Montag, 25. Mai 2015

Hành Quân Lam Sơn 719 — Nguồn gốc và khuyết điểm

Chiến tranh Việt Nam có nhiều trận đánh khốc liệt; khốc liệt trong ý nghĩa về cường độ của hoả lực, cấp số quân tham dự, và số thương vong đôi bên. Những trận đánh thường được nhắc đến trong quân sử như trận tử thủ An Lộc, tháng 6-1972; trận tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị, tháng 9-1972; hai cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt, Toàn Thắng 42 và Toàn Thắng 1/71, tháng 5-1970 và thaùng 1-1971; trận Ðồi 1062 ở Thường Ðức, Quảng Nam… Nhưng nổi bật hơn hết là cuộc hành quân tấn công vào những căn cứ hậu cần của cộng sản Việt Nam (CSVN) ở Hạ Lào vào tháng 2 năm 1971. So với các trận đánh vừa được kể tên, hành quân Lam Sơn 719 (HQLS719) lớn và khốc liệt hơn về mọi mặt.
Ngoài sự thương vong cao của đôi bên, HQLS719 còn được nói đến như một cuộc hành quân có nhiều khuyết điểm — khuyết điểm từ lúc soạn thảo cho đến khi thực hiện. HQLS719 còn được nhắc lại trong sự nghi ngờ đó là kế hoạch hành quân đã bị bại lộ từ lúc soạn thảo, nhưng cuộc hành quân vẫn được tiếp tục để đưa đạo quân Việt Nam Cộng hoà (VNCH) đi vào tử lộ. Bài viết này sơ lược lại nguồn gốc và khiếm khuyết của cuộc hành quân, dựa vào một số tài liệu được giải mật trong thời gian gần đây.
Tình hình tổng quát của VNCH vào cuối năm 1970
Trước khi nói về quyết định đưa đến HQLS719, chúng ta nhìn sơ qua tình hình chính trị và quân sự của VNCH trong năm 1970, và tình hình tổng quát của lực lượng CSVN ở Hạ Lào.
Năm 1970 là năm thành công nhất của VNCH từ sau khi chiến tranh bùng nổ mạnh vào cuối năm 1964. Chương trình Việt Nam hoá — Hoa Kỳ trao cuộc chiến lại cho Quân lực VNCH (QLVNCH) — đã tiến hành được hơn một năm, và sự thành công của QLVNCH trên mọi chiến trường được chứng tỏ khi CSVN cho lưu hành Quyết nghị 9 vào tháng 6-1969. [1] Quyết nghị 9 chỉ thị các bộ tư lệnh CSVN ở chiến trường B (chiến trường trong lãnh thổ VNCH, để phân biệt với chiến trường ở Lào và Cam Bốt), tránh đụng trận nếu có thể được; trở về chiến thuật du kích chiến để bảo vệ quân số; và chỉ nên đương đầu với VNCH trên mặt trận chính trị hơn là ngoài chiến trường. Song song với thành công về quân sự, những chương trình bình định nông thôn đã phá hủy hạ tầng cơ sở của CSVN, đem lại sự an ninh cho xã ấp ở miền Nam. Sự trù phú và số lúa gạo sản xuất trong năm 1969 và 1970 cho thấy sự thành công của chính phủ VNCH về mặt an ninh nội an và trong kế hoạch bình định, xây dựng nông thôn. [2]
Trung tuần tháng 3-1970, với sự hợp tác của tân chính phủ Lon Nol, QLVNCH và Hoa Kỳ tấn công và các căn cứ hậu cần CSVN ở bên trong lãnh thổ Cam Bốt. Cuộc hành quân Toàn Thắng 42 do các đơn vị ở quân đoàn III và IV, hai sư đoàn Thuỷ quân Lục chiến và Nhảy dù VNCH, và một số đơn vị Thiết kỵ và Không kỵ Hoa Kỳ thực hiện. Hành quân Toàn Thắng 42 đem lại kết quả ngoài sức tưởng tượng của Bộ Tổng Tham mưu VNCH và Bộ Tư lệnh MACV: số vũ khí và quân nhu dụng tịch thu được từ căn cứ hậu cần cộng sản đủ để trang bị cho 54 tiểu đoàn chánh qui; gạo tịch thu được đủ nuôi 50 ngàn quân của B-2 từ bốn đến sáu tháng (7.000 tấn gạo). Thiệt hại nhân sự của QLVNCH là 638 chết; 3009 bị thương. Phía Hoa Kỳ, 338 chết; 1525 bị thương. Thiệt hại CSVN là hơn 11.300 tử thương; 2.300 tù binh. [3] Thiệt hại của phía đồng minh tương đối nhỏ so với kết quả thu được.
Chiến thắng dể dàng [4] ở Cam Bốt đưa đến sự hăm hở cho Bộ Tổng Tham mưu VNCH, Bộ Tư lệnh MACV và Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương (trên nguyên tắc đây là bộ tư lệnh nằm trên đầu MACV). Sau khi hành quân Toàn Thắng 42 kết thúc vào tháng 8-1970, [5] dự kiến của đồng minh là, nếu số dự trữ của CSVN ở Cam Bốt nhiều như vậy thì các căn cứ tiếp liệu hậu cần nằm trên đường xâm nhập Hồ Chí Minh ở Hạ Lào phải chứa nhiều hơn. Ðầu tháng 11-1970 đô đốc John McCain của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương yêu cầu đại tướng Creighton Abrams của Bộ Tư lệnh MACV điều nghiên một kế hoạch hành quân qua Hạ Lào để cắt đứt đường xâm nhập Hồ Chí Minh. Không giống như cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt, đô đốc McCain thông báo, kế hoạch đánh qua Lào có một giới hạn: Hoa Kỳ chỉ yểm trợ về không vận và không lực. QLVNCH là lực lượng đánh vào mục tiêu; cố vấn Mỹ của các đơn vị VNCH không được tháp tùng với đơn vị qua bên kia biên giới với bất cứ lý do gì. [6] Ðầu tháng 12-1970, Bộ Tư lệnh MACV loan báo và thăm dò ý kiến Bộ Tổng Tham mưu VNCH về một kế hoạch đánh qua Hạ Lào.
Lào và đường xâm nhập Hồ Chí Minh
B52
Vương Quốc Lào. Ðầu năm 1971, khi VNCH chuẩn bị tấn công vào những căn cứ hậu cần trên lãnh thổ Lào, thì Hoa Kỳ đã tham dự và điều khiển một chiến tranh “bí mật” ở vương quốc đó hơn bảy năm. Ở Thượng Lào, nhân viên CIA Mỹ điều khiển một đạo quân hơn 20 ngàn người của tướng Vang Pao, giao chiến thường xuyên với hai sư đoàn quân CSVN và Pathet Lào. Ở Hạ Lào, Lực lượng Ðặc biệt VNCH và Hoa Kỳ, từ năm 1964, đã xâm nhập vào nhiều địa điểm từ Ðèo Mụ Già xuống đến bình nguyên Bolovens để đánh dấu toạ độ cho những chiến dịch dội bom chiến lược bằng B-52. Gọi là “chiến tranh bí mật” vì Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ không thông báo cho Quốc hội biết về những ngân khoản quân sự chi tiêu ở Lào; và CSVN — dù bị dội bom thường xuyên — cũng không lên tiếng, vì họ luôn luôn tuyên bố họ không có quân hay căn cứ trên đất Lào. Chính phủ Hoàng gia Lào cũng không có chọn lựa nào khác hơn là yên lặng: họ hy vọng vào Hoa Kỳ để đẩy lui sự xâm lấn của CSVN. Trong sự phủ nhận của tất cả can sự, cuộc chiến tiếp tục xảy ra trong vòng “bí mật.” [7]
TruongSon-Trail
Ðường xâm nhập Hồ Chí Minh. Lực lượng CSVN/ Việt cộng ở miền Nam không thể tiếp tục chiến đấu hơn một năm nếu không nhận được tiếp liệu từ bên ngoài. Ðiều này đúng hơn khi các đơn vị cộng sản mở những cuộc tấn công với cấp số tiểu đoàn, trung đoàn trở lên. [8] Ðể nuôi sống ý định xâm chiếm miền Nam bằng võ lực, tháng 5-1959 CSVN thiết lập Ðoàn 559 để chuyển người và vũ khí vào nam. Nhiệm vụ của Ðoàn 559 là xây dựng và duy trì một hệ thống đường xâm nhập trên đất Lào, chạy dài từ đèo Mụ Già (rồi sau đó từ những con đèo băng qua biên giới ở Quảng Bình và Vĩnh Linh) xuống đến những tỉnh ở miền đông bắc Cam Bốt (khoảng Katum, Bù Gia Mập, phía VNCH). Từ năm 1959 đến năm 1965, phương tiện vận tải trên đường xâm nhập Hồ Chi Minh (ĐHCM) là sức người, xe đạp thồ, voi, hay trâu bò. Nhưng vào mùa khô năm 1965 (mùa khô ở Hạ Lào bắt đầu vào tháng 10 và kéo dài đến cuối tháng 4), CSVN quyết định cơ giới hoá phương tiện vận chuyển — dùng xe để chuyên chở. Dùng xe thì phải làm đường, và hệ thống đường vận tải của CSVN bung ra mọi nơi trên đất Lào. Năm 1971, khi QLVNCH soạn thảo kế hoạch đánh vào những căn cứ hậu cần trên con đường chiến lược đó, ĐHCM không còn là một “con đường” nữa, mà là một hệ thống đường ngang, đường dọc, chằng chịt trên đất Lào. Tài liệu của CSVN nói hệ thống ĐHCM có tất cả là 17.000 cây số. Ðó là con số phóng đại. Nhưng sự ước lượng đến từ VNCH và Hoa Kỳ thì tổng cộng hệ thống ĐHCM có không dưới 10.000 cây số. Một chi tiết mà hai phía đều công nhận: hệ thống ĐHCM gồm có sáu đường dọc (chạy từ bắc xuống nam); 21 đường ngang (từ tây sang đông, dẫn từ lãnh thổ Lào vào biên giới VNCH); và một số đường vòng không kể hết (đường vòng là đường dùng để trốn bom, hay chạy vòng ngang một trục lộ chánh đang bị bom phá hủy). Năm 1970 cũng là năm CSVN hoàn tất hệ thống ống dẫn dầu từ Quảng Bình qua đèo Mụ Già, vòng qua phía tây Tchepone và xuôi nam, đi vào thung lũng A Shau. Hệ thống ống dầu không lớn (ống có đường kính 20 phân), nhưng đủ để cung cấp nhiên liệu cho hơn 60 tiểu đoàn xe vận tải và hai trung đoàn xe tăng đóng ở Trung và Hạ Lào. [9]
Với cây số của hệ thống đường gia tăng, nhân lực và quân lực cần có để bảo vệ ĐHCM phải gia tăng. Ðoàn 559 lúc thành hình có cấp số tiểu đoàn với không hơn 400 người, năm 1970 được nâng lên cấp số binh đoàn với 63.000 quân, và 12.000 dân công tạp dịch. Từ một trạm giao liên dẫn đường duy nhất ở Khe Gió, bây giờ ĐHCM có 67 trạm giao liên đường bộ và đường thủy, và 30 binh trạm. Mỗi binh trạm có cấp số tương đương một trung đoàn. Năm 1969 ĐHCM chuyển vận được 78.000 tấn; và năm 1970, 74.000 tấn quân nhu dụng. Hệ thống phòng không bảo vệ những trục đường quan trọng gia tăng theo tỉ lệ số lượng hàng chuyển vận. Năm 1965 lực lượng phòng không trên ĐHCM có khoảng 190 súng phòng không; năm 1970 hoả lực phòng không bảo vệ đường có hơn 970 súng phòng không. Khẩu độ súng phòng không gồm đủ loại: từ loại 12.7 ly để chống trực thăng, đến 85 ly có tầm sát hại trên cao độ của vận tải cơ võ trang AC-130. Ðôi khi đại bác phòng không 100 ly được sử dụng để hăm doạ những phi tuần B-52. Nhiều hơn hết là loại 23 ly và 37 ly điều khiển bằng ra-đa, một vũ khí đáng sợ cho tất cả những phi cơ hoạt động dưới 10.000 bộ (bốn cây số). [10]
Hoa Kỳ và VNCH không phải không biết về sự bành trướng của ĐHCM. Từ năm 1964 VNCH và Hoa Kỳ đã đưa ra nhiều kế hoạch để ngăn chặn hay giới hạn lưu lượng xâm nhập trên ĐHCM. Nhưng Hạ Lào, với địa hình hiểm trở, rừng già che phủ mặt đất, và núi đồi “trùng trùng điệp điệp,” mọi kế hoạch đánh phá, ngăn chặn đã không đem lại kết quả như mong muốn. Trước khi những toán Lực lượng Ðặc biệt MACV-SOG hỗn hơïp Việt-Mỹ xâm nhập vào Hạ Lào để viễn thám, Lực lượng Đặc biệt VNCH đã đưa năm toán vào Hạ Lào trong hai tháng 4 và tháng 6 năm 1964 để thám thính. Tuy nhiên trong số 30 nhân viên của năm toán, chỉ có năm người trở về được, hai mươi lăm người kia chết hoặc mất tích. [11] Những Lực lượng Đặc biệt trở về báo cáo cho biết cán binh cộng sản dầy đặc ở Hạ Lào. Về phía Hoa Kỳ, ngoài những toán Lực lượng Đặc biệt được đưa vào thám thính những mục tiêu trên ĐHCM thường xuyên, từ năm 1968 Bộ Tư lệnh MACV đã thực hiện những chiến dịch dội bom chiến lược hàng ngày trên những của khẩu xâm nhập vào Hạ Lào. Chiến dịch dội bom Commando Hunt chỉ giới hạn vào bốn trọng điểm xâm nhập vào Hạ Lào: Ðèo Mụ Già, Bản Karai, Bản Ravin, và một cửa khẩu trên đầu của giao điểm Sông Rào Quảng và biên giới Lào (hướng tây bắc Khe Sanh). [12] Một ngày ba lần, mỗi trọng điểm bị ba phi tuần của chín pháo đài bay B-52 đội bom. Một B-52 thông thường chở 105 quả bom 500 cân. Khoảng giữa của những phi vụ B-52 là 125-150 phi vụ chiến thuật rải bom CBU nổ chậm, để ngăn chặn dân công sửa những đoạn đường vừa bị phá. Không quân Hoa Kỳ thực hiện những chiến dịch dội bom như vậy từ tháng 11-1968 cho đến tuần lễ cuối cùng của tháng 1-1971, trước khi QLVNCH chuẩn bị băng qua biên giới. [13]
Sự khai sinh của hành quân Lam Sơn 719
LS719-15a
Henry A. Kissinger trong hồi ký White House Years, nói về nguồn gốc đưa đến kế hoạch HQLS719 như sau, “Sự thành công thì có nhiều người cha. Nhưng thất bại là đứa con không người nhận.” [14] Ý ông Cố vấn An ninh Quốc gia muốn nói là, không ai trong chính phủ Nixon nhận là cha đẻ của kế hoạch HQLS719. Thật sự chúng ta không có nhiều tài liệu khẳn định ai tác giả “vẽ” ra kế hoạch. Nhưng nhiều tài liệu cho thấy Kissinger có tham dự và đốc thúc việc thực hiện HQLS719. Tài liệu rõ ràng nhất đến từ hồi ký của H. R. Haldeman, tham mưu trưởng Toà Bạch ốc, khi Kissinger nói với Haldeman là ông muốn nói chuyện với tổng trưởng quốc phòng Melvin Lair và đô đốc Thomas Moorer (Tham mưu Trưởng Ban Tham mưu Liên quân), trước mặt Tổng thống Richard Nixon, về kế hoạch HQLS719. Lý do là Kissinger muốn thấy Nixon trực tiếp ra lệnh cho hai người thi hành kế hoạch. Một tài liệu khác đến từ đại tướng Alexander Haig, phụ tá quân sự cho Kissinger lúc đương thời. Trong hồi ký Inner Circles, tướng Haig nói Ban Tham mưu Liên quân soạn kế hoạch HQLS719 qua sự thúc giục của Nixon và Kissinger. [15] Có thể là như vậy. Nhưng tài liệu cho thấy chính tướng Haig là người đích thân đem huấn lệnh của tổng Thống Nixon qua Sài Gòn ngày 13 tháng 12-1970, để thông báo cho MACV về kế hoạch đánh qua biên giới. [16]
Ai là tác giả kế hoạch HQLS719 có thể không quan trọng. Quan trọng hơn là vì lý do nào kế hoạch này được đề nghị với thẩm quyền. Sách vở và tài liệu cho thấy lý do chính trị và quân sự thúc đẩy sự thành hình của HQLS719 — lý do chính trị và quân sự của năm 1970-71.
Lý do chính trị. Kissinger — và cũng có thể Nixon — có một thúc đẩy chính trị khi đề nghị hay thúc đẩy kế hoạch HQLS719. Kissinger không nói ra điều này trong hồi ký. Dĩ nhiên ông sẽ không bao giờ nói ra những ẩn ý chính trị của một kế hoạch. Công chúng chỉ biết được điều này nhờ vào hồ sơ được giải mật sau này. Năm 2002 Trung tâm Lưu trữ Văn khố Quốc gia cho giải mật một văn thư của Kissinger liên hệ đến HQLS719. Trong văn thư, Kissinger giải thích sự cần thiết của HQLS719 đối với bối cảnh chính trị Mỹ cho hai năm 1971-72. Năm 1972 là năm bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ. Nixon cần được sự ủng hộ tuyệt để của cử tri. Ðể đền bù lại lời Nixon đã hứa với cử tri trong nhiệm kỳ thứ nhất, là ông sẽ kết thúc cuộc chiến ở Việt Nam trong trong vòng một năm sau khi nhiệm chức, lần ứng cử nhiệm kỳ hai, Nixon phải cho cử tri thấy cuộc chiến Việt Nam khả quan, nếu không nói là đồng minh đang thắng thế. Một cuộc tấn công qua Lào vào năm 1971 sẽ gây nhiều thiệt hại cho CSVN. Và nếu CSVN khôi phục lại sức lực để đe doạ tình hình an ninh cho VNCH, thì ít nhất họ cũng cần đến hơn một năm — nghĩa là sau khi cuộc bầu cử 1972 hoàn tất. [17] Kissinger hy vọng như vậy. Hơn nữa, từ tháng 8-1969 Hoa Kỳ đã lần lược rút quân theo kế hoạch — một tiến triển làm vừa lòng giới phản chiến — nếu cuộc tấn công qua Lào có kết quả như dự đoán, thì chương trình rút quân và chương trình Việt Nam hoá sẽ thành công theo ý muốn. Ðó là mưu lược chính trị của Kissinger trong tương quan của HQLS719 và mùa bầu cử 1972.
Lý do quân sự. Lý do quân sự cho kế hoạch HQLS719 thì quá rõ; không ai phủ nhận được — ngay cả phía CSVN. Sự thành công mỹ mãn trong lần đánh qua Cam Bốt. Quân lực CSVN gần như kiệt quệ. Nghị quyết 9 và những đợt rút quân về Bắc vì không còn đủ lương thực để nuôi quân… Tất cả những yếu tố đó thúc đẩy các tư lệnh Việt – Mỹ đi đến quyết định: đây là thời điểm tốt nhất để tấn công các căn cứ hậu cần của CSVN ở Lào; cắt đứt đường tiếp tế vào nam của cộng sản. Một yếu tố khác làm cho giới lãnh đạo Việt – Mỹ phải quyết định nhanh hơn: Cuối năm 1970 quân lực Mỹ còn 334 ngàn quân ở Việt Nam, với đầy đủ tiếp liệu và hoả lực. Nếu đánh là phải đánh ngay, nếu chần chờ, hoả lực yểm trợ của Hoa Kỳ sẽ mất dần theo đà rút quân trong những năm kế tiếp.
Với thực tế quân sự khả quan — để phục vụ cho một tương lai chính trị — Toà Bạch ốc ra lệnh cho Ban Tham mưu Liên Quân sơ thảo dự án cho HQLS719. Ðầu tháng 11-1970, Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương yêu cầu Bộ Tư lệnh MACV phát hoạ kế hoạch hành quân qua Hạ Lào. Mục tiêu chính là Tchepone; và tất cả các căn cứ hậu cần nằm từ hươùng đông nam Tchepone xuống tận A Shau.
Khái niệm “Hành quân” của HQLS719
LS719-1a
HQLS719 có cấp số quân đoàn, với một lực lượng tương đương ba sư đoàn tham dự. Cuộc hành quân có bốn giai đoạn. Giai đoạn I, có tên Dewey Canyon II, do các lực lượng Hoa Kỳ phụ trách. [18] Mục tiêu của giai đoạn I là giải toả quốc lộ 9 từ Ðông Hà đến biên giới Việt-Lào ở Lao Bảo; tái chiến căn cứ Khe Sanh để thiết lập Bộ Chỉ huy Tiền phương của HQLS719; và, tái thiết phi trường Khe Sanh làm điểm chuyển vận chánh. Giai Ðoạn II. Các lực lượng VNCH, dùng quốc lộ 9 làm hướng tiến quân, đánh chiếm Bản Ðông, một vị trí quan trọng nằm trên đường 9, cách biên giới chừng 12 cây số. Giai đoạn III: Sau khi củng cố lực lượng, quân Nhảy dù sẽ được trực thăng vận từ Bản Ðông đổ bộ vào chiếm Tchepone, khoảng 42 cây số từ Lao Bảo. Trong lúc đó lực lượng thiết kỵ vẫn tiến đánh dọc theo đường 9 để bắt tay với cánh quân ở Tchepone sau. Giai đoạn IV: Sau khi chiếm Tchepone và phá hủy căn cứ hậu cần ở đó, các đơn vị VNCH sẽ quây về hướng đông nam, tiếp tục lục soát và phá hủy căn cứ tiếp vận ở Aloui (Aluoi) Ta Bat, A Shau, trên đường trở về biên giới. Cuộc hành quân sẽ kéo dài ba tháng, khởi diễn sau Tết Tân Hợi (tháng 27 tháng 1-1971 là ngày Tết) cho đến đầu tháng 5, khi mùa mưa bắt đầu ở Hạ Lào.
Khái niệm “hành quân” được Bộ Tổng Tham mưu và MACV chấp nhận và truyền đạt xuống Quân đoàn I (QÐI) và Bộ Tư lệnh Quân đoàn XXIV (QÐXXIV). [19] Tuy nhiên trong thời gian QÐI và QÐXXIV bổ túc thêm những chi tiết phụ cho cuộc hành quân, Hoa Thịnh Ðốn vẫn chưa quyết định chắc chắn là HQLS719 sẽ được thực hiện hay không.
Những khiếm khuyết của hành quân Lam Sơn 719
Ở phần trên chúng ta thấy hoàn cảnh đưa đến quyết định thực hiện HQLS719 — hai ít ra là soạn thảo sự khả thi của kế hoạch. Phần này chúng ta nói về những khuyết điểm của HQLS719.
Khuyết điểm trong lúc soạn thảo
LS719-1
a. Sau khi Toà Bạch ốc và BTMLQHK đồng ý kế hoạch HQLS719, ngày 6 tháng 11-1970 Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương yêu cầu MACV soạn thảo kế hoạch. [20] Hôm sau, 7 tháng 11, Đại sứ Bunker và Đại tướng Abrams hội kiến 80 phút với Tổng thống Thiệu, trình bài những kế hoạch tấn công qua biên giới. Tổng thống Thiệu đồng ý trên căn bản ba kế hoạch đánh qua biên giới, và cho phép thực hiện ngay những kế hoạch có thể thực hiện được. [21] Ngày 11 tháng 1-1971 Tổng trưởng Quốc phòng Melvin Lair và TMT BTMLQHK, đô đốc Thomas Moorer, đến Sài Gòn và có hội kiến với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về kế hoạch HQLS719. Một lần nữa Tổng thống Thiệu tái xác định sự ủng hộ của VNCH. Vấn đề còn lại là sự ủng hộ của Vương quốc Lào. Nhưng cho đến ngày 21 tháng 1, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và VNCH vẫn chưa biết Hoàng thân Souvana Phouma của Lào có cho phép QLVNCH đem quân vào Hạ Lào hay không. Thêm vào đó, chính Tổng trưởng Ngoại giao William Rogers cũng không đồng ý kế hoạch HQLS719. Roger phản đối vì ông nghĩ đánh vào Tchepone là một kế hoạch nguy hiểm: Thành công thì không sao, nhưng nếu thật bại thì kế hoạch Việt Nam hoá của Hoa Kỳ sẽ mang tiếng xấu. Ngày 22 tháng 1, Souvana Phouma chỉ đồng ý cho QLVNCH đánh vào khu vực ở phía cực bắc vùng ba biên giới (Lào-Cam Bốt-Việt Nam, cực tây của Khâm Ðức). [22]
LS719-4
b. Với sự thuyết phục của Tổng thống Nixon, Ngoại trưởng Rogers lưỡng lự đồng ý. Sau đó Rogers ra lệnh cho Đại sứ McMurtrie Godley ở Vạn Tượng cố vấn cho Souvana Phouma lên tiếng về HQLS719. Phouma lên tiếng phản đối trước dư luận — sự phản đối có tính toán bên trong. Ðầu tiên ông lên tiếng phản đối bất cứ sự xâm phạm nào của VNCH vào lãnh thổ Lào. Rồi sau đó ông chỉ trích sự hiện diện của CSVN trên đất Lào, nói tất cả là lỗi của họ. Và cuối cùng, ông hy vọng QLVNCH sẽ… rời khỏi lãnh thổ Lào trong một, hai tuần (ý nói là hành quân càng ngắn càng tốt).
c. Nhưng khi thấy nhiều xung đột và bất đồng nhất từ cấp trên thẩm quyền dân sự (Bộ Quốc phòng vs Bộ Ngoại giao; Lair vs Rogers; Bộ Ngoại giao vs Nixon…) ngày 27 tháng 1 Đại tướng Abrams gởi điện văn cho TTMTLQ Thomas Moorer, nói ông sẽ hủy bỏ kế hoạch HQLS719, và sẽ chính thức loan báo với các bộ tư lệnh liên hệ vào ngày 29. Nhưng ngay ngày 27, Nixon họp với ban tham mưu và ra lệnh cho thực thực hiện Giai đoạn I của HQLS719 (QLHK tái chiếm Khe Sanh). Giai đoạn II sẽ quyết định sau, nhưng lệnh thực hiện hay hủy bỏ phải đến từ Hoa Thịnh Ðốn. [23] Ngày 29 tháng 1, Nixon ra lệnh MACV phối hợp và yểm trợ cuộc hành quân Toàn Thắng 1/71 đánh trở lại Cam Bốt với khoảng 19 ngàn quân VNCH tham dự. Nhưng quyết định tối hậu về HQLS719 vẫn chưa được thẩm quyền cao nhất quyết định. Sau cùng, ngày 4 tháng 2-1971, được lệnh của Nixon, đô đốc Moorer cho lệnh tiến hành Giai đoạn II. Và HQLS719 khởi hành.
Qua ba chi tiết a, b, và c trên, chúng ta thấy kế hoạch hành quân được đề nghị và soạn thảo trong sự e dè, thiếu nghị quyết, vì quá phụ thuộc vào quyết định chính trị. Kế hoạch có thể bị bại lộ từ sự thiếu quyết định này. Sự qua lại Sài Gòn của các thẩm quyền Mỹ không thể không làm cho giới lãnh đạo CSVN nghi ngờ. Càng nghi ngờ hơn khi ngày 15 tháng 12-1970, hoàng thân Phouma đã tuyên bố ở Vạn Tượng, là Lào không muốn VNCH có mặt ở Lào! Không cần suy luận nhiều, CSVN biết phải có chuyện gì Phouma mới tuyên bố như vậy. Sự thương lượng qua lại giữa Mỹ và Phouma có thể bị lộ, vì theo các nhân viên ngoại giao Mỹ, hệ thống bảo mật của chính phủ Hoàng gia Lào có nhiều lỗ thủng hơn cái… rổ!
Thêm vào lời tuyên bố của Phouma, ba sự kiện khác xảy ra trước đó càng làm cho CSVN khẳn định về ý định của VNCH và Hoa Kỳ — hay ít ra làm cho họ chuẩn bị phòng thủ. Sau cuộc tấn công ở Cam Bốt, tháng 9-1970 Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ đổ bộ thẳng vào Ban Bak (Bản Bạc) phá hủy binh trạm 37. Hai tháng sau, 11-1970, Hoa Kỳ nhảy thẳng ra Sơn Tây, moät vị trí cách Hà Nội không hơn 50 cây số. Rồi ngày 15 tháng 1-1971 VNCH dùng 19 ngàn quân đánh trở lại Cam Bốt. Với những cuộc tấn công dồn dập như vậy, CSVN phải nghĩ Hạ Lào sẽ là mục tiêu sắp tới. [24]
LS719-TLQD1
Nhiều lời đồn cho rằng CSVN đã biết được kế hoạch HQLS719 từ những điệp viên của họ có mặt ở Sài Gòn. [25] Nhưng với địa hình của vùng hành quân và trục lộ tiến quân, địch không thể nào không suy đoán được kế hoạch của chúng ta. Kế hoạch bị bại lộ không phải do sự tài tình của đối phương mà do sự trục trặc, thiếu phối hợp giữa VNCH và Hoa Kỳ. Sự thiếu phối hợp này vô tình “thông báo” kế hoạch HQLS719 cho đối phương. Trong khi Hoa Thịnh Ðốn, BTTM VNCH và MACV đồng ý sẽ giữ kín tin tức ít nhất cho đến ngày 4 tháng 2-1971 (trong nguyên thủy, ngày 4 tháng 2 là ngày chánh thức khởi đầu sự hành quân) trước khi tuyên bố ra công cộng. Nhưng ngày 25 tháng 1, nhiều sĩ quan cấp nhỏ ở Quân đoàn I đã được thông báo ngày giờ hành và kế hoạch hành quân rồi. Một trường hợp khác, ngày 22 tháng 1, chính trung tướng James Sutherland, tư lệnh QÐXXIV, chứng kiến trung tướng Hoành Xuân Lãm bàn về kế hoạch HQLS719 với chuẩn tướng Phạm Văn Phú và một số sĩ quan khác, trong khi họ đứng chờ máy bay ngoài phòng khách ở phi trường. [26] Một trường hợp khác: ngày 15 tháng 1, sau khi Bộ Tổng Tham mưu hoàn thảo kế hoạch HQLS719, chuẩn tướng Trần Ðình Thọ và thiếu tướng Donald Cowles của MACV bay ra Ðà Nẵng để thuyết trình cho tướng Lãm và Sutherland khái niệm hành quân. Ðể bảo mật nên số sĩ quan được mời tham dự rất giới hạn. Sau buổi thuyết trình, khi ra khỏi phòng chuẩn tướng Thọ gặp đại tá Cao Khắc Nhật, đại tá Nhật hỏi, “Tại sao không cho tôi tham dự buổi thuyết trình? Tôi đã hoàn tất soạn thảo kế hoạch hành quân [ở cấp quân đoàn]?” [27]
Ngày 31 tháng 1, nhật báo The New York Times đang tải một nguồn tin — trong đó có đoạn trích từ nhật báo London Observer — về kế hoạch HQLS719. Hai ngày sau, hãng thông tấn CBS News loan tải nguồn tin. Tin tức từ đài CSB khá chính xác về mục tiêu hành quân và quân số tham dự. Tin còn loan báo luôn ngày Tổng thống Nixon cho phép tiến hành kế hoạch hành quân. Như vậy, không những CSVN biết được kế hoạch, mà cả thế giới cũng biết luôn. [28]
Qua sự thiếu phối hợp trên, chúng ta nghĩ đối phương có thể suy luận ra kế hoạch HQLS719. Tin tức tình báo của VNCH và MACV xác định điều này, khi MACV “đọc” được những điện tín qua lại giữa các binh trạm và bộ tư lệnh Binh đoàn 559. Những điện tín cho ta biết CSVN đã thành lập một bộ tư lệnh có tên là 70B cho mặt trận “Ðường 9 – Nam Lào.” Quân lệnh chỉ thị các binh trạm 9, 27, 33, 34 chuẩn bị phòng thủ ngăn chặn cuộc tiến quân của QLVNCH. [29] Cũng từ những điện tín đó, MACV biết rõ số quân CSVN dự bị cho cuộc hành quân.
Khuyết điểm trong cuộc hành quân
Johnson-Thieu
Với tất cả những tài liệu về HQLS719 được giải mật trong những năm vừa qua, sau khi tham khảo, đa số các tác gia về quân sự đồng ý về một số khiếm khuyết quan trọng của HQLS719: (a) QLVNCH không đủ quân để đè bẹp áp lực của quân CSVN trong vùng hành quân; (b) hoả lực và không vận của QÐXXIV không đủ để yểm trợ cho lực lượng hành quân; (c) hệ thống quân giai của Hoa Kỳ và VNCH không được xác định rõ ràng và thi hành triệt để trong suốt cuộc hành quân, làm cho những quân lệnh không được thực hiện; và, (d) tin tức tình báo sai lạc đưa đến nhiều trở ngại cho vấn đề tiếp liệu, hoả lực dự trù, và sự thay đổi bất thần, giữa đường, của kế hoạch. a. Tháng 3-1967 ở hội nghị thượng đỉnh Guam, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên đề nghị với Tổng thống Lyndon Johnson một kế hoạch đánh qua Hạ Lào để cắt đường tiếp tế CSVN vào nam. Tổng thống Johnson không trả lời ngay lúc đó, nhưng cuối năm 1967, Đại tướng William Westmoreland ra lệnh cho ban tham mưu MACV soạn thảo một kế hoạch hành quân tương tự như HQLS719. Theo lời một đại tá phụ trách soạn thaûo Hành Quân OPLAN EL Paso, khái niệm hành quân cần ba sư đoàn Việt-Mỹ, tương đương 60 ngàn quân: một sư đoàn không kỵ và một sư đoàn bộ binh (Mỹ); và một sư đoàn Nhảy dù VNCH. Lực lượng tiếp liệu và yểm trợ cho đạo quân đó phải có khả năng yểm trợ cho cấp quân đoàn. Khái niệm hành quân đặt nặng vấn đề tiếp liệu bằng không vận, vì nhu cầu của lực lượng tại mặt trận cần ít nhất là 2.975 tấn quân nhu dụng một ngày. [30]
Kissinger trong hồi ký có nói khi ông hỏi Đại tướng Westmoreland về sự khả thi của HQLS719, Westmoreland nói cuộc hành quân cần ít nhất là bốn sư đoàn cộng để tấn công vào Tchepone. Và phải tấn công chớp nhoáng bằng trực thăng vận chứ không thể đánh đường bộ chậm chạp như đang thực hiện. [31] Qua những chi tiết trên, chúng ta thấy ba sư đoàn VNCH quá ít để áp đảo lực lượng đối phương trong những ngày đầu — khi quân CSVN chưa huy động tất cả lực lượng trừ bị của họ. Ở cao điểm của HQLS719, VNCH có 30.746 quân ở chiến trường Lào, gồm 16 tiểu đoàn tác chiến và 12 tiểu đoàn pháo binh. Trong khi đó, tại vùng hành quân, BTL 70B của CSVB có hơn 60 ngàn quân. [32]
Như tất cả học viên quân sự đều thuộc nằm lòng, khi tấn công thì quân tấn công cần tỉ số ba trên một nếu muốn thành công. Trong HQLS719 quân tấn công chỉ bằng phân nữa quân phòng thủ, mà lại tấn công vào một địa hình do đối phương hoàn toàn làm chuû. b. Yểm trợ và tiếp liệu cho cuộc hành quân đến từ QÐXXIV Hoa Kỳ. Quân đoàn XXIV được thành lập từ tháng 8-1968, và thay thế Quân đoàn III TQLC ở Vùng I VNCH. Sau Giai đoạn I của cuộc hành quân (bảo vệ đường 9 từ Ðông Hà đến Lao Bảo và tái chiếm phi trường Khe Sanh), vai trò của QÐXXIV được đặt nặng vào tiếp tế không vận và yểm trợ bằng không pháo (aerial artillery/ pháo binh của trực thăng võ trang) — và sự sống còn của các lực lượng ở chiến trường tùy thuộc vào sự hữu hiệu của hai khả năng này. Theo những tài liệu đến từ MACV, QÐXXXIV không đủ khả năng để yểm trợ cho cuộc hành quân, về hoả lực cũng như về không vận.
Tài liệu giải mật từ MACV cho thấy QÐXXIV có gần 600 trực thăng để phục vụ cho HQLS719. [33] Nhưng khả năng hoạt động của số trực thăng bị giới hạn vì hoả lực, thời tiết và bảo trì — những yếu tố mà hai tuần vào cuộc hành quân, MACV và QÐXXIV mới nhận ra. Chỉ nói về phương diện tiếp tế lương thực thôi, đạo quân 30 ngàn người ở chiến trường cần 150 phi vụ trực thăng một ngày để thoả mãn — và đây chỉ là nhu cầu tối thiểu với một ký thực phẩm và bốn lít nước cho mỗi người. [34] Qua tài liệu, chúng ta thấy những căn cứ hoả lực rất cần nước. Tác giả đại úy pháo binh Trương Duy Hy nói về những cảnh giành giựt nước tiếp tế trên đồi 30: thiếu nước uống, thiếu nước để lau chùi nòng súng pháo binh.. Tiểu đoàn 2 Nhảy dù trước khi di tản khỏi căn cứ hoả lực 30, đánh một điện tín lên trời, yêu cầu phi cơ liên lạc thông báo với tư lệnh sư đoàn Nhảy dù về tình trạng tiếp tế nguy ngập của tiểu đoàn. “Bị bao vây đã 10 ngày, có 200 thương vong, không có tiếp tế… không nước và lương thực hai ngày qua. Cần tiếp tế lập tức khi trời sáng.” [35]
LS719-7
Ðến ngày 24 tháng 2 BTL MACV bùng nổ vì vấn đề thiếu trực thăng: Ðại tướng Abrams điên lên vì sự quản trị — hay thiếu quản trị — nhu cầu không vận của BTL QÐXXIV. Sĩ quan dưới quyền của tướng Sutherland báo cáo về MACV là mặc dù tình hình trực thăng nguy ngập, nhưng trung tướng Sutherland vẫn không có một phản ứng nào thích hợp để giải quyết. Trong một trang giải mật của tác phẩm The Abrams Tapes, chúng ta đọc được những tiếng chửi thề của tư lệnh và tư lệnh phó MACV về sự quản trị và điều khiển nhu cầu cung ứng trực thăng cho mặt trận Hạ Lào. Chưa hả giận, tướng Abrams bay ra BTL QÐ XXIV để thị sát và… chửi thề tiếp. [36] Cũng biết thêm, Không quân Hoa Kỳ đã làm tất cả những gì họ có thể làm được để chuyển quân nhu dụng ra Ðông Hà và Khe Sanh. Từ Ðông Hà hàng có thể di chuyển bằng quân xa về Khe Sanh. Nhưng từ từ Khe Sanh ra vùng giao chiến thì chỉ trông chờ vào trực thăng. Sau ba ngày hành quân, ngày 11 tháng 2, Đại tướng Lucius Clay, tư lệnh Không lực 7 than thở trong buổi họp ở MACV: “Ngoài những phi vụ yểm trợ cho cuộc hành quân này [HQLS719] tôi bay 12.000 phi vụ yểm trợ một tháng. Tôi bay 21.000 phi vụ chuyên chở. Tôi bay 850-900 phi vụ thám thính. Ý tôi muốn nói là vấn đề bảo trì… chúng ta chỉ có thể bay đến một giới hạn nào đó thôi.” Tướng Abrams cũng không thể phủ nhận là khả năng không vận và không lực của quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam trong thời điểm đó đã đến mức tối đa. Chính tướng Abrams cũng thốt lên ý nghĩ đó vào ngày 27 tháng 2 — hai ngày sau khi đồi 31 của Lữ đoàn 3 Nhảy dù thất thủ: “Chúng ta đang ngập đầu với gánh nặng, ở Cam Bốt cũng như ở Lào.” Ở mặt trận Cam Bốt, ngày 23 vừa qua tướng Trí vừa tử nạn trực thăng. Và đến ngày 27, MACV báo cáo quân lực VNCH có 21.000 quân tại mặt trận Cam Bốt. Ðó là lý do tại sao Hoa Kỳ không còn khả năng không vận.
LS719-11
Kế hoạch HQLS719 cũng tính sai về khả năng yểm trợ hoả lực, không pháo từ trực thăng ở những bãi đổ quân. Trực thăng võ trang AH-1G hay những chiến UH-1C biến cải thành võ trang, không đủ hoả lực để đè bẹp phòng không của đối phương trên đường bay vào bãi đáp, hay hộ tống những phi vụ chở quaân. Một lần nữa, MACV và QÐXXIV không ước lượng được sự cuồng nộ của phòng không đối phương — càng lúc càng gia tăng theo thời gian của trận chiến. Khi MACV yêu cầu không quân Hoa Kỳ yểm trợ và tham dự vào kế hoạch dọn bãi đáp thì số trực thăng thiệt hại đã lên khá cao. Trước khi đó, thông thường BTL QÐXXIV chỉ yêu cầu 10-12 phi vụ dội bom chiến thuật từ không quân, rồi pháo binh và không pháo trực thăng đàn áp hoả lực phòng không để cho trực thăng đáp xuống. Nhưng sau 20 ngày hành quân, 31 trực thăng bị hủy hoại và 230 chiếc khác bị trúng đạn, phi công trực thăng Lục quân Hoa Kỳ e ngại hơn. Ngày 3 tháng 3, khi đổ quân vào bãi đáp LoLo ở đông nam Tchepone, trực thăng gặp kháng cự mạnh của phòng không. Cuộc đổ quân bắt đầu từ 10 giờ sáng, bị nhiều gián đoạn vì hoả lực của đối phương, đến 6:30 chiều mới hoàn tất. Kết quả: Liên đoàn 101 Không vận Trực thăng có 20 bị trúng đạn không cất cánh được; bảy bị hủy diệt hoàn toàn; và 42 bị trúng đạn hư hại. Sự khinh thường hoả lực phòng không của đối phương gây nhiều trở ngại và thiệt hại cho lực lượng tấn công. Cũng vì khinh thường đối phương nên QÐXXIV không “mời” Không lực 7 góp ý kiến vào những kế hoạch dọn bãi, nhất là những bãi đáp để tiến vào Tchepone vào đầu tháng 3. Sau lần thiệt hại ở bãi đáp LoLo, QÐXXIV chấp nhận phương cách dọn bãi đổ quân của Không lực 7. [37] c. Hệ thống chỉ huy và điều khiển của Hoa Kỳ và VNCH trong cuộc hành quân. Vấn đề chỉ huy và điều khiển phía VNCH đã được báo chí, sách vở bàn luận nhiều. Ở đây người viết chỉ lặp lại một số chi tiết đáng nhớ. Ðặt hai trung tướng Lê Nguyên Khang và Dư Quốc Ðống dưới quyền thống thuộc của trung tướng Hoàng Xuân Lãm gây nhiều trở ngại cho vấn đề chỉ huy và điều khiển. Sự bất hợp tác — và bất phục — tùng dĩ nhiên xảy ra. Tương tự, sự bất hợp tác hiện hữu khi Lữ đoàn 1 Nhảy dù (đại tá Lê Quang Lưỡng) nằm dưới quyền thống thuộc của Chiến đoàn 1 Ðặc nhiệm (đại tá Nguyễn Trọng Luật). Sự giậm chân tại chỗ năm ngày ở Bản Ðông của quân Dù và Thiết kỵ; cuộc giải cứu thất bại đồi 31, đêm 25 tháng 2… là những bằng chứng về sự bất hợp tác này. Tài liệu cho thấy sự bất đồng xảy ra khi tướng Khang đập bàn lúc nói chuyện với tướng Lãm. Tướng Lãm bay về Dinh Ðộc Lập để than phiền với Tổng thống Thiệu và Đại tướng Viên về tướng Ðống. [38] Cũng chính vì sự bất hợp tác này, trung tướng Lãm đã thay đổi kế hoạch giữa lúc trận chiến đang xảy ra: Sư đoàn 1 Bộ binh thay Sư đoàn Nhảy dù nhảy vào Tchepone; TQLC từ Khe Sanh sẽ đổ bộ vào những cao điểm phía nam đường 9, thay thế bộ binh của Sư đoàn 1. Sự thay thế này đã gây nhiều thiệt hại cho Sư đoàn TQLC ở hai cao điểm Hotel và Delta.
Hệ thống chỉ huy và điều khiển của Hoa Kỳ trong HQLS719, tuy không có vấn đề bất tuân hệ thống quân giai, nhưng họ lại quên chỉ định một quân giai để chỉ huy và điều khiển: Ở bộ tư lệnh tiền phương ở Khe Sanh, cho đến ngày 24, Hoa Kỳ không có một sĩ quan cấp tướng nào để chỉ huy và điều khiển các ông đại tá của các quân chủng khác nhau (sĩ quan liên lạc/ phối hợp của Không duân, Hải quân, Thuỷ quân Lục chiến…). Ngày 25 tướng Abrams mới cho một trung tướng ra bộ chỉ huy tiền phương để duyệt xét sự hợp tác và phối hợp giữa Không quân và Lục luân. Thêm vào sự khó khăn là các sĩ quan cố vấn cho các sư đoàn VNCH làm việc trực tiếp cho MACV, nên họ không phải trả lời cho BTL QÐXXIV, và họ điều khiển chiến thuật, cung cấp tiếp liệu, yêu cầu yểm trợ theo ý họ. Ðôi khi MACV phải giải quyết những trở ngại này từ Sài Gòn. [39]
Một sự thiếu hiệu quả khác của hệ thống chỉ huy và điều khiển là nằm xa nhau, khó “chạy qua, chạy lại” để hỗ trợ. BTL QÐXXIV nẵm ở Ðà Nẵng; QÐ I nằm ở Huế và Quảng Trị; và bộ chỉ huy tiền phương thì nằm ở Khe Sanh. Hệ thống chỉ huy như vậy không bảo đảm được sự liên tục của quân lệnh.
d. Tin tức tình báo sai lạc trong cuộc hành quân. Khi tấn công vào một địa hình do địch làm chủ hoàn toàn, ở một mặt trận xa hậu cứ, và đường tiếp tế thì giới hạn bởi chính địa hình đó, tin tức tình báo về lực lượng của đối phương rất quan trọng. Mọi sự sai lệch về tình báo sẽ là một yếu tố quan trọng đưa đến thắng thua trong trận chiến. Nhưng rất tiếc, tin tức tình báo mà ban tham mưu VNCH và Hoa Kỳ dựa vào để soạn thảo kế hoạch HQLS719 thì hoàn toàn sai lạc. Sai lạc về hoả lực, quân số, và địa hình của mặt trận gây nhiều khốn đốn cho lực lượng tấn công.
LS719-PKVC
Hoả lực phòng không. Ước tính tình báo sơ khởi do Không lực 7 cung cấp, cho biết Binh đoàn 559 và các đơn vị trực thuộc Binh đoàn 70B có khoảng 225-275 súng phòng không. Dựa vào tin tức này, QÐXXIV và Liên đoàn 101 Không vận Trực thăng nghĩ họ có thể “giải quyết được.” Càng nghĩ họ sẽ giải quyết và áp chế được số lượng phòng không địch ở Hạ Lào, nên chẵng những Lục quân không xin yểm trợ tối đa của Không quân, mà họ còn cho ước tính của Không quân quá cao. Nhưng ngược lại, ước tính của Không quân quá thấp: Khi lâm trận thì mới biết CSVN có từ 525-575 súng phòng không ở mặt trận. [40] Nhiều nhất là loại 12.7 ly. Loại súng này không lớn, không bắn được cao, nhưng đủ để triệt hạ những trực thăng đổ bãi. Và vũ khí đó đã làm thay đổi trận chiến rất nhiều. Ước lượng về hoả lực địa pháo cũng hoàn toàn sai: Không lực và pháo binh Ðồng Minh không phản pháo hay áp đảo được tất những ụ pháo của đối phương. Ðầu tháng 3, trung tướng Sutherland gọi điện thoại về nói với tư lệnh phó MACV Fred Weyand, “Ðịch có mặt mọi nơi. Súng cối và pháo binh gây nhiều phiền phức…” Tiểu đoàn 2 Nhảy dù di tản khỏi đồi 30 không phải vì áp lực bộ binh của địch mà là vì pháo. Hơn 1.000 quả pháo bắn vào đồi 30 trong hai ngày trước khi tiểu đoàn di tản, hủy diệt tất cả pháo binh của hai pháo đội đóng trên đồi. [41]
LS719-8
Sai lạc về địa hình. Không ảnh do Không lực 7 cung cấp và ước lượng cho biết đường 9 từ Lao Bảo về Bản Ðông lưu thông được. Xăng và nước uống sẽ được chuyển vận bằng quân xa theo lộ trình đó để tiếp tế cho mặt trận. Nhưng không ảnh hoàn toàn sai: Ðường 9 bị không quân dội bom từ năm 1966, cắt ra nhiều đoạn. Trên đường, đôi khi có nhiều lổ thủng bề ngang 6-7 thước, sâu 2-3 thước. [42] Khi những chuyến xa “tanker” loại 5.000 gallons gặp những khúc đường đó, họ không băng qua được được. Xăng và nước chỉ đến được Khe Sanh, từ đó ra chiến trường phải là trực thăng. Di chuyển bằng đường bộ không được gaây một gánh nặng cho không vận. Nước cho người đã là một gánh nặng; nặng hơn là nhiên liệu cho các lực lượng cơ giới. Lực lượng cơ hữu của Lữ đoàn 1 Kỵ binh có tổng cộng 62 xe tăng và 162 thiết giáp. Chưa kể những quân xa đi theo. [43] Cơ giới mà không có xăng thì cũng như không. Trên đoạn đường rút quân về biên giới, một số quân xa, thiết giáp, xe tăng, bị bỏ lại chỉ vì hết xăng. Khi BTL QÐXXIV biết được chuyển vận sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào không vận, thì khả năng không vận của quân đoàn đã quá mức tối đa, không còn xây chuyển được.
Một sai lạc về địa hình rất căn bản xảy ra trong HQLS719 nói lên sự thất bại của nguyên kế hoạch: lính đi qua Hạ Lào không được trang bị y phục cho thời tiết lạnh. Trên những cao độ ở Hạ Lào, ban đêm lính rất khổ sở vì lạnh. Rừng núi ở Hạ Lào vào tháng 2, trên đồi cao mà không trang bị quân phục ấm cho lính thì đó là một ước tính thiếu sót không hiểu được. Ðiều đó nói lên tất cả sự sơ sót của kế hoạch HQLS719.
LS719-10

[1]Sự quan trọng của Quyết nghị 9 được Bộ Tổng Tham mưu VNCH (BTTM VNCH) và Bộ Tư lệnh MACV (BTT MACV) nhắc đến nhiều lần trong những buổi họp quan trọng. Ðọc Lewis Sorley, The Abrams Tapes, trang 278-79, 282, 305. Ðiểm chánh của Nghị quyết 9 là CSVN không còn chủ trương một chiến thắng toàn diện bằng quân sự nữa, trái lại các đơn vị phải trở lại thế thụ động, đóng quân tại chổ cho đến khi tình hình thay đổi thuận lợi hơn. Ði đôi với chiến thuật án binh bất động, bộ tư lệnh B-3 (Tây Nguyên) đưa tất cả những đơn vị không cần thiết (tiếp vận và hậu cần) trở ngươïc về Bắc vì vùng đóng quân không còn gạo để nuôi lính. Tài liệu cho biết hơn 30 ngàn quân phải lội ngược trở về Bắc trong năm 1969-70. Ðọc Thượng tướng Ðặng Vũ Hiệp, Ký ức Tây Nguyên, trang 130-41; trung tướng Ðồng Sĩ Nguyên, Ðường xuyên Trường Sơn, trang 151-53.
[2]Một vài con số của năm 1969-70. Với tình hình an ninh làng xã được bảo vệ, mùa lúa năm 1970 miền Nam sản suất 6.5 triệu tấn lúa, nhiều nhất từ trước đến giờ. Thiệt hại của CSVN năm 1969 là 156.000 chết; và năm 1970 là 103.000. VNCH có 21.000 tử thương cho năm 1969; và 23.000 cho năm 1970. (Các con số được gom lại thành số thành số chẵn.) Một chi tiết khác cho thấy CSVN giới hạn lại những hoạt động quân sự trong năm 1970: Năm 1967 CSVN xâm nhập 101 ngàn quân; năm 1968, 244 ngàn; và 1969, 104 ngàn. Nhưng năm 1970, số quân xâm nhập chi còn hơn 57 ngàn. Con số này chỉ để bổ sung vào số thiệt hại trong năm đó. Tài liệu, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, Office of Assistant Chief of Staff, Intelligence (CFP-ODCSOPS-3/ 18.1. June 30, 1972).
[3]Chuẩn tướng Trần Ðình Thọ, The Cambodian Incursion, trang 171-72; 193-94
[4]Theo đại tướng Donn Starry (một đại tá lữ đoàn trưởng trong cuộc hành quân qua Cam Bốt), địa hình ở Cam Bốt lý tưởng đến độ, tại một mặt trận, 250 xe thiết vận xa dàn hàng ngang, cách nhau 25 thước một chiếc, và tấn công thẳng trên một mặt trận sáu cây sáu cây số chiều ngang, “áp đảo mọi kháng cự của đối phương.” Donn A. Starry, Mounted Combat in Vietnam, trang 172.
[5]Quân lực Hoa Kỳ rút quân ra khỏi lãnh thổ Cam Bốt vào ngày 30 tháng 6-1970. QLVNCH vẫn còn quân ở Cam Bốt để giúp đỡ quân đội Hoàng Gia Cam Bốt cho đến cuối tháng 8-1970. Tuy nhiên từ tháng 8 cho đến cuối năm 1970, QLVNCH vẫn ra vào lãnh thổ Cam Bốt tùy theo nhu cầu an ninh. Ðầu năm 1971, QLVNCH mở cuộc hành quân Toàn Thắng 1/71, với hơn 19 ngàn quân tham dự. Tài liệu chi tiết nhất về những cuộc hành quân qua Cam Bốt năm 1970 là, chuẩn tướng Trần Đình Thọ, The Cambodian Incursion. Gọi là những cuộc hành quân, vì ba cánh quân VNCH-Mỹ có tên khác nhau khi đánh qua Cam Bốt: Hành quân Toàn Thắng là cánh quân từ Quân đoàn III; Hành quân Cửu Long, là các đơn vị từ Quân đoàn IV; và Hành quân Bình Tây, đến từ Quân đoàn II. Trong một trường hợp, hành quân Toàn Thắng 42/ Ðại Bàng, để chỉ sự phụ trách riêng biệt của Sư đoàn Nhảy dù VNCH, tại một vùng trách nhiệm, trong một thời gian đặc thù. Ðọc Trần Ðình Thọ, sđd, cùng chương.
[6]Các quân lệnh trao đổi giữa BTL Thái Bình Dương và BTL MACV nằm trong Willard J. Webb, The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, 1971-1973, Part I, trang 15-20. Quân lệnh của tướng Abrams gởi cho các trưởng phòng của BTL MACV lưu trữ trong Abrams Special Collection, U.S. Army War College, Carlisle, Pennsylvania.
[7]Tài liệu, sách liên hệ về chiến tranh ở Lào, đọc Christoper Robbins, The Ravens: The Men Who Flew in America’s Secret War in Laos. Về những cơ sở điện tử, hệ thống ra-đa trên đất Lào, đọc Timothy Castle, One Day Too Long: Top Secret Site 85 and the Bombing of North Vietnam.
[8]Trung bình, một tiểu đoàn giao chiến hai ngày, cần hơn năm tấn đạn. Lương thực và những tiếp liệu khác chưa kể. Con số này đến từ cấp số vũ khí và đạn trang bị cho một tiểu đoàn bộ binh căn bản. Tài liệu và phương thức tính đến từ A Study of Data Related to Viet Cong/ North Vietnamese Army Logistics and Manpower, trang 25-35 (Document 5-3-17, Top-Secret, LBJ Library).
[9]Nguyễn Việt Phương, một cựu đại tá trong Ðoàn 559, ghi lại một số chi tiết về cơ cấu ĐHCM trong Trường Sơn: Ðường Hồ Chí Minh huyền thoại (2 quyển). Sách của các tác giả CSVN viết về ĐHCM nhiều, nhưng chất lượng không có. Nếu đọc kỹ và đối chiếu nhiều tài liệu với nhau, đọc giả sẽ thấy nhiều mâu thuẫn hiển nhiên. Tác giả viết bài này có nhận định tổng quát thư liệu về ĐHCM của CSVN trong “Binh đoàn, binh trạm, và đường đi B: Ðọc một vài quyển sách về Ðường Hồ Chí Minh” (Chuyên san Dòng sử Việt, Số 4, năm 2007. Có thể đọc trên Internet ở web site http://www.talawas.org).
[10]Tổng cục Hậu cần, Vận tải quân sự chiến lược trên Ðưòng Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ, trang 435. Trong số 970 súng phòng không, có 416 súng là loại 12.7 ly, số còn lại là từ 20 ly trở lên; và, Project CHECO, Headquarters Seventh Air Force, Commando Hunt V. Ðại bác phòng không 37 ly có tầm hiệu quả ở cao độ 10.000 bộ; 85 ly, 25.000 bộ; 100 ly, 31.000 bộ. AC-130 hoạt động khoảng 9.500 bộ; B-52, từ 28.000 đến 31.000 bộ.
[11]Về cơ cấu của MACV-SOG (Military Assistance Command-Studies and Observations Group) và chi tiết những điệp vụ xâm nhập vào Lào, đọc Military Assistance Command Vietnam, Command History, 1970. Appendix B, Part V, MACSOG Dcumentation Study (July 1970). Studies and Observations Group là một mỹ danh của Special Operations Group, một liên đoàn Lực lượng Ðặc biệt phụ trách về tình báo chiến lược cho BTL MACV.
[12]Sách của CSVN ghi tên các của khẩu là Ðường 12-Mụ Giạ-Seng Phan; Ðường 20-Ta Lê-Lùm Bùm; Ðường 18-Ðèo 700-Tà Lao. Không thấy tài liệu của họ nói về “Box Delta,” một cửa khẩu trọng điểm nằm ngay dưới vĩ tuyến 17 và biên giới Lào.
[13]Về những chiến dịch dội bom Commando Hunt ở Hạ Lào, đọc Project CHECO, Headquarters Pacific Air Forcce, Commando Hunt V. Trong cao điểm của chiến dịch dội bom chiến lược, Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược (Strategic Air Command là BTL điều khiển pháo đài bay B-52) cung cấp cho MACV 1.400 phi vụ B-52 một tháng. Khoảng 300 phi vụ được sử dụng bên trong lãnh thổ VNCH, số còn lại cho những mục tiêu ở Hạ Lào.
[14]Henry Kissinger, White House Years, trang 1004-05.
[15]H.R Haldeman, The Haldeman Diaries, trang 224-26; 239. Haldeman là Chief of Staff của tổng thống Nixon. Alexander Haig, Inner Circles, trang 273-76. Nhưng theo tác giả Seymour Hersh (the Price of Power: Kissinger in the Nixon White House, trang 308) thì chính Haig là người đề nghị kế hoạch HQLS719 với Kissinger. Những sự đổ thừa qua lại cho thấy không ai nhận làm tác giả một kế hoạch bất hoàn hảo — nếu không nói là thất bại.
[16]Ðại tướng Bruce Palmer, Jr., The 25-Year War, trang 108; Sorley, A Better War, trang 234-35. Từ tháng 1-1970 đến tháng 3-1971 tướng Haig đến Sài Gòn ba lần. Mục đích của chuyến đi ngày 13 tháng 12-1970 thì đã nói trên; chuyến viếng thăm giữa tháng 3-1971, là để thẩm định tình hình HQLS719 đang diễn ra. “… kế hoạch đánh qua biên giới.” Là ám chỉ hành quân Toàn Thắng 1/71, đánh trở lại vùng đồn điền Chup, Krek, và phía nam Kompong Cham.
[17]Tài liệu do National Archives giải mật và được nhật báo The Washington Post đăng tải ngày XXX.
[18]Một số các tài liệu Hoa Kỳ nói về HQS719 đôi khi dưới tên Dewey Canyon II. Thật sự Dewey Canyon II là một phần của HQLS719, và chỉ là những hoạt động của quân lực Hoa Kỳ ở bên này biên giới. Lý do gọi là Dewey Canyon II, vì hai năm trước đó, tháng 1-1969, TQLC Hoa Kỳ đã có hành quân Dewey Canyon đánh qua biên giới Lào ở khu vực A Shau, vào căn cứ hậu cần 611 và 609 do Binh trạm 42 phụ trách. Cuộc hành quân năm 1969 rất giới hạn (sâu vào biên giới Lào từ bốn đến sáu cây số) nhưng phá hủy và tịch thu nhiều vũ khí, quân nhu dụng của CSVN. Lewis Sorley, The Abrams Tapes, trang 129, 156; Shelby Stanton, The Rise and Fall of An American Army, trang 295-300.
[19]Vì hành quân ở vùng trách nhiệm của Quân đoàn I, trung tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Quân đoàn I được cử làm tư lệnh cuộc hành quân. Quân đoàn XXIV là BTL Mỹ phụ trách Vùng I. Trước đây, BTL Quân đoàn III TQLC (III Marine Amphibious Force) phụ trách địa phận này. Cuối năm 1969, TQLC Hoa Kỳ bắt đầu rời Việt Nam trong chương trình Việt Nam hoá, và MACV lập ra BTL Quân đoàn XXIV để thay cho III MAF.
[20]Ngày tháng và nội dung của những điện văn, quân lệnh trao đổi giữa BTL TBD và BTL MACV nằm trong The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, 1971-1973, Part I. Một số điện văn trao đổi giữa BTMLQHK, BTL TBD, MACV được sơ lược trong Lewis Srley, A Better War, trang 228-246.
[21]Ba kế hoạch tấn công qua biên giới là, tấn công qua Cam Bốt, Hạ Lào, và đột kích bí mật qua vĩ tuyến 17. Cuộc tấn công qua Cam Bốt là hành quân Toàn Thắng 1/71, với 19 ngàn quân tham dự. Lewis Sorley, sđ
[22]Ðây là khu vực của binh trạm 37, nằm trên một vùng có tên là Ban Bak (tài liệu CSVN gọi là Bản Bạc), khoảng 60 cây số từ biên giới Việt Nam. Nếu nhìn bản đồ quân sự, vùng này nằm bên trái quốc lộ 14, hướng tây của Khâm Ðức. Ðây là caên cứ 609, căn cứ hậu cần lớn nhất sau Tchepone. Trung tuần tháng 9-1970, LLÐB Mỹ tấn công vào binh trạm này trong cuộc hành quân Tailwind. Trong cuộc hành quân đó, LLÐB Mỹ bị vu cáo đã dùng vũ khí hơi độc Sarin. Bộ Quốc phòng Mỹ phải giải mật một số hồ sơ về cuộc hành quân để phản đối tin đồn sai lạc này.
[23]The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, trang 24-25.
[24]Một ký giả Mỹ viếng thăm Hà Nội kể lại, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch nói Tổng thống Nixon có khuynh hướng làm những chuyện táo bạo, và chính phủ Hà Nội phải dự kiến nhiều viễn tượng bất ngờ sau hai lần bị tấn công vào Ban Bak và Tây Sơn. Seymour Hersh, The Price of Power, trang 306.
[25]Larry Berman, trong tác phẩm về điệp viên Phạm Xuân Ẩn, nói Ẩn biết được kế hoạch HQLS719 từ một “đại tá Nhảy dù và LLÐB.” Tuy nhiên, qua những gì chúng ta đọc được trong sách, đây chỉ là những lời đoán mò, nếu không là nói dóc của Phạm Xuân Ẩn. Ðọc Perfect Spy: The Incredible DoubleLife of Pham Xuan An, trang 184-85.
[26]Ðại úy Trương Duy Hy trong Tử thử căn cứ hoả lực 30 Hạ Lào, cho biết ngày 25 tháng 1-1971, ông và nhiều sĩ quan được gọi về bộ chỉ huy tiểu đoàn pháo binh để nghe thuyết trình về cuộc hành quân. Trong buổi họp, tin chánh thức cho biết hành quân sẽ khai diễn sau Tết Tân Hợi (Mùng Một Tết năm 1971 là ngày 27 tháng 1). Về chuyện tướng Lãm nói chuyện với tướng Phạm Văn Phú ở phi trường, đọc John Prados, The Blood Road: The Ho Chi Minh Trail and the Viet Nam War, trang 322-23.
[27]Ðọc thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Lam Son 719, trang 34. Ðại tá Cao Khắc Nhật là tham mưu trưởng Quân đoàn I; Chuẩn tướng Trần Ðình Thọ, Phòng 3, BTTM; thiếu tướng Donald H. Cowles, Phòng 3, MACV.
[28]The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, trang 26-28. Phóng viên Marvin Kalb nói trúng phóc ngày Nixon ra lệnh tiến hành Giai đoạn I của HQLS719.
[29]Sorley, The Abrams Tapes, trang 428, 525, 530, 599. Binh trạm 9 phụ trách vùng Tchepone, Bản Cộ, Thà Khống (đường 18); binh trạm 27 phụ trách đường 16, đi về Bản Ðông; 33 và 34 phụ trách đường 914 từ Tchepone về Bản Ðông, nằm phía tây nam đường 9.
[30]Ðại tá John M. Collins, Oplan El Paso, Joint Forces Quarterly, Autumn/Winter 1997-98, trang 118. Quân số cho cuộc hành quân là 60 ngàn, nhưng vùng hoạt động của Oplan El Paso lớn hơn HQLS719: Ðông Khe Sanh, Bắc sông Xe Banghiang, tây Muong Phine, nam Muong Nong. Sư đoàn của Mỹ đông hơn của VNCH rất nhiều: sư đoàn không kỵ có quân số 22 ngàn; sư đoàn bộ binh điển hình có 16 ngàn. Con số 60 ngàn cho ba sư đoàn, chắc là cộng thêm những đơn vị công binh, thiết kỵ, pháo binh cơ hữu của sư đoàn.
[31]Kissinger, sđd, trang 1005. Trong trang này, Kissinger nói ông nói chuyện với Westmoreland ngày 23 tháng 2 (hai ngày trước khi căn cứ hoả lực 31 thất thủ; năm ngày sau khi hai tiền đồn của BÐQ đã mất), và Westmoreland nói bốn sư đoàn là lực lượng tối thiểu cho cuộc hành quân. Nhưng ở trang 906, Kissinger lại nói kế hoạch trong quá khứ do Westmoreland soạn thảo cần đến hai quân đoàn lính Mỹ (chữ nghiên của người viết). Kissinger nói hai quân đoàn cũng có lý do, nếu một sư đoàn là 10 ngàn quân (ba sư đoàn là một quân đoàn; 60 ngàn quân trong ước tính của Oplan El Paso, trên căn bản, là hai quân đoàn).
[32]Số quân 30.746 VNCH đến từ phiếu đệ trình, Phòng 3, BTTM, Gởi Tổng trưởng Quốc phòng, đề mục: Tổng kết tổn thất bạn/ địch trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Ngày 10 tháng 4-1971, BTTM cho lưu hành tài liệu này để cho các cơ quan liên hệ sử dụng khi nói về thiệt hại bạn/ địch trong cuộc hành quân. Nhưng phải nhấn mạnh ở đây, 30 ngàn quân là tổng số quân chánh thức tham dự HQLS719. Số quân thật sự ở mặt trận quá 19 ngàn trong cao điểm cuộc hành quân. Số quân 60 ngàn CSVN đến từ Merle Pribbenow, translator, Victory in Vietnam: The Official History of the People’s Army of Vietnam, 1954-1975, trang 274 (Ðây là bản dịch cuốn Thời kỳ trưởng thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hà Nội: Quân Ðội Nhân Dân, 1994.) . Trong tài liệu này, CSVN nói đầu tháng 2-1971 ở vùng hành quân họ có năm sư đoàn bộ binh (308, 304, 320, 324, và 2); hai trung đoàn độc lập (27 và, 278); tám trung đoàn pháo binh; ban trung đoàn công binh, ba tiểu đoàn xe tăng; sáu trung đoàn phòng không; tám tiểu đoàn đặc công; và các đơn vị hậu cần, vận tải. Tài liệu đến từ Ban Tham mưu Liên quân cho biết cuối tháng 3, ở một vài mặt trận CSVN có quân gấp ba lần quân VNCH. The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietam, trang 43.
[33]Người viết dùng hai tài liệu cho phần này, Lewis Sorley, The Abrams Tapes; và, Headquarters 101st Airborne Division (Airmobile), Final Report: Airmobile Operations in Support of Operation LAMSON 719 (24 April 1971). Phần lớn trực thăng, 426 chiếc, đến từ Liên đoàn 101 Không vận Trực thăng (101st Aviation Group), số còn lại đến từ những tiểu đoàn xung kích, không pháo, cứu thương, quan sát. Trong số gần 600 trực thăng này, chỉ có 53 là loại chuyên chở nặng, CH-47, và hơn 100 chiếc loại AH-1G (gunship). Thêm vào đó khả năng “chuẩn bị tác chiến” (sẳn sàng để bay) của tất cả trực thaêng chỉ được 70%. Ba tuần cuối cùng của trận chiến, QÐXXIV “mượn” được thêm hơn 100 trực thăng nữa, nâng tổng số lên gần 700 chiếc. [34]Ba lon gạo và 250 grams đồ ăn là một ký; bốn lít nước (tương đương một gallon) là bốn ký. Ba mươi ngàn người cần 150.000 ký (150 tấn). Trọng tải an toàn cho trực thăng UH-1 là 1.000 ký một phi vụ. Trở lại kế hoạch Oplan El Paso, dự liệu tiếp tế cho quân số 60 ngàn là 3.000 tấn một ngày — 50 ký cho mỗi đầu người. Dĩ nhiên con số này tính luôn quân nhu dụng cần để tác chiến. Giả dụ HQLS719 chỉ cần 1/3 nhu cầu của Oplan El Paso (16.6 ký mỗi đầu người), thì phải cần gần 500 phi vụ để cung ứng cho 30 ngàn quân. Ðó là chưa nói đến phi vụ cứu thương, yểm trợ hoả lực, hộ tống và thám thính. Tài liệu cho biết số quân cao nhất VNCHcó ở Hạ Lào là 19 tiểu đoàn tác chiến và 12 tiểu đoàn pháo binh (có tài liệu nói 18 tiểu đoàn tác chiến và 10 tiểu đoàn pháo binh trong cao điểm cuả chiến trường).
[35]Headquarters Pacific Air Force, Project CHECO, Lam Son 719, trang 102. Ðiện tín đánh lên cho máy bay tiền sát vào đêm 4 tháng 3, nhờ chuyển về BTL sư đoàn Dù ở Khe Sanh. Tiểu đoàn 2 Nhảy dù di tản khỏi căn cứ bằng đường bộ chiều hôm sau. Cảnh thiếu nước được tác giả Tử Thử Căn Cứ Hoà Lực 30 Hạ Lào nhắc lại nhiều lần trong sách.
[36]Lewis Sorley, The Abrams Tapes, trang 545-46; A Better War, trang 251-53.
[37]LoLo là bãi đổ quân xa nhất từ biên giới cho đến ngày 3 tháng 3. Ðây là bãi đổ quân để chuẩn bị nhảy vào Tchepone. Sau LoLo là các bãi đáp Liz, Sophia, và cuối cùng là Hope, ngày 6 tháng 3. Không quân dọn bãi đáp Liz ngày 4 tháng 3 rất “rẻ, đẹp, bền.”: một trái BLU-82 (15.000 cân); 14 phi vụ B-52; 10 phi vụ dội bom chiến thuật; 13 phi vụ bom CBU nổ chậm chống người. Sau đó trong khi chờ trực thăng đến bãi đáp, cứ 10 phút có một phi vụ dội bom chiến thuật cho đến khi đoàn trực thăng xuất hiện. Trong 62 trực thăng đổ quân, hai chiếc bị bắn hủy diệt và 18 bị trúng đạn. Ở bãi đáp Hope: 25 phi vụ B-52; hai trái BLU-82; 50 phi vụ chiến thuật cho các loại bom CBUs; và trong lúc trực thăng lên xuống đổ quân, thên 29 phi vụ bom chiến thuật nữa. Kết quả, không một trực thăng nào bị thiệt hại ở Hope. Ðọc Project CHECO, Lam Son 719, trang 93-101.
[38]Chuyện tướng Khang và tướng Lãm, The Abrams Tapes, trang 566-67; Tướng Lãm than phiền tướng Ðống, điện văn Top Secret MAC 02455 Eyes Only, đại tướng Abrams gởi trung tướng Sutherland, 9 March, 1971; điện văn Top Secret, QTR 0306, Eyes Only, Sutherland gởi Abrams, 10 March 1971.
[39]Sĩ quan cố vấn cho Sư đoàn Nhảy dù, và Sư đoàn TQLC là hai thí dụ điển hình. Cố vấn TQLC Hoa Kỳ đã tận tình cứu nguy cho Tiểu đoàn 4 TQLC ở đồi Delta đêm 25 tháng 3, khi đồi bị tràn ngập (người cố vấn xin trực thăng CH-53 của Hải quân Hoa Kỳ thẳng từ Hạm đội 7, thay gì qua đơn vị cơ hữu không vận của QÐ XXIV). Trong khi cố vấn Nhảy dù thì không nắm vững tình hình của các đơn vị Nhảy dù mà ông đang cố vấn. Sau khi Ðồi 31 thất thủ, tướng Arams bất thần giải nhiệm đại tá cố vấn Sư Nhảy dù William Arthur Pence, và thay bằng đại tá James Vaught. Vaught sau này về hưu với cấp bậc trung tướng và vẫn tình bạn với lính dù VNCH cho đến ngày hôm nay.
[40]Project CHECO, trang 19. Trong số lượng súng đó, có 170-200 súng loại từ 23 ly đến 100 ly. Số còn lại có khẩu độ nhỏ, 12.7l y đến 20 ly, nhưng gây nhiều thiệt hại nhất.
[41]Sorley, A Better War, trang 250. Ðại úy Trương Duy Hy cũng ghi lại điều này trong sách của ông.
[42]Sorley, sđd, trang 246. Chuyên viên không ảnh không nhận ra được những chi tiết đó, vì sau một thời gian, cỏ mọc phủ lên, chụp không ảnh không thể phân biệt được.
[43]Tiếp liệu trên đoạn đường Ðông Hà-Khe Sanh rất phức tạp, với hơn 1.000 chuyến xe một ngày trên đoạn đường một xe đi (one-lane road). Chuyên chở xăng bằng trực thăng tốn kém nhiều phi vụ. Một lít xăng nặng 878 grams. Quân xa loại bốn tấn (GMC) chạy 5km một lít xăng; xe tăng M-41, 2.5 lít một cây số; M-113, 3 cây số một lít. Xe “tanker” chở xăng mà chúng ta thấy chạy trên xa lộ, có trọng tải tối đa 6.000 gallons (24 ngàn lít), nhưng thông thường chỉ chở 5.000 gallons (20 ngàn lít). Di chuyển 5.000 gallons xăng cần 17 phi vụ trực thăng UH-1, hay năm phi vụ của CH-47.

Khe Sanh (1967-1968)- Hoa kỳ thắng cộng sản Việt Nam trên chiến trường nhưng thua việt cộng ở Hoa Thịnh Đốn

KheSanh
Trên tờ Washington Star ngày 9-6-1968 có đăng một bài bình luận như sau ‘ Chắc chắn trận chiến tại Khe Sanh sẽ là một đề tài lôi cuốn nhiều cuộc tranh luận kéo dài. Tuy nhiên dù ai có muốn viết gì chăng nữa thì cũng phải xác nhận rằng, chính nó mới là một yếu tố quan trọng quyết định rút bỏ VN sau này. Ngoài ra Khe Sanh còn nói lên được tấm gương dũng cãm phi thường của người chiến binh Mỹ và đồng minh Nam VN tham chiến. Nên cuối cùng sớm muộn gì người dân Hoa Kỳ cũng nhận ra chiến thắng đó khi họ đã chạm với bộ mặt thật của CSVN
Và bốn mươi mốt năm sau, ngày 20-1-2009 tại Hoa Thịnh Ðốn, trong buổi lễ nhậm chức tân tổng thống Mỹ Barack Hussein Obama, qua bài diễn văn có nhắc tới sự hy sinh dũng cảm của những người lính Mỹ tại chiến trường Khe Sanh trong tỉnh Quảng Trị thuộc Vùng I Chiến Thuật của VNCH, khi so sánh địa danh này với các trận đánh lừng danh trong quân sử thế giới như Concord, Gettyburg và Normandy..
Năm 1984 nhân dịp Lê Duẩn lúc đó đang là tổng bí thư đảng VC có ghé trụ sở hội nhà văn quốc doanh gần Hồ Tây, được Xuân Thiều (tạp chí văn nghệ quân đội) và Bùi Bình Thi (văn học) chất vấn về sự thất bại của VC trong trận Khe Sanh và Tết Mậu Thân 1968. Cả hai đã được Duẩn trả lời như sau ‘ Trận Khe Sanh và Tết Mậu Thân 1968 là những chiến thắng to lớn, có ý nghĩa buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Hy sinh bao nhiêu cũng là xứng đáng là cần thiết. Không có những chiến thắng này thì không thể có toàn thắng 30-4-1975.
Trong cuộc phỏng vấn của nữ ký gia O. Fallaci với Võ Nguyên Giáp được J.Shepley chuyển ngữ và đăng trong ‘ Inteview with History ‘ với đại ý của câu hỏi, là có phải Giáp đã tạo ra một Điện Biên Phủ thứ 2 tại Khe Sanh để nhốt quân Mỹ hay không ? và Giáp đã trả lời là chẳng bao giờ xãy ra điều này, vì Khe Sanh lúc đó chỉ quan trọng đối với mặt mũi của nước Mỹ mà thôi. Leo thang chiến tranh tại Khe Sanh để gây thêm nổi chết chóc của cả hai phía, mới thật sự thu hút dư luận Mỹ. Ðó mới là chiến thắng sau cùng.
Thật sự đến bây giờ qua hàng ngàn tài liệu của nhiều phía được giải mật có liên quan tới trận Khe Sanh (1967-1968) nhưng cũng chưa có ai dám xác quyết về ý đồ của Hà Nội dùng trận
đó với âm mưu ‘ đánh lạc hướng quân đội Mỹ để mở cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 vào lảnh thổ VNCH ‘ hay lấy việc nướng quân trước bom đạn Mỹ tại Khe Sanh để làm nản lòng người Mỹ trước sự phụ họa của đám phản chiến. Ðồng thời Hà Nội gây áp lực với Tàu Ðỏ viện trợ súng đạn như lời thố lộ của Duẩn nói mình đã mặc cả với Mao là sự hy sinh nhiều hay ít của VC đều tùy thuộc vào nguồn quân viện của Trung Cộng nhưng nhất định là phải thắng Mỹ dù có hy sinh thêm 2 hoặc 3 triệu mạng người Việt.
Trong cuốn ‘ Chiến dịch đường 9 , Khe Sanh chung một bóng cờ ‘ xuất bản tại Hà Nội năm 1993, VC có khoe thành tích chiến thắng tại Khe Sanh với 17.000 tử thương trong đó có 13.000 lính Mỹ và 4000 VNCH, 400 máy bay các loại bị bắn hạ, thu được nhiều chiến lợi phẩm. Về phía Mỹ cho biết có 205 tử trận, bị thương nặng nhẹ khoảng 1500 người. Riêng Tiểu Ðoàn 21 và 37 Biệt Ðộng Quân/VNCH có 34 tử trận, VC bỏ xác tại chỗ hơn 2000 ngưới. Nói chung qua 77 ngày tử chiến tại mặt trận Khe Sanh, trong cũng như ngoài căn cứ kể luôn tai làng Vei, tính chung Mỹ và VNCH tử thương khoảng 650 người, bị thương nặng nhẹ 2500 người. Về phía VC thương vong từ 12000 – 15000 người.
Cuối cùng Khe Sanh đã đứng vững và được giải tỏa trước vòng vây từ 15000 – 20.000 quân Bắc Việt nhưng rồi cũng phải phá bỏ căn cứ này vào cuối tháng 6-1968 vì áp lực của phong trào phản chiến đang tàn phá nước Mỹ vì chiến tranh VN. Đó là cái giá máu mà người lính Mỹ và VNCH đã đổ tại Khe Sanh suốt mấy chục ngày tắm trong bom đạn của kẻ thù, rốt cục được đem ra đánh đổi để làm xoa dịu vừa lòng đám loạn tặc phản chiến, sau khi tướng Abrams thay thế tướng West làm tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ và Ðồng Minh tại VN. Từ đó cho tới khi có cuộc hành quân Hạ Lào 719, Khe Sanh và hành lang biên giới Lào Việt được khoán trắng cho Không Quân Chiến Thuật và Chiến Lược Hoa Kỳ, ngày đêm dội hàng ngàn tấn bom xuống một vùng đất chết vì số lượng thuốc nổ đã sử dụng tại đây nhiều gấp năm lần quả bom nguyên tử đầu tiên của Mỹ chế được, đã thả xuống thành phố Trường Kỳ (Nagasaky) của Nhật trong những ngày cuối của Thế chiến II.
1- KHE SANH : ÐIỆN BIÊN PHỦ THỨ 2 TRONG CHIẾN TRANH VN ?
khesanh
Từ đầu năm 1966, qua sự chấp thuận của đại sứ Mỹ tại Lào là William Sullivan nên đoàn nghiên cứu quan sát (SOG) đã có thể sử dụng trực thăng để thả hay bốc các toán viễn thám hoạt động dọc theo biên giới Lào-Việt với quân số trên 20 toán và vài đại đội xung kích thuộc các sắc tộc thiểu số tại cao nguyên Trung Phần. Thời gian này đơn vị SOG đã được trang bị súng tiểu liên nòng ngắn báng xếp CAR-15, trong khi QLVNCH lúc đó chưa được cấp phát súng M-16. Mùa hè 1966, SOG thêm nhiệm vụ mới là kiểm chứng các trận dội bom (Bomb Damage Assessment) do B-52 vừa mới thực hiện. Nhờ vậy SOG cũng như các phi vụ không ảnh đã nắm được sự hoạt động của cộng sản Bắc Việt đang hoạt động trên đường mòn HCM.
Cũng trong năm 1966, SOG đã mở chiến dịch Shining Brass qua 48 lần xâm nhập vào các căn cứ CSVN tại vùng phi quân sự, đường số 9 tới Tchepone trên đất Lào và căn cứ Khe Sanh. Nhờ đó SOG mới khám phá được địa danh ‘ Khe Núi Xe Ðạp ‘ là một thung lũng hẹp nơi phát xuât của đoàn xe đạp thồ đủ mọi thứ kể cả súng đạn từ Bắc xuôi Nam với trọng tải mỗi chiếc trên 200 ký do dân công phụ trách.
Tại căn cứ Lực Lượng Ðặc Biệt ở Khe Sanh, các toán viễn thám thuộc SOG được vận chuyển bởi phi đoàn 219 thuộc KQ/VNCH do hai phi công VN tài ba mang biệt danh là Cowboy và Mustachio nhưng sau đó Mustachio đã đền nợ nước trong một phi vụ rãi toán viễn thám Nevada bị bắn hạ tại Khâm Ðức (Kontum). Mùa thu năm 1966 Trung Tướng Lewis W Walt tư lệnh Ðệ Tam Thủy Bộ qua cuộc hành quân Hastings, thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã đầy lui quân Bắc Việt về bên kia vỹ tuyến và lập hai căn cứ chiến lược Cồn Thiên và Rockpile. Giai đoạn này các toán viễn thám được thả sâu vào lảnh thổ Lào để nghe lén hoạt động của quân Bắc Việt qua các đường dây điện thoại, nhờ vậy mới phát hiện Hà Nội đang chuẩn bị tấn công vào hai tỉnh cực Bắc của VNCH. Ngày 28-6-1966 nhiều toán viễn thám lần lượt bị tiêu diệt khi nhảy vào các vị trí gần Khe Sanh. Cuối cùng toán viễn thám Colorado cũng đạt được kết quả khám phá các căn cứ của quân CS Bắc Việt bao quanh vùng này nhờ gắn được máy nghe lén các cuộc điện đàm của địch.
Từ những ngày đầu của thâp niên 60 thời đệ nhất cộng hòa Nam VN, các cố vấn Hoa Kỳ đã có kế hoạch trùng tu và xây dựng các căn cứ phòng thủ ngăn chận sự xâm nhập của cán binh bộ đội Bắc Việt vào lảnh thổ VNCH mà Khe Sanh là một vị trí trọng yếu nhất. Ðây là một căn cứ yểm trợ hỏa lực cho Ðệ Tam Thủy Bộ Mỹ, nằm gần một sân bay cũ của Pháp. Khe Sanh còn là hậu cứ trực tiếp yểm trợ cho các đơn vị Dân Sự Chiến Ðấu thuộc Binh Chủng Lực Lượng Ðặc Biệt VN do Mỹ yểm trợ, huấn luyện và chỉ huy. Cuối năm 1966 căn cứ chiến lược Làng Vei nằm sát biên giới Lào Việt về hướng cực tây tỉnh Quảng Trị được xây dựng hoàn tất, nên Lực Lượng Ðặc Biệt đã di chuyển về đó và bàn giao Khe Sanh cho Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.
Cũng từ đó cho tới khi bị phá bỏ vào tháng 6-1968, Khe Sanh được trùng tu, xây dựng và mở rộng mà đặc biệt nhất là công trình tái tạo phi trường dã chiến Pháp thành một sân bay chiến lược tối tân dài trên 5 km, có đầy đũ phương tiện yểm trợ tiếp vận cho đơn vị đang phòng thủ. Ðể không bị cô lập như căn cứ Ðiện Biên Phủ của Pháp tại Lai Châu truớc năm 1954, Hoa Kỳ đã mở nhiều cuộc hành quân kiểm soát, phát quang toàn vùng bao quanh căn cứ. Nhiều cuộc đụng độ với quân Bắc Việt tại Ðồi 861 nơi có rất nhiều hầm hố giao thông hào kiên cố của giặc, chứng tỏ chúng đang chuẩn bị tấn chiếm Khe Sanh.
Ðể ứng phó kịp thời trước âm mưu của cộng sản Bắc Việt, nên nhiều đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ thuộc Sư Ðoàn 3 Thủy Bộ thay phiên nhau hành quân để giải tỏa áp lực của cộng sản tại các ngọn đồi 861, 881.. Nhờ vậy mới phát hiện thêm quyết tâm của Hà Nội là phải tiêu diệt căn cứ Khe Sanh vì nó là vết dao trí mạng đâm vào yết hầu con đường xâm nhập HCM. Ðó là lý do Bắc Việt đã tập trung một lực lượng chính quy đông đảo bao quanh căn cứ này gồm có các sư đoàn 325, 304, 324 và 320 được trang bị toàn vũ khí tối tân của Liên Xô, Tàu, Ðông Ðức, Ðông Âu như đại pháo nòng dài, súng phóng hỏa tiển và lực lượng thiết giáp hùng hậu..
KhSanh
Ngược giòng Việt Sử ta biết Khe Sanh lúc đầu chỉ là một làng nhỏ, được thực dân Pháp khai thác lập các đồn điền trồng cà phê qua chủ nhân đầu tiên là Eugène Poilane vào năm 1926, mở đường cho nhiều người Pháp khác tới đây làm ăn vì đất đai vùng này rất tốt. Năm 1954 Việt Minh tấn công và chiếm Khe Sanh, chi phối bộ tộc Bru có nguồn gốc Môn-Khmer chừng 50.000 người sống trong vùng từ Quảng Bình, Lao Bảo, Lào vào tới Khe Sanh. Từ tháng 3-1964 linh mục Ponchet thuộc dòng Father of Foreign Mission (Pháp) tới giảng và truyền đạo tại đây nhưng ông đã bị cộng sản sát hại tại Huế trong trận Tết Mậu Thân 1968.
Căn cứ Khe Sanh nằm cách biên giới Lào Việt chừng 14 km về hướng cực tây quận Hương Hóa tỉnh Quảng Trị (VNCH), tọa lạc trên một vị trí cao thuộc ngọn Ðông Tre hùng dũng nhất trong vùng có phụ lưu của sông Thạch Hản là Rao-Quan chảy qua. Vùng này chẳng khác nào một lòng chảo được bao bọc bởi đồi 881hướng bắc, 861, 558 và 881phía nam kiểm soát các trục lộ quan trọng tới căn cứ và sân bay Khe Sanh. Tất cả các ngọn đồi trên mọc đầy cây cối và tre nứa. Ðây là nơi tranh giành đẵm máu giữa quân Mỹ và Bắc Việt gần như suốt thời gian căn cứ bị bao vây. Có khoảng 6000 TQLC Hoa Kỳ trấn đóng tại đây được yểm tợ bởi các đơn vị pháo binh từ hướng tây bắc. Doanh trại của LLÐB Hoa Kỳ nằm về mạn tây nam Làng Vei trên QL9 kế trại tù nổi tiếng Lao Bảo sát biên giới Lào. Tóm lại nhiệm vụ của căn cứ Khe Sanh được coi như một bàn đạp để bộ binh và pháo binh Hoa Kỳ đánh phá ngăn chận trục tiến quân của cộng sản Bắc Việt trên đường mòn HCM. Ngoài ra còn là một cứ điểm quân sự chiến lược của VC trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968 tại Quảng Trị và Huế-Thừa Thiên.
Trước tình thế nguy ngập trên nên Tướng Westmoreland tư lệnh lực lượng Ðồng Minh và Hoa Kỳ đang tham chiến tại VN, đã quyết định phải giữ Khe Sanh bằng mọi giá dù biết ưu thế đang thuộc về Bắc quân. Hơn nữa địa thế của căn cứ này vô cùng bất lợi về phương diện phòng thủ, cũng chẳng khác Ðiện Biên Phủ là mấy vì nằm lọt thỏm giữa một thung lũng bao quanh là các ngọn đồi cao gần như che hết tầm quan sát từ bên trong. Ngoài ra cộng sản Bắc Việt còn đào được hai hệ thống giao thông hào ở phía bắc khu phi quân sự và bên kia biên giới Lào, thiết lập dàn điạ pháo mà khoảng cách chỉ có 14 km ,có thể tấn công căn cứ ngày đêm.
Những tháng đầu năm 1967 quân số thuờng xuyên trấn giữ căn cứ chừng một đại đội thuộc Trung đoàn 9 TQLC thay phiên hoán đổi. Bên cạnh còn có một pháo đội cơ hửu của Tiểu đoàn 2/12 với 2 khẩu đại bác 155 ly và hai súng cối 4,2 yểm trợ. Nhưng sau khi một đơn vị TQLC Hoa Kỳ trong lúc tuần tiểu ngoài căn cứ chừng 1 km đã đụng độ nặng với quân Bắc Việt, đồng lúc trong đồn cũng bị pháo kích liên tục. Do trên Khe Sanh được tăng cường thêm Ðại Ðội E thuộc TD2/9 TQLC và đơn vị này đã chạm địch ngày 15-3-1967 tại đồi 861 khiến nhiều binh sĩ bị thương vong.
Tuy nhiên tới ngày 24/4/1967 mới chính thức mở màn các trận chiến giữa hai bên trong giai đoạn 1, để tranh dành các ngọn đồi chiến lược quanh căn cứ. Cũng từ đó các đơn vị TQLC được tăng viện tới Khe Sanh gồm các tiểu đoàn 2 và 3/3 cùng với pháo đội B thuộc TD1/12 PB. Nhờ các cuộc oanh kích dữ dội của B-52 nên các đơn vị TQLC Hoa Kỳ đã làm chủ hoàn toàn các ngọn đồi 861, 881. Ngày 3 tháng 5, lần đầu tiên CS Bắc Việt tấn công căn cứ LLDB tai Làng Vei nhưng chỉ gây tổn thất nhỏ cho quân trú phòng.
Ðể mở đầu cho cuộc tấn công vào Khe Sanh, quân Bắc Việt đã gây áp lực mạnh tại căn cứ Cồn Thiên sát khu phi quân sự vào những tháng cuối năm 1967 để phân tán các đơn vị TQLC tại Khe Sanh. Một tuần trước khi xãy ra trận chiến thật sự, CS đã tấn chiếm đồn biên giới Ban Houli Sane do 2000 quân Hoàng gia Lào trấn giữ. Tình hình căng thẳng thêm nên đã có 4 tiểu đoàn TQLC Hoa Kỳ (gồm 3 TD của Trung đoàn 26 và TD 1/13) hiện diện tại Khe Sanh từ đầu tháng 1-1968. Nhiều đơn vị pháo binh và thiết giáp gồm chiến xa M-48 kể cả thiết vận xa M-113 đã có mặt tại đây vào giữa tháng 1-68 cộng với sự kiên cố của các vòng phòng thủ có đặt mìn dầy đặc từ trong ra ngoài, sẳn sàng đón nhận sự tấn công của địch bất cứ lúc nào.
Ðặc biệt trong căn cứ còn được thiết kế một hệ thống giao thông hào chạy vòng doanh trại, vừa giúp quân phòng trú di chuyển chiến đấu trong lửa đạn và nó cũng là sinh lộ khi đồn bị thất thủ hay tràn ngập. Ðồng lúc các tiền đồn trên những ngọn đồi chiến lược được tăng cường thêm kiến cố, khiến cho quân Bắc Việt không dám tới gần Khe Sanh vì sợ bị phát hiện.
+ Ngày 21-1-1968 Mở Màn Cuộc Tổng Tấn Công Khe Sanh :
Ðây là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến, Bắc Việt đã tung vào chiến trường một lực lượng hơn 20.000 của sư đoàn 304 và 325, quân số đông gấp 3 lần Hoa Kỳ có mặt tại trận địa gồm 2 trung đoàn TQLC Mỷ và tiểu đoàn 37 Biệt Ðộng Quân/VNCH. Tất cả chừng 6000 người. Chiến thuật cố hữu của Hà Nội sau trước vẫn là ‘ lấy thịt đè người ‘ với địa pháo như mưa sau đó biển người tràn ngập, bất chấp đạn bom mìn bẩy và sinh mạng của cán binh.
Như Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp đã nói ‘ không cần chiến thắng vì Khe Sanh không cần thiết với chúng, nó chỉ quan trọng với thể diện của người Mỹ ‘ . Vì vậy Khe Sanh đã biến thành địa ngục trần gian từ giây phút đầu với quyết tâm nướng người trên biển lửa của các cấp lảnh đạo cộng sản. Những trận tấn công cảm tử khắp các mặt trận và địa pháo liên tục ngày đêm của Bắc Việt, được báo chí truyền thông phương tây và Mỹ đem về trình chiếu tại Hoa Kỳ, đã trở thành những dư luận tồi tệ và nổi hoang mang cả nước về một trận Ðiện Biên Phủ thứ hai tại Khe Sanh. Sự chết chóc của quân đội Mỹ tại chiến trường đã được tường thuật theo lũy thừa nhân qua đầu óc mao tôn cương của đám ký giả da trắng da màu bản xứ bất lương, càng tác động thêm sự chán ghét và chống đối chiến tranh, vô tình đem lại chiến thắng từ trên trời rớt xuống, mà VC không bao giờ có thể đạt được tại chiến trường.
Trong đợt công kích dữ dội này, pháo địch đã làm nổ tung kho đạn dự trữ lớn nhất trong căn cứ, thiêu hủy nhiều trực thăng tại bãi đáp kế cận. Dã man nhất là quân Bắc Việt đã tràn ngập bản thượng tại Làng Vei, tàn sát đồng bào vô tội, khiến mọi người phải bỏ nhà cửa chạy vào các căn cứ quân sự xin tị nạn. Trước sự đau khổ và chết chóc của dân chúng, nhiều đơn vị TQLC đã chiến đấu với giặc Cộng cả ngày 27-1 mới mở được con đường máu, đem tất cả dân làng về căn cứ và di chuyển họ bằng phi cơ về lánh nạn tại Ðà Nẳng.
Ðại tá Lownds , Trung đoàn trưởng Trung đoàn 26 TQLC cũng là chỉ huy trưởng của căn cứ Khe Sanh đã phải đối diện với nhiều vấn đề nan giải như thay thế 1500 tấn đạn dược bị tiêu hủy, sữa chữa phi đạo bị pháo kích làm hư hại khiến cho loại vận tải cơ C-130 không đáp được. Ngoài ra còn phải giải quyết hàng trăm người tị nạn và đơn vị DPQ tại xã Khe Sanh đang tràn ngập trong căn cứ.
Ngày 22-1 các phi cơ nhỏ C-123 tiếp tế khẩn cấp 130 tấn đạn các loại, đồng thời tiểu đoàn 1/9 cũng tới tăng viện đóng quân tại hướng tây căn cứ. Công cuộc phòng thủ được sắp xếp để thích ứng với tình hình bằng cách dời xa thêm các vị tr1 tới chân đồi 950 băng ngang qua sông Rao-Quan và đồi 881 Nam. Ngày 27-1 Liên Ðoàn 1 BDQ/VNCH tăng cường cho Khe Sanh với một đại đội thuộc tiểu đoàn 21 và toàn bộ tiểu đoàn 37/BDQ do thiếu tá Hoàng Phổ chỉ huy. Dù được chỉ định phòng thủ tuyến lửa xa nhất và nằm ngoài vòng đai căn cứ cuối phi đạo dài hơn 1500m. Tuy nhiên QLVNCH tại Khe Sanh đã giữ vững được vị trí của mình tới khi tàn cuộc chiến trước sự thán phục và ngưỡng mộ của TQLC Hoa Kỳ. Ðây là môt lưc lượng mạnh và đắc lực nhất đã cứu vãn hệ thống phòng thủ yếu ớt tại vị trí đãm nhận.
Tuần lê cuối cùng của tháng 1-1968 dù Cộng quân không ngớt pháo kích và tấn công nhưng phi đạo cũng được sửa sang hoàn tất để các loại vận tải cơ hạng nặng lên xuống tiếp tế và tải thương, chở người tị nạn về Ðà Nẳng. Lợi dụng sương mù dày đặc gần như che kín bầu trời phía tây Quảng Trị, ngày 23/1 VC đã mỡ màn trận địa pháo bằng các khẩu 152 ly do Nga viện trợ, được đặt tại hai hệ thống giao thông hào phía bắc vỹ tuyến 17 và bên kia biên giới Lào, tập trung đổ vào Khe Sanh liên tục không ngừng. Các đơn vị chính qui của Bắc Việt nhân cơ hội này cũng áp sát đến phi đạo, hai bên chỉ còn cách nhau chừng 400m. Tại đây VC đào hầm hố cá nhân và chuẩn bị một cuốc tấn công.
Nhưng ngày 24/1 trời Quảng Trị bổng quang đảng trở lại, nên hơn 450 phi xuất của không lực Hoa Kỳ đều đổ xuống Khe Sanh cho dù pháo binh phòng không của VC rất dữ dội làm thiệt hại nhiều phi cơ khi công tác. Bên ngoài các lực lượng khác của TQLC Mỹ vẫn bám chặt chiến trường, mở lại quốc lộ số 9 để nhận tiếp liệu. Theo ước lượng của của các nhà quân sự, vào lúc đó Bắc Việt đã tập trung trong khu vực từ Cồn Thiên, Gio Linh , Làng Vei tới Khe Sanh chừng 50.000 quân chủ lực, để chuẩn bị một trận đánh lớn. Ðặc biệt cả Mỹ lẫn VC đều tuyên bố không có hưu chiến vào ngày tết nguyên đán Mậu Thân (31-1-1968) tại 5 tỉnh cực bắc thuộc quân khu I VNCH.
+ Ngày 29-1-1968 : Ðêm 30 Tết Mậu Thân, VC Tấn Công VNCH.
Trước tình hình quân sự đang nóng bỏng tại Khe Sanh nên chính phủ VNCH đã ban lệnh hưu chiến vào những ngày đầu Tết Mậu Thân từ 48 giờ, nay chỉ còn hiệu lực 36 tiếng, bắt đầu từ 18 giờ ngày 29-1 đến 6 giờ ngày 31-1-1968. Lợi dụng việc bỏ giới nghiêm và lệnh hưu chiến có hiệu lực, Hà Nội đã mở một cuộc tổng công kích trên toàn thể lảnh thổ VNCH , trong giờ phút linh thiêng mọi người đang đón mừng và cúng kính trong năm mới. Vào lúc giao thừa (29-1-1968) cũng là đêm 30 tết, các thị xã Qui Nhơn, Kon Tum, Pleiku, Darlac, Nha Trang.. là những mục tiêu bị VC tấn công đầu tiên. Có điều quân Bắc Việt không hề tấn công vào bất cứ một vị trí nào của quân Mỹ và Ðồng Minh trong đợt này.
Nhưng tình hình tại Khe Sanh thì khác vì chiến cuộc đã bắt đầu tàn khốc bằng những trận pháo kích dồn dập không dứt, những trận đánh đẳm máu quanh căn cứ và các tiền đồn trên đồi 861 và 881 Nam. Nhưng hầu hết các cuộc tấn công đều bị bẽ gảy nhờ có không trợ và pháo yểm rất chính xác. Tóm lại căn cứ rất an toàn nhờ hệ thống phòng thủ kiên cố nhất là sự hiện diện của Biệt Ðộng Quân VNCH.
Ngày 7-2-1968 với sự yểm trợ của 10 chiến xa PT-76 do Liên Sô chế tạo, quân Bắc Việt đã tấn công và tràn ngập Trại Lực Lượng Ðặc Biệt Làng Vei nằm sát biên giới Lào. Cộng Sản đã tán sát tất cả 9 cố vấn Mỹ và hơn 300 dân sự chiến đấu. Một số chiến xa bị LL đặc biệt bắn cháy nhưng số còn lại đã truy giết những quân nhân Biệt Kích và Ðịa Phương Quân VNCH còn sống sót , cùng đồng bào Làng Vei chạy về căn cứ Khe Sanh đang bị vây hãm, trong số này có nhiều đặc công VC trà trộn theo. Nhưng sau đó đều bị LLDB tiêu diệt.
Tuy vậy, tướng Westmoreland vẫn quyết định giữ vững Khe Sanh như một thách đố để chứng tỏ với thế giới và bọn chóp bu Hà Nội, về khả năng vô địch của không quân Mỹ nhất là các pháo đài bay B-52 sẽ không bao giờ cho phép cộng sản Bắc Việt mơ tưởng việc tái diễn cái gọi là Ðiện Biên Phủ thứ 2 tại đây.
Ngày 9-2 tiểu đoàn 1/9 TQLC đã tái chiếm lại tiền đồn Hầm Ðá ngoài căn cứ sau một đêm lọt vào tay cộng quân. Các tuần lễ liên tiếp vào những ngày thời tiết tốt, hàng ngàn phi vụ của Hải, Không quân và TQLC thi nhau trút bom đạn vào những hầm hố giao thông hào như mạng nhện của VC đào cố thủ quanh căn cứ, B-52 đã biến các đồi núi nằm ngoài chu vi an toàn thành cõi hoang vu không có sự sống, qua chiến dịch không tập ‘ Niagara ‘ kinh hoàng nhất trong lịch sử chiến tranh VN.
Nhưng như Duẩn, Giáp đã tuyên bố ‘ phải chiến thắng Mỹ dù có phải đột rụi Trường Sơn hay hy sinh thêm vài triệu cán binh bộ đội miền Bắc, thì cũng đáng ‘.Do đó măc cho bom đạn trút xuống như mưa, cộng sản Bắc Việt vẫn bám trụ trong hầm hố giao thông hào , nhắm bắn các máy bay vận tải C-130 lên xuống tiếp tế và tải thương cho căn cứ. Vì có nhiều máy bay loại này bị bắn hạ nên 6 tuần, Hoa Kỳ quyết định dùng C-123 thay thế vì loại này cất cánh nhanh và có thể đáp xuống phi đạo ngắn.
Ngày 28-2, quân Bắc Việt thuộc sư đoàn 304 mở ba cuộc tấn công vào tuyến phòng thủ của Tiểu đoàn 37 BDQ/VNCH nhưng bị đẩy lui. Ðây là đợt tấn công cuối cùng vào Khe Sanh vì suốt tháng 3-1968 cộng sản chỉ còn pháo kích mà thôi. Ðể giải toả áp lực cho căn cứ, từ 1 tới 12-4-68 tướng West quyết định tổ chức các cuộc hành quân Pegasus Hoa Kỳ và hành quân Lam Sơn 207A của QLVNCH do thiếu tướng J.J Tolson chỉ huy tổng quát. Quân số tham dự khoảng 10.000 người của 3 lữ đoàn thuộc Sư đoàn 1 kỵ binh không vận cộng với Trung doàn 1 và 26 TQLC Hoa Kỳ. Phía VNCH có Chiến đoàn 3 Dù (TD 3,6 và 8) do Ðại tá Nguyễn Khoa Nam chỉ huy.
Trước một ngày, sư đoàn 3 TQLC Hoa Kỳ và sư đoàn 1 VNCH mở cuộc hành quân nghi binh tại Cồn Thiên và Gio Linh, kết thúc ngày 1-5-68 qua các cuộc chạm súng không đáng kể. Trong khi đó, cuộc hành quân giải toả Khe Sanh được thực hiện bằng hai gọng kềm, một mặt các tiểu đoàn TQLC từ Cà Lu theo quốc lộ 9 tiến về căn cứ, còn các đơn vị kỵ binh không vận được trực thăng đổ xuống các bãi đáp cách Khe Sanh chừng 5 dặm để mở các cuộc hành quân theo hướng đồn Pháp cũ tiến về căn cứ. Ngày 6-4 các đơn vị kỵ binh không vận đã bắt tạy được với TQLC Khe Sanh tại đồi 471,552,558, 689.
Riêng 3 tiểu đoàn thuộc chiến đoàn 3 Dù/VNCH được trực thăng vận về hướng tây nam Khe Sanh ngày 7-4-68 đã dụng độ và sau nữa giờ giao tranh, cộng quân đã chém vè để lại nhiều xác chết. Ngày 8-4 lúc 8 giờ sáng, lực lượng ky binh không vận vào Khe Sanh. 10-4 KBKV tái chiếm trại lực lượng làng Vei. Ngày 14-4 tiểu đoàn 3/26 tái chiếm đồi 881 Bắc. Ngày 15-4 chấm dứt hai cuộc hành quân Pegasus và Lam Sơn 207A giải tỏa Khe Sanh, Chiến đoàn 3 Dù về Huế còn 2 lử đoàn của Sư đoàn 1 KBKV ở lai Khe Sanh thay thế cho 4 tiểu đoàn TQLC đã trấn thủ căn cứ, để tiếp tục càn quét tàn quân Bắc Việt trong các khu vực phụ cận.
Ngày 6-7-1968 người lính Mỹ cuối cùng rời căn cứ Khe Sanh, thay vào đó là các cuộc hành quân lưu động của quân đoàn III thủy bộ Hoa Kỳ và các cuộc dội bom của không quân chiến thuật Mỹ vì đây là vùng oanh kích tự do, cho tới khi QLVNCH mở cuộc hành quân Hạ Lào 719 năm 1971, căn cứ Khe Sanh mới được sử dụng lại.
2- HOA KỲ CHIẾN THẮNG TẠI KHE SANH NHƯNG THUA VC Ở HOA THỊNH ÐỐN :
PhanChien            PhanChien-
SLAUGHTER (Anti Vietnam War Song)
Ngay khi CS Bắc Việt chiếm dinh Ðộc lập vào buổi trưa ngày 30-4-1975, thì tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn, Ðại sứ VNCH là Trần Kim Phương, đã nghẹn ngào tuyên bố trước báo chí Mỹ :’ làm đồng minh với Hoa Kỳ là đi vào tử điạ ‘.
Gần ba mươi năm sau, lúc mà vết thương của người vong quốc chưa kịp đóng vảy, thì ngày 29-9-2004 trên chương trình ‘ No spin zone’ của đài Fox, một ký giả tên O’Reilly sau khi bàn tán chuyện chính trị của A Phú Hãn và Iraq, lại kéo VNCH vào cuôc qua gợi ý :’ Vì Nam VN đã không chiến đấu cho tự do, nên họ không có tự do ngày nay ‘ , Câu hỏi được TT.W.Bush đáp ‘ YES’ . Nhưng DB Loretta Sanchez đã phát biểu trên chương trình ‘ The O’Reilly Factor ‘, khẳng định sự sai lầm và không đúng sự thật về câu trả lời của tổng thống Bush. Ông còn lấy làm tiếc, là trước đây Bush đã không chịu tình nguyện sang chiến đấu tại chiến trường VN, nên đã không biết gì hết về cuộc chiến vừa qua, trong đó đã có hằng triệu quân dân Nam VN, chiến đấu bên cạnh quân đội Hoa Kỳ.
Một số còn sống sót sau cuộc chiến đã tới Mỹ tị nạn cọng sản, và họ vẫn tiếp tục chiến đấu không ngừng nghĩ, để dành cho được tự do, dân chủ chân chính tại quê hương VN, mà chính Hoa Kỳ đã trực tiếp bóp nát trước năm 1975. Những thành quả đạt được khắp nẻo đường hải ngoại, như chính quyền công nhận lá cờ vàng biểu tượng của quốc dân VN, tượng đài vinh danh chiến sĩ Việt-Mỹ, sự hình thành các cộng đồng lớn mạnh của người Việt tị nạn, các vụ biểu tình chống Trần Trường trương cờ máu, ảnh quỷ và các phái đoàn tuyên vận VC cũng như kinh tài. Ngoài ra sự ngồi lại của tập thể cưụ chiến binh VNCH, bao gồm cả lực lượng cảnh sát, cán bộ xây dựng nông thôn và thế hệ hậu duệ trong nhiều năm qua rất tốt đẹp… Ðó không phải là sự tranh đấu của người Việt hiện nay, để đòi lại tự do dân chủ của mình, bị chính Hoa Kỳ dùng viện trợ tước đoạt từ mấy chục năm về trước ?
Hoa Kỳ đã một mình một chợ, dàn dựng lên cái gọi là hiệp đinh Ba Lê tháng 1-1973, ngưng chiến và hòa binh cho VN. Vì đã có chủ đích, nên hiệp định này chỉ có hai điểm đem lợi ích cho họ được thi hành nghiêm chỉnh. Ðó la việc quân Mỹ phải triệt thoái hết về nước, theo
đúng hạn chót đã ấn định vào ngày 29-3-1973 và quân xâm lăng Bắc Việt được Hoa Kỳ cho phép ở lại Nam VN. Chỉ điều khoản thứ hai này, đủ chứng tỏ Hoa Kỳ không bao giờ muốn ký hòa ước với cọng sản, để thực thi sự ngưng chiến và tìm kiếm hòa bình cho VN. Trái lại ngụy tạo, hiệp định Ba Lê năm 1973, để có cơ hội công khai và hợp pháp, viết lên bản án tử hình của VNCH, ngay từ lúc ký.
Hành động bất lương của một siêu cường, đã khiến cho bao chục triệu người Nam VN, chẳng những đã tan nhà nát cửa, gia đình ly tán, mà còn bị hủy diệt nền tự do dân chủ mà họ đã dùng xuơng máu, huyết lệ của chính mình, để bồi đắp, xây dựng và duy trì liên tục từ 1955 đến cuối tháng 4-1975. Cũng vì sự gian manh trên, từ đó uy tín của nước Mỹ không còn được thế giới tự do tin tưởng và mong cậy kết giao hợp tác tới cuối tháng 12/2010, nếu không có lợi như trường hợp của Nam Hàn, Nhựt Bổn, Ấn Độ và Nga Sô.
Ðã thế, hai vị TT của Mỹ là Nixon và Ford, còn trắng trợn nhổ liếm những lời hứa hen đã được quốc hôi, chính phủ nước mình ký nhận ban hành, đồng thời với những thơ riêng mực đen giấy trắng, liên tục gởi cho TT Nguyễn Văn Thiệu, rằng là hãy ký hiệp định, để tiếp tục có viện trợ. Còn nếu CS Bắc Việt bội ước, thì Hoa Kỳ sẽ lập tức dội bom, cũng như trở lại tức khăc để bảo vệ VNCH. Nhưng tất cả chỉ là cuội, chẳng những Hoa Kỳ ngoảnh mặt trước sự công khai vi phạm hiệp ước ngưng bắn của VC , mà còn tàn nhẫn cúp hết viện trợ đã hứa dành cho QLVNCH có phương tiện, chống lại cuộc xâm lăng Nam VN của khối đệ tam cọng sản quốc tế.
Thực chất cuộc chiến VN tới nay vẫn là một đề tài được tranh luận dai dẳng, chính TT W. Bush khi tuyên bố ‘ Yes’ trên đài Fox, về một vấn đề gai gốc mà bản thân chưa biết trọn, chứng tỏ là Hoa Kỳ dù đã tốn nhiều máu xương tiền bạc về cuộc chiến đó vẫn chưa hiểu thấu cái chiến tranh, mà Cọng sản gọi là ‘ chiến tranh cách mạng ‘, đã đánh bại người Mỹ và thế giới tự do, tại hai mặt trận Trung Hoa lục địa và Nam VN.
Thực chất cuộc chiến đó, nay qua thời gian và những khai quật của lịch sử cho thấy chỉ là một thứ chiến tranh vừa du kích lẫn qui ước, trong mục đích dấy loạn và khuynh đảo thế giới, bằng hành động phi nhân man rợ, chứ không có gì là cao siêu huyền diệu, như một số triết gia trí thức Tây Phương và Hoa Kỳ, từng ca tụng điên cuồng trong quá khứ. Người Mỹ vì không thực tâm chiến thắng tại trận địa, trong khi có đủ điều kiện để chiến thắng, đó mới chính là thực chất của cuộc chiến Ðông Dương lần thứ II (1955-4/1975).
Nói chung, qua kinh nghiệm xương máu của chính người Việt Quốc Gia, trong suốt 80 năm tranh đấu, cho thấy Hoa Kỳ, Thế Giới Tự Do cũng như Nam VN, đã thua VC qua cuộc chiến với một lý do duy nhất : ‘ Ðó là sự hèn nhát của tập thể, vì sợ và ích kỷ, nên đã vô tình hay cố ý, yểm trợ đắc lực cho Bắc Việt các nguồn tình báo, nhân lực và tiếp tế ‘.Một sự kiện lích sử mà không hề thấy tại các nước khác bị chia đôi sau thế chiến II như Ðức, Triều Tiên và Ðài Loan. Do trên, Nam VN không bị cọng sản cưởng chiếm, đó mới là chuyện lạ nhất trên đời.
Vì đâu phải mất nước ? một câu hỏi đã đè nặng trong tâm trí người Việt sống sót sau cuộc chiến. Bởi chính họ đã có mặt hay thật sự chứng kiến toàn bộ cuộc chiến, từ đầu cho tới trọn ngày 30-4-1975, khi Nam VN buông súng đầu hàng. Rõ ràng trong suốt cuộc chiến từ năm 1955-1975, dù có mặt Hoa Kỳ và Ðồng Minh hay chỉ một mình chiến đấu đơn độc, QLVNCH vẫn luôn làm chủ chiến trường, tại hầu hết các mặt trận nhỏ lớn, quan trọng như Tết Mậu Thân, Mùa hè đỏ lửa 1972 tại An Lộc, Kontum, Bình Ðịnh, Quảng Trị.
Ngay những ngày tháng 4-1975 trong giờ thứ 25, dù phải chống trả với thù trong giặc ngoài, QLVNCH vẫn chiến đấu anh dũng tại các mặt trận Khánh Dương, Tháp Chàm, Phan Thiết, Phước Long, Tây Ninh-Hậu Nghĩa và nhất là Xuân Lộc, đã làm quân xâm lăng Bắc Việt, phải khiếp sợ la làng, đổ thừa Mỹ trở lại giội bom nguyên tử. Ngày 30-4-1975, khi các quân đoàn Bắc Việt, từ tám hướng siết chặt vòng vây Thành Ðô, nhưng bên trong vẫn còn đủ an toàn, để Hoa Kỳ dùng trực thăng bốc người ra chiến hạm.
Trên sông Sài Gòn cũng như khắp bầu trời, cũng chính là những sinh lộ, bởi vì khắp nơi còn có sự chiến đấu của SD3,5,7,9,18,21,22,25 BB, của Lữ Ðoàn 3 Xung Kích, SD Dù, Biệt kích Dù-Lôi Hổ, TQLC, Thiết Giáp,BDQ, DQP+NQ,XDNT,CSDC và ngay cả những Thiếu Sinh Quân, Nhân Dân Tự Vệ. Tất cả đã ở lại chiến đấu tới cùng, và đã làm vỡ mặt Hà Nội khi những chiếc T54,PT76 vừa tới Ngã Tư Bảy Hiền đã bị các chiến sĩ Liên Ðoàn 81 BCND và Lữ Ðoàn 4 Nhảy Dù bắn hạ. Lịch sử VN cận đại, là những trang huyết lệ, được người lính trận viết tại chiến hào, hố bom và ngay trên cơ thể của mình, chứ không phải qua những tài liệu, nói là của Tây Tàu, Nga Mỹ vừa được giải mật..
Tuy văn khố Hoa Kỳ nói là đã cho giải mật nhiều tài liệu lịch sử có liên quan tới cuộc chiến vừa qua nhưng những điều vừa bật mí, thật sự chưa được đưa hết ra ánh sáng. Do muốn tìm hiểu sự thật về một cuộc chiến đã làm cho Hoa Kỳ phải sa lầy và mang rất nhiều tai tiếng, nên suốt mấy chục năm qua, nhiều nhân vật, từ những quân nhân thuần tuý đã tham dự cuộc chiến như Ðô Ðốc Grant Sharp, Ðại Tướng William C. Westmoreland.. hay trong ngành ngoại giao như GS Tiến Sĩ Stephen Young, Robert Sharphen, William Colby.. đều thắc mắc về sự bại trận của Hoa Kỳ, mà theo họ chẳng bao giờ có thể xảy ra trong một cuộc chiến vô cùng chênh lệch giữa hai đối thủ, cho dù phía sau lưng CSVN có Liên Xô, Trung Cộng và khối Ðông Âu chống lưng giúp đỡ tận lực.
Ðúng như Ðô Ðốc Grant Sharp cựu Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, viết trong tác phẩm nổi tiếng ‘ Strategy For Defeat ‘ (Cuộc Chiến Không Cần Thắng), trong đó vị cựu Tư Lịnh cũng là một tướng lãnh từng tham dự tại chiến trường Nam VN nhiều năm, nói rằng Ông và thuộc cấp dưới quyền bị các nhà lãnh đạo của nước Mỹ tại Hoa Thạnh Ðốn, cột chặt một tay khi họ chiến đấu tại VN. Thảm kịch này mãi tới năm 1985, sau khi chính phủ Hoa Kỳ ban hành một số luật mới cho phép giảm độ mật , thì Bộ Quốc Phòng mới cho in phổ biến hai mươi sáu trang, tóm tắt luật chiến đấu của quân lực.Hoa Kỳ tại Ðại Hàn và VN, gọi là ‘ Rules of Engagement ‘.
Chính phủ Hoa thịnh Ðốn, chẳng những cấm Quân Lực Mỹ, Ðồng Minh, VNCH không được thẳng tay tiêu diệt kẻ thù, mà còn tiết lộ những bí mật quân sự, quốc phòng cho CSVN biết trước, qua những lần oanh tạc tại miền Bắc, trên đường mòn HCM, hành quân Lam Sơn 719.. Ðó là tất cả những sự kiện lịch sử có thật, được Thứ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Phil Golding thời TT.Johnson, trả lời thắc mắc của hàng ngàn gia đình tử sĩ Hoa Kỳ :’ Chúng ta đang tham gia vào một cuộc chiến giới hạn, với những mục tiêu hạn chế. Nói chung đây là một cuộc chiến vì chính trị, nên không thể tiêu diệt VC được ‘.
Do sự phản ứng càng lúc càng đông của người Mỹ, trước cái gọi là ‘ đánh không cần thắng ‘, nên dân chúng đã xuống đường, đã đảo mà báo chí thời đó gọi là do phản chiến giựt dây. Thật sự , người Mỹ đã quá chán ngấy cái trò đem con bỏ chợ, đem trứng cho ác, dai dẳng từ thời Kennedy, Johnson, kế đó là Nixon, nên đã giận dữ đòi Hoa Thịnh Ðốn ‘ Hãy cút khỏi VN ngay, hãy chấm dứt cái trò chiến tranh nướng thịt dai dẳng vô ích này .’
Tóm lại qua cuộc chiến VN do đầu óc con buôn, người Mỹ đã đánh mất tất cả mọi ý thức về trách nhiệm và danh dự, làm tiêu tốn hơn 150 tỷ mỹ kim tiền đóng thuế của dân chúng, hại cho 55.000 chiến sĩ bị chết oan và hơn 300.000 quân nhân các cấp bị thương tật. Không có gì tồn tại với thời gian, trừ chân lý. Vì vậy những câu chuyện hề của Henry Winston, chủ tịch đảng cọng sản Mỹ, đem diễn tại Hà Nội vào tháng 5-1975, hay lời tuyên bố vung vít của Nguyễn Hữu Thọ, chủ tích bù nhìn của Mặt Trận Ma giải phóng, tại Mạc Tư Khoa, ngay khi Sài Gòn thất thủ : ‘ cám ơn báo chí và ký giả Tây Phương, đã góp phần lớn cho chiến thắng của Hà Nội, trong số này đáng kể là người Mỹ ‘.
.
Cũng nhờ báo chí phản tuyên truyền, Tết Mậu Thân 1968, VC chết thảm khắp nơi, đã thành chiến thắng, chiếm được ngay cả Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Sài Gòn. Tàn nhẫn và đáng khinh tởm nhất, là báo chí Tây Phương trong suốt cuộc chiến Nam VN, đã không hề một chữ tường thuật những hành vi khủng bố, giết người tàn bảo của VC trong trận Mậu Thân 1968 tại Huế, năm 1972 và những ngày cuối cùng tháng 4 đen 1975.
Từ ngày 21-1-1968 cộng sản Bắc Việt đã huy động hơn 20.000 cán binh chính qui để vây hãm căn cứ Khe Sanh, quyết tâm nhốt 6000 quân TQLC Hoa Kỳ và Tiểu Ðoàn 37 BDQ/VNCH vào trong một lòng chảo như chúng đã từng đánh bại quân Pháp năm 1954 tại Ðiện Biên Phủ. Nhưng cuối cùng căn cứ Khe Sanh vẫn đứng vững vì kỹ thuật quân sự mà Bắc Việt đã xài năm xưa tại Ðiện Biên Biên Phủ, nay đã bị Hoa Kỳ đánh bại tại Khe Sanh.
Tháng 6-1968 sau khi gần như toàn bộ cộng sản Bắc Việt đã tự ý hay bị đánh đuổi ra khỏi khu vực Khe Sanh thì người Mỹ cũng quyết định tháo gở và rút khỏi căn cứ này với lý do thật đơn giản ‘ Khe Sanh đã không có giá trị chiến lược và cần thiết ‘ khi quân cộng sản đã không còn khả năng tập trung như trước. Hơn nữa các đại đơn vị Mỹ như Sư Ðoàn 1Kỵ Binh Không Vận và SD101 Dù Mỹ đang trấn đóng tại Quảng Trị, có đủ quân số và khả năng lưu động để hành quân phản công bất kỳ ở đâu.
Thực tế vì muốn thu hút phiếu bầu trong kỳ tổng thống lần thứ 2, nên Johnson đã ra lệnh ngưng oanh tạc miền Bắc từ 31-3-1968, giúp cơ hội cho Hà Nội nhanh chóng bổ sung quân và tiếp tế cho cán binh tại Miền Nam mở cuộc tổng công kích đợt 2 vào các tỉnh thị của VNCH. Ngoài ra kế hoạch ‘ hàng rào điện tử Eye Marker ‘ của bộ trưởng quốc phòng Mc Namara tại đường ranh vỷ tuyến 17, cũng thất bại vì VC xâm nhập vào miền Nam bằng trục đường mòn thiết lập trên lảnh thổ Hạ Lào.
Tóm lại CSVN đã thành công về mặt tuyên truyền như chúng đã từng thu được năm 1954 trên bàn hội nghị Ðông Dương tại Geneve qua trận Ðiện Biên Phủ. Lần này lại dùng Khe Sanh để dương đông kích tây, tấn công vào lảnh thổ VNCH trong dịp tết Nguyên Ðán Mậu Thân 1968. Cộng Sản Hà Nội đã thất bại hoàn toàn tại Khe Sanh cũng như trận Tết Mậu Thân nhưng chúng cũng đã làm chậm lại hay phá vở kế hoạch của Tướng West sử dụng quân Mỹ đánh qua Lào để tiêu diệt con đường mòn HCM khi ông rời khỏi chức vụ.
Cuối cùng vì hậu quả của Khe Sanh và Tết Mậu Thân 1968, tổng thống Johnson không ra ứng cử nhiệm kỳ 2. Tháng 5-1970 qua thảm kịch đẳm máu tại đại học Kent State ở Ohio, đã khiến cho tổng thống Nixon không còn con đường lựa chon nào khác là phải rút quân và bỏ VNCH cho cộng sản quốc tế Hà Nội. Bắc Việt đã thua quân lực Mỹ và VNCH khắp các chiến trường nhưng chúng đã đánh bại chánh phủ Hoa Kỳ ngay tai Tòa Bạch Ốc và Ngũ Giác Ðài ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn, trong cuộc chiến tranh VN vừa qua.
Với đầu óc lắt léo nói một đàng làm một ngã của ông Obama như mọi người đã thấy và nghe suốt hai năm cầm quyền, nên sự kiện nhắc tới trận Khe Sanh (1967-1968) thời chiến tranh VN sẽ mang hàm ý ‘ ai muốn nghĩ sao củng được ‘ nghĩa là muốn xưng tụng thì cứ xưng tụng, còn chối bỏ thì cứ coi như đó là một bài học của nước Mỹ để rút kinh nghiệm tại Iraq và A Phú Hản ngày nay. Tuy nhiên đối với người tị nạn VN nhất là những người lính già còn sống sót, chúng ta phải cám ơn ông Obama đã nhắc tới địa danh Khe Sanh, để mọi người cùng hảnh diện về sự can trường của những chiến sĩ Tiểu Ðoàn 21 và 37 BDQ/VNCH suốt thời gian tham chiến bên cạnh quân lực Hoa Kỳ, chẳng những làm cho giặc cộng kinh hoàng bạt vía mà còn khiến cho người Mỹ cũng nể phục và ngưởng kính QLVNCH.
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Cuối năm 2010 – Mường Giang

TRẬN CHIẾN KHE SANH

330px-L_B_Johnson_Model_Khe_Sanh
National Security Advisor Walt W. Rostow
showing President Lyndon B. Johnson
a model of the Khe Sanh area, 15 February 1968
bandokhesanh

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen