Nguyễn
Văn Kiến
Bà Nguyễn Thị Năm bị đấu tố và xử bắn lúc nào?
1. Theo cuốn Trần
Huy Liệu – Cõi đời của
Trần Chiến, Nhà xuất bản Kim Đồng 2009, thì ông Trần Huy Liệu, lúc đó là uỷ
viên Thường trực Quốc hội, thanh tra Cải cách Ruộng đất tại hai xã Đồng Bẩm,
Dân Chủ (Thái Nguyên). Ông dự cả hai buổi xử Nguyễn Văn Bính (ngày 18-5-1953) và
bà Nguyễn Thị Năm (22-5-1953).
Số người tới
dự độ 1 vạn trở lại, ngồi chen chúc trong một khu đất dưới lùm cây hai bên là
núi. Hôm nay nắng nhiều, ánh mặt trời rọi vào khiến nhiều người phải cầm cành
cây vừa che cho đỡ nắng, vừa để ngụy trang chống máy bay. Nhưng làm thế thì
hàng trước sẽ che lấp hàng sau, không nhìn thấy gì, nên kết cục là phải bỏ cành
lá đi và khi nắng quá thì dồn người sang hai bên…
Hôm nay cũng
như hôm trước, chủ tịch đoàn lại phạm một khuyết điểm là ra lệnh cho quần chúng
hễ thấy địa chủ vào là đả đảo kịch liệt. Một việc làm thừa! Nguyễn Thị Năm và
hai con Hanh, Công cùng đầy tớ là đội Hàm, Chính, Chiêu vào. Quần chúng hô đả đảo
vang dậy và đòi phải đứng lên cao quay mặt tứ phía cho ai nấy đều trông thấy mặt
để đả đảo. Chủ tịch đoàn giới thiệu từng tên với một tràng lý lịch tư pháp mà
không nêu tội ác. Tuy vậy quần chúng cũng chấm dứt từng đứa bằng một làn sóng đả
đảo. Quần chúng ghét nhất là đội Hàm, vì tội ác đã đành, mà còn vì đôi mắt đầy
khiêu khích. Nhiều người hô bắt nó phải cúi mặt xuống.
Rút kinh nghiệm
lần trước, chủ tịch đoàn tuyên bố đề nghị quần chúng phải giữ vững trật tự và
không cần đánh đập tội nhân hay bắt quỳ, bò. Bọn mẹ con và tay sai địa chủ được
ngồi trên một cái bục dưới gốc cây. Quần chúng lần lượt vào tố, từ loại vấn đề
kinh tế đến chính trị và sau hết là chống chính sách chính phủ và nói xấu cán bộ.
Những người đấu tố hôm nay cũng có một phong độ và một nghệ thuật khác hôm đấu
Tổng Bính. Những tiếng hò hét “Mày có biết tao là ai không?”, “Mày dựa vào thế
lực nào?” kèm theo cái tát để xuống đài không còn nữa. Những người tố được quần
chúng cảm động và tán thưởng nhiều nhất là bà Sâm, chị Đăng và anh Cò. Bà Sâm,
với một giọng gợi cảm, kể lể vì Thị Năm mà mình phải suốt đời cô độc, có người
rơi nước mắt. Nhưng sự thực, nội dung câu chuyện không có gì. Chị Đăng, một người
ở với Thị Năm lâu ngày, tố lên rất nhiều sự việc bí mật và chi tiết. Nhưng, với
một giọng lưu loát quen thuộc, chị trở nên một tay “tố nghề” và ít làm cho ai cảm
động.
Còn anh Cò, một
người thiểu số đã bị Hoàng Công, con Thị Năm, bắt vì có tài liệu Việt Minh, trước
cuộc Cách mạng tháng Tám, bị tra tấn rất dã man, rồi trốn thoát trước giờ Công
định lấy đầu nộp cho Cung Đình Vận. Bằng một giọng chân thành đến ngây ngô, anh
đã làm cho Công không chối cãi được nửa lời.
…
Cũng có không
ít những người nói không đạt ý, không rõ việc. Bà Minh nói việc chẩn bần tại đồn
điền Đồng Bẩm năm 1945 đã làm bao nhiêu người chết đói, rồi kết luận bằng những
câu: “Mày đừng nhận là chủ đồn điền có được không?”, “Mày chỉ có hình thức
thôi” và “Mày nói nhân nghĩa mà mày không nhân nghĩa gì cả” khiến người nghe
không hiểu tội Thị Năm ở đâu? Sự thực thì hồi ấy dân chết đói nhiều quá, bọn thống
trị Pháp, Nhật muốn che lấp tội ác của chúng, bắt các chủ đồn điền phải hàng
ngày xuất ra một số gạo phát chẩn cho dân. Thị Năm đã bớt và khai man số gạo
này, nghĩa là ăn cắp số gạo mà dân đói đáng được hưởng để chết đói thêm. Ông Giồng
tố cáo Thị Năm đã cướp gánh cỏ của ông cho ngựa nó ăn và giỏ củ mài làm cho cả
nhà nhịn đói. Câu chuyện của ông đã được một văn nghệ sĩ làm thành một bài thơ
tràng thiên rất cảm động Nhưng hôm nay, ông đã thuật lại một cách nhạt nhẽo.
Con gái ông Giồng, hơn mười tuổi, đáng nhẽ cứ kể rành rọt cảnh đói rét của nhà
mình phải chịu vì sự bóc lột của Thị Năm, nhưng nó lại nói bằng một giọng “bà cự”
nên nhiều người không cảm động, mà lại phát ghét. Chị Lý, con nuôi của Thị Năm,
được Thị Năm trang điểm cho để định gả cho một võ quan Nhật. Nhưng sau khi biết
chị chỉ là thân phận tôi đòi, không có tiền của gì thì tên Nhật lại không lấy
và chị lại bị Thị Năm bắt lột trả lại quần áo, trở lại thân tàn ma dại như trước.
Chị vừa nói vừa khóc. Nhưng không ai rõ chị nói gì.
…
Tuy vậy,
trong đám người tố, vẫn còn sót lại một ít những phong thái cũ. Câu hỏi “Mày có
biết tao là ai không?” đã được chủ tịch đoàn ngắt đi bằng câu: “Cứ việc tố
không cần bắt nó trả lời”. Một vài cái tát vẫn còn diễn ra. Trong khi tố tên
Công, nhiều người hỏi những câu vô ý thức: “Mày có xứng đáng là cách mạng
không?”, “Mày nói mày là cách mạng mà như thế à?”. Một người ở Phúc Trừu tố cáo
Thị Năm về tội chiếm đoạt ruộng đất khẩn hoang của nông dân và cơi thùng thóc
lên để thu thóc, rồi kết luận “Như thế mày có xứng đáng là địa chủ không?”. Một
người khác tố Thị Năm, đội Hàm và Lý Nguyên Lập bảo an đoàn ở Phúc Trừu bắt
nông dân gác và đánh đập tàn nhẫn, cũng để đi tới kết luận: “Mày là con chó! Chứ
không phải địa chủ?”.
Một tá điền tố
Thị Năm lấy ruộng của mình đương làm bán cho người khác vì mình không có tiền
mua, bằng câu: “Lấy tiền ở mả bố mày mà mua à?”. Nhiều người vẫn gắn vào hai chữ
“tiến bộ”: “Mày nói mày tiến bộ mà như thế à?” Đi xa hơn nữa, có người nói Thị
Năm lập quán Bông Lau ở thị xã Thái Nguyên để đón gián điệp trong khi ai cũng
biết đó là cơ quan sinh lợi của hội Phụ nữ liên hiệp tỉnh Thái Nguyên.
2. Ông Vũ Hưng, năm nay 77 tuổi, năm 1953 là
công nhân quốc phòng ở gần Đồng Bẩm, là đại diện công nhân trong “Công Nông
Binh” dự cả hai lần đấu tố bà Năm cho biết: bà bị đấu tố hai lần. Lần đầu có cả
chồng là Nguyễn Sơn Hà, và hai con trai. Bài ông Liệu tả chắc là lần thứ hai,
vì không thấy nói đến chồng Nguyễn Sơn Hà. Sau đó vài tháng là xử tử bà.
3. Ông Đức Phú, con bà Năm sống ở Hải Phòng
như ông nói là người cho bố mẹ tôi thuê nhà ở Hải Phòng từ 1947. Ông ít tuổi
hơn bố tôi, và tôi sinh ra tại căn nhà đó, nghe nói ông cũng hay bế tôi. Tôi có
tấm hình ông Đức Phú chụp với anh trai thứ hai của tôi. Bố tôi rất quý chú Đức
Phú, nhưng ông chưa hề hé răng cho chúng tôi biết thân phận của bà Năm. Tôi biết
được chú Đức Phú là con bà Năm cũng chỉ hơn một năm nay thôi, do anh cả tôi (75
tuổi) tình cờ kể lại. Gia đình nhà tôi cũng gặp chuyện không may trong Cải cách
Ruộng đất nên bố tôi không muốn cho chúng tôi biết về những gì đã xảy ra thời
đó, chắc để tránh cho chúng tôi “nhìn lệch”, ảnh hưởng tới việc học hành. Tiếc
là bố tôi qua đời, không thì tôi sẽ biết thêm nhiều về chuyện này, vì anh cả
tôi cho biết chú Đức có đưa hai em gái về Hải Phòng nuôi dịp 1953, rồi chú đi
vào Nam trước khi Hiệp định Genève ký kết, chắc chú ấy cũng linh cảm trước những
gì sẽ xảy ra.
4. Cách đây vài năm, gia đình bà Năm nhận “Tổ
quốc ghi công” tặng bà danh hiệu liệt sĩ “hy sinh vì sự nghiệp quốc tế”. Hôm
nào rảnh tôi sẽ tới gặp gia đình bà. Nghe nói một trong hai người con của bà bị
đấu tố năm 1953, sau được phục hồi, về hưu với chức đại tá quân đội nhân dân,
hiện còn sống ở phố Hàng Bạc, Hà Nội.
5. 5% số hộ hay số dân là địa chủ?
Theo ông Hoàng Nhật
Tân (sinh 1928, con trai ông Hoàng Văn Hoan) lúc đó là phó ban Cải cách Ruộng đất
ở Thái Nguyên (Hoàng Quốc Việt là trưởng ban) thì:
“Từ Uỷ ban cải
cách trung ương truyền xuống một quy định miệng là mỗi xã phải có từ 3 đến 5 phần
trăm số hộ là địa chủ thì mới tránh khỏi lọt lưới”.(trích Cái quan định luận, hồi ký của Hoàng Nhật
Tân)
Năm 1981 tôi được
ông Vũ Đình Địch (em ruột ông Vũ Hoàng Chương), người tham gia Cải cách Ruộng đất
cũng cho biết là theo “kinh nghiệm của cố vấn Trung Quốc thì trong làng có 5% số
hộ là địa chủ”.
Làng quê tôi sát
Hải Phòng, là một làng nghèo, thế mà cũng phải đủ 5% số hộ là địa chủ, tìm ra
được chừng 40 địa chủ. Nếu là 5% số dân là địa chủ thì còn nhiều gấp bội, phải
tới con số hàng vài trăm. Ngay cả 40 địa chủ cũng đã nhiều rồi, nên những người
đủ ăn, có ruộng đất cũng bị quy vào địa chủ cho đủ 5%, chứ 5% dân số trong làng
là địa chủ thì có khi cả bần nông cũng bị quy thành địa chủ. Trong 40 chục địa
chủ trên, có cả ông nội tôi, và đầu 1956 xử bắn 4 người cùng một
lúc, trong đó có hai bố con. Ông bố là anh ruột mẹ
tôi. Mẹ tôi phải đau lòng chứng kiến từ những ngày họ bị giam cho đến lúc xử tử.
Hiện bà chị dâu, vợ của người con ông bác tôi vẫn còn sống, gần 90 tuổi.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen