Sonntag, 24. Januar 2016

Dương Thu Hương - Để gọi tên sự vật một cách rõ ràng



Sáng ngày 27 tháng 10 năm 2010 toà án tỉnh Trà Vinh đã kết án ba nhà sáng lập công đoàn Tự do với mức án khiến công chúng kinh ngạc hoặc kinh hoàng.
- Anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng chịu án chín năm tù giam.
- Anh Đoàn huy Chương chịu án bẩy năm tù giam.
- Chị Đỗ thị Minh Hạnh chịu án bẩy năm tù giam.
tucongsan.jpg
Những người tù cộng sản (Nguồn: baovelaodong.com)
Thấy dư luận xôn xao một cách thái quá, tôi xin góp đôi lời bình về nỗi kinh ngạc hoặc kinh hoàng của dân ta. Bởi vì, từ sự kiện này, chúng ta có cơ hội để phân tích hiện trạng đất nước một cách bao quát.
Hai tính từ “kinh ngạc” và “kinh hoàng” đều chỉ một hiện tượng: sự vật bất bình thường, hoặc chưa bao giờ thấy, hoặc phi logic, hoặc quá liều lượng cũng như chiều kích quen thuộc, và tất cả các đặc điểm trên khiến người ta ngờ vực.
Chúng có một điểm khác biệt: kinh ngạc chỉ trạng thái sửng sốt, bất tin một cách thuần tuý.
Kinh hoàng, bao gồm cả sự ngạc nhiên lẫn sự sợ hãi, sợ hãi đến tê liệt, và điều này đối với nhà cầm quyền quan trọng hơn. Nói một cách thẳng thừng, đây là hiệu ứng mà nhà cầm quyền Hà Nội cố tình tìm kiếm. Bất cứ chế độ độc tài nào cũng dùng các vụ xử án như một vũ khí đặc biệt hiệu nghiệm để trấn áp những kẻ đối lập và hù doạ dân chúng, biện pháp này tuy cổ điển nhưng chưa bao giờ lỗi thời.
Trở lại sự việc cụ thể là vụ xử án ba nhà sáng lập công đoàn Tự do: Tại sao họ lãnh án nặng đến như vậy? Phải chăng đây là cơn bốc đồng của một ông quan toà tỉnh lẻ vì bị vợ cắm sừng hay mắc chứng táo bón trầm kha nên trút nỗi oán hơn lên đầu kẻ khác, hoặc phải chăng đây là sự nhầm lẫn do lơ là, do vô ý, và một khi đã nhỡ nhầm thì các quan lớn không muốn rút lại lời?...
Tôi không tin vào những chuyện cắc cớ như vậy cho dù chúng vẫn thường xẩy ra trong cuộc đời. Đối với người cầm quyền Hà Nội, án của ba thanh niên sáng lập công đoàn tự do kia là xứng với tội danh của họ, thậm chí còn quá nhẹ. Nếu không e ngại sự phản ứng dội vào từ phía ngoài biên giới, ắt các án này còn cộng thêm nhiều năm cấm cố nếu chẳng phải là chung thân.
Hơn tất cả các thứ đảng phái đối lập, hơn mọi lời tuyên bố hùng hồn, văn vẻ của các bậc mũ cao áo dài, ba kẻ bình dân kia mới thực sự là mối đe doạ của họ, mối đe doạ sờ thấy được, ngửi thấy được, hình dung được một cách rõ ràng, mối đe doạ xác lập trên các nghiệm sinh.
Nghiệm sinh của con người vốn là phần cốt lõi nhất trong nhận thức của họ đối với thế giới xung quanh cũng như với chính bản thân, nghiệm sinh là kiến thức trực tiếp, yếu tố thứ nhất trong cấu tạo nền, mà yếu tố thứ hai là sự tổng hoà, sự điều tiết giữa bản năng với các kiến thức mà họ thâu nhận được trong quá trình sống theo cách gián tiếp (giáo dục, học hành, trao đổi với tha nhân).
Nếu như cuộc đời của một con người có các ngã rẽ, có các chuyển hướng căn bản thì những sự kiện trọng đại này thường xảy ra dưới áp lực của nghiệm sinh, vì lẽ các kiến thức trực tiếp luôn luôn là động năng tiên quyết điều khiển hành vi cũng như ứng xử của con người.
Nhà cầm quyền Hà Nội sợ hãi ba thanh niên đứng lên cầm ngọn cờ của những người lao động bởi vì ba người này là vọng âm, là hình ảnh phản chiếu, là bản sao lại của chính bản thân họ vào những năm tiền khởi nghĩa, những năm mà “quốc tế ca của những người lao động” vang vọng khắp nửa địa cầu:
Vùng lên, hỡi các nô lệ của thế gian,
Vùng lên, hỡi ai cực khổ bần hàn,
Đấu tranh này là trận cuối cùng...
Nói cho rõ ràng hơn, có thể ví hai chàng trai và cô gái đứng sau vành móng ngựa của toà án tỉnh Trà Vinh ngày hôm nay như đoạn phim chiếu lại hình ảnh người cộng sản những năm cuối thập kỉ 30 sang thập kỉ 40 khi họ đứng sau vành móng ngựa của các toà án thực dân, khi họ sôi sục nhiệt tình cách mạng và sẵn sàng quên mình vì độc lập của dân tộc.
Do tinh thần hy sinh và lòng can đảm cộng với các ưu thế đương thời, người cộng sản đã thành công trong khi rất nhiều chàng trai yêu nước dấn thân vào các xu thế chính trị khác, cũng đầy lòng hy sinh và thừa dũng khí, nhưng không đi đến được thắng lợi cuối cùng.
Hãy nhắc tên Nguyễn Thái Học như biểu tượng của lớp người này, dù không đạt được vinh quang, nhưng họ vẫn sống mãi trong lòng dân tộc và bất cứ người Việt yêu nước nào cũng phải xây trong tim mình một đài tưởng niệm cho những anh hùng bất đắc chí.
Như thế, chính quyền cộng sản được dựng lên ngày 02/09/1945. Từ năm 1945 đến nay hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, các chàng trai cộng sản năm ấy giờ ở đâu? Họ là ai?
Đương nhiên, nói theo nghĩa xác thực thì rất nhiều người trong số họ đã qua đời. Những người còn lại như ông Đỗ Mười, ông Lê Đức Anh và một số khác đã trở thành các tù trưởng bộ lạc, các lão trượng ngồi trên đống vàng, con cháu họ hàng của họ đoàn đoàn lũ lũ lúc nhúc chia nhau cầm nắm các vị trí then chốt, các rường cột của quốc gia, chia chác nhau các mối lời béo bở, tha hồ đục khoét ngân khố, đương nhiên thụ hưởng toàn bộ lợi quyền mà hàng chục triệu người dân Việt nam đã đổ xương đổ máu để giành lấy. Vậy thì bài ca “quốc tế lao động” khi dịch lời sang tiếng Việt đã ứng nghiệm một trăm phần trăm câu hát này:
Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình!
BAO NHIÊU LỢI QUYỀN ẮT QUA TAY MÌNH!
Đó là một ước muốn mãnh liệt nhưng kém phần phần thuận lý và hoàn toàn thiếu vắng tinh thần cao thượng.
Năm 1988, khi nói chuyện tại câu lạc bộ Trí thức Sài gòn, tôi đã chỉ ra đích danh câu hát này, nó phản chiếu một cách vô thức chí hướng cũng như tâm tư những người cộng sản Việt Nam mà ở đó, toát ra một cách không thể che giấu, lòng tham vô độ cũng như khát vọng thống trị tuyệt đối.
Trong bất cứ xã hội nào, khi một nhóm người đã chủ tâm thâu tóm toàn bộ lợi quyền vào tay mình thì xã hội đó ắt không thể tồn tại lâu dài bởi vì từ cổ chí kim, xã hội nào cũng hình thành trên sự cộng sinh, sự cộng sinh đòi hỏi sự tồn tại cùng một lần nhiều lớp người khác biệt và do đó phải có một đường lối chính trị thích hợp để cho mọi công dân đều có quyền lao động, sống, thụ hưởng cũng như có cơ hội phát triển. Điều này ở phương Tây người ta gọi là “Bình đẳng về cơ may cho mọi người”, còn ở nước Việt trong các triều đình thịnh vượng trước đây, tinh thần đó được phản chiếu một cách nôm na trong câu “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Nếu kẻ cầm quyền chỉ nghĩ đến mối lời của chính họ, ắt những nhóm người khác sẽ bị đẩy sang bên lề, bị tước đoạt, bị bần cùng hoá, nô lệ hoá, chịu đựng sự nhục mạ và nỗi đau khổ với các phương thức khác biệt, và như thế, con đường khởi loạn ắt không tránh khỏi.
Đừng quên rằng chính quyền Hà Nội hình thành được là nhờ ân sủng của cuộc cách mạng tháng tám. Cuộc cách mạng tháng tám thành công vì nó dựa trên hào khí của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cảm hứng chủ yếu của phong trào này là ý chí tự chủ, sự kế tục truyền thống từ các khởi nghĩa Trưng Trắc, Trưng Nhị, Triệu Ẩu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung...
Một nghìn năm nô lệ giặc Tầu, tiếp đến một trăm năm nô lệ giặc Tây, trong vô thức dân tộc, đó là một dòng chảy không ngưng nghỉ của một cuộc kháng chiến không ngưng nghỉ, dẫu rằng có những giai đoạn chìm trong bóng tối lặng câm của máu và nước mắt. Nếu ông Hồ chí Minh không biết bắt chước (hoặc học hỏi, nói một cách văn chương hơn) các vua xưa để đoàn kết dân chúng, làm sao có chín năm kháng chiến thành công? Nếu những người dân Việt không quên thân vì tổ quốc, làm sao có thể xẻ dọc trường sơn đi cứu nước? Các cuộc chiến tranh này chẳng là gì khác hơn sự kéo dài các cuộc chiến tranh chống xâm lăng của Trần Hưng Đạo, Lý thường Kiệt, Nguyễn Huệ Quang Trung. Chiến thắng Điện biên Phủ chẳng là một công trình duy nhất, là hiện tượng đơn lẻ trong lịch sử Việt Nam mà nó chỉ là sự thay đổi địa dư và tên gọi của các trận thuỷ chiến Bạch Đằng, của trận chiến oanh liệt trên Gò Đống Đa.
Tuy nhiên, chế độ cộng sản Hà Nội đã núp dưới bóng ngọn cờ liềm búa, với chủ thuyết đấu tranh giai cấp của Mác như một người đàn bà Việt Nam cạo răng đen để lấy bộ răng có mầu cải mả và đổi bộ váy chùng sang chiếc quần. Phải nói rằng sự chọn lựa đó có tính định mệnh, kèm theo nó là các ưu thế tạm thời cùng những yếu tố phản động có tác hại lâu dài về mặt lịch sử.
Số phận một dân tộc cũng giống như số phận một con người, thường bị quyết định hoặc bị ảnh hưởng bởi các yếu tố nằm bên ngoài ý chí của chính họ. Vì thế, chúng ta không đặt lại vấn đề bằng những cụm từ “giả sử” hay “nếu như” bởi trong thực tiễn, các danh từ này là vô nghĩa. Điều chúng ta cần quan tâm là xã hội Việt Nam hiện nay, năm tháng này, bởi hiện tại và tương lai là các vấn đề khẩn cấp trong sinh tồn của một dân tộc.
Nếu coi chế độ cộng sản như một thứ triều đình, để tiện so sánh với các triều đình trong quá khứ như triều Lê, triều Lý, triều Trần, thì thứ chính trị mà chính quyền Hà Nội thực thi là thứ chính trị phi nhân, bất nghĩa, tham tàn nhất trong lịch sử Việt Nam. Sáu mươi lăm năm chỉ là một chớp mắt so với vĩnh hằng, nhưng quãng thời gian đó đã bộc lộ đầy đủ quá trình thối rữa của bộ máy quyền lực mà khởi thuỷ, ra đời được là nhờ sự ủng hộ của đại bộ phận dân chúng, bởi dân chúng tin vào các tiêu chí họ nêu lên:
Một chính quyền Nhờ dân, Do dân, và Vì dân.
Kiểm lại các sự kiện, ta thấy rằng:
Nếu sau chiến tranh, vua Trần đã quăng tráp đựng hồ sơ những người cộng sự với Tầu vào lửa để xoá đi một quá khứ nô lệ, để hoà giải mọi thành phần dân tộc, để có đủ hào khí viết nên trang sử mới cho đất nước thì ngược lại, sau năm 1975, nhà cầm quyền cộng sản đã bắt bớ, đàn áp, giam giữ, hành nhục hàng trăm ngàn binh sĩ của chính quyền miền Nam trong các trại tù khổng lồ, là tác nhân gây ra cuộc vượt biển tập thể chưa từng thấy trong lịch sử thế giới về mặt quy mô cũng như về tính tàn khốc.
Thuyền nhân!
Đó là danh từ độc đáo mà chính quyền Hà Nội đã sáng tạo ra. Danh từ này được dùng với một mật độ dày đặc trên các phương tiện thông tin toàn trái đất trong một quãng thời gian dài, từ những năm cuối thập kỉ 70, qua suốt thập kỉ 80, cho đến những năm đầu của thập kỉ 90. Danh từ này mô tả cuộc di dân kinh hoàng, bằng chứng sống động về tội ác của nhà nước cộng sản Việt Nam, gây phẫn nộ lẫn sự khinh bỉ một cách rộng rãi trên dư luận toàn thế giới.
Danh từ “Thuyền nhân” sẽ mãi mãi vĩnh định trong tất cả các cuốn tự điển của nhân loại, để ghi nhận khả năng độc ác và sự man rợ của con người đối với con người, một hiện tượng được liệt kê sau các lò thiêu Do Thái của Đức và quần đảo Goulag của Nga. Ở các nước châu Âu, nơi cuộc chiến tranh chống Mỹ được nêu lên như bằng cớ về tinh thần bất khuất của dân tộc Việt, thì tiếp theo đó, danh từ “Thuyền nhân” trở thành biểu tượng của thần tượng sụp đổ, của tội ác bị lộ diện, nói cách khác: mặt trái của tấm mề đay.
Thời xưa, sau các cuộc chiến tranh khi nhân tài, vật lực hao tổn, các vua Lý vua Trần đã ban hành chính sách khuyến khích sản xuất, cổ vũ dân cầy để tu tạo lại xã tắc giang sơn, do đó triều đình của họ mới bền vững.
Bất kể là ai, khi đã khoác long bào đều phải ghi xương khắc cốt câu “Chở thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân”, cho nên sự vỗ về dân chúng không thời nào được lơi lỏng. Một khi triều đình quay lưng lại dân chúng, chỉ lo tham lam vơ vét cho đầy túi, chỉ lo thoả mãn lòng dục của bản thân, lúc ấy vua quan đã biến thành một lũ thú vật chỉ lo liếm láp bộ lông của chính mình, ắt giặc giã phải nổi lên khắp nơi và triều đình phải đi đến sự huỷ diệt.
Nhìn lại thời Mạt Trần là thấy rõ. Từ ngày khởi lập nhà Trần cho đến năm Hồ Quý Ly đoạt ngôi là bao nhiêu năm tháng? Từ 1225 đến 1400 là 175 năm. Một trăm bảy mươi lăm năm dẫn từ vàng son đến tro bụi, đó là thời gian cho quá trình thối rữa. Khá ngắn ngủi so với các triều vua phương Bắc nhưng lại quá dài so với chế độ Hà Nội.
Vào năm 1287, triều Trần tròn 62 tuổi, tướng Trần Hưng Đạo còn đủ uy tín, tài lực để làm cuộc kháng chiến vĩ đại chống quân Mông. Năm nay, chính quyền Hà Nội 65 tuổi, giả như bây giờ quân xâm lược kéo đến, liệu họ còn khả năng như tướng Trần Hưng Đạo năm xưa? Liệu trong đám các uỷ viên ngồi quanh bàn họp bộ chính trị, ai đủ nhân cách để đứng lên hô hào dân chúng?
Không cần đọc tin tức và các bình phẩm trên các site Internet, bởi những người sử dụng phương tiện này đã nghiễm nhiên được coi như “bộ phận tinh hoa” của xã hội, chỉ cần lắng nghe lời đám bình dân kháo nhau nơi quán xá một cách vô cùng hài hước và chua chát cũng có thể hiểu được thái độ của họ.
Nào là “bọn Vinashin thuộc phe thằng Dũng xỉn, chắc thằng khác muốn nhoi lên trong đại hội đảng kì tới nên lôi vụ này ra. Nếu tính đếm, còn bao nhiêu vụ Vinashin chưa bị lòi mặt?” Nào là “Con gái thằng Dũng xỉn nắm yết hầu ngành ngân hàng, liệu bố con nó có dưới hay trên một tỷ đô la?” Nào là “Đố các ông ai là tác giả vụ bô-xít? Thằng Dũng xỉn kí nhưng kẻ giật dây lại chính là Tô Huy Rứa. Phải chăng thằng này là hậu duệ của lão Tô Định mấy ngàn năm xưa?” Nào là “Lão Nông Đức Mạnh đi đêm với bọn Tầu bao nhiêu lượt? Nghe đồn chúng nó ngầm bán đất cho Tầu lấy 5 tỷ đô la. Tất thảy các con số công bố trên báo chí đều là con số rởm”. Nào là “Trong mười năm vừa qua, mụ Trương Mỹ Heo và gia tộc nó đã cướp được bao nhiêu đất của dân cày?” Vân vân và vân vân...
Những lời bình phẩm quanh mâm cơm, quanh ấm trà thường nhật khá đủ để đo đếm mức độ khinh bỉ của dân đen đối với kẻ cầm quyền. Như thế, so với các triều đại cũ, quá trình băng hoại của chính quyền Hà Nội xảy ra một cách quá nhanh chóng, nói cách khác, quá trình thối rữa này được tính theo cấp số luỹ thừa. Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng này? Tôi cho rằng lý do đầu tiên là sự kiêu ngạo của nhà cầm quyền Hà Nội, lòng kiêu ngạo mà chính họ tự nhận là “Lòng kiêu ngạo cộng sản”.
Lòng kiêu ngạo cũng giống như lòng tham, làm mờ mắt con người. Mắt đã mờ thì tai cũng dễ điếc theo và trí nhớ trở nên cùn nhụt. Những người cộng sản Việt Nam mắc bệnh Alzheimer quá sớm. Họ ngửa mặt lên trời vênh vang hô không mệt mỏi “Chiến thắng Điện Biên Phủ”, đinh ninh rằng đó là thành công của riêng họ.
Họ đã quên rằng Điện Biên Phủ có được là nhờ hàng chục ngàn binh sĩ dũi đất, đào hầm, kéo pháo vượt núi đèo, hàng trăm ngàn dân công khắp các miền thồ lúa gạo ra tiền tuyến. Những con người này hy sinh vì nền độc lập của dân tộc, đương nhiên, nhưng cũng đồng thời hy vọng vào một ngày mai tươi sáng khi khẩu hiệu “Người cày có ruộng” trở thành hiện thực.
Kẻ cầm quyền cộng sản cũng lại quên rằng cuộc kháng chiến chống Pháp thành công là nhờ vào hàng nghìn gia đình hữu sản dốc vàng, đổ tiền nuôi tướng lẫn nuôi quân như ông bà Trịnh văn Bô, như giám đốc nhà máy in tiền Con Trâu Xanh, như bà Nguyễn Thị Năm, như cụ Cửu...
Ông Trường Chinh cũng như đa phần các đồng chí của ông ta từng ăn mòn bát tại nhà bà Nguyễn Thị Năm, các binh đoàn liên tục đến đó đóng quân vật hết đàn bò này đến đàn lợn kia ra ngả thịt. Thế nhưng, sự thật hiển nhiên cho thấy bà Năm là người đầu tiên bị bắn trong cải cách ruộng đất cùng cụ Cử, sau đó đến lượt hàng vạn người yêu nước khác, những người móc hầu bao lấy đến đồng xu cuối cùng để mua thóc gạo, thuốc men và quần áo gửi ra chiến trường.
Về phía những người nông dân, phần cay đắng cũng không thua kém. Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, nhưng khẩu hiệu “Người cày có ruộng” cho đến ngày hôm nay vẫn chỉ là một lời dối trá không e thẹn, và người cày, thay vì là nô điền cho chánh tổng, lý trưởng, địa chủ trở thành nô điền cho các cán bộ đảng.
Vậy thì, đối với tầng lớp hữu sản, người cộng sản cầm quyền là lũ vô ơn, ăn cháo đái bát, còn đối với đám nông dân cùng khổ thì họ là kẻ lừa đảo trắng trợn không mảy may áy náy lương tâm. Những chiếc răng chó sói luôn luôn là răng chó sói, dù chúng sơn đen hay để trắng, kẻ tham tàn dù nói lời lẽ nào vẫn là kẻ tham tàn. Hiện thực mạnh hơn mọi thứ xảo ngôn. Lá cờ búa liềm vẫn được kéo lên mỗi kì họp đảng, nhưng liệu còn ai tin rằng những kẻ đứng giơ tay chào lá cờ này còn là những người vô sản, đang nỗ lực tranh đấu cho các giai cấp bần cùng?
Câu trả lời sẽ là: Có! Vẫn còn những người tin vào điều đó, ấy là các con bệnh tâm thần, những ai đang sống trong trại điên Trâu Quỳ, đang ở nhà thương điên Đà Nẵng, hoặc các cơ sở chữa trị tâm thần khác trên đất nước. Tóm lại, những kẻ mất trí nhớ, những kẻ đập vỡ đồng hồ từ năm Con Ngựa (1954), hoặc những người bị bệnh Down.
Đại bộ phận dân chúng đều biết các quan chức cộng sản giờ đây đang sống ra sao. Họ đang xuỳ tiền mở các resorts, tức là các khu nghỉ mát cao cấp để hứng khách nước ngoài. Họ cưỡi máy bay sang Hồng Kông để đánh bạc và chơi gái. Họ có ngân khoản khắp các nhà băng trên thế giới, từ Thụy Sỹ đến Washington, từ Singapore đến Bangkok, từ Paris sang Berlin. Con cái họ đặt mua váy cưới tại các tiệm sang nhất trên đại lộ Champs Elysées, mỗi chiếc váy giá từ 130.000 đến 210.000 euros. Vợ lớn vợ bé hoặc gái bao của họ cưỡi các loại ô tô đắt tiền, các loại xe mà những người ngoại quốc làm việc tại Hà Nội hay Sài Gòn nhìn thấy phải tái mặt. Được như vậy là vì họ đã thực hiện một cách tuyệt vời câu ca “Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình”!
Chỉ một câu này thôi, đủ lý giải mọi chính sách được thực thi trên đất nước từ nửa thế kỉ nay.
Cho nên, xét trên phương diện tính thực dụng thì lá cờ liềm búa lúc này là thứ bùa hộ mệnh, tuy đã lợt mầu, nhưng vẫn còn hữu hiệu.
Trước hết, nó được sử dụng như loại thuốc an thần để dẫn đám dân đen vào giấc ngủ, đám dân bị tước đoạt và bị lùa ra bên lề xã hội, những nông dân bị đuổi khỏi đất đai, trở thành vô gia cư, vô điền địa, chen chúc quanh các kênh rạch bẩn thỉu của Sài Gòn hoặc các khu ngoại ô Hà Nội, làm đủ thứ nghề để tồn tại, mà trong các thứ nghề bấp bênh, khốn khổ nhằm mưu sinh, nghề làm điếm, ăn cắp là không thể tránh.
Lá cờ kia nhắc nhở một cách mơ hồ rằng các quan lớn cũng đã từng có thứ dây mơ rễ má nào đó, gần gũi họ, một thứ chủ nghĩa dân túy đặc biệt xảo quyệt và trữ tình.
Sau nữa, lá cờ này được coi là thứ khói độc, kiểu như lựu đạn cay của cảnh sát, để làm mù mắt (dù tạm thời) những công nhân lao động đến kiệt sức để lĩnh đồng lương trên dưới một triệu đồng Việt Nam, mà tiền thuê nhà trọ, nơi họ nằm xếp hàng như những con cá hộp, cũng đã mất năm trăm hoặc sáu trăm ngàn.
Không phải ngẫu nhiên mà người ta nói rằng, trong nhiều trường hợp, chính trị rất giống thứ nghề cổ truyền nhất trên trái đất: Nghề làm đĩ.
duong_thu_huong_0.jpg
Tác giả Dương Thu Hương
Xét trên khía cạnh bản chất của sự vật thì lá cờ búa liềm bây giờ là mảnh váy nát che đậy bộ phận sinh dục lầy lụa của những người cộng sản Việt Nam. Họ tiếp tục dùng nó dù trong thâm tâm, biết rằng tấm giẻ rách này không thể che kín thân xác họ một cách lâu dài.
Trong thâm tâm, họ sợ. Trong thâm tâm, họ biết rằng họ dối láo và không sự dối láo nào có thể đứng vững lâu dài. Già hay trẻ, ngu hay khôn, họ đều biết rõ rằng những năm tháng này là những năm tháng cuối cùng họ chen chúc trên chuyến tầu vét, mỗi kẻ tìm cách vơ cào vơ cấu, ngõ hầu lèn đầy túi, còn tương lai đất nước, vận mệnh dân chúng, lương tâm kẻ cầm quyền, trách nhiệm trước lịch sử, những khái niệm đó đã nằm bên ngoài mối quan tâm của họ. Hoặc là, họ chưa bao giờ với tới các ý tưởng đó, chúng là thứ quá xa xỉ đối với đời sống tinh thần của họ, những kẻ đang ngụp lặn trong tiền tài và khoái lạc. Hoặc là, khi nghĩ đến những điều đó, ngay lập tức họ sẽ hiểu rằng họ là kẻ bất khả và vì lòng tự ái luôn luôn mạnh hơn lý trí, họ sẽ cố tình lãng quên.
Nếu như trong đội ngũ quan chức, còn đôi kẻ biết giữ liêm sỉ, còn đôi kẻ biết lo âu khắc khoải cho vận mệnh non sông, những kẻ đó ắt bị vô hiệu hoá. Giữa một bầy chuột đang đục khoét, con chim sẻ lạc vào ắt bị cắn phòi ruột. Giữa đám chó sói, kẻ nào trái nòi, kẻ đó ắt bị phanh thây.
Bây giờ, để định danh giai cấp cầm quyền, ta cần lùi lại đôi bước trong quá khứ.
Thời cách mạng tháng tám, người cộng sản tự nhận là vô sản, dù rất nhiều người trong bọn họ xuất thân từ đám tiểu quan lại hay hào lý, bởi lẽ tấm môn bài vô sản lúc ấy vô cùng hiệu lực, nó là tiếng kèn đồng vang dội nhất với âm sắc tương hợp và nhạc cảm quyến rũ, đủ sức lôi cuốn, vẫy gọi và tập hợp tuyệt đại đa số nông dân bị bần cùng dưới chế độ thống trị của thực dân.
Những người dân cầy quả thực là động lực chủ của cuộc cách mạng này, bởi họ đã từng chứng kiến hai triệu đồng loại chết đói còng queo, xác rải dọc các con đường từ Thái Bình về Nam Định, từ Nam Định về Hà Nội, từ Thanh Hoá vào Vinh... Những xác chết này trở thành mối hù dọa đối với họ, bởi chính họ cũng sẽ có ngày gục xuống vì đói khát.
Tóm lại, sự tuyệt vọng và cái chết rình rập người dân cầy phía trước con đường. Để tự cứu mình, chỉ còn lối thoát duy nhất là vùng lên chiến đấu, lối thoát này được hình thành trong ngõ cụt, trong cơn tuyệt vọng của một đám đông. Đám đông ấy đã đi theo cách mạng để phá kho thóc, cứu đói, và cướp chính quyền. Trong con mắt dân chúng, người cộng sản lúc ấy thực sự là các anh hùng bởi họ đáp ứng một cách chính xác các khát vọng của một dân tộc nô lệ và đói khổ.
“Những anh hùng năm xưa, những người cầm cờ đỏ sao vàng vẫy gọi dân chúng làm cuộc cách mạng tháng Tám, giờ họ ở đâu? ”
Chúng ta cần lặp lại câu hỏi này vì điệp khúc bao giờ cũng là phần dễ nhớ nhất trong một bài hát. Câu trả lời sẽ là: Tuyệt đại đa số các chàng trai cộng sản năm xưa đã nằm trong nghĩa trang Mai Dịch. Còn người cộng sản bây giờ thực sự là các nhà tư sản đỏ, giai cấp tư sản được hình thành một cách đặc biệt trong hoàn cảnh đặc biệt nên chưa từ điển bách khoa nào trên thế giới tìm được định danh.
Giai cấp tư sản này được xác lập theo cách “truyền ngôi”, nói nôm na là được thâu tóm các vị trí quan trọng của guồng máy quốc gia một cách vô điều kiện để làm giầu, và quá trình làm giầu của họ được đặt trên các ưu thế tuyệt đối do quyền lực.
Lấy một ví dụ cụ thể, nếu như trước cách mạng, ông Đỗ Mười dắt lợn rong qua các làng cho lợn nhẩy, hành nghề thiến lợn làm kế mưu sinh, thì con rể ông từ những năm cuối thập kỉ 80 đã trở thành chủ khách sạn Bảo Sơn. Để cho khách sạn này làm ăn thuận tiện, nhà nước đã mở đại lộ Nguyễn Chí Thanh, con đường được coi là đẹp nhất Hà Nội.
Chắc chắn không có gia đình tư sản nào ở Pháp được hưởng một thứ ân sủng hoàng gia theo kiểu đó. Điều này chỉ có thể xảy ra (dẫu rằng hiếm hoi) dưới các triều đại trước cách mạng tư sản, khi giai cấp quý tộc còn trong thời vàng son.
Hiện tượng sử dụng tài sản quốc gia vào mục tiêu kiếm lợi cho cá nhân được coi như đương nhiên và phổ biến trong chính quyền Hà Nội. Dưới các hình thức khác nhau, hiện tượng này xảy ra trên khắp các lĩnh vực, từ các vụ mua bán khí giới cho quân đội đến các vụ đấu thầu những công trình quốc gia như cầu, đường, điện lực, từ thương mại cho đến công, nông nghiệp, từ các hoạt động văn hoá, giáo dục cho đến các nghề nghiệp phục vụ khác.

Với lịch sử cá biệt như thế, giai cấp tư sản đỏ Việt nam có ba đặc tính này:
Một: họ không tu tạo gia sản theo lối bình thường, cũng không phải cạnh tranh như các giai cấp tư sản ở các quốc gia khác vì được sự bảo trợ của bộ máy cầm quyền, do đó họ có thể đặc biệt giầu có dù đặc biệt ngu dốt.
Hai: họ thường xuyên dẫm đạp lên luật pháp vì hai lẽ:
- Luật pháp nằm trong tay cha chú họ và ở Việt Nam, bất cứ điều luật nào dù ghi trên giấy trắng mực đen cũng có thể bị bẻ queo vì các “lệnh mồm”.
- Đặc tính “Phép vua thua lệ làng” được truyền thụ một cách vô ngôn, vì thế bất cứ kẻ nào có quyền hành cũng áp đặt quyền lực bản thân lên trên các điều luật. Minh chứng gần đây nhất là hành vi của giám đốc tập đoàn Vinashin. Đặc tính này phổ biến trên toàn cõi Việt Nam, có thể gọi nôm na đó là đặc tính của bọn Chánh tổng.
Ba: vì hình thành và phát triển dưới bóng quyền lực độc tài, họ thường xuyên có mối quan hệ với bộ máy đàn áp. Bộ máy đàn áp, tới lượt nó, không thể tránh khỏi mối liên kết với thế giới tội phạm, công cụ đặc biệt hữu hiệu trong các lò sản xuất kim tiền tại các nước kém văn minh. Do đó, giai cấp tư sản đỏ chắc chắn mang tính chất mafia. Chỉ cần nhớ lại vụ án Năm Cam xảy ra năm 2001, với vai trò thứ trưởng bộ nội vụ, tổng cục trưởng tổng cục I, tức Tổng cục chống gián điệp, Bùi Quốc Huy, tên tục là Năm Huy, ta sẽ rõ tính mafia của chính quyền tư sản đỏ Việt Nam.
Với ba đặc tính trên, giai cấp tư sản đỏ Việt Nam là sản phẩm cá biệt, vừa mang tính chất chung của giai cấp này nhưng lại kèm theo rất nhiều yếu tố dị biệt mà nhân loại không hiểu nổi. Tôi tạm đặt cho sự dị biệt này hai tính từ: tính sân khấu và tính lưu manh.
Sân khấu, hay nói cách khác, đạo đức giả, vì ngoại trừ vài ba quốc gia đồng dạng như Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Cuba, chẳng ở nơi đâu giai cấp tư sản đứng chào cờ búa liềm và hát Quốc tế ca vô sản như đám quan lại đất Việt. Đương nhiên, ai cũng hiểu rằng họ hát theo kiểu con vẹt nhắc lại lời chủ dậy một cách máy móc, nhưng chẳng một ai đặt câu hỏi rằng “Họ nghĩ gì khi hát những lời ca ấy?”
quocteca.jpg

Quốc tế ca (Nguồn: ctu.edu.vn)
Phải chăng họ đã tự coi mình là loài vẹt nên không cần suy nghĩ? Phải chăng họ ngu đến mức không hiểu ý nghĩa của ngôn từ? Phải chăng họ đã quen đeo mặt nạ nên sự gian dối đối với họ trở thành tự nhiên như hơi thở? Phải chăng, từ những người lính dũng cảm năm xưa giờ họ đã rơi xuống vũng bùn của sự tham lam truỵ lạc, trở thành lũ người hoàn toàn vô sỉ và vô cảm, nói cách khác, một lũ lợn vục mõm xuống máng và chỉ còn biết duy nhất hành vi đó mà thôi?
Lưu manh, bởi vì họ đã chấp nhận thứ chính trị lừa đảo trên với sự trơ trẽn vô tiền khoáng hậu, thực thi cuộc dối trá tập thể này với các thủ đoạn tàn độc và hạ tiện, chẳng mảy may quan ngại công chúng. Nếu không hoàn toàn biến thành đám lưu manh, ắt họ phải hiểu rằng sự gian dối này là bất khả chấp nhận, rằng họ đang tiêu tiền giả, rằng họ đang phản bội lại nhân dân. Và sự phản bội nào cũng hứa hẹn những hiểm nguy theo luật nhân quả.
Hãy tạm đặt dấu chấm lửng ở đây, bởi sớm hay muộn thời gian cũng cho lời giải đáp. Lúc này, hãy nhìn thẳng vào thực tại và phân tích thực tại ấy vì điều đó khẩn cấp và thiết thực.
Hiện thời, nhà cầm quyền Việt Nam đang ngồi trên đống vàng, họ nhìn những đoàn người đói rách, bị bóc lột đến kiệt sức, bị dồn đến cùng đường tuyệt vọng với sự sợ hãi. Vì bất cứ sự sợ hãi nào cùng dễ dàng dẫn đến bạo lực nên họ thẳng tay đàn áp dân chúng.
Bộ máy đàn áp đang thuộc quyền sở hữu của họ, là vũ khí cốt lõi của nhà nước Stalin, nó được sử dụng một cách thường hằng. Bởi lẽ, họ biết chắc chắn rằng đám đông nghèo khổ kia chính là bản sao của họ hơn nửa thế kỉ trước, cũng như họ hơn nửa thế kỉ trước, đó là những kẻ nuôi mầm phản loạn và có ngày sẽ lật đổ ngai vàng.
Nhờ nghiệm sinh mà họ hiểu được ý nghĩ của đám người này, dù những ý nghĩ đó tồn tại trong thầm lén, trong câm lặng. Nghiệm sinh là phương tiện xác tín giúp họ nhận thức. Dẫu năm tháng qua, nhưng các nghiệm sinh cốt lõi không hề phai nhạt, bởi chúng được hình thành cùng một lần với các xúc động sâu sắc, những xúc động mãi mãi ghi khắc vào trí nhớ như những nhát đục trên đá của nhà tạc tượng, sẽ định hình cho đến phút lâm chung.
Họ đã trải nghiệm cùng một thứ tủi nhục, cùng nuôi cấy ý định lật đổ và trả thù, cảm thấy tận đáy sâu tâm hồn sức mạnh của hờn căm lẫn năng lượng tàn phá, cùng cảm thức về sự cám dỗ của ý muốn huỷ diệt, ý muốn nảy sinh bất cứ nơi đâu, khi con người bị đầy ải và bị tước đoạt mọi hy vọng. Họ hiểu rằng, chính đám đông phẫn nộ kia có thể làm một cuộc cách mạng khác, như họ từng làm năm 1945.
Tại sao không ? Cùng là người, cùng da thịt, cùng sự khắc khoải sinh tồn, ắt không thể không phản ứng trước đàn áp và bất công.
Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian,
Vùng lên, hỡi ai cực khổ bần hàn...
Bây giờ, Quốc tế ca đích thực sẽ cất lên trên môi những người khác, trên môi hàng triệu nông dân bị chính phủ cướp đất, hàng trăm nghìn công nhân bị bóc lột đứng dưới mưa và dưới nắng biểu tình.
Những công nhân này biết chắc chắn phần cay đắng họ sẽ phải chịu vì chính phủ luôn luôn đứng về phía các ông chủ. Các ông chủ Đại Hàn hay Trung Quốc, Pháp, Mỹ cũng như Tây Ban Nha, mũi lõ hay mũi tẹt đều là liên minh thắm thiết của nhà cầm quyền Việt Nam, bởi vì họ đem lại cho các quan lớn các tấm vé xanh, các tấm vé làm đầy ngân khoản tú ụ của các quan ông ở ngân hàng quốc ngoại hoặc đổi lấy những thỏi vàng ròng cho các quan bà gửi vào két tại ngân hàng quốc nội.
Ngược lại, dân chúng đã bị tách lìa khỏi khối “liên minh công nông” đường mật mà người cộng sản năm xưa từng hứa hẹn, hoặc nói chính xác hơn, hy vọng của họ đã tiêu biến như cát bụi cùng mớ danh từ sáo rỗng kia. Dân chúng giờ đây đã trở thành những kẻ đứng bên lề, nếu không gọi đích danh là những đàn bò để quan lại vắt sữa mà đôi khi, sự ương chướng của lũ bò làm rầy rà đám người chăn dắt.
Dân chúng, những người mà xưa kia cha ông họ lăn lưng vào chèn pháo hay lấy thân lấp lỗ châu mai, hoặc kĩu kịt đẩy xe thồ từ đồng bằng lên chiến trường Tây Bắc, những người mà xương cốt của cha anh họ đã rải trắng dãy Trường Sơn để ngày 30 tháng 4 năm 1975, lá cờ đỏ sao vàng có thể cắm lên trên dinh Độc Lập, những người ấy giờ đây là “kẻ bên ngoài” đối với các quan lớn, nói cách khác, họ là những kẻ đứng bên kia đường ranh giới phân biệt giai tầng.
Bởi vì điều đơn giản là các con rối cuộc đời đã thay vai.
Sự đổi thay này là lý do cơ bản khiến kẻ cầm quyền Hà Nội kết án ba nhà tổ chức công đoàn Tự do, hành động này không xảy ra đường đột hoặc hàm hồ mà được tính toán kĩ lưỡng và tuân theo logic. Nỗi kinh ngạc cũng như kinh hoàng của dân chúng chỉ là bằng cớ về sự thơ ngây hoặc khờ khạo của họ, những người đang huyễn hoặc bởi các ảo vọng hoặc bùi tai vì sự lừa mị của ngôn từ.
Tuy nhiên, khi trở thành giai cấp tư sản, kẻ cầm quyền Hà Hội quên rằng họ đã từng là học trò của ông Mác và ông tổ này dạy rằng “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”
Nếu như trước năm Con Gà (1945), họ nhai đi nhai lại câu này mỗi ngày, họ tuyên truyền, hò hét khẩu hiệu này đến hụt hơi, khan giọng, thì giờ đây, cổ họng họ đã lèn ứ vàng nên lưỡi họ cứng đơ và tai họ ù điếc. Họ quên hoặc làm ra vẻ đã quên. Nhưng dù kẻ cầm quyền quên hay nhớ thì cuộc sống vẫn tồn tại với các quy luật khách quan của nó.
Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh!
Câu nói này chẳng phải là một sáng tạo độc đáo mà chỉ đơn thuần là một nhận xét khách quan. Từ cổ chí kim, từ đông sang tây, nơi nào con người bị áp bức nơi đó họ phải đứng lên đòi quyền sống. Từ Spartacus đến Hoàng Sào, từ những đám “giặc châu chấu, giặc trâu trắng” xuất hiện ở đồng bằng Việt Nam nhiều thế kỉ trước đến các cuộc biểu tình của công nhân hầm mỏ ở Nam Mỹ thế kỉ XX, nơi nào và thời nào cũng có thể tìm được các bằng chứng của quy luật phổ biến.
Như thế, người cộng sản Việt Nam không thể tự cho họ độc chiếm quyền đấu tranh. Họ cũng không thể triệt tiêu khả năng tranh đấu của dân chúng một cách lâu dài bởi điều đó nằm bên ngoài khả năng của họ. Sự bắt bớ các nhà báo mới gần đây, cũng như vụ đẩy ba nhà sáng lập công đoàn Tự do về tỉnh Trà Vinh xét xử là các vết mụn mưng mủ mọc trên gương mặt kẻ cầm quyền Hà Nội, triệu chứng hiển nhiên của bệnh aids ở giai đoạn thứ ba.
SỢ HÃI!
Có nhiều định nghĩa về sự sợ hãi, nhưng chúng ta không liệt kê các định nghĩa mà chỉ phân tích một số triệu chứng lâm sàng của hiện tượng này.
Cảm thức sợ hãi nảy sinh khi con người nhận thấy cuộc sống của họ mất đi hoặc có nguy cơ mất đi sự an toàn, an toàn cho đời sống vật chất cũng như tình cảm.
Người ta sợ hãi khi giáp mặt cái chết, người ta sợ hãi khi có nguy cơ mất đi các tiện nghi, một chỗ làm béo bở, một ngôi nhà đẹp, một người tình. Người ta cũng sợ hãi trước nguy cơ bị phát giác các lỗi lầm và bị khinh bỉ: vụ án nổi tiếng ở Hà Nội nhiều năm trước đây là vụ án một phụ nữ ngoại tình dùng dao ăn đâm chết chồng khi anh này dò theo để bắt quả tang chị ta ngồi tình tự với tình nhân ở Hồ Tây. Con dao đem theo là để cắt bánh mì ăn, rút cục trở thành vũ khí sát nhân, do đó vụ án này được coi là án trọng điểm, được đưa vào các bài giảng luật pháp như điển hình về sự ngộ sát.
Sợ hãi là một cảm xúc thường hằng trong đời sống nhân loại, tuy nhiên cảm xúc ấy vô cùng phức tạp và trong phạm vi bài viết này, tôi không có tham vọng đề cập tới các khía cạnh khác nhau của nó. Vì khẳng định là động lực bắt bớ các nhà báo cũng như xử án nặng ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do của chính quyền Việt Nam là sự sợ hãi nên trong phần thứ hai của bài viết, tôi sẽ nêu lên một vài sự kiện có liên quan tới ý tưởng này.
Trước hết, có rất nhiều thứ sợ hãi.
Thứ sợ hãi đơn phương khi một đối tượng tuyệt đối mạnh, tuyệt đối ưu thế, có thể thực thi quyền lực trên đối phương một cách vô điều kiện. Thứ sợ hãi song phương xảy ra khi hai đối thủ ngang tài ngang sức lần đầu đọ găng trên võ đài, vì là lần đầu chưa ai hiểu biết ai nên sự sợ hãi được chia đều cho hai phía.
Theo luật tự nhiên, con người thường rơi vào tâm trạng khắc khoải hoặc hãi hùng khi đối diện với những gì nằm bên ngoài tầm hiểu biết của họ. Đây là thứ sợ hãi của con chuột khi rời khỏi hang, của con nai khi lạc rừng, của dân đô thị khi vào rừng sâu và ngược lại. Thứ sợ hãi nội tại, được coi như kết quả của quá trình tâm lý xảy ra trong một cá nhân, cũng có thể biểu hiện thành hành vi, cũng có khi âm ỉ như trạng thái ủ bệnh. Thứ sợ hãi này xác lập trên cuộc đấu tranh thầm kín, đối tượng thứ nhất là lương tâm, còn địch thủ của lương tâm là chính con người cùng các hành vi của anh ta. Các cụ xưa có câu
Chưa đánh được người mặt đỏ như gấc
Đánh được người rồi mặt vàng như nghệ
Cách ngôn đó diễn đạt một trạng thái của thứ sợ hãi này. Nhiều kẻ sát nhân cũng trải nghiệm thứ cảm xúc ấy, dù án mạng không bị lôi ra ánh sáng.
Vân vân và vân vân...
Chúng ta sẽ phân tích thứ sợ hãi đơn phương vì nó liên đới một cách chặt chẽ đến hiện trạng đất nước giờ đây.
Sự sợ hãi đơn phương có tính tập thể đã từng diễn ra nhiều lần trong lịch sử nhân loại.
Cuộc di dân xa xưa của người Do Thái khi vượt qua Biển Chết để đi tìm miền đất hứa đã xảy ra khi dân Do Thái bị đàn áp, bị tàn sát một cách đại trà, rơi vào ngõ cụt của sự sợ hãi và tuyệt vọng, rồi chính sự hãi hùng và tuyệt vọng này đã khiến họ đủ can đảm rời bỏ Ai Cập ra đi dù cuộc ra đi ấy phải đổi bằng những mất mát lớn lao cũng như phải chấp nhận muôn vàn nguy hiểm. Các cuộc tàn sát, săn đuổi phù thuỷ xảy ra ở châu Âu trước đây là ví dụ điển hình về sự sợ hãi đơn phương vì những nạn nhân không có cách phản ứng nào hơn là nhẫn nhục chịu đựng sự tra tấn của đám đông rồi sau cùng chết thiêu trên dàn lửa. Dưới chính quyền Stalin, hàng chục triệu người Nga bị đầy tới các trại tù ở Siberia cũng sống trong sự sợ hãi đơn phương trước mũi súng của chính quyền Xô viết. Sau năm 1975, hàng trăm nghìn binh sĩ miền Nam cũng như gia đình họ cũng có chung kinh nghiệm về sự sợ hãi này, bởi chính quyền Hà Nội lúc đó có sức mạnh tuyệt đối, hệt như sức mạnh của chính quyền Hitler những năm 1941, 1942, 1943, 1944 cho đến tận tháng 2 năm 1945.
Sự sợ hãi đơn phương xảy ra khi kẻ mạnh tự cho là Thượng đế, còn các nạn nhân bị tê liệt vì hãi hùng, nói cách khác họ bị tước đi toàn bộ vũ khí tuỳ thân, kể cả vũ khí tâm lý, nghĩa là niềm tin rằng mình vô tội, rằng mình có quyền sống.
Khi sự sợ hãi đơn phương đã thực thi một cách thành công quyền năng của nó trên một đám đông thì bao giờ nó cũng có một bạn đường, một trợ thủ đắc lực, ấy là một thứ tôn giáo để biện minh cho hành vi của kẻ mạnh đồng thời để nhào nặn các nạn nhân trong khiếp nhược. Thứ tôn giáo này có thể khoác áo, đội mũ của vua chúa Ai Cập cổ, có thể hiện hình dưới lý thuyết thanh trừng của Giáo hội châu Âu, có thể mang hình hài “người hùng” với dòng máu xanh của Hitler, có thể thổi toe toe kèn đồng biểu dương “niềm kiêu ngạo cộng sản” của đám cầm quyền da vàng mũi tẹt Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Tóm lại, không có sự sợ hãi tập thể nào thiếu yếu tố thần bí, một trạng thái “nhập đồng” cho cả hai phía, theo nghĩa tiêu cực của ngôn từ. Kẻ sắm vai Thượng đế, trong cơn nhập đồng thật sự tưởng mình là Thượng đế toàn năng. Đám nạn nhân, trong cơn nhập đồng, mất hoàn toàn lý trí và dũng khí, bị đẩy vào trạng thái trầm uất, không còn tìm được các phản ứng cần thiết để tự bảo vệ mình. Giống như kẻ say, hoặc họ không đứng lên nổi, hoặc họ loạng choạng bước trên đường vì không nhìn rõ lối đi.
Tình trạng này sẽ kéo dài trong một khoảng thời gian nào đó, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, cho đến lúc cơn nhập đồng chấm dứt, kẻ sắm vai Thượng đế chợt nhận ra họ thôi là Thượng đế, các nạn nhân ra khỏi cơn trầm uất, mở to cặp mắt để nhìn kẻ thống trị mình, chợt nhận ra rằng đó cũng chỉ là một con vật đi bằng hai chân sau, và cũng như họ, có đầy khả năng khiếp nhược. Thời khắc đó, người ta đặt tên là thoát nhập đồng. Thời khắc đó, sự sợ hãi được chuyển đổi vị trí, và căn cứ vào một số trường hợp đã xảy ra trong lịch sử, sự chuyển đổi này xảy ra như một nhu cầu tự nhiên để lấy lại thế cân bằng.
Ra khỏi cuộc chiến tranh, tôi may mắn hơn nhiều người khác vì đã thoát nhập đồng khá sớm.
Sự kiện có tính quyết định xảy ra vào mùa thu năm 1975. Trên các ngả đường từ Sài Gòn trở ra Quảng Bình, đặc biệt trên vùng đất Quảng Trị, tôi chứng kiến cảnh những người lính bị khám xét, lục soát, hạch sách, nhục mạ hệt như các nô lệ tại các khu vực được mệnh danh là “trạm kiểm soát quân nhân”. Ở các trạm này, lính phải tháo cởi ba lô, lục lọi hành lý để trình bày trước đám nhân viên kiểm soát.
Nhà nước ra lệnh cho mỗi người trong bọn họ chỉ được phép mang về miền Bắc một chiếc khung xe đạp, một con poupée nhựa, hai chiếc rổ rá nhựa và một chiếc chảo nhôm. Họ không được phép mang thêm các thứ hàng hoá khác bởi điều ấy sẽ là bằng chứng xác thực ca ngợi “chủ nghĩa phồn vinh giả tạo của chính quyền miền Nam”, và như thế, một cách tố cáo hiển nhiên sự nghèo khổ lầm than ngự trị bấy lâu nay trên đất Bắc.
Quan sát cảnh tượng ấy, tôi có hai cảm xúc trái chiều. Cảm xúc thứ nhất là nỗi xót xa. Nỗi xót xa đối với người thân. Tại sao lại là người thân? Điều này có vẻ khó tin với những người chỉ sống trong cảnh thanh bình nhưng hoàn toàn dễ hiểu với tất cả những ai đã trải qua cuộc chiến tranh chống Mỹ. Quảng Bình là yết hầu của đường dây 559, trong suốt những năm chiến tranh lính qua lại các binh trạm không ngưng nghỉ. Tôi luôn có dịp gần gũi, trò chuyện với các “đồng hương trẻ tuổi”, mối liên kết giữa chúng tôi nằm trong tình đoàn kết cổ truyền của người dân Việt, thứ tình cảm đã làm nên sức mạnh của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
Những năm ấy, trước thế thượng phong của Mỹ trong một cuộc đối đầu không cân sức, trước tất thảy những mất mát kinh hoàng và sự gian khổ vô cùng tận, người ta phải thương nhau thực, yêu nhau thực, chia cơm xẻ áo thực mới sống nổi, người ta không thể lừa đảo lẫn nhau và đểu giả như bây giờ. Vì tình đồng loại thấm thía ấy, cái hiện thực phũ phàng xẩy ra mùa thu năm 1975 là một cú đấm nổ đom đóm mắt đối với tôi. Hoặc mắt tôi tối sầm vì phẫn uất, hoặc cái hiện thực kia không thể nuốt trôi.
Trước mặt tôi, những người lính từng được ngợi ca suốt các năm dài là các anh hùng vượt Trường Sơn, những con người đáng yêu đầy dũng khí đó trong phút chốc trở thành những kẻ thảm hại, khiếp nhược. Họ gãi đầu gãi tai xin xỏ đám nhân viên kiểm soát khi họ muốn mang thêm một con poupée bé tẻo tèo teo để làm quà cho cháu, hoặc chiếc rổ nhựa thứ ba để cho người chị ruột.
Nhìn những gương mặt khổ sở của họ, giọng nằn nì cầu khẩn của họ, tôi có cảm giác như máu đông lại giữa tim. Tôi biết rằng con người có thể bị phản bội một cách dễ dàng, và sự phản bội có thể đến ngay vào lúc người ta không ngờ tới. Chính quyền này đã phản bội lại nhân dân quá sớm, vì âm ba của tiếng súng chưa dứt hẳn bao lâu. Cơn say chiến thắng khiến họ tự cho phép mình làm tất cả mọi điều mà không tính đếm đến hậu quả của các hành vi đó.
Tôi cũng hiểu rằng các khái niệm như đạo đức, lương tâm, tinh thần vị tha không thể là bạn đồng hành với kẻ nắm quyền, nhất là khi quyền lực ấy đặt trên cơ sở độc đảng.
Trước đó vài tuần, khi đang còn ở Sài Gòn, do các mối quen biết mà tôi chứng kiến tận mắt các quan ông, quan bà dùng từng đoàn xe tải của nhà nước để chở hàng riêng về Hà Nội cho gia đình họ. Nào giường tủ, salon, tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ, quạt máy, radio, loa thùng nghe nhạc, vải vóc quần áo và cho đến cả bát, đĩa, li tách... Cơn khát triền miên của những kẻ thiếu thốn tiện nghi trong chế độ Xã hội chủ nghĩa được thoả mãn thả phanh.
Không ai trách cứ họ vì điều ấy. Con người có quyền được sống sung sướng và mọi sáng tạo của nhân loại cũng chỉ nhằm mục đích làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Điều đáng hổ thẹn là nếu họ tự cho phép mình thụ hưởng ê hề mọi tiện nghi, hà cớ gì họ ngăn cấm người lính, hạn mức cho họ ở một chiếc khung xe đạp và một con poupée ?
Ở đây, tính độc ác và sự đạo đức giả tự lột áo cùng một lần. Cái thể chế ra rả tuyên bố nhân nghĩa, ong ỏng ngợi ca sự công bằng bình đẳng té ra là một xã hội phân chia đẳng cấp khốc liệt và trắng trợn hơn bất kì thể chế nào khác.
Cuộc kháng chiến chống Pháp cũng như chiến thắng ngày 30/04/75 chẳng rơi từ trên trời xuống mà đó là các đài tưởng niệm xây trên xương cốt của lính và của dân. Tính kiêu mạn và sự độc ác của chính quyền cộng sản ngày ấy đã khởi dậy trong tim tôi cảm xúc thứ hai: sự khinh bỉ và lòng căm uất. Thứ tình cảm này, một khi đã nảy nở sẽ không ngừng phát triển theo chiều rộng cũng như theo bề sâu. Lẽ đương nhiên, con đường chống độc tài, đòi dân chủ đối với tôi là một hành trình logic.
Từ khi các ý tưởng trên nảy sinh cho đến lúc thực thụ bắt tay vào hành động đòi hỏi một quãng thời gian chuẩn bị khá dài. Tôi không sinh ra để làm nghề lật đổ, cũng không biết bắn súng hoặc sử dụng một vũ khí nào khác. Tôi không được đào tạo để có kiến thức về quân sự cũng như về chính trị. Tóm lại, tôi là kẻ vô năng khi dấn thân vào con đường đấu tranh. Tuy nhiên, tôi hiểu rằng nhà nước Việt Nam là nhà nước cảnh sát và sức mạnh của nó là chính ở đây, đúng theo định nghĩa của Lenin: chính quyền tựa trên nòng súng.
Vậy thì, để chống lại thể chế độc tài, đòi dân chủ, không có cách nào chuẩn xác hơn là đánh vào trụ cột của nó, tay chân của nó, bầy chó berger hung dữ của nó: công an.
Sách lược của tôi là: Muốn chống lại kẻ thù tốt hơn cả là học hỏi chính kẻ thù ấy.
Một con lươn bị ném vào giỏ cua ắt sẽ bị lũ cua kẹp nát. Muốn vào giỏ cua thì phải có hai cái càng cua. Do đó, văn chương đối với tôi trở nên trò chơi thứ yếu, tôi chú tâm vào học hỏi một nghề mới: nghề công an. Nghề dò la. Nghề thám tử. Nghề chó săn, nếu muốn gọi một cách khinh bỉ, cái nghề mà ông Vũ Ngọc Nhạ đã làm xưa kia trong chính quyền Diệm, giờ tôi làm trong xã hội miền Bắc, cái xã hội mà tôi biết chắc chắn rằng ông Vũ Ngọc Nhạ đã kịp nhận ra chân tướng của nó, sự tàn ác, lũng nhạm, bội bạc, ti tiện hiển nhiên của nó và ông đã mang theo một khối hận trong câm lặng cho đến lúc xuống mồ.
Trong Bộ Nội vụ, tổng cục quan trọng nhất là Tổng cục I, chính danh là Tổng cục Chống gián điệp, do đó, mục tiêu của tôi là ở đây.
Thời gian ấy, tướng Dương Thông đang giữ chức tổng cục trưởng. Tướng Dương Thông, biệt danh là “hung thần của chế độ”, người đã trấn áp hết sức thành công vụ Nhân văn giai phẩm, cũng như vụ Xét lại chống Đảng, đã đặt hàng loạt văn nghệ sĩ vào mạng lưới chỉ điểm, buộc những kẻ vốn được gọi là nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, hoạ sĩ... hành nghề chó săn cho chế độ với các mức trợ cấp thường niên, thường quý hoặc các loại quà bánh, bổng lộc, tuỳ theo “thành tích chó săn”.
Vì tầm quan trọng của nhân vật này, tôi đã phải chuẩn bị khá lâu và chỉ nhờ sự giúp đỡ tận tình của một số anh em mới có thể dò tìm được vài nét đáng chú ý trong lý lịch quan lớn. Sự may mắn đã xảy ra khi việt kiều Bùi Duy Tâm tìm cách gặp tôi qua đạo diễn Trần Văn Thuỷ năm 1990.
Tôi biết rằng đây là cơ hội vàng để tìm ra sự thật. Đầu năm 1991, khi ông Bùi Duy Tâm quay lại Hà Nội, tôi chấp nhận đi chơi sông Đà cùng anh em Bùi Duy Tâm, Bùi Duy Tuấn.
duongthong.jpg
Phó Tổng Cục trưởng Bộ Công an Dương Trọng Thông (Nguồn: wikipedia)
Nhờ cuộc hành trình ngắn ngủi này, tôi đã thu được cuốn băng mà trong đó, Bùi Duy Tâm khẳng định rằng hai lần ông ta bị bắt và cả hai lần tướng Dương Thông can thiệp để trả lại tự do cho ông ta là vì ông ta đã trả Dương Thông rất nhiều tiền: “Đó chẳng phải quà cho không”. Rằng, mối quan hệ của ông ta với Dương Thông đã phát triển tốt đẹp và điều kiện thuận lợi này cho phép ông ta tiếp xúc nhiều lần với Bộ tổng tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam, với đích danh đại tướng Nguyễn Thị Định, nhằm bàn với các nhà lãnh đạo tối cao ở Hà Nội về việc bán kho vũ khí Long Thành, việc bán dầu thô, việc khai khoáng...
Chuyến đi sông Đà kết thúc, tôi vừa kịp chuyển cuốn băng này ra nước ngoài thì bị bắt, tháng 4 năm 1991. Như mọi người đã biết, tội danh của tôi được hệ thống truyền thông của nhà nước tuyên bố là “tuyên truyền chống lại nhà nước Xã hội chủ nghĩa, ăn cắp tài sản quốc gia bán cho ngoại bang. Làm gián điệp cho ngoại bang”.
Với sự can thiệp của tổ chức nhân quyền quốc tế, đặc biệt là sự can thiệp của chính phủ Mitterrand, họ đã thả tôi ra sau gần tám tháng giam giữ, hành động vội vã đến mức không kịp làm bản tống đạt.
Sau đó, ông bộ trưởng Bùi Thiện Ngộ cử người đến nói rằng “Theo luật, nhà văn Dương Thu Hương có quyền khiếu kiện nhà nước, nhưng việc này chắc chắn sẽ bất lợi cho cả hai bên. Vậy, bộ trưởng đề nghị dàn xếp một cuộc thanh toán giữa nhà văn Dương Thu Hương với tướng Dương Thông, hy vọng điều kiện này có thể mang lại kết quả tốt đẹp”.
Tốt đẹp? Tôi nghi ngờ danh từ mĩ miều đó. Nhưng tôi cần cuộc thanh toán với tướng Dương Thông, tôi cần đối mặt với “hung thần chế độ”, tôi muốn khạc nhổ vào thứ đại diện của sự tham lam và thói đạo đức giả, vào con berger điển hình của đảng cộng sản Việt Nam. Tôi chấp nhận.
Cuộc gặp giữa quan lớn Dương Thông và tôi đã xảy ra tại căn phòng nhỏ giáp cổng vào 15 Trần Bình Trọng. Đương nhiên, tôi ghi âm và Bộ nội vụ cũng ghi âm. Đương nhiên, các đồng nghiệp của ông Dương Thông sẽ được nghe rõ ràng những lời tôi nói (bởi chắc chắn tôi đã nói rất to, nói theo kiểu chửi giữa hàng tổng, còn ngược lại, ông tướng công an lại cất tiếng nhẹ nhàng, nhẹ nhàng và run rẩy).
buidt.jpg
Bùi Duy Tâm (Nguồn: ykhoasaigon.com)
Tôi nói rằng “Sau rốt, tôi biết ông cũng chỉ là một con đĩ, một kẻ bán mình. Nhưng trên đời có nhiều loại đĩ, thảm hại cho ông, ông là loại đĩ đứng vỉa hè, loại ngả thân dưới hàng rào công viên hoặc ven cống. Bán mình cho Bùi Duy Tâm, chứng tỏ ông thuộc loại điếm năm xu”.
Mặt hung thần chế độ thâm đen, cặp môi ông ta run lật bật. Khoảnh khắc ấy, tên đao phủ sợ hãi. Khi sợ hãi, y cũng thảng thốt, nhớn nhác, thất thần như những kẻ bị tra tấn trong nhà tù.
Tôi nhìn bộ mặt nhem nhuốc sần sùi của Dương Thông và nghĩ “Mày đã từng đẩy biết bao nhiêu người vào nhà tù, đã bầy ra trăm mưu ngàn kế để sát hại tha nhân, và bây giờ tới lượt mày run như cầy sấy. Phải chăng suốt đời mày chỉ là một con chó berger và đến lúc này đây, chỉ khi bị lột mặt nạ, chỉ khi bị đẩy vào chân tường, mày mới bắt đầu thấm thía nỗi thống khổ?”
Người thay thế tướng Dương Thông lãnh đạo tổng cục I là Bùi Quốc Huy tức Năm Huy, trước đây từng nhiều năm làm trưởng ty công an tỉnh Kiên Giang. Một trong các thành tích nổi bật của ông ta khi ở địa phương là bắt được băng cướp Bạch Hải Đường, băng cướp này vốn lộng hành nhiều năm dưới chính quyền Diệm và Thiệu.
Ông Bùi Quốc Huy được lệnh của ông Bùi Thiện Ngộ gặp tôi để thoả thuận về cuộc thanh toán với tướng Dương Thông. Cuộc gặp này có sự hiện diện của đại tá Nguyễn Công Nhuận, quyền cục trưởng cục 24, tính danh là Cục điều tra xét hỏi. Ông Nguyễn Công Nhuận là người kí lệnh bắt tôi tháng 4 năm 1991, đồng thời là trưởng nhóm hỏi cung trong suốt thời gian tôi ở tù.
Tại cuộc gặp gỡ tay ba này, tôi chơi ngửa bài với hai quan chức bộ nội vụ. Tôi nói: “Trong cuộc đấu tranh đòi dân chủ, tôi biết rõ rằng chúng tôi là trứng còn các ông là đá. Tuy nhiên, một khi đã dấn thân, tôi phải tính toán sao cho cái chết của tôi được bù trả một cách xứng đáng. Từ nhỏ tôi đã thích câu ca này:
Trạng chết chúa cũng băng hà
Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn.
Vì lý do ấy, tôi đã quyết tâm học hỏi nghề nghiệp của các ông. Nếu các ông theo rõi tôi, tôi cũng theo rõi lại các ông. Nói cụ thể, tôi biết ông giao du với những ai trong hội Quý Mùi (Hội những người cùng sinh năm 1943 như ông Bùi Quốc Huy), tôi biết các ông kiếm thú vui ở nơi chốn nào (ổ điếm nào và nhậu nhẹt hành lạc ra sao) và tôi biết giá tiền mỗi chai rượu các ông uống. Về đám lãnh đạo các ông, những thái thượng hoàng đẻ ra cái chế độ này, tôi có các cuốn băng ghi lại những bằng chứng về các sự kiện chính trị ngầm ẩn cũng như các bí mật liên quan đến đời tư của họ, nói cách khác là những tấn tuồng diễn ra nơi hậu cung chưa ai hay biết. Tôi đã thực hiện các cuốn băng này vài năm trước đây, và đã gửi chúng ra ngoài biên giới. Tiện thể, tôi cũng công bố luôn các địa điểm cất giữ tài liệu: Mỹ, Pháp, Tiệp. Liệu các ông có đủ tài năng và tiền bạc để lục tung ba quốc gia ấy lên không? Tôi tin chắc là không.
Các ông mạnh đối với dân chúng trong nước, các ông bất lực ngay khi bước qua biên giới. Sứ quán của các ông lúc nhúc bọn buôn đi bán lại, chen chúc nhau kiếm tiền, đi hết chợ trời này sang chợ đen kia để nhặt xu, ngoài món lộc thường xuyên là bòn mót bóc lột đám công nhân xuất khẩu.
Thế nên, tôi hoàn toàn tin rằng ở các xứ khác, các ông là bọn người bất khả, các ông không thể làm những gì bọn KGB Nga đã làm trước đây ba bốn thập kỉ. Bức tường Berlin đổ sụp rồi. Ở đây, các ông có toàn quyền, các ông có thể tổ chức lần thứ ba, thứ tư, thứ năm tai nạn xe cộ để kẹp chết tôi, điều đó chẳng khó khăn với các ông, cũng chẳng lạ lùng với chính tôi. Thế nên, tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để một khi tôi ngã xuống thì các tài liệu kia được bật mí, và điều đó người ta thường gọi là sự trả đũa. Cuộc chiến tranh nào cũng phải có vũ khí bí mật, đó là một trong các mưu chước tồn tại từ xửa từ xưa. Để chống lại các ông, tôi buộc phải học chính nghề của các ông. Vũ khí bí mật của tôi lấy được chính từ nghề nghiệp ấy”.
Tướng Bùi Quốc Huy không trả lời mà lảng sang chuyện khác.
Phải chăng, nhờ cuộc chơi ngửa bài này mà tôi được toàn thân? Vẻ như điều đó là hợp lý.
Cuộc nói chuyện trên xảy ra cuối năm 1991.
Mười năm sau, ông Năm Huy ra trình toà, được ưu tiên “mang thường phục”. Lần đầu tiên, người dân Việt Nam được biết một cách chính thức đại diện quyền lực nhà nước câu kết với lũ tội phạm để tham nhũng và để sự tham nhũng trôi lọt, ra tay tàn sát chính các đồng nghiệp của mình.
Do học mót được nghề “thám tử” từ trước đó khá lâu, tôi biết rằng quá trình mafia hoá là không thể tránh đối với bộ máy cầm quyền Hà Nội.
Tiện thể, cũng xin công bố rằng mới chỉ có một Năm Huy bị lộ, nhưng còn nhiều Năm Huy khác đang ẩn mình trong bóng tối. Và bóng tối đang tụ trên bầu trời Hà Nội khá dầy. Hãy nhớ lại vụ xử án đại uý công an Nguyễn Xuân Trường, một mắt xích trong đường dây buôn ma tuý xuyên quốc gia cũng như vụ thủ tiêu người lính canh gác ông ta là hiểu được một phần sự thật.
Bây giờ, đến nhân vật thứ ba, người thay thế ông Bùi Quốc Huy lãnh đạo Tổng cục I, trung tướng, thứ trưởng, đại biểu quốc hội Nguyễn Văn Hưởng tức Trần.
Cũng như ông Năm Huy, Nguyễn Văn Hưởng tức Trần vốn là sĩ quan công an Quảng Ninh, do thành tích nghề nghiệp được điều lên Bộ công tác. So với ông Dương Thông và ông Năm Huy thì đây là người kẻng trai nhất, có cặp mắt hết sức “Ất Dậu”, đúng như tuổi của ông ta.
Vào những năm xảy ra nạn Thuyền nhân, Bộ Nội vụ đã gài ít nhất là hàng trăm điệp viên vào làn sóng di tản. Các điệp viên này sinh cơ lập nghiệp tại Mỹ từ ngày ấy. Đa phần các bà đều lấy chồng Mỹ, trong những dịp “về thăm quê” họ phải báo cáo tin tức với ông tổng cục trưởng này.
Một trong các địa điểm ông Trần ưa sử dụng là nhà hàng “Cây sấu” nằm trên đường Bà Triệu, dãy bên phải, cách Trụ sở Việt kiều không xa. Nhà hàng này thuộc sở hữu của bác sĩ Thanh, đại uý quân đội, vợ đô đốc hải quân Khánh. Do công lao của đô đốc Khánh mà nhà nước chia cho họ ngôi nhà này. Để làm một hàng ăn bình thường thì “Cây sấu” thiếu các điều kiện không gian cần thiết, nhưng để làm nơi các cặp nhân tình tình tự một cách vụng lén thì đây là địa điểm tuyệt vời, vì có rất nhiều phòng riêng.
Ông Nguyễn Văn Hưởng chọn nơi này để nhận tin tức của các điệp viên là hợp lý: Họ vừa có thể nhậu nhẹt, vừa có thể làm việc một cách kín đáo. Khép cánh cửa lại, quán ăn biến ngay thành phòng riêng.
Vì các vị tổng cục trưởng tổng cục I được coi là rường cột quan trọng nhất của Bộ Nội vụ, nòng súng cho chính quyền tì vào nên tôi cố gắng chọn ở mỗi ông tướng một khía cạnh tiêu biểu, trước hết để trình bày tính đa dạng, khả năng phát triển nhân cách một cách phong phú của đám quan lớn cộng sản, sau nữa để người đọc đỡ nhàm chán vì phải chứng kiến mãi một nội dung.
Dẫu rằng, nhìn trên tổng thể, các ông tổng cục trưởng đều có các đặc tính chung của bọn hung thần chế độ, của đám người ngất nghểu trên đỉnh cao quyền lực, tự coi mình là Thượng đế, nhưng họ vẫn có các đặc điểm riêng, khá dễ dàng phân biệt.
Nếu như ông Dương Thông được coi như biểu tượng của sự tham nhũng và thói đạo đức giả, ông Năm Huy như một Bố trẻ mafia thì ông trung tướng Nguyễn Văn Hưởng có dáng dấp hào hoa hơn, ông ta có vẻ như một trai chơi (play boy) chính cống. Đó là đặc tính của Ất Dậu (Gà trống) hay cá tính riêng của ông nghị Trần? Ông tổng cục trưởng này có một đội ngũ gái bao, mà cô gái bao già nhất, kém mã nhất là Hồ Thu Hồng, sinh năm 1960, tuổi con Chuột.
Hồ Thu Hồng tuy là gái bao, nhưng lại có thẻ nhà báo, tờ báo cô ta đang điều hành là Thể Thao TpHCM. Như thế, cô Hồng là thứ gái bao có chữ, cao cấp hơn các chị em khác một cái đầu nên tuy kém mã nhất trong bọn cô vẫn được trai chơi sủng ái.
Cậy mình có chữ, cô Hồ Thu Hồng mở cả một site internet để chửi bới những người đấu tranh cho dân chủ và trước hết, để ca ngợi ông Nguyễn Văn Hưởng là “Người đàn ông tài cao, học rộng”, người đã “yêu chiều cung phụng hết lòng” mỹ nhân. Nỗi hân hoan cũng như sự tận tuỵ với người tình của cô Hồng là dễ hiểu.
Trước đây, khi còn là vợ nhà văn Trần Nhật Tuấn, cô ta chỉ là một phóng viên báo tầm thường, không đến nỗi túng thiếu nhưng cũng chưa bao giờ dư dả. Từ khi trở thành gái bao của ông Trần, cuộc đời cô Hồng đổi thay như có phép mầu, cô ta xây nhà lầu cho mình, xây nhà lầu cho bố mẹ và những người thân khác, cô ta mua hết lô đất này sang dãy nhà kia để cho thuê, rồi gửi các con sang Mỹ học... Niềm hạnh phúc lớn lao đó khiến cô ta không thể ngậm miệng, và hễ có cơ hội là phải rống lên vì sung sướng.
Nếu đọc lại các bài báo cô Hồng từng viết, ta dễ dàng nhận ra điều đó. Tiêu biểu là bài viết về cảm xúc trên vùng đất nung lửa Quảng Trị Đông Hà. Khi tới miền đất này, nhà báo Hồ Thu Hồng chứng kiến nỗi khổ sở của đám dân xung quanh trong thứ khí hậu khắc nghiệt, lại tận hưởng cảm giác mát lạnh của chiếc xe hơi sang trọng mà người tình mua cho, cô ta không thể nén lòng mà phải rên lên hừ hừ vì khoái cảm. Khi cơn khoái cảm lắng dịu, cô Hồng tiếp tục thốt lời tri ân nồng nhiệt với “chàng tài cao học rộng” Nguyễn Văn Hưởng tức Trần. Đọc bài báo này, tôi không khỏi mỉm cười vì liên tưởng đến hình ảnh một con gà mái đang chịu trống, con trống thì im lặng cong lưng, dướn cổ trong cơn khoái lạc, còn con mái lại kêu quang quác để khắp bốn bề rào dậu làng xóm cùng nghe.
Ở đây, cần phải nói rõ rằng tôi không thành kiến với nghề gái bao. Gái điếm và gái bao là những nghề cổ lỗ nhất trong lịch sử nhân loại. Đừng đóng vai đạo đức giả thì phải xác nhận rằng ở đâu có cầu, ở đó có cung. Nghề gái điếm cũng như gái bao tồn tại trong mọi thời đại và mọi nơi chốn vì thời nào và ở đâu cũng có những người đàn ông không đủ điều kiện thành lập gia đình, hoặc có gia đình nhưng bất hạnh với vợ, hoặc vợ họ không đủ sức giải phóng cái dung lượng nhục dục tồn tại trong cơ thể họ như một hoả diệm sơn. Vân vân... Tóm lại, tôi không quan tâm đến nghề gái bao, nhưng tôi quan tâm đến tiền bao gái.
Bởi ở đây, kẻ trả tiền là một bậc lương đống triều đình, kẻ có đầy đủ quyền năng và mánh khoé để rót các thứ quỹ quốc gia sang tài khoản đám mèo cái thoả mãn phần dưới rốn của y. Hồ Thu Hồng sinh năm 1960, đằng trước lắp hai túi bọt biển, đằng sau mông độn silicon, mắt một mí đi mỹ viện cắt thành hai mí, nói đích xác cô ta chưa bao giờ là một mỹ nhân, vậy mà còn được hưởng sự “yêu chiều cung phụng” thả phanh như chính cô ta thú nhận.
Vậy còn các cô khác, các em trẻ trung hơn, xinh đẹp hơn? Các em sinh năm 1970, 1973 và nhất là 1975, da thịt nõn nường hơn, xôi oản đều là của thật chứ không phải đồ giả, mắt hai mí long lanh do cha sinh mẻ đẻ chứ không nhờ dao kéo thẩm mỹ viện can thiệp vào, những em ấy ắt phải được “yêu chiều cung phụng trăm lần hơn”, bởi theo nghề chơi, thuyền nổi khi nước nổi. Để sòng phẳng với luật chơi, để không hổ mặt đấng mày râu, ắt trai chơi Nguyễn Văn Hưởng phải làm đầy hầu bao đám mỹ nhân.
Tiền ấy moi từ đâu ra? Phải chăng lương trung tướng cộng với lương ông nghị đủ trang trải tất thảy các chi phí, đủ xây hàng loạt nhà lầu cho đám mèo và bố mẹ họ, đủ mua hàng loạt ô-tô deluxe cho các cô nương? Trong các bạn đọc liệu có ai hành nghề kế toán hay không? Nếu có, xin nhờ các vị làm giúp bài toán. Môn toán, là môn điểm kém nhất trong học bạ của tôi, từ cấp một đến cấp ba.
Phần trên, tôi giới thiệu ba gương mặt quyền lực của Bộ Nội vụ để bạn đọc hiểu rõ vì sao các quan chức công an càng ngày càng biến thành bọn tội phạm, bọn trộm cướp, đúng như câu ca của các cụ xưa
Con ơi, mẹ bảo con này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan
Tuy nhiên, tôi không có ý nói rằng toàn thể các sĩ quan công an đều là bọn mafia, đều là quân cướp. Bởi, nói như vậy là vu khống, là hàm hồ. Nói điêu thì trước hết, kẻ nói phải chịu hình phạt theo luật nhân quả. Trong đám công an, không thiếu những người trung thực, theo ngôn ngữ bình dân, người tử tế. Chỉ có điều họ đã trở thành thiểu số và họ gần như vô năng. Đó là những gì tôi trải nghiệm.
Năm 1991, nhà nước cộng sản bắt tôi. Người kí lệnh là đại tá Nguyễn Công Nhuận. Thời gian tôi ở tù cũng chính ông Nhuận điều hành nhóm ba người hỏi cung. Thời gian này được chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn hỏi cung và giai đoạn xin cung.
Hỏi cung là việc thông thường đối với các tù chính trị. Mục tiêu nhằm tìm xem tôi liên lạc với ai, ai là kẻ chỉ huy tôi, ai là kẻ gây ảnh hưởng với tôi thậm chí khống chế tôi.
Điều này dễ hiểu.
Những người đàn ông Việt Nam, công an cũng như không công an, trong sâu thẳm tâm hồn, họ khinh bỉ đàn bà, họ coi đàn bà là bọn đầu óc nông nổi, chỉ hành động vì ngu ngốc và bị xui khiến. Công an, cái nghề của bạo lực, thứ định kiến này càng mãnh liệt hơn. Thế nên, các cuộc hỏi cung nhiều khi dẫn đến tay bo. Nói cụ thể là có lần, tôi chồm lên với ý định thoi vào giữa mặt ông đại tá này.
Tuy nhiên, giai đoạn hỏi cung thực sự kéo dài không quá lâu bởi sau rốt, dẫu đặt cả nghìn lần một câu hỏi thì họ cũng chỉ được nghe câu trả lời duy nhất của tôi là “Tôi là kẻ chủ tâm đòi dân chủ và tôi sẽ chống chính quyền cộng sản cho đến phút cuối cùng. Chính tôi rủ rê, tuyên truyền người khác đi theo tôi, tôi dạy họ căm thù và khinh bỉ đảng bởi đa phần những người lớn tuổi hơn tôi đã gắn bó với chính quyền này trong những năm kháng chiến chống Pháp nên họ không nỡ hoặc chưa nỡ dứt tình. Tôi không có mảy may chút tình nào với bọn cầm quyền, tôi chủ tâm tiêu diệt họ”. Như thế, chẳng còn lý do gì để nhai mãi một thứ bã trầu đã hết nước. Vả chăng, qua mấy tháng ròng rã, ông đại tá Nguyễn Công Nhuận đã hiểu tôi là ai, và vì thế, ông ta bèn chuyển sang giai đoạn xin cung.
Xin cung? Vì sao lại xin cung? Nghe có vẻ huyênh hoang khoác lác. Thực chất, tôi chưa tìm được danh từ nào tương hợp hơn. Tôi sẽ lý giải điều này ngay bây giờ.
Ngày họ bắt tôi, ông Mai Chí Thọ đang còn là bộ trưởng, nhưng khi tôi đang ở trong tù thì ông này mất chức và ông Bùi Thiện Ngộ lên thay.
Mai Chí Thọ hồi trẻ là trương tuần, đánh chết dân sợ Tây bỏ tù nên trốn đi làm cách mạng. Được anh là Lê Đức Thọ nâng đỡ nên nhẩy về nắm bộ nội vụ. Vốn không có nghiệp vụ, lại hống hách nên ông ta bị các sĩ quan công an các cấp vụ, cục vừa khinh bỉ vừa căm tức. Đã thế, Mai Chí Thọ ngang nhiên bổ nhiệm Lê Tẩu, lái xe riêng của ông ta lên vị trí Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần.
Lê Tẩu là ai, về mặt chính danh, y là lái xe riêng của Mai Chí Thọ. Trên thực tế, y là kẻ tay chân tâm phúc, kẻ chuyên đưa ông ta đi săn, đi nhậu và dẫn gái về cho “thủ trưởng xài”. Tổng cục Hậu cần là tổng cục “quyền sinh quyền sát” trong lòng bộ nội vụ, chẳng những nó nắm các nguồn tài chính quan trọng liên quan đến nghề “cảnh sát” mà nó còn nắm hạ tầng cơ sở, mà khâu thiết thực nhất đối với đời sống các quan chức là nhà đất.
Từ các khu tập thể đắt tiền dành cho các sĩ quan cao cấp cho đến các khu cao tầng ít tiện nghi hơn dành cho sĩ quan cấp thấp đều nằm trong tay Lê Tẩu, một mình y có quyền phân phối. Vốn là tên lưu manh, vô học, bỗng chốc nhẩy lên đầu lên cổ mọi người, Lê Tẩu thực thi quyền lực dưới hai áp lực tâm lý: thói tàn ác của một thằng chánh tổng và mặc cảm của kẻ hèn hạ, ngu dốt mới được đổi đời.
Vì lẽ đó, ai nịnh nọt y, ai chịu cúi luồn đút lót y đều được phân phối các căn hộ đắt tiền, tại các khu sang trọng. Ngược lại, kẻ nào khiến y ngứa mắt, dù dày công hãn mã, dù hiển nhiên được ưu đãi theo chính sách cũng đều bị hất cẳng ra ngoài. Tóm lại, Lê Tẩu hành xử bất lề luật, ngang ngược đến mức đám sĩ quan trong bộ phẫn nộ đâm đơn khiếu kiện, đó cũng là một trong các nguyên nhân buộc Mai Chí Thọ rời võ đài.
Trong thời gian lãnh đạo tổng cục hậu cần, ngoài việc chèn ép các sĩ quan trong bộ, những người mà y biết rằng kiến thức văn hoá cũng như chuyên môn vượt hơn y năm bẩy cái đầu, Lê Tẩu còn lợi dụng chức quyền để chiếm đoạt công quỹ, chuyển thành các biệt thự và các lô đất của riêng y, bất động sản của y rải rác từ Sài Gòn cho tới Vũng Tàu không kể các cơ sở sẵn có tại Hà Nội.
Quá trình “bốc vàng” không thể thực hành một cách nhanh chóng nếu không có đội ngũ chân tay của y, bọn tội phạm được tuyển chọn và trả công hậu hĩ. Tài sản của Lê Tẩu không chỉ rút từ ngân quỹ quốc gia mà còn rút từ máu những người dân thường, những người dám cưỡng lại sự chiếm đoạt và các nhà báo theo rõi y.
Tôi cho rằng hiện tượng Lê Tẩu là hiện tượng đậm đà bản sắc chế độ cộng sản, nơi mà quyền lực được thực thi theo cách “bố thí”, bất kể lề luật hay sự thẹn thùng. Một tên lưu manh vô học chỉ nhờ công hầu hạ chủ nhân, chỉ nhờ thành tích tu tạo được mảnh vườn nuôi hổ, nuôi trăn và nuôi cá sấu cho quan thầy Mai Chí Thọ đã được trả công bằng một chức vụ có thể khuynh loát biết bao nhiêu người tài năng hơn, tất nhiên, những người cũng còn thực lòng tận tuỵ với chế độ hơn. Vì lẽ đó, khi Mai Chí Thọ ngã ngựa, đám sĩ quan cao cấp bộ nội vụ khao khát trả thù, họ muốn tìm chứng cớ để đưa Lê Tẩu ra toà, muốn thằng lưu manh từng nhục mạ họ phải ngồi bóc lịch trong nhà giam.
Đại tá Nguyễn Công Nhuận là một trong số các sĩ quan ấy. Biết tiếng Anh và tiếng Pháp, là người trực tiếp hỏi cung các phi công Mỹ trong chiến tranh, ông đại tá này được liệt vào loại trí thức dày công hãn mã trong Bộ Nội vụ. Bị một thằng ma cô thất học, viết tiếng Việt chưa chỉnh, nửa câu tiếng Tây bồi cũng không biết, ngồi trên đầu trên cổ hà hiếp mình nên ông ta “nuôi một khối căm hờn” trong dạ.
Vì lẽ đó, suốt mấy tháng ròng, ông Nhuận tìm cách thuyết phục tôi cho ông ta các chứng cớ để có thể buộc Lê Tẩu ra trước vành móng ngựa. Tôi dùng từ xin cung ở đây vì lẽ ấy.
Theo sự nhận định của tôi, ông Nguyễn Công Nhuận cũng như một số đồng liêu của ông ta là điển hình của giới công chức: trung thực nhưng bảo thủ, họ tin đinh ninh rằng phục vụ một lý tưởng tốt đẹp và chúi mũi vào làm việc theo các sơ đồ cho sẵn. Họ thiếu sự linh hoạt cũng như thiếu óc quan sát, họ không biết rằng thế giới đã đổi thay, rằng trong đám thượng cấp, hạ cấp và đồng cấp của mình biết bao kẻ đã thối rữa, đã biến hình, đã trở thành tội phạm. Khi họ mở được mắt ra nhìn sự vật thì đã muộn màng.
Thế nên, dù là những người có nghiệp vụ điều tra xét hỏi, mà họ chẳng có nổi một manh mún chứng cớ trong tay. Họ đã đánh mất cơ hội, họ quá chậm chân. Dù thành thục trong nghề, dù tài ba lỗi lạc mà lỡ thời cơ thì cũng bại. Cổ nhân dạy “Thời gian là vàng, cơ hội là kim cương” chẳng sai một ly.
Tôi nhìn thấy tóc ông đại tá bạc đi từng ngày trong cuộc đấu tranh vô vọng. Dù động cơ hành động của ông Nhuận là chính đáng, và trong lòng có sự đồng cảm nhưng tôi cũng không thể cho cung ông ta. Bởi tôi biết một cách đích xác rằng, ông Nhuận cũng như các sĩ quan cùng phe nhóm không đủ mạnh để chống lại băng mafia Mai Chí Thọ và Lê Tẩu. Vì không đủ mạnh, họ sẽ không thể bảo vệ được các nhân chứng. Nếu tôi mềm lòng mà cung cấp tin tức cho ông Nguyễn Công Nhuận, lũ tội phạm sẽ thủ tiêu họ như chúng đã từng thủ tiêu nhiều người khác trước kia.
Sau rốt, điều tôi có thể làm được là chấp nhận gặp Mai Chí Thọ. Trong cuộc gặp ấy, ông Nguyễn Công Nhuận ngồi im để nghe tôi sỉ nhục thượng cấp, kẻ thù của mình. Tôi có đủ chứng cớ, tôi có thừa lòng khinh bỉ, tôi lại không thiếu lời lẽ để khạc nhổ lên bộ mặt của tên sát nhân này. Ông đại tá hẳn rửa được một phần nỗi uất hận. Với tôi, đó là trò giải trí nhẹ nhàng. Nói theo giọng người dân Quảng Bình là “không mất gì của bọ mà lại được lòng lối xóm, bọ mần ngay!”
Nhìn toàn cục, trong chế độ cộng sản, sự thối rữa nhân cách của các quan chức là không thể tránh. Một khi đã trở thành quân ăn cắp, ăn cướp, kẻ truỵ lạc, tên sát nhân, ắt đám người này phải ra khỏi cơn nhập đồng. Họ biết rõ họ là ai. Thực hành quyền lực của Thượng đế trong khi biết rõ bản thân là con vật bẩn thỉu, họ phải sống một cách phân thân. Phức cảm của sự phân thân thường dẫn đến hai trạng thái:
- Sự cường điệu, sự khoa trương, sự lên gân khi đeo mặt nạ trước dân chúng.
- Sự sợ hãi một cách thầm kín, và cùng với sự sợ hãi này, các toan tính cho tương lai.
Năm 1989, tại đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ V diễn ra tại nhà quốc hội Ba Đình, ông Dương Thông lên diễn đàn, tay giơ lên chém xuống, giọng oang oang hùng hổ, không nói mà hét để đe nẹt công chúng: “Có rất nhiều văn nghệ sĩ nhận tiền của bọn phản động nước ngoài. Rồi an ninh sẽ làm việc với họ”.
Ông Dương Thông không hiểu rằng những lời hù doạ một cách thậm xưng lẫn thái độ khoa trương của ông ta ngay lúc ấy đã khiến tôi ngờ vực. Nỗi ngờ vực ấy mau chóng biến thành xác tín dưới ảnh hưởng của linh cảm. Do đó, tôi quyết định thực hành cuộc ghi âm với việt kiều Bùi Duy Tâm. Bà ngoại tôi dạy tôi câu này “Gái đĩ thì già mồm”. Tôi tin lời dạy của bà tôi và nhờ thế, tôi đã tìm ra bộ mặt thật của Dương Thông.

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen