Mittwoch, 20. Mai 2015

VNPRESS- Nhật báo Ngôn Luận và tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong.

 Giáo Sư Tạ Quang Khôi sanh năm 1929 tại Nam Định, Bắc Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm ban Việt Hán, giáo sư dạy môn Quốc Văn và nguyên là Tuỳ Viên Văn Hóa tại Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Hiệu Trưởng Trường Trung Học Nguyễn Trãi Saigon,Thanh Tra Trung Học tại Bộ Giáo Dục VNCH. Hiện Giáo Sư đang nghĩ hưu và cư ngụ tại tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ.

G.S. Tạ Quang Khôi theo nghiệp văn rất sớm, ngay từ lúc còn rất trẻ, cuối thập niên 1940'. Trước 30 tháng 4 năm 1975, ông viết truyện dài đăng báo hàng ngày và truyện ngắn cho các báo hàng tuần, và là biên tập viên Đài Phát Thanh Sài Gòn. Sau khi đến Hoa Kỳ định cư, dù khá bận rộn với công việc làm nhưng ông vẫn tìm thời gian để sáng tác với nhiều thể loại khác nhau; ông đã cống hiến cho nền văn chuơng hải ngoại một số truyện ngắn, cũng như một số bài nghiên cứu văn học thật sâu sắc và rất được ưa chuộng. Ông đã và đang cộng tác, điều hợp nhiều tờ báo văn học tại hải ngoại. Tuy thế, Giáo Sư vẫn không nghĩ mình là một nhà văn chuyên nghiệp 

Khi báo Tự Do của nhóm người Bắc di cư đình bản, tôi không thất nghiệp  vì được ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng mời viết cho Ngôn Luận ngay. Ông Hồ Anh cũng mời cả thi sĩ Ðinh Hùng viết truyện dài dã sử “Ngưòi Ðao Phủ Thành Ðại La”.  Ông Hoàng Hải Thủy viết truyện “Chiếc Hôn Tử Biệt”. Tôi không nhớ truyện đầu tiên tôi viết cho Ngôn Luận là truyện gì, chỉ nhớ truyện cuối cùng là “Thầm Lặng”, một truyện tình cảm rất ướt át. Sau đó, tôi tạm thời từ giã làng văn làng báo Saigon để hành nghề gõ đầu trẻ.

Năm 1956, ông Hồ Anh xuất bản tờ tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, ông Hoàng Hải Thủy và tôi cũng đóng góp bài cho tờ báo mới ra lò này. Ông Hoàng Hải Thủy viết phóng sự về “Vũ Nữ Saigon”.  Còn tôi thi một truyện dài tình cảm tên là “Mưa Gió Miền Nam”.  Ðôc giả có nhận xét là cả hai chúng tôi cùng viết về vũ nữ. Tôi không hiểu ông Hoàng Hải Thủy có kinh nghiệm gì về vũ nữ không, riêng tôi, tôi không biết nhảy đầm. Cho đến nay tôi vẫn chưa hề học nhảy bao giờ.

Truyện “Mưa Gió Miền Nam” được in thành sách sau này và nó đã trở thành một lưỡi dao oan nghiệt cắt đứt nghề giáo mác của tôi. “Mưa Gió Miền Nam” là chuyện một cặp vợ chồng trẻ chạy trốn cộng sản, từ Hà Nội di cư vào Saigon. Người chồng bị thất nghiệp, tìm không ra việc làm. Khi tình trạng hoàn toàn bế tắc, tiền bạc bắt đầu thiếu hụt, cô vợ xinh đẹp nghe lời khuyên của một người bạn gái, miễn cưỡng bước chân vào nghề vũ nữ. Rồi từ đó sa ngã vào con đường trụy lạc, bỏ chồng. Sau 30 tháng 4 năm 1975, một cán bộ cộng sản tiếp thu Thanh Tra đoàn bộ Giáo Dục, nơi tôi đang làm việc, tình cờ đọc truyện này, thấy tôi có tinh thần chống cộng tích cực bèn đuổi tôi ra khỏi ngành giáo dục, gửi về cho địa phương quản lý. Ngay tức thì, ủy ban nhân dân phường tôi cư ngụ đuổi gia đình tôi đi kinh tế mới vì tôi thất nghiệp. Nhưng rất may, vào dịp đó, mấy ông thương gia trong phường cũng bị thất nghiệp vì tiệm buôn của họ phải đóng cửa và họ cũng bị “bong ma” kinh tế mới đe dọa trầm trọng. Họ bèn họp nhau để thành lập một tổ làm mì sợi. Tôi được mời gia nhập và góp vốn. Tất nhiên tôi nắm ngay lấy dịp may này. Nhưng tôi làm gì có tiền để đóng góp, phải hỏi vay ông anh rể và bà chị ruột.  Nhưng hai người thương vợ chồng tôi và lũ cháu nhỏ nheo nhóc, không cho vay mà tặng luôn. Thế là tôi thoát cái nạn kinh tế mới.
Trong thời gian viêt cho Ngôn Luận và Văn Nghệ Tiền Phong, tôi đã quen biết nhiều người trong tòa soạn mà chúng tôi giao du rất lâu, có người cho đến ngày nay vẫn liên lạc.

Người đầu tiên cần nhắc đến là ông chủ nhiệm Hồ Anh.  Ông tên thật là Lê Văn Bình, gốc là một huấn luyện viên thể dục thể thao, tốt nghiệp trường đào tạo ở Phan Thiết thời Pháp thuộc. Khi ở Ðà Lạt ông đã đổi thành họ Nguyễn, Nguyên Thanh Hoàng. Theo lời ông, bút hiêu Hồ Anh là do cụ Á Nam Trần Tuấn Khải đặt. Cụ tách tên Hoàng thành Hồ Anh. Ðáng lẽ phải là Hồ Ang, nhưng Ang vô nghĩa, đổi sang Anh. Khi còn nghèo, ông di chuyển bằng một chiéc xe Lambretta trơ cả máy mà ngươi ta gọi đùa là Lambretta cởi truồng.

Nhật báo Ngôn Luận thoạt tiên do tiền của phủ tổng thống nên chỉ phổ biến và tuyên truyền cho nhà nước. Giám đốc chính trị của tờ báo là ông Hà Ðức Minh, một người có nhiều lien hệ mật thiết với phủ tổng thống. Sau này, khi tờ báo có nhiều độc giả (vì nhật báo Tự Do đóng cửa) và đứng vững, ông Hồ Anh không lệ thuộc vào phủ tổng thống nữa và ông Hà Ðức Minh cũng rời khỏi tờ báo.

Thư ký tòa soạn đầu tiên của tờ báo tôi không biết là ai, khi tôi bắt đầu cộng tác thì ông Từ Chung, mới từ Thụy Sĩ về, đảm nhiệm chức vụ này. Trong một dịp ngồi tán gẫu trong tòa soạn, ông Hồ Anh khoe đã bỏ tiền cho ông Từ Chung đi du học. Chuyện  thực hư ra sao chỉ hai ông biết mà thôi.

Tòa soạn báo Ngôn Luận gồm có Thái Linh, Vân Sơn, Thanh Thương Hoàng, Phan Nghị, Hồng Dương, họa sĩ Văn Ðạt…Tôi không biết Thái Linh tên thật là gì, chỉ biết ông hồi còn ở ngoài Bắc là một đảng viên Duy Dân nên mới lấy chữ Thái đứng đầu. Vào Nam ông lấy họ Phạm, Phạm Văn Linh, bút hiệu là Thái Linh. Ông cho biết ông đã theo lãnh tụ Duy Dân Lý Ðông A lên chiến khu Nga My, gần Nho Quan, thuộc Ninh Bình. Khi Nga My bị Việt Minh tấn công, ông bỏ chạy về Hà Nội. Thái Linh được coi là một trụ cột của báo Ngôn Luận. Khi có những vấn đề quan trọng, ông Hồ Anh đều giao cho ông giải quyết.

Phan Nghị là một phóng viên có uy tín trong làng báo. Ông viết nhiều bài phóng sự rất hay. Nhưng ông lại là người chân thật, cả tin, bạn bè liệt ông vào loại “phổi bò”. Khi ông Nguyễn Chánh Thi làm đảo chính, Phan Nghị đến building Cửu Long ở đường Hai Bà Trưng để chơi bài với một nhóm văn nghệ sĩ, như : Thanh Nam, Thái Thủy, Hoàng Thư…rồi khi ra về, nghe đồn ông Diệm đã đầu hàng, bèn viết tin có tựa đề “Quân ta đại thắng, Diệm đầu hàng”, được để lên tám cột trang nhất của tờ Ngôn Luận. Báo đã in được 6000 tờ thì lại có tin tướng Trần Thiện Khiêm đem sư đoàn 7 từ Mỹ Tho về cứu giá. Thế là 6000 tờ báo phải hủy tức khắc.

Vân Sơn, với bút hiệu Thùy Hương, chuyên viết những bài về phụ nữ. Ông là ngươi hiền lành, chân chỉ hạt bột, không có gì xuất sắc.
Hai ông Hồng Dương và Thanh Thương Hoàng đều là phóng viên chạy ngoài.
Ông Ðạm Phong là phóng viên thể thao, nhưng cũng có khi làm phóng sự đặc biệt. Ông nổi tiếng về loạt bài “Con Ma Vú Dài” ở Cà Mau. Khi sang Mỹ, Ðạm Phong định cư ở tiểu bangTexas. Ông đã táo bạo vạch trần mánh khóe lừa bịp của Mặt Trạn Hoàng Cơ Minh nên đã bị ám sát chết. Nhưng thật ra, người ta không biết chắc ai là thủ phạm vụ án mạng này.
Ông Hồng Dương tên thật là Nguyễn Hữu Hùng, được tiếng đẹp trai nhất làng
báo, một thời là chông của nữ danh ca Lệ Thu.

ÔngThanh Thương Hoàng đươc cả làng báo mang ơn. Ông là người sáng lập Hôi Ký Giả Việt Nam và vay tiền ngân hang để xây dựng làng báo chí gần Thủ Ðức. Hầu như tất cả những người làm báo hay dính líu đến nghề báo thời đó, cả Nam lẫn Bắc, đều được một căn nhà trong làng báo chí. Sau này, khi chúng tôi gặp lại nhau ở Mỹ, ông Thanh Thương Hoàng cho biết đa số người mua nhà trong làng báo chí không trả tiền.
Ông Thầy Gòn, tức Tử Vi Lang, hàng ngày viết chuyện phiếm cho báo. Ông dịch lại Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa để đăng từng kỳ trên báo. Nhiều người cho rằng bản dịch của ông đầy đủ hơn bản dịch của cụ Phan Kế Bính ngày xưa. Ông tên thật là Nguyễn Văn Ðính, người Thanh Hóa.

Hàng ngày, báo Ngôn Luận có tranh vui cười “Bé Ngôn, bé Luận” do họa sĩ Văn Ðạt vẽ. Ðộc giả nhi đồng rất hâm mộ lọai tranh này.

Khi ông Hồ Anh xuất bản tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, tôi cũng viết một truyện dài (như đã nói ở trên). Một hôm, tòa báo nhận được thư độc giả than phiền người phụ trách mục giải đáp tâm tình đã khuyên đôc giả ly dị. Hồi đó, vào những năm giữa thập niên 1950, dù chưa có luật Gia Ðình của bà Ngô Ðình Nhu, chuyện ly dị ở Việt Nam cũng ít xảy ra, nên độc giả mới coi là chuyện quan trọng. Ông Hồ Anh muốn đổi người khác phụ trách mục này. Trong lúc cấp thời chưa tìm ra ngươi thay thế, ông đề nghị tôi tạm giữ vài kỳ. Vì nể ông, tôi đành nhận lời và lấy bút hiệu là Diễm Hồng, tên một cô bạn học lớp đệ Nhất Chu Văn An, Hà Nội. Ông Tử Vi Lang chê cái tên hiền lành quá, sợ không “ăn khứa”. Ông đề nghị thêm chữ Kiều. Thế là tên Kiều Diễm Hồng ra đời. Nhưng tôi chỉ giữ mục này có vài kỳ rồi trao cho ngươi khác. Tên Kiều Diễm Hồng được ông Thái Linh đưa sang cả báo Chính Luận sau này trong trang Mai Bê Bi.

Sau cuộc đảo chính giết hai anh em ông Diệm, làng báo Việt Nam có thay đổi lớn. Một hôm, tôi đến báo Ngôn Luận để đưa bài, thấy nhiều người vây quanh ông quản lý Nguyễn Như Cương với vẻ mặt lo lắng. Tôi tò mò ghé lại nghe lóm. Ông Cương cho biết bộ Thông Tin dọa đóng cửa 23 tờ báo nếu không nhận được hối lộ 400 ngàn cho một tờ báo. Số tiên cũng không lớn đối với báo Ngôn Luận. Nhưng ông quản lý không dám một mình quyết định. Trong khi đó, ông chủ nhiệm đi chơi Vũng Tàu với bạn gái, lại không cho biết nơi tạm trú, nên không sao liên lạc được. Kết quả là Ngôn Luận bị…”fermé boutique”. Khi ông chủ nhiệm đi chơi về thì mọi chuyện đã xong.

Vào dịp đó, ông Ðặng Văn Sung, mới đắc cử thượng nghị sĩ, xuất bản tờ nhật báo Chính Luận. Ông liền mời cả tòa soạn của Ngôn Luận cộng tác. Mới thất nghiệp lại có việc làm ngay, ai mà từ chôi cho được. Thế là cả tòa soạn Ngôn Luận biến thành tòa soạn Chính Luận. Ông Từ Chung vẫn là thư ký tòa soạn. Ðể tăng cường cho tờ báo mới ra lò, ông Thái Linh đề nghị tôi giũ trang Văn Nghệ. Tôi nhận lời, nhưng chưa thực sự làm việc thì ông Hồ Anh lại yêu cầu tôi cộng tác với ông trong tờ báo mới, đó là tờ Thời Thế. Tôi làm phụ tá cho chủ bút là nhà văn Lê Xuyên, tác giả cuốn tiểu thuyết rất nổi tiếng “Chú Tư Cầu”. Ngoài ra, tôi còn phụ trách trang học sinh. Ông Lê Xuyên là người Nam, có một thời hoạt động cách mạng, theo đảng Ðại Việt, nên đã từng ra Bắc và lấy vợ Bắc. Ông hiền lành, dễ tính, nói năng từ tôn, khác hẳn các nhân vật nóng bỏng trong các truyện của ông. Sau năm 1975, khi tôi đã sang Mỹ, nghe tin ông phải bán thuốc lá ở một góc đường Khổng Tử trong Chợ Lớn để tạm sống cho qua ngày. Cách đây khoảng 7 hay 8 năm, bạn hữu ở Saigon báo tin ông đã từ trần.

Tờ báo Thời Thế của ông Hồ Anh không cạnh tranh nổi với báo Chính Luận nên rồi cũng phải dẹp tiệm. Khi ông Từ Chung bị cộng sản ám sát ở ngay gần nhà, trong vùng trường đua Phú Thọ, ông Hồ Anh có vẻ hả hê, nói với tôi :”Kẻ bội bạc đã bị trừng phạt. Ðúng là trời có mắt !”

Nhưng dù không có Từ Chung, báo Chính Luận vẫn bán chạy như tôm tươi. Người thay thế ông trong chức vụ thư ký tòa soạn là ông Nguyễn Thái Lân.

Cái duyên văn nghệ giữa ông Hồ Anh với tôi không chấm dút ngay với tờ Thời Thế. Khi tôi sang Mỹ, ở Sacramento (CA), ông Hồ Anh đã từ Virginia bay sang gặp tôi để mời tôi làm cho báo Văn Nghệ Tiền Phong.  Tôi đang ăn welfare, theo chương trình AFDC, coi như cuộc sống tạm ổn, nhưng tôi là người thích tự lập, nên nhận lời ông ngay. Thế là tôi lếch thếch đưa các con sang Virginia. Truyện đầu tiên tôi trình diện với độc giả Việt Nam ở Mỹ là truyện giả tưởng “Kiếp Chó”. Trong truyện này, Hồ Chí Minh đầu thai thành một con chó, chỉ thích ăn phân người, gọi là “bít tết đồng”. Khi truyện mới đăng được mấy kỳ, phản ứng của độc giả chia làm hai phe. Một phe rất tán thành, một phe cực lực phản đối. Không cần giải thích, ai cũng biết hai phe đó là những ai. Hồi đó, vì còn nhiều thân nhân kẹt lại Việt Nam, tôi không dám để tên thật trong truyện này mà phải lấy một bút hiệu khác.

 Nhưng tôi mới làm cho Văn Nghệ Tiền Phong có 3 tháng rưỡi thì ông chủ nhiệm nghe lời ông Lê Triết đuổi tôi. Lý do là tôi không chịu viết bài đả kích Mặt Trận Hoàng Cơ Minh. Khi ông Hồ Anh đề nghị tôi viết lọai bài này, tôi đã cho ông biết tôi không nên viết thêm khi tờ báo chỉ có 100 trang, kể cả bìa, mà bên trong đã có tới 6 bài đả kích Mặt Trận bịp, độc giả sẽ ngán đến cổ. Ông Lê Triết nghi tôi nằm vùng cho Mặt Trận nên xúi ông Hồ Anh đuổi tôi..
Thật ra, khi tôi mới đên San José, một nhân viên của Mặt Trận (nay cũng đang ở Virginia) đã gặp tôi ngay và đê nghị tôi cộng tác với báo Kháng Chiến của Mặt Trận. Ông ta đưa tôi đến thăm tòa báo, rồi muốn giữ tôi ở lại ngay đó để làm việc. Tôi cho biết tôi có ba con nhỏ đi cùng, không thể bỏ rơi chúng được, phải cho tôi có thời gian thu xếp. Buổi tối hôm đó, về nhà, tôi gọi điện thọai cho một người bạn cũ ở Nam Cali. Ông nguyên là nhân viên thân tín của bác sĩ Trần Kim Tuyến. Ông khuyên tôi nên dọn ngay đi nơi khác, đừng ở San José nữa để tránh xa Mặt Trận vì họ chỉ là bọn bịp bợm thôi. Tôi vội đem các con tôi lên Sacramento…tỵ nạn lần thứ hai.

Sau khi bị đuổi ra khỏi tòa báo, một mặt tôi xin trợ cấp trở lại một mặt tôi kiếm việc để làm. Nhưng, một hôm, sau khi tôi bị đuổi ra khỏi tòa báo khoảng nửa tháng, ông Hồ Anh gọi phone xin lỗi và mời tôi trở lại làm việc. Dù biết ông là kẻ “lá mặt lá trái” nhưng chưa kiếm được việc làm, tôi cũng đành nghe lời ông. Tôi phụ trách đọc thư và trả lời thư độc giả, đọc và chọn lựa bài độc giả gửi về. Vào dịp này, tòa soạn đươc tăng cường bằng một nhà văn từ xa tới. Ông Sơn Tùng, cư ngụ ở Nam Cali, thường gửi truyện ngắn và bài phiếm luận cho báo. Ông Hồ Anh rất thích lối viết của ông Sơn Tùng nên đã viết thư mời sang Virginia. Ông mua vé máy bay cho ông Sơn Tùng và cho ông tạm thời ở ngay trong tòa báo. Ông được phong là phụ tá chủ bút..

Khi ông Sơn Tùng bắt đầu làm việc, ông Hồ Anh xuất bản thêm tờ Tiểu Thuyết Nguyệt San. Tôi vừa làm thư ký tòa soạn vừa phải lay out tờ báo này. Ông Hồ Anh là người lý tài, keo kiệt, nên rất khó khăn về tiền bạc với nhân viên. Làm cho Văn Nghệt Tiền Phong lương đã thấp lại không có bảo hiểm sức khỏe. Vì thế, tôi vẫn ngấm ngầm tìm việc khác. Khi tờ Tiểu Thuyết Nguyệt San ra số 11, tôi được một hội thiện của Mỹ ở Washington DC gọi đi làm. Tuy lương thấp, vì tôi chỉ là một clerk (nửa thư ký nửa tùy phái) nhưng có đầy đủ bảo hiểm sức khỏe (cho cả các con nhỏ của tôi). Thật ra, lương sở Mỹ tuy thấp nhưng cũng gấp hai lương Văn Nghệ Tiền Phong  Tôi làm cho sở này đến ngày về hưu. Ngưòi thay tôi để lo tờ Tiểu Thuyết Nguyệt San là thi sĩ Hoàng Anh Tuấn. Tôi không hiểu báo ra thêm được mấy số thì phải đình bản.

Ông Sơn Tùng cũng chỉ làm cho Văn Nghệ Tiền Phong có một thời gian ngắn,  rồi cũng bỏ việc. Tôi không rõ ông và ông Hồ Anh có chuyện lủng củng gì,.     ,   .

Vào một ngày cuối tháng 9 năm 1990, ông Sơn Tùng gọi điện thoại báo tin cả hai vợ chồng ông Lê Triết đã bị bắn chết ngay trươc cửa nhà khi sửa soạn xuống xe hơi.  Ngưòi ta nghi thủ phạm là người của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, nhưng cảnh sát Mỹ không chịu điều tra đến nơi đến chốn nên không biết chắc.

Vụ ám sát này khiến người ta nhớ lại một vụ ám sát khác, nạn nhân cũng là một nhân viên tòa báo Văn Nghệ Tiền Phong. Có lời đồn rằng ông Ðỗ Trọng Nhân được Mặt Trận Hoàng Cơ Minh gài vào tòa báo để nằm vùng. Nhưng ông không làm tròn nhiệm vụ nên bị trừng phạt. Ông Nhân nguyên là một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, khả năng về nghề làm báo của ông thấp kém, không viết lách được, chỉ có thể làm việc thủ công, cắt xén và xếp đặt lại các bài trươc khi đem in. Ngưòi như vậy thì làm sao có thể thay đổi lập trương của tờ báo được. Vì thế, người ta cho rằng ông Nhân bị giết oan..

                                                                                        Tạ Quang Khôi

Những năm 1947, 1948 – Thế Kỷ Hai Mươi – khi tôi đi chân đất đưa thư tay trong vùng đồng đất Bắc Ninh – Bắc Giang – tên Việt Minh là Bắc Bắc – ba chàng thanh niên Hà Nội: Hoàng Anh Tuấn, Trần Bích Lan, Trịnh Viết Thành lên phi cơ Air France từ phi trường Gia Lâm, Bắc Việt, bay sang nước Pháp. Tôi nghe nói ông Hoàng Anh Tuấn sng Pháp trên tầu biển Pháp năm 1950.

Năm 2000, Ký giả Hồng Dương, Việt Kiều về thăm Sài Gòn, đến gặp Chú Tư Cầu Lê Xuyên ở tủ thuốc lá lẻ của chú Tư trên vỉa hè đường Bà Hạt.

Ba chàng cùng trạc tuổi tôi, ra đời trong những năm 1932, 1933, 1934. Ba chàng sang Pháp du học. Những năm 1954, 1955, ba chàng trở về Sài Gòn, Ông Trần Bích Lan là giáo sư Triết, nổi tiếng là Thi sĩ Nguyên Sa – Paris có gì lạ không Em? Mai Anh về, Anh có còn Em? Chỉ biết lòng mình là hương cốm. Chẳng biết tay ai là lá sen – Tôi đã viết nhiều về Thi sĩ Nguyên Sa, Trong bài hồi tưởng-hoài niệm-tri ân Bạn Tốt này, trong ba người, tôi chỉ viết nhiều về Trịnh Viết Thành.

Tôi gặp Trịnh Viết Thành lần thứ nhất – khoảng năm 1953 hay 1954 – ở bàn viết của Thanh Nam trong Ðài Phát Thanh Quân Ðội. Hôm ấy tôi ghé thăm Thanh Nam, TV Thành từ Pháp mới về cũng ghé thăm ThanhNam. Tôi được Thanh Nam cho biết xước danh của Thành là Thành Nham Nhở.

Hai tiếng Nham Nhở gán cho Thành không mang nghĩa “đểu cáng.” Nham nhở đây có cái nghĩa của tiếng Pháp “Cynique.” Tôi không tìm được tiếng Việt nào có cái nghĩa của tiếng Cynique. Người Cynique theo tôi là người hay nói thẳng, nói trắng trợn  những chuyện cần nói bóng gió, cần che đậy của người đời. Nói làm người ta khó chịu. Như một chiều Thành và tôi ngồi trong Nhà La Pagode. Bàn bên có anh bạn Nhà Văn-Nhà Báo đi với cô bạn của anh. Trời Sài Gòn lất phất mưa. Khi đi, ông Nhà Văn đưa cái áo mưa của cô bạn lên cho cô xỏ tay.

Thành nói:
“Mặc quần cho em mới hay chứ, mặc áo cho em thì ăn thua gì.”

Một chiều ở Ngân Ðình Tửu Gia, nhà hàng Cơm Tây, Cơm Tầu trên bờ sông Sài Gòn – tên hàng ăn này trước năm 1956 là Point des Blagueurs – ông Nhà Văn trẻ hào hoa phong nhã xách cái hộp trang điểm của cô đào xi-la-ma Giao Chỉ đi vào. Cái hộp đồ trang điểm của cô diễn viên giống cái hòm gỗ đồ nghề toong-đơ, dao cạo của các ông thợ hớt tóc dạo.

Thành hỏi ông Nhà Văn:
“Ê mày….. Viết văn không khá, mày đổi nghề, bây giờ mày làm thợ hớt tóc dạo?”
Trịnh Viết Thành, như Hoàng Anh Tuấn, có năm, sáu năm ăn học ở Pháp, nhưng công lực tiếng Phú-lang-sa của hai ông không hơn tôi bao nhiêu. Thành có năng khiếu về làm báo. Anh làm thư ký tòa soạn nhiều nhật báo ở Sài Gòn. Chức vụ thư ký tòa soạn cuối cùng của anh – trước Ngày 30 Tháng Tư 1975 Ðen Hơn Mõm Chó – là thư ký tòa soạn nhật báo Quật Cường, tờ nhật báo của ông Nguyễn Khắc Bình, Tổng Giám Ðốc Công An-Cảnh Sát chính phủ Nguyễn Văn Thiệu.

Năm 1965, hay 1966, Nhật báo Tiền Tuyến ra đời, Báo của Cục Tâm Lý Chiến, nhân viên tòa soạn một nửa là quân nhân, một nửa là dân sự. Thành là thư ký tòa soạn Tiền Tuyến. Khi anh bỏ Tiền Tuyến  để sang làm một nhật báo khác do các bạn anh chủ trương, anh yêu cầu toà báo cho tôi – H2T- làm thư ký tòa soạn thay anh.

Năm ấy đời tôi đang đi vào chu kỳ xuống dzốc không phanh, Série Noire de Luxe, Sau bẩy, tám năm phây phây, phơi phới làm nhân viên toà soạn Nhật Báo Sàigònmới, viết tiểu thuyết quanh năm cho Nhật báo Ngôn Luận, các tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, Màn Ảnh, Phụ Nữ Ngày Mai; Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị hạ sát, Sàigòmới, Ngôn Luận bị Ðỗ Mậu – Nguyễn Khánh đóng cửa cùng trong một ngày. Tội gán cho hai báo vừa kể là tội “ Tay sai Nhà Ngô,” tôi không có nhật báo nào để làm. Ðang kiếm 20.000 đồng một tháng, thời gian đen tối ấy tôi chỉ kiếm được khoảng ba, bốn ngàn đồng một tháng. Nhờ bán mấy cái truyện ngắn cho mấy tờ tuần báo. Thời gian này kéo dài đến hơn một năm

Thành nhớ tới tôi, Thành đi tìm tôi:
“Tao đã nói với Ðại Tá Vũ Quang, với Lê Ðình Thạch, Hà Thượng Nhân, Phan Lạc Phúc, mày vào Tiền Tuyến thế chỗ của tao. Xong cả. Sáng thứ hai này mày đến làm, không phải hỏi ai mà cũng không chờ ai gọi.”

Hồng Dương trên xe lăn, Cali 2012.

Nhờ Thành, tôi trở lại làm báo với công việc trong tòa báo Tiền Tuyến, tôi lại có việc làm có lương tháng; tôi mở đầu loạt truyện Ðiệp Viên O07 bằng truyện Thầy Nô – Doctor  No – nơi trang trong báo Tiền Tuyến. Ðời tôi tuy không lên hương, không phơi phới như  những năm trước 1963 nhưng nhờ Thành, tôi sống được. Nhờ Thành, tôi gượng dậy được.
Trong thời gian ở Pháp, Thành kết hôn với cô em gái của Trần Bích Lan. Vợ chồng Thành có một, hay hai đưá con, Về Sài Gòn, Thành lấy cô vợ hai. Vợ Thành ly dị, chị sang Pháp sống, giao con cho ông anh bảo dưỡng, giám hộ. Kể Thành lấy vợ hai là không đúng, Thành bỏ vợ, đi sống với vợ mới. Thành không phải là Thuyền Trưởng Hai Tầu.

Ông Giám Hộ Nguyên Sa cho con của Thành vào học, ở nội trú trong Trường Taberd. Một hôm, Thành tìm tôi:
“Nguyên Sa nó cấm không cho tao vào trường gặp con tao, không cho tao đón con tao ra trường. Nguyên Sa nó trọng dư luận bọn văn nghệ sĩ lắm. Mày  bảo nó cho tao được gặp con tao.”
Tôi đến gập Nguyên Sa:
“Thằng Thành nó nhờ tao đến nói với mày. Cho nó vào Taberd gặp con nó. Cấm không cho bố con nó gập nhau làm gì.”
Nguyên Sa nói:
“Tao ghét nó. Chẳng thà nó nghiện thuốc phiện đi. Nó lại có vợ bé. Trò nhà quê.”
Như vậy là ông Thi sĩ cho anh ký giả, anh văn nghệ sĩ nghiện thuốc phiện thì được, có vợ bé là không được, là làm trò nhà quê.

Năm 1967 cuộc tình của Alice và tôi gặp khủng hoảng, Alice bỏ đi, tôi vất vả, vất vưởng tìm Nàng, mong chờ Nàng trở về. Một tối Thành đến tìm tôi trong căn phòng tôi sống một mình ở đường Hồ Biểu Chánh, cạnh nhà Duy Sinh. Phòng này do Lê Trọng Nguyễn ở trước, Nguyễn lấy vợ, có nhà riêng, phòng để lại cho tôi. Thành bảo tôi:
“Mày đừng có quá buồn. Vợ chồng lấy nhau vì tình thường đến tám năm, mười năm là có một cái crise. Nếu vượt qua được, vợ chồng mày sẽ sống với nhau suốt đời.”
Thành không nói: “Vượt qua không được là vợ chồng mày xa nhau luôn.” Tôi biết Thành không nỡ nói ra câu đó. Trịnh Viết Thành là người bạn tốt của tôi, tôi nhớ ơn Thành.

Dòng thời gian dài một ánh bay.. Những ngày như lá, tháng như mây.. Cùng với anh em, Thành đi tù, tôi đi tù. Năm 1990 tôi đi tù lần thứ hai trở về. Tôi được biết Thành bị tù ở Trại Khổ Sai Gia Trung – Gia Lai, đã về năm 1988. Vợ Thành bỏ Thành. Tôi nghe anh em kể khi lên trại thăm nuôi Thành, vợ Thành gặp lại người tình cũ của chị, người tình trước khi chị gặp Thành. Người đàn ông này cũng là tù nhân cùng trại với Thành. Anh này được về Sài Gòn trước Thành, chị vợ Thành bỏ Thành để sống với anh này.

Thành đau ốm. Một trưa mùa mưa tôi đến Nhà In Nam Sơn, đường Nguyễn An Ninh, tìm Thành. Nhà In Nam Sơn của bà mẹ Thành. Người em trai của Thành làm chủ nhà in này.
Khi tôi đến Nhà In Nam Sơn không còn nữa. Máy in bị VC đưa đi hết. Tầng dưới là cửa hàng, nhà kho của Quận, tầng gác  nhất là nơi ở của cán bộ, Thành ở từng lầu thứ hai, từng cao nhất nhà.

Nơi này trước là nơi ở của bà mẹ Thành. Sân gác có một điện thờ, bồn hoa, cây cảnh. Thành sống một mình ở đây. Cơm nước có người nhà mang đến. Thành gầy ốm quá. Thấy tôi, Thành gọi ngay tên tôi:
“Hoàng Hải Thủy.”
Tôi thấy lạ vì tôi gặp Thành lần cuối trưa ngày 29 Tháng Tư 1975. Lần ấy Thành vào Nhà USIS tìm tôi xem có đi nhờ đường USIS được không. Sau lần đó chúng tôi cùng kẹt ở Sài Gòn nhưng không một lần chúng tôi gặp lại nhau. Cho đến buổi trưa năm 1990 này Thành và tôi không gặp nhau trong 15 năm. Tôi đến tìm Thành, tất nhiên tôi nhìn ra Thành ngay. Còn thấy tôi bất ngờ đến sau 15 năm không gặp, Thành vẫn nhận ra tôi ngay.

Thành nói anh sắp đi sang Pháp, con gái anh ở Pháp bảo lãnh anh. Con gái của Thành chắc là con của anh với bà vợ em gái Nguyên Sa. Thành nói hồ sơ đã xong nhưng anh bệnh quá, phải điều trị ít lâu cho khoẻ mới đi khám sức khoẻ được.
Tôi chỉ gặp lại Trịnh Viết Thành sau Ngày 30 Tháng Tư 1975 có lần ấy. Khoảng một tháng sau tôi trở lại thăm Thành,  thấy cửa phòng đóng, có cái khoá bên ngoài. Trở xuống, tôi hỏi người ở phòng tầng lầu nhất về Thành. Người ta nói:
“Bác Thành mất rồi, bác ơi.”

o O o
Hồng Dương vào làm trong tòa soạn Nhật báo Ngôn Luận khoảng năm 1957, 1958. Năm ấy Nhật báo Ngôn Luận đã sống vững, Chủ nhiệm Hồ Anh ăn nên, làm ra, có nhà in riêng, mở lớn tòa soạn, lấy thêm nhân viên là Hồng Dương, Phan Nghị, hai họa sĩ Văn Hiếu, Huy Tường.

Hồng Dương trẻ hơn tôi khoảng bẩy, tám tuổi, anh có tên Hồng Dương vì trước đó anh là võ sĩ Quyền Anh – boxeur – Lò Võ Hồng Việt. Tất cả những võ sinh Lò Hồng Việt đều có tên Hồng. Tôi quen ba võ sĩ Hồng Việt là  Hồng Dương, Hồng Cương, Hồng Trực. Võ sĩ Hồng Dương từng lên đài trong những năm 1955, 1956.

Ký giả Hồng Dương Nguyễn Hữu Hùng đẹp trai, sống sạch, đàng hoàng, anh không ngồi cả buổi đấu láo, uống la ve ở tiệm như nhiều ký giả cùng thời, anh không nghiện ngập, anh có số đào hoa nhưng không bị tai tiếng, không bị nàng nào thù hận. Tôi thường nói về Hồng Dương với người ngoài làng báo:
“Alain Delon của chúng tôi đấy.”

Hồng Dương kết hôn với Linh Linh Ngọc khoảng năm 1961. 1962. Tôi dự tiệc cưới của hai người. Tháng Tư năm 1964 nhật báo S2igònmới, nhật báo Ngôn Luận – hai Nguồn Tiền của tôi – bị đóng cửa cùng trong một ngày, một giờ. Nhắc lại: tôi rơi vào chu kỳ thất nghiệp, túng tiền, không nhìn thấy việc làm đàng hoàng ở đâu.

Nhật báo Chính Luận ra đời. Nhật báo Chính Luận thế chỗ của Nhật báo Ngôn Luận. Gần như toàn bộ nhân viên tòa soạn, ty trị sự Ngôn Luận sang làm cho Chính Luận. Từ Chung Thư ký tòa soạn Ngôn Luận làm thư ký toà soạn Chính Luận. Từ Chung và tôi thân nhau, chúng tôi mày tao với nhau. Tôi được mời viết tiểu thuyết cho Chính Luận. Nhưng tôi nhận tiền dưa trước mà tôi bê bối, tôi không đưa bài. Từ Chung đến nhà tôi tìm tôi nhưng không gặp tôi.

Từ Chung giận tôi, sau đó tuy cần báo đăng tiểu thuyết, tôi không mặt mũi nào đến gặp Từ Chung, nói:
“Xếp chỗ cho tao viết.”
Tôi đành chịu túng thiếu. Vợ chồng tôi về ở trong một căn nhà nhỏ, vách ván, điện câu, nước câu trong xóm Chuồng Bò. Xóm này ở giữa đường Hai Mươi và Ðường Petrus Ký, nơi năm ấy là bến xe đò đi Ðàlạt. Nhà làm trên một khu mấy năm trước là vũng sình lầy. Ðêm đầu tiên về căn nhà nhỏ này, cái bánh chưng để trên bàn của tôi bị chuột cống tha đi mất, trong bếp thường thấy những con bò cạp to tổ bố. Trời mưa, đường vào nhà ngập nước, tôi phải xách giầy lội nước vào nhà.

Một chiều khoảng 5 giờ, tôi thấy có người đến cửa. Hồng Dương và Linh Linh Ngọc đến, dắt theo đứa con trai thứ nhất mới hai, ba tuổi. Ðứng trước cửa, Hồng Dương bảo tôi:
“Tôi đã dàn xếp để anh viết tiểu thuyết cho Chính Luận. Sáng mai anh đến đưa bài. Có truyện của anh, Chính Luận đăng ngay.”

Hồng Dương nghĩ đến tôi, thương tôi túng quẫn. Trong một cuộc họp tòa soạn Chính Luận, anh đề nghị báo đăng tiểu thuyết của tôi. Nhiều người ngần ngại vì lý do tôi hay đưa bài muộn, làm phiền nhiều người trong nhà in, tôi hay đưa bài không đủ, khung dành cho tiểu thuyết của tôi thường có cột để trống. Có hôm để trắng luôn. Hồng Dương phải bảo đảm lần này H2T sẽ viết đều, đưa bài đúng giờ, không sốt-tê, tức có ngày không đưa truyện. Nhờ Hồng Dương tôi có tiểu thuyết Môi Thắm Nửa Ðời đăng nhiều tháng trên Chính Luận. Các ông bạn tôi gọi tiểu thuyết Môi Thắm Nửa Ðời là Môi Thắm Nửa Ðùi.

Những năm 1960 phim võ hiệp HongKong có phim Bẻ Kiếm Bên Trời – Thiên Nhai Chiết Kiếm. Khi phóng tác một truyện điệp viên Mỹ tôi lấy tên truyện là Bỏ Súng Bên Trời. Các ông bạn tôi gọi đó là truyện Bỏ Súng Bên Giường.

Chính Luận chi tôi 7.000 đồng một tháng. Vợ chồng tôi bắt đầu dễ thở. Rồi Trịnh Viết Thành nhường việc thư ký tòa soạn Tiền Tuyến cho tôi. Sau khoảng 2 năm vất vả, vất vưởng, tôi trở vào làng báo, tôi lại sống được với việc Viết Truyện, công việc tôi muốn tôi làm từ năm tôi 11, 12 tuổi. Tôi đã sống trọn đời tôi với công việc tôi thích làm, tôi muốn làm.

Tháng 11 năm 1994 vợ chồng tôi đến Hoa Kỳ. Từ Cali, Hồng Dương phôn cho tôi:
“Tôi mời anh chị sang chơi Cali, anh sẽ gặp lại các bạn ta ở đây.”
Hồng Dương làm paralegal, anh sống được với nghề. Năm 2011, Hồng Dương bị stroke, anh sống nhưng bị bại liệt, nói khó khăn.

Thankgivings 2012, tôi viết Tri Ân Trịnh Viết Thành, Hồng Dương. Tôi còn phải Tri Ân nhiều người nữa, Hôm nay tôi viết Tri Ân có hai người.
Như tôi phải tri ân anh Ung Văn Luông. Không có anh Ung Văn Luông, tôi không thể đưa vợ tôi sang Mỹ. Là nhân viện USIS anh Ung Văn Luông  phụ trách Ban Nhân Viên. Anh và gia đình đi thoát khỏi nước trong Ðêm 29 Tháng Tư 1975.  Sang Mỹ, anh làm việc trong USIA – United States Information Agency – ở Washington DC. Anh đề nghị với các ông Mỹ USIA mở Chương Trình Ðưa Nhân Viên USIS bị kẹt ở Sài Gòn sang Mỹ. Việc này không phải dễ dàng mà thành. Nhưng nhờ anh Ung Văn Luông, nhân viên USIS Sài Gòn bị kẹt ở Sài Gòn nhiều người được chính phủ Mỹ cho ODP đưa sang sống ở Hoa Kỳ.

Luật của chính phủ Hoa Kỳ: “Ðưa người Việt trong quân đội, trong chính quyền VNCH bị tù đày sang Mỹ.” Tôi không là nhân viên chính quyền Quốc Gia VNCH, dù có bị Cộng Sản giam tù 20 năm, tôi cũng không được chính phủ Hoa Kỳ nhận cho sang Hoa Kỳ tị nạn chính trị. Tôi sang được Hoa Kỳ nhờ anh Ung Văn Luông xin cho. Tôi tri ân anh.

Như tôi chịu ơn bà Khúc Minh Thơ. Năm 1994 khi vợ chồng tôi được ODP nhận cho sang Hoa Kỳ, ba con chúng tôi không đưá nào sống cùng nhà với chúng tôi, các cháu không có tên trong sổ gia đình – tiếng VC là Sổ Hộ Khẩu – nên ODP không cho các cháu đi sang Mỹ theo chúng tôi. Năm 2000, bà Khúc Minh Thơ đề nghị Thượng Nghị Sĩ John Mc Cain đệ trinh Quốc Hội Tu Chính Án cho phép những người đi HO sang Mỹ những năm trước vì các con không ở chung nhà nên không mang được các con đi, nay những người ấy được quyền bảo lãnh các con họ sang Hoa Kỳ. Những người con HO này được hưởng quyền lợi tị nạn như bố mẹ chúng.

Bà Khúc Minh Thơ lo cho các con tôi sang Hoa Kỳ, bà lo cho vợ chồng và các con chúng tôi mọi chuyện. Ðúng la Lo từ A đến Z. Một đêm Tháng Ba năm 2003, tôi đến phi trường đón các con tôi từ Sài Gòn đến. Thấm thoắt dzậy mà các con tôi sang Hoa Kỳ đã 10 năm.
Tôi tri ân bà Khúc Minh Thơ.



Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen