Samstag, 18. Februar 2017

1



VIỆT THANH CHIN DỊCH
Nguyễn Duy Chính

CHỮ TẮT

KDANKL  KhâÐịnh An Nam Kỷ Lược
CM             KhâÐịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục
DNLT         Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện
HLNTC     Hoàng Lê Nhất Thống Chí
TSC            Thanh Sử Cảo
CCBVV       Cố Cung Bác Vật Viện (Ðài Loan)
YHVH         Việt Nam Hán Văn Yên Hành Văn Hiến Tập Thành
TTVC         Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên Cứu
QNNC        Càn Long Trọng Yếu Chiến Tranh Chi Quân Nhu Nghiên Cứu
BAVH        Bulletin des Amis du Vieux Huế
TSSР         Tập San Sử Ðịa [Saigon]
NP              Nam Phong Tạp Chí



GHI CHÚ

Ðể phân biệt Dương Lịch và Âm Lịch, những ngày tháng theo Âm Lịch chúng tôi dùng tháng Giêng, Hai .... Một, Chạp. Tháng 1, 2, 3 ...11, 12 dành cho ngày tháng Dương Lịch.


PHẦN I
TỔNG QUÁT
Tình hình min Bắc nước ta cuối thế kỷ XVIII mỗi lúc một thêm tồi tệ. Sau khi quân Trịnh thua ở Phú Xuân chính quyÐàng Ngoài càng lúc càng chông chênh khiến cho Nguyễn Huệ đem quân ra thẳng Bắc Hà mà không gặp một lực lượng phòng ngự nào đáng kể. Trước đây vua Lê vẫn dựa vào chúa Trịnh trong mọi việc hành chánh và quân sự, đến nay khi họ Trịnh bại vong, quả thực chỉ còn cái nước trống không như vua Lê đã thú nhận.
Min Bắc vào những năm cuối cùng của nhà Lê là một khu vực nghèo khổ, nhiu nơi mất mùa, đói kém. Theo lá thư của Lefro gửi cho Bandin thì “... mùa này tháng Mười (âm lịch) năm 1788 đã bị mất vì đại hạn vào mùa hè năm trước. Gạo cũ còn lại của mùa trước thì bị vơ vét vào kho lương địch thành thử ngay cả lái buôn cũng chếđói [có cả bệnh dịch nữa] ...”[1]Người dân lại bị tham quan nhũng nhiễu, sưu cao thuế nặng nên có làng chết mất đến một nửa hay ba phần tư, những người còn lại thì đu bị bắt lính cả. Những tỉnh địa đầu như Thanh Nghệ còn bi đát hơn. Tình hình đó không phải chỉ một vài tháng mà kéo dài nhiu năm khiến chúng ta hiểu được rằng trong hoàn cảnh nhiễu nhương, người dân gần như không còn biết gì đến những thay đổi thượng tầng mà chỉ mong đợi một chính quyn ít hà khắc.
Theo số liệu do Li Tana thu thập và phỏng đoán, vào đầu thế kỷ XIX, 11 đạo ở min Bắc có tổng cộng 9,445 xã 578,400 suất đinh.[2] Cũng theo Li Tana, dân số min Bắc ước lượng khoảng từ 5 đến 6 triệu người (tr. 171) trong khi dân số min Nam chỉ chừng non 1 triệu (tr. 159 – 160). Những con số này dĩ nhiên không tuyệt đối chính xác nhất là ở Ðàng Trong một số đông các sắc tộc thiểu số vốn dĩ thần phục chúa Nguyễn trên danh nghĩa nhưng giữ sinh hoạt kinh tế, văn hoá riêng, sống du canh di chuyển luôn luôn nên không có con số rõ rệt. Cũng vì thế, quâđội của chúa Nguyễn có thể chỉ bằng 1/4 quân chúa Trịnh như giáo sĩ Cristophoro Borri miêu tả[3] nhưng quân số của Tây Sơn lại lớn hơn nhiu, ngoài lực lượng trú phòng họ thường điđộng được nhiu vạn quân mỗi khi có chiến tranh.
Có thể nói, cuối thế kỷ thứ XVIII, toàn cõi Việt Nam bị một cuộc khủng hoảng chính trị nặng nkhi  hình thức triđình cũ không đáp ứng được những thay đổi v kinh tế và kỹ thuật. Min Bắc, trong nhiu năm bị cô lập và không thuận tiện trong việc giao thông, thương mại nên sức mạnh kinh tế đã chuyển dần xuống phương nam.[4] Chúa Nguyễn lại chỉ tập trung vào việc chống nhau với chúa Trịnh và có mưu đồ biếÐàng Trong thành một quốc gia độc lập, không phải thần phục nhà Lê (dù chỉ trên danh nghĩa) nên tuy đưa ra một số cải cách hình thức cho khác với Ðàng Ngoài [v y phục, lễ nghi ...] nhưng bản chất vẫn là một mô hình phong kiến không khác gì đối phương. Chính vì thế, nếđưa lăng kính thời k Tây Sơn lên một vị trí khác, chúng ta có thể coi như một biến chuyển tổng hợp hơn là tương tranh nội bộ của Việt Nam.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy phong trào Tây Sơn không chỉ đại diện cho người Việt mà có rất nhiu tương đồng, vay mượn của văn minh Nam Á, trong đó sức mạnh bản địa được khai thác rộng rãi hơn, từ trang bị võ khí tân tiến của Âu Châu, cách sử dụng hải quân của Ðàng Trong đếđội tượng binh của các sắc dân min núi. Trong cơn sốt vỡ hạt đó, các lân bang cũng có những đột phá tương tự, đáng kể nhất là Xiêm La và MiếÐiện, chưa nói đến các quốc gia hải đảo. Nhìn vào mặt tiếp nhận tiến bộ mới, một số quốc gia khác đã kịp thời thay đổi và du nhập văn minh thếgiới  nhưng nước ta vẫn duy trì mô hình Trung Hoa khiến cho hậu nhân chỉ nhìn thấy một cuộc tương tranh, nội chiến mà quên đi tính đột phá của thời k này.


1. TRANH CHẤP TÂY SƠN – LÊ TRỊNH
1.1. Phù Lê diệt Trịnh
Khi khởi nghiệp anh em Nguyễn Nhạc có tham vọng thay thế chúa Nguyễn ở Ðàng Trong thành lập một quốc gia hoàn toàn tách biệt sánh vai với min bắc. Nguyễn Nhạc đã đ cập đến chủ trương của ông với phái đoàn của người Anh là “muốn kiểm soát toàn bộ bán đảo bao gồm vương quốc Cambodia tới tận Xiêm La, những tỉnh thuộc Ðàng Trong cho tới tận cùng phía bắc nay đang ở trong tay của Ðàng Ngoài”.[5] Việc Nguyễn Huệ đưa quân ra Bắc “phù Lê diệt Trịnh” theo lời khuyên của Nguyễn Hữu Chỉnh là điu mà ông không tiên liệu được khiến vua Thái Ðức hốt hoảng vội vàng đem 500 thân binh ngày đêm rong ruổi ra Thăng Long để đích thân giải quyết vấnđ.
Khi thấy tình hình đã thay đổi, Nguyễn Nhạc trao thực quyn lại cho nhà Lê để xây dựng một quốc gia láng ging không đe dọa, xóa đi thế thù nghịch trong quá khứ. Tính toán của ông không phải là không có lý vì thời k đó hai bên ngăn cách đã mấy trăm năm, sinh hoạt, phong tục tập quán khác biệt, nhân dân không ưa đã đành mà sĩ phu cũng chẳng thần phục, việc chiếm Bắc Hà sẽ tạo nên một gánh nặng, tốt hơn hết là trả nước cho nhà Lê để rảnh tay diệt chúa Nguyễn cho hết hậu hoạn. Nhà Lê cũng tạo nên một lá chắn cho vương quốc Quảng Nam không bị cái nạn bắc xâm, góp phần vào sự ổn định của một khu vực nội chiến lâu ngày và giải quyết một số mâu thuẫn cũ vốn dĩ làm vấn đ thêm phức tạp.
Giấc mộng của Nguyễn Nhạc là làm vua một cõi, có riêng một triđình ở Qui Nhơn mà người ngoại quốc gọi là nước Chàm, xem như hậu thân của vương quốc Chiêm Thành. Anh em Tây Sơn cũng đáp ứng đúng cái ước vọng của những người mong mỏi khôi phục lại một đế quốc đã mất nên triđình mà Nguyễn Nhạc thành lập cũng khác hẳn vương quyn của chúa Nguyễn trướcđây, theo những người Âu Châu chứng kiến và miêu tả thì là một dạng tù trưởng lớn, đứng đầu nhiu bộ lạc nhỏ.[6]
Ngay khi đến kinh đô Thăng Long, Nguyễn Nhạc vẫn xác định chủ trương xây dựng một đất Bắc độc lập, dưới quyn cai trị của nhà Lê:
Sau đó vài ngày, Văn Nhạc sai người xin với nhà vua (Chiêu Thống) cùng nhau hội kiến. Nhà vua xin cắt đất để khao quân. Văn Nhạc nói: “Tôi tức giận v nỗi họ Trịnh uy hiếp ức chế, nên đứng ra làm việc tôn phò. Nếđất đai không phải của nhà Lê, thì một tấc tôi cũng không để, nhưng nếu là đất đai của nhà Lê, thì một tấc tôi cũng không lấy”. Lại ước hẹn đời đời làm láng ging, giao hiếu với nhau. Nhà vua tin là phải, xin Văn Nhạc ở lại ít lâđể giúp đỡ, Văn Nhạc giả vờ nhận lời, sai Hữu Chỉnh chọn ngày lành cử hành đủ nghi lễ bái yết Thái Miếu.[7]
Ngược lại, Nguyễn Huệ lại có tham vọng thay thế chúa Trịnh làm một thứ “tướng quốc” và ông rất bằng lòng với việc vua Lê nhận ông làm phò mã.[8] Việc khẳng định rằng hai nước chỉ có tương quan ngoại giao mà không có liên hệ chính trị đã cắt đứt mọi tính toán của Nguyễn Huệ và khi hai anh em cùng v nam ắt hẳn đã xảy ra nhiu tranh chấp mãnh liệt v cả đường lối chính trị lẫn việc phân chia chiến lợi phẩm.
1.2. Bắc Nam giao ước
Vua Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ có kèm theo những điu kiện gì chúng ta không biết rõ nhưng trong lá thư trần tình của Lê Duy Cẩn [ông hoàng Tư] trình lên nhà Thanh v nguyên nhân Nguyễn Huệ ra Bắc có một số chi tiếđáng chú ý:
-    Vua Hiển Tông cắt đất Nghệ An trở vào cho Nguyễn Huệ để “khao thưởng công lao”, đn ơn đãđem quân ra diệt được họ Trịnh.
-    Việc trả công đó cũng kèm theo việc gả công chúa cho Nguyễn Huệ.
Việc xác định cắt Nghệ An cho Tây Sơn trong tờ biểu của Lê Duy Cẩn cho thấy đây là đầu mối nẩy sinh những mâu thuẫn mà cả hai bên đu cho rằng mình bị bội ước.
Thành thử, khi Nguyễn Nhạc ra Bắc công khai nói rằng “đất của nhà Lê một tấc cũng không lấy”, ông muốn xóa bỏ những giao ước với Nguyễn Huệ trước đây. Chính vì hai bất đồng [mà Nguyễn Nhạc ép em mình phải thi hành không thể giải quyếđược] 1/ giao tài sản lấy được của họ Trịnh và 2/ không nhận đất Nghệ An của nhà Lê đã đưa tới xung đột giữa hai anh em. Chỉ có những mâu thuẫn cực lớn mới đưa tới việc hai anh em một mất một còn trong một xung đột tưởng như “đồng qui ư tận”.
Ðối với Bắc Hà, Nguyễn Hữu Chỉnh, trước đâđược coi như có công mượn sức người ngoài để trừ quyn thần họ Trịnh, nay bỗng thành một loại “cõng rắn cắn gà nhà”. Tình thế khiến cho ông rơi vào tình trạng bất ổn nên khi nghe tin anh em Tây Sơn không còn ở Thăng Long nữa vội hốt hoảng chạy theo. Khi đuổi kịp quân Tây Sơn, anh em Nguyễn Nhạc cho Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại Nghệ An với Nguyễn Duệ.[9] Việc này cũng cho ta thấy nếu Chỉnh có thành ý tôn phò thì cũng có thể ở lại Thăng Long trung hưng cơ nghiệp cho vua Lê, tuy không được hoàn toàn như cũ nhưng cũng cởi được cái ách vừa có vua lại có chúa. Cũng vì Chỉnh chạy theo nên Nguyễn Huệ cực chẳng đã phải thu nhận và giao cho cai quản vùng đất địa đầu mới được nhà Lê cắt cho.
Nghệ An là một vị trí chiến lược quan trọng Nguyễn Huệ vẫn định dùng để xây dựng kinh đô, coi như cơ nghiệp gốc của nhà mình. Theo những tài liệu mà giáo sư Hoàng Xuân Hãn tìm thấy, ngay từ những ngày đầu tiên Nguyễn Huệ đã liên lạc với một ẩn sĩ ở đây là Nguyễn Thiếđể mưu tính chuyện đó nhưng gặp khó khăn vì phần đông các nhà nho vẫn mong rằng một ngày nào đó khu vực Nghệ Tĩnh sẽ trở lại là lãnh thổ của nhà Lê. Tâm lý đó thể hiện phần nào trong lời lẽ của Nguyễn Thiếp trả lời Bình Vương và vẫn dùng niên hiệu Cảnh Hưng hay Chiêu Thống chứ chưa dùng niên hiệu Thái Ðức mặc dù đất Nghệ Tĩnh nay đã là của Tây Sơn.[10] Trong tình hình rối ren, dư đảng họ Trịnh lại nổi dậy nên vua Lê cho vời Nguyễn Hữu Chỉnh ra bắc để phò tá.
V phần vua Chiêu Thống, việc giao cho Tây Sơn từ Nghệ An đổ vào là một mất mát lớn nên ông đã lấy cớ rằng Thanh Nghệ là đất tổ để sai Trần Công Xán vào Phú Xuân xin chuộc lại. Ðặt vấn đ chuộc đất cũng cho thấy vua Lê Chiêu Thống không bằng lòng với việc phải cắt Nghệ An cho Tây Sơn nhưng vì là lời hứa của tiên đế nên không có lý do để tranh chấp và đành phải thông qua thương thảo để mua lại. Cũng vì thế, Lê Duy Cẩn cũng xác định Lê Duy K đã “bội cát địa chi ước”, lại cấu kết với Nguyễn Hữu Chỉnh gây hấn ở Bắc Hà nên Nguyễn Huệ mới phải đem quân quay lại đánh dẹp.[11]
1.3. Mâu thuẫn Nguyễn Nhạc – Nguyễn Huệ
Trong thế mất còn, năÐinh Mùi (1787) Nguyễn Huệ phải động binh đánh Nguyễn Nhạc. Ðại Nam Liệt Truyện (DNLT) Chính Biên viết:
Nhạc đã đắc chí, ngày càng dâô, bạo ngược, giết Nguyễn Thung, lại thông dâm với vợ Huệ, người đu chê là xấu. Việc đi xâm lấn min Bắc, của báu ở phủ chúa Trịnh, v cả tay Huệ, Nhạc đòi không cho. Huệ muốn lấy cả đất Quảng Nam, Nhạc cũng không cho, mới thành ra cừu thù him khích nhau. Huệ bèn truyn hịch kể tội ác của Nhạc, đến nỗi bảo Nhạc là giống sài lang chó lợn. Hịch văn có câu nói rằng: “Tội không gì lớn là giết vua, sao có thể một sớm kinh (khinh) suất can không nghe thì đổi ngôi, thực quan hệ đến sự yên nguy muôđời”.[12]
Cũng theo DNLT, Nguyễn Huệ đem quân vào vây Qui Nhơn cả mấy tháng, đắp núi đất để đặt súng lớn bắn vào thành, đạn to như cái đấu khiến Nguyễn Nhạc phải khóc mà nói với Nguyễn Huệ:
-    Nồi da xáo thịt, lòng em sao nỡ thế![13]
V việc này, nhiu giáo sĩ có mặt tại Việt Nam cũng chép, chẳng hạn như Doussin ở Thuận Hoá viết như sau:
Nhạc có hai em. Một em đã đi Kẻ Chợ mà không nói gì với anh, đã muốn làm vua phần đất nầy. Y để Nhạc trở v Quí-phủ (Quy Nhơn; Nhạc đã theo Huệ ra Thăng-long rồi cùng v Phú-xuân) là nơi y cư ngụ; rồi lin sau đó bảo toàn dân suy tôn mình làm Ðức Chúa. Nhạc được tin, không vừa ý, hăm doạ em, nhưng không những người em quyết không lui, mà còn cử một đạo quân sáu vạn,đem vào đánh Nhạc ở Quí-phủ. Nó vào đó từ ngày lễ Tro (trước lễ Phục-sinh thuộc đạo Cơ-đốc). Chúng nó đã đánh nhau hai lần. Người ta đồn rằng Ðức Chúa đã mất nửa quân rồi. Thế tỏ rằng y bị bối-rối, mà y bắt buộc ai cũng phải đđánh ... Thật là khổ! Dân bị lầm than đang mong đợi Chúa Nguyễn hơn khi nào cả. Thư-khố Bộ Truyn Giáo Hải Ngoại [Mission Étrangère Paris] 746.[14]
 Sau đó anh em giảng hòa. Tranh chấp tuy chấm dứt nhưng Nguyễn Nhạc phải nhường đất Quảng Nam cho Nguyễn Huệ, chỉ còn làm chủ từ Quảng Ngãđổ vào khiến thế lực suy yếu hẳn. Việc Nguyễn Huệ đem quân tấn công vào Qui Nhơn rồi sau đó hai anh em cầm chân nhau nên Nguyễn Nhạc không còn quan tâm tới phương nam, tạo khoảng trống cho Nguyễn Ánh từ Xiêm La v chiếm lại đất Gia Ðịnh.[15]
Ðây là giai đoạn mà nước ta chia làm bốn phần, gần như bốn nước riêng biệt, min bắc gọi là An Nam như sắc phong của Trung Hoa (mặc dù ta vẫn tự xưng là Ðại Việt), min Trung gọi là Ðàng Trong, hay nước Chàm như người Âu Châđặt tên, (còn nhà Thanh thì gọi là nước Quảng Nam) bao gồm một nửa của Nguyễn Nhạc, một nửa của Nguyễn Huệ, còn min Nam có tên là Ðồng Nai hay Gia Ðịnh (một phần thuộc Tây Sơn, một phần thuộc Nguyễn Ánh).
Cũng vì tình hình căng thẳng như thế, Nguyễn Huệ không thể đích thân ra bắc giải quyết những vấn đ nội trị và tin tức v việc anh em Nguyễn Nhạc bất hòa khiến nhà Thanh tin tưởng rằng chỉ cần có cớ đem quân sang nước ta là sẽ đạt thắng lợi. Thế lưỡng đầu thọ địch của Nguyễn Huệ cũng khiến cho ông phải áp dụng chiến thuật thần tốc, bí mật, hư hư thực thực mà sau này người ta hay tô điểm cho thêm phần huyn hoặc.
2. TƯƠNG TRANH LÊ – TÂY SƠN
2.1. Tranh đoạt quyn hành
Trong suốt hai trăm năm Bắc Hà có vua lại có chúa, đa số sĩ phu dân dã chỉ biết có chúa mà không biết tới vua nên dẫu khi được trao quyn bính vào tận tay, vua Lê cũng không biết xoay trở ra sao. Một số đông quan lại trước nay chỉ biết phục tòng phủ chúa, trong cơn bối rối lại nghĩ ngay đến việc đi tìm con cháu họ Trịnh để tôn phù.
Ðến khi con cháu họ Trịnh đánh lẫn nhau, vua Lê bị áp bức quá lại phải vời Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An ra. Nguyễn Hữu Chỉnh lúc đó cũng một mình một cõi Thanh Nghệ nhưng đang bị Tây Sơn kim tỏa nên manh nha tách ra để thành một lực lượng độc lập. Việc Lê Duy K vời Cống Chỉnh ra dẹp loạn vô hình chung đã đẩy Cống Chỉnh vào thế phải quay lưng với Tây Sơn và cũng khiến Lê Duy K phải dựa vào quân Thanh Nghệ của họ Nguyễn để có cơ tồn tại. Thanh thế lừng lẫy của Bằng Quận Công Nguyễn Hữu Chỉnh trở thành một mối lo cho Nguyễn Huệ khiếông phải sai Vũ Văn Nhậm ra bắt, một hành vi coi như công khai xác định quyn bảo hộ đất Bắc.
Dưới nhãn quan của vua Chiêu Thống và nho sĩ min Bắc, việc quân Tây Sơn tấn công ra bắc lần thứ hai là một xâm phạm chủ quyn chứ không còn là hành vi hộ giá của một ông rể họ. Trước đây khi Nguyễn Huệ ra Bắc tỏ ý tôn Lê được người Bắc Hà ví như “T Hoàn tôn Chu” [齊桓尊周để thu phục chư hầu thì lần này lại bị gọi là “Thạch Lặc, Lưu Thông” [石勒劉聰] là những kẻ soán nghịch.
Khi Nguyễn Hữu Chỉnh đại bại, vua Lê bỏ chạy sang Kinh Bắc (Bắc Ninh), sai bọn Lê Quýnh đem tông thất trong đó có cả Hoàng thái hậu, Hoàng phi, Hoàng tử chạy lên Cao Bằng nương náu nơi những thổ quan còn trung thành với nhà Lê, bản thân nhà vua chạy sang Yên Thế. Một người rất thân cận với vua Lê lúc đó là Bùi Dương Lịch đã kể lại như sau:
... Ngày 25 tháng Một (năÐinh Mùi) [2-1-1788] vua sai Nguyễn Chỉnh đem đại quâđến chống cự ở sông Sinh Quyết.
Ngày 30 [7-1-1788], Nhậm [Vũ Văn Nhậm] sai người ban đêm lặn xuống sông lẻn vào chỗ quân thủy của Chỉnh đóng, dùng thừng chão buộc thuyn kéo v bờ nam, quân Chỉnh tan vỡ. Nhậm thắng trận liên tiếp kéo quâđến sát thành Thăng Long. Vua nghe tin báo có ý muốn v phía tây ngầm theo đường thượng lưu rút v Thanh Hoa.
Nửa đêm Chỉnh từ sông Sinh Quyết trở v, vua sai vời mấy lần, Chỉnh không vào mà ủy cho Tham tri chính sự Nguyễn Như Khuê [tiến sĩ, anh rể Chỉnh] vào tâu xin vua chạy lên phía bắc và nói: Nguyễn Cảnh Thước ở Kinh Bắc, thế lực có thể trông cậy được.
Vua nghe theo, đợi trời sáng, vua ngự ra điện Vạn Thọ, bọn thị vệ dần dần bỏ trốn, vua triệu các quan sảnh đường để xét hỏi, thì họ đã ngầm trốn đi từ trước, không còn một người nào trực cả. Bọn nội thị ai v nhà nấy thu xếp hành lý. Trong điện chỉ còn Hoàng thân thứ hai, cai quản vệ Hổ bôÐạt quận hầu [Lê Duy Ðạt], người vừa mới được tiến triu là Nguyễn Khải người Hương Cần, huyện K Hoa, người họ ngoại là Tích Xuyên hầu cùng hoàng giáp Bùi Dương Lịch bưng khăđứng hầu mà thôi.
Xem như thế tình hình Thăng Long hết sức bi thảm, vua Chiêu Thống không còn có thể trông cậy vào ai được nữa.
Khi sắp đi, vua trước hếđến nhà tẩm miếu tiên đế bái khóc. Bọn thị vệ lại lén bỏ đi. Vua tôi chỉđưa mắt nhìn nhau, không biết làm thế nào. Bùi Dương Lịch đến trước vua tâu rằng: “Nay Chỉnh dẫu thua trận rút lui, nhưng thủ hạ của Chỉnh còn nhiu, lòng người còn biết sợ Chỉnh, xin nhà vua truyn dụ đđến nhà Chỉnh, sai Chỉnh đi theo hộ giá, chắc được, như thế có sự ràng buộc”.
Vua cho là phải ...
Thế nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh cũng không làm được gì hơn nên khi đếđược Kinh Bắc thì Nguyễn Cảnh Thước lại có manh tâm phản trắc, cướp bóc, ngăn trở không cho qua sông. Khi qua được tới vùng Yên Thế, Lạng Sơn thì vì binh lực ít ỏi vua Lê phải dựa vào một nhóm thổ hào ôhợp  nên cũng chẳng đếđâu.[16]
Tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Hòa đem binh đuổi đánh, bắt được Nguyễn Hữu Chỉnh đem v Thăng Long. Vua Chiêu Thống chạy thoát. Cha con Nguyễn Hữu Chỉnh, kẻ bị giết, người bị bêu đầu.
Nhiu chi tiết cho ta thấy trong tình trạng rối ren, tông thất nhà Lê cũng có nhiu phe phái, sĩ phu và quan lại cũng nghiêng qua ngả lại, không đồng nhất. Những người còn một số quyn hành tạiđịa phương thì dĩ nhiên chọn con đường “cần vương” mà chúng ta thấy nổi lên khắp nơi.[17]Những văn quan thì cố tìm cách trốn tránh mặc dù cũng có một số người chạy ra cộng tác với tân triđóng vai trung gian chiêu dụ người khác nhưng không hoàn toàn thành công.
Khi nhận được tin Vũ Văn Nhậm có ý chuyên quyn, Nguyễn Huệ lập tức kéo quân từ Phú Xuân ra bắt Nhậm giếđi rồi ủy thác cho Ngô Văn Sở và các tướng lĩnh ở lại trấn thủ Thăng Long, sau đó dẫn binh quay v.
Vũ Văn Nhậm là con rể của Nguyễn Nhạc, trước đây vốn dĩ là một tì tướng thân cận của Nguyễn Huệ nhưng từ khi hai anh em bất hòa, vị thế của ông này trở nên nguy hiểm. Chúng ta không lấy làm lạ khi ông trừ được Nguyễn Hữu Chỉnh rồi, thay vì hỏi ý kiến Nguyễn Huệ để xin giải pháp, Vũ Văn Nhậm lại tự ý đưa Sùng Nhượng Công Lê Duy Cẩn (tức ông Hoàng Tư, chú của Lê Duy K) lên làm giám quốc, một hành vi “k đà cản mũi” những toan tính của Nguyễn Huệ. Giết Vũ Văn Nhậm cũng cắt đứt những liên hệ (nếu có) sau cùng giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ.
Tuy nhiên việc Lê Duy K biến mất khiến cho Nguyễn Huệ lúng túng, dự tính tôông lên làm vua lại không được người Bắc Hà tán thành nên sau cùng ông đành chấp nhận giải pháp cũ, bằng lòng để Lê Duy Cẩn (hay Cận) làm giám quốc, một chức vụ có tính thay mặt vua Lê để điu hành chính sự. Mặt khác ông ra lệnh cho Ngô Văn Sở tìm cách tiêu diệt dư đảng nhà Lê, truy sát thân nhân của Lê Duy K để trừ hậu hoạn. Chính vì thế mà thái hậu và một số tông thất phải liu mạng vượt sông chạy sang Long Châu.
Nói đến các thế lực tại min Bắc có điu kiện đối kháng với nhà Tây Sơn, chúng ta có thể nhắcđến những lực lượng phù Lê, dư đảng họ Trịnh và những thổ hào phần lớn sống tại vùng trung du sát với núi non.[18] Tại Yên Thế có Dương Ðình Tuấn, vốn dĩ là một tay “anh chị” ở Lạng Giang, nay hưởng ứng Cần Vương được phong làm Bình Khấu tướng quân. Trần Quang Châu, TrầnÐĩnh, Hoàng Xuân Tú ở Chí Linh. Trần Quang Châđược phong là Ðịnh Vũ Hầu. Ở Thanh Hoa[19] có con cháu nhà Lê là Lê Duy Trọng, Lê Duy Phác. Hoàng đệ Lê Duy Chi (em vua Chiêu Thống) thì dấy lên ở Tuyên Quang, Thái Nguyên. Ngoài ra còn vô số các nhóm nhỏ mỗi người làm chủ một cõi.
Quân Tây Sơn thì vẫn còn ở tình trạng trấn giữ, chưa hình thành một bộ máy hành chánh đến mọiđịa phương. Ðại quân chỉ tập trung ở một số vị trí huyết mạch chứ không trải mỏng đến từng thôn xóm. Mặc dù Nguyễn Huệ cố tuyển mộ gấp rút một đoàn quâđịa phương để bổ xung lực lượng, đa số quân trú đóng ở min Bắc vẫn là quâđem từ min Nam ra mà khác biệt v tiếng nói, phong tục, cách sinh hoạt chưa có thể một sớm một chiu khắc phục được.[20] Ngoài ra, chúng ta cũng phải kể đến thành phần Hoa kiu sinh sống trên đất nước Việt Nam, phần lớn là giới con buôn vào ra theo đường sông, cư ngụ dọc theo các trục lộ giao thông, tương đối nắm vững tình hình luôn luôn sẵn sàng nhũng nhiễu khi có cơ hội.
2.2. Hoàng tộc xuất bôn
Khi quân Tây Sơn truy nã Nguyễn Hữu Chỉnh, tông thất nhà Lê chạy tứ tán khắp nơi. Theo tài liệu của nhà Thanh còn trong văn khố, vào tháng Chạp năm Càn Long 52 (Ðinh Mùi), cựu thần nhà Lê là Ðịch Quận Công Hoàng Ích Hiểu (迪郡公黃益曉), Hoan Trung Hầu Phạm Ðình Quyn (懽忠侯范廷權) bảo hộ gia quyến vua Lê, nam nữ cả thảy hơn 200 người chạy lên Lạng Sơn nhưng bị thổ mục ở đó là Quyển Trâm (卷簪) toan bắt giữ nên cả bọn phải chạy đến xã Bác Sơn, huyện Võ Nhai nương náu. Ðốc trấn Cao Bằng là Ðồng Bình chương sự Tô Phái Hầu Nguyễn Huy Túc (阮輝宿) nghe tin vội chạy đến nghinh đón, có Trường Phái Hầu Lê Quýnh (長派侯黎囧[21]), anh vợ vua Lê[22] là Nguyễn Quốc Ðống (阮國棟) và Mai Trung Hầu Nguyễn Ðình Mai (梅忠侯阮廷枚đi theo bảo hộ.
Sau một thời gian, đoàn người lưu vong lại bị các phiên mục ở Cao Bằng như Bế Nguyễn Trù (閉阮儔), Bế Nguyễn Sĩ (閉阮仕) cùng tướng Tây Sơn là Hoán Nghĩa Hầu Trần Danh Bính (煥義侯陳名炳đem quân tới Bác Sơn truy nã. Nguyễn Huy Túc dẫn cả bọn bỏ chạy, ngày mồng 4 tháng Năm năm Mậu Thân [7-6-1788] thì tới được Bác Niệm ( ) giáp với tỉnh Quảng Tây nhà Thanh. Ở vùng này không có cửa ải nào đi qua Trung Hoa, lại bị Hoán Nghĩa Hầu dẫn 300 quâđuổi tới rất gắt.
Ngày 12 tháng Năm [15-6-1788], lúc giờ Dậu [khoảng 8 giờ tối], cả bọn bầy tôi quyến thuộc nhà Lê chạy được đến bên ngoài ải Ðẩu Áo (斗奧). Ðẩu Áo cách Long Châu 120 dặm,[23] phía đông bắc Thuỷ Khẩu quan, cạnh một khe suối làm biên giới chia cắt nước ta với Trung Hoa.[24]
Nguyễn Huy Túc khai với Tôn Sĩ Nghị rằng di thần quyến thuộc nhà Lê ở bên kia sông bị truy binh nên bọn Nguyễn Huy Túc phải cõng đám đàn bà trẻ con lội qua con rạch. Những người không qua được đu bị quân Tây Sơn giết chết. Ðám tòng vong nhà Lê sau khi qua được con suối thì lên được đỉnh núi, do thổ dâđưa đường phải đi hái rễ cây, ăn quả rừng cho đỡ đói sống tạm mấy ngày. Khi tin đưa tới quan quân nhà Thanh thì thông phán Trần Tùng tới gặp.
... Bấy giò, Thái hậu với Nguyên phi, Nguyên tử đu ở Thái nguyên. Quýnh vâng mệnh đi lên Bắcđể hộ vệ Thái hậu. Tháng Tư, đến Thái nguyên, thấy binh ít thế gấp, bèn đưa Thái hậu đi trấn Mục mã (nguyên lầm ra Mục dã) thuộc Cao bằng.
Tháng Năm, quân Tây sơn thình lình tới, Phiên mục Hoàng Ích Hiểu theo lời dặn của đốc đồng Nguyễn Huy Túc lấy thuyn buôđưa Quốc mẫu (Thái hậu) thuận dòng đến cửa Thuỷ khẩu (cửa sông Bằng vào biên giới Long châu), tạm trú trên một gò nhỏ ở giữa sông thuộc thôn Bến xã Phất mê.
Ngày mồng 9 [12-6-1788], quân Tây sơn đếđông. Quýnh và Ích Hiểu chia nhau hai ngả mà ngăn chống. Ðốc đồng Nguyễn Huy Túc, Phượng thể hầu Nguyễn Quốc Ðống, Trường thu lịnh Phạm Ðình Quyn cùng nhau đưa Thái hậu qua sông, tới làng Ðẩu áo mà vào đất Thanh. Chiu tối, Quýnh và Ích Hiểu giữ gò nhỏ ở giữa sông Phất mê. Quân Tây sơn vây phía Tây nam. Quân giữ ải nội địa ngăn phía Ðông bắc. Lui tới đu hếđường, chỉ còn có thể đánh đến chết mà thôi. May tối đến, mưa gió to. Trong đêm tối, nhân chớp sáng mà lội qua sông. Bắt đầu vào đất Thanh tại làng Ðẩu áo trong núi Ðồ sơn.
Người nhà còn bảy đứa. Sáng dậy thấy Thái hậu với Nguyên phi, Nguyên tử, các tùng thần đu ở trong động núi. Lương hết. Tìm được vài bao ngô đem tiến. Còn hơn sáu mươi người đu lấy rễ tươi bổ cốt chỉ đập nát và quả trong rừng mà ăn cho đỡ đói.[25]
Trong “Tiêu Cung Tuẫn Tiết Hành” Nguyễn Huy Túc thuật v cuộc đời của hoàng phi Nguyễn Thị Kim cũng miêu tả như sau:
Tới Mục Mã vội vàng nghỉ lại,
Thuyn vua giong lên ải Phất Mê.
Ðịch nghe tin kíp đuổi k,
Tên bay đạn lạc bốn b rối ren.
Bè một mảng qua phen kinh hãi,
Bao hiểm nghèo rồi lại bình yên,
Vịn cây dẫm đá trèo lên,
Mưa mù lam chướng đầy trên một trời.
Dân sở tại chào mời đưa dắt,
Gập ghnh theo lối tắt đường ngang.
Hếđường tới núi vào hang,
Giếng thơm trong suốt, nước đang dạt dào ...[26]
Qua được đất Trung Hoa, thân quyến và bầy tôi nhà Lê chỉ còn 62 người, trong đó có thái hậu [mẹ Lê Duy K] là Nguyễn (thị) Ngọc Tố (阮玉素) và vương phi [vợ Lê Duy K] là Nguyễn (thị) Ngọc Ðoan (阮玉端),[27] vương tử [con Lê Duy K] là Lê Duy Thuyên (黎維詮).[28] So sánh với số lượng hơn 200 người tông thất nhà Lê chạy lên Cao Bằng ta thấy khoảng hơn 150 người đã bị giết hay mất tích.[29] Tất cả được đưa vào cho nghỉ tạm ở Long Châu. Nguyễn Huy Túc lúc đó mớiđem mọi việc của nước Nam loạn lạc thế nào, Thăng Long bị mất ra sao trình lên cho quan nhà Thanh như sau:[30]
... Nguyên ngày mồng 2 tháng Chạp [8-1-1788] năm ngoái, thổ tù đất Quảng Nam Nguyễn Nhạc là bên ngoại của nước chúng tôi, còn có tên là Văn Bình (ở đây nhầm Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc), năm ngụy Thái Ðức thứ 11, bọn chúng vốn không phải họ Nguyễn, cũng không phải họ Nguyễn phụ chính (tức chúa Nguyễn trong Nam), em của y là Nguyễn Huệ, ngụy xưng là Thượng Công, sai ngụy tiết chế là Nguyễn Nhậm (tức Vũ Văn Nhậm) đem mấy vạn quân thẳng đến kinh thành, quốc vương nước tôi lãnh binh các đạo chống giữ đánh thắng được địch mấy lần.
Tháng Ba năm nay, Nguyễn Huệ đem quâđến tiếp viện, quốc vương phải lánh nạn ở hạ lộ Sơn Nam. Bọn chúng tôđưa vương mẫu, vương tử, vương phi đến trốn tránh ở Na Lữ, đất Cao Bằng.
Ngày mồng chín tháng Nă[12-6-1788], man binh bất ngờ đến cướp trại, truy sát rất gấp, không nơi chạy trốn, bọn chúng tôi phụng mệnh mẹ của tự tô(tức Lê Duy K) chạy đến quí hạt. Trộm nghĩ vua Lê nước tôi nhiđời phụng sự thiên triu, vẫn mong được thánh thiên tử chăm lo dạy dỗ. Nay gặp phải biến cố này nên cố bỏ đất mà chạy đếđây, mong được quí đài chiếu cố, trình lên thượng hiến, tâu lên mọi việc, cũng mong trời che đất chở không gì là không dung chứa, đoái hoài đến cả kẻ ở phương nam là mẹ con của quốc vương chúng tôi Lê Duy K đđược thương xót, có nơi nương tựa, sống nốt tháng ngày, đợi khi quốc vương nhờ uy đức thiên triu lại trở vđược kinh đô, khi đó đón trở v nước, dương danh chí nhân thịnh đức của thiên hoàng đế thì cũng là do quí liệt đài thương xót mà ban cho.
Nay trình lên.(NDC)
Lá thư viết ngày 12 tháng Năm [15-6-1788] nhưng đếđầu tháng Sáu năm Càn Long thứ 53 tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh[31] mới nghe trình lên rằng ở phủ Thái Bình có gia quyến vua Lê nước Nam chạy sang lánh nạn. Ð đốc Quảng Tây là Tam Ðức[32] (三德) lúc đó đang ở tại Tả Giang lo việc di chuyển quân sĩ vừa thắng trận trở v (chiến tranh dẹp loạn nhóm Thiên Ðịa Hội Lâm Sảng Văn (林爽文) ở Ðài Loan) nên ngay ngày mồng 3 [6-7-1788] đã tới ngay Long Châđể xem xét tình hình.
Long Châu là một thị trấn nhỏ ở sát biên giới, khí hậu oi bức, ma thiêng nước độc, vừa ngại gia quyến nhà Lê không hợp thuỷ thổ, lại sợ quân Tây Sơn có thể tấn công qua bắt lại nên Tam Ðức lin thương nghị với tổng binh Tả Giang là Thượng Duy Thăng, đưa cả bọn lên Nam Ninh (thủ phủ của tỉnh Quảng Tây). Tổng Ðốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị vội vàng đem tình hình tâu lên vua Càn Long, một mặt ra lệnh cho Thượng Duy Thăng đem quâđến Long Châu phòng ngự.
Thượng Duy Thăng lin phái 1000 quâđến phối hợp với quân sĩ trú đóng ở Long Châu, chia nhau canh giữ các nơi. Ngày mồng 4 tháng Sáu [7-7-1788], Tôn Sĩ Nghị từ Triu Châu lên đường sang Long Châđể quan sát tình hình, sợ quân chưa đủ sức nên bí mật sai Tam Ðức điu thêm mấy ngàn binh sĩ sẵn sàng tiếp ứng nếu quân Nam tràn qua. Biên giới tỉnh Quảng Tây tiếp giáp với nước ta có ba cửa, từ trên xuống dưới là Thuỷ Khẩu Quan (水口), Bình Nhi Quan (平而) và Trấn Nam Quan (鎮南). Trấn Nam Quan – mà ta gọi là Nam Quan - là cửa chính, luôn luôn có trọng binh trấn giữ. Sứ thần nước ta mỗi khi sang Tàu đi theo con đường này. Hai cửa ải kia nhỏ hơn, chỉ là đường cho dân chúng hai nước qua lại. Tôn Sĩ Nghị sợ thất thố nên lại sai Tả Giang Trấn điu thêm 300 quân, chia ra mỗi cửa ải đặt thêm 100 người canh gác ngày đêm.

(Còn tiếp)

Nguyễn Duy Chính


© gio-o.com 2012


[1] Ðặng Phương Nghi, “Triđại vua Quang Trung dưới mắt các nhà truyn giáo Tây phương”. Một Nhóm Học Giả,Một  Vài Sử Liệu v Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ (1992) tr. 234
[2] Li Tana, Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries (1998) tr. 171
[3] Cristophoro Borri, Tường Trình V Khu Truyn Giáo Ðàng Trong 1631 Hồng Nhuệ (dịch), tr. 50
[4] John Crawfurd, một nhà quí tộc Anh trong chuyến du hành tới Việt Nam năm 1822 (thời Minh Mạng) đã nhận định rằng gần như toàn bộ những thành phố quan trọng của Việt Nam đu nằm dọc theo bờ biển ở Ðàng Trong trong đó gồm có Hà Tiên, Saigon, Nha Trang, Phú Yên, Qui Nhơn, Hội An (Faifo), Ðà Nẵng (Tourane), HuếJohn Crawfurd, Journal of an Embassy to the Courts of Siam and Cochin China (1967) tr. 510.
[5] He was then pleased to disclose some of his future designs to me. They were no less than to subdue the Kingdom of Cambodia with the whole penisula as far as Siam, and the Provinces belonging to Cochin China to the north now in the hands of the Tonquinese. “Charles Chapman’s narrative of his mission to Vietnam”. Alastair Lamb, The Mandarin Road to Old Hue. (1970) tr. 100. Đây là trích nguyên văn từ lời tường thuật của Chapman, một thương gia người Anh trong kỳ gặp gỡ với vua Thái Đức [nguyên văn Ignaac tức ông Nhạc] ở Qui Nhơn năm 1778. Tài liệu này nguyên bản còn lưu trữ tại India Office Library, London trong China Factory Records series, vol. 18.
[6] Theo một bức vẽ của người Âu Châu thời đó, “vua xứ Ðàng Trong” cưỡi voi, cởi trần có lính theo hầu trông hoàn toàn là một tù trưởng thiểu số, không phải nghi vệ quốc vương nước Nam.
[7] Quốc Sử Quán triu Nguyễn. Khâđịnh Việt sử thông giám cương mục II (bản dịch Viện Sử Học) (1998) [viết tắt là CM II] q. XLVI, tr. 793
[8] CM II,– XLVI, (1998) tr. 790 chép v việc Nguyễn Huệ ra Bắc vào yết kiến vua Lê Hiển Tông như sau:
Trước đây họ Trịnh chuyên giữ chính quyn trong nước, một người dân, một tấc đất đu không do quyn triđình. Nay Văn Huệ vào triu yết, bèn xin ngày cử hành nghi lễ đại triu, dâng sổ sách binh và dâđể tỏ rõ ý nghĩa nhà vua nhất thống và Nguyễn Huệ tôn phò. Ðến nay, nhà vua cố gượng dậy, ra ngự điện Kính Thiên nhận lễ, rồi ban hành chiếu thư v việc nhất thống để bá cáo cho trong kinh, ngoài trấn biết. Lại sách phong Văn Huệ làm Nguyên Soái Phù Chính Dực Vận Uy Quốc Công. Sau khi Văn Huệ nhận sách phong, bèn nói riêng với Hữu Chỉnh rằng: “Ta cầm vài vạn quân, đánh một trận mà bình được Bắc Hà, một tấc đất, một người dân, đu là của ta, nếu muốn xưng đế hay xưng vương việc gì mà ta không làm được? Còn như sắc mệnh nguyên soái quốc công đối với ta có hơn kém gì? Bầy tôi Bắc Hà lại muốn dùng danh vị hão để lung lạc ta hay sao? Ðừng tưởng ta là người mọi rợ được chức tước ấy bèn lấy làm vinh dự đâu!”. Hữu Chỉnh biếý Văn Huệ không mãn nguyện, bèn bí mật khuyên nhà vua đem công chúa Ngọc Hân gả cho, Văn Huệ rất bằng lòng.
[9] Theo sử nhà Thanh thì việc anh em Nguyễn Nhạc rút v có thêm một số chi tiết:
...五十二年,維端卒,嗣孫維祁立,阮惠盡取象載珍寶歸廣南,使鄭氏之臣貢整留鎮都城。貢整思扶黎拒阮,乃以王命率兵奪回象五十 ...
... ngũ thập nhị niên, Duy Ðoan tốt, tự tôn Duy K lập, Nguyễn Huệ tận thu tượng tải trân bảo quy Quảng Nam, sử Trịnh thị chi thần Cống Chỉnh lưu trấn đô thành. Cống Chỉnh tư phù Lê cự Nguyễn, nãi dĩ vương mệnh suất binh đoạt hồi tượng ngũ thập ...
Năm (Càn Long) thứ 52, Duy Ðoan (tức vua Lê Hiển Tông) chết, tự tôn là Duy K lên thay, Nguyễn Huệ thu hết châu báu dùng voi chở v Quảng Nam, để bầy tôi họ Trịnh là Cống Chỉnh trấn giữ đô thành. Cống Chỉnh tính chuyện phù Lê chống lại họ Nguyễn nên dùng vương mệnh đem binh đoạt lại năm chục con voi ... Thanh Sử Cảo, tập 48 (1996) tr. 14634-5
[10] Xem Hoàng Xuân Hãn, La Sơn Phu Tử (1952)
[11] Xem thêm bẩm văn của bọn Tạ Ðình Thực đ ngày 22 tháng Mười, Càn Long 53 [19-11-1788]. Trang Cát Phát (莊吉發), Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên Cứu (清高宗十全武 功研究), (1982) tr. 366-7 và bẩm văn của Lê Duy Cẩn ngày 22 tháng Mười, Càn Long 53 [19-11-1788], Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 365-6.
[12] Quốc Sử Quán triu Nguyễn. Ðại Nam Liệt Truyện (DNLT) tập II (Ngô Hữu Tạo, Ðỗ Mộng Khương dịch) (1997) tr. 531-2
[13] DNLT, tập II, (1997) tr. 532
[14] Hoàng Xuân Hãn, “Thống Nhất Thời Xưa”, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn tập II (1998) tr. 1375
[15] Theo lá thư của ông Sérard gửi ông Letondal đ ngày 17 - 7 – 1791 thì vào khoảng tháng 3 năm 1791, khi vợ vua Quang Trung mất, Nguyễn Nhạc đã tưởng lầm là Nguyễn Huệ từ trần nên đem quân ra toan lấy Phú Xuân và phải quay v khi biết em ông còn sống. Ðặng Phương Nghi, “TriÐại Quang Trung ...”, Một Vài Sử Liệu ... (1992) tr. 264
[16] Lê Quí Dật Sử (Phạm Văn Thắm dịch) (1987) tr. 80-2
[17] Hoàng Xuân Hãn, “Phe Chống Ðảng Tây Sơn ở Bắc với tập Lữ Trung Ngâm”, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn tập II (1998), tr. 1245-1332
[18] Ðại đa số các địa phương min Bắc lúc đó đđã qui thuộc nhà Tây Sơn, chỉ riêng một số vùng như châu Hoan, châu Diễn (tức vùng Thanh Hoá, Nghệ An) và một số trấn Sơn Nam, Sơn Tây, Hải Dương, Kinh Nam, Kinh Bắc, Tuyên Quang, Hưng Hoá ... vẫn còn một số thổ hào, hưởng ứng cần vương nổi lên chống lại nhưng lực lượng yếu ớt, không có gì đáng kể. Những tòng vong nhà Lê khai với quan nhà Thanh như sau:
... đất An Nam trước nay có 52 phủ, trong đó 12 phủ là do thổ mục, man tù sinh sống (tức người vùng núi), còn thực quyn là 40 phủ, trong đó đạo Thanh Hoa gồm 4 phủ 15 huyện, đạo Tuyên Quang 3 châu 1 huyện, đạo Hưng Hóa 10 châu 2 huyện là chưa đầu hàng Nguyễn Văn Huệ, ngoài ra An đạo 4 phủ 12 huyện của min trên cũng chưa hàng, còn min dưới thì hàng cả rồi. Ðạo Sơn Nam 9 phủ 36 huyện, min trên cũng đã hàng, min dưới chưa hàng (?). Ðạo Sơn Tây gồm 5 phủ 24 huyện, min trên chưa hàng, min dưới cũng đã hàng. Ðạo Kinh Bắc gồm 4 phủ 20 huyện, min trên chưa hàng, min dưới hàng rồi. Ðạo Hải Dương 4 phủ 19 huyện, min trên đã hàng, min dưới chưa hàng (?). Ðạo Thái Nguyên 8 huyện, 3 châu, min trên chưa hàng, min dưới đã hàng. Ðạo Cao Bằng 1 phủ, 4 châu và Lạng Sơn 1 phủ, 7 châu cũng đã đầu hàng. Nguyễn Văn Huệ muốn xúi bẩy dân chúng bắt giao Lê Duy K nên đã hứa miễn giảm sưu thuế cho dân trong mười năm. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 346 và tr. 353
[19] lúc này chưa đổi thành Thanh Hoá vì chưa kiêng tên bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng.
[20] Nguyễn Huệ cũng không trải quân lẫn vào các thôn xóm, phần sợ bị tiêu diệt, phần khác vì phương pháp điu binh nếu cần có thể di chuyển thật nhanh. Thành thử quân của ông chỉ đóng ở các đình chùa, miếu mạo ... luôn luôn sẵn sàng nhổ trại không xây dựng hệ thống phòng ngự kiên cố.
[21] Chữ Quýnh nguyên có bộ Nhâđứng ở bên trái.
[22] Nguyên văn trong tài liệu của nhà Thanh là thê cữu (妻舅).
[23] V độ dài đời Thanh cho đến nay những số liệu chính thức tìm được không thống nhất (căn cứ vào những thước mẫu tàng trữ trong Viện Bảo Tàng), 1 thước (xích) thay đổi từ 32 đến 36.7 cm. Theo cách tính của Trung Hoa, 1 lý [] là 18 dẫn [], 1 dẫn là 10 xích [], tính ra một lý (dặm) ngắn nhất là 576 mét, dài nhất là 660 mét. Như vậy khoảng cách giữa hai địa điểm theo sách vở ghi lại chỉ là ước tính không hoàn toàn chính xác như chúng ta ngày nay.
[24] Theo Lê Quýnh trong Bắc Hành Tùng Ký thì chỗ này có tên là bến Phất Mê. La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II. (1998) tr. 876
[25] Lê Quýnh, “Bắc Hành Tùng Ký”, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II (1998) tr. 876-7
[26] Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê Nhất Thống Chí (HLNTC), (2002) tr. 425-26
[27] Tên thực là Nguyễn thị Kim. GS Hoàng Xuân Hãn viết là Nguyễn thị Ngọc Thuỵ, theo tờ trình của Nguyễn Huy Túc thì là Ngọc Ðoan. Hai chữ Thuỵ () và Ðoan () rất giống nhau. Tờ trình nay còn nguyên bản chắc phải đúng hơn.
[28] Cung Trung Ðáng (The Palace Records) Cố Cung Bác Vật Viện (National Palace Museum) Ðài Bắc: Tờ trình của Tôn Vĩnh Thanh đ ngày 1 tháng Sáu năm Càn Long 53 [4-7-1788], tờ trình của Tôn Sĩ Nghị ngày mồng 4 tháng Sáu năm Càn Long 53 [7-7-1788], tờ trình của Tôn Vĩnh Thanh ngày 13 tháng Sáu [16-7-1788]. Trang Cát Phát, TTVC (1982). tr. 359.
[29] Con số có thể lớn hơn nữa vì hơn 200 là tông thất nhà Lê lúc ban đầu, v sau có thêm bọn Nguyễn Huy Túc, Lê Quýnh ... không biết bao nhiêu. Tính theo tỉ lệ số người bị Tây Sơn bắt giết là đa số, những người còn sống sót chỉ là thành phần quan trọng nhất được bảo vệ mà thôi.
[30] Quân Cơ Xứ, CCBVV, bản sao tờ trình của di mục nước An Nam đ ngày 12 tháng Năm năm Càn Long 53 [15-6-1788]. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 345-6.
[31] người Vô Tích, tự Hoành Ðộ (宏度), hiệu XuâÐài (春臺), đỗ cử nhâđời Càn Long giữ chức tuần phủ Quảng Tây.
[32] Thuộc Nhương Hồng K, từng đánh MiếÐiện, Kim Xuyên, lập nhiu công lao được giữ chức tổng binh Hưng Hán, Thiểm Tây. Sau làm đ đốc tỉnh Quảng Tây, bệnh chết trước khi đem quâđánh Ðại Việt.


GHI CHÚ

Ðể phân biệt Dương Lịch và Âm Lịch, những ngày tháng theo Âm Lịch chúng tôi dùng tháng Giêng, Hai .... Một, Chạp. Tháng 1, 2, 3 ...11, 12 dành cho ngày tháng Dương Lịch.


PHẦN II
CAN THIỆP CỦA THANH ÐÌNH
Ðem binh xuống phương nam không phải chỉ vì cái cơ hội nhất thời mà đã nằm trong kế hoạch mở rộng biên cương của nhà Thanh từ lâu. Vua Càn Long muốn tỏ ra mình là một vì vua dũng liệt nên tìm đủ mọi cách để bành trướng thế lực và lãnh thổ ra mọi phía.
Nhà Thanh trong hậu bán thế kỷ XVIII đã có ảnh hưởng quan trọng đối với Xiêm La khi một người Tàu gốc Quảng Ðông tên là Trịnh Chiêu (鄭昭) vì có công đánh đuổi quân MiếÐiện nên lên làm vua (tức vua Taksin). Ông ta sai sứ sang Bắc Kinh cầu phong nhưng sứ giả chưa kịp v đến nhà thì Trịnh Chiêu đã bị một tướng lãnh của ông ta là Maha Kasatsuk lật đổ lên làm vua tức Chakri[33] hay Rama I. Chakri cũng sợ nhà Thanh truy cứu việc giết vua Taksin nên đổi tên Hán là Trịnh Hoa (鄭華), mạo xưng là con của Trịnh Chiêu để nối ngôi và được phong làm Xiêm La quốc vương. Nhà Thanh cũng nhân cơ hội này tìm cách vươn dài ảnh hưởng tới thành phần Hoa kiu ngày càng trở nên có thế lực cả kinh tế lẫn chính trị ở vùng Ðông Nam Á.[34]
Ngoài Xiêm La, nhà Thanh cũng tìm cách mở rộng ảnh hưởng xuống MiếÐiện. Cũng như Việt Nam, MiếÐiện luôn luôn bị áp lực trực tiếp vì có một khoảng biên giới tiếp giáp với nước Tàu. Người Miến cũng là một dân tộc quật cường, luôn luôn chống lại và có những thắng lợi rất tương cận với thắng lợi của Ðại Việt.[35]
Tới hậu bán thế kỷ XVIII, nhà Thanh lấn chiếm một số khu vực phía tây và tây nam tỉnh Vân Nam nhưng người Miến cương quyếđòi lại. Năm Ất Dậu, Càn Long 30 (1765), vua Miến Hsinbyushin bắt một số tiểu quốc người Shan triu cống nên gây chiến với một số bộ lạc mà người Trung Hoa bảo trợ. Quân Thanh thua, tổng đốc Vân Nam Lưu Tảo (劉藻) tự sát. NăÐinh Hợi, Càn Long 32 (1767), tổng đốc kế nhiệm là Dương Ứng Cư (楊應琚) cũng bị đánh bại khiến vua Càn Long nổi giận đem họ Dương ra xử tử rồi sai Minh Thuỵ (明瑞đem quân sang đánh MiếÐiện. Năm Mậu Tí, Càn Long 33 (1768), Minh Thuỵ bị vây và tử trận. A Quế, vị tướng lừng danh của Thanh triu trong các trận đánh Tân Cương, Mông Cổ đem quân sang lần thứ ba năm Kỷ Sửu, Càn Long 34 (1769) nhưng cũng bị đại bại.
Sau ba lần thua MiếÐiện, nội bộ Thanh triđã có những rạn nứt và bất đồng, nhiu tướng tài bị hi sinh nhất là vua Miến Hsinbyushin lại cứng đầu không chịu thần phục. Một số tướng lãnh và quân sĩbị bắt  làm tù binh không được thả và vua Càn Long đành phải chấp nhận rằng MiếÐiện là xứ nóng không thích hợp cho kỵ binh nhà Thanh như khi chinh phục vùng Tân Cương.[36] May sao, quân Miến lúc này phải đối phó với quân Xiêm La và Lào tấn công ở phía nam nên nhà Thanh có cơ hội đàm phán cầu hoà cho đỡ mất mặt. Ðể trừng phạt, vua Càn Long hạ lệnh cấm thông thương với MiếÐiện và hai bên chỉ trở lại bình thường năm Mậu Thân, Càn Long 53 (1788), mấy tháng trước khi họ đem quân sang nước ta.
Riêng với Ðại Việt, Thanh đình vẫn e ngại bị thất bại như những triu trước nên không muốn chủ động gây chuyện can qua. Việc nước ta chia thành hai miÐàng Trong và Ðàng Ngoài vô hình chung phù hợp với chủ trương không muốn có một quốc gia cường thịnh ở phương nam. Ðã nhiu lần xứ Ðàng Trong toan tách ra đi thẳng với Thanh triu thay vì phải thần phục vua Lê ở min Bắc nhưng vì không muốn tạo ra những khó khăn mới nên nhà Thanh chưa bằng lòng. Ðến khi nhà Tây Sơn nổi lên, thế phân liệt Nam Bắc cũ đã mất, Thanh triu nhìn thấy đây là một cơ hội để can thiệp vào phương nam, rồi sẽ tu theo tình hình mà khai thác. Việc thân quyến và bầy tôi nhà Lê chạy trốn sang Long Châu phù hợp với tham vọng đó.
Thoạt tiên, nhà Thanh vẫn chủ trương làm sao cho những phiên thuộc không quá mạnh, nên muốn Việt Nam chia ra thành ít nhất là hai tiểu quốc. Tôn Sĩ Nghị vì thế đã đưa ra kế hoạch chia cắt Ðại Việt thành hai phần,[37] min Nam sẽ giao lại cho Xiêm La (khi đó đang khống chế cả Chân Lạp), và min Bắc dành cho nhà Lê (dưới quyn bảo hộ của nhà Thanh). Tuy nhiên vua Càn Long đã bỏ kế hoạch đó vì không muốn cho Xiêm La nhúng tay vào ngại rằng sẽ làm mất thể diện thiên triu phải liên minh với một thuộc quốc.[38]
Dựa theo tin tức thu lượm được, vua Càn Long đưa ra một kế hoạch kẻ cả hơn. Ðó là giao min Trung lại cho Chiêm Thành lấy cớ nước này đã từng triu cống xưng thần với Trung Hoa trong mấy thế kỷ mà không biết rằng vương quốc Chiêm nay không còn và những vùng đất cũ của họ nay chỉ toàn người Việt.[39] Vua Càn Long cũng chủ trương dùng người Việt đánh người Việt, quân Thanh càng ít tổn thất càng tốt. Trong một lá thư gửi Tôn Sĩ Nghị, vua Càn Long đã viết:
... Bọn chúng (tức bầy tôi nhà Lê ở Bắc Hà) khi nghe quân Thiên triđến chinh phạt, ắt sẽ nổi lên hưởng ứng rất đông, tính chuyện diệt Nguyễn phù Lê, nếu như ta án binh bất động, bọn họ không khỏi có dạ trông chờ. Ðây là một cơ hội rất tốt, xem ra khi đó quan quân nội địa (tức quân Thanh) ở vào cái thế không thể không hành động …[40]
Chiến lược đó không phải mới mẻ gì vì cũng là đại kế hoạch mà người Mãn Châu trước đâđưa ra để làm chủ Trung Nguyên. Khi thôn tính nhà Minh, người Mãn Châu cũng nêu cao danh nghĩa giúp người Hán tái lập một vương triu trong sạch hơn triđình thối nát hiện đang trị vì. Công lao lấyđược trung nguyên cũng phần lớn nhờ vào nội phản, điển hình là các tướng lãnh nhà Minh có nhiệm vụ ngăn chặn những giống dân du mục nay trở giáo chạy theo quân Thanh.
Sau khi làm chủ Giang Bắc, họ cũng sử dụng những tướng lãnh nhà Minh đã đầu hàng để chiếm nốt min Nam Trung Hoa, kể cả việc truy sát những ông vua cuối cùng của Minh triđang trốn lánh trong rừng sâu núi thẳm. Họ đã được phong vương, cai trị một cách khá độc lập nhiu khu vực lớn mà sử gọi là Tam Phiên (三藩) (Three Feudatories) mấy chục năm sau mới bị tước đoạt quyn bính.[41]Với kinh nghiệm đó, người Mãn Châu muốn trước hết nhờ tay đám thần tử nhà Lê tiễu trừ Tây Sơn, sau đó sẽ phong vương cho họ theo nghĩa phiên trấn nội thuộc như bọn Ngô Tam Quế (吳三桂), Cảnh Trọng Minh (耿仲明), Thượng Khả Hỉ (尚可喜) rồi dần dần biến thành quận huyện của Tàu như chính sách thời đầu nhà Thanh. Kế hoạch đồng hoá từng bước đó đã thành công tại những quốc gia Tây Vực và họ cũng toan áp dụng ở phương nam.
1. K HOẠCH CỦA NHÀ THANH
Ðể đem quân sang nước ta, ngoài việc tính toán cho chu đáo, sao cho lợi nhiu hơn hại, giảm thiểu v nhân mạng cũng như v tài chánh, nhà Thanh cần một danh nghĩđể che đậy những dã tâm của họ.[42]Do đó Tôn Sĩ Nghị cần những bằng chứng cụ thể để thuyết phục vua Càn Long cho phép động binh.
Cho đến nay, các sử gia Trung Hoa vẫn khăng khăng cho rằng việc nhà Thanh đem quân sang giúp Lê Chiêu Thống là một hành vi “nhân chí nghĩa tận” [仁至義盡] (hết sức nhân nghĩa) hoàn toàn chỉ vì mục tiêu muốn dựng lại dòng chính thống cho nhà Lê chứ không có âm mưu chiếđóng hay tham vọng đất đai nào.
Theo lời tâu của Tôn Sĩ Nghị [孫士毅] (tổng đốc Lưỡng Quảng) và Tôn Vĩnh Thanh [孫永清] (tuần phủ Quảng Tây) thì khi vua Hiển Tông thăng hà, “hoàng tôn Lê Duy K không có quốc ấn vì khi họ Trịnh còn nắm quyđã ăn trộm mất ấn tín để mưu việc soán đoạt. Lê Duy K có viết biểu tâu lên để xin một quả ấn khác (tức ấn An Nam quốc vương của nhà Thanh phong cho) nhưng Tôn Sĩ Nghị chưa tiếđược bản cáo ai, lại chưa được chiếu chỉ cho phép nên đã từ chối”.[43] Căn cứ vào đó, hoàng tôn Lê Duy K được coi như dòng chính thống và việc Nguyễn Huệ chiếm Thăng Long là một hành vi tiếm nghịch nên nhà Thanh phải can thiệp để lấy lại nước cho vua Lê.
Ðể thực hiện âm mưu lũng đoạn, chiến dịch đem quân can thiệp của nhà Thanh bao gồm hai giai đoạn chính:
1.1. Tái chiếm Bắc Hà để giao lại cho nhà Leâ
Ðể đem quân sang nước ta nhà Thanh nêu cao chủ trương “hưng diệt kế tuyệt, phất lợi k thổ địa thần dân” (興滅繼絶,弗利其土地臣民) [hưng lên kẻ bị diệt, nối lại dòng bị đứt, không mưu lợi đất đai hay dân chúng]:
-  Lê triđã thần phục và triu cống Trung Hoa trong hơn một trăm năm qua [chỉ tính riêng nhà Thanh vì mỗi khi mệnh trời đổi coi như một nước mới]. Việc nối lại triu Lê là một hành vi thích đáng vì thiên triu có bổn phận với thuộc quốc, không thể để cho loạn thần ngang nhiên cướp ngôi một dòng họ đã được họ công nhận chính thức.
-  Vua Càn Long cũng khẳng định là việc đem quân sang nước ta không phải vì có tham vọng muốn chiếđất đai hay dân chúng. Trong nhiu văn thư, ông cũng ra lệnh đem gạo thóc từ “nội địa” sang để nuôi quân, không tơ hào tài sản của nước Nam và ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị ước thúc quân lính không cho quấy nhiễu.
1.2. Tiến quâđánh Thuận Hóa
Dự tính nguyên thủy của Thanh triu không chỉ lấy kinh đô Thăng Long rồi giao lại cho nhà Lê mà coi việc tái chiếm Bắc Hà mới là bước đầu. Một khi thành công, quân Thanh sẽ tiếp tục đánh xuống Thuận Hóa để “đảo huyệt cầm cừ” [đánh vào sào huyệt bắt kẻ cầm đầu] rồi tùy theo tình hình mà chia nước ta thành nhiu khu vực tự trị. Từ vị trí một ngoại phiên (tương tự như Triu Tiên, Lưu Cầu, Xiêm La ...), An Nam sẽ trở thành một nội phiên như Tây Tạng, Mông Cổ, Tân Cương ... tuy vẫn do những lãnh tụ bản xứ cai trị nhưng thực chất chỉ là những quan lại do triđình bổ nhiệm.
Âm mưu đó trước khi xuất chinh còn mơ hồ – chỉ mới nằm trong những mật tấu của Tôn Sĩ Nghị – thì sau khi chiếđược Thăng Long lại trở nên khá rõ rệt. Có lẽ việc tiến quân quá dễ dàng khiến vua Càn Long và Tôn Sĩ Nghị đu tin rằng quân Thanh có thể làm hơn thế nữa. Ngay sau khi chiếđược Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị lin tính toán kế hoạch đóng thuyn và lập đài trạm từ Thăng Long vào Thuận Hoá để đến ra giêng tiến quân xuống phương Nam. Tuy nhiên kế hoạch đó không thực hiệnđược vì những khó khăn v quâđội, lương thực, nhân sự, tài chánh ... nhất là e ngại một cuộc sa lầy tại phương nam giống như tại MiếÐiện trước đây nên vua Cao Tông đã ra lệnh rút quân v.
Ngày 19 tháng Sáu năm Càn Long 53 [22-7-1788], vua Cao Tông gửi một đạo dụ cho Tôn Sĩ Nghị dịch ra như sau:[44]
Lưỡng Quảng tổng đốc Tôn Sĩ Nghị tâu lên, tiếp theo căn cứ vào lời bẩm của Tả Giang Trấn thì thân quyến tự tôn nước An Nam chạy qua nội địa nên ta đã ra lệnh cho tùy nghi lo liệu, lại sai người đến ngay Long Châu, xem xét tình hình để tâu lên cho rõ ràng. Việc này trước đây khi Tôn Vĩnh Thanh tâu lên, trẫm sợ rằng viên tri phủ đó không có chủ kiến nên lập tức giáng chỉ ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị lập tức tra xét lo liệu.
Hiện nay viên tổng đốc kia chưa đợi dụ chỉ đã khởi trình đến trước rồi, như thế thực là biết việc nặng nhẹ, không thẹn là kẻ đại thần ở biên cương, thật đáng khen ngợi. Trong tấu triệp của Tôn Vĩnh Thanh trước đây, chưa biết tung tích của tự tôn Lê Duy K đang ở đâu, mà chạy sang đến hơn sáu chục người thì có liên hệ thế nào? Trẫm đã từng ra lệnh tra xét cho thấu đáo, rồi tâu ngay lên cho ta.
Nay cứ theo như lời tâu của Tôn Sĩ Nghị, lúc đầu cứ tưởng có cả Lê Duy K đi theo. Thế nhưng nếu ví thử Lê Duy K đích thân dẫn quyến thuộc sang nội địa thì cớ gì lại phải ra lệnh cho di quan Nguyễn Huy Túc đứng tên, còn bọn thổ tù Nguyễn Nhạc kia sau khi công phá Lê thành, thấy Lê Duy K bôđào nên dẫn binh truy sát. Nếu cả nước đã bị họ Nguyễn chiếm mất rồi, ắt Lê Duy K mang quyến thuộc theo, tuy không quá 60 người, nhưng lẽ nào đđường không lo liệu tính toán gì mà đếđược nộiđịa?
Lê Duy K nếđã đến Long Châu nên truyn dụ cho Tôn Sĩ Nghị đếđó tận mặt hỏi Lê Duy K xem việc họ Nguyễn nổi loạn ra sao, hai bên vì cớ gì gây hấn, gặp nạn chạy sang nội địa cốt lo bảo toàn tính mạng mẹ con mà phải bỏ đất cho họ Nguyễn. Y bỏ nước chạy sang đây rồi, trong nước thần tử có ai lo chuyện diệt giặc khôi phục để nghinh đón mẹ con y v hay không, xem chủ kiến y thế nào?
Nêáu như Lê Duy K cũng không biết rõ ràng thì nên hỏi bọn Nguyễn Huy Túc để cho rõ tình hình nước đó ngõ hầu theo tình hình mà trù biện. Theo ý trẫm thì vì quẫn bách mà tự tôn nước đó chạy sang nội địa, tuy trình lên không có giọng muốn xin quân cứu viện, nhưng nếu trấn mục nước đó có thể tụ tập dân binh, tảo trừ hung nghịch đón tự tôn v thì thế là tốt nhất. Còn như họ Nguyễn đã chiếđược cả địa phương ở Lê thành nhưng các nơi khác vẫn thuộc họ Lê, các trấn mục không diệt được họ Nguyễn nhưng việc đã định vẫn có thể sắp xếp cho ổn thỏa để nghinh đón tự tôn thì đất nước của nhà Lê cũng chưa đoạn tuyệt, cũng không cần phải hưng sư cho lớn chuyện làm gì.
Còn như họ Nguyễn công phá Lê thành xong chiếm hết nước An Nam, con cháu nhà Lê bị giết hại thì tự tôn nước đó không còn nước mà trở v. An Nam thần phục bản triu, rất là cung thuận, nay bị cường thần soán đoạt phải chạy sang đây nếu như ta bỏ qua không lý đến thật không phải là cái đạo tồn vong nên phải tập trung binh lực kể tội sang chinh thảo.
Trẫm nay đã định đoạt rồi, lại truyn dụ cho Tôn Sĩ Nghị, tuân theo dụ chỉ trước đây, xem két kỹ lưỡng thêm nữa, trù biện cho chín chắn, cứ theo tình thực mà nhanh chóng tâu lên ta sẽ đợi tới khi đó sẽ hạ chỉ để cho biện lý. Còn v phần thân thuộc của Lê Duy K thì nên sắp xếp cho ổn thỏa, cung cấp thêm chớ nên hẹp hòi, còn như các nơi cửa quan thì điđộng một nghìn binh sĩ phân bố ra trấn đóng.
Ngặt vì binh lính không có nhiu, e rằng bọn phỉ thấy quan quân ít ỏi đâm ra coi thường thì hãđiđộng thêm các nơi chung quanh hai ba nghìn lính nữa, phân bố quan ải để làm thanh viện, đ đốc Tam Ðức là người từng chinh chiến lâu năm, nên sai y đếđây thống lãnh, hợp với việc đàn áp tra xét, không cần phải lo gì nữa. Còn Tôn Sĩ Nghị sau khi nghe bẩm báo, lập tức lên đường đến ngay thậtđúng như ý trẫm, hịch văn cũng thật là đắc thể, ngoài những điu trẫm đã nói cũng không có gì khác, nay thưởng thêm cho một đôi hà bao lớn, một đôi hà bao nhỏ để tưởng lệ.
Cùng ngày hôđó, Tôn Sĩ Nghị tâu lên rằng một khi hư trương thanh thế, truyn hịch đem quân sang đánh nước Nam, ắt những người đã theo Tây Sơn sẽ nổi lên chống lại, và nhà Thanh không phải hao quân tổn tướng mà vẫn đạt được thắng lợi.[45] Vả lại, An Nam vốn chẳng phải là đất của Tây Sơn nên khi nghe tin quân Thanh sang đánh, họ sẽ rút v Quảng Nam không luyến tiếc. Mục tiêu gần của anh em Nguyễn Nhạc là thu vét tài vật thì họ đã làm xong, chiếm lĩnh đất đai chỉ là thứ yếu nên chắc chắn ra quân sẽ thành công.
Nói tóm lại, chủ trương của Thanh triu là làm sao tìm được vua Lê để tin hô hậu ủng đưa ông v Lê thành [kinh đô Thăng Long], phong vương rồi can thiệp càng lúc càng sâu vào nội tình nước ta như một vùng nội phiên. Ðiu lợi trước mắt là vua Lê sẽ đích thân tham dự lễ Bát Tuần Khánh Thọ, vừa chúc mừng, vừa tạ ơn đúng như ước nguyện của vua Càn Long để ông có dịp phô trương với mọi người v chính sách “nhân chí nghĩa tận” đối với thuộc quốc. Cơ hội nghìn năm một thuở này sẽ bắc cầu cho tin trình thăng quan tiến chức của Tôn Sĩ Nghị.
2. CHIÊU BÀI “HƯNG DIỆT K TUYỆT
Sau khi nhận được chỉ dụ của vua Càn Long, Tôn Sĩ Nghị xem xét tình hình mọi việc, ngày mồng 8 tháng Bảy năm Mậu Thân (Càn Long 53) [9-8-1788] tâu lên chính yếu dịch ra như sau:
Tra xét việc hai họ Lê Nguyễn thù hằn giết chóc lẫn nhau nguyên do đã từ lâu. Theo lời bọn Nguyễn Huy Túc thì Nguyễn Nhạc là một họ nhỏ đất Tây Sơn, không phải họ lớn phụ chính (tức chúa Nguyễn ở Ðàng Trong) nhưng hai bên đánh lẫn nhau cũng đã nhiu năm. Nay đất An Nam (nói v Bắc Hà) một nửa thuộc v Nguyễn Nhạc còn tự tôn vẫn làm chủ một giải Sơn Nam, đất đó có thể giữ được, quân binh có thể chiếđấu, xem ra dòng nhà Lê chưa đến nỗi tuyệt, tước mà bản triu phong cho vẫn còn.
Còn như đất đai khi rộng khi hẹp, quốc thế lúc thịnh lúc suy, ngoại phiên của thiên triu thật nhiu, thế không thể lấy thước tấc mà đo, không phải lúc nào cũng lấy binh mã lương tin của nội địa mà bao biện cho được. Nếu Nguyễn Nhạc có bụng chiếm cả nước An Nam, không để cho tự tôn một tấcđất, một nước triu cống trong một trăm mấy chục năm qua, nay bỗng dưng bị diệt, thực có liên quan đến thể thống thiên triu, không thể không điđộng quan binh phạt bạo thảo tội.
(Ở đây có lời châu phê của vua Càn Long: Trẫm phân vân chính là ở chỗ đó)
Dụ chỉ của hoàng thượng thật công bằng ngay chính, thần chỉ biết tùy thời tùy việc mà tuân theo biện lý.
Xin để cho thần tìm hiểu dư luận cho kỹ lưỡng, hỏi cặn kẽ tình hình nước man di kia, nếu như Nguyễn Nhạc có bụng gây họa, muốn chiếm cả nước An Nam thì nội địa không thể chỉ vì họ Lê trợ thế dương uy, e rằng tự tôn khó có thể giữ được nước, càng lúc càng tan rã, lúc đó Nguyễn Nhạc có cả nước An Nam, khí cục đã thành, không thể không hao phí binh lực nội địa, đến lúc đó cũng đã muộn rồi, thành thử thần xin được điu bát binh lực các nơi chung quanh, huấn luyện thao phòng, nói rõ định ngày ra quân, chia đường tiếđánh.[46]
Nguyễn Huệ cũng hay biết tin này nên sai quan trấn thủ Văn Uyên (文淵) là Hoàng Ðình Cầu (黃廷球) và Nguyễn Ðình Liễn (阮廷璉đem lễ vật lên tiến cống, trên từ biểu ký tên là Nguyễn Quang Bình (阮光平).[47] Tuy chưa biết rõ tình hình ra sao nhưng Tôn Sĩ Nghị cũng hư trương thanh thế để dò xem phản ứng của quân Tây Sơn thế nào. Ngày mồng 1 tháng Bảy năm Càn Long 53 [2-81788], Tôn Sĩ Nghị đích thâđến Nam Quan ra lệnh cho phó tướng Vương Ðàn (王檀) hiện đang chỉ huy hiệp Tân-Thái đứng trên cửa quan, lớn tiếng đọc bản hịch kết tội rồi ném hịch văn qua bên ngoài tường để cho quân Tây Sơn nhặt được.[48]
Trong tình hình đó, vua Càn Long ra lệnh cho Quân Cơ Xứ nghiên cứu tình hình, đến ngày mồng 5 tháng Bảy năm Càn Long 53 [6-8-1788], A Quế trình lên dịch ra như sau:[49]
... Nước An Nam kia ở nơi phương nam xa xôi nóng nực, từ khi kiến quốc tự đời Tống đến nay, họ Nguyễn, họ Lý, họ Trần, họ Lê qua mấy đời soán đoạt tranh chấp lẫn nhau. Ðời Vĩnh Lạc nhà tin Minh, nhân vì Lê Quí Ly cướp ngôi nhà Trần nên đã ba lần sang dẹp loạn, mất đến hơn chục năm, ngặt vì dân nước đó tính tình phản phúc, nên cũng phải bỏ v nhân vì họ Trần vô hậu, khi Lê Lợi cầu phong lin sách lập trở lại.
V sau hai họ Lê Mạc tranh giành nhiu năm, triu ta uy đức tràn đầy nên nước đó khuynh tâm thần phục, triu cồng không dứt. Nhưng họ Lê không tự phấn chấn lên được, bị cường thần chế ngự, hiệu lệnh lại không ban bố xuống được toàn cõi, nguy cơ từ đó mà ra. Nay Lê Duy K bị Nguyễn Nhạc bức bách phải bôđào, theo lời bọn di mục Nguyễn Huy Túc thì tự tôn nay chạy v một giải Sơn Nam mưu tính chuyện khôi phục.
Nếu như lòng người còn nhớ đến triđại cũ, Lê Duy K có thể tụ tập binh dân tiễu trừ được Nguyễn Nhạc, thu phục Lê thành, nghinh đón quyến thuộc trở v. Hoặc giả tuy Lê Duy K hiện đang trốn tránh, các di mục cũng có thể đón tự tôn mưu tính việc khôi phục, theo như thánh dụ đợi cho đến lúc mọi sự đã định, lúc đó sẽ đón quyến thuộc v nước, không cần phải hưng sư làm cho lớn chuyện. Còn như tất cả nước An Nam đã bị Nguyễn Nhạc chiếđóng rồi, đợi cho Tôn Sĩ Nghị tra xét rõ ràng tin tức của Lê Duy K, tâu lên, nặng hay nhẹ, gấp rút hay thư thả, khi đó phải làm gì ắt thánh minh sẽ có biện pháp.(NDC)
Quân Cơ Xứ là cơ quan quyn lực tối cao của nhà Thanh, chỉ sau hoàng đế, mọi việc đu do tập thể nhỏ bé này quyếđịnh, A Quế là người đứng đầu nhưng chỉ trình lên rất chung chung, đủ biết họ không muốn can thiệp vào việc này. Trước đây, sử thường cho rằng những việc liên quan đến nước ta có thể lo lót một cá nhân mà xong việc. Thiển kiếđó xét ra không phù hợp với thực trạng đưa đến những nhận định sai lạc.
Chúng ta có thể khẳng định rằng các đại thần nhà Thanh đã không hưởng ứng việc đưa quân sang nước ta, việc động binh là do ý riêng của vua Càn Long và Tôn Sĩ Nghị, không thông qua quyếđịnh của Quân Cơ Xứ.
2.1. Chân dung vua Càn Long
Cho tới giữa thế kỷ thứ XVIII, người Mãn Châđã cai trị Trung Hoa được hơn 100 năm và đã tiến vào giai đoạn đỉnh cao của triđại sau ba đời vua Thuận Trị, Khang Hi, Ung Chính. Năm Bính Thìn (1736) Thái Tử Hoằng Lịch 25 tuổi lên ngôi, niên hiệu Càn Long, là hoàng đế trị vì lâu hơn cả trong lịch sử nước Tàu và cũng là thời k mà uy vũ của nhà Thanh lên đến tột đỉnh. Trong suốt thời gian tại vị, vua Càn Long đã tập trung vào việc mở rộng biên cương, có thể nói là muốn bành trướng sức mạnh ra tất các quốc gia chung quanh. Như trên đã nói, vua Càn Long tự đặt cho mình cái danh hiệu Thập Toàn Lão Nhân mà các sử gia Âu Mỹ đã dịch là “Old Man of the Ten Completed Great Campaigns”. Trong 45 năm từ 1747 đến 1792, nhà Thanh đã chủ động mười cuộc chiến tranh với lân bang. Mười chiến tích đó bao gồm hai lần bình định Kim Xuyên (Chin-ch’uan) là giống người ở thượng du phía Tây Tứ Xuyên (nay là người Tây Tạng) trong những năm 1771 và 1776, hai lần bình định Chuẩn Cát Nhĩ (Dzungharia) và một lần chinh phục Hồi Hồi (Turkic Muslim tức Uighurs) vào khoảng từ 1755 đến 1759, một lần chinh phạt MiếÐiện (1765-1769), một lần dẹp loạn Ðài Loan (1787-1788), một lần “vỗ yên” (thảo hàng) An Nam (1788-1789), hai lần viễn chinh Khuếch Nhĩ Khách (Gurkhas of Nepal) (1790-1792).
Những lần động binh đó khi to khi nhỏ, với nhiu mục tiêu và dụng ý khác nhau, khi thì mang tính chất xâm lăng, khi thì tự vệ, có khi là dẹp loạn mà cũng có khi thất bại nhưng lại cho rằng đó là một thắng lợi ngoại giao. Sử nhà Thanh còn ghi chép khoảng 1500 bài thơ văn của chính vua Càn Long tự ca công tụng đức, nhiu bài được khắc vào bia đá đặt ở các đđài rải rác khắp Trung Hoa. Ngoài ra nhà vua cũng ngự bút trên những tranh vẽ, kể cả tranh do các họa sĩ Tây Phương đang lưu dụng tại triu.
Ðể tỏ ra mình là một minh quân, một hiếu tử, một nho sĩ tài hoa, một tướng lãnh hùng tài đại lược vua Càn Long bắt chước các bậc tiên hin, dùng văn trị và chấn hưng học thuật. Thời gian đầu tại vị, ông cũng làm được một số công trình to tát nhưng càng v sau càng tỏ ra suy bại.
Trong thời gian trị vì, ông tuần thú phương nam tới Giang Tô và Triết Giang sáu lần, đi v phương đông tới tỉnh Sơn Ðông năm lần, v phương đông bắc tới Thịnh Kinh của Mãn Châu ba lần, đi vphương tây tới Ngũ Ðài Sơn sáu lần và tới Hà Nam một lần. Ông thường nghỉ hè tại Nhiệt Hà, đi săn hàng năm ở Mộc Lan vào tháng Tám âm lịch và đi chơi các vùng lân cận Thiên Tân, thăm các lăng tẩm ở phía đông nhiđến nỗi không sách vở nào chép hết. Tháp tùng Hoàng Ðế luôn luôn có Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu, hàng ngàn kẻ hầu người hạ và cận vệ. Mỗi chuyếđi kéo dài ít nhất vài tháng. Hơn nữa, mỗi lần nghỉ hè ở Nhiệt Hà kéo dài cũng trên hai tháng. Các quan chức địa phương lại cố gắng tột cùng để chiu lòng Kim Thượng, tiêu pha rất xa xỉ. Các chi phí đó lẽ dĩ nhiên đổ lên đầu dân chúng khiến cho họ càng thêm khổ cực.[50]
Luôn luôn nghĩ mình là một bậc thánh quân, vua Càn Long đã nổi giận và trừng trị nặng n những “quan lại đã cố gắng khuyên vua ngưng các chuyến tuần du tốn kém đó vì gánh nặng tài chánh đổ trên đầu dâđịa phương”.
 Chuyện thứ hai là việc ngăn ngừa lũ lụt luôn luôn là một công tác quan trọng mà chính quyn nào cũng phải thực hiện. Tuy nhiên hộ đê lại là dịp cho quan lại ăn tin:
 … Chính vì thế, dù quốc gia có tiêu bao nhiêu tin vào việc đê điu và ngăn ngừa lụt lội thì cũng chẳng đđếđâu mà chỉ làm giàu cho những kẻ có chức quyn. V sau lụt lội trở nên thường xuyên hơn, gây thiệt hại v nhân mạng và tài sản. Theo con số của Vương Ðồng Linh, thời vua Càn Long trị vì, trong 45 năm sông Hoàng Hà vỡ đê 20 lần tại Hà Nam và Giang Tôđổ đồng hai năm là một năm lụt. Sau khi vua Càn Long băng hà, trong 22 năm có 17 lần lụt lội tại các sông khác. Triđình phải bỏ ra nhiu triệu lượng bạc để tu bổ đê đập khiến cho các quan lại có dịp phát tài. Nông dân vùng lụt một cổ hai tròng, trong khi nhà tan người mất lại còn phải gánh vác việc hộ đê.[51]
Các sử gia cho rằng giai đoạn này tuy văn minh Hoa Hạ lên đến cực điểm nhưng cũng là thời k khởi đầu của suy tàn, vì triđình dồn hết tin bạc tài vật vào những chi tiêu xa xỉ của cung đình.
Buổi tiệc khánh thọ hoàng đế (emperor’s birthday) kéo dài vài thời k, mỗi giai đoạn 10 ngày và tiêu một khoản tin lớn. Chẳng hạn, những cảnh trí nhân tạo dựng lên dọc theo con đường từ Viên Minh Viên đến Tử Cấm Thành để chúc mừng vua Càn Long 80 tuổi tiêu tốn hơn 1,100,000 lượng bạc.[52]
Khi vua Ung Chính băng hà, trong kho nhà Thanh còn 24 triệu lượng bạc. Những năm phú túc của giai đoạn đầu đời Càn Long khiến cho đến 1786 quốc khố có đến 50 triệu lượng. Nhà vua cho xây Viên Minh Viên, một khu nghỉ mát tráng lệ vào bậc nhất ở phía tây Bắc Kinh. Thêm vào đó, mặc dầu dân tình đói kém vua Càn Long vẫn dùng đến 200 triệu lượng bạc vào kinh phí binh bị cho những cuộc “chinh phạt”, khiến quốc khố trở nên trống rỗng.[53] Tới cuối đời Càn Long, dân số Trung Hoa tăng vọt khiến học giả Hồng Lượng Cát (Hung Liang-chi 1746-1809) -- mà sau này được mệnh danh là “Chinese Malthus” -- đã phải báo động v mức độ tiêu thụ và xa xỉ của thế hệ ông sẽ gây họa cho con cháu.[54] Năm Canh Tuất (1790) là năm vua Càn Long ăn mừng Bát Tuần Khánh Thọ, cũng là năm cung điện mùa hè thứ 72 của ông hoàn tất.
Vào thời đó, quan lại và tướng lãnh càng ngày càng sa đọa, tiêu rất nhiu mà kết quả chẳng bao nhiêu. Cả một triđình xa xỉ, thối nát từ trên xuống dưới một phần cũng bởi đại học sĩ Hòa Khôn[55] (Ho Shen 和珅 1750-1799) nhũng lạm nhiu hơn cả. Hoà Khôn vốn chỉ là một người lính thuộc Hồng Kbinh gác cửa  cung điện. Một hôm, vua Càn Long ngự giá trông thấy dáng dấp bảnh bao của gã, lập tức cảm thấy yêu mến và đem lòng sủng ái. Khi đó vua Càn Long đã 65 tuổi, còn Hoà Khôn chỉ mới 25.[56] Hoà Khôđược cất nhắc lên những chức vụ cao và chẳng mấy chốc đã lên tới Phó Ðô Thống, rồi Thị Lang, đến năm 1786 lên đếÐại Học Sĩ.[57]
Dưới quyn Hoà Khôn, hối lộ trở nên thông dụng trong đám quan lại, không ai còn trọng đạo đức, các chức vụ trong quan trường đu có thể bỏ tin mua. Kẻ nào biết luồn cúi, nịnh bợ chiu lòng Hoà Khôn thì muốn làm gì thì làm và có thể ăn hối lộ giàu có trong một sớm một chiu.[58]
Kể từ đó y kéo bè kếđảng, cha được phối hưởng Thái Miếu, con làm phò mã lấy một công chúa vua Càn Long cực k sủng ái, em trai cũng làm đến nhất phẩm triđình. Năm 1795, vua Càn Long thoái vị lên làm Thái Thượng Hoàng, thái tử Gia Thân Vương lên nối ngôi, năm sau tức vị niên hiệu Gia Khánh (1796-1820) nhưng quyn hành vẫn nằm trong tay vua cha và đảng Hoà Khôn. Ngày 7 tháng 2 năm 1799, vua Càn Long từ trần. Năm ngày sau, Hoà Khôn bị bắt và bị tịch biên, riêng động sản đã lên đến 80 triệu lượng bạc - nhiu hơn cả quốc khố nhà Thanh lúc đó - còn tổng cộng gia tài của y thì trị giá khoảng 1.5 tỉ dollars theo thời giá ngày nay[59] bao gồm khoảng 120,000 mẫu ruộng, 84,000 lượng vàng, 55,000 thoi bạc, 1,000,000 lượng bạc và và vô số các báu vật khác chứa trong kho trị giá 9,000,000 lượng nữa chưa kể hơn 100 quán đổi tin và cầm đồ. Ngoài ra y còn tích trữ 600 cân sâm loại tốt.[60]
Năm 1793, Lord George Macartney đại diện Anh hoàng George III sang triu kiến vua Càn Long để xin thông thương và mở một lãnh sự quán ở Bắc Kinh. Người Âu Châu cho rằng Macartney đã không chịu khấu đầu[61] nên vua Càn Long từ khước những yêu cầu của phái đoàn Âu Châu.[62] Sự thất bại của sứ bộ ngoại giao lịch sử này cho ta thấy hai thái độ, hai đường lối ngược chiu của Ðông và Tây. Triđình nhà Thanh không quan tâm gì đến những tiến bộ kỹ thuật của Âu Châu lại chỉ muốn khoe khoang sự hào nhoáng và giàu có của mình, coi phái đoàn Anh như một bọn mọi rợ đem đồ tiến cống.
Macartney đã so sánh dân tộc Trung Hoa như một “chiếc tàu chiến cũ kỹ, khật khùng còn giữ được nổi lnh bnh nhờ có những thủy thủ và sĩ quan ưu tú” (an old, crazy, first-rate man-of-war, which a fortunate succession of able and vigilant officers has contrived to keep afloat) nhưng rồi đây khi những nhân tài đó mất đi thì “con tàu sẽ dập dnh vô định cho tới khi vỡ tan tành dạt vào bờ” (with lesser men and the helm, slowly drift until dashed to pieces on the shore).[63]
Nếu chỉ nhìn vào b ngoài qua những di sản văn hóa đời Thanh, chúng ta không khỏi ngưỡng phục sự huy hoàng của họ. Tuy nhiên v phương diện thực lực, Trung Hoa đã trở thành một quốc gia bạc nhược và hèn yếu. Nguyễn Huệ đã chứng tỏ rằng Thanh triu không cường thịnh như người ta lầm tưởng.
2.2. Chân dung Tôn Sĩ Nghị
Hình ảnh mà sử nước ta miêu tả Tôn Sĩ Nghị không giống như ghi nhận của Trung Hoa. Người mình thường hình dung họ Tôn như một viên tướng Tàu bụng phệ, ham ăn, hiếu sắc, điu binh một cách ngu xuẩn khinh địch. Việc họ Tôđại bại là một sự thật lịch sử nhưng nguyên nhân chủ quan chỉ mới là một phần. Những nguyên nhân khách quan khác như địa thế, thời tiết, cách bố phòng và tấn công, ưu và khuyếđiểm của hai bên trong tổ chức, tiếp vận còn nhiđiu phải nghiên cứu, mỗi yếu tố đu dự phần vào sự thắng bại.
Theo Thanh Sử Cảo, Tôn Sĩ Nghị (tự là Trí Trị 智治, hiệu là Bổ Sơn 補山) người Hàng Châu sinh năm Canh Tí (1720), đỗ tiến sĩ năm Tân Tị, Càn Long 26 (1761) khi đó đã ngoài 40. Khi vua Càn Long du Giang Nam lần thứ ba, Tôn Sĩ Nghị dự một k khảo thí đỗ đầu được vua khen triệu vào làm Nội Các Trung Thư, rồi thăng Quân Cơ Chương Kinh, làm việc với Ðại Học Sĩ Phó Hằng (傅恆). Năm Mậu Tí, Càn Long 33 (1768), Tôn Sĩ Nghị theo Phó Hằng chinh thảo MiếÐiện (1769) lập được nhiu công trạng nên được thăng lên Hộ Bộ Lang Trung, rồi Ðại Lý Tự Thiếu Khanh, tuần phủ Vân Nam.
Năm Canh Tí (1780) Vân Quí tổng đốc Lý Thị Nghiêu bị cách chức, Tôn Sĩ Nghị cũng bị sung vào quâđđánh Y Lê, nhưng được xá tội và trở v làm biên tu Hàn Lâm Viện. Sau vì điu tra tổng đốc Lưỡng Quảng là Furgun (Phú Lặc Hồn 富勒渾) tham nhũng được triđình khen ngợi nên Tôn Sĩ Nghị được thăng Tổng đốc Lưỡng Quảng (1786). Thời gian sau đó, ông đối phó nhanh nhẹn đàn áp được những vụ nổi dậy ở Ðài Loan (1786-7) và luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng tiếp liệu, quân dụng nênđược thăng lên Văn Uyên Các Ðại Học Sĩ, tam đẳng nam tước, lại được ban mũ với lông công hai mắt (song nhãn hoa linh - 雙眼花翎) dành cho các tôn thất cấp bậc thấp hay giới quí tộc Mãn Châu.
Ðây là một vinh dự đặc biệt cho một người gốc Hán tộc như họ Tôn. Tâm sự Tôn Sĩ Nghị cũng giống như tâm sự nhà nho nước ta là Nguyễn Công Trứ luôn luôn muốn “có danh gì với núi sông”. Ở vào tuổi gần “cổ lai hi”, họ Tôn mong mỏi một công nghiệp rực rỡ và biến loạn ở nước Nam chính là một cơ hội nghìn năm một thuở. Trương Bửu Lâđã có nhận xét khá chí lý như sau:
Tôn Sĩ Nghị thiếu hẳn một chiến tích trong hoạn lộ. Ông ta chắc cũng tự so sánh mình với tổng đốc Mân Triết kế bên là Phúc Khang An, vốn cũng là một văn quan, nhưng nay nổi tiếng v võ nghiệp. Ðến khi cuộc chinh phạt Ðài Loan năm 1787 thì Tôn Sĩ Nghị lại càng bồn chồn. Thành thử trong nhiệm vụ tổng đốc Lưỡng Quảng, họ Tôn cũng chuẩn bị một chiến dịch quân sự, dù rằng chưa được lệnh làm việc đó. Ngờ đâu khi cuộc chiến bình định Ðài Loan nổ ra, Phúc Khang An lại được chỉ định làm nguyên soái.[64]
Cuối năm Mậu Thân (1788), Tôn Sĩ Nghị đem quân sang nước ta, vào thành Thăng Long được vua Càn Long đặc biệt thăng lên Mưu Dũng Công (謀勇公) ngay tại mặt trận. Thế nhưng chưa đầy một tháng đã bị đại bại chạy v nên bị cách chức, triệu v Bắc Kinh làm việc trong Quân Cơ Xứ rồi cuối năm ra làm tổng đốc Tứ Xuyên. Năm Canh Tuất (1790) lại sang làm tổng đốc Lưỡng Giang (Giang Nam – Giang Tây). Sau đó Tôn lại cùng với Phúc Khang An đem quân sang đánh MiếÐiện (1792), lập nhiu công trạng và nổi tiếng v tính toán quân nhu, tiếp liệu và được v làm một trong vài các thần của Quân Cơ Xứ. Từ 1795 đến 1796, ông lại trở v làm tổng đốc Tứ Xuyên, thời k mà người Miêu đang nổi lên ở Quí Châu, Hồ Nam cùng một lúc với các giáo phái ở Tứ Xuyên, Hồ Bắc.
Cứ như sử chép, họ Tôn không phải là một nhà cai trị kém và những tài liệu còn ghi lại chứng tỏ việcđem quân sang An Nam được chuẩn bị khá chu đáo. Việc thua trận một phần lỗi là ở chính vua Càn Long và cũng vì thế Tôn Sĩ Nghị chỉ bị trách phạt rất nhẹ, sau đó lại thăng tiến rất nhanh. Tôn Sĩ Nghị, Phúc Khang An và Minh Lượng là ba danh sĩ cuối đời Càn Long, tiểu sử chép chung trong một quyển. Tôn Sĩ Nghị là người nổi tiếng v văn tài, cùng với Kỷ Hiểu Lam (紀曉嵐) và Lục Tích Hùng (陸錫熊) là ba người được chỉ định trông coi biên tập bộ Tứ Khố Toàn Thư. Ông tính thích sưu tầm các loạiđá lạ không kém gì Mễ Phế đời Tống.[65] Tôn Sĩ Nghị từ trần vào tháng 5 năm 1796 sau khi dẹp xong loạn người Miêu và Bạch Liên Giáo.
Sự tương đồng trong tham vọng của vua Cao Tông muốn đủ 10 võ công oanh liệt và mong mỏi của Tôn Sĩ Nghị được thăng quan tiến chức chính là nguyên nhân trực tiếp của lần động binh này.

(Còn tiếp)

Nguyễn Duy Chính





[33] Chakri nguyên nghĩa là nguyên soái hay tướng quân vì trước đâông ta chỉ huy quâđội của Phraya Taksin và dùng tên này làm tên triđại.
[34] Ðông Nam Á người Trung Hoa gọi là Nam Dương (biển phía nam) bao gồm khu vực mà ngày nay chúng ta đặt tên là Southeast Asia, Mã Lai Á, Indonésia, Philippines.
[35] Năm 1273, khi Nguyên Thế Tổ (Kubilai) nhà Nguyên đòi vua Miến triu cống và thân hành sang chầu, vua MiếÐiện đã xử tử sứ giả. Năm 1277, nhà Nguyên đem quân từ Vân Nam xuống đánh, thắng được tại vùng lòng chảo Nam Ti nhưng người Miến vẫn không chịu khuất phục. Năm sau, 1278, nhà Nguyên lại đem quân sang đánh lần nữa, nhưng vẫn không tiếđược đến kinh đô Bhamo. Khí hậu viêm nhiệt nhất là bệnh dịch đã khiến cho quân Mông Cổ tổn thất nặng n.
Năm năm sau, 1283, một đạo quân do tướng Mông Cổ Singtur (thay vì do người Hồi chỉ huy như trước đây) tiếđánh thung lũng Irrawaddy và ép vào kinh thành khiến vua Miến phải lui v vùng đầm lầy để chống trả. Ðến năm 1287, quân Nguyên chiếđược MiếÐiện (khi đó có tên là Pagan) và sáp nhập vào đế quốc Mông Cổ. MiếÐiện chỉ thu hồi được lãnh thổ khi nhà Nguyên bị diệt vong. C.P. Fitzgerald, The Southern Expansion of the Chinese People. (1972) tr. 81
[36] Alexander Woodside, “The Ch’ien-Lung Reign” trong Willard J. Peterson (ed.), The Cambridge History of China, Vol 9, phần 1: The Ch’ing Dynasty to 1800 (2002) tr. 264-68.
[37] To break the power of Nguyễn Huệ, Sun (Sun Shih-I tức Tôn Sĩ Nghị) proposed to Ch’ien-lung that Vietnam be dismembered. Central Vietnam would be awared to Siam, in return for Thai aid against the Tay-son brothers. It was clear to Sun and his master that the Le prince whom they were supporting was incompetent, even as a figurehead. At first Ch’ien-lung thought a military alliance with the Thai regime “seemed like something that could be done”. He subsequently rejected the idea, not because it was politically immoral, but because it would shower disproportionate favor upon the Thai king and, even worse, damage the reputation he had earned in his Sinkiang triumphs of using only his own armies and not accepting the assistance of an “outer region military power”. Alexander Woodside: “The Ch’ien-Lung Reign” trong Willard J. Peterson (ed.). The Cambridge History of ChinaVol. 9 Part 1 – The Ch’ing Dynasty to 1800 (2002) tr. 277
[38] Tuy nhiên theo một lá thư của giáo sĩ Le Labousse gửi từ Sài Gòn ngày 15 tháng 6 năm 1789 thì Nguyễn Ánh đã bắt được một bức thư của vua Càn Long gửi vua Xiêm yêu cầu đánh vào mặt nam Ðại Việt (Le Roy d’ici (tức Nguyễn Ánh) a intercepté une lettre écrire au nom de L’empereur de Chinois au Roy de Siam pour lui dire de venir attaquer les T.S. de coté-ci par la Cochinchine) Nguyễn Nhã, “Một Thiên Tài Quân Sự”, Một Vài Sử Liệu ...(1992) tr.107-8, cước chú 38
[39] Alexander Woodside, “The Ch’ien-Lung Reign” (2002) tr. 277
[40] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 362
[41] Ðời Thuận Trị, nhà Thanh phong cho Ngô Tam Quế (吳三桂) làm Bình Tây Vương trấn đóng ở Vân Nam, Cảnh Trọng Minh (耿仲明) làm Tĩnh Nam Vương, trấn đóng Phúc Kiến, Thượng Khả Hỉ (尚可喜) làm Bình Nam Vương, trấnđóng Quảng Ðông. Tam Phiên khi đó được giữ trọng binh, thế lực càng lúc càng lớn. Tháng Ba năm Khang Hy thứ 12 (1673), Thượng Khả Hỉ dâng sớ xin cáo lão v Liêu Ðông để cho con là Thượng Chi Tín kế vị, nhân cơ hội đó triđình xuống chiếu triệt phiên. Tới tháng Bảy, Ngô Tam Quế và Cảnh Tinh Trung (con của Cảnh Trọng Minh) cũng dâng sớ xin triệt binh, vua Khang Hy lin ra lệnh cho cả 3 phiên di chuyển ra ngoài Sơn Hải Quan. Ngày 21 tháng Một, Ngô Tam Quếkhởi binh chống lại nhà Thanh, tuyên bố ủng lập Chu Tam  Thái Tử (tức Chu Từ Quýnh 朱慈炯, con của Sùng Trinh hoàng đế, khi đó thất tung nhưng người Hán dùng danh vị để phát động phong trào phản Thanh phục Minh), viết thư cho Cảnh Tinh Trung, Thượng Khả Hỉ cùng khởi sự, gây ra cái loạn Tam Phiên. Năm Khang Hy thứ 17, Ngô Tam Quế xưng đế ở Hành Châ衡州, quốc hiệu Ðại Chu nhưng chẳng bao lâu thì từ trần, cháu là Ngô Thế Phan 吳世璠 kế vị. Ngày 19 tháng Mười năm Khang Hy thứ 20, quân Thanh đánh tới Côn Minh, Ngô Thế Phan tự tử, loạn Tam Phiên chấm dứt, tổng cộng 8 năm.
[42] Mỗi lần nhà Thanh động binh đu phải tìm một cớ “chính đáng”, không bình định nội loạn thì cũng chinh phạt ngoại hoạn ... Tu trường hợp mà họ dùng một động từ thật kêu chẳng hạn như bình định (平定) Kim Xuyên, đãng bình (蕩平) Chuẩn Cát Nhĩchinh phục (征服) Hồi bộ, thảo phạt (討伐) MiếÐiện, tĩnh tuy (靖綏Ðài Loan, thảo hàng (討降) An Nam ...
[43] Lai Phúc Thuận, Càn Long Trọng Yếu Chiến Tranh chi Quân Nhu Nghiên Cứu, (1984) tr. 30, trích từ Cung Trung Ðáng, CCBVV, tấu chương của hai họ Tôn ngày mồng 8 tháng Năm năm Càn Long thứ 52 [22-6-1787]
Nguyên văn:
然已亡失國之印信,因鄭氏擅權時,曾竊奪國印,謀取簒位。黎維祁乃咨請憑信,兩廣總督孫士毅以其未經具本告哀,尚未奉旨承襲,不便先給印信,拒之。
(Nhiên dĩ vong thất quốc chi ấn tín, nhân Trịnh thị thiện quyn thời, tằng thiếđoạt quốc ấn, mưu thủ soán vị. Lê Duy K nãi tư thỉnh bằng tín, Lưỡng Quảng tổng đốc Tôn Sĩ Nghị dĩ k vị kinh cụ bản cáo ai, thượng vị phụng chỉ thừa tập, bất tiện tiên cấp ấn tín, cự chi.)
[44] Thanh Cao Tông thuần hoàng đế thực lục [Thanh Thực Lục], q 1307, tr 9, ỷ tín thượng dụ ngày Canh Tuất, tháng Sáu, Càn Long năm thứ 53. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 348-9.
[45] nguyên văn theo tấu thư là “điếu phạt chi sư vị động, hưng kế chi nghiệp khả thành” (弔伐之師未 動,興繼之業可成) quâđiếu phạt chưa cần ra tay thì công việc làm cho kẻ mất nghiệp kia được trở lại đã thành rồi.
[46] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 349. Cung Trung Ðáng, CCBVV, tấu triệp của Tôn Sĩ Nghị đ ngày mồng 8 tháng Bảy, Càn Long thứ 53 (1788); Quân Cơ Xứ, CCBVV, bản sao tấu triệp của Tôn Sĩ Nghị ngày mồng 8 tháng Bảy năm Càn Long 53.
[47] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 353
[48] Ngươi Nguyễn Nhạc đuổi chủ làm loạn cương thường, vọng tưởng việc soán nghịch. Tổng đốc nghe tin đích thâđếđây, đã tâu lên đại hoàng đế điđộng quan binh các tỉnh Vân Quí, Xuyên Quảng, Phúc Kiến vài mươi vạn, chia đường ra tiếđánh. Nguyễn Nhạc ngươi nếu không hối tội tự mình đổi mới, nghinh đón chủ cũ trở v, bảo toàn gia quyến, lại dám quấy nhiễu thiên triu, đem nạp cống vật.
Di mục các ngươi đã từng nhận quan chức của họ Lê, bỗng dưng trở mặt thờ kẻ thù, thay chúng gõ cửa quan cầu xin, thực đúng là kẻ vô liêm sỉ. Ðúng ra ta phải bắt các ngươi ngay để xin hoàng thượng hạ chỉ đem ra chính pháp. Nhưng nghĩrằng các  ngươi chỉ là những di quan thấp kém, không đáng để trừng trị, vậy hãy mau mau trở v nói cho Nguyễn Nhạc biết rằng, hoạ phúc chỉ trong nháy mắt, các ngươi tự thu lấy.
Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 353-4. Cung Trung Ðáng, CCBVV, bản sao tấu thư của Tôn Sĩ Nghị đ ngày mồng 8 tháng Bảy năm Càn Long 53 [9-8-1788]. Bản văn này cũng xuất hiện trong KhâÐịnh An Nam Kỷ Lược [quyển II] (bản dịch Nguyễn Duy Chính, chưa xuất bản).
[49] Quân Cơ Xứ, CCBVV. Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 350.
[50] Chen-Ya Tien, Chinese Military Theory, Ancient and Modern (1992) tr. 70-1 (bản dịch Nguyễn Duy Chính)
[51] Chen-Ya Tien, Chinese Military Theory ... (1992) tr. 70-1
[52] Cố Cung Bác Vật Viện (故宮博物院). Thanh Cung Yến Lạc Tàng Trâ(清宮宴樂藏珍) (Qinggong Yanyue Cangzhen). (2002) tr. 29
[53] Frederic Wakeman, Jr., The Fall of Imperial China (1975) tr. 102
[54] Alexander Woodside, “The Ch’ien-Lung Reign” (2002) tr. 270
[55] Có chỗ dịch là Hòa Thân
[56] Ngoại sử bảo là vì tướng mạo gã giống một người thiếp của vua cha Ung Chính mà vua Càn Long từng tư thông trướcđây, bị hoàng hậu phát giác nên bức tử người quí phi đó. Cũng có nhiu lời đồn đãi là vua Càn Long có quan hệ đồng tính luyến ái với gã này vì vua Càn Long cho rằng y là người phi tần cũ đã đầu thai (A homosexual liason was implied in popular stories, such as one suggesting Heshen was the reincarnation of one of Emperor Yong-zheng’s concubines, with whom Qianlong had been infatuated as a youth). Theo những miêu tả của nhiu người ngoại quốc được gặp Hòa Khôn thì y là người “thanh tú, đẹp trai, ăn mặc ra chiu thiếđạo đức” (elegant in looks, sprucely handsome in a dandified way that suggested a lack of virtue). Ðó là lý do tại sao vua Càn Long lại sủng hạnh một gã bất học vô thuật đến 20 năm. Jonathan D. Spencer, In Search for Modern China (1990) tr. 115.
[57] Lê Kiệt, Thanh Sử (quyển thượng) (1964) tr. 339-340
[58] Chen-Ya Tien, Chinese Military Theory ... (1992) tr. 70
[59] Ann Paludan, Chronicle of the Chinese Emperors (1998) tr. 202
[60] Bạch Thọ Di, (Bai Shouyi - 白壽彝Trung Quốc Thông Sử Cương Yếu (An Outline History of China) (1982) tr. 402
[61] Macartney chỉ bằng lòng khấu đầu (kowtow) nếu các quan nhà Thanh cũng phải trả lễ khấu đầu trước Anh Hoàng George III (đại diện bằng một bức tranh sơn dầu lớn bằng người thật) W. Travis Hanes III and Frank Sanello, The Opium Wars (2002) tr. 18
[62] Thực ra mọi thủ tục ngoại giao chỉ là nghi lễ vì Thanh triu luôn luôn có những bàn thảo và quyếđịnh trước khi cho phép sứ bộ ngoại quốc lên kinh đô. Việc cho rằng bất đồng trong việc ứng xử chỉ là những suy đoán không đúng với cách thức làm việc của triđình Trung Hoa. Theo tài liệu của nhà Thanh, lá thư trả lời đã được soạn từ trước khi phái đoàn Anh tới Bắc Kinh nên những nỗ lực của Macartney hầu như không có tác dụng gì.
[63] Ann Paludan, Chronicle ... (1998) tr. 203.
[64] Truong Buu Lam:, “Intervention versus tribute in Sino-Vietnamese Relations, 1788-1790”, John K. Fairbank (ed.), The Chinese World Order 2nd ed. (1970) tr. 168
[65] Tài liệu v Tôn Sĩ Nghị trích từ các nguồn: Cao Dương. Thanh TriÐích Hoàng Ðế, Q. II, (1989) tr. 639-40. Trung Quốc Danh Nhân Tự Ðiển (Tang Lệ Hòa chủ biên), (1979) tr. 750, Arthur W. Hummel. Eminent Chinese of the Ch’ing Period 1644-1912 (1970) tr. 680-2


Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen