tổ trưởng là trung sĩ Alvin Smith, bí danh "Sands". Trong hồi ký, Sands không giấu giếm sự mến mộ của mình với Thái Khắc Chuyên: "Anh ta là người thẳng thắn. Khi nói chuyện, anh ta thường nhìn thẳng vào mắt người đối diện và sẵn sàng tranh luận cho đến khi vấn đề ngã ngũ…".
Chính vì thế, Sands đã nhiệt tình giới thiệu Thái Khắc Chuyên cho người phụ trách CIA ở miền Nam Việt Nam. Được CIA tuyển dụng với bí số SF7-166 rồi được giao nhiệm vụ thâm nhập vùng Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt bên đất Campuchia để thu thập tin tình báo, cũng như tuyển chọn điệp viên người bản xứ nhưng hầu hết những báo cáo của Thái Khắc Chuyên đều bị đại úy Bob Marasco - một trong những chỉ huy đơn vị tình báo B57 chê là thiếu độ tin cậy.
Vẫn theo hồi ký của Sands, Thái Khắc Chuyên bị Bob đưa sang cơ quan "Dân sự vụ - Civil Affairs", là nơi lo về các hoạt động tâm lý chiến bằng những hình thức như giúp dân xây dựng nhà cửa, khám chữa bệnh, dạy học, dạy nghề miễn phí, còn trung sĩ Sands thì bị Bob gọi về Bộ chỉ huy B57 ở Nha Trang...
2. Tháng 3/1969, tại Nha Trang, khi sàng lọc các tài liệu, Sands phát hiện một tấm ảnh đen trắng do một nhóm biệt kích Mũ nồi xanh thu được. Trong tấm ảnh này là một chiến sĩ Quân Giải phóng với bộ quần áo bà ba đen, đội nón tai bèo, đứng cạnh một người mặc quân phục có vẻ như một sĩ quan Bắc Việt.
Khuôn mặt viên sĩ quan ấy lại rất giống Thái Khắc Chuyên (sau này trong hồi ký, Sands viết: "Khả năng nhận diện người châu Á, nhất là về tuổi tác của các bộ phận kỹ thuật Mỹ thường không chính xác. Viên sĩ quan trong ảnh có hàm răng hơi hô còn Chuyên thì không").
Tuy nhiên lúc ấy, Sands vẫn chuyển tấm ảnh cho Budge Williams - là chuyên viên phân tích của B57 nhưng Budge cũng không dám chắc. Đối chiếu với ảnh của Chuyên trong đơn xin việc thì chẳng ai khẳng định đúng sai, còn hồ sơ lý lịch của Chuyên lại không hề có ghi chú gì về tất cả các công tác tình báo đã làm từ ngày gia nhập B57.
Chỉ huy trưởng B57 là Bob Thrasher phân tích rằng lỗ tai của sĩ quan trong hình không giống tai Chuyên nhưng biết đâu khi chụp ảnh, bóng đen của chiếc mũ đã tạo nên sai biệt!
Tấm hình của Thái Khắc Chuyên được B57 đặt vào vị trí của người sĩ quan bộ đội đứng cạnh một chiến sĩ Quân Giải phóng để đối chiếu. |
Trước khi mãn nhiệm kỳ phục vụ ở Việt Nam về Mỹ, Thrasher đề nghị cần làm rõ thêm về Thái Khắc Chuyên. Người thay thế Thrasher là Lee Brumley. Ngày 9/6/1969, Brumley tiến hành mở cuộc điều tra về lai lịch Thái Khắc Chuyên.
Brumley nghi Chuyên vừa là điệp viên của Hà Nội, vừa là điệp viên của Mỹ và của cả Việt Nam Cộng hòa (điệp viên tam trùng) vì các cơ sở nằm vùng người Việt ở Tây Ninh và Campuchia khi gửi tin về B57 đã cho biết có một điệp viên cộng sản hoạt động ngay trong lòng Sài Gòn nhưng họ không biết tên tuổi, hình dạng, chỉ biết vợ điệp viên ấy sống ở Tây Ninh.
Xâu chuỗi mọi sự kiện lại, Brumley nhận ra rằng Thái Khắc Chuyên đang ở thung lũng Ashau nhưng lại cáo bệnh để về Tây Ninh. Chuyên có ba anh trai và hai chị em gái còn ở ngoài miền Bắc. Hơn nữa, trong một cuộc hành quân mà Chuyên được B57 báo cho biết trước, một toán trinh sát Mũ nồi xanh đã bị Quân giải phóng phục kích, tiêu diệt gọn.
Lập tức, Brumley gửi điện văn về Sài Gòn, yêu cầu văn phòng CIA đặt trên lầu 2 tòa Đại sứ Mỹ gửi gấp chi tiết lý lịch mới nhất của Thái Khắc Chuyên cho B57 Nha Trang. Bản chi tiết này phải do nhân viên CIA người Mỹ trực tiếp đánh máy và phải được gửi theo máy bay của Air America dưới dạng tối mật để tránh lộ ra ngoài (Air America là Hãng hàng không Mỹ, vỏ bọc của CIA trong các phi vụ gián điệp).
Nhận được bản lý lịch, trong đó suốt gần 7 năm làm tình báo mà ở mục thành tích công tác của Thái Khắc Chuyên vẫn trống trơn, Brumley cho người sang Cơ quan Dân sự vụ tìm Chuyên nhưng nơi đây trả lời rằng anh ta đã bỏ việc, đi đâu mất.
Tiến hành lùng kiếm, hai sĩ quan CIA là Enking và Scrymgeour phát hiện nơi ở của Chuyên cùng vợ con tại căn nhà số 53/1/46 đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ), Sài Gòn.
Theo dự định, khi tìm được Thái Khắc Chuyên, CIA sẽ đưa Chuyên đi điều tra khai thác tại đảo Okinawa hoặc Panama - là hai nơi duy nhất ngoài nước Mỹ mà CIA có nhà tù. Nhưng hai nơi đó xa, di chuyển phức tạp vì không thể đưa một người Việt ra sân bay, lên máy bay mà không thông qua hải quan cũng như an ninh cửa khẩu, còn nhà tù của chính quyền Sài Gòn thì CIA lại không tin tưởng!
Để xác minh Thái Khắc Chuyên có phải là điệp viên do Hà Nội cài cắm hay không, một mặt Brumley yêu cầu B57 Nha Trang gửi gấp máy phát hiện nói dối vào Sài Gòn, mặt khác đến nhà làm như thăm hỏi rồi mời Chuyên tham gia một công việc nhẹ nhàng, lương cao, không nguy hiểm. Nếu Chuyên đồng ý, cuộc phỏng vấn sẽ được tiến hành vào lúc 10h ngày 12/6/1969.
Thái Khắc Chuyên được lính mũ nồi xanh hộ tống đến biên giới để xâm nhập Campuchia. |
Đúng 10h sáng ngày 12/6/1969, Thái Khắc Chuyên ăn mặc chỉnh tề, đến điểm hẹn gặp Sands và Ed Boyle, chuyên gia thẩm vấn của B57. Để chắc ăn, B57 phải dùng thông ngôn của đơn vị tên Tạ Xuân Cường, bí danh Joel vì đã hết tin Chuyên.
Trong cuộc thẩm vấn - chứ không phải phỏng vấn việc làm như Chuyên lầm tưởng - Chuyên khai đã bỏ Ashau và các nơi khác như núi Cô Tô, Cần Thơ, Mộc Hóa vì sợ chết!
Sau một ngày thẩm vấn, 7 giờ tối Chuyên xin về nghỉ vì mệt mỏi. Trên xe, Chuyên than phiền với Sands và Tạ Xuân Cường rằng những câu hỏi đặt ra với anh ta mang tính nghi kị và thù nghịch. Hơn nữa, hệ thống dây nhợ lòng thòng của máy phát hiện nói dối đã khiến Chuyên cảm thấy mình như một tội phạm.
8 giờ tối, Thái Khắc Chuyên được đưa trở lại nơi thẩm vấn. Lần này, Ed Boyle nhập đề trắng trợn: "Anh có làm gián điệp cho Hà Nội không?". Suốt 2 tiếng đồng hồ sau đó, Thái Khắc Chuyên vẫn một mực khẳng định là không, nhưng Chuyên lại không lý giải được những bất minh về thời gian đi lại, làm việc của mình.
Khi đưa Chuyên xem một báo cáo của trung sĩ Mũ nồi xanh McIntosh, trong đó có đoạn: "Ngày 19/2/1968, Chuyên và tôi cùng 10 người lính Việt Nam Cộng hòa tiến hành phục kích một toán Việt Cộng theo tin tình báo của B57.
Đến gần sáng, phát hiện Việt Cộng di chuyển về phía Mộc Hóa, tôi lập tức vỗ nhẹ vào vai Chuyên để Chuyên ra lệnh cho binh sĩ khai hỏa. Khi súng nổ, tôi thấy luồng đạn lại được bắn về một hướng khác, còn Chuyên thì mỉm cười. Lúc đó, tôi hơi lạ…", Boyle hỏi Chuyên nghĩ thế nào về những lời tường thuật này nhưng Chuyên vẫn nói mình không liên quan.
Gần 12 giờ khuya, Chuyên được hai người lính dân tộc Nùng đưa về nhà. Và đó cũng là đêm cuối cùng Chuyên nhìn thấy mặt vợ con.
3. Sáng hôm sau, cuộc thẩm vấn tiếp tục. Máy phát hiện nói dối báo kết quả là Chuyên khai không đúng sự thật. Sự nghi ngờ của Boyle càng lúc càng tăng. Ra lệnh cho phụ tá Cotton tìm bác sĩ của B57 là Allison, Boyle đề nghị tiêm vào tĩnh mạch Chuyên các loại thuốc Saline, Thorazine, Sodium Pentathol - là những loại thuốc hướng thần, đưa con người vào trạng thái lơ mơ nhưng tiềm thức vẫn có thể trả lời mọi câu hỏi - mà vẫn không kết quả.
Theo nhận định của Boyle, Thái Khắc Chuyên đã bị Hà Nội "tẩy não" (?!) nên các biện pháp khai thác Chuyên đều không moi được điều gì.
Cuối cùng, B57 quyết định đưa Thái Khắc Chuyên về trụ sở ở Nha Trang để điều tra tiếp. Chiều thứ Sáu, ngày 13/6/1969, Chuyên bị bịt mắt và bị bó chặt trong một tấm "poncho" - là một tấm vải tráng nhựa, vừa có thể dùng làm áo mưa hoặc làm lều, hoặc để gói xác chết rồi được đưa ra sân bay Tân Sơn Nhất với ba lính Mũ nồi xanh mang theo tiểu liên XM18. Họ lên kế hoạch sẵn sàng ứng chiến nếu bị hải quan hay an ninh sân bay khám xét và bắt giữ.
Tại Tân Sơn Nhất, một máy bay vận tải nhỏ không số hiệu của Air America đã chờ sẵn. Cũng vào thời điểm đó, một chiếc xe gắn máy lặng lẽ ghé nhà Thái Khắc Chuyên, đưa cho vợ Chuyên là Phan Kim Liên một mảnh giấy với dòng chữ viết ngắn gọn: "Em và các con thân yêu, anh phải vắng mặt vài ngày vì công vụ. Đừng lo lắng! Anh chúc cả nhà vui khỏe. Hôn em...".
Vợ Chuyên đọc lời nhắn "hôn em" lạ thường chưa từng có của chồng mà lo sợ ra mặt. Linh tính báo trước một điềm chẳng lành đang sắp sửa xảy đến…
Gửi một báo cáo cho chỉ huy trưởng Mũ nồi xanh ở Sài Gòn là đại tá Bob Rheault để xin chỉ thị, Brumley đề xuất nhiều cách giải quyết và nhấn mạnh rằng Thái Khắc Chuyên là một nhân vật rất nguy hiểm vì anh ta biết quá nhiều về nhân sự, các mục tiêu hoạt động cũng như hệ thống tổ chức mạng lưới tình báo Mỹ ở Việt Nam, Lào, Campuchia. Phụ tá của Brumley là Facey đề nghị giam Chuyên trong một côngtenơ cho đến khi chiến tranh kết thúc. Người khác nói nên đưa Chuyên vào rừng rồi thủ tiêu, hoặc cho lên máy bay, bay ra biển rồi đạp xuống, hoặc tiêm thuốc độc, hoặc thắt cổ rồi dàn dựng như một vụ tự tử...
1. Ra đến Nha Trang lúc 10 giờ đêm thì 4 giờ sáng hôm sau Thái Khắc Chuyên lại bị thẩm vấn, nội dung xoay quanh tấm ảnh chụp một chiến sĩ Quân Giải phóng đứng cạnh một sĩ quan có nét mặt giống Chuyên do Mũ nồi xanh thu được, về vợ của một điệp viên Cộng sản nào đó ở Mộc Hóa, về kế hoạch C&C (tình báo chiến lược thuộc Bộ Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ tại miền Nam Việt Nam - MACV), về một nhân vật có tên Thu Linh.
Khi Brumley mệt, Boyle tiếp tục thẩm vấn với sự giám sát y khoa tâm thần của bác sĩ Allison. Boyle xoay quanh thời kỳ Chuyên ở Vũng Tàu và một điệp viên tên Huỳnh. Đặc biệt hơn nữa, vụ phục kích ở Mộc Hóa lại được nhắc đến.
Căn cứ B57 ở Nha Trang. |
Theo trung sĩ McIntosh, trong cuộc phục kích ấy Chuyên không hề bắn một phát nào rồi sau đó giải thích rằng súng bị kẹt đạn, chưa kể một sĩ quan khác của Mũ nồi xanh là Mesa còn phát hiện máy truyền tin đã bị đổi tần số, dẫn đến việc nhóm phục kích không thể liên lạc được với không quân hay pháo binh. Theo Boyle, Thái Khắc Chuyên đã cố tình làm thế để bảo vệ đồng đội là Quân Giải phóng.
Bốn giờ chiều ngày 17/6, sau 6 ngày thẩm vấn liên tục với máy phát hiện nói dối và thuốc Sodium Pentathol, Chuyên nổi giận, bất hợp tác với điều tra viên rồi chửi rủa "bọn Mỹ chúng mày ngu ngốc, không hiểu gì về Việt Nam", và "chúng mày sẽ thua trận". Đây cũng là ngày thẩm vấn cuối cùng vì số phận của Chuyên đã được định đoạt!
Gửi một báo cáo cho chỉ huy trưởng Mũ nồi xanh ở Sài Gòn là đại tá Bob Rheault để xin chỉ thị, Brumley đề xuất nhiều cách giải quyết và nhấn mạnh rằng Thái Khắc Chuyên là một nhân vật rất nguy hiểm vì anh ta biết quá nhiều về nhân sự, các mục tiêu hoạt động cũng như hệ thống tổ chức mạng lưới tình báo Mỹ ở Việt Nam, Lào, Campuchia. Phụ tá của Brumley là Facey đề nghị giam Chuyên trong một côngtenơ cho đến khi chiến tranh kết thúc. Người khác nói nên đưa Chuyên vào rừng rồi thủ tiêu, hoặc cho lên máy bay, bay ra biển rồi đạp xuống, hoặc tiêm thuốc độc, hoặc thắt cổ rồi dàn dựng như một vụ tự tử...
Việc thủ tiêu Thái Khắc Chuyên càng cấp bách hơn khi Chuyên liên tục la hét, đập phá vách tường để mong có ai đó nghe thấy, giải cứu. Chỉ huy B57 là đại tá Bob Rheault chấp thuận việc giết Chuyên nhưng không công khai ra lệnh vì sợ rắc rối đến giấc mơ ngôi sao chuẩn tướng. CIA cũng vậy, họ cũng không dám ra lệnh do lo ngại hệ lụy về ngoại giao nếu chính quyền Sài Gòn phát giác nội vụ. Tuy nhiên, mọi người trong B57 đều ngầm hiểu rằng sự im lặng suốt 10 ngày của CIA kể từ khi Chuyên bị thẩm vấn đồng nghĩa với sự chấp thuận vì có bao giờ CIA nhận hoặc chối những gì họ làm, và có bao giờ họ làm điều gì một cách công khai minh bạch đâu!
Vậy là, coi như "đèn xanh" không "sáng" nhưng đã được "bật". 7 giờ tối thứ Năm, ngày 19/6, một nhóm sĩ quan B57 lên xe do Boyle cầm lái chở Thái Khắc Chuyên ra bờ biển Nha Trang. Ở đó đã có một chiếc ghe máy đợi sẵn. Chuyên bị đè sấp xuống, trói thúc ké, miệng bịt kín bằng băng keo, tiêm morphine rồi nhét vào poncho. Williams và Marasco khiêng Chuyên thả xuống lòng ghe. Khi morphine giảm tác dụng, Chuyên vật vã trong poncho thì morphine lại được bồi tiếp.
2. Ra khỏi bờ khá xa, Brumley bảo Williams gác đầu Chuyên lên thành ghe "để máu khỏi làm bẩn ghe" rồi rút khẩu Colt 45, lên đạn, kê vào màng tai Chuyên bóp cò nhưng súng không nổ. Thấy Brumley không bắn được, Marasco chĩa khẩu Beretta có gắn bộ phận hãm thanh vào đầu Chuyên nhưng lạ thay, súng lại bị kẹt đạn. Giật khẩu súng từ tay Marasco, Brumley kéo khóa nòng cho viên đạn văng ra rồi nhét một viên khác vào.
Đại tá Bob Rheault, người trực tiếp ra lệnh giết Thái Khắc Chuyên. |
Lần này, sau cú bóp cò của Marasco, một tiếng kêu tựa như tiếng vỏ xe xì lốp phát ra từ ống hãm thanh. Tại lỗ thủng trên tấm poncho, máu tươi chảy thành dòng. Williams kéo xác Chuyên vào giữa ghe, quấn quanh poncho nhiều vòng xích sắt cùng với hai chiếc mâm bánh xe tải, bảo đảm đủ nặng để xác Chuyên không thể nổi lên rồi hất xuống biển.
Mọi vật dụng cá nhân của Chuyên như bút máy, đồng hồ, thắt lưng, ví da…, Brumley giao cho một nhóm Mũ nồi xanh đang chuẩn bị xâm nhập địa bàn tỉnh Đồng Hới, bảo vứt lại ở đó. Chưa hết, Brumley còn ra lệnh cho trung sĩ Wayne Ishimato, người gốc Nhật đóng vai Chuyên đi Campuchia rồi gửi về những báo cáo giả, chứng minh rằng Thái Khắc Chuyên còn sống và vẫn đang công tác.
Thấy chồng không về, bà Phan Kim Liên - vợ Thái Khắc Chuyên cùng cô em dâu là Lâm Hoàng Oanh đến Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn xin gặp những người có trách nhiệm ở B57 nhưng Brumley tránh mặt. Không bỏ cuộc, bà Liên nhờ một số dân biểu Quốc hội Sài Gòn can thiệp với MACV. Qua đó, báo chí Sài Gòn mới biết được vụ mất tích bí ẩn của Thái Khắc Chuyên. Vài ngày sau, Lâm Hoàng Oanh được học bổng du học tại Đại học Columbia, Mỹ, lại càng làm cho B57 thêm lo lắng: Hà Nội gửi điệp viên vào tận đất Mỹ!
Về phía trung sĩ Sands - người đã giới thiệu Thái Khắc Chuyên với CIA và cũng là người trực tiếp chứng kiến vụ thẩm vấn Chuyên, sợ rằng mình sẽ là nhân vật kế tiếp bị thủ tiêu để giữ bí mật vì Sands không tán thành việc giết Chuyên. Sands sợ đến độ không dám ngủ tại phòng của mình mà lặng lẽ lấy một tấm nệm, mỗi đêm ngủ một nơi khác nhau, súng ngắn lúc nào cũng để ngay trên đầu, phòng khi lỡ có việc gì thì tự sát chứ không để bị bắn như Thái Khắc Chuyên.
Vụ giết Thái Khắc Chuyên đến tai tướng Abrams, Tư lệnh MACV. Theo luật của quân đội Mỹ, không ai có quyền đơn phương xử tử nghi can nên tướng George Marbry, phụ tá tình báo thừa lệnh Abrams ra quyết định bắt giam những nhân vật chủ chốt và những người liên quan đến vụ Thái Khắc Chuyên, gồm Brumley, Boyle, Marasco, Williams, Middleton, Crew, Ken Facey, Kautson, Wayne Ishimato. Riêng trung sĩ Sands bị bắt và bị dẫn độ về Sài Gòn một mình vì Sands là nhân chứng rất quan trọng. Theo lời khai của Sands, người chủ mưu chính trong vụ giết Thái Khắc Chuyên là đại tá Rheault, Chỉ huy trưởng Mũ nồi xanh.
Boyle bị giải về căn cứ quân sự Long Bình, Biên Hòa, thừa nhận mình đã thẩm vấn Thái Khắc Chuyên để chứng minh Chuyên là điệp viên Hà Nội. Crew khai nửa chừng rồi thôi và đòi phải có luật sư. Marasco tự đánh máy lời khai, nhận tội nhưng không khai Rheault. Ken Facey khai Rheault có ra lệnh giết Chuyên rồi khóc lóc rầm rĩ. Trong nhà giam, Brumley giấu lưỡi lam dưới nệm giường mà khi bị phát hiện, ông ta nói là để… cạo râu! Trung sĩ Kautson, người lái ghe đưa Chuyên đi thủ tiêu khai đầy đủ chi tiết. Trung sĩ Wayne Ishimato cũng khai về kế hoạch đóng giả Thái Khắc Chuyên ở Campuchia…
Khi hồ sơ hỏi cung các bị can hoàn tất, Theodore Shackley, Chỉ huy CIA ở miền Nam Việt Nam trình sự việc cho đại sứ Bunker để xin chỉ thị. Bunker nói việc này không dính đến ngành ngoại giao rồi bảo Shackley hỏi ý kiến tướng Abrams. Abrams cho rằng B57 do CIA tài trợ và điều hành nên quân đội không chịu trách nhiệm. Ông bảo vụ thảm sát Mỹ Lai chưa đủ rắc rối hay sao mà quân đội Mỹ còn ôm thêm chuyện này!
Phiên tòa xét xử vụ Thái Khắc Chuyên diễn ra ở căn cứ quân sự Long Bình từ tháng 8/1969. Dựa vào luật Mỹ, các luật sư phía bị cáo yêu cầu phải có đủ nhân chứng và bằng chứng, kể cả tài liệu của chính quyền Sài Gòn lẫn CIA, nhất là phải có tử thi của Thái Khắc Chuyên vì các bị cáo đều là người Mỹ! Vụ xét xử nổi tiếng đến mức tất cả những tờ báo lớn ở Mỹ như New York Times, Charlotte Observer, Time, International Herald Triburn, Washington Post, Life, Los Angeles Times, Chicago Triburn, Newsweek và các đài truyền hình như CBS, NBC, ABC… đều cử phóng viên đến Sài Gòn tường thuật trực tiếp. Một số tờ báo ở Sài Gòn nhân dịp đó cũng ăn theo để chửi CIA.
Từ yêu cầu của giới luật sư, Bộ chỉ huy Hải quân Mỹ ở Sài Gòn gửi điện đề nghị Đội săn tìm thủy lôi của Hạm đội 7 ở Trân Châu cảng (Pearl Harbor) cung cấp phương tiện tìm kiếm xác Chuyên trong vùng biển Nha Trang. Khi bị Hạm đội 7 từ chối vì đây không phải là trường hợp khẩn cấp, tướng Potts phải mượn lệnh của Abrams mới được Tư lệnh Hạm đội 7 chấp thuận.
Bảy ngày sau, tàu dò mìn USS Woodpecker đến duyên hải Nha Trang tìm xác Thái Khắc Chuyên. Trong ngày đầu, nhóm thợ lặn báo cáo sóng to gió lớn, luồng chảy ngầm khá mạnh, bùn ngập tới đầu gối và tầm nhìn xa dưới nước tối đa chỉ 2 mét nên yêu cầu dời lại hôm sau. Chiều tối hôm sau, thợ lặn tìm thấy cái neo định vị nặng 100kg của chính con tàu dò mìn, hôm trước mới thả xuống nhưng chỉ 24 giờ đã trôi xa gần 100 mét. Họ cho rằng với cường độ sóng gió như vậy, xác Thái Khắc Chuyên hẳn đã trôi ra đến đảo Hoàng Sa!
3. Tham dự phiên tòa, ngày 18/8/1969 tờ Washington Post đưa tin vụ án đã bị cho chìm xuồng vì lý do chính trị. Thấy mình là vợ Thái Khắc Chuyên mà chẳng được đả động đến, bà Phan Kim Liên đến tận Tòa Đại sứ Mỹ đưa thư khiếu nại nhưng không ai tiếp. Hôm sau, đại diện của đại sứ Bunker đến nhà tìm bà rồi dặn bà hãy khiếu nại với quân đội Mỹ vì chồng bà làm việc cho Mũ nồi xanh. Với lời cố vấn ấy, bà Liên yêu cầu Tòa Đại sứ và quân đội Mỹ phải bồi thường thiệt hại. Ẵm hai con trai nhỏ một đứa 2 tuổi và một đứa mới sinh, bà đến cổng Tòa Đại sứ khóc lóc, quy trách nhiệm cho Chính phủ Mỹ. Bà nguyền rủa rằng linh hồn chồng bà sẽ không tha thứ cho bọn giết người.
Người nhái trên tàu dò mìn USS Woodpecker chuẩn bị lặn tìm xác Thái Khắc Chuyên. |
Ngày 2/10/1969, một sĩ quan CIA phụ trách tài chính đến nhà bà Liên trao cho bà 6.472USD - tương đương với 3 tháng lương của Thái Khắc Chuyên trích từ quỹ đen của CIA đồng thời yêu cầu bà ký cam kết không khiếu nại gì nữa.
Tại Mỹ, Đài truyền hình NBC đưa tin quân đội Mỹ khép hồ sơ vụ án, còn Đài CBS thì bảo rằng chính CIA và Tổng thống Nixon đã cho nội vụ chìm xuồng. Khi tin chính thức tha bổng các bị can được loan ra, một số nhà báo nước ngoài đã phỏng vấn bà Liên ngay trước Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. Trong bộ áo tang trắng, bà Liên khóc sướt mướt: "Chồng tôi giúp người Mỹ mà người Mỹ lại giết anh ấy rồi trốn tránh trách nhiệm. Họ phải chịu hậu quả về cái chết của chồng tôi. Linh hồn chồng tôi sẽ theo họ suốt đời!".
Về phía đại tá Rheault, sau khi được tha, ông ta đi chuyến bay Trans World Airways cùng 7 người trong vụ giết Thái Khắc Chuyên về Mỹ. Khi xuống sân bay San Francisco, Rheault lọt vào vòng vây của đội ngũ các nhà báo. Trả lời câu hỏi: "Cá nhân ông có ra lệnh xử tử người đàn ông Việt Nam mà ông cho là điệp viên nhị trùng không?", Rheault trơ trẽn nói: "Chẳng có gì chứng minh rằng nhân vật ấy có thật!". Một nhà báo khác hỏi tiếp: "Rốt cuộc ông chối là không giết người à?". Rheault trả lời ngay không suy nghĩ: "Đúng vậy".
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, bà Phan Kim Liên cùng hai người con trai vẫn ở Sài Gòn, còn ba người anh trai và hai chị em gái của Thái Khắc Chuyên ở miền Bắc cũng sống như những công dân bình thường. Thái Quốc Việt, con trai cả của Thái Khắc Chuyên vẫn tin rằng cha mình chưa chết.
Anh viết thư cho nhà báo Jeff Stein - người đã viết những bài lên án thái độ ném đá giấu tay của CIA đồng thời là tác giả cuốn sách "Một vụ giết người - Câu chuyện chưa được công bố về một "gián điệp" đã làm thay đổi tiến trình cuộc chiến Việt Nam" để hỏi về số phận cha mình. Trong thư, anh bày tỏ: "Thật khó sống với những tháng năm dài ngờ vực…".
Nhưng Thái Quốc Việt đâu biết đến nay, người dân Mỹ - nhất là các cựu chiến binh vẫn còn ngờ vực về sự lành lặn của vết thương chiến tranh Việt Nam…
40 năm sau 30 tháng 4, 1975, lật lại hồ sơ Thái Khắc Chuyên: Điệp Viên Hà Nội?
Cuộc chiến Việt Nam gây nên nhiều thảm cảnh gia đình. Gia đình Thái Khắc Chuyên là một và đặc biệt. Đêm 20/6/1969, ba lính mũ xanh Mỹ đẩy một ghe máy ra biển từ đảo Hòn Tre, Nha Trang trên có xác một người đàn ông Việt bọc trong áo mưa “poncho’’ quấn nhiều lớp xích sắt dầy cột vào hai niềng xe vận tải.
Cali Today News - Thân xác anh ta đã nằm sâu dưới đáy biển Đông nhưng tên nạn nhân trở nên nổi tiếng: Thái Khắc Chuyên, điệp viên nhị, tam, tứ trùng?
Thái Khắc Chuyên sinh năm 1938 tại Bắc Việt Nam. Cha là Thái Khắc Qui, mẹ Thái Thị Lục. Năm 1954 gia đình di cư vào Nam Việt theo HĐ Genève bằng tàu Mirabelle từ Hải Phòng cập bến Saigon lúc Chuyên 16 tuổi. Ba anh trai và hai chị em gái còn ở lại Bắc VN. Mẹ lo ngại các anh bị đi bộ đội nên đã liều lĩnh trở về Bắc nhưng bị bắt tại sông Bến Hải. Gia đình sau đó dời lên Đà Lạt rồi người cha xin được việc làm cho chính phủ VNCH. Chuyên làm cho một nhà thuốc tây do anh trai làm chủ nhưng sau vào Saigon đi học. Chuyên di chuyển chỗ ở nhiều lần giữa Đà Lạt và Saigon khiến việc học không liên tục nên thi Tú Tài nhiều lần vẫn không đậu. Khi quân đội Mỹ vào Việt Nam, Chuyên làm cho hãng thầu RMK-BRJ của Mỹ được ba tháng thì bỏ đi làm thông ngôn lương cao hơn cho Green Berets, một binh chủng chuyên về tình báo của quân đội Mỹ đóng ở căn cứ Ashau, Đà Nẵng. Khi chiến cuộc tăng phần khốc liệt, Chuyên bỏ job để tránh nguy hiểm vì ba hôm sau đó căn cứ Ashau thất thủ vào tay VC. Sự trùng hợp này và nhiều sự kiện tương tự sau đó khiến người ta nghi Chuyên là gián điệp cho Hà Nội; hay ít nhất cũng để trốn quân dịch khi có lệnh tổng động viên năm 1968.
Tính đến ngày 6/5/1961, TT Kennedy đã gởi 400 lính mũ xanh sang VN để đối phó với VC sau khi MTGPMN ra đời và gia tăng hoạt động khủng bố. Đến ngày Kennedy chết, quân số này đã lên tới 12,000. TT Johnson kế nhiệm đã gởi nhiều sư đoàn bộ binh Mỹ để Mỹ hóa cuộc chiến theo kế hoạch vốn đã bị cố TT Diệm phản đối (gây nên cái chết thảm cho ông và bào đệ trong cuộc đảo chánh người Mỹ tổ chức ngày 1/11/1963). Trong số đó có đơn vị tình báo số 5 mang tên B57, bí danh Project Gamma mà Chuyên làm thông ngôn, một thông ngôn quèn không ngạch trật.
Do năng khiếu đặc biệt về Anh ngữ, nói tiếng lóng thành thạo như lính Mỹ nên Chuyên dễ kiếm được chân thông ngôn trước đó cho Civil Affairs, một cơ quan dân sự phụ trách về bình định và gián điệp, đóng ở Mộc Hóa, Tây Ninh. Chuyên hoạt bát, chăm chỉ, hăng say, đúng giờ; thậm chí làm việc ngoài giờ và cả ban đêm. Chuyên thẳng thắn; nói chuyện luôn nhìn thẳng vào mắt người đối thoại; chứng tỏ sự trung thực. Chuyên cũng là người ái quốc vì cha theo kháng chiến chống Pháp nhưng đã bỏ về thành làm việc cho quốc gia khi phát hiện bộ mặt thật của Việt Minh và gia đình ông đã theo giáo dân xứ đạo của mình di cư vào Nam lánh nạn Cộng-sản. Những thành viên còn lại trong gia đình còn kẹt lại vì đi không kịp hoặc bị cản trở. Đúng là ‘’chữ tài liền với chữ tai’’ vì tình báo Mỹ đặt câu hỏi: - Khả năng Anh ngữ giỏi của Chuyên sao không ở Saigon dạy học hay làm việc cho quân đội Mỹ ở các thành thị an toàn mà lại đi làm ở Mộc Hóa, một căn cứ địa mạnh của MTGPMN và các căn cứ sôi động khác? Cũng như tại Mỹ, có giỏi mà không bằng cấp thì trường nào mướn?
Đơn vị Mũ Xanh K57 có BCH đóng tại Nha Trang. Tổ trưởng trực tiếp đơn vị 142 của Chuyên là Trung-sĩ Alvin Smith, bí danh ‘’Sands’’, người mến mộ Chuyên, giới thiệu Chuyên cho CIA và cũng là người đã tạo ra đầu mối gây cái chết bi thảm cho anh sau này. Khi được nhận làm cho CIA, Chuyên có ám số SF7-166 và nhiệm vụ đi sâu vào đất Kampuchia thám sát và thâu thập tin tình báo cũng như tuyển điệp viên người bản xứ. Cấp trên của Smith là đại úy trẻ tên Bob Marasco, người thường chê các báo cáo của tổ 142 là vô dụng, và cũng là người sau này kê nòng súng hãm thanh vào đầu Chuyên đưa xác anh vào lòng đại dương. Marasco trả Chuyên về Civil Affairs và trả Smith về BCH ở Nha Trang.
Tại Nha Trang, Alvin Smith phát hiện một ảnh đen trắng tịch thu từ xác một VC trong một trận đánh hồi đầu năm 1969; trong đó có một cán binh CSBV, đội lốt VC mặc bà ba đen đội nón tai bèo đứng cạnh một sĩ quan VC cấp cao; mà mặt trông giống Chuyên (khả năng nhận diện người châu Á, nhất là về tuổi tác, của chuyên viên người phương Tây không chính xác; cán binh VC trong ảnh răng hô còn Chuyên thì không). Chuyên viên Budge Williams của B57 cũng không đoan chắc Chuyên là người trong ảnh. Khi đối chiếu ảnh của Chuyên trong đơn xin việc thì cũng không chắc đúng sai; mà hồ sơ lý lịch của Chuyên không hề có ghi chú gì về tất cả các công tác đã làm từ ngày gia nhập đến nay. Điều này khiến B57 nghi có gián điệp địch ngay tại các cơ quan hành chánh Việt-Mỹ quản lý hồ sơ của Chuyên! Cựu chỉ huy trưởng B57 là Bob Thrasher thì phân tích rằng lỗ tai của cán binh trong phim không giống của Chuyên; nhưng biết đâu tại bóng đen do chiếc nón tai bèo tạo sai biệt?! Thrasher đề nghị điều tra thêm rồi mãn nhiệm về nước.
Trong nhiệm kỳ hai ở VN, Lee Brumley điều tra về Chuyên từ ngày 9/6/1969. Ông ta nghi Chuyên là điệp viên tam trùng Mỹ-BV-VNCH vì các điệp viên người Việt khác ở Tây Ninh và Kampuchia khai có một điệp viên cộng sản hoạt động trong vùng; có vợ ở Mộc Hóa (?); mà Chuyên đang làm ở tận thung lũng Ashau ngoài Trung lại bỏ về Tây Ninh cho gần vợ con lúc đó đã dời về đấy sinh sống! Hơn nữa trong một cuộc hành quân mà Chuyên được báo cho biết trước, VC đã phục kích thành công toán trinh sát của tổ. Brumley chờ ở Nha Trang suốt ba tuần không thấy hồi âm nên liền đánh điện về Saigon yêu cầu BCH của CIA trên lầu tòa đại sứ Mỹ gởi gấp chi tiết lý lịch mới nhất của Chuyên cho B57 ở Nha Trang; chỉ dùng đả tự viên người Mỹ để bảo mật! Tr/sĩ Smith thì chỉ biết chi tiết Chuyên có ba anh trai còn kẹt ở BV.
Khi họ tìm Chuyên để gởi về Saigon điều tra bằng máy dò sự thật thì Chuyên đã bỏ Civil Affairs đi đâu mất. Hai chuyên viên CIA là Enking và Scrymgeour đi lùng kiếm Chuyên và định nhốt ở Okinawa hoặc Panama, hai nơi duy nhất mà CIA có nhà tù, để điều tra. Nhưng hai nơi đó xa; di chuyển rất tốn kém; mà nhà tù của đồng minh VNCH thì CIA lại không tin tưởng! Cuối cùng Smith cũng tìm ra nhà Chuyên số 53/1/46 đường Phan Thanh Giản Saigon. Smith dụ khéo để bắt Chuyên bằng lời hứa hẹn có job thơm mới, phỏng vấn sáng hôm sau 9 giờ. Thủ tục có điền đơn chi tiết hơn và khai với máy dò sự thật mang từ Nha Trang vào Saigon.
Đúng 10 giờ sáng ngày 12/6/1969, Chuyên ăn mặc chỉnh tề và lạc quan tin tưởng; đến điểm hẹn gặp Ed Boyle. B57 phải dùng thông ngôn của đơn vị tên Tạ Xuân Cường, bí danh Joel cho chắc chắn vì đã hết tin Chuyên. Trong cuộc thẩm vấn an ninh, chứ không phải phỏng vấn việc làm như đương sự lầm tưởng, Chuyên khai đã bỏ Ashau và các nơi khác như núi Cô Tô-Cần Thơ, Mộc Hóa-Tây Ninh vì sợ bom đạn. Năm 1966, Th.tá McBride của đơn vị 5-2 giới thiệu Chuyên làm việc cho ‘’Huỳnh Sơn’’ và sau đó được ‘’Ginger’’ ở sư đoàn 25BB kết nạp vào CIA. Nhưng Boyle biết Chuyên đã không chính thức được CIA nhận mà chỉ làm cho tình báo Mũ Xanh và Civil Affairs suốt sáu năm qua mà lý lịch vẫn trống trơn không ghi thành tích nào!
Sau một ngày dài thẩm vấn, Chuyên mệt mỏi và đòi về nhà nghỉ. Cotton, Smith và Joel đưa Chuyên về lúc 7:30 tối. Trên xe, Chuyên than phiền nhiều câu hỏi thù nghịch, thái độ hỏi nghi kỵ và máy móc giây nhợ rườm rà làm anh ta sợ sệt. Cha mẹ vợ có mặt ở nhà Chuyên nhìn người Mỹ một cách lo lắng. Có mặt cả em dâu là Lâm Hoàng Oanh tại nhà lúc đó. Chuyên phải trở lại cuộc thẩm vấn lúc 8 giờ tối với nhập đề trắng trợn hơn: - Anh có làm gián điệp cho Hà Nội không? Vợ và em dâu lo quá đã đến nơi thẩm vấn xin gởi Chuyên mảnh giấy tỏ ý lo ngại cho Chuyên. Chuyên được hai vệ sĩ người Nùng hộ tống về nhà đêm đó, đêm cuối cùng với vợ con.
Sáng hôm sau cuộc thẩm vấn tiếp tục. Máy dò sự thật báo kết quả là nói dối. Boyle nghi Chuyên (và cả vợ Chuyên cũng nên) là điệp viên CSBV và ra lệnh cho phụ tá Cotton tìm bác sĩ chích các loại thuốc như Saline, Thorazine, Sodium Pentathol qua tĩnh mạch của nạn nhân. B57 quyết định chở Chuyên về BCH ở Nha Trang để điều tra tiếp. Chuyên bị bịt mắt và ngủ vùi vì thuốc trong áo mưa “poncho’’, bị quẳng vào cốp xe tải chở ra phi trường TSN hôm thứ sáu 13/6/1969 (Thứ Sáu 13 là ngày xui xẻo theo người phương Tây: Chúa Tử Nạn - và TKC sắp tử vong!) với tài xế và ba lính Mũ Xanh trang bị tiểu liên. Họ lên kế hoạch sẵn sàng ứng chiến nếu bị nhân viên chính phủ VNCH tại TSN khám xét và bắt giữ. Tại TSN, một máy bay bí mật chờ sẵn. Cùng lúc đó, một Honda hai bánh bí mật ghé nhà vợ số 38 Phan Thanh Giản; đưa cho vợ Chuyên, Phan Kim Liên mảnh giấy từ biệt viết ngắn gọn vội vã: “Em và các con thân yêu, anh phải vắng mặt vài ngày vì công vụ. Đừng lo lắng! Anh chúc cả nhà vui khỏe! Hôn em...’’ Liên đọc lời chúc lạ thường “vui khỏe” chưa từng có của chồng mà lo sợ ra mặt. Linh tính báo trước một điềm chẳng lành đã tới!
Cuộc thẩm vấn tại BCH B57 ở Nha Trang tiếp tục từ 4g sáng hôm sau 14/6 với Brumley xoay quanh các điệp viên người Việt khác cho đến khi Chuyên ngủ vùi vì quá mệt và vì thuốc. Hôm sau Chuyên lại bị thẩm vấn từ 8g sáng suốt ngày, xoay quanh tấm ảnh cán binh VC, nghi vấn về vợ Chuyên và người đàn bà, vợ điệp viên CS nào đó ở Mộc Hóa, về đại úy Phan, đại úy Nguyễn Chiêu, về kế hoạch C&C (tình báo chiến lược của MACV), về Thu Linh hay Thu Ninh nào đó ..vv.. Khi Brumley nghỉ, Boyle tiếp tục thẩm vấn nạn nhân với sự giám định y khoa tâm thần thường trực của Bs. Allison. Boyle xoay quanh thời kỳ Chuyên ở Vũng Tàu và điệp viên Huỳnh nào đó. Khi Boyle nghỉ, Brumley lại tiếp tục quay lại đề tài các anh của nạn nhân ở BV và em dâu tên Lâm Hoàng Oanh.
Bốn giờ chiều 17/6 sau sáu ngày thẩm vấn liên tục với máy dò sự thật và thuốc Sodium Pentathol, Chuyên nổi giận theo tính nóng cố hữu của nạn nhân, bất hợp tác với điều tra viên và chửi rủa ‘’bọn Mỹ chúng mày ngu ngốc, không hiểu gì về Việt Nam’’, rằng “Mỹ sẽ thua trận’’...vv.. Máy dò sự thật thì báo kết quả Chuyên nói dối về chỗ ở năm 1964 và về việc Chuyên tiếp xúc với anh trai ngoài BV. Đây cũng là ngày thẩm vấn cuối cùng vì nạn nhân không còn muốn hợp tác. Số phận của Chuyên đã được định đoạt: Chỉ còn là cách thức thủ tiêu vì CIA không có nhà tù ở VN mà hai nhà tù kia của CIA thì quá xa; vả lại nhà tù của “đồng minh” VNCH thì không đáng tin cậy; chưa kể đồng minh này có thể sẽ khai thác tin tình báo của Mỹ từ Chuyên!
Th. tá Crew và Đ.úy Brumley gởi báo cáo cho Saigon và xin gặp đơn vị trưởng của họ là Đ. tá Bob Rheault để xin chỉ thị. Crew đề xuất nhiều cách giải quyết và nhấn mạnh rằng Chuyên là một tù nhân nguy hiểm vì Chuyên biết quá nhiều chi tiết về các mục tiêu hoạt động, nhân sự cũng như hệ thống trên-dưới, ngang-dọc của hệ thống tình báo Mỹ ở VN. Phụ tá Facey đề nghị đặt một thùng Conex nhốt Chuyên cho đến khi chiến tranh kết thúc nhưng không chắc thực hiện được và cần xin MACV chấp thuận. Người khác đề nghị thủ tiêu Chuyên trong rừng rậm hoặc chở sang nhờ Đài Loan giết, hoặc đạp Chuyên xuống biển từ máy bay trên cao độ, thủ tiêu bằng dao, chích thuốc độc hoặc thắt cổ nạn nhân ..vv..
Qua những hành động tự phát kiêu căng đầy tính kỳ thị của các cá nhân, đơn vị quân đội hay các chính trị gia Mỹ tại VN, chính nghĩa Tự Do, Dân Chủ đã bị lu mờ trước sự tuyên truyền tinh xảo và khéo léo của đối phương Cộng-sản. Thật có, giả có! Chẳng hạn: Nhiều lính của SOG đã đấu láo rằng muốn thắng cuộc chiến VN chỉ cần thực thi ba bước: gom hết người Việt thảy xuống tàu thủy, rào biên giới VN lại, rồi đánh đắm tàu thủy ấy là xong! Tại VN, Tướng Patton III, con của Tướng George Patton tốc chiến tốc thắng hồi thời Thế Chiến 2, nổi tiếng luôn để một sọ đầu lâu VC trên bàn giấy của mình! Số phận của các nguyên thủ quốc gia như Magsaysay, Pak Chung Hy, Lý Thừa Vãn, Ngô Đình Diệm đã bị các chính trị gia non nớt ngây ngô, các đại sứ hống hách và các đao phủ hiếu sát CIA của Mỹ định đoạt; bất kể khát vọng chính trị và lòng tôn kính của nhân dân các nước liên hệ đối với quốc gia và lãnh tụ của họ. Sự xâm phạm thô bạo chủ quyền các “đồng minh’’ là nhược điểm mà các chính phủ Mỹ chưa bao giờ chịu học hỏi và từ bỏ. Việc đối xử với các nghi phạm ở nhà tù Abu Ghraib tại Iraq năm 2003 sau này đã chứng minh điều đó. Trong việc thủ tiêu Chuyên, B57 và CIA đã tự ý quyết định số phận công dân một nước đồng minh, dù là tư chức của QĐ Mỹ hay của các hãng xưởng Mỹ ở VN, mà không hề tham khảo ý kiến; thậm chí còn giấu diếm chính phủ nước sở tại! Trong khi đó người Mỹ lại ngây thơ đối xử với các tên khủng bố Hồi giáo cực kỳ nguy hiểm bị nhốt ở Guatanamo bằng qui chế hiệp định Genève nhân đạo, mặc dù chúng chẳng phải tù binh có quân phục, cấp bậc, số quân như luật định!
Nhu cầu thủ tiêu Chuyên càng cấp bách hơn khi nạn nhân ngày càng la hét, đập phá tường để mong thoát thân. Đơn vị QLVNCH đóng cạnh đó cũng không hề hay biết hoặc không được can thiệp. Đơn vị trưởng K57 là Đ. tá Bob Rheault thì chấp thuận việc thủ tiêu nhưng không dám công khai ra lệnh sợ liên lụy rắc rối cho giấc mơ ngôi sao Chuẩn Tường nằm trên ve áo. CIA ở Saigon và tại địa phương, qua chuyên viên Shackly, thì không công khai ra lệnh sợ rắc rối ngoại giao khi chính phủ VNCH phát giác nội vụ. Mọi người của B57 lại hiểu ngầm rằng sự im lặng suốt 10 ngày của CIA đồng nghĩa với sự chấp thuận, vì CIA có bao giờ nhận hoặc chối những gì họ làm và có bao giờ làm điều gì công khai đâu!
Coi như “đèn xanh” không “cháy” nhưng có ‘’bật’’, tối thứ năm 19/6 lúc 7 giờ, nhóm sĩ quan K57 đưa một ghe máy ra Hòn Tre chờ nạn nhân đem từ Saigon ra. Boyle lái chở Chuyên bằng xe tải ra bờ biển rồi đè nạn nhân xuống lòng ghe, nhét vào poncho. Nạn nhân bị Brumley chích Morphine; bị bịt miệng bằng băng keo và trói thúc ké trước đó. Williams và Marasco phụ với hai người khiêng Chuyên ra ghe. Khi Morphine đã giảm, có tiếng rên rỉ từ trong poncho thì Morphine lại được chích thêm. Dù ghe đã ra xa ngoài khơi nhưng khi tiếng rên vẫn còn vì thuốc mới chích chưa hiệu quả, Brumley vội rút Colt-45 ra nhắm màng tang của Chuyên bóp cò nhưng súng không nổ. Williams và Brumley kéo Chuyên vào giữa ghe, quấn quanh poncho nhiều vòng xích sắt dầy và gắn theo hai niềng xe vận tải cho bảo đảm đủ nặng để xác nạn nhân được thủ tiêu dưới lòng biển an toàn. Họ kê đầu Chuyên lên thành ghe để máu bớt chảy trong lòng ghe; rồi Marasco kê nòng .22 ly có bộ phận hãm thanh vào đầu nạn nhân bóp cò. Nhưng lạ thay, súng lại bị kẹt đạn, có lẽ điều gì oan khiên đã ngăn cản viên đạn. Brumley giúp điều chỉnh cơ bẩm, nhét đạn vào nòng rồi đưa lại cho Marasco bấm cò. Lần này một tiếng kêu tựa vỏ xe xì lốp phát ra từ ống hãm thanh. Máu tươi, mảnh xương sọ và óc nạn nhân bắn tung tóe trên thành ghe, trong ghe và trên quân phục của xạ thủ. Williams và Brumley lăn xác nạn nhân xuống biển để thủ tiêu. Marasco đứng bất động nhìn theo để kiểm chứng. Về lại BCH/K57, họ thấy Smith và Crew nóng lòng ngóng đợi. Crew ra lệnh đốt bỏ quân phục dính máu nạn nhân để phi tang. Brumley và Boyle đem vật dụng cá nhân của Chuyên như bút, đồng hồ, nịt quần ..vv.. đi tận Đồng Hới đốt phi tang.
Mọi người xem mật vụ như đã đi vào dĩ vãng, riêng Smith lo âu vì sợ chính mình sẽ là mục tiêu kế tiếp bị cấp trên đem đi thủ tiêu để bảo mật vì chính Smith đã khám phá ra vấn đề ngay từ đầu và không tán thành việc thủ tiêu Chuyên. Smith sợ đến độ không dám ngủ tại phòng của mình mà lén hỏi thủ kho mượn nệm để ngủ mỗi đêm mỗi nơi khác nhau. Smith bị bắt và dẫn độ về Saigon bằng xe từ Nha Trang ngày 1/7/1969. Trong lời khai theo lệnh của hai sĩ quan quân cảnh tư pháp Bourland và Bidwell, Smith khai Đ. tá Rheault có dính líu. Smith bối rối viết tên nạn nhân lúc thì Chuyên, khi thì Khắc, lúc lại Thái, khi lại Chu Yên. Hôm 21/7, Tướng George Marbry phụ tá tình báo thừa lệnh Abrams ra lệnh nhốt tất cả 5 nhân viên can dự gồm Brumley, Boyle, Marasco, Williams, Middleton. Riêng nghi can chính là Đ. tá Rheault thì cố thương thuyết chỉ nhận tội nếu các thừa hành viên được miễn tố; nhưng đã thua lý lẽ của quân cảnh tư pháp Bourland rằng lời khai luôn để dành cho sự thật chứ chẳng để dành cho ai khác! Đ. tá quân cảnh tư pháp Frank Brandenburg đợi Rheault ngoài sân rồi bắt ông ta đưa lên xe.
Boyle bị thẩm vấn ngày 12/7 và bị giải về nhà tù Long Bình, nơi có cái tên tắt thật mai mỉa: LBJ (Long Binh Jail) đọc tắt giống Lyndon Baines Johnson! Boyle hốt hoảng xin gặp một tu sĩ, có lẽ với ý định tự tử vì Boyle biết theo luật Quân đội Mỹ, không ai có quyền đơn phương xử tử nghi can. Crew khai nửa chừng rồi thôi và đòi cung cấp luật sư. Marasco tự đánh máy lời khai, nhận tội nhưng không khai Rheault. Middleton vả lả với hai quân cảnh tư pháp khoảng một tiếng đồng hồ rồi bị tống giam. Ken Facey khai chỉ huy trưởng Rheault có ra lệnh giết Chuyên rồi Facey khóc. Trong nhà giam, Brumley giấu lưỡi lam dưới nệm phòng khi cần dùng (cạo râu hay cắt gân máu?). Tr.sĩ Kautson, thủ kho giữ ghe đã hợp tác hoàn toàn với quân cảnh điều tra. Tr.sĩ Wayne Ishimato gốc Nhật đóng vai Chuyên đi Kampuchia để cấp trên làm báo cáo giả rằng Chuyên còn sống và đang công tác bên đó, nay cũng không chối trước tòa án quân sự Long Bình.
Theodore Shackley, chỉ huy CIA ở VN trình sự việc cho đại sứ Bunker xin chỉ thị. Bunker bảo việc này không dính đến ngành ngoại giao và bảo liên lạc Abrams xin ý kiến. Abrams bảo B57 là kế hoạch do CIA tài trợ và điều hành nên quân đội không chịu trách nhiệm. Ông bảo quân đội Mỹ đang bị rắc rối vụ Mỹ Lai chưa đủ hay sao còn ôm thêm chuyện này?! Shackley tuyên bố CIA không dính vào vụ giết người này dù CIA có tài trợ cho B57. Tại BCH/MAGV, Shackley từ chối không khai theo lệnh của hai quân cảnh tư pháp, viện lẽ CIA không nằm trong hệ thống quân đội và nhân danh tư cách hành pháp miễn trừ; nhưng phụ tá là Clement Enking vì gốc nhà binh nên bị thẩm vấn thay. Các tướng trong phòng nhìn cảnh thư hùng giữa tư pháp và hành pháp (CIA là một thứ chính phủ trong một chính phủ) mà phát ngượng!
Vợ Chuyên là Phan Kim Liên và em dâu Lâm Hoàng Oanh đến phòng thẩm vấn của K57 ở Saigon tìm Chuyên nhưng Brumley lánh mặt và đuổi khéo. Thất vọng, Liên đi nhờ chính phủ và quốc hội VNCH giúp can thiệp với tòa Đại Sứ Mỹ nhưng không kết quả. Người em dâu để lại địa chỉ chỗ làm: Sở Bình Định Nông Thôn 158 Pasteur Saigon, Tel. 922-5708 để K57 liên lạc. Tin Lâm Hoàng Oanh được học bổng du học Columbia University ở Mỹ càng làm cho K57 sợ toát mồ hôi: Hà Nội gởi điệp viên vào tận đất Mỹ!?
Tại tòa án QS ở Long Bình kéo dài từ tháng 8/69, mỗi nghi can có một luật sư bào chữa. Riêng Middleton, sau khi nội vụ đã được tiết lộ cho báo chí và Quốc Hội Mỹ, đã được gia đình thuê luật sư dân sự là George Gregory ở S. Carolina sang VN biện hộ. Chánh án là Đ. tá Seaman, chưa có kinh nghiệm về tư pháp. Các luật sư đòi có đủ tất cả nhân chứng và bằng chứng, kể cả tài liệu từ Chính phủ VNCH và CIA, danh sách người di cư trên tàu Mirabelle năm 1954; nhất là phải có tử thi theo luật Mỹ! Các báo lớn nhỏ ở Mỹ đều đăng tin và theo dõi vụ án như New York Times, Charlotte Observer, Times, International Herald và Washington Post. Một số ký giả đã đến VN phỏng vấn các bên liên quan, kể cả CQ/VNCH, dân chúng địa phương và Đ.tá Lemembres, người thay mặt Rheault đang bị câu lưu.
Do đó, BCH/HQ Mỹ ở Saigon gửi điện yêu cầu đội rà mìn của hạm đội 7 ở Pearl Harbor cung cấp phương tiện dò tìm “ghe name” ở biển Đông VN. Khi bị HĐ7 từ chối viện lẽ không phải trường hợp cấp bách, tướng Potts phải mượn lệnh của Abrams mới được chấp thuận. Bảy ngày sau, tàu dò mìn USS Woodpecker đến duyên hải Nha Trang tìm xác TKC. Thợ lặn báo cáo sóng to gió lớn, bùn ngập tới đầu gối và tầm nhìn xa tối đa chỉ 7 feets nên yêu cầu để hôm sau. Chiều tối ngày thứ nhì, thợ lặn mới tìm thấy cái neo 100kg của chính con tàu dò mìn; hôm trước thả xuống giờ mới 24g đã trôi xa 100 yards. Họ bàn ra rằng với cường độ sóng gió này, xác TKC quẳng xuống cách nay 6 tháng chắc sẽ trôi dạt nửa đường đi Hà Nội! Thế là huề vốn! Bourland thất vọng trở về Long Bình.
Phan Kim Liên nghe tin Ls Gregory đến VN thì có đến khách sạn Caravelle tìm gặp và khóc lóc xin giúp tìm chồng nhưng Gregory viện cớ là luật sư bên bị can nên từ chối. Tờ Washington Post cử đại diện là Robert Kaiser và phụ tá là Vũ Thụy Hoàng qua VN tìm hiểu rồi đưa tin hôm 18/8/69 rằng vụ án đã bị cho chìm xuồng vì lý do chính trị. Được tin ấy, một anh của Kim Liên đòi đưa 8 ghi can ra tòa VNCH; còn Liên mướn luật sư viết thư gởi MACV và Bunker xin cho biết tình trạng sống chết của người chồng mất tích; bản sao gởi Thủ Tướng VNCH. Trong thư, Liên cũng cam kết chồng bà thuộc gia đình chống CS; không phải là VC cũng chẳng thể là điệp viên vì tánh rất nóng nảy không giấu nổi bí mật nào. TKC chỉ là thông ngôn quèn không ngạch trật. Thấy mình là trung tâm của vụ án mà chẳng ai đả động đến, Kim Liên liều thân đến tận tòa Đại sứ Mỹ để đưa thư hôm 18/8 chờ cả tiếng đồng hồ vẫn không được tiếp, đành để thư lại cho thư ký tiếp tân và ra về. Hôm sau, đại diện của Bunker đến nhà Liên tìm, gặp ông bố từ chối cho gặp Liên và từ chối trả lời mọi câu hỏi, có lẽ ghét người Mỹ. Phái viên ấy dặn ông cụ nhắn lại Liên hãy khiếu nại với quân đội Mỹ vì chồng Liên làm việc cho Green Berets Mỹ. Được lời nhắn ấy, Liên bỏ đòi hỏi đưa nội vụ ra tòa án VNCH, thay vào đó yêu cầu tòa Đại sứ và Quân đội Mỹ phải bồi thường thiệt hại. Liên bồng hai con trai nhỏ 2 tuổi và mới sanh, đến cổng tòa đại sứ khóc lóc, kể lể và qui trách nhiệm cho chính phủ Mỹ. Liên nguyền rủa rằng linh hồn chồng bà sẽ không tha thứ cho bọn giết người trong suốt cuộc đời của họ. Bà cũng đòi tự tử rồi ngất xỉu ngay trước cổng. Hôm 2/10/69 một sĩ quan phụ trách tài chính của quân đội Mỹ đến nhà Kim Liên trao 6,472 đô tiền mặt, trích từ quỹ đen của CIA, cho Liên; nói rằng số tiền “tử tuất’’ đó tương đương ba tháng lương của TKC kèm theo giấy cam kết yêu cầu bà ký từ nay không khiếu nại gì thêm, một hình thức bắt chẹt về mặt luật pháp.
Tại VN, Đại sứ Bunker đánh điện cho bộ Ngoại giao, MACV và cả phái đòan Mỹ ở hội nghị Paris báo cáo về vụ kiện tụng. Ông viết rằng ‘’Kim Liên nhờ Thủ Tướng VNCH trong trường hợp chồng bà đã chết thì thư này thay thế văn kiện chính thức truy tố 8 người lính mũ xanh ra tòa án VN về tội giết người bất hợp pháp, vô nhân đạo và tàn bạo’’. Ông đại sứ kết luận bản báo cáo một cách lạnh lùng: “Bà Thái Khắc Chuyên khẳng định chồng bà không phải là điệp viên cộng sản’’. Tại Mỹ, đài NBC đưa tin chính quân đội Mỹ đóng hồ sơ vụ án. CBS thì bảo là CIA. ABC thì bảo là CIA và Nixon cho nội vụ chìm xuồng. Dân biểu Quốc hội liên bang Peter Rotino chửi rủa các tướng ở MACV và bênh vực gia đình Marasco. Ông đòi các can phạm phải được xử ở tòa án dân sự Mỹ để được công bình hơn tòa quân sự ở VN. Nhiều thư của các gia đình quân nhân tử sĩ Mỹ và các cử tri khác gởi thư cho dân biểu, nghị sĩ đại diện và cho cả Nixon yêu cầu giúp tha các can phạm lính mũ xanh ở VN.
Khi tin chính thức loan rằng các phạm nhân mũ xanh được thả, các ký giả quốc tế có làm một cuộc phỏng vấn ứng khẩu với các bên trong cuộc ngay trước tòa đại sứ Mỹ. Phan Kim Liên trong bộ áo tang trắng khóc sướt mướt kể lể rằng ‘’chồng tôi di cư vào Nam VN tìm tự do dân chủ và giúp người Mỹ thế mà người Mỹ lại giết anh ta rồi trốn lãnh trách nhiệm này’’. Các ký giả quốc tế bao quanh người quả phụ đau khổ với thái độ thương cảm và khó xử. Bà Liên đòi tự tử tại chỗ và gào thét ‘’họ phải hoặc lãnh trách nhiệm về cái chết của anh ta hoặc cái chết của tôi. Linh hồn chồng tôi sẽ theo họ suốt đời!’’. Khi Kim Liên ngất xỉu xuống đất, lính canh lặng lẽ đóng cổng tòa đại sứ.
Smith đáp chuyến bay World Airways khác chuyến bay của 7 người kia. Các ký giả quốc tế chờ họ tại sân bay San Francisco, CA. Bất đắc dĩ phải lại microphone vì đứng đầu hàng ngũ 8 người được thả, để trả lời câu hỏi ‘’Cá nhân ông có ra lệnh xử tử người đàn ông Việt mệnh danh là điệp viên nhị trùng không?’’, Rheault trơ trẽn nói: ‘’chả có gì chứng minh rằng nhận vật ấy là có thực cả!’’. Khi nhà báo ấy chưa thỏa mãn và hỏi tiếp: ‘’Rốt cuộc ông chối là không có giết người à?’’. Rheault trả lời ngay không suy nghĩ: ‘’đúng thế!’’. Bob Rheault sau có xin trở lại VN để phục vụ, hy vọng hoài bão lên cấp Tướng sẽ không chết non theo vụ án; nhưng Ngũ Giác Đài bảo Rheault đến bệnh viện quân đội Walter Reed ở thủ đô Mỹ để lãnh tiền và giấy giải ngũ, chấm dứt 26 năm kiêu hãnh từ ngày xuất thân trường võ bị West Point.
Sau 1975, Phan Kim Liên và hai con trai sống trong khó nghèo, cô quạnh ở thành phố nay đã đổi tên. Các anh trai của Chuyên kẹt lại Bắc Việt đã chỉ là thứ dân hạng bét của chế độ như bao nhiêu tín đồ Thiên Chúa giáo khác. Hồi tháng 8/1991, con trai cả của Thái Khắc Chuyên là Thái Quốc Việt vẫn tin cha mình còn sống; viết thư cho ký giả J. Stein hỏi về số phận của cha mình và thú nhận ‘’thật khó sống với những năm tháng dài ngờ vực. . .’’. Nó đâu biết rằng dân Mỹ thế hệ này vẫn còn ngờ vực sự lành lặn của vết thương chiến tranh Việt Nam.
Lời xin lỗi cố TT. Thiệu và thú nhận của Kissinger sau này chưa đủ để tẩy sạch được vết nhơ danh dự ô uế: Phản bội chiến hữu đồng minh Nam Việt trung thành, giết hại lãnh tụ khả kính của họ để Mỹ hóa cuộc chiến; rồi lại Việt hóa cuộc chiến trở lại để trốn trách nhiệm. Và phải giải thích ra sao về trách nhiệm của giới chính trị gia Mỹ đối với niềm tự hào của một quân đội vốn chưa bao giờ chiến bại: Quân Đội Hoa Kỳ?
Hà Bắc
(tham khảo tài liệu của J. Stein và Times)
=========
Theo Wikipedia:
Vụ án Thái Khắc Chuyên (The Green Beret Affair) là những diễn tiến xoay quanh vụ sát hại của thông dịch viên người Việt Nam tên Thái Khắc Chuyên xảy ra trong tháng 6 năm 1969 B-57 là một đơn vị lính mũ xanh (tức lực lượng đặc biệt của Mỹ) có nhiệm vụ mật là theo dõi tin tình báo ở miền Nam Việt Nam. Thái Khắc Chuyên là một nhân viên Việt Nam thông dịch cho đội này. Cuối tháng 4 và đầu tháng 5 năm 1969 một số nhân viên nằm vùng cho B-57 đột nhiên không nghe lời hoặc là không cung cấp tin tình báo về nữa. Rõ ràng là có điều gì không ổn. Một vài tuần sau, khi rọi một cuồn phim tịch thu được, cấp trên của Chuyên thấy anh nói chuyện với một sĩ quan của quân đội nhân dân Việt Nam. Họ bắt đầu theo dõi Chuyên . Tháng 6, Chuyên bị bắt vào thẩm vấn trong vòng 10 ngày; Chuyên không vượt được máy nói dối nhưng không thú nhận gì cả. Lực lượng đặc biệt hỏi ý CIA tại Sài gòn xem phải giải quyết chuyện này ra sao. Nhưng CIA tỏ thái độ im lặng và lập lửng. Cuối cùng Đại tá Bob Rheault là chỉ huy tối cao lực lượng đặc biệt tại Việt Nam lúc đó đã ra lệnh hạ sát Chuyên. Tối 20 tháng 6 năm 1969, Chuyên bị chích thuốc mê, đem ra khơi Nha Trang bắn vào đầu và ném xuống biển.
Họ dựng nên câu chuyện là đã giao cho Chuyên đi một chuyến công tác nguy hiểm ở Campuchia để giải thích sự mất tích của Chuyên.
Đột nhiên vì lý do gì đó, bỗng CIA liên lạc với tổng tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam lúc bấy giờ là đại tướng Creighton Abrams và nói với ông về chuyện đó. Ông Abrams gọi Rheault vềSài Gòn trình diện. Khi đến Sài Gòn thì Rheault đem câu chuyện bịa đặt Chuyên đi Campuchia kể ra trước một nhóm sĩ quan cao cấp Mỹ lúc đó không có Abrams có mặt.Tưởng là chuyện đã xong nhưng lúc đó một sĩ quan mũ xanh cấp trên của Chuyên lại đến tổng hành dinh CIA tại Nha Trang và khai ra đầu đuôi câu chuyện vụ sát hại Chuyên. Ông Abrams phẫn nộ và cho tiến hành một cuộc điều tra và lần lượt tám người lính mũ xanh có dính líu đều bị bắt, người cuối cùng là đại tá Rheault
Sau khi cả CIA và đại tướng Abrams đều từ chối không ra làm chứng trước tòa, tòa án tuyên bố bải bỏ vụ án và tha bổng 8 người lính ngủ mũ xanh. Nhà trắng công nhận tổng thống Nixon có dính líu đến quyết định bãi bỏ vụ án. Đại tá Rheault xin giải ngủ ngay sau đó. Câu chuyện gây nhiều tranh cãi trong và ngoài nước Mỹ vì chuyện có tầm quan trọng đạo đức, luân lý và tội ác. Không ai thật sự biết được Thái Khắc Chuyên có làm gián điệp 2 phe hay không. Nếu thật sự Chuyên là gián điệp thì quyết định thủ tiêu anh có đúng hay không.
Cuộc chiến Việt Nam gây nên nhiều thảm cảnh gia đình. Gia đình Thái Khắc Chuyên là một và đặc biệt. Đêm 20/6/1969, ba lính mũ xanh Mỹ đẩy một ghe máy ra biển từ đảo Hòn Tre, Nha Trang trên có xác một người đàn ông Việt bọc trong áo mưa “poncho’’ quấn nhiều lớp xích sắt dầy cột vào hai niềng xe vận tải.
Cali Today News - Thân xác anh ta đã nằm sâu dưới đáy biển Đông nhưng tên nạn nhân trở nên nổi tiếng: Thái Khắc Chuyên, điệp viên nhị, tam, tứ trùng?
Thái Khắc Chuyên sinh năm 1938 tại Bắc Việt Nam. Cha là Thái Khắc Qui, mẹ Thái Thị Lục. Năm 1954 gia đình di cư vào Nam Việt theo HĐ Genève bằng tàu Mirabelle từ Hải Phòng cập bến Saigon lúc Chuyên 16 tuổi. Ba anh trai và hai chị em gái còn ở lại Bắc VN. Mẹ lo ngại các anh bị đi bộ đội nên đã liều lĩnh trở về Bắc nhưng bị bắt tại sông Bến Hải. Gia đình sau đó dời lên Đà Lạt rồi người cha xin được việc làm cho chính phủ VNCH. Chuyên làm cho một nhà thuốc tây do anh trai làm chủ nhưng sau vào Saigon đi học. Chuyên di chuyển chỗ ở nhiều lần giữa Đà Lạt và Saigon khiến việc học không liên tục nên thi Tú Tài nhiều lần vẫn không đậu. Khi quân đội Mỹ vào Việt Nam, Chuyên làm cho hãng thầu RMK-BRJ của Mỹ được ba tháng thì bỏ đi làm thông ngôn lương cao hơn cho Green Berets, một binh chủng chuyên về tình báo của quân đội Mỹ đóng ở căn cứ Ashau, Đà Nẵng. Khi chiến cuộc tăng phần khốc liệt, Chuyên bỏ job để tránh nguy hiểm vì ba hôm sau đó căn cứ Ashau thất thủ vào tay VC. Sự trùng hợp này và nhiều sự kiện tương tự sau đó khiến người ta nghi Chuyên là gián điệp cho Hà Nội; hay ít nhất cũng để trốn quân dịch khi có lệnh tổng động viên năm 1968.
Tính đến ngày 6/5/1961, TT Kennedy đã gởi 400 lính mũ xanh sang VN để đối phó với VC sau khi MTGPMN ra đời và gia tăng hoạt động khủng bố. Đến ngày Kennedy chết, quân số này đã lên tới 12,000. TT Johnson kế nhiệm đã gởi nhiều sư đoàn bộ binh Mỹ để Mỹ hóa cuộc chiến theo kế hoạch vốn đã bị cố TT Diệm phản đối (gây nên cái chết thảm cho ông và bào đệ trong cuộc đảo chánh người Mỹ tổ chức ngày 1/11/1963). Trong số đó có đơn vị tình báo số 5 mang tên B57, bí danh Project Gamma mà Chuyên làm thông ngôn, một thông ngôn quèn không ngạch trật.
Do năng khiếu đặc biệt về Anh ngữ, nói tiếng lóng thành thạo như lính Mỹ nên Chuyên dễ kiếm được chân thông ngôn trước đó cho Civil Affairs, một cơ quan dân sự phụ trách về bình định và gián điệp, đóng ở Mộc Hóa, Tây Ninh. Chuyên hoạt bát, chăm chỉ, hăng say, đúng giờ; thậm chí làm việc ngoài giờ và cả ban đêm. Chuyên thẳng thắn; nói chuyện luôn nhìn thẳng vào mắt người đối thoại; chứng tỏ sự trung thực. Chuyên cũng là người ái quốc vì cha theo kháng chiến chống Pháp nhưng đã bỏ về thành làm việc cho quốc gia khi phát hiện bộ mặt thật của Việt Minh và gia đình ông đã theo giáo dân xứ đạo của mình di cư vào Nam lánh nạn Cộng-sản. Những thành viên còn lại trong gia đình còn kẹt lại vì đi không kịp hoặc bị cản trở. Đúng là ‘’chữ tài liền với chữ tai’’ vì tình báo Mỹ đặt câu hỏi: - Khả năng Anh ngữ giỏi của Chuyên sao không ở Saigon dạy học hay làm việc cho quân đội Mỹ ở các thành thị an toàn mà lại đi làm ở Mộc Hóa, một căn cứ địa mạnh của MTGPMN và các căn cứ sôi động khác? Cũng như tại Mỹ, có giỏi mà không bằng cấp thì trường nào mướn?
Đơn vị Mũ Xanh K57 có BCH đóng tại Nha Trang. Tổ trưởng trực tiếp đơn vị 142 của Chuyên là Trung-sĩ Alvin Smith, bí danh ‘’Sands’’, người mến mộ Chuyên, giới thiệu Chuyên cho CIA và cũng là người đã tạo ra đầu mối gây cái chết bi thảm cho anh sau này. Khi được nhận làm cho CIA, Chuyên có ám số SF7-166 và nhiệm vụ đi sâu vào đất Kampuchia thám sát và thâu thập tin tình báo cũng như tuyển điệp viên người bản xứ. Cấp trên của Smith là đại úy trẻ tên Bob Marasco, người thường chê các báo cáo của tổ 142 là vô dụng, và cũng là người sau này kê nòng súng hãm thanh vào đầu Chuyên đưa xác anh vào lòng đại dương. Marasco trả Chuyên về Civil Affairs và trả Smith về BCH ở Nha Trang.
Tại Nha Trang, Alvin Smith phát hiện một ảnh đen trắng tịch thu từ xác một VC trong một trận đánh hồi đầu năm 1969; trong đó có một cán binh CSBV, đội lốt VC mặc bà ba đen đội nón tai bèo đứng cạnh một sĩ quan VC cấp cao; mà mặt trông giống Chuyên (khả năng nhận diện người châu Á, nhất là về tuổi tác, của chuyên viên người phương Tây không chính xác; cán binh VC trong ảnh răng hô còn Chuyên thì không). Chuyên viên Budge Williams của B57 cũng không đoan chắc Chuyên là người trong ảnh. Khi đối chiếu ảnh của Chuyên trong đơn xin việc thì cũng không chắc đúng sai; mà hồ sơ lý lịch của Chuyên không hề có ghi chú gì về tất cả các công tác đã làm từ ngày gia nhập đến nay. Điều này khiến B57 nghi có gián điệp địch ngay tại các cơ quan hành chánh Việt-Mỹ quản lý hồ sơ của Chuyên! Cựu chỉ huy trưởng B57 là Bob Thrasher thì phân tích rằng lỗ tai của cán binh trong phim không giống của Chuyên; nhưng biết đâu tại bóng đen do chiếc nón tai bèo tạo sai biệt?! Thrasher đề nghị điều tra thêm rồi mãn nhiệm về nước.
Trong nhiệm kỳ hai ở VN, Lee Brumley điều tra về Chuyên từ ngày 9/6/1969. Ông ta nghi Chuyên là điệp viên tam trùng Mỹ-BV-VNCH vì các điệp viên người Việt khác ở Tây Ninh và Kampuchia khai có một điệp viên cộng sản hoạt động trong vùng; có vợ ở Mộc Hóa (?); mà Chuyên đang làm ở tận thung lũng Ashau ngoài Trung lại bỏ về Tây Ninh cho gần vợ con lúc đó đã dời về đấy sinh sống! Hơn nữa trong một cuộc hành quân mà Chuyên được báo cho biết trước, VC đã phục kích thành công toán trinh sát của tổ. Brumley chờ ở Nha Trang suốt ba tuần không thấy hồi âm nên liền đánh điện về Saigon yêu cầu BCH của CIA trên lầu tòa đại sứ Mỹ gởi gấp chi tiết lý lịch mới nhất của Chuyên cho B57 ở Nha Trang; chỉ dùng đả tự viên người Mỹ để bảo mật! Tr/sĩ Smith thì chỉ biết chi tiết Chuyên có ba anh trai còn kẹt ở BV.
Khi họ tìm Chuyên để gởi về Saigon điều tra bằng máy dò sự thật thì Chuyên đã bỏ Civil Affairs đi đâu mất. Hai chuyên viên CIA là Enking và Scrymgeour đi lùng kiếm Chuyên và định nhốt ở Okinawa hoặc Panama, hai nơi duy nhất mà CIA có nhà tù, để điều tra. Nhưng hai nơi đó xa; di chuyển rất tốn kém; mà nhà tù của đồng minh VNCH thì CIA lại không tin tưởng! Cuối cùng Smith cũng tìm ra nhà Chuyên số 53/1/46 đường Phan Thanh Giản Saigon. Smith dụ khéo để bắt Chuyên bằng lời hứa hẹn có job thơm mới, phỏng vấn sáng hôm sau 9 giờ. Thủ tục có điền đơn chi tiết hơn và khai với máy dò sự thật mang từ Nha Trang vào Saigon.
Đúng 10 giờ sáng ngày 12/6/1969, Chuyên ăn mặc chỉnh tề và lạc quan tin tưởng; đến điểm hẹn gặp Ed Boyle. B57 phải dùng thông ngôn của đơn vị tên Tạ Xuân Cường, bí danh Joel cho chắc chắn vì đã hết tin Chuyên. Trong cuộc thẩm vấn an ninh, chứ không phải phỏng vấn việc làm như đương sự lầm tưởng, Chuyên khai đã bỏ Ashau và các nơi khác như núi Cô Tô-Cần Thơ, Mộc Hóa-Tây Ninh vì sợ bom đạn. Năm 1966, Th.tá McBride của đơn vị 5-2 giới thiệu Chuyên làm việc cho ‘’Huỳnh Sơn’’ và sau đó được ‘’Ginger’’ ở sư đoàn 25BB kết nạp vào CIA. Nhưng Boyle biết Chuyên đã không chính thức được CIA nhận mà chỉ làm cho tình báo Mũ Xanh và Civil Affairs suốt sáu năm qua mà lý lịch vẫn trống trơn không ghi thành tích nào!
Sau một ngày dài thẩm vấn, Chuyên mệt mỏi và đòi về nhà nghỉ. Cotton, Smith và Joel đưa Chuyên về lúc 7:30 tối. Trên xe, Chuyên than phiền nhiều câu hỏi thù nghịch, thái độ hỏi nghi kỵ và máy móc giây nhợ rườm rà làm anh ta sợ sệt. Cha mẹ vợ có mặt ở nhà Chuyên nhìn người Mỹ một cách lo lắng. Có mặt cả em dâu là Lâm Hoàng Oanh tại nhà lúc đó. Chuyên phải trở lại cuộc thẩm vấn lúc 8 giờ tối với nhập đề trắng trợn hơn: - Anh có làm gián điệp cho Hà Nội không? Vợ và em dâu lo quá đã đến nơi thẩm vấn xin gởi Chuyên mảnh giấy tỏ ý lo ngại cho Chuyên. Chuyên được hai vệ sĩ người Nùng hộ tống về nhà đêm đó, đêm cuối cùng với vợ con.
Sáng hôm sau cuộc thẩm vấn tiếp tục. Máy dò sự thật báo kết quả là nói dối. Boyle nghi Chuyên (và cả vợ Chuyên cũng nên) là điệp viên CSBV và ra lệnh cho phụ tá Cotton tìm bác sĩ chích các loại thuốc như Saline, Thorazine, Sodium Pentathol qua tĩnh mạch của nạn nhân. B57 quyết định chở Chuyên về BCH ở Nha Trang để điều tra tiếp. Chuyên bị bịt mắt và ngủ vùi vì thuốc trong áo mưa “poncho’’, bị quẳng vào cốp xe tải chở ra phi trường TSN hôm thứ sáu 13/6/1969 (Thứ Sáu 13 là ngày xui xẻo theo người phương Tây: Chúa Tử Nạn - và TKC sắp tử vong!) với tài xế và ba lính Mũ Xanh trang bị tiểu liên. Họ lên kế hoạch sẵn sàng ứng chiến nếu bị nhân viên chính phủ VNCH tại TSN khám xét và bắt giữ. Tại TSN, một máy bay bí mật chờ sẵn. Cùng lúc đó, một Honda hai bánh bí mật ghé nhà vợ số 38 Phan Thanh Giản; đưa cho vợ Chuyên, Phan Kim Liên mảnh giấy từ biệt viết ngắn gọn vội vã: “Em và các con thân yêu, anh phải vắng mặt vài ngày vì công vụ. Đừng lo lắng! Anh chúc cả nhà vui khỏe! Hôn em...’’ Liên đọc lời chúc lạ thường “vui khỏe” chưa từng có của chồng mà lo sợ ra mặt. Linh tính báo trước một điềm chẳng lành đã tới!
Cuộc thẩm vấn tại BCH B57 ở Nha Trang tiếp tục từ 4g sáng hôm sau 14/6 với Brumley xoay quanh các điệp viên người Việt khác cho đến khi Chuyên ngủ vùi vì quá mệt và vì thuốc. Hôm sau Chuyên lại bị thẩm vấn từ 8g sáng suốt ngày, xoay quanh tấm ảnh cán binh VC, nghi vấn về vợ Chuyên và người đàn bà, vợ điệp viên CS nào đó ở Mộc Hóa, về đại úy Phan, đại úy Nguyễn Chiêu, về kế hoạch C&C (tình báo chiến lược của MACV), về Thu Linh hay Thu Ninh nào đó ..vv.. Khi Brumley nghỉ, Boyle tiếp tục thẩm vấn nạn nhân với sự giám định y khoa tâm thần thường trực của Bs. Allison. Boyle xoay quanh thời kỳ Chuyên ở Vũng Tàu và điệp viên Huỳnh nào đó. Khi Boyle nghỉ, Brumley lại tiếp tục quay lại đề tài các anh của nạn nhân ở BV và em dâu tên Lâm Hoàng Oanh.
Bốn giờ chiều 17/6 sau sáu ngày thẩm vấn liên tục với máy dò sự thật và thuốc Sodium Pentathol, Chuyên nổi giận theo tính nóng cố hữu của nạn nhân, bất hợp tác với điều tra viên và chửi rủa ‘’bọn Mỹ chúng mày ngu ngốc, không hiểu gì về Việt Nam’’, rằng “Mỹ sẽ thua trận’’...vv.. Máy dò sự thật thì báo kết quả Chuyên nói dối về chỗ ở năm 1964 và về việc Chuyên tiếp xúc với anh trai ngoài BV. Đây cũng là ngày thẩm vấn cuối cùng vì nạn nhân không còn muốn hợp tác. Số phận của Chuyên đã được định đoạt: Chỉ còn là cách thức thủ tiêu vì CIA không có nhà tù ở VN mà hai nhà tù kia của CIA thì quá xa; vả lại nhà tù của “đồng minh” VNCH thì không đáng tin cậy; chưa kể đồng minh này có thể sẽ khai thác tin tình báo của Mỹ từ Chuyên!
Th. tá Crew và Đ.úy Brumley gởi báo cáo cho Saigon và xin gặp đơn vị trưởng của họ là Đ. tá Bob Rheault để xin chỉ thị. Crew đề xuất nhiều cách giải quyết và nhấn mạnh rằng Chuyên là một tù nhân nguy hiểm vì Chuyên biết quá nhiều chi tiết về các mục tiêu hoạt động, nhân sự cũng như hệ thống trên-dưới, ngang-dọc của hệ thống tình báo Mỹ ở VN. Phụ tá Facey đề nghị đặt một thùng Conex nhốt Chuyên cho đến khi chiến tranh kết thúc nhưng không chắc thực hiện được và cần xin MACV chấp thuận. Người khác đề nghị thủ tiêu Chuyên trong rừng rậm hoặc chở sang nhờ Đài Loan giết, hoặc đạp Chuyên xuống biển từ máy bay trên cao độ, thủ tiêu bằng dao, chích thuốc độc hoặc thắt cổ nạn nhân ..vv..
Qua những hành động tự phát kiêu căng đầy tính kỳ thị của các cá nhân, đơn vị quân đội hay các chính trị gia Mỹ tại VN, chính nghĩa Tự Do, Dân Chủ đã bị lu mờ trước sự tuyên truyền tinh xảo và khéo léo của đối phương Cộng-sản. Thật có, giả có! Chẳng hạn: Nhiều lính của SOG đã đấu láo rằng muốn thắng cuộc chiến VN chỉ cần thực thi ba bước: gom hết người Việt thảy xuống tàu thủy, rào biên giới VN lại, rồi đánh đắm tàu thủy ấy là xong! Tại VN, Tướng Patton III, con của Tướng George Patton tốc chiến tốc thắng hồi thời Thế Chiến 2, nổi tiếng luôn để một sọ đầu lâu VC trên bàn giấy của mình! Số phận của các nguyên thủ quốc gia như Magsaysay, Pak Chung Hy, Lý Thừa Vãn, Ngô Đình Diệm đã bị các chính trị gia non nớt ngây ngô, các đại sứ hống hách và các đao phủ hiếu sát CIA của Mỹ định đoạt; bất kể khát vọng chính trị và lòng tôn kính của nhân dân các nước liên hệ đối với quốc gia và lãnh tụ của họ. Sự xâm phạm thô bạo chủ quyền các “đồng minh’’ là nhược điểm mà các chính phủ Mỹ chưa bao giờ chịu học hỏi và từ bỏ. Việc đối xử với các nghi phạm ở nhà tù Abu Ghraib tại Iraq năm 2003 sau này đã chứng minh điều đó. Trong việc thủ tiêu Chuyên, B57 và CIA đã tự ý quyết định số phận công dân một nước đồng minh, dù là tư chức của QĐ Mỹ hay của các hãng xưởng Mỹ ở VN, mà không hề tham khảo ý kiến; thậm chí còn giấu diếm chính phủ nước sở tại! Trong khi đó người Mỹ lại ngây thơ đối xử với các tên khủng bố Hồi giáo cực kỳ nguy hiểm bị nhốt ở Guatanamo bằng qui chế hiệp định Genève nhân đạo, mặc dù chúng chẳng phải tù binh có quân phục, cấp bậc, số quân như luật định!
Nhu cầu thủ tiêu Chuyên càng cấp bách hơn khi nạn nhân ngày càng la hét, đập phá tường để mong thoát thân. Đơn vị QLVNCH đóng cạnh đó cũng không hề hay biết hoặc không được can thiệp. Đơn vị trưởng K57 là Đ. tá Bob Rheault thì chấp thuận việc thủ tiêu nhưng không dám công khai ra lệnh sợ liên lụy rắc rối cho giấc mơ ngôi sao Chuẩn Tường nằm trên ve áo. CIA ở Saigon và tại địa phương, qua chuyên viên Shackly, thì không công khai ra lệnh sợ rắc rối ngoại giao khi chính phủ VNCH phát giác nội vụ. Mọi người của B57 lại hiểu ngầm rằng sự im lặng suốt 10 ngày của CIA đồng nghĩa với sự chấp thuận, vì CIA có bao giờ nhận hoặc chối những gì họ làm và có bao giờ làm điều gì công khai đâu!
Coi như “đèn xanh” không “cháy” nhưng có ‘’bật’’, tối thứ năm 19/6 lúc 7 giờ, nhóm sĩ quan K57 đưa một ghe máy ra Hòn Tre chờ nạn nhân đem từ Saigon ra. Boyle lái chở Chuyên bằng xe tải ra bờ biển rồi đè nạn nhân xuống lòng ghe, nhét vào poncho. Nạn nhân bị Brumley chích Morphine; bị bịt miệng bằng băng keo và trói thúc ké trước đó. Williams và Marasco phụ với hai người khiêng Chuyên ra ghe. Khi Morphine đã giảm, có tiếng rên rỉ từ trong poncho thì Morphine lại được chích thêm. Dù ghe đã ra xa ngoài khơi nhưng khi tiếng rên vẫn còn vì thuốc mới chích chưa hiệu quả, Brumley vội rút Colt-45 ra nhắm màng tang của Chuyên bóp cò nhưng súng không nổ. Williams và Brumley kéo Chuyên vào giữa ghe, quấn quanh poncho nhiều vòng xích sắt dầy và gắn theo hai niềng xe vận tải cho bảo đảm đủ nặng để xác nạn nhân được thủ tiêu dưới lòng biển an toàn. Họ kê đầu Chuyên lên thành ghe để máu bớt chảy trong lòng ghe; rồi Marasco kê nòng .22 ly có bộ phận hãm thanh vào đầu nạn nhân bóp cò. Nhưng lạ thay, súng lại bị kẹt đạn, có lẽ điều gì oan khiên đã ngăn cản viên đạn. Brumley giúp điều chỉnh cơ bẩm, nhét đạn vào nòng rồi đưa lại cho Marasco bấm cò. Lần này một tiếng kêu tựa vỏ xe xì lốp phát ra từ ống hãm thanh. Máu tươi, mảnh xương sọ và óc nạn nhân bắn tung tóe trên thành ghe, trong ghe và trên quân phục của xạ thủ. Williams và Brumley lăn xác nạn nhân xuống biển để thủ tiêu. Marasco đứng bất động nhìn theo để kiểm chứng. Về lại BCH/K57, họ thấy Smith và Crew nóng lòng ngóng đợi. Crew ra lệnh đốt bỏ quân phục dính máu nạn nhân để phi tang. Brumley và Boyle đem vật dụng cá nhân của Chuyên như bút, đồng hồ, nịt quần ..vv.. đi tận Đồng Hới đốt phi tang.
Mọi người xem mật vụ như đã đi vào dĩ vãng, riêng Smith lo âu vì sợ chính mình sẽ là mục tiêu kế tiếp bị cấp trên đem đi thủ tiêu để bảo mật vì chính Smith đã khám phá ra vấn đề ngay từ đầu và không tán thành việc thủ tiêu Chuyên. Smith sợ đến độ không dám ngủ tại phòng của mình mà lén hỏi thủ kho mượn nệm để ngủ mỗi đêm mỗi nơi khác nhau. Smith bị bắt và dẫn độ về Saigon bằng xe từ Nha Trang ngày 1/7/1969. Trong lời khai theo lệnh của hai sĩ quan quân cảnh tư pháp Bourland và Bidwell, Smith khai Đ. tá Rheault có dính líu. Smith bối rối viết tên nạn nhân lúc thì Chuyên, khi thì Khắc, lúc lại Thái, khi lại Chu Yên. Hôm 21/7, Tướng George Marbry phụ tá tình báo thừa lệnh Abrams ra lệnh nhốt tất cả 5 nhân viên can dự gồm Brumley, Boyle, Marasco, Williams, Middleton. Riêng nghi can chính là Đ. tá Rheault thì cố thương thuyết chỉ nhận tội nếu các thừa hành viên được miễn tố; nhưng đã thua lý lẽ của quân cảnh tư pháp Bourland rằng lời khai luôn để dành cho sự thật chứ chẳng để dành cho ai khác! Đ. tá quân cảnh tư pháp Frank Brandenburg đợi Rheault ngoài sân rồi bắt ông ta đưa lên xe.
Boyle bị thẩm vấn ngày 12/7 và bị giải về nhà tù Long Bình, nơi có cái tên tắt thật mai mỉa: LBJ (Long Binh Jail) đọc tắt giống Lyndon Baines Johnson! Boyle hốt hoảng xin gặp một tu sĩ, có lẽ với ý định tự tử vì Boyle biết theo luật Quân đội Mỹ, không ai có quyền đơn phương xử tử nghi can. Crew khai nửa chừng rồi thôi và đòi cung cấp luật sư. Marasco tự đánh máy lời khai, nhận tội nhưng không khai Rheault. Middleton vả lả với hai quân cảnh tư pháp khoảng một tiếng đồng hồ rồi bị tống giam. Ken Facey khai chỉ huy trưởng Rheault có ra lệnh giết Chuyên rồi Facey khóc. Trong nhà giam, Brumley giấu lưỡi lam dưới nệm phòng khi cần dùng (cạo râu hay cắt gân máu?). Tr.sĩ Kautson, thủ kho giữ ghe đã hợp tác hoàn toàn với quân cảnh điều tra. Tr.sĩ Wayne Ishimato gốc Nhật đóng vai Chuyên đi Kampuchia để cấp trên làm báo cáo giả rằng Chuyên còn sống và đang công tác bên đó, nay cũng không chối trước tòa án quân sự Long Bình.
Theodore Shackley, chỉ huy CIA ở VN trình sự việc cho đại sứ Bunker xin chỉ thị. Bunker bảo việc này không dính đến ngành ngoại giao và bảo liên lạc Abrams xin ý kiến. Abrams bảo B57 là kế hoạch do CIA tài trợ và điều hành nên quân đội không chịu trách nhiệm. Ông bảo quân đội Mỹ đang bị rắc rối vụ Mỹ Lai chưa đủ hay sao còn ôm thêm chuyện này?! Shackley tuyên bố CIA không dính vào vụ giết người này dù CIA có tài trợ cho B57. Tại BCH/MAGV, Shackley từ chối không khai theo lệnh của hai quân cảnh tư pháp, viện lẽ CIA không nằm trong hệ thống quân đội và nhân danh tư cách hành pháp miễn trừ; nhưng phụ tá là Clement Enking vì gốc nhà binh nên bị thẩm vấn thay. Các tướng trong phòng nhìn cảnh thư hùng giữa tư pháp và hành pháp (CIA là một thứ chính phủ trong một chính phủ) mà phát ngượng!
Vợ Chuyên là Phan Kim Liên và em dâu Lâm Hoàng Oanh đến phòng thẩm vấn của K57 ở Saigon tìm Chuyên nhưng Brumley lánh mặt và đuổi khéo. Thất vọng, Liên đi nhờ chính phủ và quốc hội VNCH giúp can thiệp với tòa Đại Sứ Mỹ nhưng không kết quả. Người em dâu để lại địa chỉ chỗ làm: Sở Bình Định Nông Thôn 158 Pasteur Saigon, Tel. 922-5708 để K57 liên lạc. Tin Lâm Hoàng Oanh được học bổng du học Columbia University ở Mỹ càng làm cho K57 sợ toát mồ hôi: Hà Nội gởi điệp viên vào tận đất Mỹ!?
Tại tòa án QS ở Long Bình kéo dài từ tháng 8/69, mỗi nghi can có một luật sư bào chữa. Riêng Middleton, sau khi nội vụ đã được tiết lộ cho báo chí và Quốc Hội Mỹ, đã được gia đình thuê luật sư dân sự là George Gregory ở S. Carolina sang VN biện hộ. Chánh án là Đ. tá Seaman, chưa có kinh nghiệm về tư pháp. Các luật sư đòi có đủ tất cả nhân chứng và bằng chứng, kể cả tài liệu từ Chính phủ VNCH và CIA, danh sách người di cư trên tàu Mirabelle năm 1954; nhất là phải có tử thi theo luật Mỹ! Các báo lớn nhỏ ở Mỹ đều đăng tin và theo dõi vụ án như New York Times, Charlotte Observer, Times, International Herald và Washington Post. Một số ký giả đã đến VN phỏng vấn các bên liên quan, kể cả CQ/VNCH, dân chúng địa phương và Đ.tá Lemembres, người thay mặt Rheault đang bị câu lưu.
Do đó, BCH/HQ Mỹ ở Saigon gửi điện yêu cầu đội rà mìn của hạm đội 7 ở Pearl Harbor cung cấp phương tiện dò tìm “ghe name” ở biển Đông VN. Khi bị HĐ7 từ chối viện lẽ không phải trường hợp cấp bách, tướng Potts phải mượn lệnh của Abrams mới được chấp thuận. Bảy ngày sau, tàu dò mìn USS Woodpecker đến duyên hải Nha Trang tìm xác TKC. Thợ lặn báo cáo sóng to gió lớn, bùn ngập tới đầu gối và tầm nhìn xa tối đa chỉ 7 feets nên yêu cầu để hôm sau. Chiều tối ngày thứ nhì, thợ lặn mới tìm thấy cái neo 100kg của chính con tàu dò mìn; hôm trước thả xuống giờ mới 24g đã trôi xa 100 yards. Họ bàn ra rằng với cường độ sóng gió này, xác TKC quẳng xuống cách nay 6 tháng chắc sẽ trôi dạt nửa đường đi Hà Nội! Thế là huề vốn! Bourland thất vọng trở về Long Bình.
Phan Kim Liên nghe tin Ls Gregory đến VN thì có đến khách sạn Caravelle tìm gặp và khóc lóc xin giúp tìm chồng nhưng Gregory viện cớ là luật sư bên bị can nên từ chối. Tờ Washington Post cử đại diện là Robert Kaiser và phụ tá là Vũ Thụy Hoàng qua VN tìm hiểu rồi đưa tin hôm 18/8/69 rằng vụ án đã bị cho chìm xuồng vì lý do chính trị. Được tin ấy, một anh của Kim Liên đòi đưa 8 ghi can ra tòa VNCH; còn Liên mướn luật sư viết thư gởi MACV và Bunker xin cho biết tình trạng sống chết của người chồng mất tích; bản sao gởi Thủ Tướng VNCH. Trong thư, Liên cũng cam kết chồng bà thuộc gia đình chống CS; không phải là VC cũng chẳng thể là điệp viên vì tánh rất nóng nảy không giấu nổi bí mật nào. TKC chỉ là thông ngôn quèn không ngạch trật. Thấy mình là trung tâm của vụ án mà chẳng ai đả động đến, Kim Liên liều thân đến tận tòa Đại sứ Mỹ để đưa thư hôm 18/8 chờ cả tiếng đồng hồ vẫn không được tiếp, đành để thư lại cho thư ký tiếp tân và ra về. Hôm sau, đại diện của Bunker đến nhà Liên tìm, gặp ông bố từ chối cho gặp Liên và từ chối trả lời mọi câu hỏi, có lẽ ghét người Mỹ. Phái viên ấy dặn ông cụ nhắn lại Liên hãy khiếu nại với quân đội Mỹ vì chồng Liên làm việc cho Green Berets Mỹ. Được lời nhắn ấy, Liên bỏ đòi hỏi đưa nội vụ ra tòa án VNCH, thay vào đó yêu cầu tòa Đại sứ và Quân đội Mỹ phải bồi thường thiệt hại. Liên bồng hai con trai nhỏ 2 tuổi và mới sanh, đến cổng tòa đại sứ khóc lóc, kể lể và qui trách nhiệm cho chính phủ Mỹ. Liên nguyền rủa rằng linh hồn chồng bà sẽ không tha thứ cho bọn giết người trong suốt cuộc đời của họ. Bà cũng đòi tự tử rồi ngất xỉu ngay trước cổng. Hôm 2/10/69 một sĩ quan phụ trách tài chính của quân đội Mỹ đến nhà Kim Liên trao 6,472 đô tiền mặt, trích từ quỹ đen của CIA, cho Liên; nói rằng số tiền “tử tuất’’ đó tương đương ba tháng lương của TKC kèm theo giấy cam kết yêu cầu bà ký từ nay không khiếu nại gì thêm, một hình thức bắt chẹt về mặt luật pháp.
Tại VN, Đại sứ Bunker đánh điện cho bộ Ngoại giao, MACV và cả phái đòan Mỹ ở hội nghị Paris báo cáo về vụ kiện tụng. Ông viết rằng ‘’Kim Liên nhờ Thủ Tướng VNCH trong trường hợp chồng bà đã chết thì thư này thay thế văn kiện chính thức truy tố 8 người lính mũ xanh ra tòa án VN về tội giết người bất hợp pháp, vô nhân đạo và tàn bạo’’. Ông đại sứ kết luận bản báo cáo một cách lạnh lùng: “Bà Thái Khắc Chuyên khẳng định chồng bà không phải là điệp viên cộng sản’’. Tại Mỹ, đài NBC đưa tin chính quân đội Mỹ đóng hồ sơ vụ án. CBS thì bảo là CIA. ABC thì bảo là CIA và Nixon cho nội vụ chìm xuồng. Dân biểu Quốc hội liên bang Peter Rotino chửi rủa các tướng ở MACV và bênh vực gia đình Marasco. Ông đòi các can phạm phải được xử ở tòa án dân sự Mỹ để được công bình hơn tòa quân sự ở VN. Nhiều thư của các gia đình quân nhân tử sĩ Mỹ và các cử tri khác gởi thư cho dân biểu, nghị sĩ đại diện và cho cả Nixon yêu cầu giúp tha các can phạm lính mũ xanh ở VN.
Khi tin chính thức loan rằng các phạm nhân mũ xanh được thả, các ký giả quốc tế có làm một cuộc phỏng vấn ứng khẩu với các bên trong cuộc ngay trước tòa đại sứ Mỹ. Phan Kim Liên trong bộ áo tang trắng khóc sướt mướt kể lể rằng ‘’chồng tôi di cư vào Nam VN tìm tự do dân chủ và giúp người Mỹ thế mà người Mỹ lại giết anh ta rồi trốn lãnh trách nhiệm này’’. Các ký giả quốc tế bao quanh người quả phụ đau khổ với thái độ thương cảm và khó xử. Bà Liên đòi tự tử tại chỗ và gào thét ‘’họ phải hoặc lãnh trách nhiệm về cái chết của anh ta hoặc cái chết của tôi. Linh hồn chồng tôi sẽ theo họ suốt đời!’’. Khi Kim Liên ngất xỉu xuống đất, lính canh lặng lẽ đóng cổng tòa đại sứ.
Smith đáp chuyến bay World Airways khác chuyến bay của 7 người kia. Các ký giả quốc tế chờ họ tại sân bay San Francisco, CA. Bất đắc dĩ phải lại microphone vì đứng đầu hàng ngũ 8 người được thả, để trả lời câu hỏi ‘’Cá nhân ông có ra lệnh xử tử người đàn ông Việt mệnh danh là điệp viên nhị trùng không?’’, Rheault trơ trẽn nói: ‘’chả có gì chứng minh rằng nhận vật ấy là có thực cả!’’. Khi nhà báo ấy chưa thỏa mãn và hỏi tiếp: ‘’Rốt cuộc ông chối là không có giết người à?’’. Rheault trả lời ngay không suy nghĩ: ‘’đúng thế!’’. Bob Rheault sau có xin trở lại VN để phục vụ, hy vọng hoài bão lên cấp Tướng sẽ không chết non theo vụ án; nhưng Ngũ Giác Đài bảo Rheault đến bệnh viện quân đội Walter Reed ở thủ đô Mỹ để lãnh tiền và giấy giải ngũ, chấm dứt 26 năm kiêu hãnh từ ngày xuất thân trường võ bị West Point.
Sau 1975, Phan Kim Liên và hai con trai sống trong khó nghèo, cô quạnh ở thành phố nay đã đổi tên. Các anh trai của Chuyên kẹt lại Bắc Việt đã chỉ là thứ dân hạng bét của chế độ như bao nhiêu tín đồ Thiên Chúa giáo khác. Hồi tháng 8/1991, con trai cả của Thái Khắc Chuyên là Thái Quốc Việt vẫn tin cha mình còn sống; viết thư cho ký giả J. Stein hỏi về số phận của cha mình và thú nhận ‘’thật khó sống với những năm tháng dài ngờ vực. . .’’. Nó đâu biết rằng dân Mỹ thế hệ này vẫn còn ngờ vực sự lành lặn của vết thương chiến tranh Việt Nam.
Lời xin lỗi cố TT. Thiệu và thú nhận của Kissinger sau này chưa đủ để tẩy sạch được vết nhơ danh dự ô uế: Phản bội chiến hữu đồng minh Nam Việt trung thành, giết hại lãnh tụ khả kính của họ để Mỹ hóa cuộc chiến; rồi lại Việt hóa cuộc chiến trở lại để trốn trách nhiệm. Và phải giải thích ra sao về trách nhiệm của giới chính trị gia Mỹ đối với niềm tự hào của một quân đội vốn chưa bao giờ chiến bại: Quân Đội Hoa Kỳ?
Hà Bắc
(tham khảo tài liệu của J. Stein và Times)
=========
Theo Wikipedia:
Vụ án Thái Khắc Chuyên (The Green Beret Affair) là những diễn tiến xoay quanh vụ sát hại của thông dịch viên người Việt Nam tên Thái Khắc Chuyên xảy ra trong tháng 6 năm 1969 B-57 là một đơn vị lính mũ xanh (tức lực lượng đặc biệt của Mỹ) có nhiệm vụ mật là theo dõi tin tình báo ở miền Nam Việt Nam. Thái Khắc Chuyên là một nhân viên Việt Nam thông dịch cho đội này. Cuối tháng 4 và đầu tháng 5 năm 1969 một số nhân viên nằm vùng cho B-57 đột nhiên không nghe lời hoặc là không cung cấp tin tình báo về nữa. Rõ ràng là có điều gì không ổn. Một vài tuần sau, khi rọi một cuồn phim tịch thu được, cấp trên của Chuyên thấy anh nói chuyện với một sĩ quan của quân đội nhân dân Việt Nam. Họ bắt đầu theo dõi Chuyên . Tháng 6, Chuyên bị bắt vào thẩm vấn trong vòng 10 ngày; Chuyên không vượt được máy nói dối nhưng không thú nhận gì cả. Lực lượng đặc biệt hỏi ý CIA tại Sài gòn xem phải giải quyết chuyện này ra sao. Nhưng CIA tỏ thái độ im lặng và lập lửng. Cuối cùng Đại tá Bob Rheault là chỉ huy tối cao lực lượng đặc biệt tại Việt Nam lúc đó đã ra lệnh hạ sát Chuyên. Tối 20 tháng 6 năm 1969, Chuyên bị chích thuốc mê, đem ra khơi Nha Trang bắn vào đầu và ném xuống biển.
Họ dựng nên câu chuyện là đã giao cho Chuyên đi một chuyến công tác nguy hiểm ở Campuchia để giải thích sự mất tích của Chuyên.
Đột nhiên vì lý do gì đó, bỗng CIA liên lạc với tổng tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam lúc bấy giờ là đại tướng Creighton Abrams và nói với ông về chuyện đó. Ông Abrams gọi Rheault vềSài Gòn trình diện. Khi đến Sài Gòn thì Rheault đem câu chuyện bịa đặt Chuyên đi Campuchia kể ra trước một nhóm sĩ quan cao cấp Mỹ lúc đó không có Abrams có mặt.Tưởng là chuyện đã xong nhưng lúc đó một sĩ quan mũ xanh cấp trên của Chuyên lại đến tổng hành dinh CIA tại Nha Trang và khai ra đầu đuôi câu chuyện vụ sát hại Chuyên. Ông Abrams phẫn nộ và cho tiến hành một cuộc điều tra và lần lượt tám người lính mũ xanh có dính líu đều bị bắt, người cuối cùng là đại tá Rheault
Sau khi cả CIA và đại tướng Abrams đều từ chối không ra làm chứng trước tòa, tòa án tuyên bố bải bỏ vụ án và tha bổng 8 người lính ngủ mũ xanh. Nhà trắng công nhận tổng thống Nixon có dính líu đến quyết định bãi bỏ vụ án. Đại tá Rheault xin giải ngủ ngay sau đó. Câu chuyện gây nhiều tranh cãi trong và ngoài nước Mỹ vì chuyện có tầm quan trọng đạo đức, luân lý và tội ác. Không ai thật sự biết được Thái Khắc Chuyên có làm gián điệp 2 phe hay không. Nếu thật sự Chuyên là gián điệp thì quyết định thủ tiêu anh có đúng hay không.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen