Freitag, 21. Oktober 2016

Lưỡng đầu chế thời Lê Trịnh và những hệ quả lịch sử của nó


Mọi cơ chế quyền lực ở bất cứ thời đại và dân tộc nào một khi đạt tới trạng thái định hình của một quá trình vận động đều hoặc tự lý thuyết hoá bản thân nó, hoặc đều xác định sự tòng thuộc của nó đối với một (hay một vài) lý thuyết ý thức hệ đã và đang lưu hành trong vùng văn hoá mà cộng đồng cư dân đó hiện diện.
Cho đến thời điểm hiện nay, người nghiên cứu nghiêm túc nếu muốn đề cập tới những đặc điểm loại hình của các thực thể quyền lực đã từng tồn tại trong lịch sử Việt Nam vẫn phải tự bằng lòng với điểm vươn tới xa nhất là vương triều do Triệu Đà lập nên. Và cần nói ngay rằng, đó là một thiết chế quyền lực mang nhiều đặc điểm tương đồng loại hình với những thiết chế quyền lực hiện hữu ở ngoại vi (périphérique), những thiết chế chịu ảnh hưởng mà cũng là phản hưởng đối trọng trong mối quan hệ với cả lý thuyết lẫn thực tế quyền lực trên đất Hoa Hạ Trung Quốc.
Khảo sát lịch sử Việt Nam trong khung khổ từ thời điểm phục hồi chủ quyền và độc lập (938) cho tới tận khi thực dân Pháp áp đặt được sự “bảo hộ” lên Đông Dương (1884), hầu như mọi nhà nghiên cứu đều có thể dễ dàng thừa nhận rằng những đặc điểm mang tính loại hình của các triều đại ở Việt Nam càng về sau càng đậm tính chất Nho giáo hoá , nói khác đi, những đặc điểm loại hình nhà nước kiểu Nho giáo là những đặc điểm chủ đạo và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình hơn chín thế kỷ tồn tại của các thiết chế quyền lực thực tế trên xứ sở này.


Tuy nhiên, từ phía khác, lại cần nhận ra và khẳng định một thực tế phức tạp: Cực kỳ hiếm có những thiết chế quyền lực thực tế lại chỉ là sản phẩm của một lý luận quyền lực nào đó, dù thứ lý luận ấy có tự khẳng định là hoàn thiện đến đâu chăng nữa. Hơn thế, trong toàn bộ lịch sử tồn tại của chúng, các thiết chế quyền lực đều luôn luôn có xu hướng tự điều tiết để thích nghi với hoàn cảnh cụ thể bằng cách bổ sung vào khung khổ lý thuyết của chúng những nguyên lý và xác tín của một hay những lý luận về quyền lực khác, hoặc bằng cách tự đề xuất những khái quát hoá mới.Việc bổ sung như thế thậm chí là điều kiện sống còn của các thiết chế quyền lực hiện thực.
Khoảng mươi lăm năm trở lại đây, trong khoa học xã hội ở ta, tuy chưa xuất hiện những công trình nghiên cứu ghi dấu những bước đột phá, nhưng nhiều vấn đề phong phú, phức tạp mà cả một thời gian dài bị né tránh hoặc được giải quyết một cách chiếu lệ đã được đặt lại một cách nghiêm túc, khách quan hơn, nhiều vấn đề mới cũng đã được đặt ra để suy nghĩ. Giữa những vấn đề thuộc lịch sử Việt Nam được nêu ra hoặc được đặt lại ấy, có việc xem xét, đánh giá lại vai trò của một số vương triều hay thế lực chính trị như nhà Triệu, nhà Hồ, nhà Mạc, nhà Nguyễn, các dòng chúa Trịnh, chúa Nguyễn…Riêng chủ đề “Chúa Trịnh vị trí và vai trò lịch sử” cũng đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, với một mốc cụ thể là cuộc Hội thảo khoa học do Tạp chí Nghiên cứu lịch sử - Viện Sử học Việt Nam và Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hoá phối hợp tổ chức năm 1995.Trong kỷ yếu của cuộc Hội thảo này, có tới trên dưới chục bản báo cáo trực tiếp hay gián tiếp đề cập tới vấn đề “cơ cấu chính quyền “kép” Lê - Trịnh”.Dù sao, với những gì đã được công bố, chưa thể coi là vấn đề đã được triển khai đúng với tầm quan trọng của nó. Bài viết này lựa chọn chính vấn đề mà tác giả cho rằng còn cần được bàn tiếp, bàn thêm, sâu và kỹ hơn nữa ấy.
I.- QUÁ TRÌNH XUẤT HIỆN VÀ DUY TRÌ CƠ CHẾ LƯỠNG ĐẦU VỀ QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM CÁC THẾ KỶ XVI – XVIII.
Lịch sử chính trị thế giới trên những nét đại thể có thể được khái quát thành hai xu thế cơ bản là xu thế tập quyền và xu thế tản quyền. Trong bất cứ nền chính trị hiện thực nào cũng chứa chất vô số những biểu hiện cụ thể của cuộc đấu tranh giữa hai xu thế cơ bản ấy và mọi thiết chế chính trị đều là kết quả hiện thực mang tính cụ thể - lịch sử của cuộc đấu tranh, chuyển hoá và tác động qua lại phức tạp của hai xu thế này. Khi xu thế tản quyền bị khống chế tối thiểu hoá thì mọi quyền cơ bản của con người cá nhân, nhất là quyền cơ bản của mọi cá nhân thuộc tầng lớp bị cai trị, bị quản lý, bị lãnh đạo sẽ không được bảo đảm, ngược lại, khi xu thế tập quyền tỏ ra yếu đuối hoặc chưa tới ngưỡng, thì không thể xuất hiện những chính quyền mạnh, nhà nước mạnh, cộng đồng mạnh. Không thể có những cộng đồng mạnh mẽ đích thực nếu đó là tập hợp của những cá nhân, cá thể yếu đuối, cũng không có những cá nhân hạnh phúc đích thực và “phát triển bền vững” nếu những cá nhân đó không được bảo trợ bởi những đại diện cộng đồng đầy đủ sức mạnh. Tuy nhiên trong lịch sử hiện thực, những tương tác giữa cá nhân và cộng đồng bao giờ cũng được thể hiện ra bằng những mâu thuẫn biện chứng hết sức phức tạp, ở đó, những chu kỳ lịch sử thường xuyên được thể hiện ra như là chu kỳ của những sự thay thế lẫn nhau của những xu thế đó, dẫn tới những thành tựu thực tế cuối cùng là chúng làm tiền đề cho nhau phát triển.
“Lưỡng đầu chế” - hay “cơ cấu quyền lực kép” như có người định danh - ở Việt Nam thời Lê - Trịnh không phải là một cơ chế phân quyền, càng không phải là cơ chế tản quyền, mà là một trạng thái đặc dị, “nhộng tính”, xét cho cùng là một trạng thái tồn tại đặc thù, kết quả của một sự đấu tranh và “chuyển hoá giữa các mặt đối lập” giữa hai xu thế tản quyền với xu thế tập quyền đang được đề cập.
I.1.- Chưa có chứng cớ đầy đủ để khẳng định rằng việc Nguyễn Kim vào năm 1533 tìm được hậu duệ của vua Lê lưu lạc trong dân gian rồi dựng nên một “vương triều kháng chiến” trên đất Lào và vùng thượng du Thanh Hoá để chống đối lại nhà Mạc là một lối hành xử đi ra ngoài khuôn mẫu hành xử chính thống của Nho giáo. Khởi nguồn của một tham vọng quyền lực mang tính thế tập ( ít nhất là bên cạnh ngai vàng) chỉ thực sự bắt đầu nơi cái triều đình nhà Lê đang phải đào vong này là từ lúc Trịnh Kiểm, người con rể cả của Nguyễn Kim, vốn được ông bố vợ yêu mến và tin dùng, từng giao cho một vài sứ mạng quan trọng, ra tay giết người em vợ, con trai lớn của Nguyễn Kim (Tả tướng Lãng quận công Nguyễn Uông), người bởi tuổi trẻ hơn anh rể quá nhiều (mới ngoài 20) nên chưa thể tiếp tục sự nghiệp to lớn mà bố mình khởi xướng nhưng rồi bất ngờ bỏ lại do gặp phải cái chết bất đắc kỳ tử.
Vào năm 1558, khi Nguyễn Hoàng phải cậy đến chị nói (khó) giùm với anh rể để được cử đi trấn thủ vùng Thuận Hoá, thì do thế lực thực tế của tập đoàn Lê - Trịnh (lúc bấy giờ đã có thể coi là tập đoàn được rồi!) còn non yếu, Trịnh Kiểm hẳn chưa thể nghĩ tới (mà cả Nguyễn Hoàng hẳn cũng chưa ngờ được) đó chính là bước đầu tiên của một cuộc chia cắt đất nước kéo dài ngót hai trăm năm. Chắc chắn rằng Trịnh Tùng là người xứng đáng hơn hẳn Trịnh Cối trong việc nuôi giữ và phát huy cái tham vọng xác lập cho bằng được một quyền lực chính trị hùng mạnh và vững bền lâu dài. Chính Trịnh Tùng là người ép anh mình lâm vào tình thế phải đầu hàng nhà Mạc,.lại cũng chính Trịnh Tùng, khi sự nghiệp Cần vương trung hưng chưa thành (phải 20 năm sau mới chiếm lại được kinh đô) đã “can đảm” giết cả vua Lê (Anh Tông). Cũng Trịnh Tùng ấy là người sẵn sàng và trên thực tế đã xuống tay không thương tiếc đối với bất cứ ai, dù người đó từng là chiến hữu, từng là tâm phúc, nếu phát hiện thấy ở “kẻ kia” những biểu hiện “dị chí” ngược lại với lợi ích của cá nhân mình,trong số đó có không ít người thuộc thân tộc họ Trịnh. Tùng là hiện thân đầy đủ của thứ triết lý tự khẳng định nghiệt ngã: “Bất độc bất anh hùng”.
Có lẽ cần dừng lại đôi chút để làm rõ hơn nguyên nhân thực của việc Trịnh Tùng , trong vòng 53 năm cầm quyền chính đã giết đến 2 “đấng quân vương”.
Đây là lời của Đại Việt sử ký toàn thư, viết ra dưới thời chúa Trịnh: “Nhâm Thân, Hồng Phúc năm thứ nhất,(1572) …Tháng 3, Lê Cập Đệ (là viên dũng tướng có nhiều công lao, quan hàm chỉ đứng dưới Trịnh Tùng, từng gắn bó với Tùng trong nhiều “phi vụ” – TNV thêm) ngầm có chí khác, mưu giết tả tướng để đoạt binh quyền, từng rủ tả tướng (tức Trịnh Tùng – TNV thêm) đi thuyền ra giữa sông để giết. Tả tướng biết được, mưu ấy không thành. Từ đấy hai nhà thù oán nhau, bên ngoài thì giả vờ hiệp sức để lo đánh giặc, nhưng bên trong thì đều ngờ nhau, đề phòng ám hại nhau.”… “(Mùa đông tháng 11 năm đó), Ngày 21, Lê Cập Đệ từng có chí khác, định mưu hại tả tướng Trịnh Tùng. Tả tướng giả vờ không biết, gửi biếu nhiều vàng. Khi Cập Đệ đến tạ ơn, Tùng sai đao phủ phục ở dưới trướng bắt giết đi rồi sai người nói phao lên rằng Cập Đệ mưu làm phản, vua sai ta giết chết, tướng sĩ các người không được sợ hãi, kẻ nào chạy trốn làm phản thì phải giết cả họ.Thế là quân lính đều khiếp sợ, không ai dám hành động.
Bấy giờ Cảnh Hấp và Đình Ngạn nói với vua rằng: “Tả tướng cầm quân, quyền thế rất lớn, bệ hạ khó lòng cùng tồn tại với ông ta được”. Vua nghe nói vậy hoang mang nghi hoặc, đương đêm bỏ chạy ra ngoài, đem theo bốn hoàng tử cùng chạy đến thành Nghệ An và ở lại đó. Tả tướng bàn với các tướng rằng: Nay vua nghe lời gièm của kẻ tiểu nhân, phút chốc đêm ngôi báu xuôi giạt ra ngoài. Thiên hạ không thể một ngày không có vua (sic!), bọn ta và quân lính sẽ lập công danh với ai được? Chi bằng trước hết hãy tìm hoàng tử lập lên để yên lòng người, rồi sau sẽ đem quân đi đón vua cũng chưa muộn. Bấy giờ hoàng tử thứ năm là Đàm (mới lên 7 tuổi – TNV thêm) ở xã Quảng Thi huyện Thuỵ Nguyên (Thọ Xuân ngày nay), bèn sai người đi đón về tôn lập làm vua, đó là Thế Tông” (Đại Việt ….t 3, bản in Nội Các quan bản, Chính hoà năm thứ 18 (1697). Nxb Văn hoá Thông tin, H. 2000, từ tr. 232 – 235). Tiếp liền sau đó, Trịnh Tùng đã thực hiện lời ước “đi đón vua” như thế này: “Bấy giờ,( Tháng Giêng, mùa xuân năm Gia Thái thứ 1,1573) Hồng Phúc Hoàng Đế xiêu giạt ở Nghệ An, các hoàng tử Bách, Lựu, Ngạnh, Tùng đều theo đi. Tả tướng Trịnh Tùng sai bọn Nguyễn Hữu Liêu tiến quân đến thành. Vua tránh ra ruộng mía. Bọn Hữu Liêu quỳ ở ruộng nói: “Xin bệ hạ mau trở về cung để yên lòng mong đợi của thần dân trong nước, bọn thần không có chí gì khác cả”. Bèn đem bốn con voi đực đón vua trở về, sai bọn Bảng quận công Tống Đức Vi theo hầu, ngày đêm cùng đi. Ngày 22 về tới huyện Lôi Dương. Hôm ấy vua băng. Bấy giờ Tả tướng Trịnh Tùng sai Tống Đức Vi ngầm bức hại vua rồi nói phao là vua tự thắt cổ. Dâng tôn hiệu là Anh Tông Tuấn hoàng đế”.(Sđd, tr. 238).
Cần lưu ý rằng Lê Duy Bang (lúc lên ngôi vua là Lê Anh Tông) vốn chỉ là cháu bốn đời của Lê Trừ ( anh trai thứ hai của Lê Lợi). Việc Trịnh Kiểm sau khi Trung Tông mất (mới 22 tuổi) mà không có con nối dõi, đã “cất công” tìm và tìm được người này là “giống cũ” “mang gieo” (như giai thoại vẫn đồn rằng đó là lời khuyên mà cũng là kế sách của Nguyễn Bỉnh Khiêm dành cho Trịnh Kiểm) là một hành vi đầy tính quyền biến. Cũng hầu như chắc chắn, trong con mắt của Trịnh Tùng, ông vua (chộp được) này không mấy thiêng, thậm chí lại trở nên người bạc phận. Với một người sớm tỏ ra có “ hùng tài đại đởm” như thế (Tùng làm tất cả những việc “kinh thiên động địa” như vừa đề cập khi chỉ mới 22 – 23 tuổi!) những ông “vua đất sét” sẽ chẳng bao giờ trở nên là đối tượng để tôn trọng, có giá trị chăng chỉ đơn giản là giá trị lợi dụng! Kể từ đây, theo lẽ tự nhiên, tất cả các đời vua Lê tiếp sau đó chỉ có thể là càng ngày càng xa với dòng chính thống.Vậy nên, việc lập lên hay phế bỏ, thậm chí giết chết bất cứ vị vua nào đối với các chúa Trịnh là việc “dễ như thò tay lấy đồ vật trong túi”.
Trịnh Tùng tham chính 53 năm, trong đó có đến 50 năm ngự trên đỉnh cao nhất của tập đoàn Lê - Trịnh (1573 – 1623), nói theo lối sử xưa là “trải thờ 4 đời vua” trong đó tự ông ta đã “diệt gọn” 2 vua, về quan hệ là ông cháu.
Cho tới và kể cả Trịnh Sâm, dù cũng có những thời điểm chao đảo nhất định, họ Trịnh đã tạo được tới 9 đời chúa có thực quyền, chấp chính suốt từ năm 1545 tới tận năm 1782 .Xét tới thực chất, thì ngay các vương triều lớn từng hiện hữu trong lịch sử Việt Nam, có lẽ không một vương triều nào nắm được thực quyền lâu đến như vậy. Đối chiếu tuổi thọ và thời gian ở ngôi của các vua Lê với tuổi thọ và thời gian nắm quyền của các chúa Trịnh (cho đến vị Chúa nắm được thực quyền cuối cùng) song hành trên trục thời gian, dễ dàng nhận thấy số phận của các vua Lê sao mà mong manh dễ vỡ: 
- Trịnh Kiểm (1503 – 1570) cầm quyền 25 năm
- Trịnh Tùng (1549 – 1623) cầm quyền 53 năm
- Trịnh Tráng (1577 – 1657) cầm quyền 30 năm
- Trịnh Tạc (1606 – 1682) cầm quyền 25 năm
- Trịnh Căn (1633 – 1709) cầm quyền 27 năm
- Trịnh Cương (1689 – 1728) cầm quyền 19 năm
- Trịnh Giang (Khương) (? – 1740) cầm quyền 12 năm
- Trịnh Doanh (1719 – 1767) cầm quyền 27 năm
- Trịnh Sâm (1739 – 1782) cầm quyền 15 năm
Trong số các vị chúa nói trên, người bị coi là “yếu kém” nhất là Trịnh Giang, nhưng chính ông chúa này lại là người bức tử Lê Đế Duy Phường (1732), sau khi đã vu cho vị vua này tội “thông dâm với cung phi của Chúa trước” (?), bêu riếu bằng cách giáng làm Hôn Đức Công rồi giết.
Ứng với các đời chúa nói trên là 16 đời vua, mà thực chất là 15 người:
- Lê Trang Tông (Duy Ninh) (1515 - 1548) ở ngôi 15 năm
- Lê Trung Tông (Huyên) (1535 – 1556) ở ngôi 8 năm
- Lê Anh Tông (Duy Bang) (1532 – 1573) ở ngôi 16 năm
- Lê Thế Tông (Duy Đàm) (1567 – 1600) ở ngôi 27 năm
- Lê Kính Tông (Duy Tân) (1588 – 1619) ở ngôi 20 năm, con rể Trịnh Tùng, bị chính Trịnh Tùng bức phải thắt cổ chết.
- Lê Thần Tông (Duy Kỳ) (1607 – 1662) ở ngôi 2 lần, nhường ngôi 6 năm, cộng làm vua 38 năm.
- Lê Chân Tông (Duy Hựu) (1630 – 1649) được Thần Tông nhường ngôi 6 năm (1643 – 1649), 20 tuổi thì mất.
- Lê Huyền Tông (Duy Vũ, Cương mục chép là Duy Củ) (1654 – 1671) lên ngôi lúc 9 tuổi, ở ngôi 9 năm.
- Lê Gia Tông (Duy Hợi – có bản chép Duy Cối) (1660 – 1675) lên ngôi lúc 11 tuổi, ở ngôi 4 năm. (Thần Tông là cha của cả 3 vua chết trẻ này).
- Lê Hy Tông (Duy Hợp, cũng là con Thần Tông, khi Thần Tông mất mới hoài thai 4 tháng). (1663 – 1716), ở ngôi 29 năm., nhường ngôi làm thượng hoàng 12 năm.
- Lê Dụ Tông (Duy Đường) (1680 -1731), ở ngôi 25 năm, nhường ngôi làm thượng hoàng 2 năm
- Lê Đế Duy Phường (? – 1735) Con thứ Lê Dụ Tông nhưng vì là cháu ngoại Trịnh Cương, nên được Trịnh Cương chọn làm Thái tử và buộc Dụ Tông nhường ngôi. Nhưng chỉ được 3 năm, khi Trịnh Cương đột ngột mất, thì ông vua xấu số này bị “tân chúa” là Trịnh Giang vu hãm, bị giết chết cùng năm với việc Giang chọn anh trai Duy Phường làm vua kế vị.
- Lê Thuần Tông (Duy Tường) (1699 - 1735) ở ngôi 4 năm.Con trưởng Dụ Tông, được Trịnh Giang chọn lập sau khi phế Duy Phường.
- Lê Ý Tông (Duy Thìn, Cương mục chép là Thận) (1719 – 1759), ở ngôi 6 năm.(1735 – 1740), bị Trịnh Doanh ép phải nhường ngôi cho Duy Diêu là con trưởng của Thuần Tông.
- Lê Hiển Tông (Duy Diêu) (1717 – 1786). Ở ngôi 46 năm, là ông vua duy nhất của triều Lê sống đạt tới ngưỡng 70 tuổi, cũng là ông vua bị thế nhân nghị bình là nhu nhược, vô tích sự bậc nhất trong các vua chúa! Hẳn Lê Hiển Tông là ông vua mà các đời chúa Trịnh “mong mỏi” nhất, nên mới được “tại vị” lâu nhất.
Quyền lực của phủ chúa là điều không ai cần thiết phải nghi ngờ. Về cách thức mà các chúa Trịnh nói chung chọn người kế vị ngai vàng, có lẽ đoạn văn sau đây củaCương mục phản ánh điển hình và mang nhiều hàm ý hơn cả:
“Giang lập Duy Thận, em nhà vua lên ngôi, đổi niên hiệu, đại xá.
Duy Thận, con thứ mười một của Dụ Tông và là em Thuần Tông. Lúc ấy Duy Thận 17 tuổi, kém Duy Diêu, con cả nhà vua (hoàng trưởng tử) 2 tuổi. Nhưng Trịnh Giang e rằng Duy Diêu tuổi đã trưởng thành, và nhận thấy Duy Thận là cháu ngoại bà Thái phi Vũ Thị (vợ Trịnh Cương ), trước kia vẫn nuôi nấng ở trong phủ, thân cận yêu thương có phần dễ kiềm chế. Giang mới nói thác ra rằng diện mạo Duy Thận giống như tiên đế, nên quyết ý lập làm vua. Bầy tôi không ai dám nói gì cả. Ngày Giáp Ngọ, làm lễ cáo Thái Miếu, ngày Bính Thân lên ngôi vua (tức Ý Tông)…. (Quốc sử quán triều Nguyễn.Khâm định Việt sử thông giám cương mục.T.2, Bản in của Nxb Giáo dục, H., 1998, tr.494).
Nhưng có chuyện khác cần bàn rõ hơn: phải chăng uy quyền của “vế thứ hai” trong phương trình, tức uy quyền của vua Lê, rộng hơn, của cung đình các vua Lê, như vẫn được khẳng định xưa nay, chỉ là hão, ảo, mang tính chất thuần tuý tượng trưng, “ ngồi chơi xơi nước”?
I.2.- Quả là các chúa Trịnh đã bằng “trăm phương ngàn kế” để vô hiệu hoá vai trò của các vua Lê, không ngần ngại sử dụng cả những biện pháp bạo lực tàn độc quyết liệt nhất. Kết quả là trong khoảng thời gian hơn hai trăm năm “đồng tồn tại”, không có một vị vua nào của nhà Hậu Lê (Lê Trung hưng) thể hiện được mình trong nền chính trị hiện thực là người làm chủ quốc gia, làm chủ vương triều. Căn cứ vào sử liệu, không một người quan sát hay nhà nghiên cứu nghiêm túc nào từng dành cho các vua Lê thời ấy những lời nhận định, đánh giá tích cực. Vậy nhưng, bất chấp tất cả những điều đó, chỉ tính từ năm 1592 trở đi (thời điểm tập đoàn Lê - Trịnh chiếm lại được kinh đô Thăng Long, chính thức trở lại vị thế quyền lực chính trị trung ương) cho đến tận khi Lê Chiêu Thống rước quân Thanh vào, các vua Lê vẫn cứ là “những vị quốc chủ” – đó không đơn giản chỉ là hình thức. Có nhiều lý do có sức nặng hiện thực hơn người ta vẫn tưởng khiến cho các vua Lê duy trì được vị thế tuy mong manh, lay lắt mà hoá ra vẫn khá bền vững ấy.
Lý do quan trọng đầu tiên: vương quyền của nhà Lê là điều kiện sống còn để duy trì sự tồn tại của thế lực chính trị họ Trịnh. Trên thực tế, việc họ Mạc giành được ngôi vua vốn đã diễn ra trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt rối ren, bởi từ sau thời điểm Lê Hiến Tông mất (1504), quyền lực chính phủ trung ương đã bắt đầu khủng hoảng. Hơn 20 năm tiếp theo, cho đến 1527, có đến 5 vị vua thay thế, tranh giành, sát hại lẫn nhau. Triều chính càng rối ren, quyền lực thực tế càng dễ dàng, và trên thực tế là đã trôi nổi trong tay các võ tướng nắm được bộ phận binh quyền chủ yếu nhất. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam lại xuất hiện những ông vua bị cả người trong lẫn ngoài nước định danh là “vua quỷ”, “vua lợn” như Tương Dực, Uy Mục. Rồi, ngẫu nhiên sao, kẻ bề tôi thực sự giết vua (chứ không phải do nội bộ hoàng tộc tranh giành, cũng không phải do cáo buộc xằng để hãm hại ) đầu tiên chính là một người họ Trịnh: Trịnh Duy Sản (1516), một người họ Trịnh khác - Trịnh Duy Đại - thực hiện một hành vi không tiền khoáng hậu tiếp theo: cướp lấy vua nhỏ mới được lập chưa kịp định niên hiệu (là Quang Trị, 8 tuổi) mang về Tây Đô. Đám quần thần võ tướng còn lại bèn nhanh chóng tìm lập ngay một “vua nhóc” khác (mới 14 tuổi). Một thời gian sau do không hình thành nổi vương triều với ông vua mình cướp mang đi ấy, Trịnh Duy Đại giết Quang Trị.Nhưng rồi số phận và hình tích của Chiêu Tông Thần Hoàng đế cũng chẳng thể tốt lành. Lời cẩn án của sử thần đời sau thiết tưởng quá rõ: “…ở ngôi 7 năm, bị Mạc Đăng Dung giết, thọ 26 tuổi, chôn ở lăng Vĩnh Hưng. Bấy giờ trong buổi loạn lạc, quyền bính không ở trong tay, bên trong thì nghe lời xiểm nịnh gian trá, bên ngoài thì lại ham mê săn bắn chim muông, ngu tối bất minh, ương ngạnh tự phụ, bị nguy vong là đáng lắm!” (Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd. t.3, tr.127).
Việc Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê, giết cả hai vua (Chiêu Tông và Cung Hoàng) vào năm 1527 diễn ra thậm chí cơ hồ yên ả, không gây xáo trộn gì đáng kể. Sử thần Đăng Bính về sau bàn rằng: “Trong lúc ấy, các đại thần cả triều đều trơ mắt ngậm miệng,người nọ liếc trộm người kia….Lúc bấy giờ. kẻ quyền gian thế lớn, bọn thần hạ khác lòng, thiên tử bị cô lập ở trên, cả triều không một ai có thể uỷ thác được, muốn không sụp đổ, có thể được không?” (Sđd. Tr. 174) . Thật ra, thì cũng có được một người dám bày tỏ sự bất đồng, là Trương Phu Duyệt, thượng thư Lại bộ, cự nự từ chối việc mà ông “được” các quan khác yêu cầu, là nhân danh vua Lê thảo chiếu nhường ngôi cho Mạc Đăng Dung. Còn thì cả 56 “khai quốc công thần” của nhà Mạc, tức là “bộ sậu” của vương triều cũ, hầu như đều yên vị, dẫu vương quyền đã đổi chủ!
Vào đúng thời điểm Nguyễn Kim tìm được hậu duệ của vua Lê rồi dựng cờ Cần vương ở tận đất Ai Lao (1533), thì nhà Mạc đã kịp làm cho “nước giàu dân mạnh”. Chính sử thần nhà Lê về sau cũng phải thừa nhận rằng vào thời gian đó “Họ Mạc ra lệnh cấm người các xứ trong, ngoài không được cầm giáo mác và dao nhọn, can qua, cùng những binh khí khác hoành hành trên đường đi.Ai vi phạm thì cho phép quan ty bắt giữ. Từ đấy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem về, chỉ cần mỗi tháng xem lại một lần, có khi sinh đẻ cũng không biết được là gia súc của mình. Trong khoảng vài năm, người đi dường không nhặt của rơi, cổng ngoài không phải đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên” (Sđd. Tr. 182). Việc trị nước an dân của nhà Mạc, nếu không bị can qua làm rối loạn và gián đoạn, hẳn đã cũng có thể đạt tới những thành tựu đầy ấn tượng.
Vậy thì lý do gì khiến cho lòng người vẫn không nhất tâm hướng theo chính quyền Mạc, một chính quyền dù sao mặc lòng vẫn đáp ứng được những nguyện vọng tối thiểu của một cư dân nông nghiệp là “an cư lạc nghiệp” như thế? Lời chiếu vào dịp thu phục lại kinh đô Thăng Long năm 1592, tuy về danh nghĩa là được vua Lê ban ra, mà chắc chắn đã được Trịnh Tùng cân nhắc, ngẫm ngợi từng câu chữ, giải thích phần nào lý do chính yếu: “ Nhà nước ta, Thái Tổ Cao hoàng đế ứng mệnh trời, thuận lòng người, thừa cơ mở vận, theo nghĩa lớn dẹp hung tàn, được thiên hạ rất chính đáng (tôi nhấn mạnh – TNV),quy mô dựng nước đã rộng lớn lại lâu dài. Thái Tông Văn hoàng đế nối lời dạy bảo, xướng suất kẻ dưới; Nhân Tông Tương hoàng đế rạng công người trước, rõ sáng đức xưa; Thánh Tông Thuần hoàng đế sáng lập pháp chế, mở ra muôn đời văn minh; Hiến Tông Duệ hoàng đế kê xét điển chương, chấn chỉnh bốn phương dường mối.
Mọi điển chương pháp độ để giữ cơ nghiệp đã tường tận và đầy đủ cả rồi (tôi nhấn mạnh – TNV). Các đời truyền nối, mưu lớn công to, mở mang phò tá, đều theo lẽ chính, người sau có thể giữ mãi đời đời”.(Sđd. Tr. 284 – 285).
Nói theo ngôn ngữ ngày trước, thì vương triều Lê sơ, kể cho đến Lê Hiến Tông, đã góp cho lịch sử nước nhà những kỳ tích lớn lao cả về võ công, cả về văn trị, vậy nên đầy đủ lý do để “trường tồn mãi mãi”. Xét đoạn lời chiếu đã dẫn bằng cái nhìn lịch sử chính trị học ngày nay, vẫn có thể nhận định rằng những lời lẽ đó về cơ bản là xác đáng.
So với nhà Lê, nhà Mạc không có võ công gì đáng kể đối với đất nước, không những thế, còn bị “bêu tên” nặng là “bán nước”, nhẹ là “làm nhục quốc thể”, mà về văn trịcũng chưa đủ mới mẻ, vượt lên cao, đi xa hơn một cách đáng kể, tuy ở một vài phương diện có những bước tiến nhất định, so với thịnh thời của nhà Lê. Mô hình tổ chức và quản lý xã hội trong lịch sử Việt Nam, như đã rõ, đạt tới trạng thái cổ điển của một hình thái lịch sử, là dưới triều Lê Thánh Tông, vị hoàng đế sáng danh nhất trong lịch sử quốc gia – dân tộc. “Lòng người” - chủ yếu là “dân ý”, “dân tâm”,- vẫn “quyến luyến nhà Lê” là một sự thật lịch sử. Đây có thể coi là lý do căn bản nhất để ngôi vị hoàng đế của nhà Lê vẫn cứ được duy trì như một thành tố quan trọng của cơ chế quyền lực.
Không bàn tới hành trạng, nhân cách và tài năng của từng vị chúa Trịnh cụ thể, từ góc nhìn vĩ mô, có thể khẳng định rằng sự tồn tại của ngôi chúa và bộ máy quyền lực phái sinh của phủ chúa bên cạnh ngôi vua không đem lại được những đóng góp mang tầm lịch sử khác biệt về chất vì lợi ích quốc gia – dân tộc. Nếu gác việc khuông phò, giúp rập triều đình nhà Lê ra ngoài, vương phủ Trịnh tộc không còn lý do tồn tại.
Suốt hơn 200 năm tồn tại của chính quyền Lê - Trịnh, triều đình vẫn được phân biệt một cách bắt buộc đối với phủ liêu.Cũng trong suốt thời gian đó, nếu từ phía các chúa Trịnh chưa bao giờ nguôi khát vọng “xoá sổ” Lê Triều, từ Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng cho tới Trịnh Sâm đều “mong mỏi đến cháy lòng” được tự xưng là Trẫm, được bá quan tung hô “vạn tuế”, và mọi toan tính lẫn hành vi hiện thực đầy dẫy để thực thi khát vọng đó đều nhất loạt có chung một kết cục là thất bại, trong khi đó từ phía các vua Lê và hoàng tộc, từ phía nhiều ông quan phụng sự triều đình, thậm chí từ cả nhiều thành viên xuất sinh từ gia tộc họ Trịnh vẫn thường xuyên xuất hiện những cá nhân và/ hoặc nhóm người nuôi dưỡng và khi có cơ hội hoặc tưởng rằng có cơ hội sẵn sàng tiến hành những hoạt động nhằm lật nhào ngôi chúa, dẹp bỏ cái “vương phủ” mà họ nhất tề coi là nghiệp chướng. Chính nhận thức ấy. tâm thế ấy cũng là nhân tố thường trực ở sĩ dân trong nước, khiến “bạo loạn” nhân danh việc chống lại kẻ “bức hiếp vua ta” vẫn đời nối đời diễn ra.
Không thể khẳng định giản đơn, rằng ngôi vua của các vua Lê chỉ là chiếc ngai vàng vô hồn trống rỗng, dù đa số hầu như tuyệt đối các ông vua nhà Lê từ thời trung hưng trở đi là vô vị. Cá nhân là một chuyện, cơ chế lại là chuyện khác. Đó là một chân lý sơ đẳng cần phải được nhận thức trong chính trị học!
Cơ chế lưỡng đầu về quyền lực là một thực tế lịch sử thời Lê - Trịnh.
Xét từ một góc độ khác, ngôi vị của nhà Lê càng trở nên tất yếu trong các quan hệ đối ngoại, vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ Đàng Ngoài.Nếu các chúa Trịnh truất bỏ và thay thế ngôi vị của vua Lê, chắc chắn các chúa Nguyễn ở Đàng Trong không vì lý do gì mà không tự lập thành một quốc gia thực thụ. Cũng chắc chắn rằng trong mối quan hệ ngoại giao với triều đình nhà Minh rồi sau đó là triều đình nhà Thanh, quốc hiệu An Nam, tước vị An Nam quốc vương, họ Trịnh khônglàm cách gì để được các Thiên tử của “Thiên triều” thừa nhận. Chưa nói rằng, ngoái nhìn vào lịch sử, mà là cận sử, nhãn tiền, họ Trịnh cũng sẽ được các sử gia chính thống xem xét không khác gì nhà Mạc, thậm chí còn có thể bị coi là tệ hại hơn!
II.LƯỠNG ĐẦU CHẾ THỜI LÊ - TRỊNH TRONG SỰ QUY CHIẾU VỚI LÝ LUẬN VỀ QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ CỦA NHO GIÁO
II.1.- Lý luận Nho giáo về quyền lực chính trị và về ngôi vị quân chủ:
Xem xét từ khởi nguyên, Nho giáo là một học thuyết có quá trình hình thành rất lâu dài, có thể là lâu dài bậc nhất trong lịch sử các học thuyết tôn giáo – chính trị - triết học từng được biết tới. Xét riêng từ góc độ một lý luận về quyền lực, Nho giáo không phải là học thuyết duy nhất mà cũng không phải là toàn bộ lý luận về quyền lực từng xuất hiện và “hành thế” trên đất nước Trung Hoa cổ đại.
Ngay từ thời điểm loài người thoát dần ra khỏi trạng thái bầy đàn tự nhiên, đã lần lượt xuất hiện những nỗ lực định hướng tổ chức và quản lý xã hội “theo kiểu con người”. Một trong những công việc có tầm quan trọng hàng đầu được đặt ra để cân nhắc, suy tư và thử nghiệm, đó là việc tìm đáp án cho câu hỏi nên tổ chức và quản lý, lãnh đạo xã hội theo những quy mô và tính chất nào. Đương nhiên, đáp án thích hợp, đúng hơn, tối ưu, chỉ có thể được phát lộ dần dà qua một quá trình dằng dặc những thí nghiệm xã hội. Thử và sai, lại thử, lại sai. Sau những lần thử và sai ấy là tội ác, là xương máu, sinh mạng. Nhưng dù sao, đó cũng là “những đau khổ cần thiết” mà nhân loại buộc phải trả giá cho những tiến bộ, những bước phát triển.
Như đã nói, ở mọi thời đại, mọi xã hội đều tiềm tàng hai xu thế nghịch chiều của sự hình dung về quy mô và kết cấu quyền lực, là xu thế tập quyền và xu thế tản quyền. Trên đất Trung Hoa xưa, ngay từ thuở chưa xuất hiện các suy tư và những nhận định khái quát hoá lên thành các “giáo”, các “thuyết”, thì thực tế của tồn tại xã hội đã buộc người cầm quyền phải đưa ra và thực hiện những giải pháp thực tiễn. Thư tịch còn lại đến nay cho phép người nghiên cứu hình dung về hai lối ứng xử quyền lực nghịch lưu ấy, một, hậu lai được đại diện phát ngôn bởi những người thuộc phái Lão – Trang, một nữa, có tông thống truyền thừa vững chắc và lâu dài hơn hẳn trong lịch sử, đó là Nho giáo. Với nghị luận “ Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu “, “Thiên địa vô công, thánh nhân vô danh”, các đại biểu lỗi lạc nhất của phái Lão Trang đã dễ dàng hình dung về một lối tổ chức và cai trị thuần giản: “tiểu quốc, quả dân”, lối ứng xử xã hội “bất tranh, vô cầu”, lối sống “vị ngã, tự tại”.Lựa chọn con đường “tuyệt thánh khứ trí”, “phi mệnh, vô thượng” như vậy cũng là sự lựa chọn của nhiều “yếu nhân” thuộc nhiều “phái, giáo” khác nhau nữa trong Bách gia chư tử.
Lịch sử Trung Quốc hiện thực đã không vận hành theo hướng đó, mà ngược lại, vận hành theo quỹ đạo càng ngày càng tích hợp những yếu tố tập quyền.Dĩ nhiên, các bước lựa chọn của lịch sử về mô hình và tính chất của bộ máy quyền lực đã diễn ra trên xứ sở này thông qua vô số những chuyển động quanh co, phức tạp, lắm khi dường hỗn loạn, mất hướng.Tuy vậy, quan sát trên trục thời gian và bằng những đại lượng métrique vĩ mô, sẽ không khó khăn gì để nhận ra sự tồn tại hiện thực hoá của cái “cảm hứng lịch sử” vươn cao, vươn xa, tới tận quy mô “Mục tiêu của chúng ta là toàn thế giới”(Mao Trạch Đông). Các bậc thánh vương Nho giáo Trung Hoa xưa coi “bốn biển là nhà”, nên nhất định phải “nắm thiên hạ trong lòng bàn tay” ( “doãn chấp quyết trung”).
Lựa chọn con đường xây dựng mô hình quyền lực chuyên chế, lối kiến tạo cộng đồng xã hội theo hướng đại thống nhất, đại tập trung vốn đã là sự lựa chọn từng xuất hiện một cách “tiền lý luận” trong thực tế cai trị thời cổ đại.Chính vì vậy mà trong số các lý luận về trị nước của Bách gia chư tử thời Xuân thu - Chiến quốc, Pháp gia và Nho gia – các học thuyết điển hình nhất theo xu hướng này – đã được cân nhắc để vận dụng vào thực tiễn. Chúng tôi từng cho rằng điểm chung lớn nhất của hai học thuyết mà khi được triển khai vận dụng vào thực tế đã trở thành hai kẻ thù chính trị “bất cộng đái thiên” ( không đội trời chung, chữ của chính nhà Nho bàn về mối quan hệ giữa hai phái ) này chính là sự nhất trí tôn sùng đến mức tuyệt đối hoá, thần thánh hoá địa vị của “đế vương”.Những điểm khác biệt quan trọng nhất giữa hai học thuyết này nằm ở cách xác định địa vị, vai trò và thân phận của những tầng lớp, thành phần dân cư còn lại và ở những biện pháp cơ bản, chính yếu để đạt tới mục tiêu “lý tưởng”.
Việc Nho giáo được lựa chọn và trở nên học thuyết ý thức hệ độc tôn kéo dài hơn hai ngàn năm trong lịch sử chính trị Trung Quốc, hàng nghìn năm trong lịch sử chính trị Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam đã tạo ra áp lực khổng lồ, đè nén và ngăn chặn có hiệu quả mọi định hướng dân chủ hoá, cũng đồng thời tạo ra tính chính đáng (légitimité – legitimacy) cho sự đàn áp, tiêu diệt nhằm vào mọi tổ chức, lực lượng hay hoạt động chống đối lại định hướng tập trung, thống nhất mà cũng là chuyên chế đó của nhà nước trung ương.Trong tư cách là một lý luận ý thức hệ, nghĩa là lý luận về quyền lực thống trị, Nho giáo đã tìm ra một thứ bảo bối để duy trì địa vị “dường như không thể bị thay thế” của nó, đó chính là sự đảm bảo về lòng trung thành tuyệt đối và vô điều kiện của mọi tín đồ của học thuyết này đối với ngôi vua, vị trí quyền lực tối cao, duy nhất cá thể hoá ở mỗi và mọi thời điểm cụ thể, một dòng họ chính thống duy nhất xét trong quan hệ truyền thừa giữa các đời.
II.2.- Tương tác giữa lý luận Nho gia với thực tiễn chính trị Việt Nam kể từ thời điểm khôi phục chủ quyền quốc gia dân tộc . Thực chất của kết cấu lưỡng đầu chế thời Lê - Trịnh:
Cần thiết phải ít nhiều ngoái nhìn lại cung đường mà các vương triều ở Việt Nam đã trải qua kể từ năm 938 trở đi để nhận thức về tính khuynh hướng trong nền chính trị hiện thực ở Việt Nam, đặng cắt nghĩa một cách thuyết phục về đặc điểm của cách cai trị ở từng triều đại cụ thể.
Trước hết, xin tự trích dẫn một vài dòng từng bàn trước đây lên quan đến vấn đề đang được đề cập.
“Trong số các sử gia đời trước, Ngô Thì Sĩ là người đề cao Ngô Quyền nhất, song có lẽ đúng mức hơn lại là lời bàn của Ngô Sĩ Liên :“Nhà Tiền Ngô khởi lên, không những có công đánh giặc thắng lợi, lại còn đặt ra trăm quan, dựng ra nghi lễ trong triều, định màu sắc các đồ mặc, cũng đã thấy sơ qua về quy mô đế vương; thế mà hưởng ngôi vua không được lâu dài, chưa thấy có kết quảgì về chính trị, thật là đáng tiếc”.(Dẫn theo Quốc sử quán triều Nguyễn. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd , T.I, tr. 91).
Điều mà Ngô Sĩ Liên gọi là “chưa thấy có kết quả gì về mặt chính trị” thể hiện ra ngay sau khi Ngô Quyền mất: (em vợ là) Dương Tam Kha cướp ngôi của cháu, tự xưng là Bình Vương. [Cần chú rằng Dương Tam Kha là con trai Dương Đình Nghệ. Trong cách hình dung của tôi, loại trừ một số quan lại gốc Hán, loại nhân vật nổi bật trên sân khấu chính trị Việt Nam suốt từ thời Lý Bôn, Triệu Quang Phục qua Phùng Hưng, ….đến tận lúc này là người hào trưởng. Vai trò của người hào trưởng sẽ còn kéo dài cho đến tận Lê Lợi, anh em nhà Tây Sơn…Đấy là một loại hình nhân vật lịch sử xứng đáng được dành cho một chuyên khảo riêng].
Có độc lập, có chủ quyền, nhưng chưa dễ có ngay kinh nghiệm cũng như lý luận tổ chức xã hội theo hướng một nhà nước tập quyền thực thụ. Lịch sử chính trị Việt Nam thế kỷ thứ X là lịch sử của một sự vươn tới, vừa phải chấm dứt trạng thái lệ thuộc, lại vừa phải tự mình khẳng định và trưởng thành, khắc phục tình trạng “bán quốc gia” (demie-d’États). Bản chất của cái gọi là “Loạn thập nhị sứ quân” là gì? Là tình trạng entropie cố hữu, nạn cát cứ cố hữu, trạng thái kém phát triển cố hữu của tư duy chính trị và trình độ tổ chức xã hội. Cái “kết quả về chính trị” mà Ngô Sĩ Liên yêu cầu chính là việc cho ra đời một nhà nước có quy mô dân tộc, thống nhất được cả về lãnh thổ hành chính lẫn quyền lực đối với mọi tầng lớp và mọi khu vực cư dân. Nhà Đinh ra đời năm 968 chính là đáp án của những đòi hỏi lịch sử như vậy. Ta hiểu rõ tại sao các tác giả - mà không chỉ các tác giả, bởi đằng sau họ là cả vua và triều đình - của hai bộ sử lớn trước đây đều lấy mốc 968 làm năm khởi đầu cho phần chính biên hay bản kỷ còn trước đó là tiền biênhay ngoại kỷ.
Nếu nhà Đinh có công lớn trong việc lập nên một triều đại mà cùng với triều đại ấy là sự khởi đầu của một nhà nước dân tộc tập trung và thống nhất, thì công lao lịch sử của nhà Tiền Lê là củng cố, khẳng định nhà nước đó, trước hết và chủ yếu là thông qua võ công. Cả Đinh Bộ Lĩnh, cả Lê Hoàn (và có thể nói thêm Đinh Liễn nữa) đều là những võ tướng, những thiên tài quân sự lỗi lạc. Chính quyền mà họ xây dựng nên, tương tự và nói theo cách lỗ mãng của Lưu Bang Hán Cao Tổ, là “Nãi ông mã thượng nhi đắc thiên hạ”. Quả “Bạo lực là bà đỡ của chính quyền”. Tuy nhiên, thật khó mà yên ổn lâu dài với ý định giữ gìn chính quyền và phát triển xã hội chỉ bằng sức mạnh bạo lực. Nhà Lý ra đời như một bước đột biến của phong cách và trình độ tư duy chính trị trong lịch sử Việt Nam” (Xem thêm: Trần Ngọc Vương.- Cấu trúc và diễn tiến hệ tư tưởng ở Việt Nam đầu thời Lý.In trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Lý Công Uẩn và vương triều Lý (kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội ) Nxb Đại học Quốc gia. Hà Nội, 2001).
Trong lịch sử Việt Nam, chắc chắn rằng chỉ những triều đại được lập nên thông qua con đường dẹp loạn thành công, “quy giang sơn về một mối”, hoặc ra đời sau một cuộc chiến chống ngoại xâm, hoàn thành sứ mạng giải phóng dân tộc thì mới đắc nhân tâm, mới có điều kiện để tồn tại lâu dài.Không ai đặt vấn đề nghi ngờ tính chính thống của những triều đại như thế.Ngay một số triều đại mà sự xuất hiện từng gây ra những phản ứng dữ dằn từ góc độ đạo thống như nhà Tiền Lê, nhà Trần, thì sau khi đạt tới những võ công hiển hách, nhất là trong công cuộc chống ngoại xâm, đều được coi là “trắng án”.Ngược lại,cũng với cách làm như các triều đại kia, nghĩa là qua chính biến cung đình mà chộp lấy ngôi vua, nhưng nếu về sau không đạt tới công tích gì trong việc chống ngoại xâm, thì đều nhất loạt bị coi là “nguỵ”, là “nhuận”. Đó là “thân phận” của nhà Hồ, nhà Mạc và phần nào của nhà Nguyễn trong quan hệ với nhà Nguyễn Tây Sơn. Vậy là đã có một sự tương tác giữa tinh thần Nho giáo với những tiêu chí riêng của tinh thần dân tộc, của lịch sử tư tưởng dân tộc.
Họ Trịnh chỉ dám bắt ép vua Lê phong vương tước cho mình và duy trì cơ chế thế tập ngôi vị khi đã về cơ bản đánh dẹp được các lực lượng đối lập, chủ yếu là các lực lượng cát cứ địa phương còn trung thành với nhà Mạc. Nhưng đó không phải là một sự thống nhất, tập trung trọn vẹn.Từ sau khi tập đoàn Lê - Trịnh quay lại được kinh thành Thăng Long, rất nhiều hào kiệt địa phương vẫn tiếp tục nổi lên cát cứ, tự lập, dù với danh nghĩa khuông phò trở lại đối với một triều đại cũ nào đó, bất phục họ Trịnh nên tiếp tục ngọn cờ “dẹp Trịnh phò Lê” hay tự mình xưng hùng, xưng bá, mưu đồ chiếm lấy một phương. Nhìn nhận rằng cục diện quốc gia trên tổng thể đã có thể thống nhất hoá trở lại, sau hơn ba mươi năm cơ hồ né sang một bên, âm thầm chuẩn bị lực lượng đợi chờ cơ hội, khiến cho Trịnh Tùng không khỏi nghi ngại, vào năm 1593, chỉ một tháng sau khi vua Lê trở lại Thăng Long, Nguyễn Hoàng dặn dò kỹ lưỡng Nguyễn Phúc Nguyên, người đã được lựa chọn lưu lại tiếp tục nắm giữ vùng Thuận Quảng để tính kế lâu dài, tự mình đã “đích thân đem tướng sĩ, voi ngựa thuyền ghe về Kinh lạy chaò, đem sổ sách về binh lương, tiền, lụa, vàng bạc, châu báu, kho tàng của hai trấn Thuận Hoá và Quảng Nam dâng nộp” (Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd. T.3, tr.287).Từ thời điểm đó cho tới tận năm 1600, Nguyễn Hoàng ở lại Thăng Long, tích cực đến mức đáng ngạc nhiên trong việc tham gia “tiểu phạt” đối với các nhóm cát cứ ở Đàng Ngoài, trong đó có những trận do ông “xung phong tình nguyện”, cũng có những trận do Trịnh Tùng nhân danh vua Lê ban lệnh. Hầu hết các chiến dịch mà Nguyễn Hoàng tham gia và trực tiếp cầm binh quyền như thế đã kết thúc thắng lợi. Giá phải trả cho các chiến dịch đó về phía Nguyễn Hoàng là hai người con trai tử trận (đều được vua Lê chúa Trịnh ghi nhận và tưởng thưởng), cùng nhiều cháu con khác và nhiều thuộc tướng trung thành dưới quyền.Ngay cả khi “nhìn gần”, nhận ra rằng cục diện chính trị tại chỗ của tập đoàn Lê - Trịnh là chưa thể một sớm một chiều thống nhất, ốn định, với quyết tâm một lần nữa “dứt áo ra đi” (và lần này thì đi hẳn, chính thức thực thi ý đồ cát cứ), Nguyễn Hoàng vẫn để lại kinh nhiều gia đình nhỏ của con, cháu, kể cả hai người con trai khác còn sống và tiếp tục nhận quan tước của Lê - Trịnh.
Việc ra đi lần này của Nguyễn Hoàng gây nên một cú sốc lớn cho triều dình nói chung, cho chính Trịnh Tùng nói riêng. Trịnh Tùng đã hoảng sợ đến mức mang vua Lê chạy trở lại Tây Đô, tức trở lại “căn cứ địa” cũ!
Có lẽ cũng nên lưu ý thêm một chuỗi sự kiện có ý nghĩa phức tạp ngược chiều nhau, diễn ra ngay trước thời điểm Nguyễn Hoàng quyết định trở về Thuận Hoá.HọVũ ở Đại Đồng liên tục thay đổi thái độ, khi quy phục, khi quay lưng, thậm chí phát động cả những “cuộc chiến mi ni” để ít nhất khẳng định mình là một thế lực mà họ Trịnh cần tính tới; ở nhiều vùng khác nhau thuộc Đàng Ngoài, bên cạnh “dư đảng nguỵ Mạc” liên tục nổi lên chống đối, hàng chục kẻ khác cũng tuyên bố bất phục, “tiếm xưng” nhiều loại danh hiệu khác nhau, tổ chức nên những đội quân “phản loạn” với quy mô khác nhau, trong đó khá nhiều kẻ tự xưng vương hiệu, thậm chí xưng “đế”.Sau sáu năm kể từ ngày trở lại được vị trí chính quyền trung ương, liên tục đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở các địa phương, cảm thấy mình đã đủ công tích để được đối xử hoàn toàn theo “quy chế” khác, Trịnh Tùng đã thực thi một loạt những hành vi hướng tới việc tiếm vị. Trong mối quan hệ đối ngoại hệ trọng nhất, khi các sứ thần đứng đầu là Phùng Khắc Khoan chưa thể đòi lại được cho vua Lê danh vị An Nam Quốc Vương, Trịnh Tùng lại xin được cho riêng mình những ân sủng từ phía “Thiên triều”: “Tháng 3 (1599), quan Tả giang nhà Minh Trần Đôn Hựu lại sai Vương Kiến Lập mang ngựa tốt, đai ngọc, mũ xung thiên sang cho tiết chế Trịnh Tùng, xin kết tình láng giềng và gửi hai tấm thiếp, trong viết 8 chữ “Quang hưng tiền liệt, định quốc nguyên huân” (quang phục nghiệp xưa, công đầu định nước). Tiết chế Trịnh Tùng đối đãi rất hậu, sai người hộ tống về nước”. Liền ngay sau đó, tháng 4, Tùng đã đòi được vua Lê lễ tấn phong cho mình làm Đô nguyên suý tổng quốc chính thượng phụ Bình An Vương.Không phải là trùng hợp ngẫu nhiên, khi chính thời điểm đó, sử thần lại “vô tư” chép rằng: “Tháng Tư, ngày mồng 7, có nhiều sao băng xuống nội điện hành tại, một góc điện Kính Thiên bị sập”. Thế rồi tháng 8, ngày 16, nguyệt thực, ngày 23, “Sao Thái Bạch phạm vào sao Thái Ất”, ngày 24, vua (Thế Tông) băng. “Bấy giờ, Bình An Vương cùng với triều thần bàn là thái tử không thông minh mẫn tiệp (trong khi chính Trịnh Tùng đang rất cần dựng lên một ông vua với đặc điểm hàng đầu là thế! Tôi thêm - TNV), bèn lập con thứ là Duy Tân”.Việc Nguyễn Hoàng tạo cơ hội rồi bốc luôn bản bộ quay về Thuận Hoá, Trịnh Tùng run sợ đưa vua về Thanh Hoá đã khiến kinh thành một lần nữa trở nên vô chủ, Mạc Kính Cung bèn đem quân đánh tới. “ Thế rồi, quan viên tướng sĩ trong nước cùng rước Kính Cung tới Kinh sư” ( Sđd, tr. 330).
Thẩm xét cục diện chính trị Việt Nam vào mấy thế kỷ tiếp theo, không thể không thừa nhận ý kiến của sử gia Trần Trọng Kim khi ông cho rằng sở dĩ họ Trịnh không (hoặc chưa) cướp ngôi vua Lê vì còn e dè họ Mạc, nhà Minh, và họ Nguyễn ở Đàng Trong. Cần bổ sung một cách khái quát thêm rằng, họ Trịnh không cướp (và không cướp nổi) ngôi vua Lê vì chưa thể có cơ hội và cách thức gì khẳng định mình có được tính chính đáng của ngôi vị. Chính với ý nghĩa ấy, mà sự tồn tại của ngôi vua Lê mới trở thành “điều kiện cần”, cung cấp tính hợp thức, hợp “đạo lý” cho sự điều hành chính trị của phủ chúa Trịnh. Cũng chắc chắn rằng, sự tồn tại của ngôi vị vua Lê đã khiến tham vọng của các chúa Nguyễn Đàng Trong, kể cả những thời điểm “thịnh trị” nhất của chính quyền này, trở nên dè dặt. Vào giữa thế kỷ XVII, chúa Nguyễn đã mở rộng “cơ đồ” lên gấp nhiều lần so với hai trấn Thuận Quảng truớc đó. Từ năm 1657 trở về sau các danh sĩ Bắc Hà dần dà quy phụ chúa Nguyễn ngày càng đông (nói chung trong khoảng thời gian 200 năm được coi là cát cứ , kẻ sĩ “ra Bắc vào Nam”, thay thầy đổi chủ là hiện tượng phổ biến, nhưng dòng chảy Nam tiến mạnh mẽ hơn chiều ngược lại).Vào năm 1816, chúa Nguyễn Phúc Chu thấy tiềm lực đã mạnh, đã dự tính đến việc mang quân “Bắc phạt”.Vậy mà vào giữa thế kỷ XVIII, Nguyễn Phúc Khoát dù đã chính thức dùng đến vương hiệu, đổichính dinh làm đô thành, với các thuộc quốc xưng là Thiên vương, thì trong văn thư vẫn dùng niên hiệu và quốc hiệu nhà Lê, không định tên nước riêng, các vương tử vẫn xưng là công tử. Chỉ xét riêng trong quan hệ với các chúa Nguyễn không thôi, nếu các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài cướp ngôi của vua Lê, chắc chắn các chúa Nguyễn đã hành động khác, và vì thế, cục diện quốc gia đã biến đổi theo hướng khác.
Dù có lập ra lục phiên để cướp chức năng của lục bộ, chọn hết người có năng lực đưa sang phủ liêu để vô hiệu hoá triều đình, bộ máy quyền lực ở phủ chúa xét trên toàn thể vẫn không thành một kết cấu hoàn chỉnh. Thực tế thật mỉa mai: phong độ đế vương được coi là lý tưởng, điển hình lại là thứ phong độ mà phần nào được Lê Hiển Tông “thật thà” nói ra: “Chúa chịu điều lo, ta hưởng cái vui”. Bậc chân chúa, theo đúng cách hình dung của Nho giáo chính thống, một khi “thiên hạ” đạt tới cảnh thái bình, chỉ việc “rủ áo quay mặt về phương Nam” (chính Nam diện) để cho mọi kẻ dưới lai kinh triều yết, “như Bắc thần ở nguyên một chỗ khiến các sao khác cứ thế mà chầu về”. Các chúa Trịnh, chỉ tính các vị chúa có thực quyền và được coi là có năng lực chính trị, tất cả lại đều tự thể hiện mình là những người đầy đủ khả năng chấp chính, mà không ai đạt tới được hoặc tự cho phép mình thể hiện ra là có phong độ “an nhiên tự tại” kiểu “đế cách” như Nho giáo vẫn hình dung. Khác với quy chế của các triều đại theo Nho giáo điển hình, là các triều đại thực hành “hồi tỵ chế” nghiêm ngặt (không đưa nhiều người thuộc hoàng tộc tham dự triều chính, dù tước vị vẫn cao nhất, bổng lộc vẫn hậu nhất, thân phận đương nhiên vẫn ngất ngưởng trùm đời), họ Trịnh tuy đã đành luỹ thế dự phần chung đỉnh, gia tộc tràn ngập công khanh, rốt cuộc vẫn chủ yếu đảm đương phần việc duy trì sức mạnh bạo lực cho cái cơ cấu quyền lực kép đó, mà không thể trở thành nổi một triều đình thực thụ. Nói khác đi, phủ chúa tự thể hiện ra chủ yếu với tư cách là bộ phận chuyên chế quân phiệt trong một cấu trúc tổng thể lớn hơn là một nhà nước chuyên chế quan liêu - dẫu có biến dạng ít nhiều song về cơ bản vẫn là nhà nước chuyên chế kiểu Nho giáo. Chính từ quyền lực của phủ chúa, mà người nghiên cứu dễ dàng quan sát thấy những thành phần tư tưởng và kỹ năng cai trị kiểu Pháp gia trong một lối kết hợp kiểu “Nho Pháp tỉnh dụng” vốn là công thức cai trị kinh điển của các triều đại Nho giáo từ Hán Vũ đế trở đi trong lịch sử Trung Quốc.
Không phải là họ Trịnh không có người làm quan văn, nhưng số lượng người xuất sinh từ gia tộc này đảm nhiệm các vị trí quan trọng thuộc hàng “văn giai” rất thưa thớt, thậm chí là tính đếm được khá dễ dàng. Tuyệt đại đa số công khanh của họ Trịnh là võ quan, hầu như các vị trí quan trọng nhất của “võ ban” đều do người của họ Trịnh chiếm giữ. Ngay trong tước vị mà các chúa Trịnh lựa chọn để gắn với tên tuổi mình qua sự chuẩn y hình thức của các vua Lê, thì (có ngẫu nhiên chăng?) chưa bao giờ thiếu vắng các từ ngữ thể hiện quyền năng là người “đứng đầu mọi lực lượng vũ trang”, phải luôn luôn gắn chặt với vị trí tổng tư lệnh quân đội.Trong vài thế kỷ, người trong thân tộc các chúa Trịnh luôn luôn là người đứng đầu bộ máy quyền lực của tứ (nội) trấn cũng như của vùng đất thang mộc là Thanh Hoá.
Bởi phải thường xuyên chăm chút cho những công việc võ bị, họ Trịnh trên thực tế đã không quán xuyến được nhiều công việc đáp ứng khuôn thước của một xã hội Nho giáo nhấn mạnh đòi hỏi cuối cùng phải là “đức trị”, “văn trị”.Không phải là ngẫu nhiên khi thế kỷ XVII lại vắng vẻ đến thế tên tuổi các bậc danh nho trong lịch sử văn hoá, văn học Việt Nam, mà giữa những tên tuổi được coi là đáng kể còn lưu lại, danh tính của các tác giả thuộc Đàng Trong lại cơ hồ nổi bật hơn, dù cho mãi tới các thế kỷ sau, sĩ phu Bắc Hà vẫn được coi là đại diện của nền học vấn và khoa cử Việt Nam.Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ, Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn đều nhấn mạnh sự thối nát của khoa cử và giáo dục từ thời Lê Trung hưng cho tới nửa sau thế kỷ XVIII . Ngay con trai của Lê Quý Đôn là Lê Quý Kiệt cũng học vấn sơ sài, tư cách hèn kém, thuê người thi hộ, gây họa cho toàn bộ các khảo quan lẫn đề điệu. Bản thân Lê Quý Kiệt bị lột hết danh hiệu, bị trả về quê “hoàn dân thụ dịch, chung thân bất đắc ứng thí”. Sử chép: “Quý Kiệt, con Quý Đôn. Kỳ đệ tứ khoa này (Ất Mùi 1775), Quý Kiệt cùng Đinh (Thì) Trung đổi quyển cho nhau để làm bài. Việc bị lộ, Đinh (Thì) Trung phải tội lưu đi Yên Quảng, Quý Kiệt phải trở về làm dân. Đinh (Thì) Trung nhân phát giác bức thư riêng của Quý Kiệt và cáo tố là do Quý Đôn chủ sự. Trịnh Sâm lấy cớ Quý Đôn là bậc đại thần, bỏ đi không xét, mà luận thêm tội Quý Kiệt, bắt giam cầm ở ngục cửa Đông” (Khâm định… Sđd. T.2. tr.724 – 725).Con trai của một người được coi là nhà bác học xuất sắc nhất trong lịch sử thời quân chủ Việt Nam, cùng bản thân nhà bác học ấy, với gia thế là vọng tộc nối đời, mà còn như thế, nói gì đến người khác!
Nhưng nếu phần đông các võ tướng thời Lê - Trịnh đều “nương thân tướng phủ”, đều là thần hạ trung thành của các chúa Trịnh, thì bên phía văn thần, tình hình lại không hoàn toàn giản dị. Thấm nhuần sâu sắc, chí ít là sâu sắc hơn các võ tướng, những nguyên lý tinh thần của nền chính trị Nho giáo, khá nhiều văn thần đã thể hiện lòng trung nghĩa không phải với vương vị của các chúa Trịnh mà là với ngai vàng của các vua Lê. Cuối năm Giáp Ngọ (1774) tưởng rằng cơ hội phế bỏ nhà Lê đã chín muồi (quân đội Bắc Hà do Hoàng Ngũ Phúc đứng đầu đã vượt sông Gianh, tiến chiếm được đô thành các chúa Nguyễn là Phú Xuân, đuổi gia tộc này chạy dạt vào tận Nam Bộ), Trịnh Sâm sai một văn thần là Vũ Trần Thiệu mang biểu văn sang nhà Thanh xin loại bỏ vua Lê,phong tước hiệu Quốc vương cho mình. Nghi ngờ động cơ thực của chúa khi cử mình đi sứ (bởi lý do hình thức của chuyến đi chỉ là việc tiến cống theo thông lệ), Vũ Trần Thiệu đã mở niêm phong xem tờ biểu. Biết rõ sự tình, ông đốt bỏ nó rồi uống thuốc độc tự tử. Chuyến đi sứ bất thành mà tham vọng của Trịnh Sâm cũng theo đó bất thành.
Nho giáo là học thuyết tuyệt đối hoá ngôi vua, các bậc thánh nhân Nho gia khởi đầu từ Khổng Tử giáo huấn và truyền đến muôn đời cho môn đồ nguyên lý “tôn quân thân thượng”, luôn luôn chỉ được tự coi mình xa lắm là làm đến công hầu khanh tướng, giỏi giang lắm là làm người “tả phù hữu bật”, “thượng trí quânhạ trạch dân”, coi bất cứ hành vi nào đụng chạm đến ngôi báu đều là đại nghịch bất đạo, đáng bị khép vào những hình phạt khủng khiếp nhất, quyết liệt nhất mà không đáng được một mảy may tha thứ hay thương tiếc.Nho giáo lại cũng là học thuyết chủ trương một nền nhân chính (chính trị nhân đức), coi việc binh, việc hình, việc thảo phạt chinh tru đều là “tòng quyền”, là điều miễn cưỡng, “thánh nhân bất đắc dĩ phải dùng”. Triều đình Nho giáo hoá mạnh mẽ là triều đình trọng văn hơn võ, tuy cũng hiểu rằng duy trì sức mạnh bạo lực là điều kiện tối thiểu cho sự tồn tại của bất cứ một triều đại nào, bất cứ loại chính quyền nào. Tinh thần ấy thấm sâu vào tiềm thức của mọi nhà nho xuất chính, vi chính, đến mức mà về sau, một người văn võ kiêm toàn, từng làm một vị Nho tướng thực hiện việc “thảo phạt” khắp mọi miền đất nước, giành thắng lợi trong vài chục cuộc chiến lớn nhỏ như Nguyễn Công Trứ, mà khi “Luận kẻ sĩ” cũng ào ạt tuôn ra rằng:
Văn dìu cánh phượng yên trăm họ
Võ thét oai hùm dẹp bốn phương
Gặp hội thái bình văn trước võ
Võ nào dám sánh khách văn chương
Tính tất yếu của quyền lực của các chúa Trịnh không nằm trong việc khai triển, thực thi các nguyên lý “hành chính” của Nho giáo. Theo cách hình dung cá nhân, tôi cho rằng quyền lực đó chỉ tất yếu khi nó đáp ứng (dù một cách không trọn vẹn) một nhu cầu của sự phát triển hiện thực của lịch sử Việt Nam, đó là nhu cầu loại bỏ mọi thế lực cát cứ, phân tán, mọi biểu hiện của “chủ nghĩa địa phương”, cũng tức là loại bỏ mọi tham vọng của những cá nhân mơ một sự nghiệp “xưng bá đồ vương”, “anh hùng nhất khoảnh”, loại bỏ thứ triết lý thiển cận “rừng nào hổ nấy”, phục vụ cho sự thống nhất quốc gia, sự toàn vẹn của dân tộc - điều tối cần thiết để có thể tồn tại được bên cạnh một “thiên triều” tuy đã là một (những) đế chế khổng lồ, nhưng chưa bao giờ nguôi tinh thần “hiếu đại tham công”, cái hứng thú được “tám phương triều cận”. Trong lịch sử Việt Nam, cục diện “loạn thế” diễn ra, trừ khi có ngoại xâm, thì chỉ có thể là khi không tồn tại một chính quyền trung ương đủ mạnh với những biện pháp, phương thức cai trị uyển chuyển thích hợp. Nhưng cắc cớ vẫn hoàn cắc cớ: chính sự tồn tại của một thứ quyền lực thế tập bên cạnh và thường xuyên lấn lướt ngôi vua của nhà chúa đã là nguyên nhân, nguồn động lực cho những ai nảy sinh và trì dưỡng thứ tham vọng “ Nghênh ngang một cõi biên thuỳ. Thiếu gì cô quả thiếu gì bá vương.”. Chính sự tồn tại của ngôi chúa đã kích thích sự xuất hiện của vô số các cuộc nổi loạn của “anh hùng hào kiệt bốn phương”, rồi chính các chúa Trịnh, vì sự yên nguy của cả chính mình, của vương phủ mình, chứ không chỉ vì sự yên nguy của ngôi vua hay của sơn hà xã tắc, phải dốc sức dốc lòng “phù nghiêng đỡ lệch”, tự mình làm anh hùng thời loạn rồi cũng tự mình phải trở thành “anh hùng bát loạn”.
III.- NHỮNG HỆ QUẢ ĐA CHIỀU:
Ở trên phần nào đã sơ bộ trình bày một số hệ quả dễ thấy nhất mà cái cơ chế lưỡng đầu Lê - Trịnh đã mang vào cho lịch sử quốc gia – dân tộc.Nhìn toàn cục, cơ chế quyền lực kép thời Lê - Trịnh đã tác động một cách đa chiều đối với sự phát triển của lịch sử Việt Nam, cả khi cơ chế đó đang tồn tại, cả khi nó không còn tồn tại nữa.
Trước hết, cơ chế này đã làm phức tạp hoá, và vì thế làm dai dẳng thêm cuộc nội chiến Lê -Mạc.Tôi không bàn ở đây về tính chính đáng của vương triều Mạc, mà chỉ đơn giản trình bày một nhận thức rằng nếu triều đình Lê Trung hưng - như các triều đại lớn trong lịch sử Trung Quốc (chẳng hạn các triều đại Hán, Đường, và cả Tống, Minh nữa) từng phải trải qua những lần trùng hưng,vẫn là thế - được phát động và duy trì bởi một nhóm chứ không phải một người đóng vai trò then chốt quá lâu (dẫn đến sự lộng quyền, rồi đến những âm mưu phế lập, cao hơn nữa, là tham vọng thay thế), thì sự lớn lên nhanh chóng của cái triều đình kháng chiến này là điều có thể dễ dàng hình dung được. Cần chỉ rõ rằng, suốt trong mấy thập kỷ nội chiến Lê - Mạc (nội chiến Nam - Bắc triều) tính chính đáng của quyền lực tối cao ở cả hai phía đều liên tục gây nên sự phân tâm, phân thân của rất nhiều “yếu nhân”.Lê Bá Ly, Nguyễn Thiến, Nguyễn Khải Khang…, hàng loạt trọng thần, thậm chí tể thần, trạng nguyên của nhà Mạc đã dễ dàng, vì những nguyên cớ trực tiếp có khi dường như không đâu, quy hàng Lê - Trịnh. Nhưng theo chiều ngược lại, không ít những “nhân vật cộm cán” từ phía Lê - Trịnh cũng đã quy thuận và được nhà Mạc trọng dụng thực lòng. Điển hình nhất trong số này chính là trường hợp Trịnh Cối, anh ruột Trịnh Tùng. Bị chính em ruột mình (Trịnh Tùng) bức hại bởi mục tiêu cướp binh quyền liền ngay sau cái chết của Trịnh Kiểm, Trịnh Cối “không còn đường nào khác” bèn mang theo cả quân, tướng bản bộ, cả mẹ, cả vợ con đầu hàng nhà Mạc. Và nhà Mạc đã “thành thực” dùng Trịnh Cối trong bộ máy của mình. Khi Trịnh Cối chết, nhà Mạc không chỉ trả lại cho phía Lê Trịnh linh cữu của ông này để mai tang đúng bản quán, còn “siêu lịch sự” trả kèm toàn bộ gia quyến, kể cả mẹ Trịnh Cối- cũng tức mẹ Trịnh Tùng, cũng tức con gái Nguyễn Kim, chị ruột của Nguyễn Hoàng, vợ Trịnh Kiểm, tổ mẫu của dòng chúa Trịnh.Không phải đợi đến mãi sau này, vào năm 1738, khi theo Lê Duy Mật (dòng tôn thất nhà Lê) chống sự chuyên quyền của họ Trịnh, bị Trịnh bắt, văn thần Phạm Công Thế (giữ chức Đông Các hiệu thư) gặp câu cật vấn rằng “Nhà ngươi là người trong khoa giáp làm sao lại đi theo bọn phản nghịch” đã đưa ra một câu trả lời “thấm đẫm tinh thần thời đại”( “Công Thế cười nói: “Danh phận không sáng tỏ đã lâu rồi, còn phân biệt thế nào là thuận với nghịch được nữa?”. Rồi, vươn cổ chịu chém., không một chút nào khuất phục nao núng”. Khâm định… Sđd. T.2, tr. 501) thì vấn đề “tính chính thống” mới thành câu hỏi lớn, mà ngay từ thời điểm giữa cuộc chiến Lê - Mạc ấy, những trăn trở về đòi hỏi chính danh - định phận đã khiến hầu hết những người trong cuộc, kể cả những kẻ ngự tận thượng đỉnh quyền lực, trở nên khó ăn nói, khó lòng hành xử một bề. Loại người hành xử như Nguyễn Quyện “sáng Mạc, chiều Lê, tối lại Mạc” không phải là hiếm, cũng không hoàn toàn đáng bị coi là loại người bất nghĩa tráo trở, “vô nguyên tắc”. Loại người khi theo, khi phản, khi ngoài cuộc, khi vỗ tay vào, thực bụng quy thuận hay trá hàng…nảy nòi thật đông nhưng rất khó phân định hư thực hay xấu, tốt.Chính bởi thế mà Nguyễn Kim phải chịu chết chỉ bởi miếng dưa hấu mùa hè từ tay một (trá) hàng tướng nhà Mạc “kính dâng lên chủ suý”. Một trong những người tâm phúc “bàn định kế sách lâu dài”với Nguyễn Hoàng mấy ai ngờ lại là Mạc Cảnh Huống, một người thuộc tôn thất nhà Mạc, không rõ bởi lý do gì đã rời bỏ vương triều này từ sớm, để rồi “toàn tâm toàn ý” phụng sự chúa Tiên, người lúc bấy giờ chỉ mới đang manh nha những ý đồ gây dựng “đại nghiệp”.
Một trong những nhân vật nổi tiếng bậc nhất sống vào thời điểm “vọng động can qua” Lê - Mạc ấy là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Từng có rất nhiều ý kiến, công trình nghiên cứu, phẩm bình về nhân vật lịch sử này, nhưng thuỷ chung, lời giải đáp rốt ráo về lập trường chính trị - xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn cần được coi là thiếu vắng.Là một trong những vị trạng nguyên nổi danh vào bậc nhất mà nhà Mạc đã lấy đỗ, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng từng xuất chính với nhà Mạc mấy đợt, quan hàm thực từng giữ lên tới Thị lang, chưa nói rằng khi mất lại được chính vua Mạc tế lễ, vinh phong tước Trình Quốc công, quan hàm Tể tướng, khiến dân sở tại (Vĩnh Lại) thờ làm phúc thần. Theo lẽ thường, thì Nguyễn Bỉnh Khiêm phải “sống làm tôi nhà Mạc, chết làm thần (hay ma) nhà Mạc” mới phải. Vậy nhưng kết hợp tài liệu của cả chính sử lẫn dã sử lại mà soi, Nguyễn Bỉnh Khiêm dường như lại vừa là “trọng tài giám sát” cho tất cả các trận đấu quyền lực, lại vừa tham dự một cách không hề vô tư vào các diễn biến và có tác động trực tiếp đến (những) kết quả cuối cùng.Với nhà Mạc, thì ngón tay trỏ “Cao Bằng tuy thiểu khả dung sổ thế” đã biến vương triều này thành một “sứ quân” cát cứ, truyền tiếp thêm 7 đời sau. Với họ Nguyễn, thì hầu như ai cũng biết tới lời mách nước lẫy lừng của Trạng Trình “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” đã thực sự là khởi đầu cho một dòng chúa, một triều vua, tuy có đứt gãy bầm dập, nhưng vẫn có thể tính dấu ấn lịch sử của dòng họ quyền lực này từ 1533 đến tận 1945!Với Lê - Trịnh thì khỏi nói, bởi ông chính là người đưa ra lời khuyên chúa Trịnh (Kiểm) hãy đừng “thanh lý” ngôi vua, cứ “thờ Phật mà ăn oản”, cả khi “mùa mất, giống xấu” thì hãy biết “tìm giống cũ mà gieo”. Vậy là đẻ ra cái “lưỡng đầu chế” không tiền khoáng hậu trong lịch sử, tồn tại hai trăm năm có lẻ. Không thể nói Nguyễn Bỉnh Khiêm “vô can” trước cảnh “năm bè bảy cánh” của cục diện chính trị Việt Nam ít nhất hàng thế kỷ tiếp theo đó.
Hệ quả lớn thứ hai do cái cơ chế lưỡng đầu này trực tiếp gây ra, là việc xuất hiện thế lực các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, dẫn đến việc chia cắt đắt nước, cũng kéo dài ngót hai thế kỷ. Hệ qủa này thực sự phức tạp, không thể chỉ xem xét một chiều là tốt hay xấu. Có lẽ, trong trường hợp này, cần đến một cái nhìn Lão Trang mới thấu triệt mọi lẽ: Hoạ là điểm khởi đầu của phúc, phúc là nơi ẩn nấp của hoạ.
Hệ quả lớn thứ ba của lưỡng đầu chế Lê Trịnh, như phần trên ít nhiều đã nghị bàn, là sự xuất hiện liên miên không dứt của những cuộc nổi loạn “trên mọi miền Tổ quốc”. Cả một thời kỳ dài trước đây, giới sử học định danh cho phần lớn những cuộc nổi loạn này là “khởi nghĩa nông dân”, gắn cho chúng những ý nghĩa to tát về đấu tranh giai cấp, thậm chí là cách mạng xã hội. Chúng tôi cũng chưa có điều kiện bàn sâu về loại hiện tượng này ở đây, chỉ xin nêu ngắn gọn rằng thật khó mà chia sẻ cái lịch sử quan đó, bởi phần lớn những cuộc “khởi nghĩa” này đều có quá trình hình thành rất giống với sự hình thành của những ổ nhóm tội phạm trong mọi thời đại, con đường chung mà các thủ lĩnh của các tập hợp này trải qua - nếu họ may mắn tiến xa được trên quỹ đạo đó - là từ đại ca thành đại vương, và cục diện phổ biến mà họ tạo ra chính là thứ mà sử gia xưa gọi là “loạn thế”, sử gia nay gọi là “thế kỷ bão táp của khởi nghĩa nông dân”. Rất cần có những cuộc thảo luận khoa học nghiêm túc trở lại đối với chủ đề hết sức nhạy cảm này.
Thực tế lưỡng đầu chế thời Lê Trịnh để lại hệ quả đa dạng và phức tạp trên hầu hết các lĩnh vực khác nhau của tồn tại xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, giáo dục, cả trong sinh hoạt vật chất lẫn đời sống tinh thần. Thực tế đó gây biến động, xáo trộn và đổi thay trong nhiều mối quan hệ giữa các tộc người trong khối cộng đồng cư dân nước Việt, trong cả các quan hệ đối ngoại với các quốc gia và cộng đồng dân cư láng giềng. Những hệ quả đó cũng không khó quan sát thấy trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo lẫn trong những bước chuyển khó quan sát hơn như quỹ đạo vận hành của lịch sử quốc gia dân tộc.Chắc chắn rằng cần có những công trình nghiên cứu có quy mô để làm sáng tỏ thêm những “công án” này.



TÓM TẮT:
         Nho giáo về mặt hệ tư tưởng chính trị - xã hội vốn là một học thuyết chủ trương một loại chế độ đại thống nhất, đại tập trung. Ngôi vua với tư cách là biểu tượng cho một quyền lực quân chủ tối cao, thiêng liêng, đại diện duy nhất và tuyệt đối cho ý chí của trời, theo quan niệm của Nho giáo ở một thời điểm nhất định bao giờ cũng chỉ dành cho một người, dù đại diện cho một dòng họ, nhưng không bao giờ được phân lập hay chia sẻ. Tất cả các quốc gia, các chính thể tuyên bố lấy Nho giáo làm học thuyết cai trị đều luôn luôn coi đó là một tín điều không thể thay đổi hay điều chỉnh.
         Nhưng thực tế lịch sử Việt Nam ở các thế kỷ XVI – XVIII đã tồn tại một bộ máy quyền lực mà ở cấp cao nhất có hai nhánh, đó là loại thiết chế vừa có vua lại vừa có chúa.
         Thiết chế nhà nước Lê - Trịnh là một loại hiện tượng lịch sử đặc thù, về nguyên tắc hàm chứa nhiều mâu thuẫn với những nguyên lý lý thuyết về quyền lực của Nho giáo. Nhưng chính thiết chế ấy lại vẫn tuyên bố rằng chính nólà sự hiện diện tuân theo đạo lý thánh hiền! Cơ chế lưỡng phân của quyền lực tối cao này đã đưa lại những tác động to lớn, phức tạp và lâu dài trong lịch sử Việt Nam.
         Điều đáng ngạc nhiên là cho tới nay vẫn chưa xuất hiện một công trình nghiên cứu cơ bản thuộc bất cứ lĩnh vực nào của khoa học xã hội nghiên cứu chuyên sâu về hiện tượng đó. Bài viết này hy vọng sẽ là sự khởi đầu, chủ yếu nghiên cứu hiện tượng lưỡng đầu chế đó ở Việt Nam trên bình diện lịch sử tư tưởng .
         Bài viết gồm 3 phần:
         1.- Quá trình xuất hiện cơ chế lưỡng đầu về quyền lực chính trị ở Việt Nam các thế kỷ XVI – XVII.
         2.- Lưỡng đầu chế Lê - Trịnh trong sự quy chiếu với lý luận về quyền lực chính trịcủa Nho giáo.
         3.- Những hệ quả đa chiều mà cơ chế lưỡng đầu Lê - Trịnh gây nên trong lịch sử Việt Nam (giới hạn việc khảo sát trong các thế kỷ XVI – XVII – XVIII).


Thời Lê Trung Hưng - thời kỳ phân tranh (1533-1789) tồn tại trong 256 năm với diễn biến như sau: Nam triều - Bắc triều Trịnh - Nguyễn phân tranh 

Nam triều - Bắc triều: 
Ðến đầu thập lục thế kỷ, bởi vì vua nhà Lê hoang dâm vô độ, bỏ việc triều chính đổ nát, cho nên trong nước loạn lạc, nhà Mạc nhân dịp này đoạt ngôi. Nhà Lê tuy đã mất ngôi, nhưng lòng người còn tưởng nhớ đến công đức của vua Thái Tổ và vua Thánh Tông, cho nên lại theo phò con cháu nhà Lê ở phía nam, lập ra triều đình riêng ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An, để chống lại nhà Mạc. Đất nước chia ra thành hai miền: Nam triều và Bắc triều; hai bên đánh nhau trong năm sáu mươi năm trời.


♦ Lê Trang Tông (1533-1548): 

Niên hiệu: Nguyên Hoà.
Năm năm sau, kể từ ngày bị Mạc Ðăng Dung giành ngôi vua, đến năm Quý Tỵ (1533), nhà Lê lại được dựng lên, mặc dù vua ở đất Lào nhưng đã có niên hiệu, các nhà chép sử gọi đó là thời Lê Trung Hưng.

Lê Trang Tông, huý Ninh, lại có tên nữa là Huyền, là con của Chiêu Tông, cháu ba đời của Thánh Tông. Mẹ là Phạm Thị Ngọc Quỳnh, người sách Cao Trì, huyện Thuỵ Nguyên (nay là Ngọc Lạc, Thanh Hoá). Khi Ðăng Dung bức Chiêu Tông về kinh thì Duy Ninh chạy về Thanh Hoá, mới 11 tuổi, Lê Quán ẵm chạy sang Ai Lao đổi tên là Huyền. Lúc đó tướng cũ là Chiêu Huân công Nguyễn Kim mật mưu khôi phục, sai Trịnh Duy Thuần cùng Trịnh Duy Sản triệu tập thần dân cũ, đón Duy Ninh lập nên làm vua, bấy giờ 19 tuổi.

Năm Quý Tỵ (1533), tháng Giêng, Duy Ninh lên ngôi ở đất Ai Lao, đặt niên hiệu là Nguyên Hoà, tôn đại tướng quân Nguyễn Kim làm Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công chưởng nội ngoại sự, lấy hoạn quan là Ðinh Công làm thiếu uý hưng Quốc công... lấy trại Sầm Hạ làm nơi hành tại, giao kết với vua Ai Lao là Sạ Ðẩu để nhờ vả quân, lương mưu việc lấy lại nước, sai Trịnh Duy Liêu sang Minh tâu tố Ðăng Dung tiếm loạn, chiếm giữ kinh thành, ngăn trở đường tiến công. Nhà Minh sai Hàm Ninh hầu Cừu Loan làm Tổng đốc quan vụ, Binh bộ thượng thư Mao Bá Ôn làm Tham tán quân vụ, đem quân đánh Mạc.

Tháng 12 năm Canh Tý (1540), Nguyễn Kim kéo quân từ Ai Lao về nước đánh Nghệ An, nhiều hào kiệt theo về giúp Trung Hưng. Cuối năm Quý Mão (1543), nhà Lê chiếm được Tây Kinh, tướng Dương Chấp Nhất của nhà Mạc phải đầu hàng. Từ đó trong nước dần dần hình thành hai miền chịu sự khống chế của hai lực lượng đối lập: Thanh Hoá, Nghệ An trở vào thuộc vua Lê dưới sự giúp đỡ của các tướng họ Nguyễn rồi họ Trịnh (Nam Triều), vùng Bắc Bộ trong đó có cả kinh thành thuộc quyền Mạc (gọi là Bắc Triều). Từ đó bắt đầu một cuộc nội chiến tàn khốc kéo dài gần 50 năm (1545-1592) gọi là nội chiến Nam-Bắc triều. Năm Quý Tỵ (1545), Nguyễn Kim đem quân tiến đánh Sơn Nam, đến huyện Yên Mô thì bị hàng tướng của Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc giết chết. Con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm nắm giữ binh quyền, tiếp tục sự nghiệp tranh chấp với nhà Mạc. Từ đó họ Trịnh thế tập nắm giữ binh quyền, mở đầu thời kỳ “Vua Lê chúa Trịnh” sau này... Trịnh Kiểm có toàn quyền định đoạt việc quân ở ngoài cũng như việc nội triều, tất thẩy đều tự quyết sau mới tâu với vua.

Năm Bính Ngọ (1546), Trịnh Kiểm lập hành tại vua Lê ở Vạn Lại (Thọ Xuân, Thanh Hoá). Lấy danh nghĩa phù Lê diệt Mạc, nhiều hào kiệt, danh sĩ đương thời lại tìm vào Thanh Hoá như Lương Ðắc Bằng, Phùng Khắc Khoan.

Năm Mậu Thân (1548), Lê Duy Ninh mất, thọ 34 tuổi, ở ngôi 16 năm, quần thần dâng tên hiệu Lê Trang Tông, Trịnh Kiểm cho lập Thái tử là Duy Huyền lên nối ngôi.

 ♦ Lê Trung Tông (1548-1556): 
 

Niên hiệu: Thuận Bình.
Tên thật là Huyên con lớn của Lê Trang Tông. Tính tình khoan rộng, thông suốt, có mưu lược đế vương. Năm 1548 Trang Tông mất, Huyên được lập lên nối ngôi khi mới 15 tuổi, lấy hiệu là Trung Tông. Công việc trong triều đều giao cho Lượng quốc công Trịnh Kiểm quyết định. Năm Quý Sửu (1553) vua dời hành tại đến xã Yên Trường (trên tả ngạn sông Chu, thuộc Thọ Xuân Thanh Hoá), bản doanh của Trịnh Kiểm, năm sau, Giáp Dần (1554), lại dời đến xã Biện Thượng (tức Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc, trên sông Mã) là nơi Trịnh Kiểm ở với mẹ khi còn nhỏ. Cũng từ năm đó nhà Lê bắt đầu đặt chế khoa để chọn nhân tài, kỳ thi năm Giáp Dần (1554) lấy đỗ 5 đệ nhất giáp chế khoa xuất thân và 8 người đệ nhị giáp đồng chế khoa xuất thân. Vì quan niệm nhà Lê là chính thống, lúc đó nhiều nhà Nho dự thi và làm quan với nhà Lê như Ðinh Bạt Tuy, Chu Quan Trú... Nhà Lê cũng thu hút được một số tướng giỏi như Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang, Nguyễn Thiến, Lê Khắc Thận... bỏ nhà Mạc vào phò giúp, nên thế lực ngày càng mạnh.

Tháng Giêng năm Bính Thìn (1556) vua băng hà khi mới 22 tuổi, không có con nối, Trịnh Kiểm cùng với các đại thần sai người tìm con cháu họ Lê lập nên.

 ♦ Lê Anh Tông (1556-1573): 


Niên hiệu:
- Thiên Hữu (1557);
- Chính Trị (1558-1571);
- Hồng Phúc (1572-1573).

Lê Anh Tông tên huý là Duy Bang, là dòng dõi nhà Lê. Trước đó, anh thứ hai của Lê Thái Tổ tên là Trừ, Trừ sinh ra Khang, Khang Sinh ra Thọ, Thọ sinh ra Duy Thiệu, Duy Thiệu sinh ra Duy Khoáng, Duy Khoáng lấy vợ người hương Bố Vệ huyện Ðông Sơn sinh ra Duy Bang. Khi Lê Trung Tông mất, không có con nối ngôi, Thái sư Trịnh Kiểm cùng các đại thần tìm được Duy Bang đang sống ở hương Bố Vệ (Phía Nam thành phố Thanh Hoá), đón về lập làm vua, khi đó ông đã 25 tuổi.

Khi Trịnh Kiểm còn sống, mọi quyền hành trong triều đều do Trịnh Kiểm quyết định, vua chỉ việc nghe theo. Các trận đánh lớn với quân Mạc đều do Trịnh Kiểm chia quân điều khiển. Ngay cả khi Lê Duy Hàn em vua ngầm có ý khác lẻn vào trong cung lấy trộm ấn báu, bị vua bắt, vua xá tội cho, đến khi Duy Hàn phạm tội giết người, vua cũng giao cho Thái sư Trịnh Kiểm toàn quyền xét xử.

Tháng 2 năm Canh Ngọ (1570), Trịnh Kiểm ốm nặng rồi mất. Anh em Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh giành nhau quyền bính. Lúc này tình hình nhà Lê bị chia rẽ và suy yếu. Nhưng vua Lê Anh Tông đã trực tiếp điều hành, dàn xếp các mâu thuẫn này. Các tướng nhà Lê như Lê Cập Ðệ cũng tỏ ra có năng lực và lập được nhiều chiến công, chính bản thân Lê Anh Tông cũng nhiều lần cầm quân ra trận. Mặc dù Lê Anh Tông vẫn tín nhiệm và trao quyền hành cao nhất cho Trịnh Tùng tước Trưởng quận công nắm giữ binh quyền nhưng nhiều lần vua vẫn tự làm đô tướng thống đốc đại binh đem quân cùng Trịnh Tùng ra đánh nhà Mạc ở phía Bắc. Quan hệ giữa vua và chúa có phần hoà thuận, song tháng 3 năm Nhâm Thân (1572), Lê Cập Ðệ nhằm có ý khác, rủ Trịnh Tùng đi thuyền ra giữa sông mưu giết, Trịnh Tùng biết được, nên việc không xong. Từ đấy hai nhà thù oán nhau, bên ngoài giả cách hiệp sức với nhau để đánh Mạc, bên trong đều ngó nhau, đề phòng thích khách. Sau đó Trịnh Tùng lập mưu giết Lê Cập Ðệ. Một số quần thần như Cảnh Hấp và Ðình Ngạn nói với vua rằng: Tả tướng nắm binh quyền to như vậy, bệ hạ khó lòng đứng được. Vua nghe nói thế vừa sợ, vừa ngờ, bèn ban đêm chạy ra ngoài cùng bốn hoàng tử đóng ở thành Nghệ An. Trịnh Tùng cùng với bề tôi lập con thứ 5 của vua Anh Tông là Duy Ðàm lên ngôi và sai Nguyễn Hữu Liên đi đón vua cũ. Khi về đến Lôi Dương (Thanh Hoá), Anh Tông bị giết chết.

Như vậy Lê Duy Bang ở ngôi 16 năm, thọ 42 tuổi, đặt niên hiệu 3 lần: Thiên Hựu (1557), Chính Trị (1558-1571) và Hồng Phúc (1572-1573).

 ♦ Lê Thế Tông (1573-1599): 
 
Niên hiệu:
- Gia Thái (1573-1577);
- Quang Hưng (1578-1599).

Vua Anh Tông có 5 người con trai, bốn người anh đã chạy cùng vua cha vào Nghệ An, còn lại Duy Ðàm là con trai thứ 5, sinh tháng 11 năm Ðinh Mão (1567), được nuôi ở xã Quảng Thị huyện Thuỵ Nguyên. Khi Anh Tông chạy ra ngoài, Duy Ðàm còn thơ ấu không đi theo được. Tả tướng Trịnh Tùng lập lên nối ngôi, mới 7 tuổi. Trịnh Tùng cho tìm danh nho vào dạy học cho vua, vua học ngày càng tấn tới, hiểu biết rộng cả việc trong sách vở và việc ngoài đời.

Tháng 8 năm Canh Thìn (1578), vua cho khôi phục lệ thi Hội để lựa chọn nhân tài, cho Nguyễn Văn Giai và 3 người nữa đỗ tiến sĩ xuất thân, Lê Quang Hoa và một người nữa đỗ đông tiến sĩ xuất thân.

Sau gần 50 năm chiến tranh Nam Bắc triều, với trên 38 trận đánh lớn nhỏ, hàng vạn dân lành bị sung lính và bị đẩy vào các cuộc tàn sát khủng khiếp. Có những trận mỗi bên quân số lên đến 10 vạn người. Hai bên giằng co khá quyết liệt. Ðến năm Tân Mão (1591), tiết chế Trịnh Tùng mở một cuộc hành binh lớn đánh trận quyết định ở Ðông Kinh, bắt được Mạc Mậu Hợp, chiếm lại được kinh thành. Tháng 2 năm Quý Tỵ (1593), sau khi sửa sang lại được kinh thành, cung điện, Trịnh Tùng cho đón vua Lê từ hành cung Vạn lại (Thanh Hoá) ra kinh thành Thăng Long (Ðông Kinh). Ngày 16 tháng 4 năm Quý Tỵ (1593) vua lên chính điện coi chầu, trăm quan đến chào mừng, đánh dấu sự nghiệp Trung Hưng của nhà Lê đã hoàn thành. Vấn đề đặt ra tiếp theo là công việc ngoại giao với nhà Minh. Sau nhiều cố gắng ngoại giao, đặc biệt là tài đối đáp và thơ phú của Phùng Khắc Khoan và phái bộ sang Yên Kinh, năm Mậu Tuất (1598), vua Minh phong cho Lê Duy Ðàm là An Nam đô thống sứ, sắc phong và ấn bạc được sứ nhà Minh trực tiếp đưa sang.

Công cuộc Trung Hưng đã hoàn thành, lại được các quan thiên triều trọng vọng. Trịnh Tùng tự xưng làm Ðô nguyên suý Tổng quốc chính thượng phụ Bình An Vương và định lệ cấp lộc cho vua Lê chỉ được thu thuế một ngàn xã, cấp cho 5.000 lính làm quân túc vệ, 7 con voi và 20 chiếc thuyền rồng. Còn lại quyền hành trong nước đều do Trịnh Vương toàn quyền quyết định, vua chỉ ngồi chắp tay không làm gì chỉ giữ đại cương, Từ đây thực sự bắt đầu thời kỳ mà sử gọi là Vua Lê chúa Trịnh.

Ngày 24/8 năm Kỷ Hợi (1599), vua băng hà, thọ 33 tuổi, ở ngôi được 27 năm.

Trịnh - Nguyễn phân tranh
Nhà Hậu Lê từ khi Trung Hưng lên, con cháu vẫn giữ ngôi vua, nhưng quyền chính trị nằm cả trong tay họ Trịnh. Còn ở phía nam, từ sông Linh Giang trở vào là cơ nghiệp của họ Nguyễn. Tuy vậy, hai họ chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua, và bề ngoài vẫn tôn phù nhà Lê.

 ♦ Lê Kính Tông (1600-1619): 

Niên hiệu: 
- Thuận Ðức (1600);
- Hoằng Ðịnh (1601-1619).

Vua Kính Tông huý là Duy Tân, là con thứ của Thế Tông. Khi vua Thế Tông băng hà, Bình An Vương Tịnh Tùng cùng với triều thần cho rằng thái tử (anh của Duy Tân) không thông minh, bèn lập con thứ là Duy Tân, khi đó mới 11 tuổi. Duy Tân được triều thần đưa lên ngôi ngày 27 tháng 8 năm Kỷ Hợi (1599), đại xá, đổi niên hiệu là Thuận Ðức, lấy năm Canh Tý (1600) làm năm Thuận Ðức thứ nhất.

Từ năm này, bước sang thế kỷ 17, tình hình chính trị trong nước chuyển biến theo một cục diện mới. Ở ngoài Bắc, về cơ bản họ Trịnh với tài năng quân sự và thái độ cứng rắn của Trịnh Tùng đã cơ bản dẹp tan được chính quyền nhà Mạc ở kinh đô và đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng các dư đảng nhà Mạc thì vẫn nổi lên khắp các tỉnh trung du và miền núi Việt Bắc. Nhà Lê Trịnh vẫn phải nhiều lần phái những đội quân lớn do Thái phó Thanh quận cộng Trịnh Kháng và các thuộc tướng Nguyễn Văn Giai, Nguyễn Cảnh Kiên, Tạ Thế Phúc, Nguyễn Khải, Nguyễn Hắc, Nguyễn Duy Thì... đem quân đánh Mạc. Cũng vào thời này vấn đề tranh giành quyền lực và xung đột giữa họ Trịnh ở Ðàng ngoài và họ Nguyễn ở Ðàng trong bắt đầu đặt ra với việc Nguyễn Hoàng tự ý bỏ vào Thuận Quảng. Nhân cơ hội ấy dư đảng của nhà Mạc lại nổi lên. Trong tình hình đó, Vua Lê Kính Tông cùng với Trịnh Xuân (con thứ của Trịnh Tùng) mưu giết Trịnh Tùng nhưng không thành. Trịnh Xuân bị giam vào nội phủ, còn vua Kính Tông bị bức thắt cổ chết ngày 12 tháng 5 năm Kỷ Mùi.

 ♦ Lê Thần Tông (1619-1643): 

Niên hiệu: 
- Vĩnh Tộ (1620-1628);
- Ðức Long (1629-1634);
- Dương Hoà (1635-1643).

Vua Thần Tông huý là Duy Kỳ, con trưởng của Kính Tông. Mẹ là Ðoan từ Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trinh, con gái thứ của thượng phụ Bình An vương Trịnh Tùng, sinh Duy Kỳ vào ngày 19 tháng 11 năm Ðinh Mùi (1607). “Như vậy, Duy Kỳ là cháu ngoại của Bình An vương Trịnh Tùng. Khi vua Kính Tông bị buộc thắt cổ chết, Bình An vương tôn lập cháu ngoại của mình là Duy Kỳ lên làm vua, khi đó mới 12 tuổi” Duy Kỳ có tướng mạo đế vương: thông minh, học rộng, mưu lược sâu sắc, giỏi văn chương. Ðây cũng là một ông vua có quan hệ thật đặc biệt với nhà chúa, cùng với nhà chúa một nhà vui thuận êm ấm.

Tháng 7 năm Quý Hợi (1623) nhân dịp Bình An vương Trịnh Tùng mất, Trịnh Xuân lại một lần nữa đem quân nổi lên định tranh ngôi chúa, vương thế tử Trịnh Tráng cùng vua đem quân về Thanh Hoá lo dẹp loạn.

Năm Canh Ngọ (1630) vua lấy con gái của Vương là Trịnh Thị Ngọc Trúc lập làm Hoàng hậu. Việc lấy Ngọc Trúc đã để lại tiếng xấu cho vua sau này. Chẳng là trước đó Ngọc Trúc đã lấy chú họ của vua là Cường quận công Lê Trụ, đã sinh ra được 4 người con, rồi Lê Trụ bị lỗi phải giam trong ngục, Vương lại đem Ngọc Trúc dâng vua, vua lấy vào cung. Triều thần như Trạng nguyên Nguyễn Thực, Nguyễn Danh Thế nhiều lần can vua, vua không nghe.

Tháng 1 năm Quý Mùi (1643) vua nhường ngôi cho con là Lê Duy Hiệu sau 25 năm làm vua, tự lên làm Thái thượng hoàng, còn Hoàng hậu họ Trịnh lên làm Hoàng thái hậu.

 ♦ Lê Chân Tông (1643-1649): 

Niên hiệu: 
- Phúc Thái;
- Khánh Ðức (1649-1652);
- Thịnh Ðức (1653-1657);
- Vĩnh Thọ (1658-1661);
- Vạn Khánh (1662)

Duy Hiệu được vua cha nhường ngôi từ lúc lên 13 tuổi, lấy hiệu là Chân Tông. Trong thời gian Chân Tông ở ngôi, có một việc đáng chú ý là vào năm 1646, vua Minh cho sứ thần sang phong cho Thái thượng hoàng làm An Nam quốc vương. Triều Lê Trung Hưng kể từ Lê Trang Tông đến đây mới được nhà Minh phong tước vương, trước đó chỉ phong An Nam đô thống sứ.

Năm Kỷ Mão (1649), ở ngôi được 7 năm, Duy Hiệu chết không có con nối, Thái thượng hoàng lại cầm chính, tiếp tục triều Lê Thần Tông.

Năm Nhâm Dần (1662), vua Thần Tông bị bạo bệnh, xuống chiếu đổi niên hiệu làm Vạn Khánh năm thứ nhất. Cũng nhân dịp này vua cho thay đổi ngôi Thái tử. Chẳng là trước đó vì chưa có con nối, vua phải lấy Duy Tào (con riêng của Hoàng hậu Trịnh Thị) làm Hoàng thái tử. Nhưng sau đó Thần Tông có con đặt tên là Vũ. Năm (1662), Nhâm Dần con đích là Duy Vũ đã lên 9 tuổi vua cho lập Duy Vũ làm Hoàng thái tử, phế Duy Tào làm thứ nhân, theo về họ mẹ.

Ngày 22 tháng 9 năm đó, vua băng hà. Như vậy vua Thần Tông nhà Lê là ông vua thứ hai sau Lê Thánh Tông có số năm trị vì dài tới 38 năm. Ông vua này trải 3 đời vương bên phủ chúa Trịnh: từ Bình An Vương Trịnh Tùng tới Thanh Vương (Trịnh Tráng) rồi đến Tây Vương Trịnh Tạc. Ðời bấy giờ cho vua Thần Tông là bậc vua giỏi, nhưng có chê ở hai điểm: chốn cung vi không có đế độ và mê hoặc phật giáo.

 ♦ Lê Huyền Tông (1663-1671): 

Niên hiệu: Cảnh Trị.
Huyền Tông tên là Duy Vũ, con Thần Tông, em của Chân Tông, khi Thần Tông mất Vũ mới lên 9 tuổi, Tây vương Trịnh Tạc theo di mệnh lập nên. Duy Vũ là con do Phạm Thị Ngọc Hậu, người làng Quả Nhuệ, huyện Lôi Dương (Thọ Xuân, Thanh Hoá) sinh ra.

Năm Ất Tỵ (1665), mặc dù mới 11 tuổi, nhà vua cũng sách lập chính cung Trịnh Thị Ngọc Áng làm hoàng hậu. Trịnh Thị Ngọc Áng là con thứ của Tây vương Trịnh Tạc. Khi vua lên ngôi đón vào trong cung, lấy làm Hoàng hậu.

Bấy giờ ở bên Trung Quốc, nhà Minh đã mất, nhà Thanh lên, tháng 3 năm Ðinh Mùi (1667) nhà Thanh sai sứ sang phong cho vua làm An Nam quốc vương. Vua Lê sai chánh sứ Lê Hiệu, phó sứ Dương Hạo và Ðồng Tồn Trạch sang nhà Thanh  nộp lễ cống hàng năm và tạ ơn việc tặng bạc lụa. Ðây là lần đầu tiên nước ta có quan hệ ngoại giao với triều Thanh.
Ở ngôi được 9 năm, ngày 15 tháng10 năm Tân Hợi (1671) vua băng hà, lúc này mới có 18 tuổi, không có con nối.

 ♦ Lê Gia Tông (1672-1675): 

Niên hiệu: 
Dương Ðức (1672-1673);
- Ðức Nguyên (1674-1675).

Vua huý là Duy Cối, con thứ của Thần Tông. Trước đấy, khi Thần Tông băng, Hoàng thái tử Duy Cối (có sách chép là Duy Khoái) mới lên 2 tuổi, vương Trịnh Tạc và vương thị là Trịnh Thị Ngọc Lung đón về nuôi ở trong vương phủ, dạy bảo, hun đúc, giúp nên đức tính. Khi Huyền Tông băng hà, không có con nối ngôi, Trịnh Tạc bèn xuống chỉ cho Tiết chế phủ và các đại thần văn võ trăm quan lập Hoàng đệ Lê Duy Cối lên ngôi vua, khi đó ông mới 11 tuổi. Vua làm lễ đăng quang vào ngày 19 tháng 11 năm Tân Hợi (1671) lấy niên hiệu Dương Ðức, tôn chính phi của vương là Trịnh Thị Ngọc Lung làm Quốc thái mẫu.

Năm Giáp Dần (1674) vua tôn phong thân mẫu là Lê Thị Ngọc Hoàn (quê ở xã Phúc Lộc, huyện Thuỵ Nguyên, Thanh Hoá) làm Chiêu Nghi.

Nhà vua diện mạo khôi ngô, thân thể vạm vỡ, tính khoan hoà, có độ lượng của một ông vua. Vua ở được 4 năm, mất lúc 15 tuổi, không có con nối.

 ♦ Lê Hy Tông (1676-1705): 

Niên hiệu: 
- Vĩnh Trị (1678-1680);
- Chính Hoà (1681-1705).

Lê Hy Tông có tên là Duy Cáp (có sách chép là Duy Hợp), là con thứ của Thần Tông và là em của Gia Tông. Khi Thần Tông qua đời, ông còn nằm trong bụng mẹ mới được 4 tháng. Thần Tông dặn dò Tây vương Trịnh Tạc bảo hộ, sau này cho Duy Cáp nối ngôi. Lúc Gia Tông chết Duy Cáp lên 13 tuổi, được Tây vương phò lên ngôi vua. Lấy ngày sinh làm “Thiên minh thánh tiết”. Nhà vua tuân giữ cơ nghiệp có sẵn, rũ tay áo mà hưởng cuộc thịnh trị. Kỷ cương thì chấn hưng, thưởng phạt thì nghiêm túc và công minh, phần nhiều các công khanh đều xứng đáng với chức vụ, trăm quan kính giữ phép tắc chế độ, nhân dân yên nghiệp làm ăn. Ðó là các năm dưới niên hiệu Vĩnh Trị (1676-1680) và Chính Hoà (1681-1704). Người đời bấy giờ ca ngợi là bậc nhất thời Trung Hưng. Tháng 4 năm Ất Dậu (1705), sau khi ở ngôi 30 năm, vua ban chiếu truyền ngôi cho Hoàng thái tử Lê Duy Ðường rời sang ở cung khác. Nhường ngôi rồi vua còn vui sống nhàn 12 năm nữa mới mất, thọ 54 tuổi.

 ♦ Lê Dụ Tông (1705-1728): 

Niên hiệu:
Vĩnh Thịnh (1706-1719);
- Bảo Thái (1720-1729).

Vua huý là Duy Ðường, con trưởng Lê Hy Tông, được nhường ngôi năm Ất Dậu (1705). Sau khi lên ngôi đổi niên hiệu là Vĩnh Thịnh.

Bấy giờ thừa hưởng cơ nghiệp thái bình, không xảy ra binh đao vì chiến tranh Trịnh - Nguyễn tạm dừng. Trong nước vô sự, triều đình có làm được nhiều việc. Pháp độ được đầy đủ, kỷ cương thi hành được hết. Xứ xa lạ thì dâng lễ vật tỏ lòng thành, Trung Quốc thì trả lại đất. Nhà vua giũ tay áo, ngồi ở trên, không phải khó nhọc mà mọi việc đâu ra đấy. Khi nói đến cuộc thịnh trị lúc bấy giờ người phải kể đến công lao giúp chính của chúa Trịnh Cương. Trịnh Cương cùng với các bồi tụng và tham tụng: Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn, Nguyễn Công Cơ đều là người giúp việc rất đắc lực và liêm khiết, họ chủ trương cải cách trên nhiều lĩnh vực kinh tế-tài chính, thi cử, tổ chức hành chính, và quan lại... Nhưng các cải cách đó chưa thu được kết quả thì Trịnh Cương qua đời. Ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Dậu (1729) nhà vua nhường ngôi cho Thái tử Duy Phương rồi ra ở cung Kiền Thọ, xưng là Thuận Thiên thừa vận Hoàng thượng, khi đó vua 49 tuổi. Như vậy vua Lê Dụ Tông làm vua được 24 năm, đặt niên hiệu hai lần: Vĩnh Thịnh (1705-1719) và Bảo Thái (1720-1729). Tháng Giêng năm Tân Hợi (1731) Thái thượng hoàng mất, thọ 52 tuổi.

 ♦ Lê Ðế Duy Phương - Hôn Ðức Công (1729-1732): 

Niên hiệu: Vĩnh Khánh Duy Phương làm vua được 3 năm, bị Trịnh Giang vu cho tư thông với vợ Trịnh Cương, phải bỏ, giáng xuống làm Hôn Ðức Công, rồi đến năm Nhâm Tý (1732) thì bị giết.

 ♦ Lê Thuần Tông (1732-1735): 

Niên hiệu: Long Ðức.
Sau khi Hoàng thái tử Lê Duy Phương được vua cha nhường ngôi, ban lời chiếu khá dài nói về công lao khai sáng của Lê Thái Tổ, công cuộc Trung Hưng và vai trò của các chúa Trịnh... rộng ban ân điển 5 điều cho thần dân cả nước. Nhưng ngôi vua của Lê Duy Phương không đứng vững, vì sau khi Trịnh Cương mất, Trịnh Giang lên nối nghiệp chúa thì tình hình lại thay đổi.

Nguyên do là, trước đó con trưởng của vua là Lê Duy Tường đã 28 tuổi, được ở ngôi đông cung đã được 10 năm, lẽ ra phải được truyền ngôi. Nhưng Duy Tường còn có một người em khác mẹ là Duy Phương, 19 tuổi, do chính phi Trịnh Thị (con gái Trịnh Cương) sinh ra. Trịnh Cương muốn bỏ nguời con cả để lập cháu ngoại của mình lên ngôi, mới quanh co làm ra lời ban phong quan, ban tước rồi ép vua Dụ Tông phải nhường ngôi cho Duy Phương. Duy Phương lên ngôi, ngay lập tức tôn mẹ là Trịnh Thị lên làm Hoàng thái hậu và lại tiếp tục lấy một chính phi họ Trịnh làm Hoàng hậu. Nhưng khi Trịnh Giang lên cầm quyền, muốn tỏ rõ uy quyền, Giang bỏ hết các phép tắc của vua. Các chính sách thuế khoá và tài chính mà Trịnh Cương cho thi hành từ các năm 1720-1730 đều bị huỷ bỏ. Về việc định ngôi vua cũng vậy, tháng 8 năm Nhâm Tý (1732) Trịnh Giang truất Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trang xuống làm quận quân, vu cho nhà vua có tư tình với các cung phi của người khác, Trịnh Giang bắt ép vua ra ở cung riêng. Những thứ cung đốn cho vua dùng đều bị bớt xén đi, rồi truất vua xuống làm Hôn Ðức Công, dời đến một ngôi nhà bên ngoại thành, buộc phải thắt cổ chết vào tháng 9 năm Ất Mão (1735).

Giết vua rồi, Giang cho dẫn 12 người con của Dụ Tông vào phủ đường để xem mặt. Duy Tường là con trưởng đáng được lập làm vua. Giang liền sai viên quan hộ vệ Duy Tường đến cung Tứ Thọ, làm lễ cáo Thái Miếu và lập lên làm vua, tức là vua Thuần Tông.

Duy Tường lên ngôi đổi niên hiệu là Long Ðức, đại xá trong nước, tha bỏ thuế chiếu, tha những tiền nộp để chuộc tội còn thiếu chồng chất; viên quan nào bị lầm lỡ bị truất bãi đã lâu, đều  cho xem xét dừng lại. Nhưng Duy Tường làm vua không được lâu, chỉ bốn năm sau, vua mất, thọ 37 tuổi, quần thần dâng tôn hiệu là Thuần Tông Giản hoàng đế.

 ♦ Lê Ý Tông (1735-1740): 

Niên hiệu: Vĩnh Hựu.
Sau khi Thuần Tông Giản hoàng đế mất, Trịnh Giang cho lập Duy Thận, con thứ 11 của Dụ Tông, em của Thuần Tông lên ngôi. Mặc dù Thuần cũng có con đã 19 tuổi, nhưng Trịnh Giang cho rằng Duy Diên (con Thuần Tông) tuổi đã trưởng thành và nhận thấy Duy Thận là cháu ngoại bà Thái phi họ Vũ (mẹ của Trịnh Cương, bà của Trịnh Giang), trước kia vẫn nuôi nấng Thận ở trong phủ, thân cận yêu thương và có phần dễ kiềm chế hơn. Thế là Giang quyết định cho Duy Thận khi đó 17 tuổi lên nối ngôi. Bầy tôi trong triều không ai dám nói gì cả. Duy Thận lên ngôi lấy niên hiệu là Vĩnh Hựu.

Dưới thời cầm quyền của Trịnh Giang, tình hình trong nước lại mất ổn định. Giang là kẻ vô cùng bạo ngược, không việc gì là không làm: sát hại công thần, tự cho thi tiến sĩ ở phủ đường... giết vua nọ lập vua kia... Vì thế tháng 12 năm Mậu Ngọ (1738) một người tôn thất nhà Lê là Lê Duy Mật và Duy Quý (con Lê Dụ Tông), Duy Chúc (con Hy Tông) cùng một số quần thần bàn mưu đốt kinh thành nhưng việc không thành, họ phải vượt biển chạy vào Thanh Hoá. Giang cho quân đuổi theo nhưng không kịp. Sau vụ đó, Duy Mật bèn chiếm cứ miền thượng du vùng Tây Nam chống nhau với nhà Trịnh ròng rã 30 năm trời.

Từ ngày làm việc bạo nghịch giết vua, Trịnh Giang lấn quyền vua ngày càng quá quắt. Thêm vào đó lại chơi bời dâm dục không còn mức độ nào cả. Vì thế Giang bị mắc chứng bệnh kinh quý, sợ sấm sét. Bọn hoạn quan là Hoàng Công Phụ đánh lừa Giang: chúng đào đất làm cung thưởng trì dưới hầm cho Giang ở. Từ đó Giang không bước chân ra ngoài, Công Phụ cùng đồng đảng của hắn càng có dịp chuyên quyền, lũng đoạn triều chính. Các quan đại thần kế tiếp nhau người bị giết, người bị phạt. Chính sự trái ngược, thuế khoá nặng nề, lòng dân mong chóng nổi lên loạn lạc. Lúc ấy hàng loạt cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra ở khắp nơi: Vùng Hải Dương có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Vũ Trác Oánh, ở vùng Sơn Nam có Hoàng Công Chất... họ đều lấy danh nghĩa “phò Lê”. Dân ở vùng Ðông Nam, người đeo bừa, người vác gậy đi theo, chỗ nhiều đến hơn vạn, chỗ nhỏ cũng hàng ngàn hàng trăm. Quân khởi nghĩa vây các cấp, các thành, triều đình không thể ngăn cấm được.

Trước tình hình đó. Trịnh thái phi là Vũ Thị (vợ Trịnh Cương, mẹ Trịnh Doanh) cho triệu Nguyễn Quý Cảnh và một số quần thần khuyên Trịnh Doanh đứng ra thay Trịnh Giang để trừ hoạn nạn trong cung phủ. Năm Canh Thân (1740) Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang, tháng 5 năm ấy Doanh ép vua truyền ngôi cho Duy Diên, con trưởng của Thuần Tông. Tôn nhà vua lên làm Thái thượng hoàng. Như vậy Ý Tông ở ngôi được 5 năm, khi nhường ngôi mới 21 tuổi. Nhường ngôi rồi Ý Tông đến ở điện Càn Thọ, được 19 năm chết, thọ 40 tuổi.

 ♦ Lê Hiển Tông (1740-1786): 

Niên hiệu: Cảnh Hưng.
Hiển Tông tên thật là Duy Diên, là Thái tử của vua Thuần Tông. Nhưng vì có chú là Duy Thận và Duy Mật khởi nghĩa chống họ Trịnh chuyên quyền, vì thế Duy Diên bị Trịnh Giang truất ngôi Thái tử và bị giam cầm từ lâu. Sau khi Trịnh Doanh lên thay ngôi chúa Trịnh của Trịnh Giang mới sai người thả Duy Diên và lập lên làm vua, ép vua Ý Tông phải nhường ngôi cho cháu dòng đích. Trong tờ chiếu nhường ngôi của vua Ý Tông có đoạn viết: “Nghĩ phương xa có nhiều kẻ mạnh, lòng càn rỡ, muốn cho trong ngoài bờ cõi được yên vui, thì chính là theo lễ nên tôn dòng con trưởng, để trọng tôn thống, mà thu phục lòng người”. Sau khi Ý Tông lên làm Thượng hoàng ra ở điện Càn Thọ, số xã dân cung phụng được lấy bằng 1/3 trong số chính phần của các vua Lê thời kỳ này.

Vua lên ngôi báu lúc mà trong nước gặp nhiều việc: bốn phương quân khởi nghĩa nổi lên liên tục không lúc nào yên. Nhưng nhờ có tài giúp đỡ của Minh Vương Trịnh Doanh nên 10 năm sau đất nước đã trở lại yên bình, dân yên cư lạc nghiệp, người bấy giờ cũng ca ngợi là thời thái bình. Phải nói rằng Lê Hiển Tông là ông vua trị vì lâu nhất lịch sử phong kiến nước ta. Số năm trị vì của ông lên tới gần nửa thế kỷ- 47 năm. Bí quyết của ông vua này là sống nhàn hạ và không quan tâm gì đến chính sự, mọi việc đều do nhà chúa quyết định từ Trịnh Doanh sau đến Trịnh Sâm. Dưới thời Doanh, vì Doanh tin vào phúc đức của nhà vua nên cố gắng tin lập và dựa vào.

Tháng Giêng năm Giáp Thân (1764) vua cho lập Duy Vĩ làm thái tử. Năm Ðinh Hợi (1767) Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm làm Nguyên soái tĩnh đô vương. Tháng 3 năm Kỷ Sửu (1769) Sâm truất ngôi Thái tử của Duy Vĩ rồi bắt giam vào ngục. Tháng 8 năm Kỷ Sửu (1769) Trịnh Sâm cho lập Duy Cận là con thứ của vua làm Thái tử.

Tháng 12 năm Tân Mão (1771) Sâm sai giết Thái tử Duy Vĩ, tháng Giêng năm Quý Mão (1783) lập Duy Khiêm làm Hoàng thái tôn, truất Duy Cận làm Sùng Nhượng công. Việc này do binh lính tâm phủ làm.

 ♦ Lê Mẫn Đế (1787-1789):  ♦ Lê Mẫn Ðế (1787-1789): 

Niên hiệu: Chiêu Thống.
Tên là Duy Khiêm (còn có tên Duy Kỳ), cháu đích của vua Hiển Tông, con của Thái tử đã mất Duy Vĩ. Duy Khiêm được quân tam phủ đưa từ nơi giam cầm về và Trịnh Khải, lập làm Thái tôn, truất ngôi Thái tử của Duy Cận. Trước khi vua Hiển Tông mất đã cho gọi thái tử Duy Khiêm vào trối lời truyền ngôi. Thái tử vừa lạy vừa khóc xin nhận mệnh. Lúc đó Nguyễn Huệ đã cưới công chúa Ngọc Hân. Ông có hỏi Ngọc Hân về việc các hoàng tử, công chúa rất khen Duy Cận là người tốt. Nguyễn Huệ muốn bàn luận lại việc lập người nối ngôi, triều đình lo sợ, không biết làm thế nào được, các người trong họ tông thất đều trách móc công chúa làm hại mưu kế lớn của xã tắc. Công chúa sợ, trở về xin với Nguyễn Huệ, Nguyễn Huệ nhận lời, bèn phò Thái tôn lên ngôi Hoàng đế, đổi tên là Duy Kỳ. Lấy niên hiệu là Chiêu Thống. Khi Nguyễn Nhạc ra Thăng Long, Lê Chiêu Thống đem trăm quan thân hành đón tiếp ở ngoài cửa Nam Giao. Sau khi cùng Nguyễn Nhạc đàm đạo việc nước vua Lê xin cắt đất cho Nguyễn Nhạc để khao quân. Nguyễn Nhạc từ chối. Rồi Nguyễn Nhạc cùng vua Lê ước hẹn đời đời làm láng giềng hoà hiếu.

Nhưng khi Nguyễn Nhạc cùng Nguyễn Huệ rút quân về Phú Xuân thì hào mục ở các nơi lại nổi dậy cát cứ, họ Trịnh cùng Trịnh Bồng trở lại Thăng Long tự lập làm nguyên soái và lấn át nhà vua như trước, khiến cho triều đình rối ren, chém giết lẫn nhau. Nguyễn Huệ lại phải kéo quân ra Bắc dẹp nội loạn, chiêu tập các cựu thần văn võ nhà Lê, lấy Sùng nhượng công Lê Duy Cận đứng Giám quốc và để Ngô Văn Sở quản lĩnh binh chúng rồi kéo quân về Nam.

Ðể khôi phục lại Lê Chiêu Thống, tháng 7 năm Mậu Thân (1788) Hoàng thái hậu nhà Lê sang nhà Thanh xin quân cứu viện. Sau khi lấy lại được Thăng Long, dựa vào thế quân thanh vua Lê đã trả thù tàn bạo những người đã theo Tây Sơn, vì thế dân tình trong kinh ngoài trấn đều chán nản, rời rạc và lo sợ.

Mồng 1 Tết năm Kỷ Dậu (1789), quân đội Tây Sơn do Hoàng đế Quang Trung trực tiếp chỉ huy kéo ra Bắc đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh. Các tướng nhà Thanh sống sót chạy về nước kéo theo vua bán nước Lê Chiêu Thống cùng bầy tôi 25 người.

Nhà Lê mất. Sau 5 năm sống lưu vong nhục nhã và phẫn uất trên đất Thanh, tháng 10 năm Quý Sửu (1793), Lê Chiêu Thống chết ở Yên Kinh (Trung Quốc), thọ 28 tuổi. Tháng 8 năm Giáp Tý (1804) triều Nguyễn đã cho đưa thi hài Lê Chiêu Thống về nước, chôn tại lăng Bàn Thạch. Trên bài vị thờ tại lăng đề là Nghị hoàng đế.

Tháng 2 năm Giáp Thân (1884) niên hiệu Kiến Phúc thứ nhất nhà Nguyễn truy đặt tên thuỵ cho Lê Chiêu Thống là Mẫn đế. Ðây là ông vua cuối cùng của triều Lê

Như vậy nhà Lê Trung Hưng từ Trang Tông đến Chiêu Thống trải 18 đời và 256 năm trị vì.

Nhà Lê Trung Hưng tồn tại song song với nhà Mạc từ 1533 đến 1592 và với Trịnh-Nguyễn từ 1592 đến 1789. Ðây là giai đoạn của nạn nội chiến Nam-Bắc triều và Trịnh-Nguyễn phân tranh gây nên bao cảnh đau thương thảm khốc trong nhân gian.

Trong lịch sử nước ta, thời Hậu Lê là thời kỳ đặc biệt nhất, với mô hình triều đình có cả vua lẫn chúa. Vua Lê chỉ ngồi làm vì, quyền hành gồm thâu hết trong tay chúa Trịnh. Cũng vì thế mà chính quyền thời Lê-Trịnh mang một hình thái khác với thể chế của các triều vua trước (và sau này), làm phát sinh thêm một tầng lớp quan lại mới, với những chức danh được biết đến lần đầu tiên trong quan chế thời quân chủ.

***
Nhà Lê trị vì được 360 năm (1428-1788), trong hai thời kỳ rõ rệt: một thời kỳ ổn định và phát triển kéo dài gần 80 năm, từ triều vua Lê Thái tổ (1428-1433) đến hết triều vua Lê Hiến tông (1497-1504) và một thời kỳ nhiều biến động, trong đó các vua Lê là nạn nhân của những âm mưu thoán đoạt hoặc ngồi làm vì, cay đắng nhìn cảnh lộng quyền của chúa Trịnh cùng các quyền thần. Thời kỳ thứ hai đánh dấu một sự kiện nổi bật, đó là tình trạng tương tranh giữa họ Trịnh ở Đàng Ngoài và họ Nguyễn ở Đàng Trong kéo dài gần 200 năm, từ đầu thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 18, kìm hãm đáng kể đà phát triển của đất nước.
Tại Đàng Ngoài, sau khi kế tục sự nghiệp của cha là Lạng Quốc công Trịnh Kiểm và tiêu diệt xong họ Mạc, năm 1599, Bình An vương Trịnh Tùng bắt đầu gầy dựng nghiệp chúa. Tước vương thuộc về các chúa Trịnh kể từ đó, và cũng từ đó, các nhà chép sử ghi nhận những đổi mới trong cách xưng hô ở triều đình: Vua chết gọi là băng; Chúa chết gọi là tốt; đình thần tâu với vua gọi là tấu; trình với chúa gọi là khải; nơi ở và làm việc của vua là cung điện; nơi ở và làm việc của chúa là phủ liêu; con trai của vua gọi là hoàng tử; con trai của chúa gọi là vương tử; con trai vua được chọn để kế vị gọi là thái tử; con trai chúa được chọn để kế nghiệp gọi là thế tử … Khi thiết triều, trong lúc bá quan văn võ đứng thành hai hàng bên sân chầu, vua Lê mặc áo bào vàng ngồi trên ngai, thì chúa Trịnh mặc áo bào màu tía ngồi trên sập, chếch về phía trước ngai vàng. Càng về sau, mọi việc đều do một tay chúa Trịnh quyết định. Khi vị thế tử con chúa đủ 18 tuổi, sẽ được phong tước Công, lập Tiết chế phủ, điều hành công việc thường nhật ở triều đình, chúa chỉ can thiệp vào những vấn đề quốc gia đại sự mà thôi.
* Bộ máy chính quyền trung ương-
Trong thời gian đầu từ năm 1600 đến năm 1718, tổ chức bộ máy cai trị tại triều đình tương tự các thời trước, tập trung vào Lục Bộ, một cơ chế hình thành từ đời Lý, nhưng lúc đó chưa được phân định rõ ràng. Đến đời Nghi Dân (1459) và Lê Thánh Tông (1460-1497), lục bộ mới trở thành một hệ thống tổ chức có qui củ, gồm các bộ sau:
-Bộ Lại.- Phụ trách các việc liên quan đến: bổ nhiệm, thuyên chuyển, xét hạch, thăng giáng chức tước…tất cả quan lại tại triều đình và các địa phương.
-Bộ Hộ.- Phụ trách các việc liên quan đến thuế khóa, điền thổ, kho tàng, lương bổng..
-Bộ Lễ,- Giữ việc lễ nghi, tế tự, tiệc yến, học hành, thi cử, phẩm phục, cống, sứ..
-Bộ Binh.- Phụ trách các việc liên quan đến quân sự: tổ chức quân đội, sản xuất khí giới, phòng bị biên giới, tổ chức dịch trạm….
-Bộ Hình.- Trông coi việc hình pháp, các vụ kiện tụng, áp dụng hình phạt…
-Bộ Công.- Lo việc xây dựng, tu bổ cung điện,thành trì, cầu cống, đường sá, sông ngòi..
Bên cạnh lục bộ còn có cả một hệ thống tổ chức của các Khoa, Viện, Đài, Các…được đặt ra nhằm giám sát, hỗ trợ công việc của các bộ hoặc đặc trách một nhiệm vụ quan trọng và riêng biệt nào đó. Trước tiên phải kể đến Lục khoa gồm các danh xưng tương ứng với Lục bộ (Lại khoa, Hộ khoa, Lễ khoa, Binh khoa, Hình khoa, Công khoa) giữ nhiệm vụ xét duyệt lại công việc của mỗi bộ. Kế đó là Lục tự gồm Thượng bảo tự, Quang lộc tự, Hồng lô tự, Thái thường tự, Thái bộc tự, Đại lý tự, việc phân nhiệm không được rõ lắm. Quan trọng không kém các tổ chức trên là Tôn nhân phủ, phụ trách các việc liên quan đến hoàng tộc và Ngự sử đài giữ nhiệm vụ đàn hặc các quan từ Thượng thư trở xuống, những ai làm không đúng phép sẽ bị đài này tra xét để tâu lên vua. Ngự sử đài còn có nhiệm vụ can gián nhà vua mỗi khi bậc thiên tử có những việc làm không chính đáng hay bất hợp lý.
Ngoài ra, trong bộ máy chính quyền trung ương thời Lê Trịnh, không thể không kể đến Hàn lâm viện (soạn các chiếu chỉ để vua ban); Quốc sử viện (chép sử); Quốc tử giám (trường đại học); Tư thiên giám ( làm lịch, dự báo thời tiết, xem tinh tú, đoán điềm lành dữ…); Thái y viện (chẩn bệnh, bốc thuốc cho nhà vua)….
Bên cạnh cung điện của nhà vua là phủ liêu của chúa Trịnh và phủ Tiết chế dành cho vị Thế tử đã đủ 18 tuổi. Năm 1718, đời vua Lê Dụ Tông (1706-1729), chúa Trịnh Cương thực hiện hai sự thay đổi quan trọng trong tổ chức chính quyền. Trước tiên, ông đặt ra Lục phiên trực thuộc phủ Chúa, tương ứng với Lục bộ của nhà vua, gồm Lại phiên, Hộ phiên, Lễ phiên, Binh phiên, Hình phiên và Công phiên. Trên thực tế, tổ chức này gồm thâu hết mọi việc của Lục bộ trước đó và tồn tại suốt 70 năm. Đến năm 1787, niên hiệu Chiêu Thống, một chỉ dụ của nhà vua bãi bỏ hẳn tổ chức Lục phiên. Đây cũng là thời điểm sắp cáo chung của chính quyền Lê Trịnh ở Đàng Ngoài. Sự thay đổi thứ hai của Trịnh Cương cũng thuộc vào hàng "độc nhất vô nhị" trong lịch sử chế độ phong kiến, đó là việc ông đặt ra một Giám ban song song với Văn ban và Võ ban trong triều, biến một thành phần bất túc (tự thiến hay không có bộ phận sinh dục bình thường), chuyên hầu hạ, phục dịch trong cung thành một tầng lớp quan lại có địa vị, phẩm hàm cao tại triều đình. Điều này nói lên ý đồ của nhà chúa muốn ban ơn mưa móc cho một tầng lớp quan lại để củng cố thêm hậu thuẫn cho mình. Tuy nhiên, có lẽ ban này cũng không làm được trò trống gì cho các chúa Trịnh, mặt khác, do các quan lại trong ban tỏ rõ sự lộng quyền mà đến năm 1740, đời vua Lê Hiển Tông và chúa Trịnh Doanh, ban này bị bãi bỏ.
*Bộ máy chính quyền địa phương
Thời Lê Trịnh, chính quyền địa phương cũng chỉ có bốn cấp cơ bản như các triều đại trước, đó là: Xứ, Phủ, Huyện và Xã, các tổ chức khác chỉ được đặt ra tại một số nơi nhất định, không có tính phổ biến chung cho cả nước. Tổ chức này áp dụng cho đến cuối thời Lê Trịnh (thập niên 1780); chỉ có một thay đổi đáng kể vào thập niên 1660, chúa Trịnh đổi bốn xứ Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Lạng Sơn thành bốn trấn, những xứ khác vẫn giữ tên cũ.
*Quan chế thời Lê Trịnh
Thời Lê Trịnh, quan chế cũng dựa trên cơ sở thang bậc cửu phẩm đã được đặt ra từ năm 1089, đời vua Lý Nhân Tông (1072-1127). Trong hệ thống cửu phẩm, mỗi phẩm hàm được chia ra hai bậc: chánh và tòng. Quan chế của triều đình vào thời kỳ này là quan chế đời Hồng Đức (Lê Thánh Tông) được sửa đổi phần nào cho phù hợp với tình thế hoặc theo ý riêng của chúa Trịnh. Đứng hàng đầu các quan lại triều đình là Thái sư, Thái úy, Thái phó, Thái bảo, xếp hàng chánh nhất phẩm (C1P), kế đó là Thái tử Thái sư, Thái tử Thái phó, Thái tử Thái bảo, hàng tòng nhất phẩm (T1P). Chánh nhị phẩm có Thiếu sư, Thiếu úy, Thiếu phó, Thiếu bảo. Những vị đại thần này thường chỉ có phẩm hàm, không có thực chức, là những người từng có công lớn với triều đình, nay không còn giữ một nhiệm vụ cụ thể nào. Các chức vào hàng nhất phẩm, cả văn ban và võ ban đều có, riêng võ ban về sau có thêm các trọng chức Đô đốc chưởng phủ sự và Thự phủ sự, xếp hàng nhất phẩm.
- Trong số quan lại có thực chức, xếp cao nhất ở văn ban là lục bộ Thượng thư, hàm chánh hoặc tòng nhị phẩm (tùy thời điểm), điều khiển công việc của sáu bộ. Chức danh này được đặt ra từ thời Lý, nhưng lúc đó, đôi khi chỉ có hai hay ba Bộ Thượng thư. Đến đời Nghi Dân (1459), nhà Lê mới có đủ lục bộ Thượng thư. Tại mỗi bộ, phụ giúp công việc cho Thượng thư có Tả Hữu Thị lang (T3P), Lang trung (C6P) và Viên ngoại lang (T6P).
- Chức quan phụ trách lục khoa là Đô cấp sự trung (C7P) và Cấp sự trung (C8P); phụ trách lục tự là các Tự khanh (C5P), Thiếu khanh (C6P), Tự thừa (C7P)…
- Phụ trách Tôn nhân phủ là các trọng thần trong hoàng tộc, nhưng phẩm hàm không cao tột bậc như ở triều Nguyễn sau này. Tôn nhân lệnh là chức danh cao nhất trong Tôn nhân phủ cũng chỉ được xếp vào hàng Chánh tam phẩm.
- Một trong những điểm "kỳ lạ" nhất trong quan chế đời Lê Trịnh là một "Giám ban" gồm toàn hoạn quan mà người đứng đầu là Tổng Thái giám xếp đến hàng chánh tam phẩm, ngang Tôn nhân lệnh, chỉ kém Thượng thư một bậc. Sự lộng hành của hàng quan lại này là một trong những vết nhơ của quan chế thời Lê Trịnh.
Sự tồn tại một phủ chúa bên cạnh cung vua cũng làm phát sinh nhiều chức danh mới, chưa thấy xếp trong quan chế các đời trước. Hai chức quan cao nhất tại phủ chúa là Tham tụng và Bồi tụng là những người thường xuyên ở cạnh chúa để bàn bạc chính sự. Theo Phan Huy Chú, tác giả bộ Lịch triều hiến chương loại chí, chức danh Tham tụng được coi như ngang hàng chức danh Tể tướng các đời trước. Điều hành lục phiên tại phủ chúa có Thiêm sai, Tri phiên, Phó tri và Thiêm tri. Các chức danh này cũng chỉ tồn tại đến năm 1787.
Tại địa phương, với tổ chức Tam ty ở cấp xứ, đứng đầu Đô ty là Đô Tổng binh sứ (C3P); đứng đầu Thừa ty là Thừa chính phó sứ (T3P); đứng đầu Hiến ty là Hiến sát chánh, phó sứ (C6P). Tại cấp Phủ và Huyện có Tri phủ (T6P), Tri huyện (T7P) và các viên chức thừa hành gồm Đề đốc, Đề lĩnh, Phủ ký lục, Phủ thư ký, Cai tri, Huyện thư ký…, xã quan có Xã trưởng, Xã sử, Xã tư





  1. rong số những bậc Tiên liệt của dòng tộc không ít người từng theo đòi khoa cử, tham dự vào bộ máy chính quyền, cầm quân dẹp loạn, có công với dân với nước thời phong kiến. Nhiều bằng cấp, chức vụ, tước vị đã quá xa lạ với lớp trẻ hiện nay. Khi đọc 2 cuốn Gia phả còn lại để soạn nên cuốn 老街梁德 家譜 GIA PHẢ DÒNG LƯƠNG ĐỨC LÀO CAI tôi phải kê cứu nhiều tài liệu mới vỡ vạc ra được. Để anh em, con cháu tôi khỏi mất công, mất sức và tiên nghiên cứu, bổ sung Gia phả tôi biên tập lại những thâu lượm của tôi về cơ cấu tổ chức, hệ thống tước vị và chế độ bằng cấp thời đó. Do dòng Lương Đức Chiến Thắng mới xác định được tính liên tiếp từ 1740 nên chỉ nghiên cứu , ghi chép về đ iều đó ở thời cuối Lê và Nguyễn.

    1. BỘ MÁY TỔ CHỨC thời Phong kiến:
    2. H ệ thống TƯỚC VỊ:
    3. Hệ thống CHỨC VỊ thời phong kiến:
    4. Chế độ KHOA CỬ:

    1. BỘ MÁY TỔ CHỨC thời Phong kiến:

    Các triều đại Việt Nam đầu tiên chưa hình thành nên các Bộ . Năm 1089, Lý Nhân Tông bắt đầu đặt các bộ nhưng chưa đủ. Đời Trần có các bộ đặt dưới quyền điều khiển của tướng quốc. Đầu thời Lê sơ, có hai bộ là Bộ Lại và Bộ Lễ . Đến đời Lê Nghi Dân (1459) triều đình nước Việt được tổ chức dựa theo hệ thống của Trung Hoa mới chính thức đặt đủ Lục bộ. Thời Lê Thánh Tông vẫn giữ nguyên và đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của hoàng đế. Các triều đại sau tiếp tục duy trì.
    Quan văn, quan võ được xếp theo 6 bộ 六部 : Bộ Lại ( 吏部,giữ việc quan tước, phong tước, ân ban thuyên chuyển, lựa chọn, xét công, bãi truất và thăng thưởng, bổ sung quan lại, cung cấp người cho các nha môn) ; Bộ Lễ ( 礼部, giữ việc lễ nghi, tế tự, khánh tiết, yến tiệc, trường học, thi cử, áo mũ, ấn tín, phù hiệu, chương tấu, biểu văn, sứ thần cống nạp, các quan chầu mừng, tư thiên giám, thuốc thang, bói toán, tăng lục, đạo lục, giáo phường, đồng văn nhã nhạc ); Bộ Hộ ( 岵部, giữ việc ruộng đất, nhân dân, kho tàng, thu phát, bổng lộc, đồ cống nạp, thuế khoá, muối và sắt; thời Nguyễn giữ chính sách điền thổ, hộ khẩu, tiền thóc, điều hoà nguồn của cải nhà nước ); Bộ Binh ( 兵部, giữ việc binh nhung, quân cấm vệ, xe ngựa, đồ nghí trượng, khí giới, giữ việc biên giới, lính thú, nhà trạm, phố xá, nơi hiểm yếu, việc khẩn cấp, tuyển dụng chức võ ); Bộ Hình ( 刑部, giữ việc binh nhung, quân cấm vệ, xe ngựa, đồ nghí trượng, khí giới, giữ việc biên giới, lính thú, nhà trạm, phố xá, nơi hiểm yếu, việc khẩn cấp, tuyển dụng chức võ ) và Bộ Công ( 功部, coi việc xây dựng thành hào, cầu cống đường sá, việc thổ mộc, thợ thuyền, tu sửa xây dựng, thi hành lệnh cấm về núi rừng, vườn tược và sông ngòi ).
    Đứng đầu mỗi bộ là Thượng thư ( 尚書 , tương đương Bộ trưởng nay) ; giúp việc có tả thị lang  侍郎 , hữu thị lang  侍郎(thời Lý - Trần - Lê) hoặc tham tri (thời Nguyễn) (tương đương cấp thứ trưởng ngày nay); lang trung, viên ngoại lang, tư vụ... (tương đương vụ trưởng, giám đốc các nha hoặc chánh / phó văn phòng ngày nay).
    2. H ệ thống TƯỚC VỊ:

    1. Tước Vương  : thường thì tước này chỉ phong cho người thuộc hoàng tộc và chỉ những anh em trực hệ với nhà vua. Tuy nhiên, vào thời nhà Trần thì tước này được phong rất rộng rãi trong hoàng tộc hay đến thời Hậu Lê thì được phong cho các Chúa. Cũng theo hệ thống thời Hậu Lê thì tước Vương 2 chữ trang trọng hơn tước vương 3 chữ, ví dụ: chúa Trịnh Tráng lúc kế ngôi là Thanh đô vương, sau một thời gian ở ngôi và lập được nhiều công trạng thì phong lên là Thanh vương.
    2. Tước Công  :
    2.1 Quốc công   tước quận công cũng theo lệ 2 chữ quý hơn 3 chữ. Tước này ít khi phong ra ngoài mà chỉ trong hoàng tộc hay những người có binh quyền lớn hoặc thế tử ở phủ chúa. Ví dụ như chúa Trịnh Sâm lúc chết cũng chỉ là tước công 2 chữ, sau rồi mới thuỵ phong lên tước vương.
    2.2 Quận công   đây là tước phong cho những người có binh quyền và công lao lớn. Ví dụ như chúa Nguyễn Hoàng đến khi vào trấn thủ Quảng bình cũng chỉ la Đoan quận công, sau nay nay được phong lên Đoan quốc công (trước khi chia nước tự lập).
    3. Tước Hầu  : phong cho những người có công lao hay danh vọng lớn. Ví dụ: Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều.
    4. Tước B á  :
    5. Tước T ử  :
    6. Tước N am 
    Nhìn chung tước thường đi kèm với quan chức, tuy nhiên về mặt quan trường thì ngay cả Nam tước cũng cao hơn nhiều so với quan nhất phẩm (Thượng thư).
    cuongbui1 và HàNộiMùaThuVàng thích điều này.

  2. Củ khoai lang

    Củ khoai langTôi yêu Sân Đình




    3. Hệ thống CHỨC VỤ thời phong kiến:

    Sau khi dời đô về Thăng Long và đặt tên nước là Đại Việt, Lý Thái Tổ đã tổ chức triều đình theo một cách mà Lê Quý Đôn gọi là “mẫu mực cho đời sau”. Đứng đầu triều đình là nhà vua, dưới vua có nhóm cận thần gồm có Tam thái (Thái sư, Thái phó, Thái bảo) vàTam thiếu (Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo) chuyên lo về việc văn; các chức Thái úy (sau gọi là Tể tướng) và Thiếu úy (chỉ huy cấm binh) chuyên lo về việc võ. Dưới các nhóm cận thần đó là hai ban văn võ với đầy đủ các chức vụ cụ thể.
    Các đời sau, quan chế chủ yếu dựa vào nhà Lý nhưng có sửa đổi chút ít. Nhà Trần đặt thêm chức Tam tư (Tư đồ, Tư mã, Tư thông). Đến đời Lê Nghi Dân (1459) các ban văn võ được tổ chức theo Trung Hoa thành Lục bộ: Bộ Lại (khen thưởng), Bộ Lễ (thi cử), Bộ Hộ (kinh tế), Bộ Binh (quân sự), Bộ Hình (pháp luật), Bộ Công (xây dựng). Đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng thư. Ngoài ra còn một số cơ quan chuyên trách như Hàn lâm viện lo biên soạn văn thư;Quốc tử giám lo dạy dỗ đào tạo con em giới cầm quyền; Khâm thiên giám coi thiên văn, lịch pháp; Thái y viện lo việc thuốc men; Cơ mật viện tư vấn cho vua về các việc hệ trọng.
    Dưới thời vua Gia Long còn sơ khai, chủ yếu vẫn tuân thủ giống như chế độ quan lại nhà Hậu Lê. Dưới thời vua Minh Mạng, sau cải cách về hành chính và luât pháp, nhà vua đã quy định lại chế độ quan lại của triều đình, áp dụng chế độ quan lại của nhà Thanh bên Trung Hoa vào Việt Nam. Vua chia quan lại toàn bộ triều đình làm chín phẩm hàm, trong mỗi phẩm hàm lại chia thành hai cấp bậc: Chánh (chính) và Tòng (phó). Như vậy hệ thống quan chế nhà Nguyễn gồm tất cả 18 cấp bậc từ cao tới thấp. Trong mỗi cấp bậc đều có hai ban văn, võ. Quan lại đứng đầu triều đình thuộc hàm Nhất phẩm, là các Đại học sĩ và Đô thống phủ đô thống. Đứng đầu các Bộ (Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công, và Học, sau này) là quan Thượng thư (hàm Nhị phẩm). Đứng đầu các vùng hành chính cũng là một chức quan hàm nhị phẩm là Tổng đốc (phụ trách hai hay ba tỉnh thành).
    Các địa phương thì từ 1802, cả nước chia ra làm 23 trấn và 4 doanh. Từ Thanh Hóa ngoại trở ra, gọi là Bắc Thành, có 11 trấn, chia ra làm 5 nội trấn: Sơn Nam Thuợng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, và Hải Dương; 6 ngoại trấn: Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Son, Thái Nguyên, Quảng Yên. Bắc thành và Gia Định thành có chức Tổng trấn và Phó Tổng trấn
    Tổng trấn coi mọi việc, ở các Trấn thì quan trấn hay lưu trấn Còn 6 ngoại trấn Bắc Tháng thì giao quyền cho các thổ hào địa phương.
    Đến năm Tân Mão (1831) Minh Mệnh thứ 12, theo lối nhà Thanh, đặt trấn làm tỉnh và đặt chức tổng đốc, tuần phủ, bố chính , án sát và linh binh.
    Tổng đốc 總督 là một chức quan của chế độ phong kiến trao cho viên quan đứng đầu một vùng hành chính gồm nhiều tỉnh thành. Tổng đốc coi mọi mặt về dân sự lẫn quân sự trong địa hạt mình quản lý. Tiền thân của chức Tổng đốc là các chức Tổng trấn và Hiệp trấn vào thời vua Gia Long, còn trước đó từ triều nhà Hậu Lê là các chức quan Trấn thủ hay Lưu trấn. Ví dụ Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên (tam tuyên) coi các tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang, tức vùng Tây Bắc nay; Tổng đốc Hải An hay Hải Yên coi Hải Dương, Quảng Yên, tức vùng Hải Dương, Quảng Ninh, Hải Phòng nay.

    Tuần phủ 巡撫 là một chức quan địa phương ở Trung Quốc và Việt Nam thời phong kiến. Lúc đầu, tuần phủ chỉ là một chức quan tạm thời của người được triều đình phái về lãnh đạo một tỉnh hoặc một bộ phận tỉnh lớn. Về sau, chức này trở thành một chức vụ chính thức. Tuần phủ có quyền bổ nhiệm, bãi miễn các chức quan dưới quyền mình trong địa hạt do mình quản lý, có quyền lãnh đạo về hành chính, tài chính, ngoại giao, quân sự của tỉnh. Tuy nhiên, ở những nơi có chức tổng đốc, thì tuần phủ vẫn phải theo chỉ đạo của tổng đốc. Ở nhiều nơi, tổng đốc có thể kiêm luôn chức tuần phủ. Tuần phủ mang hàm nhị phẩm (chánh hoặc tòng).
    Tri phủ 知府 là một chức quan địa phương, đứng đầu một phủ hoặc châu, có quyền cao nhất cả về dân sự lẫn quân sự trong địa hạt, tri phủ có hàm tòng tứ phẩm.
    Tri huyện 知縣 :Viên quan đứng đầu một huyện.
    Chánh tổng 正總 ( còn gọi Cai Tổng 該總 ), chức danh người đứng đầu một tổng (gồm một số xã). Đơn vị tổng đã có từ thời Lê, được thiết lập dưới thời Tây Sơn và bị bãi bỏ dưới thời Gia Long. Thời Minh Mạng lập lại cấp tổng và đặt chức này, là thuộc viên của chính quyền cấp huyện; giữ vai trò trung gian giữa cấp huyện và cấp xã, truyền lệnh của chính quyền cấp trên xuống làng xã thuộc phạm vi tổng và giám sát việc thực hiện những lệnh đó. Thời Pháp thuộc, ở Nam Kỳ, chánh tổng và phó tổng được xếp trong ngạch nhân viên hành chính, được hưởng lương và xếp hạng bậc. Trước 1887, chánh tổng và phó tổng do chính quyền thực dân Pháp lựa chọn, chỉ định. Sau 1887, Chánh tổng được tuyển lựa thông qua thi tuyển, tối 1918 được tuyển lựa thông qua bầu cử (cử tri thuộc các thành phần có chức quyền, có tài sản, có bằng cấp). Thống đốc là người quyết định cuối cùng trong việc tuyển lựa này. Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, Chánh tổng được lựa chọn qua bầu cử và là người thay mặt cho tổng về mặt hành chính và pháp lí (như lí trưởng ở cấp xã) để giao thiệp với cấp trên.
    Lý trưởng: 里長 người đứng đầu một làng thường do hội đồng kỳ mục cử ra, có nhiệm vụ thực thi quyết định của hội đồng kỳ mục . Về sau xuất hiện cả Lý mua.

    4. Chế độ KHOA CỬ:

    Ả nh hưởng của văn hoá Trung Hoa, chế độ khoa cử Việt là thi Nho giáo. Các kỳ thi Nho học ở Việt Nam bắt đầu có từ năm 1075 dưới triều Lý Nhân Tông và chấm dứt vào năm 1919 đời vua Khải Định. Trong 845 năm đó, đã có nhiều loại khoa thi khác nhau, ở mỗi triều đại lại có những đặc điểm khác nhau, song trong các đời Lý, Trần, Hồ có một đặc điểm chung là các khoa thi đều do triều đình đứng ra tổ chức, chỉ đạo thi. Hệ thống thi cử tuyển người làm quan này gọi là khoa cử 科举 .
    Khoa bảng 科牓 là cái bảng danh dự, liệt kê tên họ các thí sinh đỗ đạt học vị trong các kỳ thi cử này, phần lớn được tuyển chọn làm quan chức cho triều đại phong kiến Việt Nam. Khoa bảng là tính từ để chỉ những người đỗ đạt này. Thí dụ: “Gia đình khoa bảng” là gia đình có học, có người trong họ đỗ đạt cao trong những kỳ thi cử do triều đình tổ chức và chấm khảo. Các kỳ thi theo thứ tự là Thi Hương, Thi Hội, Thi Đình, học theo mô hình Trung Hoa.
    Kết quả các kỳ thi, ai vượt qua kỳ trứơc mới thi tiếp kỳ sau. Đạt mức nào sẽ có các danh hiệu tương ứng tóm tắt như sau:
    Kỳ thi HƯƠNG : Giải nguyên lấy: Hương cống Sinh đồ.
    Kỳ thi HỘI (Hội nguyên) lấy: Thái học sinh, Phó bảng
    Kỳ thi ĐÌNH (Đình nguyên) lấy
    Đệ Nhất giáp: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa;
    Đệ Nhị giáp: Hoàng giáp;
    Đệ Tam giáp: Hoàng giáp.
     Bảng tra Các chức quan, phẩm tước, học vị thời phong kiến Việt Nam
    Án sát :Tháng 6 năm Hồng Đức thứ 2 (1471), đặt chức Án sát ở 12 Thừa tuyên và đặt bat y (tức Đô ty, Thừa ty, Hiến ty) ở Quảng Nam. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) quy định Án sát dưới quyền Tổng đốc, Tuần phủ. Ty Án sát sứ các tỉnh có Thông phán, Kinh lịch, bát cửu phẩm Thư lại, Vị nhập lưu thư lại. Số lượng nhiều ít tuỳ theo từng tỉnh.
    Ở các tỉnh nhỏ chỉ có Tuần vũ thì Án sát giữ vị trí tỉnh Phó giữ  việc hình. Thời Tự Đức (1848-1883) Án sát coi như tỉnh Phó của tỉnh nhỏ.
    Án sát sứ ty:là cơ quan phụ trách việc hình thời Nguyễn. Là ty giúp việc cho Tổng đốc hoặc Tuần vũ.
    Ấm chức:Theo Phan Huy Chú-Lịch triều hiến chương loại chí- Cấp bậc phong Ấm thực thi từ thời Trần Thánh Tông, năm Thiệu Phong thứ 10(1267). Lúc bấy giờ định lệ phong Ấm cho Tôn Thất. (Con cháu trước làm tới chức tước gì thì quy định ông cha được truy phong ở mức nào). Đến thời Lê, thời Lê Thánh Tông lệ phong Ấm được quy định khá chi tiết.
    Ví dụ: Quận công thì cha và ông đều được phong tước hầu, mẹ và bà đều được phong Chánh phu nhân, vợ được phong Phu nhân, con trưởng được phong Triều liệt đại phu, các con được phong Hoằng tín đại phu, cháu trưởng được phong Hiển cung đại phu.
    Tước hầu thì cha và ông đều được phong Bá, mẹ và bà đều được phong Tự Phu nhân, các con trưởng được phong Hoằng tín đại phu, các con được phong Hiển cung đại phu, cháu trưởng được phong Mậu lâm lang…
    Đời Huyền Tông, năm Cảnh Trị thứ 2 (1664). chuẩn định cho công thần khai quốc từ Tam thái, Tam thiếu trở lên con cháu đời đời là công thần tôn; công thần trung hưng, thì từ Tả Hữu Đô đốc, Tả Hữu Thị Lang trở lên con cháu đời đời là quan viên tử.
    Bá:Tước thứ 3 trong 5 tước thời phong kiến: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.
    Từ thời Lý đã đặt ra tước: Tước Vương, tước công ban cho các thân vương của vua.
    Đời Trần ngoài tước Vương còn ban tặng các tước khác như: Quốc, Công, Thượng Hầu, Quan nội hầu, Thượng phẩm, Quan phục hầu…
    Đời Lê thế kỉ XV, Lê Lợi ban phong cho các tướng công thần các tước khác nhau như Á hầu, Thông hầu, Minh tự, Đại liêu ban…
    Đời Lê Thánh Tông, năm Hồng Đức thứ 2 (1471) bắt đầu định quan chế và các tước; trong đó có 5 tước Công Hầu, Bá, Tử, Nam. Các đời về sau vẫn dựa theo thể lệ đó; tuy nhiên cũng có sự thay đổi về việc ban, phong cho các công thần. Cũng theo quy chế thời Hồng Đức tước Quận công lấy tên phủ, huyện (1 chữ đầu) làm hiệu; tước Hầu, Bá lấy tên xã làm hiệu.
    Ví dụ: Lương Xuyên Bá Vũ Yêm con trưởng cụ Vũ Cảo (chi IV).
    Tước Tử, Nam lấy tên xã, cũng có khi lấy tên người được phong.
    Ví dụ: Vũ Trung là con Vũ Phẩm, làm chức huyện thừa được phong Nhuận Trạch Nam.
    Vũ Duy Thảo, con cụ Vũ Duy Liên, Học quan, làm Tham nghị xứ Kinh Bắc, tước Tham Trạch Tử…
    Bảng nhãn:Từ năm Bính Ngọ (1246) đời Trần Thánh Tông (1225-1258) định ra Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám Hoa. Năm sau chính thức định là Tam khởi, Lê Thánh Tông, năm Nhâm Thìn (1472) cho đổi gọi Bảng nhãn là Đệ nhị giáp Tiến sĩ cập đệ- đệ nhị danh. Bảng nhãn tặng hàm tong lục phẩm, 7 tư. Nếu vào làm việc ở viện Hàn lâm thì thăng lên một cấp.
    Bách hộ: Quan chế thời Hồng Đức, ban võ có chức Bách hộ, trật chánh lục phẩm.
    Thời Nguyễn thế kỷ XIX, Bách hộ trở thành hư hàm; có thể mua được.
    Binh bộ: Từ thời Lê Nghi Dân, năm Kỉ Mão (1459) bắt đầu đặt đủ 6 bộ trong đó có bộ Binh. Đến tháng 6 năm Ất Mão (1675) đời vua Lê Gia Tông định rõ chức việc của 6 bộ. Trong đó quy định bộ Binh giữ việc binh nhung.
    Biên chế bộ Binh thời Nguyễn gồm có: 1 Thượng thư, 2 Tả lang, 5 Chủ sự, 10 chánh bát phẩm Thư lại, 10 chánh cửu bát phẩm Thư lại. Cơ quan thuộc bộ gồm 1 xứ Binh trực và 7 ty giữ các việc lien quan đến binh nhung.
    Biện nghiệm:Theo Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử- chức Thái y biện nghiệm làm nhiệm vụ thăm khám cho người bệnh.
    Bồi tụng :Là Á tướng, thứ bậc sau Tể tướng, từ thời Lê trung hưng thế kỉ XVII về sau chúa Trịnh nắm quyền mới đặt chức Bồi tụ phủ đường. Khi Lê Chiêu Thống lên ngôi năm Đinh Mùi (1787) đã bãi bỏ chức Bồi tụng mà lại đặt chức Tham tri như trước.
    Cai hợp:Chức quan trong các phiên ở phủ chúa Trịnh.
    Dưới thời các chúa Nguyễn là chức quan Tá nhị của 3 ty Xá sai, Lệnh sử và Tướng thần lại. Thời Minh Mạng (1829-1840) bỏ chức Cai hợp.
    Cai tổng:Đơn vị hành chính tổng có thể xuất hiện vào thời Mạc, thế kỉ XVI. Tổng lớn hơn xã, một tổng có thể gồm từ 3 đến 5 xã. Cai tổng là người cai quản tổng đó. Quyền hạn của Cai tổng cũng tương tự như Chánh tổng thời Nguyễn (1802-1945)
    Cẩm vệ y:Là cơ quan xét kiện thời Lê Thánh Tông. Về sau có sự thay đổi; theo Sử học bị khảo: Cấm quân 2 vệ Cẩm y và Kim ngô vệ nào cũng có Đô chỉ huy sứ, Thiêm tư, Trấn điện tướng quân, Lực sĩ hiệu uý, Đoán sự, Thiên hộ 5 sở Thiên hộ, Phó thiên hộ. Lương y sở, Lương y chính lại thuộc về Cẩm y… Cẩm vệ y thời Nguyễn gồm 10 đội túc trực; là thiên binh túc vệ vua (bảo vệ vua).
    Công bộ thị lang:là chức phó của Công bộ thượng thư. Thời Nguyễn trong mỗi bộ đặt Tả hữu Tham tri, đứng dưới Thượng thư, Tả Hữu Thị Lang đứng hang thứ ba.
    Cử nhân:học vị cấp cho người trúng tuyển kì thi Hương. Từ năm Giáp Thân (1404) Hồ Hán Thương định cách chức thi Cử nhân: Phép thi chia làm 4 kì, sau thêm kì thi viết chữ và tính (5 kì). Quân nhân, phường chèo, người có tội không được thi. Ai đỗ kì thi Hương được miễn lao dịch, miễn đi lính.
    Đại lý tự:Là tên cơ quan. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) đổi đặt 6 Viện là 6 Tự. Trong đó có các chức Khanh, Thiếu Khanh, Thừa.
    Nhà Nguyễn cũng đặt Đại lý tự. Năm Minh Mạng thứ 8 (1827) chuẩn định quan chế có Đại lý tự khanh, trật chánh tam phẩm. Đại lý tự thiếu khanh, trật chánh tứ phẩm. Viên ngoại lang 1 viên, chủ sự 2 viên, Tự vụ 2 viên, Bát cửu phẩm thư lại gồm 4 viên, vị nhập lưu Thư lại gồm 20 người. Đại lý tự cùng bộ Hình, Viện đô sát thành tam pháp ty xét việc hình án.
    Đại lý tự khánh: Trưởng quan của Đại lý tự.
    Đại tướng quân: Năm Bính Thân (1296) đời Trần lấy Phạm Ngũ Lão làm Hữu kim ngô vệ Đại tướng quân. Năm Ất Dậu (1405), thời Hồ Hán Thương, Đại tướng quân được giao trông coi các quân mới lập. Năm 1428, những vũ khí lớn cũng gọi là Đại tướng quân. Thời Nguyễn cũng dùng danh hiệu này.
    Đại nguyên soái: Thời vua Lê-chúa Trịnh, năm Kỉ Hợi (1599) chúa Trịnh Tùng tự phong Đô nguyên soái-Đại nguyên soái. Năm Mậu Thân (1668) Trịnh Tạc cũng tự phong Đại nguyên soái thượng sư thái phụ Tây Vương.
    Điển bạ: Năm Minh mạng thứ 8 (1827) đặt chức Điển bạ trong Quốc Tử Giám, trật tòng bát phẩm.
    Đề lại:Danh chức lại viên định năm Đinh Dậu (1477) quy định: Lại viên các nha môn ở trong không có xuất thân khi mới bổ sung cho làm Thông lại, sau 6 năm thăng làm Đề lại. Năm Gia Long thứ nhất (1802) mỗi phủ nha đặt 2 đề lại, 8 Thông lại; trật chánh cửu phẩm văn ban.

    Cấp sự trung: Trong sáu khoa đặt từ thời Lê Nghi Dân có các chức Đô cấp sự trung, Cấp sự trung, trật chánh thất phẩm, bát phẩm.
    Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), đặt chức Chưởng ấn Cấp sự trung, trật tòng tứ phẩm.
    Câu kê:Là chức quan trong các phiên của phủ chúa, đứng dưới chức Thiêm tri phiên. Trật chánh thất phẩm. Thời các chúa Nguyễn chức Câu kê có thay đổi.
    Chỉ huy sứ ty: Là chức quan Võ thời Nguyễn thuộc vệ Cẩm y, chỉ huy các đội thường trực và ty trấn phủ, trật chánh tam phẩm võ ban.
    Chính tự. Theo quan chế thời Bảo Thái, Trung thư giám Chính tự trật chánh thất phẩm. Thời Nguyễn quan Chính tự làm nhiệm vụ dạy học. Lấy Hàn lâm viện Kiểm thảo, Đãi chiếu sung vào
    Chiêu văn quán, Tú lâm cục: Theo Phạm Đình Hổ, thời Hồng Đức (1470-1497) đặt ra Sùng văn quán, Tú lâm cục. Con của các quan ở ban văn từ tam phẩm trở lên, được bổ làm học sinh Sùng văn quán. Con các quan từ ngũ phẩm tr?lên được bổ làm học sinh Tú lâm cục... nếu như nghiệp của họ không tinh, cho lui về làm quan viên tử.
    Đến thời hậu Lê (từ Lê Trang Tông 1533-1548) trở đi đổi Sùng văn quán làm Chiêu văn quán, con các quan ở phẩm hàm cuối gọi là Tú lâm cục.
    Công bộ : Là một trong sáu bộ, đặt từ thời Lê Nghi Dân. Công bộ đảm trách việc xây dựng thành hào, cầu cống, đường xá, tu sửa, xây dựng nhà sở; thi hành lệnh cấm về núi rừng, vườn tược, sông.
    Biên chế Công bộ thời Nguyễn gồm: 1 Thượng thư, 2 Tả Hữu Tham tri, 2 Tả Hữu Thị lang, 3 Lang trung, 3 Viên ngoại, 4 Chủ sự, 4 Tư vụ, 8 chánh bát phẩm Thư lại.
    Công bộ Thượng thư: Quan đứng đầu bộ Công, theo quan chế thời Hồng Đức và Bảo Thái cho hàm tòng nhị phẩm; thời Nguyễn cho hàm Chánh nhị phẩm, thuộc hàng Chánh khanh.
    Đề điệu: Tên chức quan. Trong các kỳ thi Hội thời Lê có một quan đứng đầu trường thi (Chánh chủ khảo) là Đề điệu. Chức này thường dùng đại thần không kể quan văn hay võ. Thời Nguyễn nó dùng chức Đề điệu, thường củ người có khoa bảng giữ chức
    Đô ngự sử:Thời Lê Thái Tổ theo quan chế thời Trần, đặt Ngự sử đài có các chức Thị ngự sử, Ngự sử trung thừa, Phó trung thừa, Giám sát ngư sử, Chủ bạ; sau đặt Đô ngự Sử, Phó đô ngự sử, Thiêm đô ngự sử cùng trưởng quan là Ngự sử đại phu. Đô ngư sử giữ phong hóa pháp độ, chức rất trọng. Thời Nguyễn chức quan đứng đầu Đô sát viện trật chánh nhị phẩm văn ban.
    Đô đốc : Thời Quang Thái nhà Trần đặt chức Đô đốc ở các bộ. Năm Tân Ty (1461) bổ dụng Lê Lộng làm Đô đốc bình chương quân quốc trọng sự. Đô đốc kiêm chức Tế tướng. Năm Bính Tuất (1466) bắt đầu đặt quân 5 phủ: Trung quân phủ, Đông quân phủ, Tây quân phủ, Nam quân phủ, Bắc quân phủ. Gọi là ngũ quân Đô đốc phủ. Có các chức Tả Hữu Đô đốc, Đô đốc đồng tri, Đô đốc thiêm sự chuyển giữ việc quân. Quan chế thời Hồng Đức cho Tả Hữu Đô đốc trật tòng nhất phẩm.
    Đô đốc phủ: Năm Đinh Sửu (1397) định lại quy chế về quan ngoài cấp bộ đặt phủ Đô đốc để trông coi.
    Đô lại: Danh chức này định ra từ năm Đinh Dậu (1477). Thư lại sau 3 năm làm việc sung làm Đại lại, tiếp theo 3 năm nữa thăng là Điển lại, 3 năm nữa không phạm lỗi gì sẽ được thăng Đô Đạo các Thừa lệnh sở ở các nha phủ làm việc Bầu 3 năm thì thăng Đô lại
    Đốc đồng:Theo Phan Huy Chú chức Đốc đồng đặt ra từ thời Lê trung hưng. ở các trấn đặt chức Đốc đồng; khám xét việc kiện cáo Chức Đốc đồng dùng quan tứ phẩm, ngũ phẩm trở xuống
    Đồng tri phủ:Năm Bính Tuất (1466), bãi bỏ các lộ, trấn, đổi đặt là phủ. Đổi An phủ sứ làm Tri phủ. Trấn phủ sứ làm Đồng tri phủ. Theo quan chế thời Bảo Thái (1720-1729) Đồng tri phủ trật chánh thất phẩm.
    Đông các hiệu thư:Theo quan chế thời Hồng Đức, năm Tân Mão (1471) đặt chức Đông các hiệu thư, trật chánh lục phẩm; vinh phong Mậu lâm lang ngang với Hàn lâm viện Thị thư.
    Đồng tri châu: Thời Hồng Đửc đổi trấn làm châu, đổi Phòng ngụ làm Tri châu, Đồng Tri châu là Phó của Tri châu, cùng cai quản một châu. Quan chế thời Bảo Thái cho trật tòng bát phẩm.
    Đốc học: Là Học quan cấp tỉnh thời Nguyễn. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823) đặt chức Phó Đốc học ở một số nơi.
    Đội trưởng: Tổ chức quân đội thời Nguyễn chia mỗi đội thành 50 người, đặt Cai đội 1 người, Đội trưởng và Ngoại uỷ Đội trưởng 2 người. Đội trưởng quân ở các tỉnh trật tòng thất phẩm.
    Đồn điền sở. Lập sở đồn điền từ năm Tân Sửu (1481). Sở này có chức năng quản lý việc làm ruộng. Trưởng quan là Đồn điền sứ.
    Đồn điền sở phó sứ. Là chức phó của Đồn điền sở sứ thời Lê.
    Giáp: Là tổ chức quần chúng tự nguyện tập hợp những người đàn ông trong một làng, cùng lo việc tế thần và giúp nhau trong cuộc sống. Giáp có một Giáp trưởng do cả Giáp bầu ra. Giáp thường đặt tên theo phương hướng, theo số thứ tự, theo tên chữ. Giáp xuất hiện từ thời Hồng Đửc, nửa sau thế kỷ XV.
    Giải nguyên.Người đỗ đầu trong kỳ thi Hương thời Nguyễn.
    Giảng dụ: Là chức quan giảng dạy trong cung thời Bảo Thái, trật chánh cửu phẩm.
    Giám sát ngự sử: Theo Phan Huy Chú: Thời Lê Thánh Tông đặt chức Giám sát ngự sử và 13 Giám sát ngự sử ở các đạo. Thời Lê trung hưng về sau theo đó không đổi. Ngự sử đài trông coi công việc của Ngụ sử 13 đạo. Giám sát ngự sử 13 đạo trật chánh thất phẩm.
    Giám sinh: Là học sinh Quốc Tử Giám, đặt ra từ thời Lê. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục: Người nào thi Hương trúng 4 kỳ được sung vào học tại Quốc Tử Giám. Giám sinh chia làm 3 xá: Thượng xá sinh, trung xá sinh, hạ xá sinh. Thời Nguyễn những học sinh đã đỗ Cử nhân, chuẩn bị thi Hội được vào học ở Quốc Tử Giám.
    Hàn lâm viện: Là tên cơ quan. Từ thời Lý đã đặt Hàn lâm viện và đặt chức Học sĩ. Nhà Lê cũng noi theo thời Lý-Trần đặt Hàn lâm viện có chức Phụng chỉ, Thị độc, Thị giảng, Trực học sĩ, Tri chế cáo, Đãi chế, Hiệu điểm. Sau lại đặt Đại học sĩ. Thời Lê Thánh Tông bỏ Đại học sĩ đặt Thừa chỉ, Thị độc, Thị giảng, Thị thư, Đãi chế, Hiệu lý, Tu soạn, Kiểm thảo, trật từ chánh tứ phẩm trở xuống. Nhà Nguyễn vẫn đặt Hàn lâm viện, tuy có thay đổi một số chức trong đó: Hàn lâm viện Chưởng viện học sĩ, Trực học sĩ, trật Chánh tam phẩm. Hàn lâm viện Thị độc học sĩ chánh tử phẩm trở xuống.
    Hàn lâm viên biên tu:Chức này trong Viện Hàn lâm được đặt từ năm Minh Mạng thứ 8 (1827), trật chánh thất phẩm.
    Hàn lâm viện Đãi chiếu: Nhà Lê đặt Hàn lâm, trong đó có chức Đãi chế. Nhà Nguyễn trong Viện Hàn lâm có chức thấp nhất tòng cửu phẩm gọi là Hàn lâm Đãi chiếu.
    Hàn lâm viện Hiệu thảo: Theo quan chế thời Bảo Thái có chức Hàn lâm viện Hiệu thảo, trật tòng thất phẩm.
    Hàn lâm viện Thị độc: Theo quan chế thời Hồng Đức, Hàn lâm viện Thị độc trật chánh ngũ phẩm. Thời Nguyễn cũng có chức quan Hàn lâm viện Thị độc.
    Hình bộ Hữu Thị lang:Chức quan đứng hàng thứ ba trong bộ Hình thời Nguyễn, trật chánh tam phẩm. Thời Lê, Hữu Thị lang là chức phó của Thượng thư.
    Hình bộ Tả Thị lang: Chức quan đứng thứ ba trong bộ Hình thời Nguyễn, trật chánh tam phẩm. ởthời Lê Tả Thị lang cũng là chức phó của Thượng thư.
    Hình bộ Thượng thư: Là trưởng quan của bộ Hình. Theo quan chế thời Hồng Đức Thượng thư trật tòng nhị phẩm; thời Nguyễn chánh nhị phẩm.
    Hiến sát sứ: Là trưởng quan của Hiến sát sứ ty. Theo quan chế thời Hồng Đức, chức Hiến sát sứ, Hiến sát phó sứ chức vụ là đàn hặc, xét hỏi, khám đoán, hội đồng kiểm soát, khảo khoá, tuần hành... Thời Bảo Thái, Hiến sát sứ hàm chánh lục phẩm.
    Hiến sát phó sứ: Là chức quan thứ hai, sau Hiến sát sứ; theo quan chế thời Bảo Thái hàm chánh thất phẩm.
    Hoàng giáp: Học vị gọi những người thi Đình đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân- đỗ thứ hai trong kỳ thi Đình.
    Hộ bộ Hữu Thị lang: Chức quan dưới Thượng thư và Tham tri; có Tả, Hữu 2 người, trật chánh tam phẩm.
    Hộ bộ Thượng thư: Trưởng quan của bộ Hộ, trật tòng nhị phẩm. Thời Nguyễn hàm chánh nhị phẩm. 
    Hoành từ khoa: Năm Đinh Hợi (1467) mở khoa Hoành từ để chọn nhân tài- văn hay học rộng. Quan từ tứ phẩm trở xuống đều được dự thi. Người nào trúng tuyển được vào học ở Bí thư giám.
    Hội chủ: Người đứng chủ một hội như Hội thiện, Hội sãi vãi, thường làm các việc hưng công, trùng tu, xây dựng đình, chùa, quán... ở làng xã trước kia.
    Hữu Thị lang: Là chức phó của Thượng thư thời Lê, trật tòng tam phẩm; có Tả, Hữu Thị lang. ởthời Nguyễn Tả, Hữu Thị lang đứng dưới chức Tả, Hữu Tham tri. 
    Hương cống: Học vị của người đỗ khoa thi năm Canh Thân (1740) thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738- 1765). Khoa thi này có 4 kỳ, ai đỗ kỳ thứ 4 gọi là Hương cống, sẽ được bổ làm Tri phủ, Tri huyện, Huấn đạo.
    Huấn đạo phủ: Đạt từ thời Lê. Thời Nguyễn phủ nào có Tri phủ thì đặt Giáo thụ, có Đồng Tri phủ thì đặt Huấn đạo 1 người. Huyện cũng đặt 1 Huấn đạo. Châu sát biên giới không đặt chức này. Huấn đạo ở các huyện thời Nguyễn thường là chánh thất phẩm, tòng thất phẩm, hoặc chánh bát phẩm văn giai.
    Huyện thừa: Thời Quang Thuận, năm Canh Thìn (1460) đổi chức Chuyển vận sứ làm Tri huyện, Tuần sát làm Huyện thừa. Thời Hồng Đức Huyện thừa trật tòng thất phẩm.
    Khán thủ:Là chức việc hàng xã đặt từ thời Lê; có trách nhiệm đảm bảo an ninh trong làng xã, giống như chức Trương tuần thời Nguyễn.
    Khoa Sĩ vọng: Theo Lê Quý Đôn – Kiến văn tiểu lục, thì khoa thi Sĩ vọng cũng gọi là khoa Hoành từ (xem khoa Hoành từ), chỉ có Cống sĩ mới được dự thi, nhằm cất nhắc những sĩ tử có danh tiếng mà lâu nay bị chìm đắm, chưa được trọng dụng. Khoa Sĩ vọng đặt ra từ tháng 8 năm ất Sửu (1625).
    Khoá sinh: Là học trò thi trúng cách lần thứ hai ở huyện, trong những kỳ thi chọn người đi thi Hương.
    Kỳ Anh quán:Là nơi tụ hội của các hưu quan làng Mộ Trạch để bình thơ, văn hoặc sát hạch học trò trước kỳ thi Hương.
    Lại bộ: Đặt từ thời Lê Nghi Dân năm Kỷ Mão (1459); là một trong sáu bộ. Các quan gồm có Thượng thư (đúng đầu) Tả Hữu Thị lang, Lang trung, Viên ngoại lang, Tư vụ. Thời Nguyễn quan chức Lại bộ gồm : 1 Thượng thư, 2 Tả Hữu Tham tri, 2 Tả Hữu Thị lang, 3 Lang trung, 3 Viên ngoại lang, 4 Chủ cự,  4 Tư vụ, 8 bát phẩm Thư lại, 8 cửu phẩm Thư lại và 50 vị nhập lưu Thư lại.
    Lại bộ Tả Thị lang: Theo quan chế Nguyễn, đó là chức quan đứng hàng thứ ba trong bộ Lại, trật chánh tam phẩm, ngang hàng với quan Hữu Thị lang.
    Lang y (Lương y): Người làm nghề thày thuốc trong dân gian.
    Lễ bộ Thượng thư: Quan đứng đầu bộ Lễ (một trong 6 bộ thời Lê). Thời Hồng Đức cho hàm nhị phẩm, thời Nguyễn hàm chánh nhị phẩm. Thời Lê năm ất Mão (1675), định rõ chức vụ của 6 bộ; bộ Lễ đảm trách giữ việc Lễ nghi tế tự, khánh tiết, yến tiệc, trường học thi cử, ấn tín, phù hiệu, áo mũ, chương tấu biểu văn, sứ thần cống nạp, các quan chào mừng, tư thiên giám, thuốc thang, bói toán, đạo lục, đồng văn nhã nhạc, giáo phường. Quan chế thời Nguyễn, biên chế gồm: 1 Thượng thư, 2 Tả Hữu Tham tri, 2 Tả Hữu Thị lang, 3 Lang trung, 3 Viên ngoại, 4 Chủ sự, 5 Tư vụ, 7 Viên chánh bát phẩm Thư lại, 8 viên chánh cửu phẩm Thư lại và 50 vị nhập lưu Thư lại.
    Lệnh sử: Theo Lịch triều hiện chương loại chí: Lệnh sử được quyền khám hỏi các việc lặt vặt của các xã dân kiện nhau. Việc quan hệ đến hình luật thì do quan có thẩm quyền xét xử.
    Lý trưởng: Người đứng đầu hàng xã, giống như Xã quan- Xã trưởng trước đây. Chức Lý trưởng được đặt ra từ thời Minh Mạng (1820-1840) là người đứng đầu chính quyền cấp cơ sở của chế độ phong kiến và thực dân sau này.
    Nhiêu nam: Là danh hiệu đặt từ thời Lê để gọi nam giới ở trong các làng xã đã ở tuổi 55-60 (được miễn phu phen tạp dịch). Hoặc dùng để tặng những người có công bắt được trộm cướp ở làng, tuy chưa đến tuổi trên.
    Nho sinh: Theo Cương mục: Con cháu các quan viên được sung vào học ở Chiêu văn quán, hoặc Tú lâm cục gọi là Nho sinh.
    Nho sinh trúng thức: Thời Lê chia học trò làm hai hạng gồm: Nho sinh trúng thức, Giám sinh và Nho sinh, Sinh đồ; tuỳ theo tài đức của mỗi hạng mà bổ dụng.
    Nhập nội hành khiển: Đặt từ thời Lý, chuyên dùng hoạn quan ở chức đó. Đời Trần thời Thiệu Phong (1341-1357) dùng người có văn học giữ chức Nhập nội hành khiển: Chức này đứng sau chức Tể tướng.
    Phó bảng: Học vị được đặt thêm từ năm Minh Mạng thứ 10 (1829). Phó bảng xếp sau Tiến sĩ, không được dự thi Đình. Tên được ghi vào bảng đỏ, không được khắc vào bia đá.
    Phó tổng: Cấp phó của Chánh tổng được đặt từ thời Gia Long (1802- 1819). Tổng gồm từ 3 đến 5, 6 xã, Chánh tổng đứng đầu tổng. Phó tổng phụ tá cho Chánh tổng, được trật tòng cửu phẩm võ giai.
    Phó câu kê: Là chức quan trong các phiên của phủ chúa Trình, trật tòng thất phẩm.
    Phó sở sứ: Chức quan phó quản lý các sở như các sở đồn điền, sở tầm tang, điển mục... Bách ký sở.
    Pháp môn phù thuỷ: Là người hành nghề cúng bái, ma thuật.
    Phủ doãn: Chức quan đặt thời Lê, cai quản phủ Phụng Thiên (tức kinh đô Thăng long ) trật chánh ngũ phẩm. Thời Nguyễn đặt Phủ doãn phủ Thừa Thiên, trật chánh tam phẩm.
    Phụ quốc Thượng tướng: Đặt từ thời Lý. Lý Thường Kiệt được phong Phụ quốc Thượng tướng quân khai quốc công.
    Quan sử- Sử quan, người làm công việc biên chép sử thời phong kiến.
    Quản giáp: Nhà Lý chia đặt bình thành từng giáp, mỗi giáp gồm 15 người; đặt 1 người Quản giáp.
    Quận công: Theo quan chế thời Hồng Đức- Quận công về văn ban ngang chánh thất phẩm, võ ban tương tự. Thời Nguyễn Quận công là bậc thứ 4 trong tôn tước rất ít khi phong cho người còn sống; lấy tên Huyện làm tước danh; không ban thực ấp. Bậc này được chánh nhị phẩm. Có phủ đệ riêng với 1 Thư lại, 5 nhân viên phục vụ.
    Quốc Tử Giám: Quốc Tử Giám lập từ thời Lý Nhân Tông năm 1076. Đây là nhà Quốc học- trường học đầu tiên ở nước ta.  Năm Quý Sửu (1253) Trần Thánh Tông cho đổi thành Quốc Học Viện, sau đổi là Thái Học Viện, làm nơi giảng dạy cho con em vua quan và học trò giỏi trong cả nước. Địa điểm tại Văn Miếu, Hà Nội nay. Quốc Từ Giám thời Trần có Tư nghiệp coi việc dạy Hoàng tử học tập. Quốc Tử Giám thời Lê có Tế tửu, Tư nghiệp, Ngũ kinh, Giáo thụ, Ngũ kinh học sĩ, Giám bạ. Học sinh trong Quốc Tử Giám là Giám sinh. Thời Nguyện Quốc Tử Giám dời vào kinh đô Huế.
    Người trong họ Tôn Thất được chọn vào học ở Quốc Tử Giám gọi là Tôn sinh. Năm Gia Long thứ 3 (1804) đặt chức Đốc học bậc chánh tứ phẩm, Phó Đốc học, trật tòng tứ phẩm, quản lý Quốc Tử Giám. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821) đổi đặt chức Tế tửu, Tư nghiệp bậc như cũ. Về sau Quốc Tử Giám đặt ở Di Luân Đường trong nội (thành) với hệ thống giảng đường, ký túc xá và nhà sách. Học sinh trường Quốc Tử Giám gồm: Tôn sinh do Tôn nhân phủ chọn; Cống sinh do các địa phương chọn; ấm sinh chọn từ các con quan; Cử nhân do bộ Lễ chọn vào học, năm sau cho dự kỳ thi Hội.
    Sinh đồ. Theo Cương mục, người thi Hương trúng 3 kỳ gọi là Sinh đồ. Sinh đồ tương đương học vị Tú tài thời Nguyễn.
    Sứ bộ: Chỉ các thành viên trong đoàn đi sứ nước ngoài trước đây.
    Sử quán Tổng tài: Người đứng đầu biên soạn quốc sử trong Quốc Sử Quán triều Lê- Nguyễn.
    Tả Bộc xạ: Thời Trần coi Tả Hữu bộc xạ là Hữu tướng quốc tức là Thái tế - Tể tướng.
    Tả Đô đốc: Chức chỉ huy Bắc quân đặt thời Lê Thánh Tông, tước Bá.
    Tả Thị lang: Đặt từ thời Quang Thuận (1460-1469). Thời Nguyễn 6 bộ đều đặt chức Tả Hữu Thị lang, trật chánh tam phẩm.
    Tam trường: Kỳ thi Hương gồm tứ trường, ai đậu tam trường là Sinh đồ; đậu tứ trường được vào học Quốc Tử Giám.
    Tập ấm: Chế độ nhà Nguyễn quy định con được kế thừa nghề của cha.
    Tể tướng: Đặt từ thời Lê Hoàn năm Kỷ Mùi (995). Thời Lý Thái Tông (1028- 1054) đặt chức Phụ quốc Thái uý ngang chức Tể tướng. Thời Lê Thánh Tông bãi chức Tế tướng.
    Thái bảo: Đặt từ thời Lý (1010). Đời Lê cũng có chức này, trật chánh nhất phẩm.
    Thái bộc tự thiếu khanh: Chức đứng hàng thứ hai của Thái bộc tự; cơ quan giữ việc âm dương, bói toán. Thời Bảo Thái; trật chánh lục phẩm.
    Thái y viện: Lập từ thời Lê. Có Viện đại sứ, Phó sứ, Ngự y, chánh phó thuộc bộ Lễ, chuyên trách việc chữa bệnh trong cung.
    Tham chính:Đặt từ thời Nguyễn, trật tòng nhất phẩm.
    Tham đốc: Đặt từ thời Hồng Đức, trật tòng nhị phẩm.
    Tham nghị:Chức quan đại thần triều Nguyễn, trật tòng nhất phẩm.
    Tham tri: Đặt từ thời Lê thế kỷ XV, coi việc sổ sách quân dân của một đạo. Theo quan chế thời Minh Mạng Tả Hữu Tham tri trật tòng nhị phẩm văn giai.
    Tham tụng: Thời Hoàng Định (1600-1619) đặt chức Tham tụng làm việc trong phủ chúa. Tham tụng là Tể tướng.
    Thị lang: Đặt từ thời Lý. Thời Hồng Đức có Tả, Hữu Thị lang, chức phó của Thượng thư, trật chánh tam phẩm.
    Thí sai: Chức quan thời kỳ tập sự, sau 3 năm mới được bổ dụng
    Thiêm sự: Đặt thời Lê Thái Tổ (1428: 1433) thuộc Mật viện, trật chánh ngũ phẩm. Thời Gia Long bỏ chức này.
    Thiếu doãn phủ: Chức phó của Doãn (phủ) Phụng Thiên (Thăng Long), trật chánh lục phẩm.
    Thông chính phó sứ: Chức quan hàng thứ hai ở cơ quan Thông chính sứ ty thời Nguyễn, trật tòng tam phẩm.
    Thông chính sứ: Đứng đầu cơ quan Thông chính sứ ty, trật tòng tứ phẩm. 
    Thông lại:chức dưới Đề lại làm việc ở huyện thời Nguyễn. Mỗi phủ đặt 5-8 Thông lại, huyện 4-7 Thông lại.
    Thông phán: Đặt từ đời Trần; thời Nguyễn, Thông phán, trật tòng ngũ phẩm.
    Thư ký Hội đồng hương chính: Theo nghị định (ngày 12 tháng 8 năm 1921) của Thống sứ Bắc Kỳ về việc cải lương hương chính lần thứ nhất, quy định tại các làng xã Hội đồng kỳ mục sẽ được thay thế bằng Hội đồng tộc biểu hay còn gọi là Hội đồng hương chính. Hội đồng này do các họ cử người tham gia. Họ đông người có thể cử từ 2 đến 4 người; họ nhỏ cử 1 người. Hội đồng hương chính do Chánh hương hội đứng đầu, giúp việc có Phó hương hội, Trương tuần và Thư ký Hội đồng. Hội đồng tộc biểu tồn tại đến năm 1927 thì chính quyền bảo hộ lại phải khôi phục Hội đồng kỳ mục như trước kia. Cuộc cải lương hương chính của chính quyền bảo hộ thất bại.
    Thừa chính sứ: Chức quan đặt từ thời Quang Thuận (1460- 1469). Năm Bính Tuất (1466) Lê Thánh Tông chia nước ta làm 12 đạo. Mỗi đạo đặt chức Đô ty và Thừa ty. Đặt chức Thừa chính sứ (trưởng quan) và Thừa chính phó sứ; dưới có Tham chính, Tham nghị.
    Thừa tuyên sứ: Khoảng giữa thời Hồng Đức (1470- 1497) đặt 13 Thừa tuyên trong nước. Dùng đầu mỗi Thừa tuyên có Thừa tuyên sứ.
    Thượng bảo khanh: Chức trưởng quan của Thượng bảo tự, thời Bảo Thái (1705- 1729) trật chánh ngũ phẩm. Thời Nguyễn trật tòng tam phẩm văn giai.
    Thượng thư: Chức Thượng thư đặt từ thời Lý, chức quan đứng đầu phụ trách bộ, nhưng tên các bộ chưa rõ. Đến thời Trần ; Đại Khánh (1314- 1324) và Quang Thái (1388- 1398) mới đặt Thượng thư các bộ. Lê Thánh Tông đặt Thượng thư 6 bộ: Lại, Hình, Lễ, Công, Binh, Hộ. Thượng thư được ban an của bộ và trật tòng nhị phẩm.
    Trạng nguyên: Người đỗ đầu trong kỳ thi thời Trần. Năm Đinh Mùi (1247) chính thức định ra Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Đó là 3 người đỗ ở vị trí thứ nhất, nhì, ba trong kỳ thi Thái học sinh (kỳ thi Đình từ thời Lê về sau).
    Trạng Trình: Nguyễn Bình Khiêm đỗ Trạng nguyên khoa thi năm ất Mùi (1535). Ông làm quan với nhà Mạc đến chức Thượng thư bộ Lại, Thái phó, tước Trình Quốc công. Vì thế ông được gọi là Trạng Trình.
    Trấn thủ: Chức quan đứng đầu các trấn thời cuối Lê đầu Nguyễn (cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX), khi chưa đặt cấp tỉnh.
    Tri châu: Chức quan làm việc bên ngoài kinh đô đặt từ thời Lý Thái Tông (1028- 1054). Thời Quang Thuận đổi Phòng ngự sứ làm Tri châu, trật tòng thất phẩm. Thời Nguyễn bắt đầu dùng Thổ Tri châu. Từ năm 1836 Minh Mạng áp đặt chế độ lưu quan ở miền núi, trật chánh lục phẩm đến chánh ngũ phẩm.
    Tri huyện: Trưởng quan cấp huyện thời Nguyễn.
    Tri phủ: Thời Trần đặt cấp hành chính gọi là phủ. Phủ do lộ quản. Trưởng quan có Tri phủ, phó chức là Tri phủ đồng tri. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đặt Tri phủ, Tri huyện mỗi hạt một viên. Có nơi đặt Đồng Tri phủ, trật chánh lục phẩm.
    Triều liệt đại phu: Tên thuỵ ban cho chức quan trật tòng tứ phẩm văn giai thời Nguyễn.
    Tú tài: Người tham dự thi Hương thời Nguyễn, đỗ tam trường thì gọi là Tú tài.
    Tuần kiểm sứ: Chức quan coi cửa ải, đặt từ năm Mậu Thân (1488) thời Lê Thánh Tông.
    Tuần phủ: Chức quan đứng đầu tỉnh thời Nguyễn.
    Tư huấn: Chức trưởng quan của Tú lâm cục, Chiêu văn quán và Sùng văn quán thuộc Viện Hàn lâm.
    Tư nghiệp, Tế tửu: Xem - Quốc Tử Giám.
    Tự thừa: Chức quan coi việc giữ đền miếu ở các tỉnh và kinh đô, đặt từ thời Minh Mạng (1820-1840).
    Viên ngoại lang: Chức quan đặt từ thời Trần, làm công việc ngoại giao. Thời nguyễn Viên ngoại lang đứng háng thứ hai mỗi ty, sau chức Lang trung, trật chánh ngũ phẩm văn giai.
    Vinh lộc đại phu: Chức tản quan bên ngạch văn, võ thời Lê. Nhà Nguyễn lấy thuỵ hiệu đó phong cho các quan trật tòng nhất phẩm.
    Vệ uý: Chức quan võ chỉ huy các vệ Cẩm y, Kim ngô, Vệ loan giá thời Nguyễn.
    Xã chính: Chức quan đứng đầu hàng xã thời Lê.
    Xã sử: Chức phó, giúp việc cho xã Trưởng thời Lê.
    Xã trưởng: Chức quan đứng đầu hàng xã thời Lê.


Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen