Freitag, 20. November 2015

Việt Tân, chiếc bóng dài 30 năm.



( Bài viết này được viết lại sau khi có những stt trao đổi trong một nhóm kín  về  hoạt động công tác Nhân quyền , liên quan đến tổ chức chính trị Việt tân . Xét thấy  cần cho  sự tìm hiểu của nhiều anh chị em đang hoạt động  cho nhân quyền  trong và ngoài nước , tôi hiệu chỉnh lại từ các  bình luận của tôi và chuyển lên trang fB công khai . Vừa là một sự chia sẻ thông tin , vừa là để tránh những ngộ nhận rằng tôi lôi kéo một số anh chị em  vào group riêng để … đánh phá VT ! VT là một tổ chức chính trị có tham vọng giải phóng /chuyển đổi đất nước . Trong vị trí ấy , đương nhiên  phải chịu những  sự nghị luận của công chúng .Gọi sự nghị luận ấy là hành vi đánh phá, ít nhiều , đã  là việc tự  hạ thấp đi nhân cách chính mình ).


Tổng quan .

Việt Tân ! Anh là ai ?
Việt Tân là một tổ chức chính trị lớn tại hải ngoai, nhiều nhân sự và nhiều tài lực do truyền thừa vốn liếng của tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam  giai đoạn 1982/1986 . Thành lập tại căn cứ UBON , một tỉnh biên giới giữa Thái lan và Cam Bốt năm 1982 . Danh xưng đảng Việt Tân từ 12/1982 chỉ lưu hành trong các căn cứ phục quốc ở biên giới Thái , mãi 1984 mới ra hải ngoai (Pháp) qua một nhân lực  tình nguyện xâm nhập nội địa để khai mở con đường  kết nối hải ngoại  quốc nội . Nhân lực đặc biệt ấy  là thuyền nhân  đến Pháp từ trại tỵ nạn Palawan Phi luật tân mang bí danh Cao Văn , ông phải lộn trở lại Pháp vì  bản thân  là thương phế binh  sĩ quan VNCH , chiếc chân gỗ  của ông đã không được  đón nhận tại rừng núi Ubon . Ông đã có mặt tại vùng núi rừng chiến khu ấy cùng  vơí  đoàn người đặc biệt được dẫn đầu bởi cụ Phạm Ngọc Lũy , chủ tịch Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến . Trở lại Pháp , ông chịu trách nhiệm  một ủy ban đặc biệt bí mật của tổ chức , Ủy Ban Ðông Tiến âu châu .

Danh xưng đảng Việt tân  đến 1992 mới tràn lan hải ngoai sau khi đồng hóa toàn bộ tất cả các đoàn viên Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất  Giải Phóng Việt Nam thành đảng viên Việt tân không qua nghi thức tuyên thệ lại .

Năm1984  tháng 10 xảy ra những  xung đột trầm trọng ở thượng tầng lãnh đạo . Nguyên do xung đột đến từ nguyên nhân tài chánh là chủ yếu . Ðồng bào hải ngoại giai đoạn 1982/1984 góp qũy  đông đảo . Các chiến dịch Yểm Trợ Kháng Chiến lan cực nhanh tại Tây âu và Mỹ Úc . Người chủ xướng Phong Trào Yểm Trợ Kháng Chiến là ông Phạm Ngọc Lũy , thuyền trưởng tàu Trường Xuân .Con Tàu ông điều khiển thoát khỏi Việt nam  ở những giờ phút cực kỳ sóng gió tháng Tư 1975 .Nhiều ngàn người chen chúc trên con tàu định mệnh ấy ,sáu năm sau  trở thành những nhân tố đầu tiên để xây dựng nên cơ cấu Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến  loang khắp các quốc gia  có người Việt sinh sống ,do đích thân chính cụ Phạm Ngọc Lũy  chống gậy đi vận động . Các Ủy ban yểm trợ mọc lên như nấm  . Việc này nằm ngoài cả trù liệu của ông Hoàng Cơ Minh và ban tham mưu . Chúng ta nhận rõ được sự lúng túng choáng ngợp của lãnh đạp Việt Tân lúc bấy giờ qua buổi đón tiếp ông Minh về Hoa Kỳ từ Thái /Nhật  tháng 4 năm 1983 . Sự tiếp đón diễn ra  như một thứ Hội Nghị Diên Hồng hải ngoại với hội trường đặc nghẹt từ trong ra ngoài khoảng 10 ngàn người về từ khắp các quốc gia , với tiếng  cười  tiếng khóc , với hân hoan và khát vọng  cùng  tâm thức hiến dâng  . Ông Minh đã mất bình tĩnh trong không khí này và đã buột miệng trong một phát ngôn ở phần diễn văn (do ông  Nguyễn xuân Nghĩa viết , nhưng ông Minh đã chỉ đọc chừng 60% , những phần trăm còn lại là phát ngôn tự do ) rằng lực lượng xâm nhập của Mặt Trận /VT đã VÀO ÐƯỢC ÐẤT MẸ VÀ BẮT TAY THỐNG HỢP ÐƯỢC 36 TỔ CHỨC TRONG NƯỚC VỚI HƠN 10 .000 TAY SÚNG . Ðây là câu phát ngôn đã đánh sập sự  vững chãi của MTQGTNGPVN hai năm sau đó .

Ðồng bào nô nức góp tài lực qua các chiến dịch "Ký gạo cho Kháng Chiến Quân " (Âu châu , do Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam  phát ý qua sự điều hợp của các ông Nguyễn Ngọc Giáp , Nguyễn Ngọc Danh ,Nguyên Hoài Thanh , Nguyễn Ngọc Vũ , Bs Vũ  Ngọc Hoàng ( cựu thiếu tướng VNCH) ... trong vai trò Ủy Ban Ðiều Hợp Phong Trào Yểm Trợ  Kháng Chiến Âu châu. Việt tân có tầm hoạt động lớn ở Âu châu lúc bấy giờ là do lực hỗ trợ ban đầu của Tổng Hội Sinh Viên VN tại Paris, dùng tờ Nhân Bản làm tờ báo hỗ trợ . Nhưng tới sau 1984 thì tổ chức Tổng Hội phân làm hai , phần đông là chống lại Việt Tân kịch liệt  vì đã nhìn thấy những sự bất tường bất minh của Việt Tân , đặc biệt là sau khi vụ án  ông Trần văn Bá ( tô chưc của Ôg Lê quôc Túy ) tháng 12. 1984 xảy ra tại Việt nam (anh Trần văn Bá , lãnh đạo Tổng Hội Sinh Viên Paris 1975/1980 cùng ông Hồ Thái Bạch và ông Lê quốc  Quân  bị xử tử hình ngày 6 tháng 1. 1985 tại sân bắn Thủ Ðức).

 Ở Mỹ ,các tổ chức yểm trợ hình thành khắp mọi nơi . Những tiệm phở Hòa ban đầu (dựng lên do tiền mượn học  đại học của đông đảo đoàn viên là sinh viên ) được chiếu cố tận tình . Người ta sẵn sàng đứng hàng giờ chờ ăn phở . Nhiều hàng phở khách vào tận bếp mang phở ra bàn ăn rồi tự trả tiền , bao giờ cũng hơn số tiền bát phở đã ăn . Phong trào như hoa nở thơm ngan ngát ! Lòng ai cũng hừng hực nghĩ về lực lượng phục quốc . Các chiến dịch "Lon Kháng Chiến" được đặt hầu như khắp mọi nhà . Không khí đưa đẩy hầu như ai ai cũng đặt "lon kháng chiến " tại gia đình  và tại các cửa tiệm , vừa là để chứng minh tấm lòng với đất nước , vừa là để tránh lập dị . Các chi bộ Mặt Trận và Phong Trào Yểm Trợ phát triển rộng khắp , áo nâu như một thứ mode của người Việt ở Mỹ . Những tờ báo nào chống lại Việt tân đều dẫn đến bị đốt hoặc thảm tử ( Ký giả độc lập Ðạm Phong hoặc như ký giả Lê Triết của tờ Tiền Phong phải lom khom đi mò giun trong lúc tuổi còn đầy sung mãn và kiêu mạn...) . Ðoàn viên Mặt Trận  lý luận và tổ chức yếu nhưng rất đông đảo , dẫn đến sự tan rã ngay tức khắc , khi xảy ra lủng củng ở thượng tầng  giai đoạn cuối 1984.


Diễn biến  chi tiết .

Đảng Việt Tân thành lập  khoảng tháng 12 năm 1982 nhưng  người đứng đầu hải ngoai  của  Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất không nắm vững chi tiết hoạt động ! Các  hoạt động kháng chiến được loan báo trên tờ báo Kháng Chiến ở hải ngoại hầu hết chỉ là thông báo cho Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoai  là ông Phạm Văn Liễu/ Trần Trung Sơn  biết  khi  đã đăng tin trên mặt báo. Mọi  chi tiết  mật về chi thu tài chánh , xây dựng lực lượng khu chiến… đều  nằm trong vòng  quản lý bảo mật của ông Hoàng cơ Minh và ông Hoàng Cơ Định , em ruột ông Minh . Người đứng đầu Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến  là cụ Phạm Ngọc Lũy cũng không  biết được những chi thu của qũy ,vì các qũy ngay từ khi hình thành đã được khuyến khích làm việc trực tiếp với  Vụ Tài Chánh của tổ chức Mặt Trận /Việt Tân do ông Phan vụ Quang (một bí danh của ông Hoàng Cơ Định ) điều hành. Yếu tố  xây dựng  cơ cấu nhân sự ban đầu dựa trên lòng tin đã dần bị nhìn nhận là đang có sự đánh tráo !  Vực thẳm tan vỡ xuất hiện .

Cơ cấu ban đầu .

Năm 1980/81 , màu đỏ cộng sản loang  mạnh mẽ ở Cam Bốt , đe doạ cả những đồng minh chiến lược của Mỹ  . Ngân sách  phòng chống làn sóng đỏ của khối phòng thủ Asian tăng vọt . Làn sóng vượt biên gây khiếp hãi cho toàn bộ các quốc gia đông nam á . Mỹ quyết định  phải  tìm biện pháp ngăn chặn bằng  các giải pháp vũ lực .Các  đơn vị quân đội «gọi lạ tinh nhuệ»  của Thái lan được bổ xung dọc biên giới  Việt Miên Lào . Những tổ chưc kháng cộng của người Việt đươc âm thầm giúp đỡ qua trung gian Thái và Nhật . Những toán đi tắt vào thẳng Thái đều bị tan vỡ hoặc  dậm chân tại chỗ (Lực lượng  Ông Võ đại Tôn , lực lượng ông Thái Quang Trung…) lý do vì  hầu hết các tướng lãnh Thái  hoặc những nhân lực trung gian  nói tiếng Thái  Việt … đều nhận ân sủng lớn của  an ninh cộng sản VN .

Năm 1981 đảng cầm quyền Nhật  nhúng tay vào  cuộc . Giáo sư Tonoka , đảng Tự do Nhật nhận nhiệm vụ  thuyết phục  và xây dựng một tổ chức chống cộng chuyên nghiệp người Việt tại biên giới Thái nhằm mục đích xâm nhập VN  . Lực lượng sinh viên VN ở Nhật đươc tiếp xúc  qua những nhân lực có liên hệ với  phong trào Đông Du / Cường Đễ còn sót lại từ 1930 .  Tập hợp đầu tiên  do  ông Đỗ Thông Minh lãnh đạo , phụ tá đắc lực là  Hoàng Nhật /Ngô Chí Dũng  với những tình nguyện  viên  quyết tử như Lâm Bích Sơn , Lâm Thao , Phùng tấn Hiệp , Nguyễn Hải Quốc Phục ,Trương Bổn Tài , Huỳnh Lương Thiện , Đẩu , Hưng … Khoảng 20 người tình nguyện  rời Nhật  để tìm đất  lập chiến khu  trên đất Thái . Truyền thống làm việc của tướng lĩnh quân đội Thái là chỉ nói chuyện  với tướng ( hoặc cựu tướng) quân đội , từ chối nói chuyện với người đại diện nhóm lúc bấy giờ là cựu trung tá hải quân VNCH  Trần văn Sơn/ Trần Bình Nam (bút danh cho tới hiện nay , cựu lãnh dạo tổ chức Phục Hưng , cựu dân biểu VNCH) . Việc tìm mướn đất nơi các tỉnh biên giới bế tắc . Giáo sư Tonoka cùng ông Đỗ Thông Minh (đại diện Tổ chức Người  Việt Tự Do  tại Nhật ) cùng sang Mỹ và Âu châu để tìm nhân lực cấp tướng  của VNCH về Thái lập căn cứ phục quốc. Tại âu châu , ông Lâm Bích Sơn  và đại diện nhóm vận động có gặp Tổng hội Sinh Viên Paris (thời anh Thanh  , tác giả ca khúc  Bên kia Sông Đuống  ) làm chủ tịch . Ở Mỹ, nhóm vận động nhắm vào tổ chức Lực Lượng Quân Dân Hải Ngoai Phục Quốc  (đồng phục  áo nâu quần vàng kaki , là đồng phục truyền thống của MT/VT cho tơí 2000 , mất hẳn sau khi cuộc tình duyên lỡ làng  giữa  Tổng vụ Phó Tổng Vụ Hải Ngoai Trần Xuân Ninh với Vụ trưởng Vụ Tổ chức Hoàng Cơ Định xảy ra 2004).

Lực lượng Quân Dân Hải Ngoại sau cuộc vận động của giáo sư Tonoka đã chia ra làm hai .  Thủ lĩnh là  tướng Nguyễn Chánh Thi  không hợp tác . Người được mời thứ hai là tướng Ngô quang Trưởng  và người thứ ba là tướng ….Nguyễn Cao  Kỳ  . Cả ba đều không hưởng ứng . Chuẩn tướng (phó đề đốc ) Hoàng cơ Minh đã tình nguyện ,  có sự đồng tình sát cánh của Trung Tá Lê Hồng  (Nhảy Dù , chỉ huy tiểu đoàn 5 ) và sự hỗ trợ đắc  lực của cựu đại tá Biệt Đông Quân / Cảnh sát Quốc Gia Phạm văn Liễu , cựu đại tá  Học viện Cảnh sát Quốc Gia Trần Minh Công cùng thuyền trưởng tàu Trường Xuân Phạm Ngọc Lũy .Nhân sự  ban đầu được  công nhiên xác định :

A : Hoàng Cơ Minh đặc trách thành lập Chiến Khu tại Thái lan, tức tiền phương , mục đích xâm nhập móc nối vơí các nhóm kháng cự trong nội địa Việt nam .
B : Phạm Văn Liễu đặc trách địa bàn hải ngoại , trách vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoai . Nhiệm vụ xây dựng  đoàn viên cán bộ khắp  các quốc gia có ngươì Việt nam sinh sống để hỗ trợ trực tiếp các công tác xâm nhập của bộ phận  chiến khu , vận dụng  mọi quan hệ nơi các nước sở tại  để hình thành mặt trận quốc tế  vận , cô lập cộng sản VN về mặt ngoai giao , đồng thời vận dụng  sự đồng  lòng của các chính đảng  có khuynh hướng chống cộng trên thế giới vào mục tiêu lật đổ chế đổ chế độ cộng sản tại VN  bằng TẤT CẢ MỌI HÌNH THỨC .
C : Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đặc trách Vận động Yểm Trợ Tiếp vận .
( Các Ông  Cao thế Dung , Trần Minh Công  giữ vai trò cố vấn  và Phát ngôn ).

Cuối năm 1981 ông Hoàng Cơ Minh  , ông Lê Hồng (Trung tá Nhảy Dù ) , ông Nguyễn Kim Hườn (Không quân thiếu tá ) , ông Trương Tấn Lạc (Nguyễn Lộc ) , ông Trần Thiện Khải (Trung úy Hải quân ), ông Trương Ngọc Ny (Ðại úy Nhảy Dù ) , ông Huỳnh Trọng / Bùi đức Trọng ( Hải quân,Thụy sĩ )… đáp máy bay sang Tokyo khởi đầu chuyến di hành bất định về cố hương  đầy lãng mạn và không ít  sự …liêu trai . Với tôi ,đây là những người hùng , không thua kém gì ông Võ đại Tôn . Những con người kiệt hiệt này  nay không còn ai ngoài  một Nguyễn văn Lộc  ẩn cư đâu đó và  nghe đâu ông Huỳnh Trọng / Bùi đức Trọng đã nhắm mắt  với rất nhiều buồn phiền ở Thuy Sĩ , sau chuyến trở ra hải ngoai 1983  và ở luôn  lại Thụy Sĩ làm người mai danh ẩn tích !

Tình hình ban đầu như vậy là quá đẹp.  Khối tình ấy sẽ  đẹp hơn nhiều nếu như không có sự xuất hiện đăc biệt của ông Hoàng cơ Định , một chuyên gia thương mại tốt nghiệp tại Pháp , mà như ông Trần đức Tường , Xứ bộ trưởng Pháp quyền  lãnh đạo Âu châu ,  tháng 12/ 1984 từng nói trước mặt chúng tôi : « Là cái yết hầu ung thư  trên cơ thể  tổ chức » !



Chia lìa lần thứ nhất .

Ông Trần Văn Sơn (Trần Bình Nam) đại diện  tổ chức Phục Hưng đã lặng lẽ rời khỏi  mô hình tập hợp ban đầu  dưới tên Mặt Trận Quốc Gia  Thống Nhất Giải Phóng VN gồm :
  1. Tổ chức  Người Việt Tự Do (Nhật ).
  2. Tổ chức Phục Hưng ( Hoa Kỳ ).
  3.  Tổ chức  Dân Quân Việt Nam Hải Ngoai (Hoa Kỳ ,một phần ) .
Năm 1982 ,tại Thái Lan , sau khi  Mặt Trận mướn được khu rừng UBON  làm căn cứ ,  ông Trần văn Sơn có cảm giác  bị loại ra khỏi nhóm đầu lãnh MTQGTNGPVN , mặc dù ông là người sát cánh với anh em Tổ chức Người Việt tại Nhật  ngay từ những  nỗ lực đầu tiên . Sự nhẫn nhịn của ông đã vượt giới hạn và tổ chức do ông lãnh đạo chọn thái độ  rời tập hơp , không lên tiếng  thanh minh thanh nga bất kỳ một lời nào vơí công luận . Với tôi , đây là thái độ  đáng kính phục . Mãi đến khi  sự lộn xộn của tổ chức Việt Tân  đã  gây  hỗn loạn  môi trường hải ngoai giai đoạn 1992, tổ chức Phục Hưng mới lên tiếng xác nhận đã rời  mô hình Mặt Trận / Việt Tân từ 1982 .

Tiền bạc ban đầu để chi phí cho chiến khu đến từ một nguồn qũy có tên là qũy MIA . Chính phủ Mỹ có yêu cầu phải tìm kiếm những người Mỹ mất tích  (còn sống hay đã chết  tại Ðông nam á) qũy này chi  cho Việt Tân những ngân khoản chủ yếu ban đầu . Mặt khác , đảng Tự do của Nhật cũng giúp nhiều phần . Phần còn lại là sự đóng góp của đồng  bào  và đoàn viên  (lúc bấy giờ ,trước 4/1982 nguồn kinh phí này  chưa dồi dào) .
Một số người Mỹ đã  cố vấn để Việt  Tân  làm cuốn băng video “đường về khu chiến” . Cuốn phim của đài SBS thực hiện có sự vỗ tay  phụ họa kèm theo của  loạt bài nhiều kỳ đăng trên Văn Nghệ Tiền Phong do  ký giả Hoàng Xuyên (Hoàng xuân  Yến)  thực hiện. Sau này (khoảng  2000) Ông Yến  có một bài trả lời phòng vấn tố cáo  MT/VT nặng nề . Với tôi , những tình tiết ông nêu ra  trong bài phỏng vấn ,sau khi đối chiếu kiểm chứng với những tiết lộ của những  ngươì sống sót trong đoàn quân phục quốc  lúc bấy giờ ,tôi nhận thấy là bản thân ông Yến không  biết được nhiều ,nên những chi tiết nhận định nhiều phần là đã chỉ là do luận đoán . Thứ hai , thơì điểm cần ông lên tiếng đã trôi qua  rất lâu … nên sự lên tiếng của ông Yến , chỉ còn có một nửa giá trị về những  tình tiết  lúc diễn ra hoạt cảnh làm cuộn phim .Giá trị nhân chứng vì thế gần như không  còn hiện hữu .

Cuốn phim ấy  có nhiều tình tiết không thực, lực lượng có mặt trong cuốn phim  đếphân nửa là lực lượng người Lào  kháng chiến H’Mong của tướng HMong Vàng Pao. Phim làm tại rừng  Ubon/ Thái lan nhưng được thổi khống là nội địa Việt nam . Ðây là  đoạn phim ghi hình  Lễ Công Bố Cương Lĩnh Chính Trị của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt nam, thời gian ghi hình là  tháng 3 năm 1982 ( 8.3.1982 ).

Những thước phim ( dài 4 phút ) với sự  trình chiếu của CBS Hoa Kỳ đã được nhân bản  rất nhiều và ghép với video  Ðại Hội  Ðồng Tâm 30/4 /1983 tại  California   qui tụ gần 10 ngàn người đón  ộng Minh  về từ chiến khu … làm thành tài liệu  tuyên vận gây thành hiệu ứng náo  nức  mong muốn yểm trợ  của hầu hết  đồng bào thuyền nhân  tỵ nạn cộng sản đang ở những năm đầu lưu vong . Hiện nay , VT  hầu như không muốn nhắc  về cuộn phim ấy nữa , nếu không muốn nói là phủ nhận để cố gắng chứng minh lòng chân thành của mình về  chủ trương  “Tuyệt đối tiến hành đấu tranh bất bạo động để … chuyển hóa đất nước “ .



Tan tác 2 .

Suốt từ những tháng 7 đến tháng 11/ 1984 là sự sóng  gió bão bùng  cho tổ chức Mặt Trận VT.

Ông  Phạm Văn Liễu quyền Tổng vụ Trưởng  Tổng vụ hải ngoai yêu cầu phải minh bạch về thu chi của Mặt Trận/Việt tân,  đây là yêu cầu hợp lý vì  ông là ngươì trực tiếp chịu trách nhiệm với đồng bào hải ngoại về   những khoản tiền đóng góp to lớn mà đồng bào đã  nhiệt thành yểm trợ , nhưng ông Hoàng Cơ Định , vụ tài chánh  không đáp ứng  !

Ông Trần Minh Công (đại tá  VNCH) Phát ngôn nhân MT/VT tuyên bố nếu không minh bạch , tổ chức có  nguy cơ chia hai .

Ông Hoàng cơ Minh  thành lập ra cơ cấu Hội Đồng Kháng Chiến Toàn Quốc . Một Hội Đồng gây bất ngờ hoàn toàn cho cánh ông Liễu . Hội đồng ấy ông Minh là chủ tịch  và phong ông  Lê Hồng thành  Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Quốc Nội ( thực chất là quốc nội … chưa hề có ). Như vậy ,  hợp đồng nhân sự ban đầu đã bị vỡ . Ông Phạm văn Liễu ,ông  Phạm Ngọc Lũy đương nhiên … “sụt hạng  quyền bính” , xuống đứng ngang hàng với  ông Lê Hồng, sẽ bắt buộc phải ngước lên để nhìn ông Minh  những khi muốn nói chuyện !

Bác sĩ Vũ Chương là người duy nhất được ra vào chiến khu từ Hoa Kỳ , làm con thoi để hòa giải . Yêu cầu của cánh ông Phạm văn Liễu là những yêu cầu  xét ra rất hợp lý , vì  dù không nắm chi tiết chuyện tiền bạc , nhưng các Uỷ ban Yểm Trợ  trên toàn thế giới báo sơ lược  cũng đủ thấy là sức yểm trợ tài chánh khó tưởng tượng nổi . Đồng tiền ấy thay vì trực tiếp  lo mục tiêu xâm nhập thì lại  phát triển  thành rất nhiều các tiệm ăn mang tên  chuỗi  kinh doanh Phở Hòa , các gara và thậm chí cả bất động sản .( Những vụ án  của Mặt trận VT với các ông Cao Thế Dung và Nguyễn xuân Nghĩa giai đoạn 1985 đã là những  tư liệu  vững chắc  để xác định sự  lường định  về lượng  tiền qũy của cánh ông Cao Thế Dung , Phạm văn Liễu , Phạm Ngọc Lũy là hoàn toàn có cơ sở . Số tiền  công khai công bố tại tòa đã trên 20 triệu , trong  khi  tiền nhập qũy đến 70% là tiền qũy đen không qua qui trình khai báo sở thuế …)

Ông Minh nhất định  giữ em mình ở vai trò điều phối tiền bạc và đồng ý sự im lặng  bất hợp tác vơí  Tổng Vụ Tưởng Phạm Văn Liễu của ông Hoàng cơ Định . Tháng 12/1984  mọi sự hòa giải  đều thất bại , ông Minh từ Nhật  về Mỹ , công bố quyết định cách chức  ông  Phạm văn Liễu , đưa ông  cựu thiếu tá phi công Nguyễn Kim Hườn từ khu chiến  Ubon về Mỹ nhận vai trò Tổng vụ Trưởng dưới sự dìu dắt của ông Ðồng Sơn Nguyễn Xuân Nghĩa (chuyên gia kinh tế  xuất thân từ  Tổng Hội Sinh Viên Paris , từng bỏ Pháp về nước giúp  cho Bộ Kinh Tế  VNCH  dưới quyền ông  Nguyễn văn Hảo).Tổ chức MT/VT tan rã lần hai , kéo theo 2/3 nhân lực lặn vào  im lặng  trường kỳ.

Nhiều nước mắt của các đoàn viên  đã ngỡ ngàng  lăn trên các đôi gò má nhăn nheo ,chưa phai màu nắng gió biển mặn .Tôi là một trong những người
ấy .Thay vì tan hàng , đã cố gắng bám lực lượng chiến khu và tình nguyện xâm nhập VN mở đường  liên lạc nội địa . Quan điểm của tôi lúc bấy giờ là anh em đang chiến đấu luôn là ưu tiên quan trọng nhất . Phải tập trung  hết lực cho các anh ấy .
Tôi đã sai lầm , trở thành một nhân tố đắc lực  tiếp diễn  tấn tuồng lường gạt của tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất /VT .



Sang ngang 3.

Bắt đầu giai đoạn  tháng 1 năm 1985 , sự xuất hiện  của ông Ðồng Sơn /Nguyễn xuân Nghĩa (Vụ Trưởng Vụ Tuyên vận , nay là  bình luận gia  về Kinh tế  trên Ngươì Viêt TV) trở thành thường xuyên  trên khắp các cuộc vận động của Mặt Trận /Việt Tân ở hải ngoại. Ở Mỹ cơ sở MT/VT  gần như tê liệt , tờ báo Kháng Chiến  ông Huỳnh Lương Thiện  không còn giữ nhiệm vụ chủ biên . Các anh chị em thuộc tổ chức Người Việt Tự Do rời bỏ Việt Tân hầu hết . Ông Ðỗ thông Minh  giữ im lặng gần như hoàn toàn . Ông Huỳnh Lương Thiện đi lập trang báo độc lập khác . Nhân vậy  tương đối đình đám của tổ chức Người Việt Tự Do  tại Nhật còn  sót lại là  ông Bùi Bằng Ðoàn/Lý Thái Hùng ,gắn bó mật thiết với ông Phan Vụ Quang/Hoàng Cơ Ðịnh (fB Dinh Hoang )  trong mô hình  bếp kiềng hai chân . Ông Phạm văn Liễu  và Trần Minh Công thành lập tổ chức mới . Ông Cao Thế Dung bắt tay  vơí  các ông Nguyễn hữu Chánh , Nguyễn văn Chức  ở biên thùy đông dương . Ông Ðồng Sơn Nguyễn Xuân Nghĩa và ông Trần xuân Ninh tập trung ổn  cố tối đa địa bàn  Âu châu  qua  vị trí chiến lược là cơ sở Pháp . Cơ sở Pháp  là đầu tầu của Âu châu đã diễn ra một phiên bầu phiếu “bất tín nhiệm Hoàng Cơ Minh hay không ! ”  vào đầu năm 1985 . Số phiếu được bầu  gồm các trưởng cơ sở cấp Xứ  , (Hàlan , Ðan mạch , Nauy ,Bỉ , Pháp , Ý . ) Nếu chỉ dựa trên số phiếu của các cấp  trưởng  của các Xứ , thì đương nhiên ông Minh bị loại  vì Hà lan là cơ sở cực thân với cụ Phạm Ngọc Lũy, cơ sở Ý đại Lợi  luôn sát cánh với ông Phạm văn Liễu. Cơ sở Nauy trưởng cơ sở có quan hệ thân thiết với ông Phạm văn Liễu từ Philuật tân lúc mới chân ướt chân ráo  từ thuyền lên bờ làm người thuyền nhân bạt xứ .Cơ sở Pháp ông Trần đức Tường nắm , là người rất khéo  câu thời vận, gió chiều nào ngả chiều nấy . Ông Nguyễn Kim và ông  Nguyễn Xuân Nghĩa đã đưa đẩy đến kết luận là thành viên ban chấp hành cấp Khu  (tức trách nhiệm ban chấp hành MT/VT  Âu châu ) cũng có quyền bỏ phiếu ! Thế tương quan thành nghiêng ngửa vì   lớp trí thức  đều có quan hệ từ thời sinh viên với ông Nguyễn  Xuân Nghĩa như  ông Lê Triệu Ðào , Nguyễn Ngọc Danh , Nguyễn Ngọc Bảo … vốn đang giữ một số trọng trách của Ban chấp Hành Khu Bộ âu châu  sẽ đương nhiên đi theo tinh thần ông Nguyễn xuân Nghĩa, nghĩa là ủng hộ ông Hoàng cơ Minh , loại trừ ông Phạm văn Liễu  . Phiên bầu trở thành nảy lửa dẫn đến suýt ẩu đả  nhau  trong phòng  bầu. Phòng bầu phiếu  văng tục lan ra cả bên ngoài cơ sở bí mật của tổ chức trụ đóng ở Antony, ngoai ô nam Paris . Kết quả là  chỉ chênh nhau một phiếu . Ông Hoàng cơ Minh  không bị “bất tín nhiêm”  như đại đa phần các khu , xứ bộ tại Hoa Kỳ  ! Cơ sở Âu châu sau đó lập tức  có sự tách rời  của Xứ bộ Ý đại Lợi . Xứ bộ Ý đại Lợi đem hết  quan hệ  ngoại  vận của mình xây dựng  cho Lực Lượng Biên Thùy Ðông Dương qua trung gian ông cao Thế Dung  và sau này là Nguyễn hữu Chánh . Xứ bộ Hàlan  đóng băng , duy nhất còn hai đoàn viên là Ðinh Hiền và Ðặng Thành. Xứ bộ  Ðức cũng chia hai . Phong trào Yểm trợ Kháng chiến toàn âu châu khựng lại như cỗ xe lửa vỡ buồng than . Bắt đầu kéo theo sự lao dốc , phá sản niềm tin của cộng đồng  người Việt hải ngoai . Không còn bất kỳ Tổ Tiếp Vận  hay Ủy Ban Yểm Trợ nào còn hoạt động !

Từ đây , Mặt Trận / Việt Tân  chỉ còn là chống chỏi để tự sinh tồn. Mục tiêu  đấu tranh giải phóng được coi như vô phương hiện hữu , có chăng , chỉ là tự  đánh lừa nhau , cố giữ  cho nhau khỏi qụy ngã.

Trong hoàn cản rối bời ấy , mới thấy  tài cán của Nguyễn Xuân Nghĩa . Ông có cái đầu cực giỏi và  một ý chí rất lỳ đòn . Trước bao nhiêu thách thức , ông đã vực dậy các cơ sở từ Âu châu bật ngược lại Mỹ . Ròng rã suốt bốn năm , ông đã định hình lại tổ chức Việt Tân đứng vững lại sau cơn  phong ba bão táp , dù rằng , số đoàn viên đã mất đến hai phần ba trên toàn thế giới.

Nhưng đúng như ông Trần đức Tường đã nói : “Hoàng cơ Ðịnh là một cái yết hầu ung thư của cơ thể tổ chức”. Dù bản thân  ông Trần đức Tường đã  quay mặt với  “kẻ nâng đỡ “ mình là ông Phạm Văn Liễu, nhận những ân sủng của ông Hoàng cơ Ðịnh để giữ được vai trò lãnh đạo Âu châu , Ủy viên Trung Ương đảng với đồng lương yên ấm ,câu nói ở “buổi giao thơì “ của ông  vẫn nguyên giá trị . Ông Hoàng cơ Ðịnh có thể mua bán được ông Trần đức Tường hay ông  Nguyễn Kim Hườn …chứ không  cách gì có thể mua bán được ông Nguyễn xuân Nghĩa  hay ông Nguyễn Trường Lưu.
Cuối năm 1988 Tổng Vụ Hải Ngoại MT QGTNGPVN / Việt Tân xuất hiện một vụ mới , đó là Vụ Kế Hoạch .Người nắm Vụ Kế Hoạch là ông Nguyễn xuân Nghĩa và đương nhiên người bổ nhiệm là ông Nguyễn kim Hườn /Tổng vụ Trưởng  .  Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt . Ông Kim Hườn  không bao giờ đủ khả năng để điều hành Tổng vụ nếu không có quân sư  là  Ðồng Sơn Nguyễn Xuân Nghĩa  hao tâm tổn trí . Việc lập ra vụ Kế Hoạch , anh em Việt Tân trung cấp âu châu hình dung ngay đến  một  vụ đảo chánh  nội bộ sắp diễn ra , hoặc ông  Nguyễn xuân Nghĩa  sụp hầm hoặc Ông Hoàng cơ Ðịnh  ra chầu rìa ! Cuối năm 1988. Hơn ai hết , ông Nghĩa phải biết là ông Minh đã … sinh thì ở Lào ! Một người có trí năng cao như ông Nghĩa , sẽ không thể chịu bịt mắt  bởi ông Hoàng cơ Ðịnh , rằng ông Hoàng cơ Minh “vẩn sống vẫn lãnh đạo “.Ở vị trí Vụ Kế Hoạch , gần như ngang quyền Vụ Tổ Chức do ông Ðịnh nắm , cho phép ông Nguyễn xuân Nghĩa có quyền  đòi vào căn cứ chiến khu  để lường định sự việc , dù rằng điều này , ông Hoàng cơ Ðịnh không bao giờ muốn  !

Giữa  1989 ông và Trường Lưu , vụ Tuyên Vận , hai cái đầu  giỏi nhất  của VT giai đoạn 1985/1989 lặng lẽ rời tổ chức  sau chuyến  thị sát chiến khu  Ubon .Trong chuyến đi có Trần đức Tường , một thiếu tá Quân y Dù kẹt lại Việt nam 1975 nhưng chỉ phải cải tạo có vài ba năm rồi ra mở phòng mạch ở vùng Bảy Hiền ,một  người rất khéo nói và  giỏi ngậm hột thị khi cần ,để  ấm thân trong mọi hoàn cảnh .



Biệt ly 4.

1990 /95 , Bộ phận chiến khu Ubon đã hoàn toàn tan nát sau ba cuộc xâm nhập vũ trang hết sức ngớ ngẩn . Ðông Tiến 1 năm 1986 thất bại , chết  gần chục người và hầu hết  là bị bắt tại Pleiku ! Ðông Tiến 2 tháng 8 năm 1987 gần hai trăm đảng viên xâm nhập cùng ông Minh theo kế hoạch của Lê Phú Sơn . Ông Minh tự sát tại đường 9 Nam Lào sau hơn tháng trời bị vây  đuổi  đòi bắt sống bởi lực lượng quân đội cộng sản Quân khu 9 . Tử thương vài chục người , hơn trăm  đảng viên sống sót bị bắt cầm tù từ 6 đến 18 năm ! Ðônhg tiến 3 (1989)  tung gần trăm quân  vào  biên giơí Lào /Thanh hóa  bị bắt sạch . Ðợt Ðông Tiến này phải đưọc hiểu là  đợt thí quân . Quân đi mơ hồ mục tiêu !!! Phải chăng , đoàn quân này  đưọc quyét định  phải chết ,thay vì để tồn tại trở ra hải ngoại, sợ sẽ làm lộ  các bí mật của cái gọi là chiến khu  Việt Tân ?!

Tại hải ngoại ,vai trò lý thuyết của Việt Tân chủ yếu đặt trên vai  vị bác sĩ mổ xẻ nổi tiếng  của Chicago . Phó Tổng vụ Trưởng Trần Xuân Ninh với những cái đầu  đặc biệt  nổi lên từ  miệt thấp của quả đất . Nam Dao từ  Úc châu và nhóm  khôn lỏi ở Paris  đứng đầu bởi Lý Quảng / Nguyễn Ngọc Ðức. ( phù thủy của tổ chức Liên Minh VN Tự Do, nhân lực dắt mũi của Hội Chuyên Gia ).Tiến đến 1996,97 , Nguyễn Ngọc Ðức từ một chi bộ  Orsay/Paris  đã phăng phăng  trèo vào Trung Ương đảng . Một khuôn mặt mà hầu hết  những thành phần trí thức sinh viên của Tổng Hội Sinh Viên Paris đều coi thường ra mặt .

Tổ chức Việt Tân  với  sự sát cánh của ông Trần Xuân Ninh , ông Nguyễn Ngọc Ðức và bà Nam Dao , ông Ðỗ Ðăng Liêu  (cựu sinh viên Tổng Hội Paris ) cố gắng  phát triển cật lực trong giới trẻ  ở Úc châu , xoay quanh  trục nhân lực Nguyễn Hoàng Thanh Tâm (cháu Hoàng cơ Ðịnh) , mong  dùng  các cơ sở này  để  vận động ngược lại cộng đồng  người Việt ở Hoa Kỳ . Khối u tình này duy trì được  đến sau năm 2000 và xảy ra tan tác  sau  lần  va động  “chệch hướng hay chuẩn hướng “ 2003/04 . Ðây là giai đoạn đấu tranh  nội bộ gay gắt giữa  cánh ông Hoàng cơ Ðịnh , Nguyễn Ngọc Ðức vơí cánh ông Trần xuân Ninh về quan điểm rất mới của VT , “hợp tác ,đối thoại để chuyển đổi  hòa bình ” !  Bà Nam Dao cùng  gần trăm đoàn viên rời tổ chức theo  với bước chân rã rời “không chệch hướng “ của ông Trần xuân Ninh . Việt Tân  còn trơ lại  vài hàng binh tôm tướng cá  với  Lý Quảng Nguyễn Ngọc Ðức gần như làm chủ tế . Ðể mở đường bế tắc , ông Nguyễn Ngọc Ðức và người tình là bà Nguyễn Thanh Vân tận dụng quan hệ với RSF vác  đả cẩu bổng sang Thái Miên . Binh đội tại Thái Miên những năm 2006/2007 có lúc  lên đến  những 5 ông bà Uỷ viên  Trung ương đảng , thậm chí  có lúc  cả bốn ông Trung ương đảng đều xâm nhập vào nam VN  cho một phi vụ “rải vài ngàn tờ truyền đơn “ ! Bốn bị bát ba  ! Cãi nhau, đổ tội … ì xèo trong  toà  nhà  B34 Sài gòn . Vài tháng thả trắng sau những  biên bản khó hiểu !



Tống biệt  5.

Truyền thông mở như một cơn lốc quét , phủ lên bối cảnh sinh hoạt truyền thông ở VN một màu sắc  lấp lánh nhiều tích cực . Phong trào viết blog tự  phát bùng lên ở VN . VT  đã nắm bắt rất nhanh tình hình và  làm ngay những cuộc liên đới với các anh chị em này . Cả hai bên  đều là những con cá đang khát nước . Anh em nội địạ ráp lại vơí những ngươì hoạt động  dân chủ ở Thái  đã hoàn toàn tin tưởng những người cộng tác . Công sức  của RSF  trong mục tiêu thiết lập những nhóm  truyền thông  độc lập đã được  đánh tháo sang hết cho một tổ chức có tên là Việt Tân . Các khoá học về nhân quyền , dân sự … đã được an ninh csvn theo dõi và bắt gọn  dưới danh nghĩa “hoạt động khủng bố với VT”  . Cả Trần Huỳnh Duy Thức cũng sập bẫy . Cả Tiến Trung  , cả Lê Công Ðịnh… những đứa con kiệt xuất chưa đánh được đòn phép nào vào mặt chế độ ... đã bị sập hầm  !
Trong cái họa nẩy ra cái phước .  Một nhóm nhỏ  trong những thành phần lãnh đạo Việt Tân  chung công tác ở Thái Miên đã sáng suốt nhận ra vấn đề bế tắc  nằm ở đâu . Cuộc chia tay  thứ 5 đã diễn ra  và trang Dân Làm Báo  đĩnh đạc trưởng thành trong cay đắng , từ những con người đã đặt cược cả cuộc đời mình vào với  vận mệnh Việt tân , sự bẽ bàng nhận ra chân tướng nhau  đã làm nảy sinh ra một tập hợp mới, ly khai dứt khoát với  cái tên  đầy màu sắc tương lai nhưng lại chất chứa nhiều hầm chông bẫy độc .Khối kỳ vọng của RSF vào VN cũng từ đây sinh thành hai dòng chảy .


Lià xa 6.

Vận dụng  sự mở cửa của mạng  truyền thông internet . Những người đặc trách phát triển quốc nội của Việt tân hải ngoại đã liên kết  vơí những nhân lực có tiếng  nói  mang tinh thần phản kháng  ở VN , đặc biệt là Hànội .  Một nhóm nhân lực  được  móc nối  và hoạt động  khá rộng ở Hànội nói riêng , miền bắc nói chung . Bà Trần Khải Thanh Thủy là một nhân lực tiêu biểu. Tính khí ngang tàng của bà  đưa bà  đến cửa nhà tù và phải vào tận Trại 5 . Một trại Trung Ương  khét tiếng từ thơì còn mang tên  quần thể  nhà giam  Ðầm Ðùn Lý Bá Sơ 1954.  Giết bà không được , nhốt  chẳng ích gì mà thả ra ở VN thì càng to chuyện ! Tương kế tựu kế  an ninh cộng sản tống xuất bà  sang Mỹ, gây thêm thanh thế cho Việt Tân , vốn là một tổ chức  chính trị hải ngoai mà an ninh csvn biết tỏng tòng tong là hữu danh vô thực . Ðiều bất ngờ là tính cách ương ngạnh dàng trời của bà TKTT đã  tạo ra rất nhiều khó xử cho trung ương Việt Tân  để sau hai năm , ngựa Hồ tung vó  lên hướng bắc , chịm Việt  soải cánh  về đàng nam . Từ mặt nhau với những nỗi đau cay cào  xé gan mật . Sự chia tay này cũng ảnh hưởng đến việc “dứt áo ra đi” của  vị bác sĩ  được coi là giỏi giang nhất ,còn sót lại của trung ương Việt tân : Nguyễn Trọng Việt .
Việt tân sau 30 năm , người tài  thi nhau ngã bổ ngửa . Từ Phạm văn Liễu Trần Minh Công Phạm Ngọc Lũy đến Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Trường Lưu ! Từ Nam Dao/Phan văn Hưng đến Trần Xuân Ninh và rồi đến Ðặng Thanh Chi ,Huỳnh ngọc Phước , Nguyễn Trọng Việt … Giờ điểm lại , lôm côm  những Nguyễn  ngọc Bảo , Nguyễn Ngọc Ðức , Trần đức Tường , Nguyễn Thanh Vân , Nguyễn quốc Quân…với con em gia đình dòng họ Hoàng Cơ ,cắm cúi điều hành  tổ chức  gần giống như một công ty  hàng quán thương mại !



 Thế trận Nhân quyền !

Cuối năm 1998 , khi vừa bị trục xuất về Pháp, trong những lần điện đàm với ông Nguyễn Kim Hườn , tôi có đề cập đến một sự cần thiết  về việc hình thành một thế trận nhân quyền ở hải ngoai . Lúc ấy , tổ chức VT , nếu tập trung thực lòng cho công tác nhân quyền , sẽ  mang lại nhiều lợi ích cho  quê hương đất nước . Tiếc rằng , Ông Kim  đã tỏ ý rất coi thường , ông nói  “ … giờ này , chúng ta sắp thành công , tập trung vào công tác nhân quyền làm gì !”. Giờ đây , 15 năm đã trôi qua , chữ “sắp thành công “ của ông  không biết   phải định nghĩa thế nào , nhưng hành động lấn sân từ sinh hoạt chính trị tràn sang lãnh vực nhân quyền  lại phơi bày quá sống sượng trong  những tháng vừa qua .

Bản chất sức lực của hoạt động đấu tranh nhân quyền là độc lập phi đảng phái . Càng dính líu đến  các tổ chức chính trị , đảng phái … hoạt động đấu tranh nhân quyền càng giảm ý nghĩa trước dư luận thế giới tự do .  Ðáng ra , việc các nhân sĩ từ Việt nam sang  điều trần  về Nhân quyền ở các quốc hội  hay ở trụ sở Liên Hiệp Quốc  , dù có là đảng VT  giúp  sức , cũng nên phải dấu đi  cái gốc gác là đảng chính trị Việt Tân chi phối . Ðàng này các ông các bà kéo đến ba bốn  ông Trung Ương đảng để  chụp hình chung ở Geneve ! Cũng vậy , làm điều trần  cho các  blogger từ VN sang  , nhưng các ông đặt ghế chủ tịch đảng Việt Tân ngồi ngang với  một  nghị sĩ Mỹ ,cả hai đều cùng vắt vẻo  kiểu chân số 5 quyền lực , đối diện là  tội nghiệp bốn năm ông bà  blogger đến từ VN , xúm xít  ngồi  ở một băng ghế  chung ! hơn hai mươi năm  lăn lóc trong  sinh hoạt đấu tranh từ thượng vàng đến hạ cám , từ  lên voi xuống  lưng bò, tôi chưa từng bao giờ nhìn thấy cảnh  điểu trần như vậy !!  Ðiều trần ấy là điều trần cho ai ? Ðiều trần với ai ?  Ðiều trần vì  quyền lợi gì ?  Quyền lợi “credit”  của VT hay quyền lợi của  anh chị em  truyền thông tự do ở Việt nam ? An ninh csvn  có ý gì khi để các anh chị em ấy  thong dong sang Mỹ  với mỗi người vừa tròn một phút đề …làm điều trần ! Ðiều trần 1 phút  thì điều trần việc gì ? Ðó là lời mời  của quốc hội Mỹ to đùng hay chỉ là  trò chơi chính trị bơm thổi credit cho  một bà dân biểu Mễ cùng  tổ chức Viêt Tân ?  Anh em trong nưóc chấp nhận thật nhiều thử thách để chỉ được  nói 1 phút trước rừng ngôn từ của hàng mấy trăm quân bài do hàng trăm nghị sĩ  tranh giật lợi quyền ? Ai sẽ  trả cái giá  khắc nghiệt cho họ sau cuộc  phiêu lưu vì  tấm “paneaux vĩ đại quốc hội Mỹ” ?  Tại sao an ninh cs ưu ái cho  những người Việt Tân tổ chức  mời đi , trong khi lại nghiêm khắc truất quyền  xuất cảnh của  facebooker Anh Chí chỉ  vài tuần sau  đó , bất chấp lời mời của Bộ Ngoai Giao  một  quốc gia cực kỳ thân thiện với Việt nam cs là Thụy Ðiển  dành cho  Anh Chí  ?

 Liệu có cần phải viện dẫn những  cuộc xâm nhập  1986/1987/1989 từ Thái  Lào và sau 1991 từ Ðông âu để  dẫn chứng  “khả năng  siêu việt” của đảng Việt tân … cùng sự ma mãnh thổi phồng  “kẻ thù ảo”  của đối phương  cs hay không ?

Vơí đồng tiền dồi dào của  tổ chức  ban đầu để lại , việc các ông bà VT chia sẽ  cho an hem  hoạt động dấu tranh  nội địa là việc hết sức tự nhiên , nếu không muốn nói là việc bắt buộc . Chỉ mong rằng  các ông bà hãy đặt quyền lợi của tổ chức  thành thứ yếu , sau quyền lợi của cuộc đấu tranh chung . Ðược vậy , chẳng ai trách  giận các ông bà làm gì . Cuộc đơì này , ai là ngươì nắm chặt tay  được cả cuộc sống mình ?  Mở lòng ra sẽ thấy  tình người cao rộng và thật sự có ý nghĩa .



Lịch sử !
Mục tiêu và trách nhiệm .

Một quá trình ba mươi năm . Tháng 12 năm 1982 lễ tuyên thệ đảng Việt tân cho ông Dương văn Tư cùng  mấy chục đảng viên khác  đã xác định  trách nhiệm của một tổ chức chính trị đối vơí lịch sử  nói chung , đối với những thành viên tuyên thệ nói riêng . Tổ chức ấy ngày nay vẫn y xì tên gọi  và nguyên  bản  lá cờ hoa mai. Ðồng tiền đồng bào đóng góp  đại đa phần đã thành các quán ăn sầm uất  suốt gần 30 năm . Sự liên tục ấy  không cách gì có thể phủ nhận . Chỉ có những  con người vô văn hóa  mới cố chối bỏ lịch sử ấy , trong khi vẫn  dùng đồng lương có từ lịch sử ấy mà ung dung vung vẩy giữa đời . Vật đổi sao dời , có thể các ông  thay đổi phương lược  chiến đấu , nhưng  việc phủ nhận công lao máu xương của lớp khai phá  là hành vi  bất  nghĩa. Việc không hề đoái hoài đến những kẻ đã vì  Việt tân ban đầu mà phải chết thảm trên đường xâm nhập , phải tù tội  từ hàng 6 năm đến 18 năm …là hành vi gì nếu không là hành vi bất nhân bất nghĩa ?

Khi chưa đủ can đảm để rạch ròi  ân nghĩa với anh em mình và với  đồng bào hải ngoại , thì việc  ồn  ã  đấu tranh  của các ông bà  chỉ mang được một  nửa phần ý nghĩa mà thôi .

Khả năng  phán đoán , tư duy chiến lược…không là những món hàng cợt đùa vô  trách nhiệm .Trong  môi trường đấu tranh nhân quyền , các ông bà  đã có những lúc cực lực sỉ vả  những người  đấu tranh , gọi họ là cộng sản , bủa vây  tất cả các bước đi  của họ . Anh em họ trong nhà tù a20 Phú yên làm cuộc nổi dậy , tin tức đến tận tay  các ông bà nhưng  các ông bà lặng thinh . Hàng trăm  ngươì tù thét gào ấy , chỉ duy có  tổ chức  ông Võ Văn Ái lăn xả trên truyền thông quốc tế  để bảo vệ họ . Còn các ông bà  thì đứng cười , ra chỉ thị tất cả các mạng báo  chí của VT (vốn bao trùm hải ngoai lúc ấy /1994/95) hoàn toàn im lặng !

Tôi là nhân chứng trực tiếp của  sự vụ ấy , nay xin hỏi  giữa công luận  rằng  các ông bà  là ai , và liệu sẽ có một cuộc  nổi dậy đấu tranh nhân quyền  ở VN  sẽ bị các ông bà tận lực bưng bít nữa không ?

Ðó là lý do  chúng tôi chủ trương  thành lập và hỗ trợ  các mô hình đấu tranh nhân quyền phi đảng phái , đặc biệt  phi Việt Tân .

 Sau ngày 30 tháng 4/75, giữa lúc mọi người còn đang ngơ ngác, giận dữ, thống trách đau khổ, thì có một số người trẻ tuổi tại Đông Kinh đã đủ bình tĩnh mở cuộc họp báo để minh xác với thế giới cuộc chiến đấu cho tự do của dân tộc Việt Nam vẫn tiếp tục vì “chúng tôi còn hiện diện để tiếp nối những bước đi lịch sử của cha ông”.
Ngay khi mọi người chưa hết bàng hoàng sau cơn hồng thủy và còn đang ngơ ngác vì cuộc sống xa lạ, đầy trắc trở của một xã hội hoàn toàn khác biệt về phong tục, ngôn ngữ, sinh hoạt thì có những quân nhân trẻ có già có từ cấp binh nhì tới cấp tướng lãnh, âm thầm ngồi hoạch định cho ngày trở lại Việt Nam.
Khi mà cả nước bị gông cùm đỏ trùm lên, không khí bị ô nhiễm vì hận thù, vì tù ngục cải tạo, vì những lừa bịp trắng trợn thì có những thanh niên thiếu nữ bỏ vào rừng hay ngay trong lòng địch âm thầm tổ chức thành những nhóm nhỏ chiến đấu. Rồi họ tìm đến với nhau, rồi họ liên lạc nhau, rồi họ kiểm điểm hàng ngũ, rồi họ hoạch định kế sách. Tất cả đã nối kết nhau bằng chất keo dân tộc vì lý tưởng cao cả: giải thoát dân tộc khỏi gông xiềng, đem trả lại dân tộc tự do công bằng và nếp sống an vui bình dị. Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam đã ra đời trong bối cảnh đó vào hơn 30 năm trước. Nhưng giữa đường, lực bất tòng tâm, một số trong họ đã anh dũng hy sinh ngay trên đất mẹ, trên đường mở lối về vào tháng 8 năm 1987 tại rừng núi Nam Lào.
Vì thế cứ đến tháng 8 thì trong lòng những người đoàn viên Mặt Trận ai nấy đều mang ít nhiều nỗi buồn u uất. Xin mời quí vị theo dõi tâm tình của một trong những đoàn viên Mặt Trận năm xưa khi tháng 8 trở về.
-------------------------
Thung lũng nở đầy hoa vàng mùa Hè 1983. Anh em đón anh tại tòa soạn báo Kháng Chiến có đôi chút ngỡ ngàng. Người đứng đầu trách nhiệm tuyên vận của tổ chức lại trẻ đến như vậy. Nắng mưa khu chiến không thể làm mất làn da trắng thư sinh của anh. Lúc mới 24 tuổi, anh là sinh viên du học tại Nhật và là chủ tịch hội Người Việt Tự Do ngay sau khi cộng sản chiếm miền Nam năm 1975, đã làm đại diện Việt cộng ở Nhật thời bấy giờ mất ăn mất ngủ bởi những cuộc biểu tình rầm rộ. Lúc 30 tuổi, anh rời Nhật trở về chiến khu. Lần đó, từ chiến khu trở ra hải ngoại, một trong những công tác của anh là ổn định báo Kháng Chiến đang trong thời kỳ phôi thai. Những ngày làm việc với anh em, anh đã để lại nhiều cảm mến và tâm phục. Anh cẩn thận xem mỗi bản tin, từng bài vở. Anh ngồi chung với anh em dán từng địa chỉ độc giả, gói từng thùng báo gửi đi xa. Một chuyện không thể quên được là sau một buổi họp mới biết anh đã lên cơn sốt rét mà vẫn ngồi họp cùng với anh em cho đến cuối giờ. Mới biết nghị lực của anh lớn chừng nào. Anh, từ những biến cố tháng 7 năm 1987, từng giữ trách nhiệm cao nhất tại chiến khu. Từ năm 1990, chính quyền Thái có những thỏa thuận hòa bình với Cộng sản Việt Nam. Khu chiến Việt Nam gặp nhiều trở lực. Ngày 15 tháng Giêng năm 1991, một viên chức Thái đưa anh đến vùng biên giới và anh mất tích từ đó. Tên anh là Ngô Chí Dũng.
*
Anh gò lưng trên bàn lay-out trong một ngày tất bật của tòa soạn báo Kháng Chiến. Dáng anh tận tụy, thêm hai gọng kính cận dầy cộm làm anh già hơn tuổi. Anh em luôn thấy dáng tận tụy của anh trong khi làm việc, dù việc lớn hay nhỏ. Vậy mà năm rời chiến khu trở về Hoa Kỳ công tác, anh mới 35 tuổi. Dù thời gian anh công tác ở hải ngoại không lâu, anh không để phí thời gian, dù là có thể dành một chút thì giờ với vợ con. Biết báo Kháng Chiến sắp đến ngày in, anh đến thăm và "xin" giúp việc lay-out. Mục lịch sử nói về anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám và cần một hình chân dung. "Chuyện dễ ợt!", anh cười nói với anh em và dùng ngay mực bút của tòa soạn thoáng vài nét là có hình vẽ chân dung Đề Thám thật linh động. Mới thấy tài hoa của anh. Anh em lại "tham" hơn anh nghĩ. Thế là anh đã ngồi dùng bút mực vẽ thêm hơn mười chân dung anh hùng dân tộc khác để anh em sử dụng trong những số báo sau. Vậy đó! Với anh, chuyện nào cũng "dễ ợt". Vì thế, với anh, chuyện đi đấu tranh "dễ ợt" vậy mà không chịu làm, mới lạ! Anh, từng là nhà văn ở hải ngoại với nhiều chuyện ngắn nổi tiếng. Anh, tác giả bài hát "Thế Kỷ Này Thế Kỷ Chúng ta" từng vang lên trong rừng núi chiến khu. Anh, từng giữ trọng trách Tổng thư ký Hội Văn Nghệ Sĩ Kháng Chiến, đã để lại vợ con ở hải ngoại để trở về khu chiến. Trong một chuyến xâm nhập vào đất mẹ Việt Nam, đoàn quân của anh đã giao tranh đẫm máu với lực lượng đông đảo của Cộng quân. Một trái pháo của giặc đã phủ chụp bên anh. Anh hy sinh ngày 28 tháng 8 năm 1987.
Anh tên là Võ Hoàng.
*
Đó là một buổi sáng rất sớm tại tòa soạn báo Kháng Chiến. Anh ngồi trên bàn đọc một tập thơ do Đông Tiến xuất bản. Mới 5 giờ sáng. Trong chuyến công tác ở hải ngoại, anh ghé thăm anh em và ở lại đêm chuyện trò. Tòa soạn im lặng khi anh em phụ trách còn đang ngủ say. Tập thơ Bắc Phong làm anh say mê đọc từng trang một. "Đi, hành trang có niềm tin. Quyển thơ Nguyễn Trãi và hình vợ con". Một câu thơ làm mắt anh cay cay. Ngày anh rời hải ngoại về chiến khu đấu tranh chỉ mang theo hình đàn con nhỏ. Một anh em dậy sớm nhất đã giật mình khi thấy anh ngồi lặng lẽ dưới ánh đèn bàn được vặn nhỏ. Anh cười và còn nói vui là đã không dám di chuyển mạnh sợ đánh thức anh em. Anh nói đã quen giờ thức dậy ở chiến khu nên ra ngoài này cũng khó ngủ thêm được. Anh, từ một nhà giáo trở thành một sĩ quan can trường của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tháng 3, 1975, anh bị Việt cộng bắt nhưng trốn thoát trở về nhà cùng gia đình vượt thoát sang Mỹ. Anh, cùng với những người có lòng gây dựng nên cộng đồng người Việt tại tiểu bang Hawaii. Và muốn đi đến tận cùng của cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, anh đã trở về chiến khu và trong những ngày tháng bi hùng của tổ chức, anh đã đảm nhiệm trách vụ hàng đầu của Lực lượng võ trang kháng chiến. Ngày 28 tháng 8 năm 1987, khi bị giặc cộng vây ở Nam Lào. Bị thương và không muốn sa vào tay giặc, anh tuẫn tiết ở rừng Nam Lào.
Tên anh là Nguyễn Trọng Hùng.
*
Mùa Hè năm 1984, tòa soạn báo Kháng Chiến đón một khách quý. Ông từ chiến khu trở ra hải ngoại công tác. Dáng người ông nhỏ nhắn nhưng vẻ mặt cứng rắn, quả quyết của một quân nhân từng vào sinh ra tử với sư đoàn nhảy dù Việt Nam Cộng Hòa. Ngày ông đến thăm, đặc biệt để gặp anh em phụ trách cơ quan ngôn luận của tổ chức và cũng để gặp một phụ nữ cũng rất đặc biệt, đó là nhà văn Trùng Dương. Ông đề nghị mọi người ngồi dưới sàn để chuyện trò thoải mái hơn. Ông sống bình dị vô cùng. Ông từng giữ chức vụ Trung tá Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù. Theo lời kể của Bác sĩ Trần Đức Tường, trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào, khi căn cứ bị cộng quân tràn ngập, ông đã yêu cầu pháo binh bắn trên đầu mình. Một vị bác sĩ phải kéo người lính truyền tin chạy xuống đồi làm đứt dây ống nói, ông mới chịu rời vị trí. Ông "là con người như vậy, dũng cảm, gan dạ, sống chết với đơn vị, thà chết vinh hơn sống nhục". Sau khi cùng gia đình vượt thoát sang Hoa Kỳ năm 1975, ông tiếp tục tìm người đồng tâm đấu tranh chống Cộng sản Việt Nam. Sau đó, ông đã cùng nhiều người yêu nước trở về chiến khu. Nói về "chiến khu", ông chia xẻ với nhà văn Trùng Dương: "chiến khu là nơi xảy ra những công tác tuyên vận, móc nối, hay những nơi huấn luyện, có thể là một bờ kinh, một góc vườn, một con đò giữa sông, ở dưới một tán bần hay cạnh một gốc dừa… Có thể nói không ngoa rằng chiến khu ở trong lòng mọi người dân. Còn nếu quan niệm rằng chiến khu là một doanh trại, có nhà cửa khang trang, với đây là chỗ ngủ, kia là phòng ăn, sân tập họp, bãi bắn… thì chúng ta không có chiến khu". Đó là một trong những quan niệm mới của đấu tranh giải phóng. Ông, từ một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trở thành Tư lệnh Lực Lượng Võ Trang Kháng Chiến. Đau đớn thay, ông đã nằm xuống trong rừng núi chiến khu vì cơn sốt rét ác tính, vào ngày 1 tháng 5 năm 1985.
Ông tên là Lê Hồng.
*
Năm 1985, ông rời chiến khu trở lại Hoa Kỳ để ổn định công việc điều hành tại hải ngoại. Trong một phiên họp bất thường, ban chấp hành hải ngoại đã quyết định họp tại tòa soạn báo Kháng Chiến. Vì số người đông so với phương tiện của tòa soạn, đêm về, ông đã ngủ dưới sàn nhà cùng với tất cả ban chấp hành. Mà nhớ đến nhân cách làm tướng của tác giả "Hịch Tướng Sĩ" Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Chủ-tướng như ruột thịt, như anh em. Một thời là tướng hải quân Việt Nam Cộng Hòa cũng vậy, người "Anh Hai Thủy Bộ" này đã từng đích thân vào chốn hiểm nguy để giải cứu đồng đội. Ông thương lính của ông như ruột thịt. Nhân cách ông không hề thay đổi. Đó cũng là lý do tại sao nhiều người đã luôn theo ông vào chốn khốn khó, hiểm nguy nơi khu chiến và không muốn ở hải ngoại công tác dù có cơ hội. Tháng 6, 1987, ông rời hải ngoại trở về chiến khu với một kế hoạch xâm nhập quốc nội. Ông đến tòa soạn báo Kháng Chiến thăm các chiến hữu của mình. Dù nét mặt ông luôn anh nhiên, bình thản trước mọi thử thách nhưng anh em biết chuyến đi của ông lần này sẽ gặp nhiều gian nguy. Ông biết điều đó. Ông nói chuyến đi lần này sẽ lâu và ngày gặp lại có lẽ sẽ khá lâu. Ông nói đến chữ "Tâm" và chữ "Tin". Luôn vững tâm và tin tưởng mãnh liệt vào một ngày mai tươi sáng của dân tộc. Ông bắt tay từng người, rất chặt. Tháng 7 năm 1987, ông quyết định dẫn một đoàn kháng chiến quân băng qua lãnh thổ Lào để trở về quốc nội. Trong thời gian đầu của chuyến đi, đoàn quân đã không gặp nhiều khó khăn, mặc dù có những trận đụng độ với bộ đội Lào cộng và bộ đội Việt cộng đóng trên xứ Vạn Tượng nhưng không đáng kể. Tuần lễ đầu tháng 8/1987, khi đoàn quân gần đến biên giới Lào Việt nằm về hướng Ðông tỉnh Attopư thì bắt đầu đụng độ khá nặng với lực lượng biên thùy của Việt cộng. Trong trận đụng độ này, một số kháng chiến quân đã bị bắt. Do sự khai báo của một vài kháng chiến quân, lãnh đạo Việt cộng biết được sự hiện diện của ông trong đoàn quân, nên đã huy động bộ đội lên đến cấp Trung đoàn bủa vây và dùng cả trực thăng để quan sát, dùng pháo binh để truy kích với mục tiêu là bắt sống ông. Sau hơn hai tuần lễ cầm cự và giao tranh dữ dội, nhiều kháng chiến quân đã hy sinh, và ông cũng đã bị thương. Ðến ngày 27/8/1987, đoàn quân kháng chiến bị vây trên một ngọn đồi. Lãnh đạo Việt cộng xua quân tấn công nhiều đợt lên đồi để cố bắt sống ông. Mặc dù các kháng chiến quân chiến đấu rất anh dũng, nhưng quân ít, đạn thiếu, không sao thoát khỏi vòng vây của kẻ thù. Trong hoàn cảnh đó, đêm ngày 27/8 rạng sáng ngày 28/8, ông đã tập trung anh em lại dặn dò lần cuối. Ra lệnh cho những ai còn khỏe thì cố gắng tìm đường thoát khỏi vòng vây, ai không đi được thì ở lại tử thủ. Những người còn khỏe không ai chịu rời bỏ người chủ tướng, không ai muốn rời bỏ anh em. Trong cái không khí bi hùng u uất đó, pháo đạn như đã xiết lại gần hơn, vậy mà những người nghĩa dũng vẫn vây chung quanh người chủ tướng. Mọi người đều khóc. Dù bị thương, ông vẫn nói đến tiền đồ dân tộc, đến đại cuộc giải phóng đất nước. Khó mà tưởng tượng ông nhắc đến hoàn cảnh bi tráng mà người anh hùng dân tộc Lương Ngọc Quyến đã trải qua trong cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên năm 1917. Ông Lương Ngọc Quyến đã tự sát để các nghĩa quân không vướng bận khi phải tháo lui. Chính vì hiểu điều này, các kháng chiến quân còn khỏe mạnh đã rời khỏi ngọn đồi. Ông đã ra lệnh cho các kháng chiến quân mở đường ra khỏi vòng vây, trong khi ông và một số chiến hữu bị thương ở lại bắn để chặn đường. Lúc đó, cộng quân tấn công dữ dội. Vì không muốn sa vào tay giặc, ông đã rút khẩu súng phòng thân ra khỏi vỏ. Không biết ông đã nghĩ gì trong khoảnh khắc bi hùng ngắn ngủi đó. Tiếng súng nổ đã vang lên trong núi rừng Nam Lào trước sự chứng kiến uy nghiêm của những chiến hữu còn lại. Mọi người đã qùy xuống lạy vị chủ tướng đáng kính, và rồi sau đó nhiều tiếng súng ngắn tiếp tục vang lên như xé trời tang.
Ông tên là Hoàng Cơ Minh.
*
Họ là những kháng chiến quân của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam. Họ cũng là những đảng viên cốt lõi của Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng - Đảng Việt Tân. Những người đã từ bỏ sự nghiệp, rời xa mái ấm gia đình, quên đi hạnh phúc cá nhân để trở về khu chiến Dựng Cờ Chính Nghĩa. Họ đã chứng minh sự tiếp nối truyền thống hào hùng yêu nước và cứu nước của Tổ Tiên Việt Nam.
*
Bài viết này được ghi lại từ kỷ niệm của một đoàn viên từng có cơ hội công tác với báo Kháng Chiến và có duyên may mắn được gặp năm kháng chiến quân kể trên. Người viết xin được ghi lại như một nén hương lòng tưởng kính đến tất cả những người Việt Nam đã quên thân mình và hy sinh trên con đường mang lại Tự Do và Dân Chủ cho Việt Nam.

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen