Đúng 10 giờ sáng, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, với bộ quần áo bằng
Sharskin trắng, tiến vào phòng họp sau tiếng hô của một nhân viên nghi lễ. Mặt
ông nặng vẻ ưu tư, khác hẳn với gương mặt rạng rỡ thuở xưa, lúc ông vào thăm viếng
chiến khu Liên Minh. Ông mở lời cám ơn tất cả mọi người, rồi tuyên bố lý do như
đã trình bày đại khái trong bức thư mời trước. Chỉ một vài câu vắn tắt, xong
ông lại xin phép cáo lui: “Để cho quý Ngài được tự do thảo luận!”
Cử tọa ngạc nhiên, bởi ai cũng tưởng Thủ Tướng Ngô Đình Diệm sẽ
cùng ngồi lại với các nhân vật chính trị, để bày tỏ quan điểm của riêng ông đối
với việc Bảo Đại gọi ông sang Pháp. Đây cũng là một bằng cớ cho thấy Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm khá tôn trọng tinh thần dân chủ. Việc ông đi hay ở sau này là do
đại chúng toàn quyền định đoạt, chứ ông không có ý định chi phối lập trường các
đoàn thể cũng như các nhân sĩ có mặt.
Hội nghị bắt tay vào việc ngay tức khắc. Ông Nguyễn Bảo Toàn được
bầu làm Chủ Tọa, và ông Phạm Việt Tuyền làm Thư Ký buổi họp. Tôi liếc thấy ai nấy
đều chăm chỉ nghiên cứu bức thư mời của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, và dường như
người nào cũng chỉ có ý định sẽ thảo luận chung quanh đề tài: “Nên hay không nên tán thành cho
Thủ Tướng Ngô Đình Diệm qua Pháp theo lệnh của Bảo Đại” mà thôi.
Tôi bèn “nổ phát súng” đầu tiên:
Thưa quý vị, tôi được chỉ thị của đoàn thể chúng tôi là Mặt
Trận Quốc Gia Kháng Chiến Việt Nam, tới đây gặp quý vị không phải để nói về việc
Cụ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm có bổn phận hay không có bổn phận thi hành lệnh triệu
thỉnh của Bảo Đại. Mà trái lại, tôi xin thẳng thắn đặt vấn đề là đã đến lúc
chúng ta cần truất bỏ quyền hành của ông Quốc Trưởng vô dụng kia đi. Là vì ông ta đang làm một việc
trái với nguyên tắc lãnh đạo Quốc Gia. Thử hỏi, thành phố Sài gòn đang có biến,
dân chúng xôn xao lo sợ, tại sao ông Bảo Đại lại chọn ngay chính lúc này để bắt
buộc Cụ Thủ Tướng phải bỏ nước sang tận bên Pháp xa xôi, để gọi là “tham khảo ý
khiến”. Tham khảo cái gì? Phải chăng đây là mưu kế nhằm lật đổ Chính phủ này? Vậy
tôi xin tuyên bố dứt khoát, nếu quý vị bằng lòng thảo luận việc truất phế Bảo Đại,
thì tôi ở lại. Bằng không, tôi xin phép ra khỏi phòng này ngay.
Cả cử tọa bàng hoàng trước lời đề nghị cứng rắn của tôi. Hồ Hán
Sơn không chậm trễ, lên tiếng phụ họa:
“Nhân danh Việt Nam Phục Quốc Hội, chúng tôi đồng ý với Mặt
Trận Quốc Gia Kháng Chiến, yêu cầu quý vị đừng bận tâm lệnh triệu thỉnh vô lý của
Bảo Đại nữa, mà hãy đồng tâm làm một cuộc Cách Mạng, chấm dứt ngay vai trò của
ông Quốc Trưởng kia đi cho xong. Nếu ý kiến này không được hưởng ứng, tôi cũng
xin rút lui ngay tức khắc”.
Thế là hai anh em chúng tôi, kẻ “tung” người “hứng”, nhanh chóng
chuyển cuộc họp đi sang một hướng khác mà không ai ngờ tới. Đáng chú ý ở chỗ
ông Nguyễn Bảo Toàn là người đầu tiên lên tiếng tán thành việc truất phế Bảo Đại,
khiến các nhân vật khác không ngần ngại nối gót theo ông. Nên nhớ là hồi mùa Hạ
năm 1948, ông Nguyễn Bảo Toàn, Bí Thư Đảng Dân Xã (Hòa Hảo), đã là một trong số
các lãnh tụ quốc gia bay sang Hong Kong, xây dựng cái gọi là “Giải Pháp Bảo Đại”,
sau khi Cao Ủy Pháp Emile Bollaert lên tiếng tại Hà Đông, bày tỏ lập trường của
Pháp không muốn nói chuyện điều đình với Hồ Chí Minh nữa, và muốn giải quyết vấn
đề Việt Nam với cánh Quốc Gia có uy tín. Ta có thể nói ông Nguyễn Bảo Toàn đã
có công với “Giải Pháp Bảo Đại” vậy mà nay chính ông lại mau chóng đồng ý phế bỏ
Bảo Đại trước hết, thành thử các đoàn thể và nhân sĩ khác thấy không còn lý do
gì để thắc mắc nữa.
Bầu không khí bỗng sôi nổi hẳn lên. Nhất là các đoàn thể hoặc tổ
chức lâu nay vốn có lòng ủng hộ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm thì lại càng bồng bột
“quá khích” hơn ai hết. Từ chỗ thụ động, họ bước sang thế chủ động, hy vọng nhờ
chúng tôi đứng mũi chịu sào, họ sẽ trừ khử được một con “Ngáo Ộp” từng làm cho
Thủ Tướng Ngô Đình Diệm quên ăn, mất ngủ. Ông Bùi Quang Nga, hiệu là Văn Ngọc, vừa hô to: “Đả Đảo Bảo Đại” vừa tuột giày, ném thẳng lên chân dung
của Bảo Đại treo trên vách phòng Khánh Tiết. Tiếp đó, người ta đưa ý kiến triệt
hạ ngay bức chân dung kia xuống, và người ta công cử cá nhân tôi đứng ra làm
hai việc tượng trưng, chấm dứt một triều đại, đánh dấu một khúc quanh lịch sử.
Tôi được nhiều nhân vật – đáng chú ý nhất là Luật sư Vũ Văn Mẫu (Thủ tướng cuối
cùng của Đệ nhị Cộng Hòa) – xúm nhau lại công kênh tôi lên vai họ, để triệt hạ
bức chân dung quá sức đồ sộ của Bảo Đại. Bức chân dung ấy, hàng ngày “ngự”
trong Dinh Độc Lập, nói lên cái quyền tối thượng của ông Quốc Trưởng bù nhìn,
hơn một lần đã đầu hàng Cộng sản vô điều kiện, đã đem cả ấn kiếm nhà Nguyễn cúi
đầu dâng cho tên cán bộ Cộng sản Trần Huy Liệu ngày 23 tháng 8 năm 1945 tại cố
đô Huế, rồi còn cố che đậy sự hèn nhát của mình bằng một câu nói hài hước: “Thà
làm dân một nước độc lập, còn hơn làm vua một nước nô lệ”. Ông vua thoái vị ấy
tưởng đã nằm chết dí bên Hong Kong, nếu không nhờ các lãnh tụ quốc gia làm cho
sống lại, để được Pháp điểm tô mày mặt đưa về hồi 1949, để cuối cùng chẳng làm
nên trò trống gì cho quê hương xứ sở.
Tưởng cũng nên nhắc lại, là mùa Thu năm 1945, Bảo Đại quá khiếp
sợ trước “thế lực tưởng tượng” của bè lũ Hồ Chí Minh, nên không dám có hành động
nào khác là đầu hàng Cộng sản cho nhanh chóng để được yên thân. Sau khi trao ấn
kiếm cho tên Trần Huy Liệu (nguyên là một thành phần quốc gia đã bán rẻ linh hồn
cho Cộng sản) trong một buổi lễ vô cùng tủi nhục trước bao nhiêu tiếng khóc nức
nở của Hoàng Thân, Quốc Thích nhà Nguyễn, Bảo Đại bay ngay về Hà nội, vui vẻ
đóng vai “Cố Vấn Vĩnh Thụy” cho đẹp lòng Hồ Chí Minh, bằng cách tham dự tất cả
cuộc hội hè do cộng sản tổ chức. Ông sống quá bình thản vô tư, cho đến nỗi anh
em quốc gia rất lấy làm lo ngại cho tương lai ông. Họ âm thầm tìm cách cứu ông
ra khỏi cảnh một thằng tù bị giam lỏng trong căn nhà bên cạnh bờ hồ Hoàn Kiếm.
….
Tới khi cuộc chiến Việt Nam kết liễu bằng trận Điện Biên Phủ, nước
nhà bị chia đôi, con người vô trách nhiệm kia lại còn gượng gạo đứng lên đòi
làm chủ miền Nam một lần thứ hai nữa. Nhưng mộng ấy không thành, khiến ông đành
tạm thời giữ vai hư vị “Quốc Trưởng”, bị cầm chân vĩnh viễn trên đất Pháp, và
miễn cưỡng chỉ định Nhà Cách Mạng Ngô Đình Diệm thành lập Chính phủ mới, với tất
cả sụ thù hằn. Thế cho nên, khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm cầm quyền, dù với thái
độ khiêm cung thành tín “Thừa lệnh Đức Quốc Trưởng”, Bảo Đại vẫn không ngừng quấy
phá nơi hậu trường, bằng cách ngấm nhầm xúi dục Bình Xuyên chống đối vũ trang,
sai Tướng Nguyễn Văn Hinh chửi rủa ngày đêm, ra lệnh cho Tướng thân cận là Nguyễn
Văn Vỹ âm mưu cướp chính quyền, lén lút mặc cả với Bình Xuyên để sắp đặt cho
ông Lê Văn Viễn (bảy Viễn) lên làm Thủ Tướng. Tự thủy chí chung, người ta thấy
Bảo Đại không hề nghĩ gì tới số phận của nước nhà trước cái hiểm họa Cộng sản,
mà chỉ mong thỏa mãn ý muốn riêng tư mà thôi.
Một con người như thế, quả thật không còn xứng đáng nắm vai chủ
chốt, mà bức công hàm triệu thỉnh Thủ Tướng Ngô Đình Diệm sang Pháp giữa lúc
Bình Xuyên đang nổi loạn, quả là “Giọt nước làm tràn miệng ly”, không ai có thể
chấp nhận được. Một cuộc cách mạng phải xảy ra. Và cuộc cách mạng ấy đã xảy ra
tại Dinh Độc Lập ngày 29 tháng 4 năm 1955. Cho nên, khi cái khung hình của Bảo
Đại rơi đánh đùng một tiếng xuống nền Dinh Độc Lập, thì bao nhiêu gót giầy cùng
giẫm lên giữa những tiếng la hét giận dữ…
Trong bầu không khí tột cùng sôi nổi – có lẽ chỉ xảy ra một lần
duy nhất tại Dinh Độc Lập mà thôi – các diễn giả dần dần buông rơi hết mọi sự
dè dặt lúc đầu, để trở nên nhiệt thành với cách mạng, và dơ tay tán đồng một
cách nhanh chóng, dễ dàng, mọi ý kiến do tôi và Hồ Hán Sơn lần lượt đưa ra. Hội
nghị đã lưu lại cho lịch sử một Bản Quyết Nghị nảy lửa, gồm 3 điểm như sau:
1- Truất phế Bảo Đại.
2- Giải tán Chính phủ Ngô Đình Diệm.
3- Ủy nhiệm Chí sĩ Ngô Đình Diệm Thành lập Chính phủ Cách
Mạng Lâm Thời, tổ chúc Tổng Tuyển Cử, tiến tới Chế độ Cộng Hòa.
Có một điều đáng nói, là sau khi tuyên bố giải tán Chính phủ Ngô
Đình diệm rồi, các diễn giả đâm ra lúng túng, không biết dùng tước hiệu gì kèm
theo cái tên của Cụ Ngô Đình Diệm, chả nhẽ lại lại gọi trống không thì khiếm
nhã. Tôi bèn đề nghị hai chữ “Chí Sĩ” và được cử tọa hoan nghênh. Kể từ đó,
danh từ Chí Sĩ thường được nhắc nhở trong dư luận. Tôi nhìn đồng hồ, lúc ấy vừa
đúng 5 giờ chiều. Nghĩa là cuộc họp đã kéo dài suốt 7 tiếng, được chính phủ
cung cấp bữa ăn trưa đạm bạc bằng bánh mì thịt nguội và nước ngọt.
Bây giờ là lúc cử tọa đề nghị Chủ tịch Nguyễn Bảo Toàn thân hành
đi mới Thủ Tướng Ngô đình Diệm xuống phòng họp, để nghe kết quả. Khi Thủ Tướng nghe xong, tôi thấy mặt ông
tái hẳn đi. Tôi chắc ông không ngò cuộc họp bất thường này lại quay sang một
chiều hướng khác, dẹp tan cái chuyện “Thủ Tướng nên đi hay không nên đi sang
Pháp”, và lôi kéo ông đi một bước quá xa như vậy. Thâm tâm ông chỉ muốn được
khuyến cáo là có nên thi hành mệnh lệnh của Bảo Đại hay không mà thôi. Ai ngờ
bây giờ chẳng những người ta không chịu để ông ra đi, mà người ta còn hất chân
ông Quốc Trưởng, và giải tán luôn
cái Chính phủ hiện hữu của ông, thì hỏi còn cái biến cố nào đáng ghê sợ hơn?
Thành thật mà nói, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm không thể không vui mừng
khi hất đi được cái gánh nặng: “Thừa ủy nhiệm Đức Quốc Trưởng” trên vai, khi loại
bỏ được một hình ma bóng quế luôn đe dọa ông trong khi hành xử quyền hành. Tuy
nhiên, hất cái gánh nặng kia, thì lại đèo theo lên vai cái gánh nặng mới khác của
Ủy Ban Cách Mạng, phải chịu quyền ủy nhiệm của Cách Mạng trong những ngày sắp tới,
thì còn biết xử trí làm sao đây? Cho nên Thủ Tướng Ngô Đình Diệm thoáng lộ vẻ
đăm chiêu, và nói bằng một giọng trầm mặc:
“Xin quý Ngài cho tôi được có thời giờ suy nghĩ kỹ vấn đề
trọng đại này”.
Tôi muốn thuật rõ các chi tiết trên đây, để đánh đổ luận
điệu ngu ngốc xuyên tạc của mấy ký giả Tây phương cho rằng Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã
“sắp đặt” và đã “dùng tiền bạc để mua chuộc các đoàn thể chính trị” nhằm “Đẻ”
ra “một cuộc cách mạng giả tạo để củng cố quyền hành”. Sự thực cho thấy, Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm không “Đẻ” ra được cái gì sốt cả, và ông tướng Mỹ Edward Lansdale
cũng chả đóng được “vai trò đạo diễn” nào trong sự thay đổi lịch sử, như bọn
nhà báo tây phương đã xác quyết. Trái lại, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm bị đặt trước
sự đã rồi, bị ép buộc đi vào con đường Cách Mạng lật đổ triều Nguyễn bằng Quyết
Nghị lịch sử ngày 29 tháng 4 năm 1955. Cánh cửa Cách Mạng đã mở sẵn, Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm chỉ còn bước qua bằng cuộc Trưng Cầu Dân Ý ngày 26 tháng 10 là
xong ván bài Bảo Đại.Các nhà báo Tây phương toa rập với bọn Cộng sản
Hà Nội, luôn luôn xuyên tạc và bôi nhọ Tổng Thống Ngô Đình Diệm và miền Nam, luôn
luôn chối bỏ các biến cố lịch sử đương nhiên của miền Nam. Nhưng lịch sử bao giờ
cũng là lịch sử, biến cố bao giờ cũng là biến cố từ lòng dân chúng miền Nam
phát ra. Và riêng tôi xin làm một chứng nhân, sẵn sàng đương đầu với bất cứ ai
ngoan cố cho rằng cuộc cách Mạng ngày 29 tháng 4 năm 1955 là “một cuộc cách mạng
giả tạo”, là “sản phẩm” của chế độ Ngô Đình Diệm.
Sáng ngày 30 tháng 4, một cuộc họp tập hợp tự động của các giới
nhân sĩ Sài Gòn được tổ chức tại phòng Khánh Tiết Tòa Đô Chính. Các ông Nguyễn
Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn và tôi được mời ra thuyết trình về cuộc Cách Mạng ngày hôm
trước. Cử tọa vô cùng phấn khích, luôn luôn hoan hô tán thưởng. Lại thêm một
màn hạ tượng trưng hình Bảo Đại treo nơi phòng Khánh Tiết. Một đồng bào quá
hăng say vác khung hình ném qua cửa, xuống mặt đường trước Tòa Đô Chính, may
sao không gây thương tích cho người qua lại. Đồng bào lại yêu cầu được thấy mặt
Tướng lĩnh Trình Minh Thế, Nguyễn Thành Phương và Nguyễn Giác Ngộ, là những
nhân vật của các tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Kháng Chiến Việt Nam, Việt Nam Phục
Quốc Hội, và Việt Nam Dân Xã Đảng. Ba ông này liền xuất hiện một lượt, và được đón
tiếp bằng một tràng pháo tay bất tận.
Tướng Nguyễn Thành Phương vốn có tham vọng riêng, nên đã thuyết
phục Tướng Trình Minh Thế và Trướng Nguyễn Giác Ngộ thừa dịp này đứng chung với
nhau thành một “Hội Đồng Chỉ Đạo” bao trùm lên Ủy Ban Cách Mạng. Tôi biết Tướng
Thế bất đắc dĩ phải nghe lời ông Phương, vì Tướng Thế đã đồng ý với tôi rằng:
Chỉ một mình Ủy Ban Cách Mạng do các đảng phái và nhân sĩ chính thức bầu ra mới
có uy danh thực sự. “Hội Đồng Chỉ Đạo” kia đã gây trở ngại cho chúng tôi không
ít. Ông Nguyễn Bảo Toàn rất bất mãn, nhưng ông không dám bộc lộ ý kiến của
mình. Cũng cái “Hội Đồng Chỉ Đạo” kia đã gieo rắc sự nghi ngờ trong lòng Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm, khiến Chính Phủ càng ngày mất thiện cảm với Tướng Nguyễn Thành
Phương và đưa ông tới chỗ suy bại sau này…
Đã thế, cá nhân Hồ Hán Sơn lại phạm thêm một lỗi lầm ngoại giao
khác nữa đối với Chính quyền, khiến bầu không khí càng thêm khó thở. Số là ngày
mồng 3 tháng 8, Hồ Hán Sơn cùng đi với tôi vào Dinh Độc Lập thăm viếng Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm. Câu chuyện đang vui vẻ, thì chợt Hồ Hán Sơn buột mồm nói với Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm một câu: “Xin Cụ cứ lo việc chính quyền, còn phần đại chúng
xin cứ để mặc chúng tôi điều động”. Tôi chết sững trong lòng trước câu nói quá
sức vụng về này. Thủ Tướng Ngô Đình Diệm sa sầm nét mặt. Ông có thói quen khi
ngồi tiếp khách thì chắp hai tay trước mặt, không bao giờ ngồi gác chân nọ lên
chân kia hoặc dựa ngửa trên ghế. Và hễ găp chuyện bất bình, thì đôi mắt lộ vẻ
như chẳng nhìn ai, và ông nói lãng sang chuyện khác ngay.
“Thôi chẳng còn gì nữa. Thế này thì rõ ràng là Ủy Ban Cách Mạng
manh tâm khống chế quần chúng, đặt chính phủ vào địa vị bù nhìn, rồi có ngày sẽ
cướp đoạt chứ chẳng sai”. Tôi chắc Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã nghĩ như thế. Hồ
Hán Sơn vô tình vẽ ra trong đầu óc của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm hình ảnh một
Nguyễn Thành Phương “phản nghịch” mà Chính quyền cần phải đối phó. Lúc trở về,
tôi thẳng thắn cự tuyệt Hồ Hán Sơn về câu nói vô trách nhiệm của anh. Sơn biết
lỗi, ngồi im thin thít.
Do những bất trắc vừa kể ở trên, mối liên lạc giữa Chính quyền với
Ủy Ban Cách Mạng càng ngày càng căng thẳng đến độ nghẹt thở. Trụ sở Cách Mạng đặt
tại số 25, đường Phùng Khắc Khoan (nhà riêng của Lai Hữu Tài, Cố Vấn Bình
Xuyên, do Chính quyền tịch thu, và nhường cho Cách Mạng) bị Cảnh sát bao vây,
khiến tôi phải gọi ông Nguyễn Bảo Toàn cùng tôi đích thân can thiệp, câu chuyện
mới được yên. Nguyễn Bảo Toàn chán nản, bỏ sang Phi Luật Tân một dạo, rồi âm thầm
rút khỏi Ủy Ban Cách Mạng. Hồ Hán Sơn cũng bị Tướng Nguyễn Thành Phương kéo về
nằm yên một xó, chẳng hiểu vì sao. Chỉ còn mình tôi miễn cưỡng chống đỡ tòa nhà
đang suy sụp cho tới khi tôi bỏ nước ra đi.
Xin nói tiếp về cuộc họp nhân sĩ tại phòng Khánh Tiết hôm 30
tháng 4. Sau khi cử tọa biểu quyết xong bản Quyết Nghị triệt để ủng hộ Ủy Ban
Cách Mạng, thì giải tán. Còn phần chúng tôi thì rủ nhau đi bộ vào Dinh Độc Lập
để thông báo cho thủ Tướng Ngô Đình Diệm biết các diễn tiến, nói đúng hơn là để
giới thiệu với Thủ Tướng rằng lòng dân nay đã hướng về một phía, không còn muốn
thấy nước nhà dây dưa gì với Bảo Đại nữa cả. Phái đoàn có cả Tướng Nguyễn Giác
Ngộ và Nguyễn Thành Phương.
Khi tới nơi vào khoảng 6 giờ chiều. Chúng tôi bắt gặp một số
đông Sĩ quan “Quân Đội Quốc Gia” ước chừng 50 người đang ngồi chật cả phòng
khách ở tầng dưới Dinh Độc Lập. Trên lầu, chúng tôi lại thấy Thiếu Tướng Lê Văn
Tỵ đang ngồi trong một phòng khách nhỏ với một tướng khác mà tôi không biết
tên. Thấy hơi lạ, tôi bèn nhờ Đại Úy Tùy Viên Tạ Thành Long kín đáo đi dò xét
tình hình xem tại sao Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lại định tiếp kiến với quá nhiều
Sĩ quan như vậy. Tạ Thành Long tìm hiểu được lý do, vội vàng hốt hoảng trở lại
cho hay là Tướng Nguyễn Văn Vỹ (người cùng ngồi với Tướng Tỵ) đã thừa lệnh Bảo
Đại cướp đoạt quyền bính trong tay của Tướng Tỵ từ lúc chiều, và được Tướng Tỵ
cùng các Sĩ quan kia hộ tống vào Dinh Độc Lập để cướp nốt quyền lãnh đạo chính
phủ trong tay của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Như thế, có nghĩa là số người này
hoàn toàn đồng lõa với Tướng Vỹ, kéo nhau vào đây tuy không gươm không đao,
nhưng rõ ràng là muốn lấy số đông gây áp lực, bao vây Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
như bao vây một con chim nhỏ, để bắt buộc Ông đàng nào cũng phải nhượng bộ, rời
khỏi chính quyền. Cần nhắc lại rằng, Bảo Đại không những triệu thỉnh thủ Tướng
Ngô Đình Diệm sang Pháp, mà còn đòi hỏi cả tướng Lê Văn Tỵ cũng phải bỏ cả nhiệm
vụ đi theo. Mặt khác, Bảo Đại đặc phong cho Tướng Nguyễn Văn Vỹ làm “Tổng Tư Lệnh
Quân Đội Quốc Gia”, một điều khác mà các tướng Trình Minh Thế, Nguyễn Giác Ngộ
và Nguyễn Thành Phương đã công khai phản đối bằng một Quyết nghị chung.
Hành động như trên, quả thực Bảo Đại đã vượt ra ngoài phạm vi thể
chế đương thời. Vì một chế độ với Quốc Trưởng, với Thủ Tướng, thì chức Tổng Tư
Lệnh phải thuộc về tay Quốc Trưởng, còn người cầm đầu Quân đội chỉ có thể là Tổng
Tham Mưu Trưởng mà thôi. Gia chí dĩ, Thủ Tướng Ngô Đình Điệm khi lãnh đạo chính
quyền với điều kiện “Thừa lệnh Đức Quốc Trưởng” tức là mặc nhiên đã là người
thay mặt Quốc Trưởng một cách hợp pháp, và mặc nhiên nắm quyền Tổng Tư Lệnh Tối
Cao. Vậy tại sao Bảo Đại còn phong chức “Tổng Tư Lệnh” cho Tướng Nguyễn Văn Vỹ
nữa?
Khi nghe biết về biến cố trọng đại như trên, ai nấy bàng hoàng sửng
sốt. Biết được người đeo lon tướng lạ mặt kia là Tướng Nguyễn Văn Vỹ, tôi liền
nảy ngay ý kiến bắt ông ta tại chỗ. Tôi chỉ kịp bàn qua vài câu với các Tướng
Trình Minh Thế và Nguyễn Thành Phương, và cả hai ông đồng ý gật đầu cho tôi ra
tay. Thế là tôi lặng lẽ tiến ra hành lang phía sau Dinh Độc Lập, khi tới chỗ
phòng khách nơi tướng Nguyễn Văn Vỹ đang ngồi tư lự, tôi nhanh nhẹn rút khẩu
súng Colt-45 trong chiếc cặp ra, chỉa thẳng vào người tướng Vỹ, ra lệnh:
– Dơ tay lên! Không tôi bắn!
Trướng Lê Văn Tỵ trông thấy trước, vội đứng ngay lên, và Tướng Vỹ
cũng hoảng hốt đứng lên theo, hai tay dơ cao khỏi đầu. Tướng Tỵ liền liều mạng
chạy lại ôm lấy tôi, năn nỉ can thiệp để cứu Tướng Vỹ, nhưng tôi sợ ông ta thừa
cơ đoạt súng, nên đưa tay trái gạt ông ra và bảo:
– Việc này không có liên hệ tới Thiếu Tướng, xin đừng làm trở ngại.
Mặt khác, tôi gọi Hồ Hán Sơn và bảo:
– Hãy bóc hộ ga lông của ông này cho tôi!
Hồ Hán Sơn tức khắc thi hành theo lệnh, mà hai tay run lẩy bẩy,
vì anh chỉ sợ tôi nóng giận nổ súng bắn nhầm anh.
Một phóng viên ngoại quốc – nếu tôi nhớ không lầm là Francois
Sully – không biết chờ chực từ lúc nào ngoài hành lang, đã nhanh nhẹn đẩy một
chiếc ghế tới trước cửa, rồi nhảy phóc lên, bấm vội một bức ảnh duy nhất về cái
khung cảnh Tướng Nguyễn Văn Vỹ đang giơ tay đầu hàng, xong lại biến đi tức khắc
cũng vì sợ tôi bắn phải anh ta. Bức ảnh hiếm hoi này sau đó đã xuất hiện trên
nhiều tờ báo ngoại quốc, đáng kể là tờ LIFE, trong số phát hành hồi tháng 7 năm
1955, đã đăng một loạt những tấm hình sống động về việc tôi bắt Tướng Vỹ.
Thủ Tướng Ngô Đình Diệm cũng được báo tin. Ông tất tả chạy vào
ôm lấy tôi ngay trước mũi súng, và hổn hển nói:
“Tôi xin ngài! Tôi xin ngài đừng làm đổ máu tại đây. Việc gì còn
có tôi đây giải quyết, xin ngài đừng nóng giận!”
Thủ Tướng Ngô đình Diệm miệng nói, tay ông dơ lên che chở cho Tướng
Vỹ, rồi đẩy dần Tướng Vỹ ra khỏi gian phòng, đưa thẳng về chỗ ngủ riêng của Thủ
Tướng ở đàng cuối Dinh Độc Lập trông ra đường Hồng Thập Tự. Tướng Lê Văn Tỵ bị
tôi cưỡng bức ngồi yên một chỗ, còn các Sĩ quan theo ông đang ngồi đợi dưới lầu
đều không hay biết gì cả. Tướng Thế và Tướng Phương dùng điện thoại liên lạc về
Tổng Hành Dinh, ra lệnh cho các đơn vị võ trang sẵn sàng ứng chiến. Phần tôi, ở
cái thế “cưỡi đầu voi dữ”, tôi ra lệnh cho mọi người trong Dinh Độc Lập tuyệt đối
không được xuất nhập.
Một lát sau, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm cho mời tôi và Hồ Hán Sơn
vào gặp ông với Tướng Vỹ ngay tại phòng ngủ. Cả Tướng Lê Văn Tỵ cũng đi theo.
Tôi khóa trái cửa phòng lại, và bỏ chìa khóa vào túi áo. Chúng tôi năm người ngồi
chung quanh một bộ xa lông thấp nhỏ, trước giường nằm của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm,
trên đầu có treo Thánh Giá. Cuộc điều đình gay go bắt đầu. Tướng Vỹ thấy được
thủ Tướng Ngô Đình Diệm ra tay che chở, thì lấy làm yên tâm lại tỏ vẻ cứng đầu,
còn nuôi cái mộng sẽ quật ngược tình thế. Tôi vẫn giữ nguyên lập trường cứng rắn,
là bắt giữ tướng Vỹ đưa ông về Núi Bà giam giữ, vì ông đã đi ngược lại con đường
Cách Mạng, âm mưu cướp quyền Tham Mưu Trưởng trong tay Tướng Lê Văn Tỵ giữa lúc
Đô Thành đang có biến. Tôi quay hỏi Tướng Tỵ xem có phải như vậy không, Tướng Tỵ
gật đầu xác nhận. Ông còn nói thêm, là ông đã tự ý nhường quyền Tham Mưu Trưởng
cho Nguyễn Văn Vỹ chiều nay, và ông với các Sĩ quan Tham mưu đã hộ tống Nguyễn
Văn Vỹ vào Dinh Độc Lập theo lời của Nguyễn Văn Vỹ.
Cái chết của Tướng Trình Minh Thế
Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm đang gắn lon Thiếu Tướng cho Tướng Trình Minh thế vào ngày
13-2-1955. Để rồi chưa đầy ba tháng sau Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã ôm thi hài
của Tướng Thế, hôn lên mắt, mà khóc thương cho một chiến sĩ Quốc Gia đã ngã xuống
bởi tên tay sai của Pháp: Mai Hữu Xuân.
Tướng Thế mất lúc 7 giờ chiều
mùng 3 tháng 5 năm 1955. Ông bị một viên đạn Carbine duy nhất bắn vào lỗ
tai bên phải xuyên thẳng qua mắt trái, tròng mắt bay mất. Khói đạn còn dính bên
tai, chứng tỏ kẻ sát nhân phải đứng gần lắm nên mới chính xác như vậy. Một con
mắt còn lại nhắm nghiền, hàm răng giả của ông cũng đã bay đâu mất. Theo lời Đại
úy Tạ Thành Long báo cáo, và chính tôi cũng được Long dẫn đi khám trận, thì một
vài phút trước khi Tướng Thế bị hạ sát, ông đang đứng cạnh một bức tường
hoa đã đổ nát (ngay dưới chân cầu Tân Thuận, phía Sài Gòn đi xuống, phải vòng
theo một con đường nhỏ về phía tay trái mới tới được nơi ấy). Ông đưa tay chỉ
trỏ, ra lệnh cho quân nhà bắn vào một chiếc Frégate đậu bên kia cầu mà ông nghi
là của Pháp giả vờ nằm đó để làm hiệu cho đối phương bắn về phía ông. Cứ theo vị
trí kể trên, thì viên đạn đi xéo từ bên phải ở phía sau, trúng ngay lỗ tai, mà
người bắn ra viên đạn ấy không thể cách xa hơn 10 thước, và ắt đã núp dưới chân
cầu, sau lưng mục tiêu. Tướng Thế chết gục tức khắc, không kịp thốt ra một lời
nào. Giữa lúc ấy, thì quân Liên Minh đang tiến qua cầu, một chiếc xe Jeep bị bắn
hỏng, nằm chết giữa cầu, theo lời tường thuật của Đại úy Nguyễn Tấn Ước.
… Một lúc sau, Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu đều đòi ra thăm. Nhưng chúng tôi thành khẩn
khuyên hai nhân vật quan trọng ấy là xin hãy đợi tới sáng hôm sau, chứ đừng đến
giữa đêm khuya, vì thành phố Sài Gòn đang có biến, an ninh không được bảo đảm.
Thế là tờ mờ sáng hôm sau
(4-5-1955) điện đường chưa tắt, Thủ tướng Ngô Đình Diệm, Cố vấn Ngô Đình Nhu,
cùng toàn bộ nội các và Bộ Tham Mưu (do Tướng Lê Văn Tỵ hướng dẫn), đều tề tựu
đông đủ trên căn gác nhỏ ở đường Trương Minh Giảng.
… Thủ tướng Ngô
Đình Diệm tức thì có một cử chỉ làm anh em chúng tôi vô cùng xúc động và còn nhớ
mãi tới bây giờ. Ông đầm đìa nước mắt, cúi xuống ôm ghì lấy thi hài Tướng Thế,
rồi hôn ngay trên mặt người chết. Tiếp đó, ông ngất xỉu luôn. Mọi người hốt hoảng,
vội vàng tìm cách cứu chữa, mãi một lát sau Ông mới hồi tỉnh, và rồi khóc. Còn
Ông Nhu thì quỳ bên giường, vừa nắm tay người chết vừa kêu than “Anh Thế ơi!” với
một giọng ai oán đầy nước mắt. Chúng tôi thật sự không ngờ Thủ tướng Ngô Đình
Diệm lại đau khổ đến mức ấy. Ông như người mất một người ruột thịt yêu quý nhất
trên đời!
Ngày mồng 6 tháng 5 được ấn
định là ngày cử hành tang lễ cho Cố Trung tướng Trình Minh Thế. Đúng 9 giờ sáng
hôm ấy, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đích thân đọc điếu văn trước linh cửu, bấy giờ
đã được chuyển ra ngoài công trường Tòa Đô Chính. Tiếng nức nở của Thủ tướng Diệm
lại vang lên trong máy vi âm. Sau đó, quan tài được đặt trên một chiếc thiết
giáp phủ Quốc Kỳ, lìa khỏi Sài Gòn, tiến theo con đường lên Tây Ninh. Thủ tướng
Ngô Đình Diệm tiễn theo linh cữu tới gần chợ Sài Gòn mới quay trở lại.
… Trước hết, các thành phần
không ưa Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho rằng ông Diệm hoặc ông Nhu đã nhúng tay
vào máu, trừ khử một người tuy có công với chính quyền, nhưng lại rất “nguy hiểm”
cho chính quyền. Thú thật, ngay buổi đầu, lòng tôi cũng đã có nghi ngờ ấy.
Nhưng rồi tôi lại tự bác bỏ ngay. Xét về lý thuyết, Tổng Thống Diệm không dại
gì vội vàng chặt đứt chân tay mình bằng cái chết của Trình Minh Thế, ngay giữa
lúc đối phương đang triệt để lũng đoạn tình hình, khuynh đảo chính quyền. Dù quả
thật Trình Minh Thế có “nguy hiểm” chăng nữa, thì cũng vẫn chưa phải lúc
để ra tay. Uy danh Trình Minh Thế còn đang hữu ích đối với chính quyền…
1 - Pháp hết sức căm thù Trình Minh Thế
và đã công khai lên án tử hình khiếm diện hồi 1951, khi Trình Minh Thế vừa ra
khu. Việc này thật dễ hiểu, vì chẳng những Trình Minh Thế lập chiến khu chống
Pháp công khai, mà trước đó không bao lâu, chính Trình Minh Thế đã chủ trương vụ
ám sát Tướng Chanson và Thái Lập Thành, giao cho thuộc hạ thân tín lúc bấy giờ
là Đại úy Văn Thành Cao, Chỉ Huy Trưởng Quân Đội Cao Đài tại Sa Đéc, thi hành
công tác mạo hiểm này.
2 - Một Thiếu tá phi công của
Pháp bị Trình Minh Thế bắn chết, khi viên phi công này bay thám thính trên chiến
khu Bù Lu.
3 - Hai quả bom khiêu chiến của
Liên Minh tại Sài Gòn ngày mồng 9 tháng 1 năm 1952, là một cái tát đau đớn vào
mặt nhà cầm quyền Pháp, báo hiệu cho Pháp biết Trình Minh Thế là một địch thủ lợi
hại, cần phải trừ khử bất cứ lúc nào.
4 - Hai tên chủ đồn điền người
Pháp tại Tây Ninh bị Trung tá Nguyễn Trung Thừa bắt được và hạ sát hồi cuối năm
1954. Pháp vô cùng phẫn uất, nhờ Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc phải đền bồi này nọ.
Mai Hữu Xuân là một nhân
viên tình báo nổi tiếng phục vụ cho quyền lợi của Pháp ở Việt Nam. Tên này chưa
hề ra trận mạc bao giờ, mà vẫn lên tới cấp Tướng của Pháp, đủ biết hắn ta được
lòng tin cậy của Pháp như thế nào. Các tin tức thu lượm được cho hay Mai Hữu
Xuân đã tổ chức sai người theo dõi Trình Minh Thế từ khi Thế mới về thành, và
khi biết Thế thân hành ra chỉ huy mặt trận tại cầu Tân Thuận, thì Mai Hữu Xuân
sai bộ hạ phục sẵn dưới cầu, thừa lúc chiến sự đang sôi nổi hỗn loạn, bắn ngay
một phát súng Carbine từ đàng sau tới, rồi biến vào nhà dân gần đó.
Và câu kết luận của tôi là Trình
Minh Thế đã bỏ mình vì thực dân Pháp, chứ chẳng ai khác. Trình Minh Thế bị ám
sát bởi tay sĩ quan tôi tớ của pháp. Thủ phạm chính thi hành vụ ám sát
kia chính là Tướng Mai Hữu Xuân, người mà tám năm sau đã thay mặt bọn Dương Văn
Minh đã hạ sát cảTổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô ĐìnhNhu.
Cái chết của Hồ Hán Sơn
Phong Trào Kháng Chiến Trình Minh Thế,
nơi trang 296:
“Ngày 15 tháng 2 năm 1956, Thủ tướng
Ngô Đình Diệm bất thình lình cử Tướng Văn Thành Cao cầm đầu Chiến Dịch Bình Định
Miền Đông, đặt Bộ chỉ huy tại Tòa thánh Tây Ninh. Đối với Tướng Phương, là cái
hậu quả tất yếu của việc Phương chống báng. Ông này vô cùng hoảng hốt lo sợ. Thừa
dịp ấy, bí thư của ông là Trung úy N.N.V, một người ít học nhưng nhiều tham vọng,
lại sẵn có mối thù riêng với Hồ Hán Sơn từ thưở nào, nên không cần đợi lệnh thượng
cấp, N.N.V, đem ngay Hồ Hán Sơn ra giết chết, rồi ném thây xuống giếng, lấp lại.
Trước khi thọ hình, Sơn còn để lại nhiều bài thơ nghĩa khí trên vách
nhà giam, mà tôi không nhớ được. Chính Văn Thành Cao đã chỉ cho tôi xem
nơi Hồ Hán Sơn bị vùi dập. Cái chết oan ức này của người anh em Hồ Hán Sơn đã
là lý do khiến tôi phải gấp rút bỏ nước ra đi ngày 20-2- năm ấy.
Việc Hồ Hán Sơn bị giết, tôi biết
như trên, nhưng tôi cũng đành để bụng, và không nỡ trách Tướng Phương trong cơn
bối rối, đã để xảy ra một tấn kịch đau thương!
-----------------------------------------------
Chú thích:
Vì lúc viết sách Phong Trào Kháng Chiến
Trình Minh Thế, viên Đại tá Savani của Pháp chưa lên tiếng xác nhận chính
ông ta đã giết chết Tướng Trình Minh Thế. Do đó, tác giả Nhị Lang không đọc
được tài liệu này.
Vậy, nhân đây Hồn Việt UK Oline
hon-viet.co.uk xin bổ sung tài liệu do Hàn Giang Trần Lệ Tuyền sưu tầm về
Đại Tá Savani (tình báo của Pháp) đã công khai trong sách, nhận chính ông ta đã
giết Tướng Trình Minh Thế như sau:
Tiết lộ của Đại Tá Savani (tình
báocủa Pháp) là một viên Trung Úy:
( Jean Lartéguy,
“Soldats perdus et fous de dieu”, (pages 244-245)
“C'est moi
qui ai tué Trinh Minh Thế. Non, je ne tenais pas la carabine, mais j'avais tout
préparé. Il fut tué d'une seule balle en pleine tête, par l'un de mes hommes,
sur le pont de Bình Đại. Le coup n'est pas parti de la vedette. Cet homme put
ensuite disparaitre sans difficuté. Son nom ne vous dirait rien. Disons qu'il
portait ce jour- là les galons de lieutenant. À l'exception de la bande à
Lansdale, tous me furent reconnaissants de son exécution. Y compris Diệm qui
n'aurait pas duré longtemps si Thế n'avait pas disparu. Je L'ai fait exécuter,
non pour faire plaisir à Diệm ou aider les Bình Xuyên, mais pour venger le
général Chanson, comme je me l'étais juré”. ( Jean Lartéguy,
“Soldats perdus et fous de dieu”, (pages 244-245)
Dịch:
“Chính tôi
đã giết Trình Minh Thế. Không, tôi không đích thân cầm cây súng Carbine đó,
nhưng tôi đã chuẩn bị mọi việc chu đáo. Thế bị giết bằng một viên đạn duy nhứt
bắn ngay vào đầu, do một người trong nhóm thuộc hạ của tôi bắn trên cầu Bình Đại.
Viên đạn này không bắn từ tàu Vedette. Tên thuộc hạ đó biến mất sau đó, không
có gì là khó khăn. Cái tên của hắn cũng chẳng cần nói lên làm gì. Có thể nói rằng,
ngày hôm đó, hắn ta mang lon Trung úy. Ngoại trừ phe nhóm của Lansdale, còn tất
cả đều biết ơn tôi về vụ hành quyết Thế. Kể cả ông Diệm là ngừơi sẽ khó tồn tại
lâu dài nếu Thế không biến mất. Tôi ra lệnh hành quyết Thế, không phải để làm vui
lòng ông Diệm hoặc để giúp bọn Bình Xuyên, mà chính là để trả thù cho Tướng
Chanson, như tôi đã tự thề thốt với lòng”. (trang 244-245).
Nhận xét:
Tài liệu bị
Jean Lartéguy ghi sai là cầu Binh Dai thực ra là cầu Tân Thuận.
Nhưng
chúng ta nên hiểu là Thiếu Tá Savani cũng chỉ được phúc trình chính thức là 1
viên đạn, hung thủ không dại gì phúc trình 2 viên đạn (điều nầy khiến nó bị khiển
trách, vì thông báo chính thức là Tướng Thế bị bắn sẻ và chết vì 1 viên đạn). Chính
quyền cũng chỉ được thông báo là 1 viên đạn (do Tạ Thành Long).
Viên Trung
Úy mà Savani nói là người Việt chứ không phải là người Pháp, cho nên nó dễ trà
trộn vào đám đông đang hỗn lọan trong lúc cái tin sét đánh ngang mày: Tướng Thế
bị tử thương.
Những người biết suy nghĩ và trung thực,
vẫn nghĩ cái tên "Giám sát" nầy là Mai Hữu Xuân, vì bọn mật thám của
Pháp vô cùng hung ác và thâm mưu, chúng là đại họa của dân tộc ta từ thời Pháp
thuộc. Chúng còn tác hại trong thời Đệ Nhất và cả Đệ Nhị VNCH.
Và lúc đó, có 2 sĩ quan của quân
đội quốc gia (chuyển từ Vệ Binh Đòan, tức lính người Việt do Pháp tuyển mộ, để
có lính giúp quân đội Pháp mà đánh với Việt Minh) xin lên ngồi xe với Tướng Thế
(mà Tướng Thế lầm tưởng chúng là người của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phái đến). 2
tên nầy (một Trung Tá là Mai Hữu Xuân và một viên Trung Úy) còn hành động cho
quân đội Pháp mặc dù đã chuyển giao cho phía VN.
Tên đóng vai trò "giám
sát" sẽ rình cơ hội thuận tiện nhất mà ra hiệu cho tên hung thủ ngồi ở vị
trí ra tay ám tóan. Tướng Thế đang lo mặt trận không để ý gì đến hành vi của
chúng, mà ông tưởng lầm là bây giờ quân đội VN và Cao Đài là “người một nhà”. Bất
cứ người nào ở Miền Nam vào thời buổi đó cũng lầm tưởng như vậy.
Cho nên hung thủ ngồi rất gần Tướng
Thế, ngồi ngay sau lưng ông, nó ra tay chớp nhóang, các vết thương chỉ rõ tầm bắn
rất gần. Cho nên dấu tích của vết thương nói lên điều đó.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen