Mittwoch, 20. August 2014

Nguyễn Thị Hoàng và Người Yêu Của Đấng Trời

Trong các nhà văn nổi tiếng của miền Nam trước 75, Nguyễn Thị Hoàng mang trên thân định mệnh một cuốn tiểu thuyết. Chưa một nhà văn Việt nào được cácthế hệ thanh niên say mê và tác phẩm đầu tay đem đến tiếng tăm lẫn sóng gió nhiều như Nguyễn Thị Hoàng. Vòng Tay Học Trò, thập niên 60, đã biểu trưng tâm tình nổi loạn của cả một thế hệ trẻ trong một thời đại bắt đầu làm quen với văn chương ‘‘hiện sinh’’, trong tình yêu và trước xã hội, với khao khát một cách sống độc lập. Từ Vòng Tay Học Trò đến nay đã gần 40 năm, Nguyễn Thị Hoàng trở lại tiểu thuyết với tác phẩm Người Yêu Của Đấng Trời. Bài phỏng vấn dưới đây, thực hiện qua điện thư, sẽ giúp bạn đọc phần nào biết thêm mối tương quan được tác giả xem như một ánh chớp của tâm thức, trong cuộc đi tìm và bắt gặp, giữa Nguyễn Thị Hoàng và Người Yêu Của Đấng Trời. 

1.
MN: Từ nhiều năm nay, ngoài Nhật Ký Của Im Lặng, ít hoặc hầu như không thấy xuất hiện tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng trên văn đàn Việt Nam trong lẫn ngoài nước, xin chị cho độc giả Hợp Lưu biết lí do của sự vắng mặt này.
NTH: Rất cám ơn câu hỏi đã minh định được tình thế của NTH: không thấy xuất hiện tác phẩm của NTH trên văn đàn VN Tronglẫn Ngoài nước. Một tác phẩm có mặt từ ba yếu tố: nghĩ (hay cảm), viết, và in. Nghĩ thì như thở, càng bị rượt đuổi vây khổn, càng dập dồn, chồng chất. Viết ra thì khó liên tục nếu ăn ở không yên và chèo chống không ngừng với mọi vấn đề. Nếu vượt hai điều trên được, lại phải đứng dừng trước bức tường thứ ba: in ra, ngoài khả năng của một tác giả tận cùng đơn độc, trong mọi nghĩa. Khi qua đi một khúc đoạn ở cuộc đời hay nỗi niềm riêng, NTH vẫn ngạc nhiên là mình vẫn còn sống và câu hỏi duy nhất làlàm sao để in ra, cũ và mới những gì đã ứa ra từ quá trình sống… chín này.

2.
MN:    Cho đến nay tác giả Nguyễn Thị Hoàng đã cho ra đời bao nhiêu tiểu thuyết? kể cả tác phẩm đã hoặc chưa xuất bản.  Chị quan niệm thế nào về một tiểu thuyết hay? Nó chỉ cần quyến rũ người đọc, hay nhất thiết phải chuyên chở một tư tưởng?
Cũng xin chị cho biết, những nguyên tắc cùng cảm nhận khác biệt nào đã có khi chị viết tiểu thuyết thay vì các thể loại khác, chẳng hạn như truyện ngắn, tùy bút, ký.
NTH:  Chỉ mới cho đến hôm nay thôi, trên 30 cuốn đã xuất bản, khoảng 10 thì chưa (gồm những thể loại khác tiểu thuyết). Chỉ là những dấu chân đã qua, dù vẫn trên đường. Nhiều để làm gì, chỉ cần ba, vẫn chưa có mặt.
Thế nào là một tiểu thuyết hay thì có thể đáp gọn trong vài chữ, có thể thuyết trình trong một lần nói huyên thuyên, ở đây vẫn chỉ góp ý chìu theo câu hỏi:
Hiếm có một tiểu thuyết nào đáp ứng được mọi thể loại và đẳng cấp độc giả. Tính quyến rũ, nếu có, chỉ cho một phần nào trong tất cả độc giả. Yếu tố quyến rũ chỉ là một phần trong toàn thể những yếu tố khác quyết định giá trị tác phẩm; còn tùy cái gì làm nên sự quyến rũ.
Tiểu thuyết chuyên chở tư tưởng, chất liệu cần thiết để đắp xây hay phá hủy; nhưng tư tưởng lại không chuyên chở được tiểu thuyết - đương nhiên không thể là yếu tố chính để “làm hay” mà động lực tồn tại qua không gian và thời gian. Một cuốn sách hay do tư tưởng thì không là tiểu thuyết mà luận thuyết. Một tiểu thuyết hay hội tụ nhiều yếu tố, cách thế cảm nhận suy nghĩ trước tự thân và ngoại giới của tác giả, được thể hiện trình bày nó chân thực hồn nhiên như hít thở. Nên nếu phải hít thở theo nhịp điệu nào đó thì chỉ là bài tập thể thao không còn tự do sáng tạo. Nếu người viết có xúc động để sáng tạo thì người đọc mới xúc động được sáng tạo ấy.
Là một tác phẩm văn chương, nên văn chương vẫn là yếu tố tiên quyết. Ngôn ngữ âm điệu, cách sử dụng, như kiếm báu, dẫu rèn đúc hay lưu truyền thì hiệu lực không do chính nó mà từ kiếm khí, cách khác, là cung cách thể hiện một hiện thể.
Tiểu thuyết hay khi người đọc mỗi một và tất cả dẫu khác xa nhau, đều tìm thấy một phần mình muốn, thích, cần sống không có được trong đời sống. Qua tiểu thuyết, người đọc sống lấy mình bằng xúc động và đồng cảm với tác giả.
Sự quyến rũ, ở vật thể hay phi vật thể là hiệu quả của chất chứa và phóng tỏa một nội thể đã sống lấy tận cùng nó.
Về nguyên tắc và cảm nhận khi viết tiểu thuyết thì, một dàn dựng không công phu nhưng phức tạp uyển chuyển theo chủ ý hay chủ đích riêng, giữa các sự kiện nhân vật bối cảnh có thực cùng mức độ và khả năng (hoặc tài năng) phóng hóa nó để mỗi sinh vật thể được là như thế khi nó chưa là hoặc không bao giờ là như thế. Chỉ có xúc động của mỗi nhân vật mà tác giả hóa thân hay nhập vai tùy lúc là có thật. Riêng đối thoại và diễn tả về những trạng thái ấy thì hay hay dở tùy theo khả năng vận dụng tính đạo diễn của tác giả. Cách của NTH, chỉ khi cảm nhận được tận cùng (xúc động hay chấn động tận đáy thẳm linh hồn) đến rơi vỡ nước mắt (đôi khi nước mắt trên môi và nụ cười trong mắt) về một vẻ đẹp (không phải chỉ beauté esthétique1!), lòng đau hay niềm yêu thì khởi sinh sáng tạo như một ứa tràn hồn nhiên không ngăn cấm, không hạn chế.
Tiểu thuyết là thế giới tác giả sống lấy mình nơi mỗi một nhân vật, hoặc ít ra là sống với, một thể hiện hoàn toàn tự do về mọinỗi niềm và cách thế, vô điều kiện, hoặc điều kiện duy nhất: mình có đáng là như thế hay không.
Truyện ngắn lại khác, cần súc tích, bao gồm, trọn vẹn và bắt buộc hạn chế, vì kiến trúc sự kiện lẫn nhân vật, vì ý tưởng xoay quanh một trục thèse2 nào đó cho một lãnh vực của nhân sinh. Nó cần chuyên chở; nhắn gửi một thái độ, một quan niệm, tối thiểu là một ý kiến, xao xuyến nào đó của tác giả về một vấn đề hay một hiện tượng, một tình trạng.
Thời này, tự do được tuyên dương nên người ta cứ viết gì tùy thích, xong gọi là ngắn vì không dài, tùy bút vì không chủ đề, ký vì chỉ muốn nhận mà không phải tốn hao gì cả.

3.
MN:   Hợp Lưu số này được hân hạnh giới thiệu một chương trích từ tiểu thuyết ‘‘Người Yêu Của Đấng Trời’’  chưa đăng báo cũng chưa xuất bản của chị, và theo ghi chú ở Lời Ngỏ thì chị đã khởi đầu cách đây 13 năm. Đây là một tác phẩm mà trong đó chị đã luận giải những tương quan giữa Tôn giáo, Con người và Tình yêu. MN đọc thấy hai đoạn như sau :
‘‘Tất cả đều in bóng lên nền xanh bát ngát của lòng trời, và những đôi mắt linh hồn mãi mãi tìm nhau, vẫn dồn trút niềm yêu và nỗi đau trong cái nhìn đáy thẳm tuyệt vời của im lặng và bóng tối.’’
…..
‘‘Khoác lên trái tim chưa yêu của Chúa một vầng hoa nguyệt quế nghìn thu. Và trái tim nào đã yêu đến tan nát cả chân như thể tánh mình, hãy lấy búa kim cương đóng lên một chiếc đinh vàng, để dưới bóng Chúa lung linh  nến hồng thuở trước, trên tình yêu không bao giờ có thực của chúng ta, một giọt máu trường sinh nhỏ xuống.’’
Như thế, phải chăng có sự mâu thuẫn? : Linh hồn tình yêu tìm nhau trong đáy thẳm của im lặng và bóng tối, vậy là đã tin có tình yêu, rồi sau đó lại hoài nghi, hơn cả hoài nghi nữa, một xác tín, là nó không bao giờ có thực.
Theo chị Hoàng, Chúa chưa từng yêu? Vì sao lại phong quang cho ‘‘Trái tim chưa yêu’’ này bằng một vòng nguyệt quế ?
NTH:  Nếu đọc hết toàn bộ gồm những chương khi chưa cắt xén trong sách lẫn những đoạn đã tháo gỡ bớt thì NYCĐT không luận giải gì, lại càng không có ý thiết lập tương quan giữa Tôn giáo, Con người và Tình yêu. Tình yêu nơi đây, dẫu thế nào, chỉ là ngọn lửa sưởi ấm soi sáng, phản chiếu tính cách của một siêu thể trên đường đi và đến. Cũng không luận giải một tôn giáo mà chỉ là cách thế nhìn ngắm, xao xuyến đối với một biểu tượng, một hiệu lực, của một kẻ (tác giả) không phải tín đồ Thiên chúa giáo, lại càng không đọc, hiểu gì về tôn giáo này. Còn Con Người thì không phải con người nói chung, mà Con Người viết hoa nào đótrên hành trình chuyển hóa và thắng vượt để trở thành.
Mâu thuẫn, nếu có thì từ phía nhìn khách quan. Thuần túy chủ quan của tác giả (chép lại cảm nhận mình hơn là luận giải một vấn đề), trên những dòng này của Lời Ngỏ, mỗi câu đều có định ý riêng. “Trên tình yêu không bao giờ có thật của chúng ta”, ý nghĩ của người viết khi nói với một con người. Có thể chỉ là với một cái bóng, nguồn cơn của đối thoại. Một ý niệm trừu tượng, một đối thể không có thật, tình yêu vì vậy cũng không bao giờ có thật trong trạng huống này. Nhưng nếu mà yêu, người viết hay nhân vật hay bất kỳ ai, nếu đã yêu đến mức tan nát cả chân như thể tánh mình thì xứng đáng với một khổ hình trừu tượng tuyệt vời: búa kim cương đóng đinh vàng (MN này, đinh vàng thì vô khối, nhưng biết tìm đâu ra búa kim cương?), chỉ là một giọt máu từ vết thương vĩnh cửu này sẽ nối truyền đời đời sự sống. Trong phạm vi lời này, chuyện này là như thế. Còn tình yêu có thật hay không bao giờ có thật, như một định lý phổ quát, thì là một chủ đề khác. (Khi nào HL hay diễn đàn nào cần, xin cứ gọi, sẽ thưa sau). Tất cả đều là trừu tượng, chỉ niềm đau không cùng tận là có thật. Niềm đau hơn cả sự chết. Sự chết chỉ là một hơi thở, niềm đau thì không cùng tận. Chẳng phải thế giới cũng đang đau không cùng tận bằng chính tay con người đóng gõ đó sao?
Chúa chưa từng yêu? Chúa, Jésus thật, đã từng yêu hay chưa làm sao một con người trong khoảng cách không gian thời gian và mọi điều kiện khác lại có thể biết được Chúa đã từng yêu chưa? Điều ấy ngoài Chúa ra không một ai được biết đúng, đôi khi kể cả trời.
Nhưng hai điều cần được nói ra: nhân vật (vì là trong tiểu thuyết) Chúa trong cảm niệm của người viết, giữ mình trọn vẹn thánh tính trên hành trình đi và đến, không tiếp nhận ở mình với mình, mình với người khác cái gọi là tình yêu hạ giới, dẫu đến như thế nào, dành mình cho tình- yêu- tuyệt- đối-không- cùng- tận đối với trần gian. Một vòng hoa nguyệt quế ( chiến thắng, thắng vươt)  cho một thánh tính, vầng hương nơi một bông hoa, hay bông hoa cho một vầng hương, sao lại không?

4.
MN:Tin rằng Chúa chưa yêu, hay giả là Chúa có yêu nhưng đó là tình yêu biển trời bao la, tình yêu cho mọi nhân loài, và dựa theo cả cốt truyện, nếu bây giờ độc giả cho rằng tựa cuốn tiểu thuyết này nên là ‘‘Người Yêu Đấng Trời’’, như thế sẽ thích hợp hơn ‘‘Người Yêu Của Đấng Trời’’ thì tác giả Nguyễn Thị Hoàng nghĩ sao ?
NTH:  Sách chưa được in lại phải giải thích một điều trong sách thì thật… chưa từng có. Đành vậy, biết sao hơn trong tình thế cũng chưa từng có này.
Theo lẽ, thì NYCĐT phải là nhân vật chính của câu chuyện. Nhưng theo bố cục tổng quát một dàn dựng gồm ba bộ: Ông Chúa, Ông Phật, Ông Người, thì vấn đề (hay tương quan giữa nhân vật và Đấng Trời) không phải ở chính mỗi bậc vị này mà nơi đáp số hay hiệu lực của họ đối với nhân loại. Trong NYCĐT giai đoạn trước có ba nhân vật Jésus, Maria, Madeleine, vai phụ hay doublure3 của J., Angel. Giai đoạn sau là Dominico, Thérèse. Ai làm nên và đem lại hiệu quả nơi trần thế đúng ý Trời thì đó là NYCĐT. (Xin hiểu Trời theo nghĩa là Đại Huyền Lực Vũ Trụ vận hành cuộc Tiến Hóa muôn loài).
Vậy nên, NYCĐT không phải Jésus. Thế thì ai?

5.
MN: ‘‘Không phải Chúa chịu khổ hình, như một biểu tượng cứu chuộc thương đau như cũ, vì con người không còn biết xúc động trước cái đẹp siêu linh hay những giá trị tinh thần tột đỉnh mà bằng một vóc dáng, một thể hiện mới, trên biểu tượng lẫn hành vi, đáp ứng được cơn đói khát đương thời mà con người đang gào la khắp cùng thế giới thì quả thật đó là Chúa trở lại, một Chúa mới của con người đương đại.’’
Đây là tư duy của Bà Nhất, người sơ trưởng trong tu viện, về sự trở lại của Chúa với con người mới. Con người đương đại khác với con người thời Chúa chịu khổ hình ra sao? Con người thời nay không còn những xúc động siêu linh mà chỉ muốn Chúa đáp ứng đòi hỏi của họ? Chị quan niệm như thế?
NTH: Chỉ khi xuyên suốt một tác phẩm (không cắt xén một phần, một chương hoặc dẫu một khúc đoạn nào) mới nắm bắt trọn vẹn được ý định tác giả. Lời của Bà Nhất chỉ là ý kiến dẫn khởi cho hàng loạt những biến chuyển về sau sẽ giải trình ý định ấy. Thời này, thời ấy khác nhau, nhưng con người thời nào cũng đều có xúc động và đức tin, phóng tỏa hay giới hạn tùy thuộc vấn đề và nhu cầu sống từ môi trường quanh đời. Con người đi dạo trong thiên nhiên phóng khoáng sẽ cảm ứng nhanh những quyền phép siêu linh, con người trong thang máy chỉ trông cậy vào cái nút bấm để xuống lên và đôi khi sống chết vì.
Vấn đề là thời này Ý Chúa có được thể hiện nối truyền đúng và do đó hiệu lực có còn trọn vẹn không. Đức tin và khát vọng về cái đẹp mãi mãi tồn lưu nơi con người, nhưng với những nhu cầu khẩn cấp và cay nghiệt hiện thời, con người mong muốn và đợi chờ cái hiệu quả tức thì và hiển nhiên như một công thức hay đáp số giải được mọi bài toán khó. Không phải là một Chúa mới hay Chúa trở lại mà một con người có vóc dáng và tính cách Chúa, nhận ra toàn bộ vấn đề xưa sau, xoay vần và phục sinh lại Ý Chúa.

6.
MN:  Vẫn nói về ‘‘xúc động’’, trong chương cuối của tiểu thuyết, Chúa của tác giả Nguyễn Thị Hoàng đề cập và phân biệt tách bạch ‘‘Con người trên trái đất’’ và ‘‘Giống dân trên các hành tinh khác’’ của giải ngân hà. Chúa ở đây, còn cho rằng con người trái đất có thể thua các sắc dân ấy về trí tuệ và nhiều cơ năng khác nhưng hơn hẳn họ ở khả năng kỳ diệu là biết cảm xúc.
Dựa trên căn bản nào, khoa học, thần học hay cũng là do trí tuệ siêu phàm mà Chúa đưa ra luận thuyết ấy?  Chúa nói ra những điều đó trên cương vị một con người trái đất hay Đấng Trời bao trùm cả vũ trụ?
NTH: Câu hỏi đã phân định rõ, Chúa của tác giả NTH. Vậy những lời nói ra của Chúa trong tiểu thuyết này không phải là của Chúa Thánh Kinh mà chỉ là những suy nghiệm của người viết. Nếu là nghiên cứu biên khảo thì lời Chúa biên khảo phải đúng là lời Chúa. Trong phạm vi tiểu thuyết, một sáng tạo, hoặc phóng tác, mô phỏng thì cũng như trang phục, vóc dáng, chuyển động, hành xử, lời lẽ một personnage4 có được phép là, của, do, từ, bởi chính người viết không? Dựa trên căn bản nào, khoa học, thần học, trí tuệ siêu phàm. Chủ từ chữ “ dựa” trong câu hỏi hẳn là người viết. NTH khởi viết, trước tiểu thuyết, bằng thơ (Tạp chí Bách Khoa 1960), và căn chất mãi mãi cũng chỉ là thơ, rất “dốt“ và sợ cái gì liên quan đến khoa học. Còn thần học thì lại càng thất thần… học. Về trí tuệ siêu phàm, tắt là siêu trí, hiểu biết vượt trên mức độ và giới hạn trí tuệ bình thường? Nếu chỉ là cách suy nghĩ của người viết thì không trên cương vị nào ngoại trừ một Cõi Không vô cùng tận. Nơi đó có Trời, Đại Huyền Lực vũ trụ.
Bằng cách nào mà như thế? Điều này thuộc về tác giả và không liên quan đến tác phẩm.

7.
MN:Trong Thánh Kinh, Marie-Madeleine trước là một gái làng chơi bị người ném đá. May có Chúa đi qua và nói với đám đông : Ai thấy mình không là kẻ có tội thì được tha hồ ném. Thế là mọi người bỏ đi. Đây là một câu chuyện hay và thuyết phục. Không thấy chị Hoàng đem vào tiểu thuyết?
NTH:  Có nghe nói về “ Madeleine bị ném đá”. Vì không đọc thánh kinh (lại dốt!), nên không lấy chuyện này và có thể còn nhiều chuyện hay khác nữa đem vào tiểu thuyết. Điều chính yếu trong NYCĐT là tâm mạch mà không là sự kiện, đúng hơn là giả thuyết về tâm mạch. Mỗi tâm mạch lại phản chiếu tâm mạch khác trong tương quan, theo hướng đích của hành trình chuyển hóa.

8.
MN:  MN xin có câu hỏi cuối về tác phẩm, có thể nói là một công trình này của chị. Trong lời ngỏ, chị viết: ‘‘Cái trống rỗng hao hụt hiện lên thay thế vị trí đường nét tuyệt vời của một tác phẩm thành hình.… Để được là tặng phẩm đầu tiên và cuối cùng cho một niềm yêu, cho một nỗi đau, một sự sống khởi đầu từ cái chết.’’
Đó là ý nghĩ trước ánh chớp loé, trước khi viết. Vậy khi tác phẩm đã thành hình, đã viết xong, chị cảm giác ra sao? Đã được hồi sinh? Và có được ở trong tay Chúa?
NTH:  Công trình nào cũng đòi hỏi nỗ lực và thời gian thực hiện. Dẫu hiệu lực thế nào, tác phẩm này vì thế, không phải là một công trình, mà chỉ như một đoản khúc viết nhanh từ ánh chớp tâm linh. Chỉ khi nghe lắng được Mình, một Mình vắng lặng, riêng tư mà chan chứa, NTH mới viết, đúng hơn là chép ra những lắng nghe ấy. Nếu hiểu chết trong nghĩa lớn, thì mỗi đời trong Cõi Khổ này đã phải chết đi và sống lại biết bao lần, mỗi thể loại vì một nguyên nhân hay động lực khác nhau. Trận hồi sinh ở NTH không phải từ viết hoặc viết xong, mà từ bắt gặp nguồn cơn phát sinh xúc động sáng tạo (tạm gọi là như thế), đôi khi là thực thể, đôi khi trừu tượng, hoặc những phóng hóa trừu tượng đến chỉ là ảo giác phủ trùm long lanh trên thực thể vốn chẳng là gì. Đó là bi kịch lớn của một loài mãi hoài đơn độc, như sơn dương đầu ngàn uống bóng mình dưới suối trăng tan!
Trong tay Chúa ư? Không trong tay mà đối diện, với khoảng cách giữa mặt đất và vòm trời. Không trong tay Chúa. Không trong tay người. Không trong tay một ai, trừ một thứ hình như là Định Mệnh.

9.
MN:  Xem như đã hỏi xong về tác phẩm, bây giờ MN xin được phép dấn sang chuyện đời thường. Bằng hữu trong nước hẳn luôn tới chơi với chị, riêng bạn bè từ nước ngoài về, MN biết nhiều người thích đến uống một ly rượu, trò chuyện với Nguyễn Thị Hoàng. MN vẫn còn nhớ vài buổi sáng Saigòn dìu dịu trong không khí những ngày cận Giáng Sinh, ngồi trước cốc cà-phê, thảnh thơi nghe chị nói về những hạt bụi lung linh trong nắng và trong cả con người. Rồi từ con người chung chung đó, chị nói đến con người riêng trong MN, qua cái nhìn của chị. Thú thật, ngoài những phân tích nhằm xem phản ứng người đối diện ra sao ấy của chị, thì cử chỉ, lời nói và cả nét mặt của một nhà văn đã làm cho MN, của một thời mới lớn mê mẩn với’‘Vòng Tay Học Trò’’, vừa bị lôi cuốn vừa ngỡ ngàng, trước một Nguyễn Thị Hoàng ngày nay toát ra một thứ gì tạm gọi là ma lực. Chị Hoàng có thể cho biết cái lực đó đến tự nhiên hay là do luyện tập mới có, được chăng?

NTH: MN đã “nhận ra” được NTH nhưng lại hiểu oan một tính cách (toát ra một thứ gì tạm gọi là ma lực). Tuy nhiên, không biết rõ chữ ma lực dùng trong ý tứ nào của MN. Thông thường thì Ma lực đối nghịch với Phật lực. Nhưng ma lực theo nghĩa một sức cuốn hút kỳ bí thì lại khác. Hoặc hiểu theo kiểu phù thủy yêu tinh thì tình thế trở nên rùng rợn hẳn. Nghĩa nào thì tùy theo ngắm nhìn và cảm nhận mỗi phía, NTH tự hiểu. Mình không nhìn thấy mình được để biết ra sao trong tương quan. Nhưng chỉ trong những tấm gương soi là một đối diện tương đương và tương thông, cái LÀ sâu thẳm và chân thật mới hiện ra hồn nhiên không… diễn xuất.
Cái được gọi là ma lực ấy, tự hiểu chỉ là chút hắt bóng lung linh từ ngọn lửa nén của nội thể âm u một con người tưởng là tung hoành mà kỳ thực đã trọn đời nín sống, nói cách khác, đã chưa và không bao giờ tìm thấy vóc dáng cuộc đời đúng như tính cách và tầm cỡ mình.

10.
MN:  Để kết thúc, MN muốn biết, ‘‘Vòng Tay Học Trò’’ bây giờ là gì, với Ngưyễn Thị Hoàng?
Chị có thể kể lại cuốn tiểu thuyết này đã ra đời ra sao, do đâu, đã được đón nhận và chống đối thế nào trên các diễn đàn văn chương Saigòn thời đó?
MN nhớ, sau buổi ấy, khoảng năm 1970, bên Pháp ra cuốn phim ‘‘Mourir d’Aimer’’ (Chết vì Yêu) với Annie Girardot, cùng một đề tài: Một nữ giáo sư yêu cậu học trò trẻ tuổi và bị sự phản kháng mãnh liệt của bố mẹ cậu ta nên đi đến tự vận, cuốn phim rút từ một câu chuyện thật đã gây ra lắm xôn xao, báo động, trong các gia đình và học đường. Ở Việt Nam, có những phản ứng tương tự của phụ huynh học sinh hay không, với cuốn truyện của chị? 
Tấm ảnh chị cho đăng trên Hợp Lưu số này có phải là hình cô giáo Hoàng thuở ấy?
NTH: Đành phải nhắc nhở vài hàng về sự tích VTHT ngày xưa. Chán chương trình, không khí ở Văn khoa, Luật, bỏ học, đi làm không lâu lại bỏ việc này (thư ký riêng của một tỉ phú) 1960, tìm việc khác 1961. Được bổ nhiệm về Nha-Trang dạy học, trường nơi đây từ chối; chuyển lên Đà-Lạt. Trường nữ dư giáo sư, trường nam thiếu nên xảy chuyện “hoa lạc giữa rừng gươm”, 1962. Năm sau bỏ Đà-Lạt. Mùa hè 1964, một xấp pelure5 ố vàng, một cây bút gì đó, viết một hơi một tháng, VTHT. Bách khoa in mấy kỳ, thiên hạ xôn xao. Nhưng sau đó chuyển cảnh qua chồng con, bản thảo VTHT xếp lại. Đến 66, một nhóm tìm kiếm VTHT, xuất bản. Tái bản 4 lần trong vòng mấy tháng. Sóng gió nổi lên từ mọi phía, vì những lý do và động lực khác nhau. 5 tờ báo, cùng nhất loạt lên tiếng phê phán, chỉ trích, tóm lại là chửi bới. Rất tiếc cuộc biển dâu cuốn trôi không còn một mảnh tài liệu nào, còn trí nhớ NTH thì chỉ gạn lọc lưu trữ những gì tốt đẹp. Hình như nhân danh hay đại diện phụ huynh học sinh, nhà trường gì đó có lên tiếng trong một bài báo. Không có những phản ứng trực tiếp tương tự như trong phim đối với cuốn truyện, còn gián tiếp thì không biết.
Khi viết, với không phải viết cái gì đã sống, mà trên khung cảnh, sự kiện, nhân vật của khoảnh khắc thoáng qua “trong vai” cô giáo ấy, tăng giảm biến đổi để đúng vóc dáng một câu chuyện. Đã không tính đến chuyện viết tiểu thuyết hay hình thành một tác phẩm với dụng ý, mục đích nào mà chỉ góp nhặt lại những mảnh vụn của một khúc đời đã vỡ.
Thế mà nó trở thành tác phẩm, tác giả với hàng loạt những hệ quả sinh khắc liên hồi từ ấy.
Được lồng bóng trong một giai đoạn thời sự bất an, những ngộ nhận phê phán không thuần túy qua lăng kính văn học nghệ thuật mà nhiều vấn đề ngoài nó. Cái nhãn hiệu độc dược hiển nhiên dễ dán là vô luân lý đạo đức, hay một chữ gì đó tương đương hoặc nặng nề hơn.
Nhưng nó là như thế nào so với hàng loạt những tác phẩm đã dịch và in ra, những câu chuyện có thật trong đời thật. Trong VTHT hay bất cứ đâu, nếu cô giáo yêu một học trò ngoài lớp mình dạy bị kết án thì những mối tình hay hôn nhân giữa thầy giáo với học trò(chuyện thường thấy), lớp mình hay lớp khác trong trường, thì được phép, tại sao?
 Nên hình như chủ đề chỉ là cái khiên, những mũi tên nhắm phần sau là một trường hợp, của một giai đoạn.
Nó là cái chìa khóa mở cửa vào một thế giới, nhưng hơn mười năm sau, cũng là thứ chìa khóa đóng kín thế giới ấy lại để có mặt bỗng nhiên vắng mặt.
Nó là cái khởi đầu muốn chấm dứt tất cả những gì trước và sau nó, nhưng thật phản tác dụng, nó lại là cái tín hiệu, là mối nối của những tương giao, hiệu ứng hai mặt của một tính cách định mệnh. Bởi, nó gián đoạn, chôn vùi gần kín thời gian một đời người hay một đời viết, nhưng bù đắp, cái gián đoạn chôn vùi này lại lắng đọng và tích lũy một tố chất cuồn cuộn khác trong hồn nhiên tự tính.
Trên tất cả, nó đem đến những kiếm tìm gặp gỡ và bù đắp cái không là gì cả mà là tất cả của hôm nay, như giọt lửa sau cùng dưới đám tro vùi, thắp lại được một phần còn mong manh mà kỳ thực là cái khởi đầu chờ mong của SỐNG và VIẾT.
Khoảng 71, 72 gì đó, Kiều Chinh và Đặng Trần Thức có tìm gặp NTH định làm phim VTHT. Về sau lại thôi, hình như vì sợ đọ sức với Mourir d’aimer của Pháp. Sau đó (sách hay phim) ai làm gì liên quan đến VTHT, NTH hoàn toàn không hay biết, cho đến nay. NTH vẫn vấp phải những thứ tương tự oan khiên như vậy. Sự thật, những thứ kia là thuần túy phim ảnh, tiểu thuyết, phía mình thì trích dẫn và phóng tác bằng chính những mảnh vỡ đời mình. Ví dụ, một thời gian sau cuốn Ngày Qua Bóng Tối, NTH xem Un Certain Sourire của F. Sagan. Những nhân vật trong NQBT của NTH lại giống như Luc (với Rossano Brazzi Ý), Bertrand, Dominique và Francoise, chỉ khác ở F.S thì phá phách, ở NTH thì rã rời (trong truyện này).
Tấm ảnh nào trên HL? Có người về khi đi mang theo mấy tấm hình NTH trong thời gian viết VTHT, sau khi ra khỏi vai trò cô giáo thoáng qua. Có phải trên trận biến hóa liên hồi của những vai trò và tính cách, con người (hoặc NTH) không thể khoác áo sai lúc và nhầm vai? Chỉ mỗi một điều ngàn muôn năm không thay đổi, cái  tự tính bất biến, hoặc “luyện tập” (không phải luyện tập để có ma lực!), để trở thành bất biến hoại, để có ai còn tìm kiếm kiếp nào sau, còn nhận ra và gặp lại.
NTH xin lỗi về những lời đáp lại không vừa ý những câu hỏi; trong phạm vi bài này và từ mọi phía thắc mắc chưa gặp được nhau. Bởi vì NTH đã không thu nhỏ hoặc phóng lớn mình theo thói thường của một phỏng vấn xưa kia. Chỉ vì những câu hỏi trên đã “chạm mối thương tâm”, nhức nhối mấy mươi năm trời nên đành phóng tỏa không đắn đo suy nghĩ gì hậu quả những lời mình. Cám ơn, MN và “ai đó” (biết có chữ nào qua giới hạn chữ nghĩa?) đã giúp người câm- câm thời khí, không phải bẩm sinh- bỗng được nói “sau ngần ấy năm trời”. Còn gì nữa không? Còn. Vẫn còn. Vẫn còn những gì không bao giờ có thể hết.
Mai Ninh chân thành cám ơn chị Nguyễn Thị Hoàng đã chấp nhận trả lời phỏng vấn này, với những “phóng toả không đắn đo” dù tác phẩm NYCDT chưa được in ra (điều chưa từng có, như lời tác giả); nhất là chị đã cho phép MN được ‘‘chạm đến mối thương tâm’’ không những của một nhà văn mà của một con người, trong nghĩa tròn vẹn nhất.
1: cái đẹp thẩm mỹ
2: luận đề
3: đóng thay vai trò
4: nhân vật
5: giấy mỏng


Sau Nhã Ca và Túy Hồng, lại một nhà văn nữ nữa có xuất xứ từ vùng đất Thần Kinh: Nguyễn Thị Hoàng [1]. Người đọc có thể sẽ nhíu mày, “Lại Huế!!!”.

Tuy nhiên, xét cho cùng, họ là những nhà văn sinh trưởng tại Huế nhưng không sống ở Huế suốt đời. Họ đã xuôi Nam, về Sài Gòn và thành công trong việc tìm một chỗ đứng trên văn đàn. Cũng không sai khi nói họ “mất gốc” nhưng có lẽ bản chất “gái Huế đa tình” đã ăn sâu vào tiềm thức của họ. Và đó là một trong những lý do khiến họ thành công trong nghề viết.

Chất Huế (bao gồm ngôn ngữ và không gian) trong các tác phẩm của 3 nhà văn nữ này ngày càng giảm dần: từ đậm nét trong truyện của Nhã Ca như Cổng trường vôi tím, Giải khăn sô cho Huế… sang đến bàng bạc chút Huế trong Túy Hồng và hình như mất hẳn 'nét Huế' trong Nguyễn Thị Hoàng. Điều này cũng dễ hiểu. Những nhà văn nữ, một khi đã đạt được phần nào sự nổi tiếng, họ sẽ là nhà văn của cả nước chứ không còn là của một địa phương nào.

Điểm qua các tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng ta thấy “lý lịch” của các nhân vật thật phong phú và đa dạng. Nhân vật đó có thể là cô giáo trên Đà Lạt tạo nên Vòng tay học trò hoặc người nữ tu trong nhà thương với những nuối tiếc trần tục trong Cho những mùa xuân phai

Thậm chí trong số nhân vật đó còn có một cô gái liêu trai ám ảnh cuộc đời một tài tử điện ảnh trongBóng lá hồn hoa tận bên Đài Loan hoặc một người phụ nữ Việt Nam nào đó (Nguyễn Thị Hoàng?) có liên quan đến hai vợ chồng người họa sĩ Nhật trong Tan trong sương mù, một truyện tình có nhiều ẩn dụ.

Nguyễn Thị Hoàng

Nguyễn Thị Hoàng cho biết: “Truyện mình viết thường là truyện tình bế tắc và đi xuống. Trong đó những vai nữ bao giờ cũng khát khao đi tìm một đời sống thật của mình, nghĩa là tìm kiếm chính mình. Những nhân vật nữ lang thang bất định, và xa rời với phận sự gia đình. Chất liệu lấy từ những năm bất ổn lênh đênh trong cuộc đời đã qua của mình, đôi khi được ráp nối với những câu chuyện thời sự, cộng với một phần tưởng tượng, phóng tác, vẽ vời… rồi ráp thành chuyện. 

Không biết bên đàn ông thì sao, chứ cánh đàn bà thường mắc phải cái này là có những nét của nhân vật hoặc chính, hoặc phụ, thế nào cũng hắt bóng cá tính thói quen, đường nét và vóc dáng của tác giả. Riêng về 'Vòng Tay Học Trò', nếu bảo đó là thực thì cũng không hẳn là thực mà bảo là không thực thì… cũng chẳng phải là thế. Dư luận trộn lẫn tiểu thuyết của mình với đời sống thật. Cũng vì thế mà có những tiếng ác ý lao xao về đời sống của mình. Cho nên chỉ có cách là… phải thản nhiên”.

Vòng tay học trò
(Bản in lần thứ 4, tác giả có sửa chữa)

Vòng tay học trò [2] được coi như tác phẩm đầu tay của Nguyễn Thị Hoàng, xuất hiện nhiều kỳ trên Bách Khoa và được tái bản nhiều lần sau bản in đầu tiên năm 1966. Chính tác giả trong một cuộc phỏng vấn với Mai Ninh năm 2003 đã nói về việc viết Vòng tay học trò (VTHT):

“Chán chương trình, không khí ở Văn khoa, Luật, bỏ học, đi làm không lâu lại bỏ việc này (thư ký riêng của một tỉ phú) 1960, tìm việc khác 1961. Được bổ nhiệm về Nha-Trang dạy học, trường nơi đây từ chối; chuyển lên Đà-Lạt. Trường nữ dư giáo sư, trường nam thiếu nên xảy chuyện “hoa lạc giữa rừng gươm”, 1962. Năm sau bỏ Đà-Lạt.

Mùa hè 1964, một xấp pelure ố vàng, một cây bút gì đó, viết một hơi một tháng, VTHT. Bách Khoa in mấy kỳ, thiên hạ xôn xao. Nhưng sau đó chuyển cảnh qua chồng con, bản thảo VTHT xếp lại. Đến 66, một nhóm tìm kiếm VTHT, xuất bản. Tái bản 4 lần trong vòng mấy tháng.

Sóng gió nổi lên từ mọi phía, vì những lý do và động lực khác nhau. 5 tờ báo, cùng nhất loạt lên tiếng phê phán, chỉ trích, tóm lại là chửi bới. Rất tiếc cuộc biển dâu cuốn trôi không còn một mảnh tài liệu nào, còn trí nhớ NTH thì chỉ gạn lọc lưu trữ những gì tốt đẹp. Hình như nhân danh hay đại diện phụ huynh học sinh, nhà trường gì đó có lên tiếng trong một bài báo. Không có những phản ứng trực tiếp tương tự như trong phim đối với cuốn truyện, còn gián tiếp thì không biết”.

Tác giả xác định một cách nửa vời về Vòng tay học trò“…nếu bảo đó là thực thì cũng không hẳn là thực mà bảo là không thực thì…cũng chẳng phải là thế”. Như đã nói, những nhà văn nữ thường “tự thuật” về cuộc đời mình và chính những kinh nghiệm bản thân khiến tác phẩm của họ dễ đi vào lòng người đọc. Dĩ nhiên việc “thêm mắm thêm muối” còn tùy thuộc vào sự khéo léo của mỗi đầu bếp để có một món ăn ngon hay dở.

Vòng tay học trò là câu chuyện có thật tại trường Trần Hưng Đạo Đà Lạt giữa cô giáo đệ nhất cấp Nguyễn Thị Hoàng và cậu học sinh đệ nhị cấp Mai Tiến Thành. Tôi vốn là bạn học rất thân với Thành từ năm Đệ Ngũ trên Ban Mê Thuột nên biết rõ chuyện tình của Thành. Tuy nhiên, những gì xảy ra ngoài đời thực có phần nào khác với Vòng tay học trò, đó là kỹ thuật “thêm mắm thêm muối” của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng. Nói khác đi, phần 'hư cấu' trong tiểu thuyết được giữ ở mức vừa phải, có thể chấp nhận được.

Hình như để giữ cho mối tình cô giáo - học trò thi vị hơn, tác giả đã để cho cuộc tình chấm dứt tại Sài Gòn và không đả động đến hậu quả của nó: một đứa con đã ra đời. Đứa bé được đặt tên Mai Quỳnh Chi, giao cho gia đình Thành nuôi nấng tại Ban Mê Thuột và ngày nay đã trở thành một thiếu nữ sống tại nước ngoài. Mai Tiến Thành đã trở thành người thiên cổ tại Hoa Kỳ và câu chuyện tình làm nên tác phẩm rồi cũng đi vào quên lãng.

Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng và Tiếng Chuông Gọi Người Tình Trở Về
qua nét bút của họa sĩ Chóe


Trước khi lên Đà Lạt dậy học, gia đình Nguyễn Thị Hoàng sống tại Nha Trang. Những năm theo học tại trường Võ Tánh, Nguyễn Thị Hoàng dính vào một 'scandal', một thời là đề tài nóng bỏng tại thành phố biển.

Cô nữ sinh dan díu và có thai với ông Cung Giũ Nguyên [3], giáo sư Pháp văn, hơn Nguyễn Thi Hoàng gần ba mươi tuổi. Biến cố đầy tai tiếng này được dàn xếp êm thấm giữa hai gia đình với lời thú nhận can đảm của người trong cuộc:

“Ông Cung Giũ Nguyên không có lỗi trong vụ này. Lỗi là do tôi dụ dỗ ông ta khi theo học thêm lớp Pháp văn tại nhà, vì tôi muốn có một đứa con thông minh xuất chúng như ông ấy!”. 

Đứa con gái sinh ra được đặt tên Cung Giũ Nguyên Hoàng và được bà vợ chính thức của ông Nguyên nuôi dưỡng vì bà này không thể có con. Trong ngày tang lễ của ông Cung Giũ Nguyên (tháng 11/2008) người ta thấy Cung Giũ Nguyên Hoàng phục tang cha, ôm bát nhang đi trước linh vị.

Nguyễn Thị Hoàng trong bài Về thư gửi con của Thái Kim Lan  đăng trên Da Màu có đoạn viết về tình mẫu tử: 

“Mỗi phụ nữ có con đều được là mẹ và làm mẹ, nhưng trên mẫu số chung là thương con, hàng tỉ tử số khác nhau cho tự tính là và làm mẹ ấy, tùy thuộc dân tánh, căn chất, đẳng cấp, thể loai  khác nhau của phụ nữ. Cái là xác định tính cách sinh sản, sáng tạo và hoàn thành một công trình, tuyệt phẩm”.

Nguyễn Thị Hoàng

Sau này, người chồng chính thức của Nguyễn Thị Hoàng là Nguyễn Phúc Bửu Sum, có họ hàng với họa sĩ Nghiêu Đề. Ông Bửu Sum trong thời VNCH đã qua nhiều giai đoạn cùng cực: trốn lính rồi bị bắt, đào ngũ rồi cũng bị bắt lại… Nguyễn Thị Hoàng ngoài việc viết lách còn phải chăm sóc 5 đứa con, lo việc nhà cửa, bếp núc.
 
Truyện dài Cuộc tình trong ngục thất là “tự truyện” của Nguyễn Thị Hoàng trong giai đoạn khó khăn này. Truyện kể lại việc Bửu Sum trốn lính, bị bắt, làm 'lao công đào binh' tác chiến ngoài Quảng Ngãi và rồi lại đào ngũ. Cuốn truyện không mang tính cách phản chiến nhưng lại mang nhiều suy nghĩ trung thực của người phụ nữ trong cuộc chiến vừa qua. Nguyễn Thị Hoàng viết:

“Những gì đáng mất đi vẫn còn. Những gì đáng lẽ còn đã phải mất. Những kẻ được, lại thua lỗ bỏ đi. Kẻ đáng thua lỗ, lại ngồi trì, ăn có. Mọi chuyện như cái con vụ. Con ếch nhường chỗ cho con gà. Con tôm nhường chỗ cho con heo. Cái vụ tròn bé thơ quay tít trong bao nhiêu con mắt khắc khoải đợi chờ”.

Hai nhân vật chính trong truyện hoàn toàn không có tên, thay vào đó là Người Vợ và Người Chồng, nhiều đoạn chỉ được giới thiệu vỏn vẹn Vợ hoặc Chồng. Ta hãy đọc đoạn văn ngắn viết về sự căng thẳng, phập phồng trong tâm trạng của người trốn lính:

“Người chồng ngồi lặng yên nhả khói thuốc. Khói thuốc ấm áp toả vòng tròn trên hai con mắt nâu đã đục vàng vì những đêm liên miên mất ngủ. Thỉnh thoảng, những ngón tay dài đã gầy gò lồng trong mái tóc cắt ngắn lô nhô sợi buồn rã rượi, cào một vòng, trút bỏ bụi mù của đường xa đã đi.

Chồng không nói gì. Vợ cũng im hơi, nhưng hai người nghe rõ trong nhau những tiếng thở dài thầm kín pha lẫn những tiếng kêu gào náo nức quắt quay của phút đợi chờ phập phồng kéo dài tưởng đến hết một đời người chưa dứt”.

Có thể nói, văn phong của Nguyễn Thị Hoàng cũng tựa như của Mai Thảo: rất “điệu đà”, rất “bay bướm” và rất “làm dáng”… đến độ nhiều khi trở thành sáo rỗng. Chẳng hạn như trong Người yêu của Đấng Trời, một tiểu thuyết đã được viết từ hơn một chục năm nay nhưng chưa hề xuất bản. Hợp Lưutrích đăng một chương có những đoạn viết: 

‘‘Tất cả đều in bóng lên nền xanh bát ngát của lòng trời, và những đôi mắt linh hồn mãi mãi tìm nhau, vẫn dồn trút niềm yêu và nỗi đau trong cái nhìn đáy thẳm tuyệt vời của im lặng và bóng tối.’’

‘‘Khoác lên trái tim chưa yêu của Chúa một vầng hoa nguyệt quế nghìn thu. Và trái tim nào đã yêu đến tan nát cả chân như thể tánh mình, hãy lấy búa kim cương đóng lên một chiếc đinh vàng, để dưới bóng Chúa lung linh nến hồng thuở trước, trên tình yêu không bao giờ có thực của chúng ta, một giọt máu trường sinh nhỏ xuống.’’

Nguyễn Thị Hoàng, năm 2007
(Ảnh của Thái Kim Lan)

Trước khi nổi tiếng trong nhóm nhà văn nữ trước 1975, Nguyễn Thị Hoàng là một nhà thơ của xứ Huế với hai tập thơ Sầu riêng (1960) và Sau phút đam mê (1961). Nổi bật hơn cả là bài thơ Chi lạ rứa với 40 câu thơ mang đặc những ngôn từ của miền Trung như chi lạ rứa, bởi vì răng, bên ni bờ, đau chi mô, hiểu chi mô… (Xem nguyên văn bài thơ trong phần chú thích trong bài viết Đọc lại Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng (2), http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/10/oc-lai-vong-tay-hoc-tro-cua-nguyen-thi_13.html )

Những vần lục bát là thế mạnh trong thơ Nguyễn Thị Hoàng với những câu thơ rất da diết nhưng cũng rất tự nhiên như văn viết:

“Em mười sáu tuổi tơ măng
Thịt da đốt cháy thiên đường tình yêu”

“Trong cơn chăn gối rã rời
Im nghe từng chuyến xe đời đi qua”

“Đường về không nhịp trùng lai
Chúa ơi con sợ... ngày mai một mình"

“Nhìn lên thành phố không đèn
Âm u còn một màn đêm cuối cùng
Mắt sâu dòng lệ ngập ngừng
Mình xa nhau đến muôn trùng thời gian”

“Lênh đênh tiếng hát kinh cầu
Ăn năn cổ thụ cúi đầu ngẩn ngơ
Trên cao tháp cũ nhà thờ
Hồi chuông tưởng niệm bây giờ còn vang”  

Lối gieo vần trong thơ 8 chữ cũng là một thể nghiệm mới lạ của nhà thơ nữ:

“Em đợi anh về những chiều thứ bẩy
Hiu hắt vòm trời buổi sáng thứ hai
Nhạc dạo mơ hồ trong tiếng mưa bay
Thành phố ngủ quên những ngày chủ nhật”

“Cho em xin một chiều vui thứ bẩy
Có nhạc phòng trà có lá me bay
Tiếng gió reo vui đêm dài xa lộ
Nửa cuộc đời còn khoác kín vòng tay”

Và cuối cùng là những vần thơ 5 chữ trong bài Lời rêu:

“Uống cùng nhau một giọt,
Đắng cay nào chia đôi
Chung một niềm đơn độc,
Riêng môi đời phai phôi.

Say dùm nhau một giọt!
Chút nồng thơm cuối đời.
Vướng dùm nhau sợi tóc,
Ràng buộc trời sinh đôi”.

Người ta thường nói “lắm tài nhiều tật” hay “hồng nhan đa truân”. Ở Nguyễn Thị Hoàng có lẽ cả hai câu đều đúng. Trong số các nhà văn nữ nổi tiếng của Sài Gòn xưa, Nguyễn Thị Hoàng là người có nhan sắc nhất nhưng cuộc đời cũng nhiều sóng gió nhất.

***

Chú thích:

[1] Nguyễn Thị Hoàng còn có bút hiệu Hoàng Đông Phương sinh ngày 11/12/1939 tại Huế. Đã theo học trường Đại học Văn Khoa Saigon, đã cộng tác với các tạp chí Văn, Bách Khoa

Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng có hai quyển tiểu thuyết từng gây sôi nổi trước năm 1975: Vòng tay học trò và Tuổi Saigon. Ngoài văn xuôi, bà còn làm thơ và in thơ (trước khi viết văn), đó là hai tập thơ Sầu riêng (1960) và Sau phút đam mê (1961). Sau Vòng tay học trò còn xuất bản trên 30 tiểu thuyết trước 1975. Năm 1990 xuất bản Nhật ký của im lặng, cùng lúc là Người yêu của Đấng Trời (chưa xuất bản).

Tác phẩm đã xuất bản:

  • Vòng tay học trò (1966)
  • Trên thiên đường ký ức (1967)
  • Tuổi Saigon (1967)
  • Vào nơi gío cát (1967)
  • Cho những mùa xuân phai (1968)
  • Mảnh trời cuối cùng (1968)
  • Ngày qua bóng tối (1968)
  • Về trong sương mù (1968)
  • Ðất hứa (1969)
  • Một ngày rồi thôi (1969)
  • Vực nước mắt (1969)
  • Tiếng chuông gọi người tình trở về (1969)
  • Vết sương trên ghế hồng (1970)
  • Nhật ký của im lặng (1990)


 [2] Xem thêm về Vòng tay học trò qua loạt bài viết:

·         Đọc lại Vòng Tay Học Trò (1)

·         Đọc lại Vòng Tay Học Trò (2)
[3] Cung Giũ Nguyên (1909 – 2008) là một nhà văn, nhà báo người Việt gốc Hoa được biết đến với những tác phẩm đa số viết bằng tiếng Pháp. Sinh trưởng trong một gia đình nghèo và đông con, học xong trung học tại trường Quốc học Huế những năm 1922-1927, ông phải từ bỏ giấc mộng học trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội để đi làm việc.

Năm 1928 ông được bổ làm trợ giáo tập sự tại trường Nam Tiểu học Nha Trang, nhưng đến đầu năm 1930 bị bãi chức, vì lý do chính trị. Sau đó ông phiêu lưu vào Sài Gòn, Đà lạt, Huế, Nha Trang.

Năm 1936 cha của ông mất. Vì trách nhiệm đối với gia đình, ông về lại Nha Trang và năm 1941 trở lại nghề dạy học. Ông đã dạy các môn Việt văn, Hán văn, La tinh, Pháp văn, Anh văn, sử địa, kinh tế học, triết học, văn học... ở các trường Kim Yến, Trường Dòng Thánh Giuse Bình Tân, La San, Phanxicô, Collège de Nha Trang, Võ Tánh, Lê Quý Đôn...

Trong khoảng 1955-1975, ông làm hiệu trưởng trường Trung học đệ nhị cấp Lê Quý Đôn, Nha Trang. Trong thời gian 1972-1975 ông là giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Cộng đồng Duyên hải, Nha Trang. Từ 1989 đến 1999, ông là giáo sư thỉnh giảng môn ngôn ngữ và văn chương Pháp tại khoa Pháp văn, Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang.

Về mặt hoạt động xã hội, ông là một huynh trưởng nổi bật thuộc thế hệ sáng lập ra phong trào Hướng đạo Việt Nam. Năm 1944, ông đảm nhiệm khoá huấn luyện chót ở Trại trường Bạch Mã thay thế Trưởng Tạ Quang Bửu vì bận việc riêng. Năm 1958, Trại trường Quốc gia Tùng Nguyên được thành lập tại Ðà Lạt dưới quyền điều khiển của ông. Đây là nơi đào tạo hầu hết các trưởng của thế hệ 1958-1975.

Ông từng làm phụ tá Trại trưởng Trại Huấn luyện Hướng đạo quốc tế Gilwell, Anh Quốc. Đây là nơi huấn luyện các huynh trưởng Hướng đạo. Cho đến năm 2007, ông đã 98 tuổi nhưng vẫn còn gắn bó với phong trào Hướng đạo tại Việt Nam; hướng dẫn Toán Alpha và Bêta Hướng đạo Việt Nam tại Nha Trang.

Tác phẩm của Cung Giũ Nguyên:

·         Một người vô dụng (1930)
·         Nợ văn chương (1931)
·         Volontés d'Existence (NXB France-Asie, Saigon, 1954)
·         Le Fils de La Baleine (NXB Arthène Fayard, Paris, 1956) bản dịch tiếng Việt Kẻ thừa tự của ông Nam Hải, (Nguyễn Thành Thống, NXB Văn học, Hà Nội, 1980).
·         Le Domaine Maudit (NXB Arthène Fayard, Paris, 1961)

·         Le Boujoum (1980)

CUNG GIŨ NGUYÊN
(1909-2008)



Tin từ gia đình của nhà văn hóa Cung Giũ Nguyên cho hay ông vừa ra đi lúc 3g15 sáng nay (7-11-2008) tại nhà riêng ở số 60 Hoàng Văn Thụ, thành phố Nha Trang.
Nhà văn hóa Cung Giũ Nguyên sinh tại Huế vào ngày 28-4-1909, nếu tính theo tuổi ta thì ông “trụ thế” được 100 tuổi. Theo Từ điển văn học (bộ mới, NXB Thế Giới 2004) thì Cung Giũ Nguyên là một nhà giáo dục, nhà báo, nhà văn Việt Nam. Ngoài ra ông còn có tên trong danh sách các nhà văn thế giới viết văn bằng tiếng Pháp.
Cả cuộc đời nhà văn hóa Cung Giũ Nguyên có khoảng 70 năm trực tiếp dạy học. Ông được bổ làm trợ giáo tập sự tại Trường Nam tiểu học Nha Trang vào năm 1928. 
cgn
Từ 1975 về trước nhà giáo Cung Giũ Nguyên đã dạy các môn Việt văn, Hán văn, Latin, Pháp văn, Anh văn, sử địa, kinh tế học, triết học, văn học tại các trường ở Nha Trang như: Kim Yến, Trường dòng Thánh Giuse Bình Tân, La San, Phanxicô, Collège de Nha Trang, Võ Tánh, Lê Quý Đôn. Đồng thời ông đã 20 năm làm hiệu trưởng Trường trung học đệ nhị cấp Lê Quý Đôn (Nha Trang,1955-1975) và làm giáo sư thỉnh giảng tại Đại học cộng đồng Duyên Hải, Nha Trang trước đây và giảng dạy môn ngôn ngữ và văn chương Pháp tại khoa Pháp văn Trường cao đẳng Sư phạm Nha Trang (1989-1999).
Về văn chương, Cung Giũ Nguyên được đánh giá là có “đóng góp lớn cho văn học Việt Nam”. Ông là một nhà văn viết thuần thục nhiều thứ tiếng, đặc biệt là tiếng Pháp; viết nhiều thể loại khác nhau (tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, tản văn, khảo luận...). Tác phẩm của ông đã được các nhà xuất bản ở Pháp, Đức, Canada, Hoa Kỳ, Việt Nam phát hành. Trong đó có những tác phẩm được chú ý nhiều như, về tiếng Việt : Một người vô dụng (Tín Đức Thư Xã, Sài Gòn, 1930); Nhân tình thế thái (tập truyện ngắn, Phổ Thông Văn Xã, Gia Định, 1931); Nợ văn chương (Nhà in Châu Tịnh, Vinh, 1934), Những ngày phiêu bạt (ký), Nửa gánh tang bồng,Một chuyến về
Về tiếng Pháp, Cung Giũ Nguyên có những tác phẩm nổi tiếng được thế giới biết đến nhiều vào những năm 1950-1960 như : Le fils de la Baleine (tiểu thuyết, Paris, 1956 - dịch sang tiếng Việt là Kẻ thừa tự ông Nam Hải, NXB Văn Học, Hà Nội 1995), Le Domaine Maudit (tiểu thuyết, Fayard, Paris, 1961); tiểu luận Volontés d’existence (France-Asie, Sài Gòn 1954; dịch sang tiếng Việt là Những ý chí sinh tồn); Le Boujoum (do roman Dallas, Tesax, USA, tái bản 2002; dịch sang tiếng Việt là Thái huyền); tập thơ Texte Profane (Bản văn trần tục)…
Cung Giũ Nguyên còn là nhà báo đã viết hàng ngàn bài cộng tác trên nhiều tờ báo trong, ngoài nước. Ông đã cùng với Raoul Serène - tiến sĩ khoa học từng làm giám đốc Viện Hải dương học Đông Dương - chủ trương ra nguyệt san Tạp Chí Tuổi Trẻ (Le Cahiers de la Jeunesse; 1938-1940) ở Nha Trang; làm chủ bút nguyệt san song ngữ Tương Lai Tạp Chí, Nha Trang (1939) và làm chủ bút nhật báo Châu Á Buổi Chiều (Le Soir d’Asie, Sài gòn; 1939-1942) và chủ bút tuần báo Báo Chí Viễn Đông (La Presse d’Extrême - Orient, Sài Gòn; 1954)…




Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen