Một
quan tiền tốt
mang đi,
Nàng mua những
gì mà tính chẳng ra.
Thoạt
tiên mua ba tiền gà,
Tiền
rưỡi gạo nếp
với ba đồng trầu.
Trở lại
mua sáu đồng cau,
Tiền
rưỡi miếng thịt,
bó rau mười đồng.
Có gì mà tính chẳng
thông?
Tiền
rưỡi gạo tẻ,
sáu đồng chè tươi.
Ba mươi đồng rượu,
chàng ơi!
Ba mươi đồng mật,
hai mươi đồng
vàng.
Hai chén nước
mắm rõ ràng,
Hai bảy
mười bốn kẽo
chàng hồ nghi.
Hai mốt
đồng bột nấu
chè,
*
Cứ cái giọng chàng, nàng
trong bài ca dao này thì chắc chắn đây là một
cuộc đối đáp giữa
một đôi vợ chồng trẻ. Anh chồng
giao cho cô vợ một quan tiền
để đi chợ. Cứ theo lời cô vợ
kể ra thì cô mua gà, mua thịt, mua rau, mua rượu,
mua mật, mua bột nấu chè, mua gạo
nếp tẻ, trầu cau, mua chè tươi, mua nước mắm, mua chuối
và vàng mã tức giấy tiền vàng bạc.
Chắc là nhà có giỗ
kỵ, người ta mới mua nhiều
thứ như vậy.
Tội nghiệp cho cô vợ
trẻ, chợ thời xa mà cô gánh từng
ấy thứ thì cô phải
mệt lắm lắm. Chúng ta cứ
tưởng tượng cảnh anh chồng
trẻ năm khểnh ở nhà xem sách, những
cuốn Tứ thư, Ngũ
kinh tự đời nảo đời nào truyền
lại, thỉnh thoảng lại vớ cái điếu, rít một
hơi thuốc lào. Cả
anh chồng lẫn mấy cuốn sách nhìn qua đều
rất là vô tích sự. Cô vợ trẻ gánh một gánh nặng
về đến. Cô chỉ
vừa kịp chào ông chồng,
vừa kịp lột cái khăn mỏ
quạ xuống chưa kịp
quạt cho ráo mồ hôi vì đường
xa, gánh nặng và dĩ nhiên là chưa hết
mệt thì anh chồng trẻ đã xà đến,
anh lục lọi những thứ cô vợ vừa mua và dùng đôi tay khéo léo của
mình chèn xếp cho vừa một gánh. Lục
lọi xong, anh chồng hỏi cô vợ:
-Sáng nay tôi đưa cô một quan tiền,
cô mua những gì mà hết nhẵn những một quan tiền?
Nghe anh chồng
xẵng giọng, cô vợ
chưng hửng, nhưng cô vẫn
dịu dàng giải thích, cô kể
ra từng món. Món này tiền rưỡi, món kia mười
đồng. Cô kể vanh vách dịu
dàng nhưng cô cũng hóm hỉnh
lắm: Ba mươi đồg
rượu chàng ơi! Đành
rằng giỗ kỵ là phải có rượu cúng, nhưng làm gì đến những ba mươi đồng nếu không phải
chạy vào miệng chàng và mấy
ông bạn đàn ông vô tích sự của chàng?
Hai chén nước
mắm rõ ràng
Hay bảy
mười bốn kẻo
chàng hồ nghi!
À, thì ra anh chồng
trẻ này nghi ngờ điều chi đây. Nghi cái gì? Phải
rồi! Anh nghị vợ bớt tiền đi chợ để
ăn quà! Nghe qua bài toán của cô vợ, người ta có thể
đoán ra được đây là một đôi vợ chồng
son, chưa có con, bởi
vì trong số những món quà mà nàng mua về
không thấy có quà trẻ con. Đó là chúng ta đoán mò thế
thôi. Còn điều này thì chúng ta biết chắc: anh chồng
là người họ Tào!
Đúng thế! Không phải
hậu duệ của Tào Tháo thì sao lại
đa nghi như vậy!
Ấy là còn trẻ, còn son sẻ,
còn đẹp đấy. Mươi năm nữa
anh ta còn đối xử với cô vợ ấy tệ đến mức nào! Thật
là cái anh đàn ông đáng đem ra câu sấu. Nhưng may
quá, cô vợ tính toán đâu ra đấy. Anh chồng
họ Tào bẽn lẽn quay trở
lại vớ cái điếu kéo một
hơi dài rồi
lại mơ màng đến
Cử nhân, Tiến sĩ, bia đá bảng
vàng. Còn cô vợ thì liếc xéo ông chồng
một cái, cặp mắt có đuôi rồi
mỉm cười một mình quảy
gánh xuống bếp.
Cái lối tính toán lẹ
làng đâu ra đấy của cô vợ trẻ làm anh chồng
đa nghi kia biết ngay là anh đã nghi ngờ
oan cho cô vợ của anh. Thế
nhưng đối với người viết, cái lối
tính nhẩm ấy không phải
là dễ hiểu. Bởi vì cô vợ
giỏi giang ấy đã dùng đến
ba đơn vị tiền tệ trong khi tính toán: Quan, tiền,
đồng.
Cô lại nói nhanh, món này mấy
tiền, món kia mấy đồng… cộng lại là một quan! Thôi thì đành phải
ghi xuống giấy rồi hậu xét. Một
quan mấy tiền, một tiền mấy đồng?
Về quan tiền,
thì Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim và Việt
sử toàn thư của
Phạm Văn Sơn đều
chép rằng Hồ Quý Ly phế
nhà Trần, lập nhà Hồ, đặt
ra tiền giấy. Tiền giấy có 7 hạng:
-Giấy 10 đồng vẽ rêu bể.
-Giấy 30 đồng vẽ sóng nước.
-Giấy 1 tiền vẽ đám mây.
-Giấy 2 tiền vẽ con rùa.
-Giấy 3 tiền vẽ con lân.
-Giấy 5 tiền vẽ con phụng.
-Giấy 1 quan vẽ con rồng.
Chúng ta dễ đoán ra được 1 quan là 10
tiền, 1 tiền là 60 đồng. Nhưng đó là những năm đầu thế kỷ 15.
Thế gần đây hơn nữa thì sao? Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim khi viết về đời sống xã hội Việt Nam đời Nguyễn trước lúc Pháp đô hộ có đoạn:
“… Thuở ấy 1 tiền mua được 4 bát gạo… Người đi làm thuê
khôn khéo lắm thì mới được mỗi ngày 1 tiền, không thì chỉ được 18 hoặc 30 đồng mà thôi…”
Cũng dễ đoán – đoán
thôi – 1 tiền là 60
đồng.
Trong quyển sách “Những trò chơi ở Việt Nam thời trước” có ghi một trò chơi mang tên “Năm tiền, liền quan”. Trong trò chơi này, trẻ con có câu: “Bán một mắt năm tiền, bán hai mắt liền quan”. Vậy 1 quan có 10
tiền.
*
Cậu học trò Trung học Đệ nhất cấp và mê thơ Nguyễn Bính thì tính toán dễ dàng hơn. Chú nhớ bài thơ “Trăng sáng vườn chè” có đoạn:
“Một quan là
sáu trăm đồng
Chắt chiu
tháng tháng cho chồng đi thi…”
Rồi chú tính tiếp: 3 tiền gà, tiền rưỡi thịt, tiền rưỡi gạo nếp, tiền rưỡi gạo tẻ là bảy tiền rưỡi. Trầu 3 đồng, cau 6 đồng, rau 10 đồng, chè tươi 6 đồng, mật nấu chè 30 đồng, rượu 30 đồng, vàng mã 20 đồng, nước mắm 14 đồng, bột nấu chè 21 đồng, chuối 10 đồng. Cộng 150 đồng.
7,5 tiền + 150 đồng = 600 đồng.
Dễ quá! Một quan 10 tiền, một tiền 60 đồng!
*
Hai học giả Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ cũng đồng ý là cô vợ trẻ ấy tính toán đúng
và không có bớt tiền chọ để ăn quà. Như anh chồng đa nghi kia đã nghĩ.
Tự điển Việt Nam chú thích:
Quan: Đơn vị tiền tệ thời xưa gồm 10 tiền hay
600 đồng.
Thí dụ:
Chị kia có
quan tiền dài,
Có bị gạo nặng, coi ai
ra gì!
(Ca dao)
Tiền: Một tiền là một phần mười của quan xưa, bằng 60 tiền kẽm.
(Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ – Tự điển Việt Nam).
Tại sao lại là quan tiền dài? “Một quan là sáu
trăm đồng…”. Nếu một đồng kẽm chỉ dày 1,5
milimetre thôi thì quan tiền xưa ắt phải dài ít
nhất 900
milimetres, gần một mét. Và cách gọn nhất là người ta luồn một sợi dây vào cái lỗ vuông ở giữa đồng tiền kẽm và xâu lại với nhau rồi khoác vào vai
mà mang đi. Cái xâu quan tiền ấy dài lắm.
Một quan tiền dài đủ làm một cái đám giỗ, và nó có giá
trị bằng mười ngày lương của thợ thường. Cho nên cái
quan tiền dài và
cái bị gạo nặng mới làm cho chị kia không coi
ai ra gì!
*
Anh chồng này là một anh đàn ông đa
nghi và tính tình có vẻ keo kiệt. Anh
nghi cái gì? Anh nghi cô vợ trẻ của anh bớt tiền chợ để ăn quà!
Theo chỗ chúng ta biết thì xưa nay các bà, các cô là chúa đa nghi. Nhưng hình như sử sách lầm lẫn làm sao đó mà
người ta lại khẳng định một cách rất bất công rằng ông đàn ông
Tào Tháo là thánh tổ của cái
nghề đa
nghi.
Anh chồng trẻ hạch hỏi vợ về khoản tiền chợ tuy họ Tào và cái thói
đa nghi rất đáng
chê trách, nhưng điều anh ta nghi ngờ không phải là hoàn
toàn vô lý. Chắc chắn là cái
kinh nghiệm nghi
ngờ cô vợ bớt xén tiền chợ để ăn quà là do bà
mẹ của anh truyền cho. Còn ai
rành các cô dâu bằng các bà mẹ chồng! Các
bà trước khi trở thành mẹ chồng đã từng là con gái,
làm dâu, rồi mới trở thành mẹ chồng. Thế thì kinh nghiệm của các bà mẹ chồng ấy toàn là kinh
nghiệm thực tế!
Hãy nghe một bà mẹ chồng ở Hội An dặn con dâu khi cô
con dâu này sắp cắp thúng đi chợ:
Hội An có lắm thức ngon
Nhịn mồm, nhịn miệng cho chồng con nó
đặng nhờ!
Bà mẹ chồng này nói phải. Bà biết rõ, quá rõ Hội An là một cái chợ có không biết bao nhiêu là
thức ngon
thức khéo,
và khi bà lúc còn là một cô dâu Hội An bà
đã từng bớt tiền chợ để thưởng thức những món ấy!
Vậy ra ăn quà vặt ở chợ là cái ngón nghề gia truyền riêng của các bà, các
cô? Có lẽ thế! Có lẽ thôi vì chẳng riêng gì ở nơi chợ búa, còn nhiều nơi khác nữa, quà bánh hình như cũng chỉ được làm ra để phục vụ riêng cho giới tóc dài, tức giới tóc uốn phi dê, tóc thề, tóc kẹp, tóc đuôi gà,
tóc đuôi… ngựa.
Chẳng nói đâu xa, cứ ngay trước cửa các trường học ở một nước – nước Việt Nam Cộng Hoà – cóc, ổi, me, chùm ruột ngâm nước cam thảo chấm mắm ruốc, ô mai, đậu đỏ, bánh lọt, mười tám loại chè, hai mươi mốt loại bánh
và ba mươi loại kẹo người ta không làm
ra để bán cho
nam sinh. Đám nam sinh chẳng bao giờ chú ý đến những quà bánh ấy. Các chú ấy, khi đến tuổi mọc được những sợi râu mép đầu tiên, tập ghép vần những bài thơ tình không tên đầu tiên thì chỉ tiêu thụ có mỗi món cà phê và
thuốc lá. Lớn tí nữa, khi bị những con vi trùng
dễ thương của bệnh tương tư và bệnh thất tình xâm nhập cơ thể, các chú mới thêm một thứ nữa là bia. Thế thôi!
Vậy thì ăn quà vặt là cái ngón
nghề gia
truyền chỉ được phổ biến giới hạn trong giới các cô, các bà
từ Nam chí
Bắc, từ miền ngược tới miền xuôi.
Anh chồng trẻ trong bài ca
dao được in ở quyển Quốc văn Giáo khoa
thư tuy có đa nghi, nhưng cái nghi ấy cũng có lý do
chính đáng chứ không
phải là
nghi bóng, nghi gió.
*
Tuy gặp phải anh chồng keo kiệt và đa nghi, nhưng cô vợ trẻ vẫn không lấy gì làm phiền lòng. Cô vẫn dịu dàng giải thích, tính
toán từng món
cho ông chồng nghe.
Rõ ràng là cô không bớt ra đồng nào để ăn quà – một chuyện mà hình như tất cả đàn bà
trên thế giới – trừ nước Việt Nam ta – vẫn làm mỗi khi đi chợ, cô vợ trẻ đem theo một quan tiền và cô mua hết nhẵn một quan tiền, không chừa riêng cho mình
một đồng nào để ăn quà!
Cô bị nghi oan nhưng cô vẫn vui vẻ. Cô lại lanh lợi, nhanh nhẹn tính toán đâu
ra đấy. Cô giỏi giang hơn các cô đầm Mỹ bây giờ, chỉ năm với bảy cũng phải dùng máy tính.
Anh chồng tuy
nghi ngờ không
đúng người mà cô
vãn không trách cứ tiếng nào.
“Ba mươi đồng rượu chàng ơi”… “Hai chén nước mắm rõ ràng. Hai bảy mười bốn kẽo chàng hồ nghi…” Ngọt ngào đến thế thì thôi! Cô hẳn là một cô vợ lý tưởng mà bất cứ đàn ông con
trai nào của nước Nam ta cũng mơ ước.
Chả biết những cô vợ trẻ
giỏi giang, lanh lợi, dễ thương như vậy thời nay có còn không nhỉ?
Sao mà thời xưa các
bà, các cô lại chịu khó nuôi chồng
hơn bây giờ?
Những anh chồng hết sức vô tích sự:
“Dài lưng tốn vải ăn no lại
nằm” thế mà cũng được
các bà, các cô bấm đốt tay tính toán:
Một quan là
sáu trăm dồng
Chắt chiu
tháng tháng cho chồng đi thi…
Các cô vợ đời xưa mà nhà thơ Nguyễn Bính đã tả ra trong bài
“Trăng sáng vườn chè”
thật là một cô vợ đáng giá. Còn
cái anh chồng dài lưng tốn vải kia mới thật là tệ làm sao. Chỉ có mỗi việc học thôi mà cũng
phải đợi cô vợ:
Em hằng khuyên
sớm, khuyên
trưa!
Cái thứ đàn ông ấy
là cái thứ đàn ông một chục ba đồng. Còn cô vợ
quả là cô vợ ba trăm một
chị.
Ba đồng
một chục đàn ông,
Mua về
ta bỏ vào lồng ta chơi!
Ba trăm một chị đàn bà,
Ba trăm một chị đàn bà,
Mua về
ta trải chiếu hoa cho ngồi!
(Ca dao).
Tính cho kỹ
ba trăm một chị và ba đồng
một chục, người ta thấy thời
ấy đàn bà đáng giá đúng một ngàn lần
đàn ông. Thế nhưng tại
sao cô vợ đáng giá ba trăm kia lại đi tảo tần chợ sớm, chợ trưa để
nuôi báo cô một anh chồng đáng giá ba cắc
bạc?
Các cô vợ
khôn ngoan lanh lợi đáng giá ba trăm ấy
nuôi báo cô một anh chồng ăn no lại
nằm là cô vợ ấy khôn lắm.
Cô ấy đợi một ngày:
Chồng
em cỡi ngựa vinh quy
Hai bên có lính hầu
đi dẹp đường.
Các cô vợ ấy
nuôi chồng theo kiểu người ta nuôi… heo đất
ấy mà! Các cô chả dại đâu. Không có các ông ba đồng
một chục dài lưng tốn vải ấy thì các cô chừng
nào mới trở thành bà Tú, bà Cử,
bà Bảng, bà Nghè, bà quan!
Bài thơ của
ông Nguyễn Bính hay thì thật là hay, nhưng cũng có chỗ mà tất cả các ông học
trò dài lưng cách đây một
trăm năm trở về trước đều không thích. Đó là cái chỗ:
Em hằng
khuyên sớm, khuyên trưa,
Anh chưa thi đỗ thì chưa… động phòng!
Cái điều kiện đặt ra mới ngặt nghèo làm sao! Anh dài lưng lười học đến đâu mà nghe cái điều
kiện này cũng phải học đến vỡ mật!
*
Các cô nói thế
thôi, ai tin thì cứ tin, ông Nguyễn
Bính có tin thì tùy ông. Người viết không tin tí nào! Bởi
vì người viết bài này đi hỏi
nhiều người nhưng chưa có ai trả lời một cách chính xác rằng
người con lớn nhất của nhà thơ Tú Xương được
sinh ra mười tháng sau khi ông Trần Tế Xương thi đỗ
Tú Tài hay là đã được sinh ra trước
khi đó.
Anh học trò kia cưới
vợ. Đêm tân hôn anh rụt rè nắm tay cô vợ
trẻ:
-Nhà nó ơi! Tôi thương nhà
nó lắm! Tí… nhé!
-Không được!
Nhà nó phải cố học, thi đỗ
đã!
Anh chồng mới thở dài, ra phòng ngoài đốt
đèn lên đọc sách. Đêm sau, đêm sau nữa cũng thế.
Anh học trò tự nhủ:
-Thôi thì đành vậy,
lo học để thi cho đỗ
mới được!
Rồi đêm nào anh cũng chong đèn học
đến ngủ gục tại bàn học, anh không
màng gì nữa. Đến đêm thứ
sáu, thứ bảy gì đấy, đã giờ
tí canh ba mà anh vẫn còn chong đèn học.
Anh học say sưa quên hết
sự đời thì anh bỗng
giật mình, một bàn tay đặt
trên vai anh, và anh nghe một giọng nói bẻn
lẻn:
-Nhà nó ạ!
Khuya lắm rồi, nhà nó đi nghỉ
đi chứ! Hồi sáng này em có đi xem bói. Thầy
nói tuổi nhà nó tốt lắm đấy, mai sau thế
nào cũng thi đỗ làm quan. Thầy
nói trước sau gì nhà nó cũng thi đỗ. Thôi thì…
thôi thì… Chứ tháng mười năm sau mới
có khoa thi. Nhà nó, nhà nó… đi vào mà nghỉ… nhé!
Nhé thì nhé! Anh học
trò vội vã xếp sách lại.
Phải, đêm khuya lắm, giờ tí canh ba rồi!
Một anh học trò có căn
nhà tranh ở vườn chè kể với
người viết như vậy,
chả biết anh có thêm thắt
gì không? Chứ hôm anh kể chuyện, cái vườn
chè trăng sáng lắm.
*
Trên đất tỵ nạn bây giờ
vẫn có những bà đi làm assembler, làm tóc, làm
nails, chắt chiu tháng tháng nuôi các ông dài lưng đi học lại bằng bác sĩ, kỹ
sư. Nhưng chắc
chắn chẳng còn ai đặt
ra cái điều kiện chết người như xưa. Vả lại ở xứ người, nếu chịu học là sẽ thi đỗ, cái điều
kiện ấy mà đặt ra thì sớm
muộn gì cũng được. Đâu có phải
thi cử khó khăn như thời
ông Tú:
Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy!
*
Hai chén nước
mắm rõ ràng,
Hai bảy
mười bốn kẻo
chàng hồ nghi.
Nước mắm bảy đồng một chén. Đàn ông ba đồng
một chục. Nếu chục là mười hai, tức
chục đủ đầu, ba chục
đàn ông mới được một chén nước
mắm. Rẻ thay cái thân phận
đàn ông và nặng nề thay là cái nhiệm
vụ của đàn ông kiếm
ngựa cho mình và kiếm võng cho vợ
để:
Ngựa anh đi trước,
võng nàng theo sau.
Có thế thì các cô mới
chịu lép mà nuôi các anh học trò. Mới
có cảnh anh chồng nghi ngờ
bậy bạ mà cô vợ
chẳng phiền lòng. Cô vợ
hiền như vậy,
giỏi như vậy,
tính nhẩm hay như vậy,
không bớt tiền chợ để ăn quà thì nhất
định là chỉ nước Nam ta mới
có.
Một nickel rau, 2 dimes gạo
nếp, một quarter thịt,
ba cents trầu, 1 dime gà, 3 nickles gạo tẻ, 6 cents cau, 2 cents giấy
vàng mã, 2 nickles mật, 4 cents bột
nấu chè.
Đố cô vợ Mỹ nào tính nhẩm
mà làm được một bài thơ? Chỉ có đàn bà con gái nước
Nam mà thôi. Các bà, các cô nước Nam giỏi
thế nên đàn ông nước Nam ít thấy
người râu xồm mà thường là râu quặp.
Một quan là sáu
trăm đồng. Ba
trăm một chị đàn bà.
Một bà mắt xanh, tóc vàng
giá bao nhiêu thì chả rõ, nhưng chắc chắn là không thể hơn nửa quan, tức năm tiền, tức là ba trăm đồng. Chắc chắn như thế. Có bao giờ người ta
nghe các cô ca sĩ Mỹ hát:
Trăm cents
là đúng một đồng
Chắt chiu
tháng tháng cho chồng đi thi…
Chả bao giờ cả. Thế thì một quan là sáu
trăm đồng vẫn hơn. Mặc dù thỉnh thoảng cũng có quan
tiền dài và
bị gạo nặng làm phiền đàn ông một tí, nhưng hiếm lắm. Quan tiền sáu trăm ấy vừa làm được bữa giỗ vừa để chắt chiu cho chồng đi thi.
Quí lắm đấy! Ở nước Nam mới có. Một quan là sáu
trăm đồng…
LÃO MÓC
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen