Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một
bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết? Sở dĩ cần
có sự sửa chữa là vì tôi được đọc hai bài của giáo sư John C. Schafer, giáo sư
đại học Hubold State University.
Một bài viết về Phạm Duy, một bài về Trịnh Công Sơn. Trinh Cong Son Phenemenon và The curious memoirs of the Vietnamese composer Pham Duy.(1)
(1) Xin vào Google kiếm tìm
Một bài viết về Phạm Duy, một bài về Trịnh Công Sơn. Trinh Cong Son Phenemenon và The curious memoirs of the Vietnamese composer Pham Duy.(1)
(1) Xin vào Google kiếm tìm
Phải
nhìn nhận theo thói quen làm việc của người Mỹ, ông John C.Schafer tra cứu rất
nhiều tài liệu, dẫn chứng đầy đủ đến nơi đến chốn. Có những tài liệu dẫn chứng
khiến tôi giật mình. Chẳng hạn
ông dẫn chứng một tài liệu trong tờ Nghệ Thuật, số 38-39, tháng 3, 1995, một tờ
báo ở ngay chính địa phương tôi ở mà tôi vô tình không để ý tới. Thứ hai, ông
tránh được thiên khiến và ít đưa ra những phê phán tiêu cực.
Nhưng cũng vì thế, ông tránh đề cập đến
những “liên hệ có thể” của Trịnh Công Sơn với phía cộng sản qua bạn bè của họ
Trịnh như Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng như việc TCS hát trên đài phát thanh Sai
gon vào ngày 30 tháng 4. Những mối liên hệ này đã được ông Nguyễn Thanh Ty
trong bài viết: ” Một quãng đời của TCS” trong đó có phần lật tẩy “Nguyễn Đắc
Xuân” trong bài viết : “Trịnh Công Sơn Cao Nguyên bụi đỏ sương mù”. Trong tài
liệu của ông Nguyễn Thanh Ty cho hay ngay trong giới đồng nghiệp của Trịnh Công
Sơn ở Bảo Lộc đã chia rẽ ra hai phía rõ rệt. Kẻ lên án, kẻ không. Ông John.C
Schafer cũng đọc tài liệu này, nhưng không nhắc nhở tới dư luận, tới những vấn
đề tranh luận chung quanh TCS. Nhất là những tranh luận ngay sau khi TCS chết
như với bài viết mở đầu cho những tranh luận: Bi kịch Trịnh Công Sơn của họa sĩ
Trịnh Cung. Đó là những vấn đề nhậy cảm mà ông John. C. Schafer tránh đề cập tới.
Nhưng trong hoàn cảnh VN- một hoàn cảnh
chiến tranh khốc liệt trước cái sống chết trong gang tấc- Không thể nào mà
không có chọn lựa chính trị. Đó là một chọn lựa cho mỗi người VN. Cho nên những
bài hát của họ Trịnh hay Phạm Duy- dù là mang đậm nét nghệ thuật- dù là tính
nhân bản hay triết học cao- cũng xuất phát từ những hoàn cảnh chiến tranh VN.
Chẳng hạn khi nói về những xác chết, về những bom đạn, về sự tàn phá man rợ của
chiến tranh thì vẫn là chiến tranh nào? Xác chết ấy do đâu mà đến?
Mỗi xác chết, dù là đàn ông, đàn bà, trẻ
con- dù chết ở đồng ruộng hay chết bờ chết bụi thì cũng có một danh tính, một
lý lịch. Và kẻ cầm súng nào thì cũng có một sắc phục, một mầu cờ ..Không có cái
chết chung chung, chết tình cờ, nhưng không !! Vấn đề là con ngươi đứng ở góc độ
nào để nhìn những xác chết ấy.
Bài viết về Phạm Duy của ông John. C.
Schafer chủ yếu dựa trên Hồi ký của Phạm Duy mà ông dùng làm tựa đề: The
curious memoirs of the Vietnamese composer Pham Duy (Tất cả những bài viết trên
đây, mọi người có thể tìm thấy dễ dàng khi bấm vào Google.com sẽ tìm đọc được,
nhưng nhiều bài chỉ có trích đoạn) . Vì thế phần không nhỏ của bài viết đưa ra
thật đầy đủ chi tiết về những mối tình lớn nhỏ của ông Phạm Duy. Tuy nhiên, giá
ông dựa thêm vào cuốn Ngàn lời ca thì sẽ làm rõ hơn trong trường hợp nào, Phạm
Duy đã sáng tác được bài nọ, bài kia.
Tuy nhiên vì tránh những mặt tiêu cực
trong viêc sàng tác của Phạm Duy, ông J.C. Schafer không triển khai đủ sự vay
mượn, sự thay đổi ca từ, sự bắt chước, sự theo thời của một thứ chủ nghĩa cơ hội
của Phạm Duy.v.v.
Vì thế, sự chọn lựa thái độ viết một cách
bàng quan của giáo sư John. C. Schafer vẫn là sự chọn lựa của một người ngoại
cuộc, đứng ngoài nhìn vào. Mặc dù ông đà nhiều năm sống ở Việt Nam, lấy vợ VN,
rất am tường văn hóa VN, yêu mến VN nữa. Ông phân tích và hiểu sâu sắc việc xử
dung ngôn từ một cách diệu ảo của TCS trong các bài nhạc. Nhưng có thể ông chỉ
nhìn những nhạc sĩ này như những nghệ nhân thuần túy bất kể đến hoàn cảnh sáng
tác của họ. Đó là họ đang sống, đang sáng tác từ một hoàn cảnh chiến tranh.
Chính hoàn cảnh chiến tranh đã khơi nguồn cho những sáng tác của họ. Bài viết của
ông J.C Schafer vì thế thiếu một sự quân bình cần thiết về công việc sáng tác
và hoàn cảnh sáng tác.
Bài viết của tôi chủ yếu chỉ viết về Phạm
Duy và tôi muốn nhấn mạnh tới tiến trình sáng tác một bản nhạc của ông trong bối
cảnh hai cuộc chiến tranh ấy.
Nói về “cái chết” của Phạm Duy, tôi chỉ lặp
lại điều mà Nguyễn Trọng Văn dùng trong bài nói truyện tại trường Đại Học Văn
Khoa Sàigòn vào ngày 6-6-1971, do phong trào Tự Trị Đại Học tổ chức. Đề tài với
nhan đề: Phạm Duy đã chết như thế nào?
Bài nói truyện của Nguyễn Trọng Văn nói về
cái chết của Phạm Duy nhấn mạnh tới góc cạnh tha hóa chính trị của Phạm Duy mà
NTV coi là sự phản bội lý tưởng và một cách lôgich Phạm Duy bị coi như đã chết-
một thứ tự sát- mặc dầu ông vẫn sống .. Phần bài viết này phản biện lại bài viết
của Nguyễn Trọng Văn ..Phạm Duy không chết ở phạm vi chính trị, nhưng nếu PD có
chết thì cái chết ấy ở phạm vi đức lý giữa tài năng và nhân cách của nhạc sĩ
PD. Tài năng lớn phải đi đôi với một nhân cách lớn tương xứng.
Bài nói chuyện của NTV thời ấy hẳn gây được
tiếng vang trong giới văn học miền Nam lúc bấy giờ. Bởi vì ít nhạc sĩ nào có thể
so bì được với Phạm Duy.
Cùng lắm trừ một người. Trong cuốn Về một
quãng đời của TCS (tác giả Nguyễn Thanh Ty gửi cho tôi ở dạng bản thảo lúc chưa
in thành sách, sau này tác giả tự xuất bản vào năm 2004) có kể rằng, khi cùng ở
Blao, TCS có kể về Sài Gòn bán bản quyền bài hát ” Chiều một mình qua phố” cho
Duy Khánh với giá bán đứt bản quyền là 3000 đồng. TCS kỳ kèo thì được Duy Khánh
trả lời: “Phạm Duy là đắt nhất mà cũng chỉ tới 5000 đồng là cùng, ông là nhạc
sĩ mới, gíá vậy là cao lắm rồi”(2)
(2)Trích Về một quãng đời của Trịnh Công Sơn, Nguyễn Thanh Ty, bản thảo.
(2)Trích Về một quãng đời của Trịnh Công Sơn, Nguyễn Thanh Ty, bản thảo.
Co nên chọn Phạm Duy mà không chọn ai
khác là một chọn lựa chính trị có chủ đích của Nguyễn Trọng Văn. Cứ bề ngoài
thì Phạm Duy là một người đã bỏ hàng ngũ kháng chiến nay là một người quốc gia
“Chống Cộng”. Đánh đúng vào cái thành trì tiêu biểu là giới trí thức thành thị
miền Nam, đánh vào người nghệ sĩ nổi tiếng nhất và được quần chúng ưa chuộng nhất
lúc bấy giờ. Đồng thời tước đi cái ảo tưởng của một ý thức hệ Quốc Gia trong
chiến tranh sắp đến hồi chung cuộc.
1. Theo Nguyễn Trọng Văn, Phạm
Duy đã chết vì phản bội lại kháng chiến?
* Phạm Duy chối bỏ kháng chiến
* Phạm Duy chối bỏ kháng chiến
Nguyễn Trọng Văn đã nghĩ như thế. Đã viết
để chứng minh điều ấy. Nguyễn Trọng Văn cho rằng đã có rất nhiều thanh niên đã
theo kháng chiến và sau đó đã dời bỏ kháng chiến. Nhưng việc dời bỏ kháng chiến
của Phạm Duy là khác. NTV viết: “Trí thức theo Cách Mạng và bỏ cách mạng không
phải là điều khó hiểu, trách Phạm Duy như vậy có lẽ quá khắt khe.
Điều mà Nguyễn Trọng Văn lên án Phạm Duy
không phải ở chỗ từ bỏ kháng chiến mà chối bỏ và hơn thế xóa bỏ kháng chiến.
Xóa bỏ bằng cách thay đổi lời ca trong các bài nhạc làm trong thời kỳ kháng chiến.(3)
(3) Trích: Nguyễn Trọng Văn, Phạm Duy đã
chết như thế nào, nxb Văn Mới, trích tóm tắt các trang 33-34
Phải chăng Phạm Duy đã sửa toàn bộ các lời
ca có dính dáng đến kháng chiến? Không hẳn như thế. Nguyễn Trọng Văn đã tổng
quát hóa đến mức vu vạ cho Phạm Duy. Ông chỉ thay đổi một số từ liên quan xa gần
đến thời kháng chiến như tên Hồ Chí Minh, Vệ Quốc quân vv.. và để cho thuận
nghe, ông bắt buộc phải đổi cả câu
Và Nguyễn Trọng Văn kết luận:
Và Nguyễn Trọng Văn kết luận:
Phạm Duy kháng chiến ca của dân tộc đã chết.
Điều bi đát không phải bông hoa Phạm Duy chỉ nở một lần, điều bi đát là bông
hoa đó đã tự chọn cái chết như vậy.
“Khi Phạm Duy trở về, da mặt ông sần sượng hơn và dày thêm hai ly, máu ông đen lại, tim ông trở thành đá, đàn đứt hết dây, tiếng nói ú ớ tắc nghẹn.. (..) Chính Phạm Duy đã dứt dây đàn khi từ Mỹ về, chính Phạm Duy đã tự cứa cổ và nhét một quả táo thật lớn đầy mồm..(..)n Tình tự dân tộc, hùng khí kháng chiến rung động quê hương thân yêu không còn nữa, chúng ta đứng trước một người xa lạ. Có một khoảng cách thật lớn chia cắt Phạm Duy với mọi người “.(4)
(4)Trich Nguyễn Trọng Văn, Ibid , trang 39-41
“Khi Phạm Duy trở về, da mặt ông sần sượng hơn và dày thêm hai ly, máu ông đen lại, tim ông trở thành đá, đàn đứt hết dây, tiếng nói ú ớ tắc nghẹn.. (..) Chính Phạm Duy đã dứt dây đàn khi từ Mỹ về, chính Phạm Duy đã tự cứa cổ và nhét một quả táo thật lớn đầy mồm..(..)n Tình tự dân tộc, hùng khí kháng chiến rung động quê hương thân yêu không còn nữa, chúng ta đứng trước một người xa lạ. Có một khoảng cách thật lớn chia cắt Phạm Duy với mọi người “.(4)
(4)Trich Nguyễn Trọng Văn, Ibid , trang 39-41
Nguyễn Trọng Văn đã dùng cả một cuốn sách
để mạt sát Phạm Duy. Nhưng về một số điểm, có thể Nguyễn Trọng Văn nói không
sai, Phạm Duy không những sửa một lần mà sửa hai ba lần những bài ca của ông.
Và tùy thời, tùy lúc mà ông đã sửa. Điều đó nhiều lúc làm tôi không thể không
liên tưởng đến một thái độ xu thời hay một thứ chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa thực
dụng với một nhạy bén chính trị. Sự nhạy bén chính trị đó đáp ứng bằng những
sáng tác hợp thời cơ? Từ đó đặt ra vấn đề sáng tác là nguồn cảm hứng đích thực
hay chỉ là một nhu cẫu đòi hỏi cấp thời của một tình thế?
Tại sao ở thời điểm đó có kháng chiến ca, tình ca, đạo ca, tâm ca, tục ca? Đó cũng là những suy nghĩ và ngờ vực của tôi khi tìm hiểu về Phạm Duy? Tâm ca của ông có thực sự do những rung động chân thành khổng? Đặng Tiến cũng đặt những câu hỏi nghi ngờ như thế.
Tại sao ở thời điểm đó có kháng chiến ca, tình ca, đạo ca, tâm ca, tục ca? Đó cũng là những suy nghĩ và ngờ vực của tôi khi tìm hiểu về Phạm Duy? Tâm ca của ông có thực sự do những rung động chân thành khổng? Đặng Tiến cũng đặt những câu hỏi nghi ngờ như thế.
Và người ta đã chẳng ngại ngùng gì nói đến
một thứ trí thức for rent. Hơn ai hết Phạm Duy hiểu thâm ý của lời mỉa mai này.
Chẳng hạn Nguyễn Trọng Văn đưa trường hợp
bản nhạc Quê Nghèo trước đây ca ngợi tình quân dân đoàn kết chiến đấu nay trở
thành câu chuyện tình bông lơn, tán tỉnh nhau.
Lời cũ: Bao giờ anh lấy được đồn
Tây hỡi anh
Để em gánh nước cho người chiến binh
Để em gánh nước cho người chiến binh
Nay đổi ra:
Bao giờ em trỏ lại vườn dâu hỡi
em
Để cho anh bắc gỗ xây nhịp cầu bước sang
Để cho anh bắc gỗ xây nhịp cầu bước sang
Đến Vườn dâu mà cũng phải bắc gỗ xây nhịp
cầu thì kể cũng lạ. Có ép ý, ép lời không?
Trong Bài hát Tiếng sông Lô, cũng cùng một
cách thay đổi như trên:
Lời cũ: Quân cướp tham ô ngày nao đã chết
không ngờ
Nay đổi ra: Trăng nước mông mênh, thuyền trôi trên sóng đa tình
- Và nhất là bài Bà Mẹ Gio Linh đã được sửa
đổi một cách không nuối tiếc với ba lần in và sửa khác nhau:
Lời cũ: Nhà thì Tây đốt còn đâu
Ta vui câu chuyện Bác Hồ
Mẹ mừng con giết nhiêu Tây
Ra công xới vun cấy cầy (..)
Ta vui câu chuyện Bác Hồ
Mẹ mừng con giết nhiêu Tây
Ra công xới vun cấy cầy (..)
Lời mới: tuyển tập xuất bản tại Việt Nam
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen nầy
Mẹ mừng con đánh giặc hay
Ra công xới vun cấy cầy
Ta yêu con ta, môi trắng bết mầu cờ
Lời mới, tuyển tập Dân ca, Mỹ in và phát hành tại Mỹ
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen này
Mẹ mừng con đánh giặc hay
Ra công xới vun cấy cầy
Ta yêu con ta, môi thắm bết máu nhòa
Khuyên nhau báo thù phen nầy
Mẹ mừng con đánh giặc hay
Ra công xới vun cấy cầy
Ta yêu con ta, môi trắng bết mầu cờ
Lời mới, tuyển tập Dân ca, Mỹ in và phát hành tại Mỹ
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen này
Mẹ mừng con đánh giặc hay
Ra công xới vun cấy cầy
Ta yêu con ta, môi thắm bết máu nhòa
Từ đánh giặc Tây trong quân đội Bác Hồ.
Chữ nó được sửa lại thì nó là ai đây? Nó đây bây giờ phải được hiểu là Việt
công- quân đội cụ Hồ -.
Nguyễn Trọng Văn cũng đã hết lời ca ngợi
tiếng Sông Lô nói lên tất cả cái khí thế hào hùng, mưu trí và óc sáng tạo tuyệt
vời của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp, nay trở thành lời tâm sự của nghệ
sĩ đa tình tìm kiếm hạnh phúc trên dòng sông sâu.
Nguyễn Trọng Văn thất vọng là phải.
Nguyễn Trọng Văn thất vọng là phải.
Lời cũ: Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng
Thuyền tôi đợi bến Tuyên Quang
Nửa đêm trông ánh trăng vàng ( tôi ) nhớ anh (….)
Thuyền tôi đợi bến Tuyên Quang
Nửa đêm trông ánh trăng vàng ( tôi ) nhớ anh (….)
Lời mới:
Hỡi ai đi kiếm hạnh phúc trên đời
Mà chưa tìm thấy an vui
Lặng nghe tôi gửi đôi lời gió trăng …
Mà chưa tìm thấy an vui
Lặng nghe tôi gửi đôi lời gió trăng …
Nguyễn Trọng Văn kết luận:
“Các sáng tác trong thời kháng
chiến đều được Phạm Duy sửa lại lời, mất hết lịch sử tính và chiến đấu tinh, chỉ
còn là những bản của những tên lại cái, đồng cô bóng cậu” .(5)
(5) Trích NTV, Ibid, trang 34
(5) Trích NTV, Ibid, trang 34
Nhưng nếu NTV biết rằng sau này ở hải ngoại,
tôi lại tìm thấy trong Ngàn lời ca, Phạm Duy lại một lần nữa thay đổi bằng cách
giữ lại nguyên văn lời cũ như sau:
Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng
Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng
Thuyền tôi đậu bến Tuyên Quang
Nửa đêm trông ánh trăng vàng ( tôi ) nhớ (6)
(6) Trích Phạm Duy, Ngàn lời ca, trang 35.
Nửa đêm trông ánh trăng vàng ( tôi ) nhớ (6)
(6) Trích Phạm Duy, Ngàn lời ca, trang 35.
Sự thay đổi rõ ràng như thế đặt ra vấn đề
nhân cách và nhân tài của người nhạc sĩ. Khi hồi cư về thành, Phạm Duy có thể cứ
giữ nguyên ca từ hồi kháng chiến. Và sẽ không có ai có lời trách cứ ông. Nhưng
khi có ý định về VN, ông cứ lẳng lặng về. Về mà đổi ca từ để đẹp lòng Hà Nôi và
tuyên bố vung vít “chửi” cộng đồng hải ngoại là không chấp nhận được. Xóa bỏ,
thay lại lời khác, rồi lúc cần lại lại lấy lại lời cũ: Anh Vệ Quốc quân.
Đã mấy ai có thể làm được như Phạm Duy?
Nguyễn Trọng Văn không phải là không có lý khi mạt sát Phạm Duy khi ví ông như
một thứ điếm sang.
Nhắc lại trong phần đầu cuốn Hồi ký của
ông viết vê ông bố: nhà văn Phạm Duy Tốn để thấy nhân cách bố và con khác nhau
lắm. Ông nhăc lại những lời nhận xét và khen tặng của Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc
Phan, Nguyễn Văn Cổn, Vũ Bằng và Thanh Lãng đã viết những lời trân trọng về ông
Phạm Duy Tốn. Ông cũng nhắc đến những người bạn tâm giao của ông Phạm Duy Tốn
mà nhân cách của họ không thể chối cãi được như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn
Văn Vĩnh, Đỗ Mục thì ông Phạm Duy quả là người con bất xứng.
Cũng khó trách ông lắm, mồ côi cha từ sớm,
ông là một đứa trẻ tinh nghịch, hoang tàn, phá phách, “quậy” rất sớm.
Nhưng cũng nên hiểu rằng vào năm 1971,
khi Nguyễn Trọng Văn viết cuốn Phạm Duy đã chết như thế nào thì lúc đó Phạm Duy
chưa viết hồi ký. Nếu Nguyễn Trọng Văn có dịp đọc hồi ký rồi thì cũng có thể có
cái nhìn khác về Phạm Duy.
Và có thể vì có cơ hội đọc lại Hồi ký Phạm
Duy mà tôi thấy cần phải nhìn lại quan điểm phê phán của Nguyễn Trọng Văn.
Trong hồi ký 1, ông Phạm Duy viết như thế
này về hoàn cảnh sáng tác về chiến dịch sông Lô. “Nhưng trong đám nhạc sĩ chúng
tôi, lập tức có ngay những tuyệt phẩm như bài Lô Giang của Lương Ngọc Trác, rồi
Trường ca Sông Lô của Văn Cao, Du kích sông Lô của Đỗ Nhuận và Tiếng Hát sông
Lô của Phạm Duy. Điều đó cho thấy việc sáng tác nằm sẵn trong chiến dịch tuyên
truyền nên mới có trường hợp bốn nhạc sĩ cùng sáng tác về một đề tài.
Bốn nhạc sĩ cùng sáng tác về một đề tài
như một thứ đơn đặt hàng thì có phí phạm không?
Phạm Duy viết tiếp. “Nói về cả một chiến dịch thì chẳng nhừng thắng lợi sông Lô chỉ là
những chiến công cục bộ, bởi vì vào lúc khởi đầu của chiến dịch Léa, gọng kìm lớn
ở miền Đông là Bắc Kạn và Lạng Sơn vẫn còn rất mạnh… Những người phục vụ cho Cục
chính trị như chúng tôi được khuyến khích để làm cho chiến thắng Sông Lô trở
thành một chiến công vô cùng rực rỡ. Bây giờ nếu có ai tò mò – như tôi – đi tìm
đọc những tài liệu của Pháp viết về chiến tranh Đông Dương, sẽ chẳng thấy một
dòng chữ nào cho cái được gọi là Lô Giang của Lương Ngọc tức Lương Ngọc Trác.
Bài này duyên dáng, mặn mà vô cùng”.(7)
(7) Trích Phạm Duy, Hồi ký 1, thời Cách mạng
kháng chiến
Hóa ra đó chỉ là sản phẩm tuyên truyền,
mà giá trị nghệ thuật chỉ là phụ, không đáng kể. Mặc dầu vậy đó là những bài
hát quen thuộc và nổi tiếng của ông trong thời kỳ kháng chiến.
Cho nên, không lạ gì khi cần, PD đã không
nề hà thay đổi tùy tiện tùy theo nhu cầu thực tiễn. Điều đó không khác gì Tố Hữu
làm thơ ca ngợi chiến trận Điện Biên. Trong một bài trả lời phỏng vấn của Trần
Đăng Khoa, Tố Hữu đã nói huỵch tẹt ra là ông đã viết phịa, không hề ra mặt trận.
Phạm Duy có thể viết phịa, sáng tác phịa
về trận đánh trên Sông Lô. Tố Hữu cũng đã làm thơ phịa. Đã gọi là sáng tác phịa
thì việc thay dổi lời ca còn có gì được gọi là phản bội? Phải chăng Nguyễn Trọng
Văn đã quá lý tưởng hóa những ý hướng sáng tác thuần túy nghệ thuật của Phạm
Duy và cũng vì thế lời kết án có thêm trọng lượng.
Thật ra theo tôi hiểu, Nguyễn Trọng Văn đã không biết được trong hoàn cảnh nào mà Phạm Duy đã sáng tác bản nhạc Tiếng hát Sông Lô, cho nên những suy đoán của Nguyễn Trọng Văn vì thế thiếu cơ sở. PD mới 13 tuổi đầu đã bỏ học, đi lang thang. Đến 25 tuổi mới gặp kháng chiến một cách tình cờ lịch sử. Chẳng có chỗ nào cho thấy người nghệ sĩ ấy quyết định chọn lựa đi theo kháng chiến cả.
Thật ra theo tôi hiểu, Nguyễn Trọng Văn đã không biết được trong hoàn cảnh nào mà Phạm Duy đã sáng tác bản nhạc Tiếng hát Sông Lô, cho nên những suy đoán của Nguyễn Trọng Văn vì thế thiếu cơ sở. PD mới 13 tuổi đầu đã bỏ học, đi lang thang. Đến 25 tuổi mới gặp kháng chiến một cách tình cờ lịch sử. Chẳng có chỗ nào cho thấy người nghệ sĩ ấy quyết định chọn lựa đi theo kháng chiến cả.
Cho nên Phạm Duy không theo Kháng chiến
theo nghĩa chọn lựa mà cũng không bỏ kháng chiến theo nghĩa phản bội. Không chọn
lựa làm sao có phản bội?
** Phạm
Duy không phản bội kháng chiến, chỉ có vấn đề ông nhìn lại
Nguyễn Trọng Văn đã tự chọn cho mình một
góc đứng nào đó để phê phán Phạm Duy.
Và đã có chỗ kết luận: “Hiện nay, Phạm Duy có thể là
người nghệ sĩ có tài, nhưng không phải là đứa con yêu của dân tộc, ông là đứa
con hoang”.(..) Nhạc sĩ Phạm Duy của những kháng chiến ca của dân tộc đã chế(..)
Ông đã quay lưng trở lại với dân tộc, với chúng ta, ông đã ra đi, ông đã chết “..(08)
(08) Trích NTV, Ibid, trang 45
(08) Trích NTV, Ibid, trang 45
Nhưng nặng hơn nữa, NTV viết:
“Thân phận Phạm Duy guống thân phận một gái điếm, một thứ điếm lành
nghề, khéo chiều, dẹp, có tài thỏa mãn bất cứ ai; ăn nằm với ai cũng rung động
nhiệt thành, nhưng vì là điếm nên thuộc về mọi người, người tốt, người xấu, người
Việt, người nước ngoài, không thuộc hẳn về ai “ .(09)
(09) Trích Nguyễn Trọng Văn, Ibid, trang 130
(09) Trích Nguyễn Trọng Văn, Ibid, trang 130
Cho nên, dưới mắt NTV, dinh tê đã là một
phản bội mà đáng nhẽ phải gọi đúng tên là bọn Việt gian. Nhưng hơn là một phản
bội, vì đã sửa lại lời ca trong các bài hát của chính mình. Nhưng người ta vẫn
có thể đặt ngược lại là: ai phản bội ai? Nếu hành vi bỏ không theo kháng chiến
là một phản bội thì thái độ ly khai với kháng chiến có thể được hiểu là thái độ
tố cáo sự bội phản của kháng chiến không? Nghĩa là chính kháng chiến Việt Minh
là một phản bộ. Và vì thế đã có một số không ít những thanh niên đã đi theo
kháng chiến, đã thất vọng và đã dinh tê.
Dinh tê có thể gián tiếp tố cáo một sự bội
phản đối với những người đã chót đi theo kháng chiến, vì đã bị lừa.
Trong giới văn nghệ sĩ ở Sàigòn, đã có
nhiều người cũng đã từng đi theo kháng chiến và đã bỏ kháng chiến. Võ Phiến ở
Bình Định cũng bỏ kháng chiến về với phía Quốc Gia, Bình Nguyên Lộc trong Nam
cũng vậy. Rồi cũng trong Nam có Lê Thương đã sáng tác những bản nhạc như Bà Tư
bán hàng có bốn người con. Hòa Bình 48, Đốt hay không Đốt, Trần Văn Trạch với
Cái đồng hồ, Chuyến xe lửa mùng năm và Nguyễn Đức Quỳnh với Người Việt đáng
yêu. Và tên Hoàng Trọng Miên với vở kịch Dưới Bóng Thánh Giá. Đoàn Văn Cừu thì
sau nắm đài phát thanh Sài Gòn.
Và Có ai nghĩ rằng, theo Phạm Duy, Hoàng
Thi Thơ từng làm việc ở tòa báo Cứu Quốc và điều khiển một ban Văn nghệ lưu dộng.
Cũng không ai nhắc tới Mai Thảo, Tạ Tỵ. Có ai nghĩ rằng Minh Đức Hoài Trinh, thời
con gái, mê theo tiếng gọi cụ Hồ vào Thanh Hóa, gặp tướng Nguyễn Sơn, rồi cũng
ra Phát Diệm, bị cha mẹ bắt về để lấy Phan Văn Giáo.
Chưa kể những gương mặt chính trị trổi bật
thời Đệ nhất Cộng Hòa đã từng đi theo kháng chiến như quý ông luật sư Trần
Chánh Thành (bộ trưởng thông tin thời TT Ngô đình Diệm), Lê Khải Trạch, Đinh
Sinh Pài, người đã từng họat động với tướng Nguyễn Sơn và Đặng Thái Mai trong
khu 4. Hoàng Văn Chí cũng từ khu bốn ra, tác giả cuốn sách nổi tiếng Trăm hoa
đua nở trên đất Bắc. Cuốn sách cho thấy chính thể Hà nội đàn áp và trù dập giới
văn nghệ sĩ như thế nào.
Với sự chứng dần một số những nhân vật
tên tuổi đã từng tham gia và họat động cho kháng chiến, trở về cộng tác với
chính quyền Quốc Gia, tôi nghĩ rằng, việc gán cho Phạm Duy phản bội kháng chiến
của Nguyễn Trọng Văn khó có cơ đứng vững được. Tại sao chỉ có mình Phạm Duy là
người phản bội còn những Trần Chánh Thành, Võ Phiến, Hoàng Thi Thơ thì không?
Vì thế, họa sĩ Tạ Tỵ đã phản biện lại như
sau:
“Trong những năm kháng chiến, Duy đã đóng góp hơi thở và âm nhạc cho chính nghĩa lúc ấy. Nay sự dấn thân của Duy vào kích thước quân đội và sinh hoạt dân chính miền Nam cũng cũng mang một ý nghĩa tương tự “(10)
(10) Trích: Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Tạ Ty, trang 129
“Trong những năm kháng chiến, Duy đã đóng góp hơi thở và âm nhạc cho chính nghĩa lúc ấy. Nay sự dấn thân của Duy vào kích thước quân đội và sinh hoạt dân chính miền Nam cũng cũng mang một ý nghĩa tương tự “(10)
(10) Trích: Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Tạ Ty, trang 129
Để biện hộ thêm cho Phạm Duy, Tạ Tỵ cũng
đã trích dẫn thêm ý kiến của Thế Uyên như sau: “Nhiều khi tôi thấy có những người trẻ quá bất công với anh. Đòi hỏi
thế này thế kia. Tôi thường không đồng ý với một thái độ như vậy. Nhạc Phạm Duy
cất lên hơn 20 năm rồi, đã đóng góp vào các công trình lớn của dân tộc và hiên
diện,. trong các khổ đau của Việt Nam với tư cách là người chứng trong cuộc,
người chứng tham dự. Anh phải mệt mỏi và có quyền mệt mỏi, không ai có thể làm
anh hùng cả đời được”(11)
(11) Trích: Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Tạ
Ty, Ibid..
Khi cuốn sách của Nguyễn Trọng Văn ra đời
thì nhiều người đã nhìn thấy cái đuôi cộng sả ngoe nguẩy đằng sau cuốn sách ấy.
Cách biện luận lộ liễu của NTV như một cán bộ cộng sản thứ thiệt. Cách nhìn một
chiều, méo mó, thiên lệch không chối cãi được. Dám NTV đã được chỉ định để viết
như thế!! Vì thế sự kết án Phạm Duy của Nguyễn Trọng Văn mất đi nhiều tính khả
tín.
Bên cạnh Tạ Tỵ, còn có Cao Thanh Tùng mà
ý kiến được coi là dung hòa hơn. Mặc dầu Cao Thanh Tùng không đồng ý việc phân
chia một Phạm Duy nghệ sĩ và một Phạm Duy chính trị như nhiều người quan niệm để
biện hộ cho Phạm Duy. Ngoài việc Cao Thanh Tùng cũng đồng ý với Thế Uyên như
trên. Cao Thanh Tùng trích dẫn một nhạc sĩ Gia Nã Đại Georges E. Gauthier với
bài viết: Phạm Duy, một nghệ thuật khúc diện, Thu Thủy dịch, tạp chí Bách Khoa
số 347.
“Tôi cần phải nói rằng, nếu tôi không thể tưởng tượng nổi một Phạm
Duy mà không có VN thì tôi cũng không thể nào tưởng tượng ra một VN mà không có
Phạm Duy”. Ông nhạc sĩ Gia Nã Đại viết tiếp;” Chúng ta cần phải tha
thứ rất nhiều cho Phạm Duy bởi vì con người đã cống hiến rất nhiều. Nghệ thuật
của Phạm Duy là một cống hiến của con tim. Các hành động của nghệ sĩ trong cuộc
đời trần thế thuộc về họ và chỉ là những hành động nhất thời. Chỉ có tác phẩm
là vĩnh cửu”. (12)
(12) Trích Cao Thanh Tùng trich lại trong bài, Phạm Duy… bất tử, các trang 8-12, tạp chí Trình Bày, số 23, 3-7-1971
(12) Trích Cao Thanh Tùng trich lại trong bài, Phạm Duy… bất tử, các trang 8-12, tạp chí Trình Bày, số 23, 3-7-1971
Cuốn sách của NTV như thể một một vụ ném
lựu đạn, nhưng đã bị trung hòa và loãng đi nhiều khi có một số ý kiến phản biện
như trên.
Nhận xét thực tế
Một số thực tế sau đây càng cho thấy, sau
khi chiến tranh Việt- Pháp bùng nổ, có đến hằng triệu người phải sơ tán theo
chính sách *tiêu khổ kháng chiến* với cảnh vườn không nhà trống. Nhất là kể từ
Thanh Hóa trở vào phía Nam, nhiều vùng chỉ còn là đổ nát và hoang tàn. Và cũng
hàng triệu những dân chúng các vùng ấy đã *hồi cư*.
Chuyện đó được coi là bình thường trong chiến tranh. Chỗ nào có bom đạn chết chóc thì tránh, chỗ nào an toàn thì tìm về.
Chuyện đó được coi là bình thường trong chiến tranh. Chỗ nào có bom đạn chết chóc thì tránh, chỗ nào an toàn thì tìm về.
Vì thế có rất nhiều dân chúng, trí thức,
thành phần đảng phải, chính trị gia đã sơ tán về vùng trái đệm Phát Diệm, còn gọi
là an toàn khu. Có rất nhiều người đã dời bỏ kháng chiến hoặc chạy trốn Pháp về
đây. Có tất cả khỏang 60 ngàn người đủ thành phần đã tụ tập về Phát Diệm.
60 ngàn người tụ hội về đây đều là để chờ
thời, để nghe ngóng tình hình và nhất là chờ cơ hội * Dinh Tê*. Dinh tê, danh từ
lần đầu tiên được xử dụng từ chữ rentrer. Chữ dinh tê là để chỉ việc bỏ khu vực
kháng chiến để về Hànội. Phạm Duy cùng lắm cũng nằm trong số những người này.
Họ từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ra, tức
là bỏ khu tư, bỏ kháng chiến? Và cũng là trường hợp của Phạm Duy.
Nhưng phần đông họ từ Hà nội, từ Chợ Đại,
Cống Thần ở Hà Đông vào (có thể là đi buôn), hoặc từ Hải Phòng đến bằng đường
biển qua cửa Cồn Thoi, cửa ngõ vào Phát Diệm. Hoặc từ Nam Định Bùi Chu, qua ngã
đường sông như Yên Mô- Nho Quan hoặc Cầu Lim- Gia Viễn.
Đó là những người chạy trốn Pháp.
Phát Diệm trở thành vùng an toàn phi chiến-
ít ra người ta có cảm tưởng như thế- vùng trái đệm giữa vùng tề và kháng chiến,
giáp ranh với liên khu 4 gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh trải dài xuống tận khu
Bình Trị Thiên Nam Ngãi.
Để chứng tỏ Phát Diệm là nơi tạm trú cho
những người trốn chạy cả hai phía Tổng bộ ( danh xưng gọi tổ chức của ĐC Lê Hữu
Từ ) đà bắt được một mật lệnh, ngày 9-7-1947 của Việt Minh có câu:”dù có mất cả
một đại đội cũng không được đụng đến Phát Diệm” .
Đó là về phía Việt Minh đối với Phát Diệm.
Việt Minh có hai cái lợi để không đụng độ
trực tiếp với Phát Diệm.
Thứ nhất, vì Phát Diệm là hậu cần cung cấp
tất cả thuốc tây, dụng cụ, máy móc, đá lửa, xăng dầu và đôi khi ngay cả súng ống
từ bên Tầu. Đó là nguồn cung cấp sống còn cho khu 4 của kháng chiến. Đường buôn
lậu đi từ Hải Phòng, dùng thuyền buồm xuôi Phát Diệm, đến cửa Cồn Thoi, rồi từ
đó xuôi Thanh Hóa, vào khu tư.
Thứ hai, về mặt quân sự, Phát Diệm như
cái hàng rào che chắn để bảo vệ an toàn khu tư trở vào. Chừng nào Phát Diệm còn
có hai cái lợi thế ấy, Phát Diệm vẫn là một an toàn khu.
Mặc dầu giải pháp double jeu đi đến thất
bại, nhưng có một điều không thể phủ nhận được là Phát Diệm là nơi trú ẩn an
toàn cho những người kháng chiến cũ, cho trí thức và nhất là cho người của đảng
phái. Không có Phát Diệm, nhiều nhân vật đã có thể bị giam cầm, thủ tiêu và biến
mất trên chốn dân gian này rồi? Làm gì còn những Ngô Đình Nhu, Phạm Đình Viêm,
Phạm Đình Chương, Bùi Diễm, Trần Văn Chương, Nguyễn Tường Tam, Hoàng Bá Vỉnh.
Và giả dụ họ bị Việt Minh thủ tiêu. Chính trường miền Nam đã hẳn là khác?
Lý do Phạm Duy “dinh tê”
Phần Phạm Duy khi dinh tê cũng có nước mắt
nhớ tiếc dĩ vãng và cũng có giọt nước mắt vui mừng vì nhìn thấy cái cái đồn bót
phía Quốc Gia. Vui mừng vì biết rằng nay mình được giải thoát.
Nếu những người này sau đó dinh tê về Hà
Nội, ta sẽ gọi họ là ai? Họ có khác gì với Phạm Duy không? Thật không dễ để xếp
loại họ.
Không lẽ chỉ vì đổi vài lời ca mà trở
thành kẻ bội phản?
Đọc hồi ký do chính Phạm Duy viết, không
có chỗ nào là bằng cớ cho thấy ông gắn bó hay có ý gia nhập đảng Cộng sản. Và
vì thế, việc ông dinh tê là chuyện bình thường như hàng ngàn, hàng vạn người
khác.
.- Thứ nhất, có thể chỉ là lý do kinh tế.
Đi theo cách mạng là đói. Đói cho mình và đói cho cả nhà. Đó là trường hợp 3
anh em trai bên vợ Phạm Duy. Tác giả viết:” Chúng tôi có khoảng một tháng trời
để nhìn thấy chung quanh mình có khá nhiều gia đình đã * dinh tê*. Găp được những
gia đình bạn như gia đình Nguyễn Giao (bố vợ Hoàng Thi Thơ), gia đình Đỗ Xuân Hợp,
gia đình Đòan Châu Mậu.. là có ngay những vụ bàn bạc về việc rentrer: vào thành
hay rester,ở lại ? Ở lại, rester thì không còn tiền để mua gạo mà ăn. Chưa dám
nói thịt cá đâu. Nhất là không có tiền mua thuốc men để chống đỡ với các thần bệnh
tật …. Trong lòng day dứt vì chuyện”ai làm cho ai phụ tình ai”?
.- Thứ hai, theo Phạm Duy, Trung ương muốn
khai tử bài Bên Cầu biên giới của tác giả qua trung gian nhạc sĩ Nguyễn Xuân
Khoát nên ông nổi giận và:” Tôi thấy cách mạng bắt đầu lẩm cẩm khi kết án bài Vọng
cổ trong cái Đại Hội mà tôi vừa tham dự “. Và sau khi được gặp bác Hồ, Phạm Duy
đã không có một ấn tượng tốt đẹp gì về con người ấy và sau đó đi gặp nhạc sĩ
Khoát :” Tôi tới gặp anh Khoát ngay và trả lời dứt khoát là tôi xin trở về
Thanh Hóa.. Tôi rất cảm ơn mọi người, xin được không nhận bất cứ một thứ ân huệ
nào cả . .. Nhưng khi vợ chồng tôi tới chào người lãnh đạo văn nghệ của cả nước
thì Tố Hữu tặng vợ chồng tôi một số tiền. Tôi nhận ngay vì đó là tiền lương và
vãng phí.
Cuộc chia tay dứt khoát với kháng chiến bắt
đầu từ việc ông được kết nạp vào Đảng. Ông viết:
“Trong một buổi trưa có nắng vàng nhảy
múa trên lá cây, thả bước; trên một con dốc nhỏ nằm trong khu rùng Yên Giã, anh
Nguyễn Xuân Khoát bá vai tôi, hai người lặng lẽ đi .. Một hồi lâu, anh Khoát
nói giọng thầm thì:
- Đoàn thể cử tao nói cho mày biết. Là
mày đã được kết nạp. Mày sẽ được cử đi Moscou. Mày sẽ được ông Cụ gắn cho một
huân chương chiến sĩ. Nhưng có điềun kiện. Mày phải bỏ cái tính “chơi” của mày
đi. Mày phải khai tử bài hát: Bên cầu biên giới và nếu xuất ngoại thì Thái Hằng
phải ở lại . Một mình mày đi thôi . Về suy nghĩ. Mấy, hôm nữa, trả lời
tao”.(13)
(13)Trich Hồi ký Phạm Duy, tập hai, thời
Cách Mạng kháng chiến
Theo Phạm Duy, chính đề nghị được kết nạp
vào đảng làm ông sợ quá. Lên Việt Bắc, không bao giờ ông chờ đợi một đại ân huệ
như thế này. Sau khi được gặp ông Hồ, tướng Nguyễn Sơn, ông quyết định tìm đường
“dinh tê”. Và ngày 1 tháng năm 1951, đại gia đình họ Phạm chia ra ba nhóm để
dinh tê.
Cuộc chia tay kháng chiến đơn giản chỉ có
vậy.
- Thứ ba, Phạm Duy đâu phải loại người
ngu ngơ khờ khạo. Trong buổi tham dự Đại Hội Văn Hóa tổ chức tại trường Cao Đẳng,
có chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn, ông viết:” tôi cũng rất sung sướng được
nhìn thấy những thần tượng văn nghệ của tôi. Nhưng tôi lấy làm lạ, tự hỏi thầm
tại sao nhóm Tự Lực Văn Đoàn lại vắng mặt? Câu hỏi lớn đấy nhé. Sau đó còn thấy
sự chống đối của Nguyễn Đức Quỳnh Khi Xuân Diệu bắt đầu bằng câu nói: Thưa các
đồng chí. Nguyễn Đức Quỳnh đứng dạy nói: Tôi không phải là đồng chí của các
anh. Xuân Diệu có vẻ hơi lúng túng rồi trả lời: Chúng tôi không cần những đồng
chí như anh.
Tôi cũng thấy được sự tranh chấp bạo động
như vụ bắt cóc rồi giết nhau ở phố Ôn Như Hầu hay là vụ Việt Minh tiêu diệt các
đảng phái ở các tỉnh. Khi ở trong Nam, tôi đã thấy các đảng phái như Cao Đài,
Hòa Hảo, Đại Việt dự định bắt Trần Văn Giầu và nhóm Việt Minh. Nhưng Dương Văn
Giáo ngăn cản để giữ tình đoàn kết. Sau này, chính Dương Văn Giáo bị Việt Minh
giết.
Vì thế, tôi không có ý muốn trở thành một
cán bộ Việt Minh ở Hà nội (14).
(14) Trích Hồi ký, tập hai, Ibid
(14) Trích Hồi ký, tập hai, Ibid
Kể như đã rõ ràng, đi theo kháng chiến,
nhưng thấy Việt Minh phản bội lại những người yêu nước khác, như giết người của
đảng phái. Phạm Duy đã có thể thất vọng về kháng chiến và vì thế dinh tê là điều
khó có thể chê trách được.
Và giả dụ rằng, cái đám dinh tê sau này
thắng trận thì chữ phản bội còn có ý nghĩa gì? Cuối cùng, kẻ thắng là kẻ tự
mang chính nghĩa về phía mình, nói sao chả được.
-. Thứ tư : Xét đến số lượng các bản nhạc Phạm Duy làm trong thời kỳ kháng chiến, xét đủ loại từ Nhạc hùng, nhạc tình, quân ca kháng chiến đến dân ca kháng chiến trên dưới gần 50 bài, tôi nhận ra ông chỉ đổi lời những bài nào có danh từ dính dáng trực tiếp đến Việt Minh như cụ Hồ, đồn Tây, Vệ Quốc Quân mà thôi.
-. Thứ tư : Xét đến số lượng các bản nhạc Phạm Duy làm trong thời kỳ kháng chiến, xét đủ loại từ Nhạc hùng, nhạc tình, quân ca kháng chiến đến dân ca kháng chiến trên dưới gần 50 bài, tôi nhận ra ông chỉ đổi lời những bài nào có danh từ dính dáng trực tiếp đến Việt Minh như cụ Hồ, đồn Tây, Vệ Quốc Quân mà thôi.
Có bao nhiêu bản như thế? Thực sự không
có bao nhiêu. Chỉ có vài bài tất cả theo cách lý giải của tôi. Nguyễn Trọng Văn
đã khám phá ra điều này cũng đã là hay lắm. Nhưng chưa đủ yếu tố thuyết phục độc
giả nghĩ rằng Phạm Duy là kẻ phản bội.
Hơn nữa, giá trị một bản nhạc hay là chính ở cái hồn của bản nhạc ấy thì vẫn được giữ nguyên. Có cụ Hồ hay không có cụ Hồ, tự nó bản nhạc vẫn hay. Nhạc kháng chiến của Phạm Duy là hay, là thấm thía, là chia sẻ thì vẫn được người nghe tán thưởng.
Hơn nữa, giá trị một bản nhạc hay là chính ở cái hồn của bản nhạc ấy thì vẫn được giữ nguyên. Có cụ Hồ hay không có cụ Hồ, tự nó bản nhạc vẫn hay. Nhạc kháng chiến của Phạm Duy là hay, là thấm thía, là chia sẻ thì vẫn được người nghe tán thưởng.
Cũng đừng quên một điều, khi nghe một bản
nhạc hay, người nghe để cái cảm quan nghệ thuật lấn lướt những tiểu tiết thay đổi
từ mà Nguyễn Trọng Văn nêu ra. Theo tôi, trừ tên Hồ Chí Minh cần phải đổi. Những
từ như giặc Pháp, đồn tây, anh vệ quốc quân, không đổi cũng không sao.
Bằng chứng, ở miền Nam, chúng ta vẫn nghe
nhạc Văn Cao, vẫn đọc văn Nguyễn Tuân thời tiền chiến có sao đâu? Sau 1975, tại
Vũng Tầu, loa phóng thanh oang oang bài Anh Quốc ơi, Anh Quốc ơi của Phạm Duy đấy
!! Thật là buồn cười, nhưng hiểu được. Bài đó có thể hay và người ta chẳng cần
biết anh Quốc là anh nào nữa.
Kết luận cho thấy phải chê ngược Phạm Duy đáng nhẽ không nên đổi từ như ông đã đổi. Nguyễn Trọng Văn ngầm phê phán thái độ trở cờ, bỏ kháng chiến của Phạm Duy, thì những người khác lại thấy sự trở cờ đó là bình thường. Trừ trường hợp đổi lại ca từ một lần nữa để về sống ở VN là coi không được.
Kết luận cho thấy phải chê ngược Phạm Duy đáng nhẽ không nên đổi từ như ông đã đổi. Nguyễn Trọng Văn ngầm phê phán thái độ trở cờ, bỏ kháng chiến của Phạm Duy, thì những người khác lại thấy sự trở cờ đó là bình thường. Trừ trường hợp đổi lại ca từ một lần nữa để về sống ở VN là coi không được.
Nếu Phạm Duy có chết là chết ở chỗ đó. Dư
luận có thể kết án ông ở chỗ hèn, chỗ tráo trở, chỗ bán rẻ nhân cách.
Khác nhau là giữa chúng ta và Nguyễn Trọng
Văn đứng ở vị thế nào để nhìn vấn đề, để phê phán?
2.- Phạm Duy chết ở một nơi nào
khác?
Tài vay mượn hay cảm hứng của người nghệ
sĩ?
Mỗi bản nhạc của ông là một tổng hợp hay
một cộng lại những văn ảnh, những âm thanh, âm điệu, những ca từ rút ra từ các
bài thơ, hoặc rút tỉa từ các câu hò, điệu hát của dân ca ba miền, ngay cả những
điệu hát của người dân miền sơn cước, từ các vần điệu đã có sẵn, các văn ảnh
quen thuộc như con trâu, cái cầy, đồng lúa xanh, người mẹ quê. Chính nhờ sự pha
trộn, thu nhặt đó mà nhạc Phạm Duy rất gần gũi, ăn khách và được đón nhận một
cách nồng nhiệt.
Chẳng hạn, trong bài Tiếng Hát trên Sông
Lô, theo như sự nhìn nhận của ông, ông đã cảm hứng và vay mượn từ hai câu thơ
Đường quen thuộc:
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn(15)
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn(15)
(15) Tất cả những trích dẫn trên và sau
đây đều lấy lại trong tập: Ngàn lời ca của Phạm Duy, xuất bản ở hải ngoại.
Hai câu thơ Đường trên váng vất trong bài
tiếng sông Lô của Phạm Duy đã trở thành: Thuyền tôi buông lái như xưa, hoặc
Thuyền tôi đậu bến Tuyên Quang và nhất là Thuyền tôi đậu bến Đoan Hùng. Bình
minh nghe tiếng chim mừng líu lo.
Trong mấy câu trên, người ta thấy từ vần điệu, âm thanh bằng trắc bổng trầm sao giống nhau thế? Giữa: Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hán Sơn và Bình minh nghe tiếng chim mừng líu lo sao mà sít sao thế. Giống mà không giống. Nửa đêm đổi ra thành bình minh. Tiếng chuông chùa đổi ra tiếng chim mừng..
Trong mấy câu trên, người ta thấy từ vần điệu, âm thanh bằng trắc bổng trầm sao giống nhau thế? Giữa: Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hán Sơn và Bình minh nghe tiếng chim mừng líu lo sao mà sít sao thế. Giống mà không giống. Nửa đêm đổi ra thành bình minh. Tiếng chuông chùa đổi ra tiếng chim mừng..
Cũng theo Phạm Duy, 10 bài tâm ca, 10 bài
đạo ca ít ra bắt nguồn từ con số 10 của Mười điều tâm niệm của Hòang Đạo. Sự
liên hệ ý tưởng (associations des idées) đó đã trở thành nguồn cảm hứng âm nhạc
bắt đầu từ con số 10. Tại sao không 13 hay 35 mà lại 10?
Và từ dấu mốc này, tôi dám đặt câu hỏi
nghi vấn, không phải về nhạc tính, mà về một số từ rất rất Trịnh Công Sơn, một
số ý hướng rất TCS như các từ Gia tài, tuổi nọ tuổi kia v.v… Uớc mơ (thơ Nhất Hạnh),
để lại và những ý hướng về cái chết, về chiến tranh, về trẻ thơ v.v… Trong các
bài Tâm Ca, Đạo ca của Phạm Duy.
Lẽ dì nhiên, Phạm Duy không bao giờ nhìn
nhận có một ảnh hưởng như thế trên sư nghiệp sáng tác của ông. Và chắc hẳn những
bản nhạc đó đã bắt nguồn từ những cảm hứng tâm linh, từ những khát vọng sâu thẳm
của cõi người hay thân phận người xuất phát từ những tình trạng bi kịch của đất
nước. Chính từ những chỗ ấy đánh động tâm tư, khơi dạy những thao thức của tâm
hồn nghệ sĩ và từ đó sản sinh ra những dòng nhạc khá là tuyệt vời.
Người nghe nhạc khi thưởng thức nhạc Phạm
Duy, đôi khi bắt gặp những âm hưởng quen thuộc đã bắt gặp ở đâu đó rồi hoặc bắt
gặp một con chữ nào đó vv. Có thể một cách vô tình và vô thức, Phạm Duy có cùng
những cảm thức, cùng những rung động đã nhập vào ông. Nhất là trong những bản
nhạc phản chiến, những bài tâm ca và đạo ca. Chữ nghĩa ấy vào tay Phạm Duy trở
thành một con chữ sống động, hiện sinh, như thể có một linh hồn. Vốn nguyên liệu
ròng đã có, Phạm Duy chuyển tải tài tình cái vốn đó thành vốn của mình một cách
chẳng kém tài hoa.
Thôi thì cứ cho rằng tài hoa bắt gặp tài
hoa. Nhưng trong nghệ thuật văn chương hay âm nhạc thì trước sau thiên tài hay
không vẫn là ở chỗ sáng tạo, chỗ khởi đầu. Ớ chỗ này, bất cứ ai cũng phải nhìn
nhận rằng TCS sáng tạo ra ngôn ngữ, thổi vào chữ nghĩa một sự sống, một linh hồn.
Hơn bất cứ ai hết, TCS cùng một lúc sáng
tạo ra ngôn từ và dòng nhạc quyện vào nhau, gắn bó tuyệt vời. Đó là một thứ phù
thủy trong ngôn ngữ, thổi vào đó một sự sống.
Trong khi đó, phần lớn âm nhạc của Phạm
Duy là vay mượn thơ văn của các thi sĩ khác.
Công của ông là phổ nhạc. Phần kia là của
các nhà thơ. Về điểm này, tôi cũng đặt câu hỏi phần vinh danh mà ông được thụ
hưởng thì trong đó có bao nhiêu phần đóng góp âm thầm của các nhà thơ được chia
sẻ cái vinh danh đó?
Chỗ nào cho Nguyễn Bính, Nhất Hạnh, Phạm
Thiên Thư, Linh Phương, Ngô Đình Vận, Hữu Loan, Lê thị Ý, Phạm Lê Phan, Phạm Văn
Bính, Hoa Đất Nắng, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Hàn Mạc Tử, Bích
Khê, Đỗ Quý Toàn, Nguyễn Tất Nhiên, Thanh Hữu, Du Tử Lê, Cung Trầm Tưởng, Hoài
Trinh, Hồng Nam tức Hô Hán Sơn, Guillaume Apolinnaire. Và người chỉ còn có cái
bị thằng ăn mày, đói rách tả tơi như Bùi Giáng cũng bị Phạm Duy mượn đỡ bài Gái
lộI qua khe cho những bài Tục ca của Phạm Duy. Mà không có một đền bù, vật chất
cũng như tinh thần, không có đề tên trên bản nhạc. Không dám bảo là đạo văn, ăn
cắp, nhưng rõ ràng là “mượn đỡ”.
Kết luận về phần này thì chúng ta phải thừa nhận rằng vay mượn và cảm hứng đưa đến những bản nhạc để lại cho đời đến như Phạm Duy thì kể là kỳ tài.
Kết luận về phần này thì chúng ta phải thừa nhận rằng vay mượn và cảm hứng đưa đến những bản nhạc để lại cho đời đến như Phạm Duy thì kể là kỳ tài.
Kể là có một không hai.
Nhưng tôi nhận ra một điều thấy cần được
nói ra và có thể nhiều người cũng biết như thế. Có nhiều bài do chính ông viết
lời như bài Đêm xuân, tại Chợ Neo, Thanh Hóa ghi lại mối tình với Thái Hằng.
Hay bài Cành Hoa trắng, Thanh Hóa, 1950 hay bài Gánh lúa, rất nổi tiếng, trước
khi dinh tê. Điều đó không có gì để nói nữa.
Có bài mượn lời từ thi sĩ ngọai quốc, như Mùa thu chết mượn thơ của thi sĩ Guillaume Apollinaire ông cũng cẩn thận ghi bên dưới như: theo thơ Guillaume Apollinaire, Sàigòn 1970.
Xem lại những bài ông trích đăng lại trong Ngàn lời ca của ông.Trừ một vài trường hợp khá đặc biệt như bài Nhân danh, ghi theo thơ Tâm Hằng, bài Bi Hài kịch, theo thơ Thái Luân, Đi vào Quê Hương, theo thơ Hoa Đất Nắng (Cả ba bài này đều ít ai biết tới), Kỷ vật cho em thơ Linh Phương. Khi tôi về, theo thơ Kim Tuấn, Tửởng như còn người yêu, thơ Lê thị Ý, Áo anh sứt chỉ đường tà, thơ Hữu Loan. Tôi ước mơ, thơ Nhất Hạnh, bài Để lại cho em, một câu thơ của Nguyễn Đắc Xuân…
Có bài mượn lời từ thi sĩ ngọai quốc, như Mùa thu chết mượn thơ của thi sĩ Guillaume Apollinaire ông cũng cẩn thận ghi bên dưới như: theo thơ Guillaume Apollinaire, Sàigòn 1970.
Xem lại những bài ông trích đăng lại trong Ngàn lời ca của ông.Trừ một vài trường hợp khá đặc biệt như bài Nhân danh, ghi theo thơ Tâm Hằng, bài Bi Hài kịch, theo thơ Thái Luân, Đi vào Quê Hương, theo thơ Hoa Đất Nắng (Cả ba bài này đều ít ai biết tới), Kỷ vật cho em thơ Linh Phương. Khi tôi về, theo thơ Kim Tuấn, Tửởng như còn người yêu, thơ Lê thị Ý, Áo anh sứt chỉ đường tà, thơ Hữu Loan. Tôi ước mơ, thơ Nhất Hạnh, bài Để lại cho em, một câu thơ của Nguyễn Đắc Xuân…
Đó chỉ là vài trường hợp họa hiếm. Còn những
trường hợp khác thì không được ghi đầy đủ. Và đấy chỉ là ghi lại t Ngàn lời ca
của Phạm Duy sau này như một loại sách sử âm nhạc. Nhưng tôi không đủ điều kiện
để tìm hiểu xem, khi được ấn hành thành bản nhạc, được in ấn hồi trước 1975, được
bán ở các vỉa hè Sàigòn, tên các thi sĩ được Phạm Duy phổ nhạc có được ông trân
trọng ghi đầy đủ trên các bản nhạc hay không? Ở Hải ngọai thì tôi được biết có
một số bản nhạc được in lại có ghi đầy đủ tên thi sĩ và tên nhạc sĩ. Nhưng điều
đó có chắc rằng, toàn thể các bản nhạc của Phạm Duy in ấn trước 1975 đều có đề
tên các thi sĩ?
Việc phổ nhạc thơ là một hiện tượng phổ
biến trong sinh hoạt văn hóa miền Nam trước 1975. Trong một bài phỏng vấn Du Tử
Lê của Cỏ Ngư trên Talawas, ngày 5-5-06, Du Tử Lê cho biết có hơn 300 bài thơ của
ông đã được phổ nhạc mà theo ông:” Đó là chưa kể có những nhạc sĩ lấy thơ của
tôi, không chỉ là cái ý, mà cả câu thơ, nhiều câu thơ làm thành ca khúc mà
không hề đề cập đến tên tôi, dù chỉ là hàng chữ “ ý thơ ” thôi cũng không có.
Thậm chí, có báo chí nêu đích danh bài thơ ấy, bản nhạc ấy, nhạc sĩ ây. Nhưng
người nhạc sĩ này vẫn lờ đi…”
Riêng trường hợp Phạm Duy, Du Tử Lê có tiết
lộ PD có phổ nhạc bài thơ “Kiếp sau, xin giữ lại đời cho nhau” vào năm 1967 gì
đó. Rất tiếc, dù đã tìm kỹ, tôi cũng không tìm thấy bài hát này.
Nhưng điều tôi có thể chắc chắn là trong
Ngàn lời ca thì hầu như Phạm Duy đã không nêu tên các thi sĩ, tác giả các lời
ca của bản nhạc. Ông có cố tình quên tên họ không? Trong khi đó, ông ghi rất kỹ
thời gian sáng tác một bản nhạc.
Chính vì thế sau này đã xảy ra trường hợp nhà thơ Hữu Loan bày tỏ công khai nỗi bực dọc ấy. Có một trường hợp mà tôi biết khá rõ về năm bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên, một thi sĩ trẻ ở Biên Hòa. Đó là những bài Thà là giọt mưa, Hai năm tình lận đận, Cô Bắc Kỳ nho nhỏ, Hãy yêu chàng và Vái trời . 5 bài thơ này đã là nguyên do có sự kiện tụng giữa nhà thơ và Phạm Duy. Về phần Nguyễn Tất Nhiên, dĩ nhiên, cậu thanh niên chưa quá 20 tuổi phải hãnh diện vì thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Về phía Phạm Duy chắc cũng hiểu cái tình huống như thế nên ông nói: Thơ được Phạm Duy phổ nhạc là may phúc lắm rồi. Cho đến lúc bản nhạc được thương mại hóa thì Nguyễn Tất Nhiên ..đòi tiền. Kể từ đó về sau, PD không lấy thơ Nguyễn Tất Nhiên phổ nhạc nữa.
Chính vì thế sau này đã xảy ra trường hợp nhà thơ Hữu Loan bày tỏ công khai nỗi bực dọc ấy. Có một trường hợp mà tôi biết khá rõ về năm bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên, một thi sĩ trẻ ở Biên Hòa. Đó là những bài Thà là giọt mưa, Hai năm tình lận đận, Cô Bắc Kỳ nho nhỏ, Hãy yêu chàng và Vái trời . 5 bài thơ này đã là nguyên do có sự kiện tụng giữa nhà thơ và Phạm Duy. Về phần Nguyễn Tất Nhiên, dĩ nhiên, cậu thanh niên chưa quá 20 tuổi phải hãnh diện vì thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Về phía Phạm Duy chắc cũng hiểu cái tình huống như thế nên ông nói: Thơ được Phạm Duy phổ nhạc là may phúc lắm rồi. Cho đến lúc bản nhạc được thương mại hóa thì Nguyễn Tất Nhiên ..đòi tiền. Kể từ đó về sau, PD không lấy thơ Nguyễn Tất Nhiên phổ nhạc nữa.
Tôi đã thử tìm trong Ngàn lời ca để xem
ông có ghi lại năm bài nhạc, có thơ của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên không? Tôi đã
không tìm thấy bài nào trong năm bài ấy.
Và nó chỉ được nhắc tới trong phần mục lục thôi. Phải chăng, do cái giận một thằng”nhóc con” muốn đòi tiền và kiện ông mà Phạm Duy đã cố tình bỏ quên Nguyễn Tất Nhiên? Thật ra cái tính của Nhiên là thế. Sau này, khi gửi các bài thơ của thi sĩ trên tập san Hợp Lưu, anh cũng có thói quen đòi chủ bút Khánh Trường phải trả tiền nhuận bút. Ai viết cho Hợp Lưu nghe chuyện đó cũng phải bật cười. Chủ bút KT đã trả tiền nhuận bút vì thương bạn. Bởi vi, tờ báo ai đã cộng tác viết bài đều biết tập san nghèo quá, ai dám nghĩ đến tiền nhuận bút. Nhận được một số báo mỗi kỳ đã là một niềm vui rồi vì tờ báo quá đẹp, trang nhã, bài viết có chất lượng. Cầm số báo HL như cầm một cuốn sách. Và theo anh Khánh Trường, Nguyễn Tất Nhiên là người duy nhất trong số các tác giả viết bài cho Hợp Lưu được trả tiền nhuận bút.
Và nó chỉ được nhắc tới trong phần mục lục thôi. Phải chăng, do cái giận một thằng”nhóc con” muốn đòi tiền và kiện ông mà Phạm Duy đã cố tình bỏ quên Nguyễn Tất Nhiên? Thật ra cái tính của Nhiên là thế. Sau này, khi gửi các bài thơ của thi sĩ trên tập san Hợp Lưu, anh cũng có thói quen đòi chủ bút Khánh Trường phải trả tiền nhuận bút. Ai viết cho Hợp Lưu nghe chuyện đó cũng phải bật cười. Chủ bút KT đã trả tiền nhuận bút vì thương bạn. Bởi vi, tờ báo ai đã cộng tác viết bài đều biết tập san nghèo quá, ai dám nghĩ đến tiền nhuận bút. Nhận được một số báo mỗi kỳ đã là một niềm vui rồi vì tờ báo quá đẹp, trang nhã, bài viết có chất lượng. Cầm số báo HL như cầm một cuốn sách. Và theo anh Khánh Trường, Nguyễn Tất Nhiên là người duy nhất trong số các tác giả viết bài cho Hợp Lưu được trả tiền nhuận bút.
Nhưng được biết đến lúc nhà thơ này từ
giã cõi đời thì PD cũng nằm trong số những người đến tiễn đưa anh về thế giới
bên kia.
Phạm Duy đã kể lại trong Ngàn lời ca về
người bạn tình của ông, Alice, con gái của một người tình cũ của ông ở Phan Thiết
là Hélène, Alice đã làm đến 300 bài thơ tặng ông và đã là nguồn cảm hứng cho Phạm
Duy viết phổ nhạc. Khởi đầu là Thương Tình ca với những giai điệu:”
Dìu nhau đi trên phố vắng
Dìu nhau đi trong ánh sáng
Dắt hồn về giấc mơ vàng
Dìu nhau đi chung một niềm Thương
Dìu nhau đi trong ánh sáng
Dắt hồn về giấc mơ vàng
Dìu nhau đi chung một niềm Thương
Và tiếp nối là Ngày đó chúng mình, Đừng
xa nhau, Kiếp nào có yêu nhau (Thơ của Hoài Trinh). Bài này của Hoài Trinh có
in lại trong một băng nhạc ở Hải ngọai, thấy có điền tên tác giả là Hoài Trinh.
Tôi không thấy ông đề tên Alice trong những
bản nhạc tình có thể nói là tuyệt vời ấy trong Ngàn lời ca?. Thật là đáng tiếc.
Thật là “thằng cha bội bạc”.
Nhân tiện đây, phải nói rằng nhạc tình của
Phạm Duy quả là tuyệt vời. Đầy cảm tính. (sentimental) Và chỉ có một người sau
này có thể qua mặt ông là Trịnh Công Sơn với nhạc tình đầy não tính( cérébral)
Chữ của Phạm Duy). Và có những người trẻ tuổi đã chẳng ngại ngùng viết: “Với
tôi, chiều sâu của Phạm Duy là chiều sâu của vực thẳm không đáy, đỉnh cao là đỉnh
cao của ngọn trời và kích thước thứ ba là chiều ngang của không gian vô tận”
Xin trích dẫn một đôi câu nữa để chúng ta
cùng say sưa ngậm ngùi:
Ngày đó có bơ vơ lạc về trời
Tình trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới
Ngày đó có kêu lên gọi hồn người
Trùng dương ơi, Có sót sa cũng hoài mà thôi
Tình trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới
Ngày đó có kêu lên gọi hồn người
Trùng dương ơi, Có sót sa cũng hoài mà thôi
Và để nghe Thái Thanh nức nở một lần nữa
thơ của Hoài Trinh, phổ nhạc là của Phạm Duy:
Đừng nhìn em nữa anh ơi ..
Kiếp nào có yêu nhau, thì xin tìm đến mai sau ..
Kiếp nào có yêu nhau, thì xin tìm đến mai sau ..
Alice đã không có một chỗ đứng đáng nhẽ
phải có, đáng nhẽ phải dành cho cô!! Không thể quên như thế được.
Nhưng dưới mắt Phạm Duy: Phổ nhạc là chắp
cánh cho thơ bay cao. Vì thế, các thi sĩ bị bỏ quên cũng thật là dễ hiểu, vì ai
là người đã chắp cánh cho họ?
Những người đó ít hay nhiều cũng làm nên
vóc dáng Phạm Duy. Có thể, nhờ nhạc sĩ mà bài thơ đi xa hơn nữa. Nhưng dù muốn,
dù không vẫn là mượn thơ của thi sĩ. Họ đã chẳng có một vị trí xứng đáng trong
gia tài âm nhạc của họ Phạm. So ra những người tình của Trịnh Công Sơn may mắn
hơn nhiều, vinh dự hơn nhiều, đi vào những thiên tình sử của một nhạc sĩ tài
hoa có một không hai. Những Diễm.. và cuối cùng đến Hồng Nhung.
Hãy khoan nói đến chuyện tiền bạc. Hãy trả
lại lẽ công bằng về cái thẩm quyền tinh thần, về những sản phẩm trí tuệ ấy.
Tôi vẫn cảm thấy tức anh ách khi viết những
dòng này, nghĩ tới Alice, Huy Cận trong Ngậm ngùi và bao nhiêu thi sĩ khác.
Phải chăng chính ở điểm này mà Nguyễn Trọng
Văn nên dùng bút để giết chết Phạm Duy thì đúng hơn!!
3.- Phạm Duy của nhiều khuôn mặt
Ngay từ hồi trước 1975, nhiều dư luận cho
rằng Phạm Duy là người bất nhất, tham lam, chụp giựt, tính cơ hội trong những
sáng tác nhạc của ông. Các chủ đề sáng tác của ông, mặc dầu trải dài suốt hành
trình nhân thế của ông, bám sát vào những biến cố của thời cuộc, của đất nước
cho thấy nó quá đa dạng, trái khoáy, thiếu cân xứng, thiếu liên tục nhất quán.
Nghe những bản nhạc ấy, nhiều khi không khỏi ngỡ ngàng, thấy lạ, thấy kỳ dị và
cảm giác quan trọng là thấy có gì đó không ổn. Có thể gọi đó là một thứ
sincérité instantannée, thành thật nhất thời cảm hứng nhất thời, xung động nhất
thời (émotion primaire)
Cảm hứng nhất thời đó cũng giống như một
thanh niên lãng tử, ham vui, chóng chán. Khó có cái gì đọng lại, kết tinh, có
chiều sâu, có âm hưởng.
Đó là thứ nhà văn không có style, nhạc sĩ
không có nét nhạc, thiếu cá tính, họa sĩ thiếu gam mầu.
Đối với một người như TCS, ta chỉ cần
nghe một điệu nhạc, bắt ngay được cái hồn tính của điệu nhạc ấy và biết ngay là
Trịnh Công Sơn. Nó có một cái duy nhất, cái độc đáo, cái làm nên thế giới âm nhạc
ấy. Cũng vậy, xem tranh phố cổ của Bùi xuân Phái quen thuộc, lướt qua cũng nhận
ra gam mầu trong tranh rất xanh nhạt, xám nhẹ, gợi nét buồn với hình ảnh những
căn nhà, trống vắng, trơ chọi .. Họa sĩ nổi danh với hai chữ phố phái, một đặc
sủng trong tranh Bùi Xuân Phái cũng nhờ ở chỗ có cái đồng nhất thể, cái thể
tính của tranh vẽ phố cổ của ông. Trông là biết, là nhìn nhận ra tác giả.
Phạm Duy trái lại đưa người nghe nhạc ông
từ thái cực này đến thái cực khác, hay dở lẫn lộn, pha chế, dửng mỡ, thô tục,
thanh cao, ngậm ngùi, thiết tha, xót xa, rẻ tiền, vay mượn lung tung, chắp vá
tùy tiện.
Có vẻ trong sáng tác, lúc nào ông cũng
tham lam, muốn thay đổi, muốn cái lạ, cái mới theo cái kiểu tiện đâu hay đấy,
theo cái kiểu có tiền thì làm. Đôi khi không khỏi làm người nghe khó chịu và bực
dọc.
Sáng tác nhiều nhất so với các nhạc sĩ
khác. Phạm Duy 1000 bài. Trịnh Công Sơn 600. Nhưng cái dở của Phạm Duy cũng
không ít.
** Giai đoạn kháng chiến ca
Dành cho giai đoạn này, ông có trên dưới
50 bài. Nhưng chỉ độ 10 bài nay còn được nhắc nhở tới. Bài phổ nhạc đầu tiên Cô
Hái mơ, phổ thơ Nguyễn Bính, 1942. Cũng là hay, nhưng khó có thể so bì với Con
thuyền không bến của Đặng Thế Phong và Buồn tàn thu của Văn Cao. Mà Đặng Thế
Phong sáng tác nhiều nhặn gì cho cam. Nhạc của Đặng Thế Phong dù ít, nhưng bài
nào cũng hay. Ít mà tuyệt vời. Những bản nhạc hùng của Phạm Duy trong thời kỳ
kháng chiến thì may mắn còn được quân đội VNCH xử dụng như các bản quân hành
như Xuất Quân, Nào bao hùng binh tiến lên..Chiến sĩ vô danh, Đường về quê, Khởi
hành…
Trong số đó, vài ba bài dân ca kháng chiến
thật hay và ngậm ngùi như Nhớ người Thương binh, Ru con, và Nương chiều. Đó là
những bài ca với những văn ảnh quen thuộc như mẹ già, con thơ, vợ hiền rất gần
gũi với người VN và được nhiêu người ưa thích.
Ít ra, trong giai đọan này, người ta còn
nhận ra được tính thuần nhất trong chiều hướng sáng tác của người nghệ sĩ. Mặc
dầy vậy, nhiều bài nay không một ai biết đến nữa vì tính tham lam, viết dễ của
tác giả như các bài Quân Y ca, Thiếu sinh quân, Ngọn trào quay súng, Một viên đạn
là một quân thù. Đòan quân Văn hóa.
Tham lam. Đó là cái dở nhất của Phạm Duy.
Đó là cái giá phải trả dành cho những bản nhạc bị bỏ quên mà cũng dành cho
chính tác giả. Có đến 3 phần tư những bản nhạc của Phạm Duy sau này đã không ai
biết đến nữa.
** Giai đoạn 20 năm miền Nam.
Đây là một thời gian dài đánh dấu sự
thành công của Phạm Duy. Thành công của ông bắt đầu với ban Hợp ca Thăng Long
trên đài Pháp Á, từ 1951. Tới 1955, thời ông Diệm đổi là Đài phát thanh Quốc
Gia. Với những tên tuổI như Hoài Trung (Phạm Đình Viêm) Hoài Bắc (Phạm Đình Chương),
Phạm Duy, Thái Hằng và Thái Thanh (Băng Thanh). Với những bài ca khá tuyệt vời
như Tình Hoài Hương, Tôi yêu tiếng nước tôi (1953).
Ban Hợp ca Thăng Long
Đây là giai đoạn phong phú và thành công
rực rỡ nhất của cuộc đời làm nghệ sĩ của Phạm Duy.
Thoạt tiên với Ban Hợp ca Thăng Long đã nổi
như cồn. Có thể so sánh nó giống như Sáng Tạo trong văn học với Mai Thảo. Nhạc
với Phạm Duy, với ban Hợp ca Thăng Long. Văn với Mai Thảo với tạp chí Sáng Tạo.
Cả hai là những đặc sản miền Bắc mang vào như trái cây đầu mùa ở miền Nam lúc ấy.
Những bản tình ca tuyệt vời cũng hầu hết
được sáng tác trong giai đoạn này đã đư tên tuổi PD lên cao, cao thật cao.
Trường ca Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam
và dân ca ba miền.
Cạnh đó là Hai bản Trường ca: Con đường
cái quan và Mẹ Việt Nam. Hai trường ca này làm nên vóc dáng Phạm Duy. Bản trường
ca nói đến người lữ khách lên đường, đi từ Bắc vô Nam.
Về nội dung, nó nói lên được tình tự dân
tộc, tấm lòng yêu quê hương đất nước mỗi lần tác giả dừng chân tại mỗi miền. Những
câu hò, câu ví của dân ca ba miền được nhắc nhở đến với những địa danh như
Thăng Long, Tháp rùa, ải Chi Lăng, Phố Kỳ lừa. Tạ Tỵ đã nhận xét: “Suốt chuyến
đi, xuyên nửa quê hương, Duy đã xúc động và nhận diện được chân dung quê hương
qua tri giác tinh tế của một nghệ sĩ đã gần 40 tuổi đời” (…) Nếu Con đường cái
quan là một hành ca ghi lại bước tiến của dân tộc ta trên một sinh lộ nhất quyết
không chịu chia cắt, thì mẹ Việt Nam vẫn là một Âu ca, ca tụng Mẹ tổ quốc và những
mẹ điển hình trong truyền kỳ lịch sử nước nhà, đề tài và cảm hứng dựa vào tình
thương yêu và tính hiếu hòa, tính tình này đã sinh tồn mạnh mẽ trên đất nước và
phải được truyền đi trong thế giới tàn nhẫn của hiện nay (16)
(16)Tạ Tỵ, Phạm Duy còn đó nỗi buồn, trang 200
(16)Tạ Tỵ, Phạm Duy còn đó nỗi buồn, trang 200
Nhiều người đồng thời với Phạm Duy bày tỏ
một sự trân trọng coi PD là Kẻ du ca Phạm Duy với dân ca ..
Nhưng về hình thức, theo dõi toàn bộ bài
hát thì thấy mệt, chán, dài lê thê, cóp nhặt âm hưởng của từng vùng. Nó là một
thứ lắp ráp chưa khéo. Tách ra từng đoạn, từng phần thì có phần hay. Những phần
đoạn hay thường được giới thanh niên hát trong các sinh hoạt giới trẻ và nhất
là trong những đoàn du ca của giới sinh viên học sinh. Chẳng hạn dân ca Như Lý
Ngựa ô, Trèo lên quan Dốc, se chỉ luồn kim, Lý con sáo, hát bội trăng rằm, qua
cầu gió bay dễ gây rung cảm vì nó rất Việt Nam, gần gũi, quen thuộc, thân
thương, gợi nhớ vv được PD lấy cả ý đến lời đến điệu nhạc, điệu hò như thể là của
mình.
Nhiều người đã bày tỏ sự không thích của
mình. Ông đã xử dụng các câu hò, câu ví như thể là chính ông sáng tác. Không lạ
gì, nhiều người đã đồng hóa Phạm Duy vào dân ca đó như thể là của chính ông
sáng tác.
Riêng nhạc sĩ Lê Thương đưa ra nhận xét:
Những bài như Con đường cái quan hơi dài quá, điệp ý nhiều, có nhiều đoạn lại
tham lời, tham ý quá, chẳng khác người mới làm văn không chịu lựa chọn những ý
đặc biệt, những tư tưởng độc đáo để diễn tả, trái lại ý nào cũng thích, tư tưởng
nào cũng ham, nhất nhất thu cả vào bài văn của mình, làm cho độc giả coi mà mệt,
do đó sinh ra ngán ngẩm”(17)
(17)Llê Thương trả lời phỏng vấn của Vũ Bằng,
Văn Học, số 102, trang 76 . Trích lại Nuyễn Trọng Văn, Ibid trang, 65
Và một tiếng nói nữa của Trần Văn Khê nhận
xét về hai bài hát về miền Nam Cửu Long Giang và Nhờ gió đưa về như sau: “Tôi nghĩ có lẽ Phạm Duy cho rằng
miền Nam chịu ảnh hưởng Âu Châu rất nặng nề là khi đến miền Nam người lữ khách
đi thời xưa đàn ngày nay, đàn mà nhạc Việt ảnh hưởng Âu Châu rất nhiều, nên hai
bài hành khúc, không còn dân tộc tính của nhạc Việt nữa… Riêng đối với tôi, những
câu nhạc nửa Âu, nửa Á, nửa Mỹ, nửa Việt Nam làm tôi tiếc người nhạc sĩ sáng
tác hai phần đầu, người nhạc sĩ đã đem dân ca lên một mức khá cao để rồi phụ bạc
dân ca trong phần chót nhạc phẩm.“ (18)
(18) Trần Văn Khê, Nhận xét Trường Ca Con
đường cái quan của Phạm Duy, Văn Học, 102, trang 69. Trích lại trong Nguyễn Trọng
Văn, Ibid, trang 67
Dân ca có nghĩa là gia tài chung của mọi
người, không ai là tác giả, hay chỉ là vô danh. Vậy mà Phạm Duy đã mượn ý, mượn
lời, rồi coi như của mình. Nhiều người như các quý ông Nguyễn Hữu Ba, Trần Văn
Khê đã có nhận xét rõ ràng về vấn đề này và yêu cầu ông sửa lại.
Riêng Nguyễn Trọng Văn, thẳng thừng và
khó tính hơn coi như một thứ ăn cắp không hơn, không kém. Nguyễn Trọng Văn đà
nhận xét khá nặng nề như sau:” Ngoài thái độ lấy gia tài chung của dân tộc làm
gia tài riêng của mình, lấy vinh dự của dân tộc làm bậc thang cho riêng mình,
việc sử dụng trường ca cũng bị chỉ trích(19)
(19) Nguyen Trong Van, ibid, 72
(19) Nguyen Trong Van, ibid, 72
Khó có thể chấp nhận được tính nhập nhằng
của ông. Ông đã nhập nhằng không để tên các bài phổ nhạc của các thi sĩ. Bậy lắm.
Không thể làm thế được. Đề thêm tên tác giả, bản nhạc có thể vì thế mà mất gá
trị đâu!!!
Nay lại nhập nhằng trong dân ca!!
Trong việc sáng tác của ông đa dạng về thể
loại còn đa dạng về đề tài. Phong phú, nhưng trùng lập. Mâu thuẫn và không hợp
lý. Các đề tài trong nhạc của Phạm Duy được ông thay đổi như chong chóng, nhảy
từ lãnh vực này sang lãnh vực khác. Mỗi lần thay đổi thì ông lại giải thích thế
này, thế nọ. Nhưng nghe không lọt tai tý nào.
Nó có vẻ tùy tiện, tùy cơ hội đưa đến. Nó không phải là những điều ông ấp ủ, xuất phát từ tim óc. Ít lắm, ông cũng phải trung thành với chính mình, trung thành với những điều ông ấp ủ. Vì không thể ấp ủ nhiều thứ cùng một lúc được. Vừa mong chấm dứt chiên tranh, vừa phản chiến, vừa hiếu chiến?
Nó có vẻ tùy tiện, tùy cơ hội đưa đến. Nó không phải là những điều ông ấp ủ, xuất phát từ tim óc. Ít lắm, ông cũng phải trung thành với chính mình, trung thành với những điều ông ấp ủ. Vì không thể ấp ủ nhiều thứ cùng một lúc được. Vừa mong chấm dứt chiên tranh, vừa phản chiến, vừa hiếu chiến?
Tâm ca, Đạo ca, tục ca…
Vào năm 1965, ông bắt đầu viết tâm ca. Ở
thời điểm đó, viết tâm ca là có thể hiểu được, vì đúng thời điểm. Có vẻ thời
thượng nữa. Mức độ gia tăng chiến tranh đến chóng mặt với sự tham dự trực tiếp
của người Mỹ vào miền Nam. Tâm trạng chán ghét chiến tranh, mỏi mệt, đã mỗi
ngày một rõ mặt. Những người Thanh niên trẻ như Trịnh Công Sơn đã góp mặt và đã
để lại những dấu ấn rõ nét qua những văn ảnh về bom đạn, xác người, quê hương
rách nát.
Phạm Duy kể trong Hồi ký, tập 3, ông có
ba người con trai phải nhập ngũ. Ông viết :
“Giới trẻ bị động viên. Ba đứa con trai tôi tuần tự nhập ngũ. Tôi đi thăm chúng tại trại Quang Trung, lòng đầy ái ngạ. Gia đình nào cũng có con phải đi lính. Ai cũng nếm mùi chia ly, hoặc mùi chết chóc, mặc dù chưa bị khó, khăn về kinh tế như sau này”. (19)
“Giới trẻ bị động viên. Ba đứa con trai tôi tuần tự nhập ngũ. Tôi đi thăm chúng tại trại Quang Trung, lòng đầy ái ngạ. Gia đình nào cũng có con phải đi lính. Ai cũng nếm mùi chia ly, hoặc mùi chết chóc, mặc dù chưa bị khó, khăn về kinh tế như sau này”. (19)
(19) Trích Hồi Ký Phạm Duy, tập ba,
chươg14
Phạm Duy đóng góp bằng 10 bài Tâm ca, phổ
thơ Nhất Hạnh. Trong 10 bài Tâm ca, có hai bài thật tiêu biểu như Tôi ước mơ,
Giọt mưa trên lá.
Những bài khác như Kẻ thù ta, Tiếng hát
to, Một cành củi khô, Ru người hấp hối, Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe, Hát
với tôi có tính dung tục, ” hò hét” , “tuyên truyền”. Chẳng có gì là Tâm ca cả
.
Thơ đó thể hiện được tình tự nhân loại,
con người với những khát vọng, những ao ước ra khỏi cuộc chiến tranh này. Tình
con người, tình tự nhân loại thấm nhuần tư tưởng triết học, tôn giáo như hòa trộn
vào nhau.
Nhưng tôi có cảm tưởng, ông đà không
chuyên chở nổi thơ Nhất Hạnh. Âm nhạc Phạm Duy chưa tới. Thơ ở tầm cao mà nhạc
không với tới. Người hát là giọng ca Thái Thanh, tuyệt vời trong Nghìn Trùng xa
cách lại tỏ ra khiên cưỡng đối với những bài tâm ca này. Giọng hát đanh quá,
chát chúa, sắc quá khi lên cao giết chết cái hồn tính trong Giọt mưa trên lá.
Nhạc không tới, giọng ca không thích hợp
đã tự hủy tâm ca của ông và dĩ nhiên thơ của Nhất Hạnh nữa. 10 bài tâm ca này,
nay mấy bài còn được nghe ai hát nữa?
Cũng có một số phản ứng của vài trí thức khuynh tả thời đó, Lý Chánh Trung, trên Bách Khoa gọi Tâm ca là ảo tưởng, vì tiếng hát to (trong tâm ca số 2. không thể nào to hơn súng nổ bên bờ ruộng già. Nguyễn Văn Trung thì cho Tâm ca là mê hoặc vì không thay thế được tư tưởng chính trị để dẫn tới một tranh đấu chính trị.
Cũng có một số phản ứng của vài trí thức khuynh tả thời đó, Lý Chánh Trung, trên Bách Khoa gọi Tâm ca là ảo tưởng, vì tiếng hát to (trong tâm ca số 2. không thể nào to hơn súng nổ bên bờ ruộng già. Nguyễn Văn Trung thì cho Tâm ca là mê hoặc vì không thay thế được tư tưởng chính trị để dẫn tới một tranh đấu chính trị.
Không nói tới vấn đề Phạm Duy thú nhận có
bài ông chỉ sáng tác trong 15 phút. Đó là việc của ông. Nhưng chính bản thân
người nghệ sĩ chưa trang bị đủ cái Spiritualité để đi vào cái hồn, cái linh
thiêng hòa nhập giữa tâm tình tôn giáo và chất nghệ sĩ.
Ông thiếu một cái gì đó- dung tục mà chưa thoát tục-. Ông mong muốn tâm ca là tiếng nói của lương tâm, của con người đối đầu với sự thật và nhận diện lại mọi thứ, mọi giá trị trên đời này. Nếu thế thì ông đã thất bại.
Ông thiếu một cái gì đó- dung tục mà chưa thoát tục-. Ông mong muốn tâm ca là tiếng nói của lương tâm, của con người đối đầu với sự thật và nhận diện lại mọi thứ, mọi giá trị trên đời này. Nếu thế thì ông đã thất bại.
Trên Văn Học số 21, tháng 10. 1987 sau
này, Bùi Vĩnh Phúc có biện hộ phân tích mấy đi nữa về 10 Bài Tâm ca cũng không
cứu gỡ nổi PD.
Nói một cách thẳng thừng, 10 bài Tâm ca
cũng rất có thể bị xếp chung vào thứ loạn phát (ex-croissance)nói chung của thời
kỳ ấy! Nào dân ca, nào tâm ca, đạo ca, du ca, vỉa hè ca, tục ca.v.v..
Vì vậy có một khoảng cách chưa quyện vào
nhau giữa nhạc và thơ. Nó khác trường hợp TCS. Mặc dầu Phạm Duy tự tin rằng:
Tôi đã nói hộ thi sĩ. Và tôi xin ghi lại đây lời giới thiệu của nhà Lá Bối khi
cho in tập nhạc:” Tuy nhiên Lá Bối ghi nhận rằng những bài Tâm ca được trình
bày trong đây, tuy cũng xuất phát từ trái tim, tuy cũng là ngôn ngữ khóc cười
theo mệnh nước, vẫn còn mang một sắc thái đặc biệt: Đó là tính cách tâm linh nội
hướng và ý hướng điều hợp”(20)
(20)Trich Hồi ky Phạm Duy, tập ba, Ibid
(20)Trich Hồi ky Phạm Duy, tập ba, Ibid
Khi Thích Nhất Hạnh nói tới khát vọng hòa
bình, nói tới ước mơ thì người tu sĩ thi sĩ ấy gửi gắm trong đó một sức mạnh
tâm linh, một khát vọng tôn giáo, một nguyện cầu cho việc giải quyết cuộc chiến
tranh ấy. Đem cái sức mạnh tâm linh ấy đến như một giải pháp vĩnh viễn cho con
người chẳng những xóa bỏ hận thù mà còn có thể xích lại gần nhau, như anh em?
Ảo tưởng hay ước mơ? Đã gọi là ước mơ thì
ai có thể cấm ông Nhất Hạnh được? Quyền ước mơ là quyền tối thượng trong những
tình huống thật sự bi kịch đối với một nghệ sĩ. Thường sự phê phán là dựa trên
thực tế cuộc đời mà ước mơ thì lại thuộc một thế giới đi ra khỏi cuộc đời hay ở
trên cuộc đời. Vậy thì sự phê phán có tỏ ra thích hợp không.
Thiếu cái chiều kích tâm linh trong việc
phổ nhạc thơ Nhất Hạnh thì PD khó có hy vọng thành công.
Loạn Phát (ex-croissance) trong trường hợp
Phạm Duy
Làm xong 10 bài Tâm ca, PD cho người ta
có cảm tưởng như thế là xong. Tâm ca đã hoàn tất, không con có gì để nói tới nữa.
Bỏ Tâm ca một cách không thương tiếc, ông nhảy sang lãnh vực sáng tác nhạc khác..
Ngay cùng năm đó, 1965, người ta thấy Phạm
Duy sản xuất hàng loạt những bản nhạc nghịch chiều, trái cựa như chửi cha nhau.
Thoạt đầu với Huyền sử ca một người mang tên Quốc. Một cách gián tiếp tôn vinh
những người hùng trong chiến tranh, thần tượng hóa cái chết của phi công Phạm
Phú Quốc. Ông tự hào mở đầu cho dòng nhạc hùng. Và tiếp theo đó một lô hàng sản
xuất như mì ăn liền mang nhãn hiệu: Cung khúc Võ Đại Tôn, Mùa Xuân máu đỏ, Bài
ca tử sĩ cho người quê tôi. Còn tệ hơn nữa, cũng chính năm đó, một lô sản phẩm
có tên: Một hai ba, chúng ta là lính cả làng, Thi đua biện luận, Nông thôn quật
khởi.
Ông ra Vũng Tàu trong công tác xây dựng
nông thôn. Ông lại cho ra đời một loạt bài hát như: Tay súng tay cầy, Hát hay
không bằng hay hát, Cùng nhau xây ấp Mới, Khoác áo mầu đen …
Tôi không có ý nói rằng không nên đề cao
phi công Phạm Phú Quốc cũng như những bài thuộc xây dựng nông thôn của ông.
Nhưng không thể cùng một lúc khát vọng hòa bình, ngồi lại với nhau, sau đó lại
cổ vũ chiến tranh. Và cuối cùng kết thúc với chiến ca mùa hè vào năm 1972.
Phạm Duy trong tình huống và cung cách
sáng tác như thế đưa đến sự nghi ngờ về tính trung thực của ông. Những sáng tác
lẫn lộn ấy thể hiện tính bèo bọt, tính phù phiếm và bán “hàng giả” của ông..
Tháng 3-1966
Chống chiến tranh, phản chiến, khát vọng
hòa bình. Đó là những gì có thể tìm thấy trong tâm ca. Vậy mà cũng chính con
người ấy, nghệ sĩ ấy, vào tháng 3-1966, ông được bộ Ngọai giao Mỹ mời viếng
thăm Hoa Kỳ. Sau đó vào năm 1970, một lần nữa, ông được gửi sang Mỹ để “giải độc”
dư luận Mỹ thường chống chiến tranh. Thật là trái khoáy và trớ chêu quá.
Trong chuyến đi này, tại New York, ông đã có dịp gặp một nhóm chủ hòa đồng thời gặp Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, ngồi trên sân khấu hội trường cùng với nhà văn thiên tả Arthur Miller ..
Trong chuyến đi này, tại New York, ông đã có dịp gặp một nhóm chủ hòa đồng thời gặp Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, ngồi trên sân khấu hội trường cùng với nhà văn thiên tả Arthur Miller ..
Người Mỹ phản chiến trả tiền lưu trú, đi
lại cho nhà sư mặc áo vàng ngồi” tĩnh tọa” trên bục sân khấu kêu gọi chấm dứt
chiến tranh. Cũng người Mỹ trả tiền du lịch cho một nhạc sĩ ngồi ở dưới trong
“chiến dịch giải độc” những kẻ chủ hòa ngồi ở trên ..
Ở trên, ở dưới, khoảng cách thật gần. Có hai kẻ thuộc loại chủ nghĩa thời cơ làm hai vai trò khác nhau và được chi trả theo công việc mà họ được chỉ định để làm.
Ở trên, ở dưới, khoảng cách thật gần. Có hai kẻ thuộc loại chủ nghĩa thời cơ làm hai vai trò khác nhau và được chi trả theo công việc mà họ được chỉ định để làm.
Chuyến đi Mỹ này thật khó nghĩ quá. Đã vậy,
bài hát tủ mà ông thường hát cho Mỳ nó nghe lại là bài Giọt mưa trên lá, vì có
lời bằng anh văn. Nhận tiền Mỹ, làm công tác tuyên truyền, giải độc cho Mỹ.
Nhưng hát Giọt mưa trên lá cho Mỹ nghe là
một công việc vừa chửi Mỹ- kẻ chi tiền-, vừa chửi chính mình-kẻ nhận tiền-.
1970 một lần nữa, ông lại được mời sang
Hoa Kỳ đi với đoàn bộ thông tin Hoa Kỳ nhằm “GIẢI ĐỘC”dư luận Mỹ trong vai trò
cố vấn.
Người Mỹ có thể nào thông minh và sáng tạo
ra một Phạm Duy thủ nhiều vai trò như thế!!~ Và vai nào Phạm Duy cũng thủ diễn
trọn vẹn.
Có đến ba bốn Phạm Duy trong những câu chuyện như thế này.
Có đến ba bốn Phạm Duy trong những câu chuyện như thế này.
Vỉa hè ca:
Sang đến năm 1968, ông sáng tác những nhạc
phẩm có tên là vỉa hè ca, gợi hứng từ Chanson du pavé của Pháp. Vỉa hè ca gồm
có các bài như Sức Mấy mà buồn, Nghèo mà không ham, Ô kê salem, Ô kê nước mắm.
Vỉa hè ca biểu tỏ sự nghèo nàn, sự kiệt
quệ, sự bế tắc trong sáng tác của Phạm Duy. Lời văn tếu, dửng mỡ, đùa giỡn, bất
cần, nó chửi tất cả gia tài sáng tác của họ Phạm. Vỉa hè ca phải chăng là một mặt
khác của cuộc đời sáng tác của Phạm Duy! Sức mấy trở thành chữ dùng thông tục
.. Cái gì cũng sức mấy ..cả . Sức mấy như một thái độ bất cần, thách đố và coi
thường tất cả ..
Tục ca:
Thấy như chưa đủ dose, ông dấn thêm bước
nữa, sản xuất tục ca để văng tục vào cái xã hội ông đang sống. Đã có 10 bài Tâm
Ca thì tại sao không có 10 bài tục ca. Đó là cái lối lý luận của Phạm Duy.
Thế là 10 bài tục ca ra đời với những tên
rất là tục như: Khỉ đột, Tình hôi, Nhìn Lồn.. em Đ.. Cầm cu… Ông viết, trong bấy
nhiều bài, bài Nhìn Lồn, tôi viết cho đủ chữ là “tục tĩu quá”. Đã viết tục đuợc
như thế mà còn ngại ngùng chi mà không viết đầy đủ chữ. Trẻ con nhìn lồn phụ nữ
ngồi đi cầu, nhìn đủ thứ: lồn non, lồn lớn con, mập mạp, lồn mềm… Lồn tròn hoặc
lồn móm mém… rồi cuối cùng có đứa nhìn phải đúng lồn mẹ nó. Tôi gọi là tục tĩu
quá cũng không quá đáng.
Lại một lần nữa, ông thú nhận viết tục ca
là do ảnh hưởng Phạm Duy Tốn,(20) nhất là nhạc sĩ Georges Brassens. Ông hay bắt
chước quá. Và cầm nhầm nữa. Mấy bài tục ca này phần âm nhạc thế nào thì tôi
không biết, nhưng phần lời ca thì thoải mái và gratuit quá, chẳng để làm gì. Thật
sự không biết để làm gì? Từ nhìn lồn sang đạo ca thì không biết phải nói thế
nào.
(20) Phạm Duy Tốn có viết một cuốn truyện
gọi là Tiếu Lâm Annam rất là tục. Trong đó có kể một câu truyện, người vợ thòm
thèm thì nhét một củ từ vào chỗ kín, người chồng không làm được đành ngủ với
chó cái và không rút ra được. Nhưng Phạm Duy Tốn chỉ làm công việc ” sưu tập”
Tiếu Lâm Annam . Còn Phạm Duy là “sáng tác”
Đây là một bài tục ca tiêu biểu do Phạm Duy sáng tác:
Đây là một bài tục ca tiêu biểu do Phạm Duy sáng tác:
Tôi có người yêu cái đít, to
như Thẩm Thúy Hằng
Cái đít nhìn qua khiến cho ta phải ngỡ ngàng nữa
Vừa to vừa lớn ! Như Những mặt vua
Mặt ông tổng thống cũng phải thua(21)
(21) . Trích Hồi ký Phạm Duy, Ibid, tập 3..
Cái đít nhìn qua khiến cho ta phải ngỡ ngàng nữa
Vừa to vừa lớn ! Như Những mặt vua
Mặt ông tổng thống cũng phải thua(21)
(21) . Trích Hồi ký Phạm Duy, Ibid, tập 3..
Tại sao ông lại viết tục ca để làm gì?
Theo ông, viết tục là để châm biếm xã hội
hoặc công phẫn về chính trị thời 1968-1972. Nhất là để “nổi giận” phải văng tục
vào nền văn minh cơ khí, nền văn minh chiến tranh, nền văn minh tiêu thụ.
Nổi giận với chiến tranh, với nền văn
minh tiêu thụ thì có liên quan gì đến cái đít to tội nghiệp của Thẩm Thúy Hằng
bị biến thành con tin !! Đến việc mang những đứa trẻ nít vô tội đi nhìn L. đàn
bà !!
Phải chăng Phạm Duy là một con người muôn mặt !
Phải chăng Phạm Duy là một con người muôn mặt !
Đạo ca:
Đến năm 1971, sáng tác của Phạm Duy rẽ sang một khúc quặt mới với sự gặp gỡ Phạm Thiên Thư, tức Thiền sư Tuệ Không. Phải nói rằng không gặp Phạm Thiên Thư thì không bao giờ Phạm Duy có ý tưởng viết đạo ca. Sau khi đã đi qua một hành trình sáng tác từ Tâm ca, Tâm Phẫn ca, Vỉa hè ca, Tục ca, Chiến ca và nay thì bay lên chín từng không của Đạo ca .
Đến năm 1971, sáng tác của Phạm Duy rẽ sang một khúc quặt mới với sự gặp gỡ Phạm Thiên Thư, tức Thiền sư Tuệ Không. Phải nói rằng không gặp Phạm Thiên Thư thì không bao giờ Phạm Duy có ý tưởng viết đạo ca. Sau khi đã đi qua một hành trình sáng tác từ Tâm ca, Tâm Phẫn ca, Vỉa hè ca, Tục ca, Chiến ca và nay thì bay lên chín từng không của Đạo ca .
Ở đây, đó là một bước nhảy vào điều mà
ông gọi là Đạo ca. Điều gì đã khiến ông thay đổi như thế? Khó hiểu mà cũng dễ
hiểu. Chỉ là cái duyên gặp gỡ với Phạm Thiên Thư mà sinh ra cớ sự.
Thoạt đầu tiên, Phạm Thiên Thư đưa ông
bài thơ: Ngày xưa Hoàng Thị. Thế là có bài: Anh tan trường về. Bài hát thật dề
thương. Ai cũng thích và ai cũng hát. Nhất là trong những buổi họp mặt đông người.
Sau đó, Phạm Duy khoác áo Thiền sư.
Khi đạo ca ra đời, ông cũng nhận được một
số lời khen của bạn bè như họa sĩ Nguyễn Gia Trí, G.E Gauthier và như thường lệ
có họa sĩ Tạ Tỵ. Những khái niệm hóa thân, đại vũ trụ, đồng nhất thể, mười phương
thế giới là một, hòa vào đạo, vào vũ trụ v.v… Tự nhiên, bỗng chốc ông được thừa
hưởng hết những tinh hoa, cốt lõi cao diệu ấy, đạt tới chỗ siêu thoát mà chẳng
tốn đồng xu cắc bạc nào.
Những lời khen trên có chỗ sai là người
ta chỉ biết có ông, tưởng ông là người có những tư tưởng cao diệu mà không lý
gì đến Phạm Thiên Thư cả.
Nhưng không sao, kẻ đã bỏ đời mà đi,
thong dong đạo cốt theo tiếng chuông *Cam Lộ* như Phạm Thiên Thư thì còn xá gì
ba tiếng thị phi. Ông Phạm Duy cứ an tâm mà vơ hết về mình đi.
Nhưng Nguyễn Trọng Văn, một lần nữa đứng ở
quan điểm con người dấn thân, nhập cuộc chỉ thấy ở đó một thái độ thoát ly, chạy
trốn: “Những tư tưởng thoát ly của Đạo ca quả thực là một thái độ chạy trốn… Những
tư tưởng thoát ly của Đạo ca quả thực là một cái gì mỉa mai, lạc lõng nếu không
phải là một cái gì ru ngủ… Đạo ca không phải một thăng hóa, trái lại là một
thái hóa so với tâm ca .. Đạo ca là một nối dài của tình ca, tục ca… khi nhữing
thứ này không đủ sức giúp người thành thị thóat ly khỏi hòan cảnh đau khổ trước
mắt.“(22)
(22) Trích Nguyễn Trọng Văn , Ibid, trang
123- 124
Tôi không nghĩ như Nguyễn Trọng Văn, Đạo
ca vẫn có chỗ của nó trong thời chiến. Chính ở những tình huống bi kịch đối đầu
từng giây phút với cái chết, với khổ đau, Đạo ca là con đường tối ưu dần đưa
con người ra khỏi trốn lưu đầy.
Và lúc nào, con người dù hạnh phúc hay khổ
đau thì khát vọng về một thế giới bên trên vẫn là một khát vọng khôn nguôi.
Khát vọng tôn gíáo là một khát vọng bản
thể, khát vọng vĩnh hằng.
Nhưng cái vấn đề Phạm Duy là một thứ phù
thủy ngôn ngữ lắt léo, từ Tâm ca, tục ca, L..c, có đủ tư cách đóng vai một thiền
sư dẫn dắt chúng sinh vào con đường của Đạo, của Tuyệt đối thể với những phạm
trù ngôn ngữ như tiểu ngã, đại ngã, đồng nhất thể, mười phương thế giới là một không!
Sau 1975 tại Hải ngoại
Trước khi chấm dứt hành trình sáng tác của
Phạm Duy, chúng ta không quên : Bày chim bỏ xứ mà đến nay tôi chỉ được một lần
nghe hát. Hình như số phận của nó cũng giống như số phận một số nhà văn sáng
tác sau 1975 ở Hải Ngoại.
Tiếng hát, lời ca của Phạm Duy đã tắt.
Trong thời kỳ này, từ 1978 về sau, ông
sáng tác và phổ nhạc tất cả gần 100 bài hát. Nhưng hầu như không mấy ai biết đến
những bài này. Trong đó, tôi đặc biệt để ý đến thơ Cao Tần và thơ Nguyễn Chí
Thiện, loại thơ được coi là Chống Cộng mạnh mẽ nhất đã được ông phổ nhạc. Cạnh
đó là những bản nhạc do ông phóng tác như Học Tập cải tạo, Phụ nữ Sàigòn, Độc Lập
Tự Do.( Độc lập là mất Cam Ranh, Tự do là bán dân mình cho Nga, No là cơm độn
bo bo, ấm là quần rách để thò Bác ra)…
Chống Cộng quá đi ấy chứ.
Chống Cộng quá đi ấy chứ.
Chỉ có thể nói thêm một lần nữa, đó là thứ
Phạm Duy muôn mặt.
Chẳng ai còn biết tới những bài này nữa. Nó bỏ xứ mà bơ vơ lạc lõng nơi quê người, như chính thân phận bày chim bỏ xứ. Về già, về lại Việt Nam, một lần nữa, tôi lại được hân hạnh nghe ông trình bày sáng tác mới nhất của ông liên quan đến tác phẩm truyện Kiều tại nhà một đại gia ở Sài Gòn. Tôi nghe mà không thấy thích thú gì.
Bữa đó ra về, tôi tự nhủ lòng là Phạm Duy đã hết rồi.
Cuối cùng thì cũng phải nhìn nhận với nhau rằng, có rất nhiều bất cập trong cuộc đời sáng tác của ông. Nhiều bản nhạc của ông cũng như cuộc đời của chính ông, số phận của nó sẽ không còn được ai biết tới.
Nhưng ông cũng đã để lại một số bài tình ca được coi là bất hủ, cũng như một số bài được gọi là dân ca thời kháng chiến khó có thể quên, cộng thêm những bản nhạc hùng, vui tươi dành cho giới trẻ hay du ca: Mẹ Việt Nam, Việt Nam, Việt Nam, Tôi yêu tiếng nước tôi, Em tan trường về. Kể chi hết được.
Chẳng ai còn biết tới những bài này nữa. Nó bỏ xứ mà bơ vơ lạc lõng nơi quê người, như chính thân phận bày chim bỏ xứ. Về già, về lại Việt Nam, một lần nữa, tôi lại được hân hạnh nghe ông trình bày sáng tác mới nhất của ông liên quan đến tác phẩm truyện Kiều tại nhà một đại gia ở Sài Gòn. Tôi nghe mà không thấy thích thú gì.
Bữa đó ra về, tôi tự nhủ lòng là Phạm Duy đã hết rồi.
Cuối cùng thì cũng phải nhìn nhận với nhau rằng, có rất nhiều bất cập trong cuộc đời sáng tác của ông. Nhiều bản nhạc của ông cũng như cuộc đời của chính ông, số phận của nó sẽ không còn được ai biết tới.
Nhưng ông cũng đã để lại một số bài tình ca được coi là bất hủ, cũng như một số bài được gọi là dân ca thời kháng chiến khó có thể quên, cộng thêm những bản nhạc hùng, vui tươi dành cho giới trẻ hay du ca: Mẹ Việt Nam, Việt Nam, Việt Nam, Tôi yêu tiếng nước tôi, Em tan trường về. Kể chi hết được.
Một nhận xét nhỏ đây là lần thư hai, tôi
đọc hồi ký của ông. Ông không có một lời phỉ báng bất cứ ai, nhất là giới nhạc
sĩ. Dĩ nhiên không kể những lời giải thích rất tùy tiện, khá huyênh hoang, rất
chủ quan về lý do tại sao sáng tác cái này cái kia.
Cũng trong bài này, tôi không nói tới những mối tình lớn nhỏ của ông. Một phần vì là đời tư của ông, một phần còn có cái gì để nói nữa, vì tự ông đã kể hết ra rồi trong hồi ký. Ai nói thêm nữa là thừa.
Cũng trong bài này, tôi không nói tới những mối tình lớn nhỏ của ông. Một phần vì là đời tư của ông, một phần còn có cái gì để nói nữa, vì tự ông đã kể hết ra rồi trong hồi ký. Ai nói thêm nữa là thừa.
Thứ hai, chuyện ông chọn về VN ở tuổi
trên 80 là một chọn lựa cá nhân chẳng nên nói tới làm gì. Tìm về VN ở tuổi đời
như thế nên được rộng lượng hiểu là chuẩn bị cho một cuộc hành trình về bên kia
thế giới như một giấc mơ hoài hương và chẳng nên dem những dấu ấn chính trị để
phê phán ông làm gì. Và nếu hiểu con người Phạm Duy thì thấy rõ rằng, ông là
người theo chủ nghĩa thực dụng, bất chấp những tiêu chuẩn giá trị người đời thường
mang ra dùng để phê phán ông.
Cũng ở đây, tôi nhận ra rằng Nguyễn Trọng
Văn cũng như bất cứ ai phê phán ông thì đã vấp phải sai lầm là đã đánh giá quá
cao về ông, về vai trò người nghệ sĩ, đòi hỏi ở ông những điều ông không có được.
Trước sau, ông chỉ là một người theo chủ nghĩa duy lợi, duy thực tiễn, chủ
nghĩa cơ hội trong bất cứ tình huống nào.
Sau bài nói chuyện của Nguyễn Trọng Văn tại
Đại Học Văn Khoa thì bạn bè có đưa ra nhận xét như sau:” Cậu làm như vậy là cho
ông ấy đội mồ đứng dậy, chính cậu tác tượng cho ông ta, chứ đâu phải khai tử
ông ấy. Hoặc: “Tư cách của Phạm Duy mà cậu lôi ông vào giảng đường Văn Khoa để
nói tức là cậu biến ông ấy thành bất tử rồi, vinh hạnh cho Phạm Duy quá còn gì.
Đáng lý phải nói bên cạnh đống rác hay cầu tiêu mới phải.”(23)
(23Trích Nguyễn Trọng Văn , Ibid , trang 128
(23Trích Nguyễn Trọng Văn , Ibid , trang 128
Những phát biểu bên lề như thế và một số
nhận xét coi ông như một gái điếm đều là những nhận xét xúc phạm đến ông một
cách bất công. Thật không nên.
Bài viết này có khen, có chê và cũng nhằm
trả lại công đạo cho ông một phần.
Và vì thế câu hỏi ở đầu bài viết sẽ được trả lời là Phạm Duy còn đó và không thể chết, dù muốn dù không, dù thế nào đi nữa, ông cùng với Trịnh Công Sơn là những nhạc sĩ tài ba nhất của miền Nam Việt Nam Công Hòa trước 1975.
Và vì thế câu hỏi ở đầu bài viết sẽ được trả lời là Phạm Duy còn đó và không thể chết, dù muốn dù không, dù thế nào đi nữa, ông cùng với Trịnh Công Sơn là những nhạc sĩ tài ba nhất của miền Nam Việt Nam Công Hòa trước 1975.
Giết ông thì Ta ở với ai. Phần ông, trong
những trang cuối cùng của tập Hồi ký, ông đã viết như sau:
“Ngó lại những ngày đi theo Việt Minh thì
chua sót, nhìn vào người quốc gia thì thiếu hứng khởi.(…) Ngồi trước dàn máy điện
toán để viết nốt những dòng chữ cuối cùng của đời mình. Suốt trong 16 năm sống ở
ngoại quốc, lúc nào tôi cũng bị cái dĩ vãng 20 năm sống ở miền Nam đè nặng trái
tim. Hãy cho tôi được xụp lạy thành phố thân yêu ở đây với vài câu trong bài:
Thương nhớ Sài Gòn soạn năm 1981 tại Mỹ:
Saigon ơi, yêu tôi xin chờ tôi
nhớ
Tôi sẽ trở về để hôn những vỉa hè
Của Thành Đô, cao sang và say đắm
Chia sớt tủi hờn và xây đắp tinh nồng
Sài Gòn ơi dù có thay tên
Mà người yêu còn nhớ không quên …
Tôi sẽ trở về để hôn những vỉa hè
Của Thành Đô, cao sang và say đắm
Chia sớt tủi hờn và xây đắp tinh nồng
Sài Gòn ơi dù có thay tên
Mà người yêu còn nhớ không quên …
Chỉ sợ ông không hôn vỉa hè Sài Gòn mà
hôn gót kẻ mà ông đã trốn chạy và chửi bới trrong nhiều năm!!
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen