Nguyễn Quang Duy
Ông Ngô Đình Diệm đã tiến hành cải cách nông thôn
khi còn làm Thủ tướng
Trong khi miền Bắc phóng tay Cải cách Ruộng đất tiêu
diệt tầng lớp địa chủ thì chính quyền miền Nam liên tục tiến hành tư hữu hoá đất
đai, thực hiện công bằng xã hội, nâng cao đời sống nông dân.
Qua việc thu mua đất từ các điền chủ rồi bán lại hay
phát cho nông dân, trước năm 1975 mọi gia đình nông dân miền Nam đều đã thật sự
làm chủ mảnh đất tư hữu của mình.
Chương trình Người Cày Có Ruộng (NCCR) là một cuộc
cách mạng xã hội, thay đổi tận gốc rễ nông thôn miền Nam.
Thành công một phần nhờ vào sự đóng góp của Hoa Kỳ và
các nước Đồng Minh.
Nhưng chính yếu vẫn là từ hai vị lãnh đạo miền Nam:
Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã thực hiện chương trình ngay khi về nước và Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu quyết tâm nối tiếp thực hiện chương trình.
Ông Thiệu hiểu rõ Luật NCCR không phải chỉ là thành
quả của nền dân chủ nghị viện non trẻ, mà còn là một chính sách mang lại chính
nghĩa cho công cuộc đấu tranh chống cộng sản.
Những tài liệu phổ biến gần đây cho thấy, sau Mậu
Thân 1968 số thanh niên miền Nam theo cộng sản càng ngày càng ít đi, không đủ bổ
xung số cán binh cộng sản ra hồi chánh, lên đến trên 200.000 người.
Chính vì lý do này cộng sản Bắc Việt đã phải mang
quân chính quy từ miền Bắc vượt biên giới xâm lấn miền Nam.
Tình hình ruộng đất miền Nam
Khi quân Pháp xâm chiếm nước ta, miền Nam vẫn còn nhiều
vùng chưa được khẩn hoang, nhiều vùng vì chiến tranh nông dân đã phải bỏ ruộng
vườn.
Lợi dụng cơ hội một số người Pháp và người theo Pháp
đã chiếm, rồi thông đồng với nhà cầm quyền Pháp hợp thức hóa quyền sở hữu đất
đai họ chiếm được. Trước 1945, theo ước tính trong số 6.530 đại điền chủ (trên
50 ha đất) có 6.316 là ở miền Nam.
Miền Nam không xảy ra Cải cách Ruộng đất, không có
nghĩa là cộng sản miền Nam nhân đạo hơn cộng sản miền Bắc.
Từ cuộc Nam Kỳ Khởi Nghĩa 1940, cộng sản đã thẳng tay
tàn sát tiêu diệt giai cấp điền chủ. Các sử liệu cộng sản tóm tắc việc này như
sau: “…lập tòa án cách mạng xét xử bọn phản động, xóa bỏ các thứ thuế vô lý,
xóa các khoản nợ, tịch thu đất thóc gạo của địa chủ chia cho dân nghèo và nuôi
nghĩa quân.”
Khi Việt Minh cướp được chính quyền năm 1945, hầu hết
các đại điền chủ đều bỏ ruộng vườn về sống tại Sài Gòn hoặc các thành phố lớn.
Việt Minh tịch thu ruộng đất rồi chia cho tá điền canh tác và lấy thuế.
Ở các vùng thuộc Hòa Hảo và Cao Đài, nông dân cũng tự
thực hiện việc chia lại ruộng đất hoặc chấm dứt nộp địa tô cho ruộng vườn mà họ
đang trồng cấy.
Sắc lệnh Cải cách Điền Địa của Cựu Hoàng Bảo Đại vì
chiến tranh và thiếu thực quyền nên không mang lại kết quả cụ thể
Năm 1949, khi người Pháp bắt đầu trao trả độc lập Cựu
Hoàng Bảo Đại cho ban hành sắc lệnh về Cải cách Điền Địa (CCĐĐ), nhưng vì chiến
tranh và thiếu thực quyền nên sắc lệnh này không mang lại kết quả cụ thể nào.
Sau hiệp định đình chiến Genève chia đôi đất nước, miền
Nam đã trải qua hai cuộc CCĐĐ và một số chính sách về ruộng đất
Cải cách điền địa lần một
Cải cách điền địa lần một
Bước đầu của chính sách cải cách điền địa, Thủ tướng
Ngô Đình Diệm cho ban hành Dụ số 2 và Dụ số 7 nhằm thiết thiết lập quy chế tá
canh.
Địa tô được tính không quá 25% vụ lúa thu hoạch
chánh. Thời gian cho thuê được quy định là 5 năm. Tá điền và điền chủ có thể
xin hủy bỏ họăc tái ký hợp đồng.
Trường hợp ruộng đất bị bỏ hoang, ước lượng 500 ngàn
ha, thì thuộc quyền sở hữu quốc gia. Chính quyền thu và cấp phát không cho tá
điền.
Các tá điền trước đây theo Việt Minh được tiếp tục
canh tác trên mảnh ruộng do Việt Minh cấp phát trong thời chiến. Địa tô và quyền
tá canh nay được chính phủ nhìn nhận và bảo đảm.
Ngày 22-10-1956, Tổng thống Ngô Ðình Diệm cho ban
hành Dụ số 57, tiến hành Chính sách CCĐĐ.
Mỗi điền chủ chỉ được quyền giữ tối đa 100 ha ruộng,
trong số nầy 30 ha được phép trực canh, còn 70 ha phải cho tá điền thuê theo
đúng quy chế tá canh.
Ðiền chủ bị truất hữu được chính phủ bồi thuờng thiệt
hại: 10% trị giá ruộng đất bị truất hữu đuợc trả ngay bằng tiền mặt, phần còn lại
được trả bằng trái phiếu trong thời hạn 12 năm, với lãi suất là 3% mỗi năm.
Ruộng bị truất hữu được bán lại cho các tá điền, mỗi
gia đình được quyền mua lại tối đa 5 ha và phải trả cho nhà nước trong vòng 12
năm.
Giá tiền bán bằng với giá Chính phủ trả cho chủ điền.
Như vậy chủ yếu Chính phủ chỉ làm trung gian trong việc chuyển nhượng quyền tư
hữu đất đai.
Chiếu theo Dụ số 57, chính phủ truất hữu 430.319 ha đất
từ 1.085 đại điền chủ.
Một số ruộng truất hữu cũng được bán cho các cựu chiến
binh, những nông dân trốn Việt Minh nay hồi hương và đồng bào miền Bắc di cư
vào Nam Ngày 11-9-1958, Chính phủ còn ký kết Hiệp định Việt Pháp, truất hữu
thêm 220.813 ha ruộng đất của Pháp kiều. Như vậy tổng số diện tích đất đai được
truất hữu là 651.182 ha.
Số ruộng được truất hữu được giao cho 123.198 tá điền.
Ngoài ra còn có 2.857 tá điền khác đã trực tiếp mua lại đất của các đại điền chủ.
Một số ruộng truất hữu cũng được bán cho các cựu chiến
binh, những nông dân trốn Việt Minh nay hồi hương và đồng bào miền Bắc di cư
vào Nam.
Giới điền chủ đều ủng hộ chính sách CCĐĐ. Trong thời
chiến ruộng đất của họ bị xem như đã mất.
Nay chính phủ khôi phục lại quyền sở hữu ruộng đất, họ
được quyền thu địa tô và lãnh tiền bồi thuờng thiệt hại nếu bị truất hữu. Đại
điền chủ vẫn còn được giữ lại 100 ha.
Các chính sách khác
Nhằm giải quyết công ăn việc làm cho đồng bào miền Bắc
di cư, giải quyết nạn thất nghiệp hậu chiến và đồng thời cũng để cô lập họat động
du kích cộng sản, Tổng thống Ngô đình Diệm còn thực hiện chính sách xây dựng
các khu dinh điền, khu trù mật và các ấp chiến lược.
Đến năm 1961, chính phủ đã thành lập 169 trung tâm
tái định cư, với 25 Khu Trù Mật tập trung trên đồng bằng sông Cửu Long, tiếp nhận
50 ngàn gia đình, với 250 ngàn người tái định cư. Diện tích đất trồng được khai
hoang hay được tái canh đạt 109.379 ha.
Tháng 4-1957, Tổng thống Ngô Đình Diệm cho thành lập
Quốc Gia Nông Tín Cuộc cho nông dân vay tiền một cách dễ dàng, nhẹ lãi và không
đòi hỏi thế chấp hay người bảo lãnh.
Đến năm 1963, Quốc Gia Nông Tín Cuộc đã cho vay số tiền
lên đến 4 tỷ 600 triệu đồng, 85% số tiền để giúp các tiểu điền chủ hay tá điền.
Nhưng vì không có thế chấp và vì chiến tranh nên rất ít nông dân chịu trả nợ.
Chính phủ cũng đào tạo cán bộ xây dựng nông thôn gởi
về vùng quê để hướng dẫn, giúp đỡ kỹ thuật cho nông dân. Nhờ đó năng suất lúa
đã tăng từ 1,4 tấn/ha trong những năm 1950-1954, lên đến 2 tấn/ha năm
1960-1963.
Thành quả và giới hạn
Nhờ các chính sách nói trên, việc sản xuất, xuất cảng
và lợi tức nông nghiệp đã không ngừng gia tăng. Từ năm 1955 đến 1962, mức sản
xuất gạo đã tăng từ 2,8 triệu tấn đến 5 triệu tấn, còn xuất cảng tăng từ 70
ngàn tấn lên đến 323 ngàn tấn.
Các điền chủ có ruộng đất truất hữu nhận các các khỏan
bồi thường lớn, họ đầu tư xây dựng các nhà máy, các phân xưởng tại nông thôn,
hay trong lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ. Nhờ đó không chỉ
riêng nông thôn, mà tòan miền Nam sống trong cảnh thái bình.
Giới hạn của chính sách CCĐĐ là 74% tổng số diện tích
ruộng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long vẫn thuộc 65.757 trung điền chủ (từ 5 đến
50 ha) và 6.316 đại điền chủ (trên 50 ha). Vẫn còn 795.480 gia đình nông dân
chưa được làm chủ mảnh ruộng đang cày.
Khi đời sống nông dân nâng cao thì ảnh hưởng của cộng
sản cũng bị giảm sút. Để tồn tại cộng sản đã tiến hành bạo lực chính trị ám
sát, bắt và thủ tiêu cán bộ và chuyên viên phát triển nông thôn.
Cộng sản cấm tá điền làm đơn xin mua ruộng đất truất
hữu, cấm tá điền ký hợp đồng với chủ điền, buộc điền chủ hủy bỏ địa tô. Một số
ngừơi đã bị giết vì không tuân theo các lệnh cấm nói trên.
Từ sau đảo chánh 1/11 năm 1963 cho đến năm 1965, các
chính phủ thường xuyên thay đổi, chính sách Cải cách Điền Địa không được tiếp tục,
dinh điền và khu trù mật cũng bị đình chỉ, nhiều ấp chiến lược bị phá bỏ Cùng
lúc cộng sản cho trưng thu thóc lúa của nông dân, tiến hành chiến tranh du
kích, khủng bố phá họai làng xã miền Nam.
Sau đảo chánh 1/11 năm 1963 cho đến năm 1965, các vụ
đảo chánh liên tục xảy ra, các chính phủ thường xuyên thay đổi. Chính sách CCĐĐ
không được tiếp tục. Chính sách dinh điền và khu trù mật cũng bị đình chỉ. Nhiều
ấp chiến lược bị phá bỏ.
Cộng sản lợi dụng tình thế đưa cán bộ và quân đội từ
miền Bắc vào gia tăng họat động. Sẵn cơ sở hạ tầng rộng rãi chỉ sau một thời
gian ngắn cộng sản đã kiểm sóat được một phần nông thôn. Ở những vùng chiếm được
cộng sản chia lại ruộng đất cho nông dân.
Đến năm 1965, với sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ và
các nước Đồng Minh, an ninh tại nông thôn dần dần được vãn hồi.
Ngày 3-9-1966, Quốc Hội Lập Hiến được bầu ra. Ngày
1-4-1967, Hiến Pháp mới được ban hành. Ngày 3-9-1967 cuộc tổng tuyển cử tổng thống
và Quốc hội diễn ra, Tướng Nguyễn Văn Thiệu trở thành Tổng thống của nền Ðệ nhị
cộng hòa ra quyết định tiếp tục áp dụng Chương Trình CCĐĐ.
Cải cách điền địa lần hai
Cuộc tổng công kích Mậu Thân cộng sản thất bại, tại
nông thôn cơ sở hạ tầng cộng sản bị cô lập, an ninh được vãn hồi. Số ruộng trước
đây bị bỏ hoang nay được cấp phát cho nông dân.
Đến năm 1969, có thêm 261.874 gia đình được cấp ruộng
để canh tác, nâng tổng số người có ruộng lên 438,004 người.
Tháng 7-1969, Chương trình bình định và phát triển
nông thôn được tiến hành. Chính phủ cho tổ chức lại cơ cấu hạ tầng nông thôn và
đào tạo cán bộ xây dựng nông thôn gởi về vùng quê để hướng dẩn, giúp đỡ kỹ thuật
nông nghiệp cho dân.
Ngày 25-8-1969, Tổng Thống Thiệu đưa dự luật Người
Cày Có Ruộng ra quốc hội thảo luận.
Điểm chính của dự luật là giảm số ruộng đất tối đa điền
chủ xuống còn 15 ha, trưng thu và cấp (không bồi hoàn) cho hơn tãm trăm ngàn
nông dân chưa có ruộng cày.
Chiến tranh đã tàn phá miền Nam Việt Nam
Nhiều dân biểu nghị sĩ thuộc tầng lớp đại điền chủ
không muốn bị truất hữu ruộng đất nên đã tìm cách ngăn cản thông qua dự luật.
Mãi đến ngày 6-3-1970 đạo luật mới được Thượng viện thông qua. Ngày 16-3-1970
được Hạ viện thông qua.
Ngày 26-3-1970, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho ban
hành luật Người Cày Có Ruộng (NCCR) và lấy ngày này làm Ngày Nông Dân.
Tại Cần Thơ vào ngày 26-3-1970, ngày ban hành Luật
NCCR Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố:
“Hôm nay là ngày vui sướng nhất của đời tôi.” Ông cho
biết: “Tôi đã từng tham gia Việt Minh. Tôi biết rằng Việt Minh là cộng sản, họ
bắn người dân, họ lật đổ các ủy ban xã, họ tịch thu đất đai”.
Các ruộng đất không được trực canh bị truất hữu phát
cho các tá điền đang canh tác. Mỗi tá điền được phát 3 ha ở Nam phần hay 1 ha ở
Trung phần.
Điền chủ trực canh được giữ lại tối đa 15 ha.
Đất truất hữu được trả 20% bằng hiện kim và 80% bằng
công khố phiếu với 10% lãi trong tám năm. Giá trị của đất ruộng quy định là 2,5
lần giá năng suất thóc (hay lợi tức) từ khoảnh đất đó.
Trong vòng 3 năm, 1970-1973, đã có 51.704 điền chủ bị
truất hữu tổng số ruộng là 770.105 mẫu. Trong thời chiến đa số ruộng đất bị ảnh
hưởng, nên đa số các điền chủ bị truất hữu đều không bất mãn.
Để đền đáp chính phủ cho phổ biến rộng rãi các bích
chương: “Người Cày có ruộng ghi ơn tinh thần hy sinh của điền chủ.”
Nhìn chung ông Thiệu thu phục được nhân tâm của giới
cựu điền chủ miền Nam.
Luật NCCR cũng quy định nông dân lãnh ruộng do cộng sản
cấp cũng được nhận bằng khoán chính thức sở hữu số ruộng.
Cho đến ngày 28-2-1973 Chương trình CCRĐ coi như đã
hòan tất. Đã có 858.821 tá điền được hữu sản hóa 1.003.323 ha ruộng đất. Mọi
nông dân miền Nam đều có ruộng cày.
Chương trình NCCR đã tạo ra một tầng lớp tiểu và
trung điền chủ lên đến 1,3 triệu người.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (trái) công bố luật Người
Cày Có Ruộng
Chỉ còn chừng 10% là có từ 5-15 ha đất, với 10% diện
tích trồng trọt và họ cũng phải tự chăm sóc cho đất đai. Đại điền chủ không còn
và việc tá canh coi như đã chấm dứt.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng cho xây dựng và phát
triển cơ sở hạ tầng, thêm cán bộ xây dựng nông thôn, khuyến khích nghiên cứu và
áp dụng phương pháp canh tác mới với kỹ thuật mới thúc đẩy gia tăng năng suất.
Ngân Hàng Phát Triển Nông Thôn được thành lập. Với bằng
khóan đất, nông dân được vay lãi nhẹ để đầu tư sản xuất.
Chương trình cơ giới hóa nông nghiệp được đưa về nông
thôn. Nông dân bắt đầu trang bị cơ giới để canh tác, sử dụng phân bón hóa học,
cải tiến giống lúa, trồng lúa Thần Nông, tăng gia sản xuất gia súc lai giống…
Cơ sở hạ tầng phát triển nông dân hăng say học hỏi và sản xuất.
Năng suất lao động trong sản xuất lúa gạo tăng lên
nhanh chóng. Năm 1974, sản lượng gạo sản xuất đã tăng đến 7,2 triệu tấn với viễn
tượng xuất cảng. Nhờ đó đời sống của nông dân được cải thiện một cách rõ ràng.
Số điền chủ có ruộng bị truất hữu, cũng được chính phủ
giúp đỡ sử dụng vốn kinh doanh các dịch vụ cơ khí nông nghiệp, dịch vụ lưu
thông hàng hoá nông sản phẩm, dịch vụ chế biến thực phẩm nông sản, hướng đến việc
xuất cảng bán thành phẩm nông nghiệp, giúp nền kỹ nghệ miền Nam khởi sắc đóng
góp xây dựng nền kinh tế quốc gia.
Thể chế đi ngược lòng dân rồi cũng sẽ bị thay đổi.
Bài học từ Chương trình Người Cày Có Ruộng của Việt Nam Cộng Hòa là phải
trao lại quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân.
Chính phủ tương lai ở Việt Nam cần thực hiện chương
trình bán trả góp đất cho dân để có ngân sách đầu tư xây dựng lại nông thôn.
Dân có giàu thì nước mới mạnh. Nông dân sẽ luôn là tầng
lớp chính của dân tộc Việt Nam và lịch sử đã chứng minh họ luôn là nền tảng
trong việc bảo vệ và xây dựng quốc gia. Nông dân có giàu thì nước mới mạnh
hay thật
AntwortenLöschenhạt điều sấy mè trắng