“Máu V2 có thể chảy nhưng đường V2 không thể tắc”
(Biển tuyên
truyền trên đường mòn Hồ Chí Minh trong thời kỳ chiến tranh)
“Lúc ấy họ là những
người lính chỉ đáng giá ba xu”
(Những cô gái bị lãng quên của Đường
mòn Hồ Chí Minh, 2003)
Dẫn nhập
Dù “chiến tranh
Việt Nam” đã chính thức kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 với sự sụp đổ của
chính quyền Sài Gòn cách đây 35 năm, nhưng sự xung đột tại Việt Nam vẫn còn là
đề tài cho rất nhiều câu hỏi đang được nghiên cứu. Như mọi người đều biết, từ
năm 1954 đến 1975, ngoài việc bị lôi cuốn trong khuôn khổ Chiến tranh lạnh
với một tầm vóc quốc tế quan trọng, sự xung đột này được thể hiện dưới
hình thức một cuộc chiến huynh đệ tương tàn giữa hai Nhà nước đối lập nhau về mặt
ý thức hệ và ngăn cách nhau bằng một đường biên giới. Ai cũng biết rõ những
khía cạnh chính trị và quân sự của cuộc chiến, nhưng còn những vùng tối khác cần
phải được nghiên cứu thêm, đặc biệt là ảnh hưởng của nó với các lực lượng dân
công, bản chất của những đoàn quân được tuyển mộ, vai trò của phụ nữ, hàng loạt
vấn đề xoay quanh “văn hóa chiến tranh” và những đoàn thể bị mắc trong gọng kềm
của cuộc chiến đó.
Khi nêu lên vấn
đề về bản chất của cuộc chiến, công trình nghiên cứu này nhằm mục đích nghiên cứu
lịch sử của một lực lượng xã hội và quân sự có tên là “Thanh niên xung phong”
trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam giữa hai nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền
Bắc) và Việt Nam Cộng hòa (miền Nam) chủ yếu diễn ra từ năm 1965 đến 1975. Nụ
cười rạng rỡ của các cô gái anh hùng trên nhật báo và phim ảnh tuyên truyền của
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến tranh đã chu du khắp thế giới, nhưng số
phận bi thảm của chính những người nữ anh hùng vô danh này vẫn chưa được mọi
người biết đến đầy đủ. Vấn đề này vẫn còn mang tính nhạy cảm ở Việt Nam dù người
ta đã giới thiệu một bộ sử mang tính thực chứng về cuộc đấu tranh giải phóng đất
nước; bộ sử này mới đây đã góp phần trong việc xác định một vị trí quan trọng
hơn của các nhân vật lịch sử bị lãng quên, đặc biệt là của thành viên các đoàn
Thanh niên xung phong.
Được chia làm bốn
phần, đề tài tôi sẽ đề cập đến là cuộc phiêu lưu đầy giông bão của những “Thanh
niên xung phong” đắm chìm trong ngọn lửa chiến tranh. Trong phần đầu, điều quan
trọng là đặt ra những cột mốc lịch sử cần thiết để người đọc hiểu được việc
hình thành lực lượng tập thể phục vụ chiến tranh này và, trong phần thứ hai, nhận
ra được cơ cấu của nó, cùng những nam nữ thanh niên đã tham gia trong cuộc.
Trong phần thứ ba, tôi xem xét hiện thực khốc liệt đổ lên cơ thể thanh niên
xung phong, những người trải qua bao gian khó chiến tranh; đây cũng là vấn đề
trọng tâm của công trình nghiên cứu này. Tôi sẽ phác thảo bức tranh những cơ thể
trong chiến tranh này, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng; tôi sẽ xem xét quá
trình sáng tạo, kết cấu, tan rã và cuối cùng là tái tạo những cơ thể đó. Trong
phần cuối, tôi sẽ đề cập một cách ngắn gọn hậu quả của kinh nghiệm bi thảm này,
và xem xét vai trò của các yếu tố tâm lý và hồi ức cá nhân, cũng như các nhân tố
xã hội và lịch sử có liên quan. Những người chịu trách nhiệm và việc quản lý
khó khăn thời hậu chiến sẽ được đề cập ngầm ẩn trong phần kết luận của công
trình nghiên cứu bước đầu này.
I. Yêu cầu của cuộc chiến tranh nhân
dân: việc hình thành một lực lượng thanh niên tập thể đặc biệt
Nhiệm vụ đầu tiên của “thời đại lịch sử”
của chúng ta là dựng lên những cột mốc cần thiết để mọi người hiểu được hiện tượng
này. Tuy nhiên, trước khi ta đi sâu vào quá trình hình thành của lực lượng tập
thể ấy, thiết tưởng cần phải phân tích bản thân khái niệm về Thanh niên xung
phong (sau đây viết tắt là TNXP). Có nhiều cách dịch cụm từ này bằng tiếng Anh
cũng như tiếng Pháp[1]. Tên gọi “TNXP”, được sử dụng để chỉ một tập
hợp thanh niên nguyện hiến “thể xác và tâm hồn” cho chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa trong chiến tranh, dẫn đến nhiều khía cạnh cần phải xác định lại. Đó
là một tổ chức xã hội và chính trị bao gồm những người trẻ (thanh niên) và được
Nhà nước – Đảng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lập ra từ năm 1950. Tổ chức
này được chỉ định phải hoàn thành một nhiệm vụ được miêu tả bằng những thuật ngữ
như “xung phong” hoặc “xung kích”, một hình dung từ mạnh mẽ miêu tả một lực lượng
thanh niên sẵn sàng xông lên, trong lòng họ chủ nghĩa duy ý chí hòa lẫn với
lòng yêu nước[2].
Sự xuất hiện của lực lượng này – trên
khái niệm có thể được xác định bằng ngày tháng cụ thể. Thuật ngữ này chính thức
xuất hiện trong một chỉ thị của Ban thường vụ trung ương ngày 3 tháng 5 năm
1950 có liên quan đến chiến dịch động viên cho biên giới Việt-Trung khi chiến
tranh Đông Dương đang lúc đỉnh điểm[3].
Tiêu đề của chỉ thị đã chỉ ra mục đích phục vụ quân sự: “Về việc sửa đường và
vận tải”. Dù ngôn từ còn chịu ảnh hưởng khá nặng của chủ nghĩa Mao (Thanh niên
Đột kích Đội -青年突击队/ Youth
Shock Brigades), chỉ thị ngày 3 tháng 5 năm 1950 sử dụng trực tiếp cụm từ tiếng
Pháp “brigade de choc”, một cụm từ chính trị-quân sự thông dụng trong các đảng
cộng sản châu Âu thời bấy giờ.
Tính độc đáo và đặc thù của Việt Nam
chính là đã chuyển đổi thuật ngữ này, xuất phát từ ngôn ngữ chính trị Trung-Xô,
thành một thuật ngữ đặc trưng gắn liền với chiến tranh và với việc tái thiết hậu
chiến. Những TNXP sẽ là đội tiên phong của hậu tuyến thời chiến tranh (hậu cần:
phục vụ tuyến sau) và của việc chuyển sang xã hội chủ nghĩa trong thời bình.
Tính đặc trưng của lực lượng này được nhắc lại trong định nghĩa rõ ràng của Trần
Hữu Đính: “[là] một đội
quân lao động,
chiến đấu đặc biệt của tuổi trẻ Việt Nam và là một lực lượng dự bị hùng hậu
cho giai cấp công nhân Việt Nam ”[4].
Trong thời chiến, đội hậu vệ ở tuyến đầu này sẽ là những “tay và chân của cuộc
chiến”. Bách khoa Toàn thư Quân sự Việt Nam đưa ra một định nghĩa khác, trong
đó những nhiệm vụ của TNXP được xác định rõ ràng hơn: “[là] lực lượng thanh
niên Việt Nam tự nguyện, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phục vụ chiến đấu
và một số nhiệm vụ khác (mở đường, sửa chữa đường, điều chỉnh giao thông,
vận chuyển hàng quân sự, tải thương, quan sát và đánh dấu vị trí bom nổ chậm,
thủy lôi của địch…)”[5]. Về mặt lý thuyết, nhiều chỉ thị được soạn
thảo trong thời gian này đều nhắc nhở rằng thanh niên xung phong “là một lực lượng lao động đặc biệt,
có ba nhiệm vụ: lao động sản xuất, sẵn sàng chiến đấu và học tập rèn
luyện ”[6].
Những lời minh chứng của các cựu TNXP
xác định vai trò thực sự của họ: “Trước những trận đánh, họ luôn ‘đi trước’
mở đường, xây dựng chiến tuyến, rồi trực tiếp tham gia chiến đấu, cuối cùng
họ lại chính là những người ‘về sau’ thu dọn chiến trường, tải thương, chôn cất
liệt sĩ”[7]. Cụm từ “những người đi trước về sau”
tự thân nó đã tổng kết được nhiệm vụ khổng lồ trên giao cho họ.
Dựa trên cụm từ chung “Thanh niên xung
phong”, nhiều khái niệm đã được những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam chọn lựa
để nối kết lực lượng thanh niên này vào quá trình tiến hóa của lịch sử và việc
chép sử, vào các tình huống chiến tranh khác nhau từ 1950 đến 1975. Theo ghi
chép trong sách sử chính thức, có nhiều lực lượng đã nối tiếp nhau kể từ tháng
bảy 1950 và cũng được phân chia thành ba “thế hệ” lớn: thế hệ TNXP tham gia
cuộc kháng chiến chống Pháp; thế hệ TNXP chống Mỹ, giải phóng miền Nam;
thế hệ TNXP xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (sau đại thắng mùa Xuân 1975)[8].
Có thể nói, dù xuất phát từ một nguồn gốc mang đậm dấu ấn của thế giới cộng sản,
một kiểu mẫu Việt Nam mang tính quốc gia đã được lập ra cùng với cuộc chiến. Từ
năm 1965, lực lượng tập thể Thanh niên xung phong đã được đặt cho một cái tên
viết tắt là “TNXP”, một phù hiệu biểu trưng[9],
một màu xanh lá cây riêng biệt, một nền văn hóa (các khẩu hiệu, bài ca, phim ảnh)[10].
Bằng cách này, lực lượng – trên khái niệm và lực lượng tập thể TNXP trở nên rất
dễ nhận ra. Ở đây tôi đặc biệt quan tâm đến các lực lượng TNXP được gọi là “chống
Mỹ cứu nước” từ năm 1965 đến năm 1975.
Ngày 15 tháng bảy 1950, Hồ Chí Minh quyết
định thành lập một lực lượng thanh niên đặc biệt để phục vụ chiến tranh. Thế
là, một lần nữa, chúng ta thấy được cao trào của việc Mao-hóa trong quân đội
nhân dân Việt Nam và có thể xác chứng được rằng, những TNXP đều phát xuất từ
quá trình này. Để tranh thủ được sự ủng hộ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
mới được thành lập (tháng 10 năm 1949), Đảng Cộng sản Đông Dương đã vạch ra một
chiến lược chính trị quân sự mới. Vào tháng 6 năm 1950, Ban Thường vụ Trung
ương của Việt Minh quyết định chuyển mặt trận chiến đấu lên biên giới thông qua
một loạt những chiến dịch được gọi là “chiến dịch Biên giới” rồi đây sẽ giáng
trả rất ác liệt lực lượng CEFEO (Đạo quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông).
Ngoài ra, những chiến dịch này còn cho phép kiểm soát một vùng biên giới
Trung-Việt rộng lớn, mở ra những tuyến đường liên lạc với Trung Hoa của Mao và
củng cố lại chiến khu Việt Minh ở Việt Bắc[11].
Khối lượng lớn công việc này cần đến việc tuyển mộ những lực lượng bổ sung quan
trọng. Chính trong hoàn cảnh nhằm thiết lập một mối tương quan mới của lực lượng
biên giới và tranh thủ sự ủng hộ quân sự của Trung Quốc – chiến lược đánh dấu
bước ngoặt giữa chiến tranh tái chiếm của chủ nghĩa thực dân mới và mặt trận
nóng bỏng của chiến tranh lạnh – mà nhóm “TNXP” đầu tiên đã ra đời.
Từ 1950 đến 1954, các lực lượng TNXP được
thử nghiệm qua nhiều giai đoạn, một sự thử nghiệm đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp
của Hồ Chí Minh và của Vũ Kỳ, người thân tín của ông ta. Lúc đầu, khi còn được
đặt dưới sự giám sát của hai tổ chức thanh niên của Đảng Cộng sản Đông Dương[12],
những đội TNXP đầu tiên chỉ quy tụ được vỏn vẹn có 225 thành viên, một con số
được sử sách chính thức nhấn mạnh. Nhiệm vụ được trên giao cho họ với tư cách
là “dân công” trên mặt trận Đông-Bắc chủ yếu là tham gia vào nỗ lực mở những
tuyến đường và chuyển vận hàng tiếp tế vũ khí và thực phẩm[13].
Đặc biệt, lực lượng cơ động mới này còn cho phép bù đắp những thiếu thốn trong
vận chuyển bằng đường sắt và thực hiện việc vận tải trong những vùng núi non hiểm
trở khó đi lại. Nhiệm vụ của các TNXP nhanh chóng trở nên gian khổ khi họ phải
đối mặt với chiến tranh. Những tử sĩ TNXP đầu tiên đã ngã xuống trong trận Đông
Khê ngày 16 tháng 9 năm 1950. Đó là trận đánh quy mô đầu tiên đối với những
TNXP đảm bảo một phần công tác vận chuyển 8 tấn hàng quân nhu thu được của Pháp
cũng như công tác tải thương[14].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong chuyến kinh
lý thanh tra Liên phân đội TNXP 312, ngày 20 tháng 3 năm 1951, tại Nà Cù,
Bắc Kạn (vùng Việt Bắc), đã nhân cơ hội làm thơ về nhiệm vụ vẻ vang và dũng cảm
mà những thanh niên mới được tuyển mộ cần phải hoàn thành. Trong chuyến viếng
thăm bất ngờ này, người đứng đầu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ứng tác và tặng
các TNXP 4 câu thơ sau đây: “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền.
Đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên.”[15]
Với chiến thắng biên giới, được minh họa
bằng thất bại rúng động của quân Pháp từ cuối năm 1950 ở Cao Bằng, các lãnh đạo
Việt Minh quyết định mở rộng việc động viên. Trong suốt những năm sau đó cho đến
năm 1954, quân số của lực lượng đã lên đến hàng mấy vạn; theo các tài liệu
nghiên cứu quân sự thì con số này dao động từ 14.000 đến 23.000 người được tuyển
mộ[16].
Nhiệm vụ lớn cuối cùng của TNXP trong
chiến tranh chống Pháp và Chính phủ Bảo Đại được cụ thể hóa bằng việc chuẩn bị
phi thường trong trận đánh Điện Biên Phủ. Võ Nguyên Giáp đã cho tuyển mộ hàng vạn
phu tạp dịch, phu khuân vác, dân công và những nhóm “TNXP” để hoàn thành một
công việc gần như đội đá vá trời. Quân số của TNXP, vào giữa năm 1953 chỉ có
khoảng 15.000, đã tăng lên để đạt được 22.000 người mới tuyển vào thời điểm ác
liệt nhất của trận đánh[17]. Đặc biệt, 8.000 người được tuyển xuất
phát từ hàng ngũ TNXP được đưa ra trực tiếp phục vụ mặt trận để bù đắp lại những
tổn thất lớn trong quân đội nhân dân. Có nghĩa là trong số 42.000 quân được tuyển
mộ cho chiến dịch Điện Biên Phủ, cứ 5 người thì có 1 người xuất phát từ hàng
ngũ TNXP[18]. Vũ Thị Hòa thừa nhận: “Có thể nói
sự phát triển Đoàn TNXP là do yêu cầu của chiến dịch Điện Biên Phủ.”[19] Nhiệm vụ chủ yếu của TNXP trong thế trận
Điện Biên Phủ là sửa chữa và mở đường, là trợ giúp, thậm chí, trong trường hợp
cần thiết, là thay thế những người lính của bộ đội chính quy[20].
Như vậy, trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, những nhiệm vụ trên
giao cho các TNXP được phân loại như sau: mở và sửa chữa những tuyến đường
thông tin liên lạc, xây cầu và làm bè để vượt sông, lấp hố bom, phá bom nổ chậm,
vận chuyển hàng quân nhu, khí tài và lương thực cho các chiến sĩ ngoài mặt trận[21].
Nói rõ ra, họ đảm bảo công tác hậu cần đặc biệt cho cuộc chiến tranh này.
Sau chiến tranh, các đội TNXP giải thể,
họ được tổ chức lại và sung dụng vào công việc tái thiết nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Trong suốt thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trọng tâm được
đặt trên phong trào thi đua lao động trong việc xây dựng lại đường sá và trong
công tác nông nghiệp[22]. Phụ nữ càng lúc càng đóng vai trò chủ yếu
trong việc huy động nhân lực để xây dựng tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Theo kiểu
“Những cô gái thép” trong thập niên 60 ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, thông qua
các đội TNXP, người ta đã huy động ồ ạt thanh nữ Việt Nam nhằm hỗ trợ các kế hoạch
năm năm để xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trước khi họ được động
viên thêm một lần nữa để phục vụ cho những nỗ lực của cuộc chiến tranh mới.
Từ 1965, một bước ngoặt căn bản được
hình thành[23]. Dựa vào những kinh nghiệm trong quá khứ,
Ủy ban Trung ương Đảng Lao động quyết định tổ chức hai lực lượng TNXP mới để đối
phó với tình hình khẩn cấp khi quân Mỹ can thiệp vào miền Nam Việt Nam. Ngày 20
tháng 4 năm 1965, “Lực lượng TNXP Giải phóng Miền Nam Việt Nam” được thành lập
tại Bảy Bàu (Tây Ninh) và đặt dưới quyền lãnh đạo của Nguyễn Đức Toàn, thành
viên phong trào thanh niên của Đảng Nhân dân Cách mạng, phái viên chính trị ngầm
của Hà Nội được cài cắm vào miền Nam[24].
Ngày 24 tháng 4, “Đội TNXP Chống Mỹ Cứu Nước” đầu tiên được thành lập ở tỉnh
Thanh Hóa. Sau đó, phong trào này đã lan rộng khắp lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa kể từ ngày 21 tháng 6 với Chỉ thị số 71 của Thủ tướng quyết định chính thức
thành lập những “Đội TNXP Chống Mỹ Cứu Nước tập trung” và khẳng định lại
vai trò của nó trong việc phục vụ công tác giao thông vận tải[25].
Việc thành lập này, theo sáng kiến của Hồ Chí Minh, của Đảng ủy Trung ương và của
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã đạt sự nhất trí có thể nói là cao độ,
và diễn ra trong một hoàn cảnh ý thức hệ đặc biệt được minh họa bằng hai phong
trào thi đua rộng lớn nhắm vào giới thanh niên và phụ nữ. Ví dụ phong trào có
tên là “Ba Sẵn Sàng”, được phát động vào ngày 9 tháng 8 năm 1964, là một phong
trào thi đua cách mạng rộng lớn nhắm vào thanh niên (1 – Sẵn sàng gia nhập lực lượng vũ trang
đi chiến đấu; 2 – Sẵn sàng khắc phục khó khăn, đẩy mạnh
sản xuất, công tác, học tập; 3 – Sẵn sàng đi bất cứ nơi nào tổ quốc
cần)[26].
Phong trào thứ hai, được gọi là “Ba Đảm Đang”, có liên quan trực tiếp đến giới
phụ nữ hơn, là một phong trào thi đua do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động
từ ngày 19 tháng 3 năm 1965, bao gồm (1 – Gánh vác việc sản xuất và lao động
thay cho nam giới ra mặt trận; 2 – Gánh vác việc gia đình trong lúc chồng
hoặc con trai vắng mặt; 3 – Gánh vác việc trợ giúp cần thiết cho
mặt trận và chuẩn bị chiến đấu)[27]. Đối với các lực lượng TNXP được Đoàn
Thanh niên Nhân dân Cách mạng (phong trào thanh niên của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng) lãnh đạo ở miền Nam, một phong trào thi đua tương tự cũng được phát động
dưới tên gọi “Năm Xung Phong”, (1 – Xung phong tiêu diệt nhiều sinh lực
địch; 2 – Xung phong tòng quân giết giặc; 3 – Xung phong trong các cuộc đấu tranh
chính trị ở đô thị và nông thôn; 4 – Xung phong phục vụ tiền tuyến; 5 – Xung phong sản xuất nông nghiệp ở
nông thôn)[28]. Như vậy, các lực lượng TNXP Chống Mỹ mới
đã được thành lập trong bầu không khí tổng động viên toàn quốc[29].
Ngoài ra, còn phải kể đến lời kêu gọi lòng yêu nước vang dội do Hồ Chí Minh
tuyên đọc ngày 17 tháng 7 năm 1966 đã tạo được sự hưởng ứng rộng lớn trong ba đợt
liên tiếp nhằm tuyển mộ TNXP cho cuộc chiến[30].
Để đối phó với
tình hình chiến tranh khẩn cấp gắn liền với việc các lực lượng Mỹ đổ quân ồ ạt
trong cuộc đối đầu, một đợt tuyển mộ tăng cường được phát động, và trong thời
gian ngắn, đã có hơn 52.000 thanh niên gia nhập. Lòng yêu nước cuồng nhiệt nơi
họ để hoàn thành việc giải phóng miền Nam được thể hiện qua khẩu hiệu “Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước” và được cụ thể hóa bằng hàng chục vạn chiến binh xây dựng
nên Đường mòn Hồ Chí Minh với một hệ thống chằng chịt dài 16.000 km. Trong suốt
mười năm, tức từ 1965 đến 1975, “Lực lượng TNXP chống Mỹ” đã hình thành đội
tiên phong nhiệt thành của một thế hệ trẻ hoàn toàn tận tụy với nỗ lực của chiến
tranh. Họ trở thành mũi xung kích trong việc cung cấp vũ khí và lương thực,
tháo ngòi bom trên các tuyến đầu của mặt trận và đảm bảo các đường giao thông
được thông suốt, một vấn đề sống còn trong việc chỉ đạo chiến tranh.
Hiện nay, những số liệu ước tính tổng
quát liên quan đến nhiều thế hệ TNXP từ 1950 cho thấy có gần 220.000 cán bộ và
đội viên tham gia. 80% quân số này thuộc quyền điều động của Bộ Giao thông Vận
tải và ba phần tư các lực lượng này được hình thành từ những lực lượng TNXP tập
trung của miền Bắc[31]. Quân số TNXP tập trung của miền Bắc lên
đến 143.591 cán bộ và đội viên (chiếm khoảng 72% trong tổng số).[32]Tuy
nhiên số liệu được mọi người công nhận là 220.000 đội viên vẫn còn là một con số
tối thiểu cần được đánh giá lại. Các nguồn thông tin chính thức khác xuất phát
chủ yếu từ Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đưa ra con số tổng quát cao hơn
nhiều là 330.000 cựu TNXP[33]. Thông
tấn xã lại thông báo con số
“hơn 335.800” cựu đội viên vào năm 2004[34].
Có ba nét rõ rệt nổi bật từ quá trình
phát triển của TNXP từ năm 1950 đến năm 1975: 1 – Quyết định đã được đưa ra từ cấp cao
nhất của Nhà nước. Hồ Chí Minh đã đích thân giám sát việc thực hiện và theo dõi
quá trình phát triển của phong trào trước khi trao lại quyền chỉ huy cho guồng
máy của Đảng Lao động do Lê Duẩn lãnh đạo vào thời ấy; 2 – Việc tuyển mộ và biên chế lực lượng
được thực hiện khẩn cấp mà không lường trước được những hậu quả về con người.
Điều này đặc biệt lộ rõ trong thời kỳ từ 1965 đến 1975 với việc các cô gái xung
phong gia nhập ồ ạt; 3 – Việc giải quyết quy chế và chế độ
cho các cựu đội viên của lực lượng này thường muộn màng, cứng nhắc và mang nặng
tính chính trị.
Trong chiến tranh, việc quản lý các nguồn
nhân lực của TNXP chủ yếu mang tính ý thức hệ và quân sự. Nó được kiện toàn dần
qua các chiến dịch tuyển mộ và sự phát triển các trận đánh. Tình cảm chung xuất
phát từ việc quản lý lực lượng tập thể này – được thành lập vì và do chiến tranh cách mạng – vẫn là
thứ tình cảm của một đội quân dự bị, phần đông là nữ, chịu đựng gian khổ mà
không than thở, sẵn sàng tuân phục việc huấn thị ý thức hệ tuy sơ đẳng nhưng rất
gắt gao. Với danh nghĩa ấy, đức vâng lời là một yêu cầu tuyệt đối như đã được
nêu ra trong lời thề mười điểm hay còn được gọi là mười điều kỷ luật của các đội
viên TNXP và nội quy của tổ chức. Điểm đầu tiên của lời thề nhắc lại sứ mệnh
thiêng liêng của các TNXP là: “Sẵn sàng hy sinh vô điều kiện vì Tổ quốc Việt Nam, vì sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước, ra sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa,
tích cực ủng hộ cách mạng giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.”[35]
[1] Trong tiếng Anh, được báo chí tuyên truyền cộng sản trong thời chiến dịch
là Youth shock brigades. Douglas Pike đề nghị nhấn mạnh đến hoạt động quân sự bằng
một cách dịch gần như ghép từ, trong tác phẩm của ông về quân đội nhân dân
Việt Nam “Youth rush to the front organization” (Douglas Pike, PAVN:People’s Army of Vietnam, NXB Da Capo,
1986, trang 328. Thư mục những thuật ngữ quân sự cộng sản Việt nam). Các tài liệu
do quân Mỹ thu được từ FNL được dịch là “Assault Youth teams” (Tuyển tập
Douglas Pike, Unit 05, Virtual Vietnam Archive, Trung tâm Việt Nam, Đại học
Texas). Các cách dịch Anh ngữ khác được đưa ra sau đó “Volunteers” như trong
“Youth volunteers”. Một cách gọi khác thỉnh thoảng được sử dụng để minh họa vai
trò của TNXP trên mặt trận: “Sappers” (công binh). Hiếm hơn là “Vanguard youth”
(Thanh niên tiên phong) cũng được sử dụng để chỉ những đội tình nguyện trên đường
mòn HCM (đừng lầm với Thanh niên Tiền phong của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch ở miền
Nam năm 1945).
[2] Thuật ngữ quân sự chỉ việc Tiến lên tấn
công. Sử dụng trong cuộc sống thường nhật để diễn tả ý tưởng dấn thân. Nếu các
thuật ngữ Xung Phong đã xuất hiện trong từ vựng chính trị Việt Nam trong Cách mạng
tháng Tám để chỉ các đội Tuyên truyền xung phong hay Cảnh sát xung phong, việc
sử dụng trong khung cảnh chiến tranh được diễn đạt rõ trong các bài viết chính
thức. Thuật ngữ này không phải là từ vựng quân sự riêng của Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Việc sử dụng cũng thường xuyên trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở
miền Nam.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, 11,
1950, Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, tr. 324-325 (xem đặc biệt tr. 325, điểm
4).
[4] Trần Hữu Đính, “Phong trào thi đua
của giai cấp công nhân miền Bắc trong giai đọan 1965-1975”, Nghiên cứu lịch sử, số 2, tháng 3 và 4, 1976, tr.
9. Trần Hữu Đính đề nghị định nghĩa này cho “Thanh niên xung phong chống Mỹ
cứu nước”, chúng ta có thể dùng từ này chỉ chung các đội TNXP.
[5] Bộ Quốc Phòng, Trung tâm từ điển bách
khoa quân sự Bộ Quốc Phòng, Từ
điển bách khoa quân sự Việt nam, Hà Nội, Nxb Quân Đội Nhân Dân, 2004, tr.
926 (xem Thanh niên xung phong).
[6] Văn Tùng & Nguyễn Hồng Thanh
(chủ biên), Lịch sử TNXP Việt
Nam (1950-2001), Hà Nội, Nxb Thanh Niên, 2002, tr. 292 (xem thêm chi tiết
tr. 233-234).
[7] Dương Minh Đức, “Vẫn còn canh cánh một
nỗi lo chung”, Lao Động,
số 194 (16-7-2006).
[8] Xem: “Tư liệu: Lực lượng TNXP Việt
Nam”, Người Lao Động, Bộ
mới, số 432 (607), Thứ hai 14-7-1997, tr. 3.
[9] Ngôi sao vàng trên vòng tròn có tia nền
đỏ, được bao bởi bánh xe có khấc bên phải và bông lúa bên trái, bên dưới là dấu
hiệu TNXP chữ trắng nền xanh lá, có hai hàng tường gạch. Đồng phục đặc biệt của
TNXP chính thức từ chỉ thị 522, ngày 11 tháng 8 năm 1965 bởi Trung ương
Đoàn (Văn Tùng & Nguyễn Hồng Thanh (chủ biên), Lịch sử TNXP Việt Nam, tr.
252-253).
[10] Bài hát “Cô gái mở đường” của Xuân
Giao hay bài thơ “Cô gái Thạch Nhọn” của Phạm Tiến Duật viết tặng một cô gái
TNXP, là những tác phẩm kinh điển.
[11] Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (tập
bài giảng), Nxb Đại Học Quốc
Gia Hà Nội, 1999, tr. 105-106.
[12] Liên đoàn Thanh niên Việt Nam và Đoàn
Thanh niên Cứu quốc Việt Nam.
[13] Văn Tùng (chủ biên), 40 năm TNXP (1950-1990), Hà Nội,
Nxb Thanh Niên, 1990, tr. 7.
[14] Văn Tùng (chủ biên), 40 năm TNXP, tr. 9-10.
[15] Hồ Chí Minh, Về giáo dục Thanh niên, Hà Nội,
Nxb Thanh Niên, 1977, tr. 87 (“Khuyên Thanh niên”). Một bài thơ bốn câu huyền
thoại sử dụng để mở đầu các tác phẩm về TNXP.
[16] Xem: Ban liên lạc Hai Đội 34-40, Đoàn
TNXP Trung Ương, 50 năm chiến
thắng Điện Biên Phủ, Hà Nội, Nxb Lao Động, 2004, tr. 61, 101, 187, 207.
[17] Con số 22.000 tuyển mộ được Vũ Thị
Hòa đưa ra, “Những đóng góp của TNXP trong chiến dịch Điện Biên Phủ” 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ,
tr. 61.
[18] Nguyễn Tiến Năng, “TNXP phục vụ chiến
dịch Điện Biên Phủ”, 50 năm
chiến thắng Điện Biên Phủ, tr. 41.
[19] Vũ Thị Hòa, “Những đóng góp của TNXP
trong chiến dịch Điện Biên Phủ”, tr. 62.
[20] Nhiều tác giả, Bạn biết gì về chiến dịch Điện
Biên Phủ? Hà Nội, Nxb
Trẻ, 2004, tr. 67.
[21] Bạn biết gì về chiến dịch Điện
Biên Phủ?, tr. 67-68.
[22] Về TNXP trong giai đoạn “Xây dựng chủ
nghĩa xã hội” ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1955-1964), xem Văn Tùng & Nguyễn
Hồng Thanh (chủ biên), Lịch sử
TNXP Việt Nam, tr. 161-224.
[23] Được trình bày đầu tiên một cách chính
trị của Hội nghị lần 11 và 12 của Ủy ban trung ương đảng Lao Động tháng 3 và 12
năm 1965. Cf. Văn Tùng (chủ biên), 40
năm TNXP, tr. 56.
[24] Văn Tùng & Nguyễn Hồng Thanh (chủ
biên), Lịch sử TNXP Việt nam,
tr. 264. Xem thêm Nguyễn Hồng Thanh, TNXP
những trang oanh liệt, tr. 38-40.
[25] Nguyễn Văn Đệ, Lịch sử truyền thống của lực lượng
TNXP chống Mỹ cứu nước (tập trung), Hà Nội, Nxb Giao Thông Vận Tải,
2004, tái bàn lần thứ nhất, tr. 28, 254. Xem chi tiết về nội dung Chỉ
thị 71/TTg, tr. 39-43.
[26] Huỳnh Thị Dung & Nguyễn Thu Hà, Từ điển bách khoa phụ nữ Việt Nam,
Hà Nội, Nxb Phụ Nữ, 2002, tr. 36; Lê Văn Đạt, “Vai trò của Thanh niên miền Bắc
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)”,Nghiên cứu lịch sử,
4 (347) 2005, tr. 27.
[27] Huỳnh Thị Dung & Nguyễn Thu Hà, Từ điển bách khoa phụ nữ Việt nam,
tr. 35 ; Mai Anh, “Đi đầu trong mọi nhiệm vụ. Phụ nữ miền Bắc Việt Nam đối đầu
cuộc tấn công của Mỹ”. Phụ nữ Việt Nam, Etudes
vietnamiennes [Nghiên cứu Việt Nam], số 10, tr. 145-146.
[28] Nguyễn Văn Đệ, Lịch sử truyền thống của lực lượng
TNXP chống Mỹ cứu nước, tr. 27-28.
[29] Đối với những khác nhau về vị trí, có
hai cách gọi ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ 1965 đến 1975: TNXP trung ương và
TNXP cơ sở (việc mở rộng tổng động viên). Xem Nguyễn Văn Đệ, Lịch sử truyền thống của lực lượng
TNXP chống Mỹ cứu nước, tr. 37 (xem chú ý). Trong hai trường hợp, người
ta thường nói về TNXP chống Mỹ cứu nước.
[30] Xem “Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ
cả nước”, Nhân Dân, số 4484 (17-6-1966), trong Hồ Chí
Minh, Về giáo dục Thanh niên,
tr. 211-215.
[31] Nguyễn Văn Đệ, Lịch sử truyền thống của lực lượng
TNXP chống Mỹ cứu nước, tr. 6 (Trình bày của Bộ trưởng giao thông Lê Ngọc
Hoàn).
[32] Xem những bảng tổng kết do Nguyễn
Văn Đệ cung cấp trong phần phụ lục, Văn Tùng & Nguyễn Hồng Thanh
(chủ biên), Lịch sử TNXP Việt
Nam (1950-2001), tr.
657-672.
[33] Trong các bài báo, các phóng viên của báo Lao Động đưa ra các con số quan trọng hơn,
khẳng định đã có “hơn 350.000 thành viên TNXP từ 1950 đến 1975” (Dương Minh
Đức, “Vẫn còn canh cánh một nỗi lo chung”, Lao
Động, số 194
(16-7-2006); Trịnh Tố Long, “Ngày 19-12, Đại hội thành lập Hội Cựu TNXP Việt
Nam, Lao Động, số 351, 16-12-2004).
[34] TTXVN, “Gần 67.000 TNXP được hưởng chế
độ chính sách”, Vietnam News
Agency (15-7-2004).
[35] Toàn bộ những bài viết, xem: Nguyễn
Văn Đệ, Lịch sử truyền thống
của lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước, tr.
259-274.
“Cô gái mở đường”
của Xuân Giao
II. Một lực lượng phục vụ chiến tranh:
thành phần và cách nhận biết
Việc nghiên cứu
lực lượng này – được hình thành từ một bộ phận của tuổi trẻ Việt Nam trong thời
kỳ chiến tranh – đòi hỏi đi sâu tìm hiểu thành phần xã hội, sắc tộc hoặc địa
phương của nó ngay cả khi những câu hỏi như: Ai? Ở đâu? và Bao nhiêu? vẫn còn đặt
ra nhiều vấn đề.
Việc tập hợp những
TNXP đã tiến triển trong những năm chiến tranh, nhưng sơ đồ tổ chức của lực lượng
này không hề thay đổi theo dòng thời gian. Do đó, công trình nghiên cứu của tôi
đặc biệt tập trung hơn vào thời kỳ của những “TNXP chống Mỹ”, sơ đồ tổ chức của
họ có dạng của một cấu trúc kim tự tháp mà trên đỉnh là Ban Bí thư Trung ương
Đoàn, có Ban Chỉ đạo TNXP Trung ương tiếp sức. Ban Chỉ đạo này có dưới tay bốn
Ban trọng yếu của TNXP có liên hệ với các cơ quan có sử dụng nhân lực của họ:
1. Ban Chỉ đạo TNXP tỉnh thành đoàn;
2. Ban Chỉ đạo TNXP ngành Giao thông Vận tải
Trung ương;
3. Đoàn 559 phục vụ Quốc phòng [Đường mòn Hồ
Chí Minh];
Xếp theo tầm mức quan trọng, ngành Giao
thông Vận tải bỏ xa các cơ quan khác với 9 Cục và Ban có sử dụng các đơn vị
TNXP: các Cục I, II, Đường sắt, Ôtô-ray, Đường sông, Đường biển, Quản lý Quân
lương, các Ban 64 và 67. Ba phần tư số “TNXP chống Mỹ” được tuyển mộ được phân
bổ vào các Cục và Ban này dưới sự lãnh đạo của Bộ Giao thông Vận tải. Đoàn 559
– nổi tiếng vì được sử dụng vào việc mở Đường mòn Hồ Chí Minh xuyên qua rừng
già – cũng tập hợp được khoảng 6.700 “Thanh niên Tình nguyện” trong số 120.000
quân mới tuyển[2].
Các Đội hoặc Tổng đội TNXP sau đó được
chia thành Đại đội rồi thành Tiểu đội, đơn vị nền tảng của cấu trúc[3].
Các nhóm TNXP khác nhau thường mang một phiên hiệu riêng cho mình. Vì thế, người
ta dễ nhận ra mỗi Liên đội, Đội, Đại đội hoặc Tiểu đội qua phiên hiệu của họ[4].
Từ 1965 đến 1975, Nguyễn Văn Đệ thống kê có đến 131 Đội, 34 Đại đội độc lập hoạt
động tại các địa phương cũng như có 4 Đội khác không ghi rõ nguyên quán[5].
Tuy nhiên, thực hiện việc thống kê các Đội cho cả ba thời kỳ tuyển mộ không dễ.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh, có khoảng mười Đội không thay đổi phiên hiệu[6].
Thêm vào đó là một số vấn đề khác như việc xây dựng lại các đơn vị, đặc biệt là
đối với các Đội đang lao động trên Đường mòn Hồ Chí Minh, hoặc là việc cấp mã
thiếu chính xác hay hoàn toàn tách biệt với công tác mã hóa thông thường[7].
Việc tuyển mộ xét theo vùng địa lý có thể
được xác định lại căn cứ vào những chiến dịch động viên ở Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Chiến dịch mộ quân và tuyển chọn TNXP đầu tiên kể từ tháng 8 năm 1950 chủ
yếu liên quan đến các tỉnh Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang. Để đáp ứng
nhu cầu về người cho chiến dịch Điện Biên Phủ, ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà
Tĩnh cung ứng phần lớn quân mới tuyển. Đặc biệt, tỉnh Thanh Hóa, với việc huy động
được 18.000 đội viên TNXP trong suốt cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất,
đã đóng góp nhiều nhất cho nỗ lực chiến tranh[8].
Trong thời kỳ từ
1965 đến 1975, việc tuyển mộ trở nên ồ ạt và thường xuyên để đáp ứng sự phát
triển và những bất trắc của chiến tranh. Phạm vi địa lý của việc tuyển mộ bao gồm
24 tỉnh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng chỉ một vài tỉnh mới chứng tỏ được
phần đóng góp quan trọng của mình. Trên thực tế, đứng đầu vẫn là tỉnh Thanh Hóa
khi, theo số liệu báo cáo, đã mộ được từ 33.000 đến 43.000 thanh niên sẵn sàng
đưa ra phục vụ chiến tranh (chiếm khoảng 25% trên tổng số). Ba tỉnh khác là Nghệ
An, Hà Tĩnh và Nam Hà theo sau với phần đóng góp là gần 15.000 người cho mỗi tỉnh.
Ba tỉnh mới (Hải Hưng, Thái Bình, Quảng Bình) nối gót toán dẫn đầu này với một
nỗ lực đóng góp từ 6.000 đến 10.000 quân mới tuyển. Bảy tỉnh này góp tổng cộng
hơn 70% lực lượng TNXP trong thời kỳ chống Mỹ. Việc tuyển mộ cũng được triển
khai theo vùng địa lý gắn liền với những địa phương gần mặt trận, chủ yếu liên
quan đến ba khu vực sau đây: những vùng phụ cận ngay sát đường biên giới và Đường
mòn Hồ Chí Minh, chung quanh khu vực cảng Hải Phòng và thành phố Hà Nội (tuyển
được khoảng 6.000 quân).
Những chiến dịch tuyển mộ cũng tuân theo
một lịch phân chia định kỳ rõ rệt. Như tôi đã đề cập đến việc này trên đây, từ
1965 đến 1975, những TNXP được tuyển ồ ạt qua ba thời kỳ, mỗi thời kỳ có hạn phục
vụ là ba năm, theo thống kê sau đây của Nguyễn Văn Đệ: thời kỳ I, từ 1965 đến
1967, tuyển được 73.851 người (với 25 đợt tuyển); thời kỳ II, từ 1968 đến 1971,
tuyển được 27.770 người (với 15 đợt tuyển); thời kỳ III, từ 1972 đến 1975, tuyển
được 41.770 người (với 35 đợt tuyển)[9].
Thời kỳ đầu tiên từ 1965 đến 1967 cho thấy một tỷ lệ tuyển mộ rất cao (chiếm
51,50% trên tổng số), điều này được lý giải như là việc khởi động thế trận
kháng chiến và tổng động viên các lực lượng quốc gia phục vụ mặt trận (các chiến
dịch “Ba Sẵn Sàng” và “Ba Đảm Đang”).
Tuy không đi sâu nghiên cứu xã hội học,
việc tuyển mộ TNXP do đây vẫn là một công việc tự thân nó còn phải làm rất nhiều,
vấn đề thành phần xã hội của TNXP cũng cần được đặt ra. Những người được tuyển
mộ là ai? Về mặt chính thức, việc tuyển mộ hoàn toàn nhắm vào những thanh niên
không phân biệt giai cấp xã hội, tôn giáo, nguồn gốc sắc tộc, nhưng trên thực tế
thì lại không mấy rõ ràng.[10] Đại
đa số TNXP đều được chọn từ thanh niên nông thôn: “chủ yếu là thanh niên xuất
thân từ các hợp tác xã nông nghiệp, học sinh các trường sơ cấp và chuyên nghiệp
và con em cán bộ.”[11] Trong
số họ, đa phần là những thiếu niên nam nữ tuổi từ 15 đến 20. Trong nhiều trường
hợp, tuổi quy định để gia nhập TNXP hạ xuống còn 13 tuổi. Đó chính là trường hợp
đặc biệt của những nhóm “TNXP Giải phóng Miền Nam” có độ tuổi từ 13 đến 24 tuổi[12].
Trong số những thanh nữ được tuyển thì học sinh nữ hiện diện rất thường xuyên.
Do đó, một báo cáo của chiến dịch thi đua năm 1967 chỉ rõ ra rằng “một số
khá đông những học sinh nữ cấp II và III đã tạm thời rời khỏi ghế nhà trường để
nắm lấy cơ hội duy nhất này – chỉ xảy ra một lần mỗi thế kỷ – để đem thân phục
vụ cho Tổ quốc”[13]. Điều này cho phép hiểu ngầm rằng những
thanh nữ 12 hoặc 13 tuổi cũng có thể được tuyển trong trường hợp cần thiết.
Đối với những thiếu niên-lính này (thậm
chí trong một vài trường hợp là trẻ em-lính), vũ khí chỉ là cuốc chim đơn giản,
xẻng lớn và hành trang trí thức ít ỏi mang theo người chỉ là vài năm học sơ cấp
ở trường. Họ gặp nhau và chỉ trong mấy ngày là bị đẩy ra tuyến lửa. Không có kiến
thức quân sự, tất cả họ đều được huấn luyện tại chỗ như câu khẩu hiệu “Khắc
làm, khắc biết” đã tóm ý[14]. Đối với những học sinh nữ ở các thành phố
chẳng biết gì ngoài việc cầm bút, tham gia các công việc lặt vặt trong gia
đình, hãy còn được mẹ nuông chiều và ban đêm vẫn còn sợ ma thì sự hụt hẫng của
họ thật dữ dội[15]. Sau khi được tập hợp và biên chế thành
đơn vị, những TNXP được nhanh chóng gởi ra tuyến lửa. Văn Tùng và Nguyễn Hồng
Thanh nhắc lại những điều kiện khủng khiếp của chuyến lên đường ra mặt trận:
“Nhiều đội viên chưa một lần xa nhà.
Phần lớn họ là những thanh niên nông thôn, chưa quen đi bộ đường xa 5 – 7
km, nay phải hành quân mang nặng, phải trèo đèo, lội suối, qua truông dài
hun hút. Có đơn vị khi lên đường vẫn chưa có dép, hoặc có nhưng không đúng cỡ,
phần lớn anh em phải đi chân đất, bàn chân phồng rộp. Một số đội viên
TNXP đã ngã xuống ngay trên đường hành quân, vì bom đạn Mỹ hoặc do rắn cắn,
chưa kịp một ngày cống hiến.”[16]
Về việc cung cấp, thông tư ngày 30 tháng
6 năm 1965 có quy định về khẩu phần, lương bổng, trang phục, nhưng tất cả đều
thiếu. Về mặt thực phẩm, ngày 11 tháng tám 1965, Bộ Nội vụ ra sắc lệnh về khẩu
phần lương thực chính thức hằng tháng phải phân phối cho các TNXP[17].
Dù cho rất rõ ràng, những sắc lệnh có liên quan đến việc tiếp tế vẫn đơn thuần
mang tính lý thuyết và hoàn toàn không phù hợp với thực tế khắc nghiệt của chiến
trường. Do Mỹ ném bom thường xuyên nên tình trạng thiếu thốn (lương thực và quần
áo) rất phổ biến, không thể thực hiện việc tiếp tế liên tục hay đều đặn được[18].
Khi phân tích ngắn gọn về thành phần của
lực lượng này, tôi tưởng cũng nên đi sâu vào tỷ lệ đàn ông/đàn bà (thậm chí có
thể nói tỷ lệ trẻ trai/trẻ gái căn cứ vào tuổi của một vài em trong số đó). Từ
năm 1965, việc tuyển mộ ồ ạt thanh niên mới cho các đoàn “TNXP chống Mỹ cứu nước”
chính thức đưa tỷ lệ hiện diện của nữ trong lực lượng lên trên 50%[19].
Trên Đường mòn Hồ Chí Minh, TNXP của Đoàn 559 hầu như gồm toàn các cô gái.
Trong một vài Đội, tỷ lệ thanh nữ chiếm hơn 70%[20].
Đại đội 551 (TNXP 55) gồm 105 nữ trên 131 đội viên với tỷ lệ là 80%[21].
Đại đội TNXP 873 (được thành lập ngày 2 tháng giêng năm 1966) có 170 nữ trên
200 quân được tuyển, tỷ lệ là 85%[22].
Một số nhóm khác do nam giới chỉ huy thì gồm toàn thanh nữ như trường hợp Đại đội
512 có nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội, Đại đội 459 làm công tác công binh trên dãy Trường
Sơn hoặc Đại đội C333 nổi danh do được Hồ Chí Minh khen thưởng[23].
Những cô gái này làm đủ thứ công việc:
xung phong gỡ mìn, lái xe tải nặng, làm y tá cấp cứu, sửa chữa các tuyến đường
giao thông, lấp hố bom… Những câu chuyện kể về họ đều giống nhau, đan xen giữa
sự hy sinh vô hạn, lòng dũng cảm mẫu mực và định mệnh đau thương không thể
tránh khỏi. Hiện nay, những nữ anh hùng tập thể có số phận gắn liền với nhau
này đều được đưa vào đền thờ các liệt sĩ được sử sách chính thức công nhận.
Trong số những nữ liệt sĩ nổi tiếng nhất, phải kể đến: mười cô gái tại ngã ba Đồng
Lộc ở tỉnh Hà Tĩnh và mười hai cô gái ở Truông Bồn trong tỉnh Nghệ An[24].
Đặc biệt, mười cô gái tại ngã ba Đồng Lộc (huyện Can Lộc) ở tỉnh Hà Tĩnh được
thần thánh hóa và người ta đã dựng lên một đài tưởng niệm nguy nga để tôn vinh
họ[25].
Tiểu chú chính thức về họ được ghi như sau: “Ngày 24 tháng bảy 1968, sau 18
lần địch đánh phá, một loạt bom thả trúng vào hầm, mười cô gái Đồng
Lộc đã hy sinh vào lúc năm giờ chiều, trong tư thế tay vẫn cầm dụng cụ sản
xuất”[26] Với
những dụng cụ như xẻng, cuốc chim, xô, các công cụ của thợ cơ khí trong tay,
thì dù tràn đầy lòng dũng cảm và ý chí, việc chống chọi lại sức tấn công của
bom pháo thường vẫn là vô nghĩa.
Những nỗi đau dai dẳng vẫn còn hằn sâu
trong suốt những năm hậu chiến. Những địa điểm hiểm nguy nhất đã được các cựu
TNXP đặt cho những cái tên rất cụ thể: “Cửa tử thần”, “Đèo lò lửa”, “Ngã tư thịt
chó”, “Ngã ba âm phủ”, “Đồi thịt xáo”, “Đất của những hồn ma kêu hú”, “Thung
lũng những oan hồn lạc lối”[27]. Đường 20 tháng bảy, được đặt tên lại là
“đường Quyết Thắng”, hiển nhiên là ví dụ tiêu biểu nhất cho những cửa tử thần
này. Trong vòng chưa đầy một năm, nơi đó đã có 200 đội viên TNXP tử nạn và 700
người khác bị thương[28]. Lại một ví dụ khác, từ tháng ba đến
tháng 10 năm 1968, tại Ngã Ba Đồng Lộc, chốt chặn tất yếu phải vượt qua trên đường
Nam tiến phát xuất từ Đường mòn Hồ Chí Minh (Đường mòn HCM), máy bay B52 đã thả
48.600 quả bom đủ mọi loại[29]. Lịch sử của lực lượng này được đánh dấu
bằng hàng loạt địa danh bị nguyền rủa cũng như biết bao nấm mộ ngoài trời.
Trong hai cuộc chiến tranh Đông Dương, những tên đồi, tên ngã tư và tên đường
giao thông chiến lược do TNXP đặt đã đi vào lịch sử và trở thành những nơi của
hồi ức.
Phụ lục 1
Tổng cộng tạm
thời về số lượng TNXP chống Mỹ cứu nước tính theo các tỉnh
Province
|
Nombre de
TNXP
|
Pourcentage
|
Autres
estimations
|
|
1
|
Thanh Hóa
|
33.800
|
23,77 %
|
+ de 40.000
|
2
|
Nghệ An
|
16.800
|
11,81 %
|
+ de 18.000
|
3
|
Hà Tĩnh
|
14.970
|
10,52 %
|
|
4
|
Nam Hà
|
14.660
|
10,31 %
|
|
80.230
|
Sous-total
56,41%
|
|||
5
|
Hải Hưng
|
8.750
|
6,15 %
|
|
6
|
Thái Bình
|
8.350
|
5,87 %
|
|
7
|
Quảng Bình
|
6.500
|
4,57 %
|
|
103.830
|
73,02
%
|
|||
8
|
TP Hải Phòng
|
4.450
|
3,13
|
|
9
|
TP Hà Nội
|
4.349
|
3,05
|
+ de 6.000
|
10
|
Lạng Sơn
|
4.100
|
2,88
|
|
11
|
Vĩnh Phúc
|
4.020
|
2,82
|
|
12
|
Hà Tây
|
3.950
|
2,77
|
|
13
|
Bắc Thái
|
3.200
|
2,25
|
|
14
|
Ninh Bình
|
2.600
|
1,83
|
≈ 5000 (Lê
Thi)
|
15
|
Hà Bắc
|
2.380
|
1,67
|
|
16
|
Tuyên Quang
|
1.500
|
1,05
|
|
17
|
Lào Cai
|
700
|
0,49
|
|
18
|
Lai Châu
|
650
|
0,45
|
|
19
|
Sơn La
|
500
|
0,35
|
|
20
|
Cao Bằng
|
500
|
0,35
|
|
21
|
Khu Vĩnh Linh
|
450
|
0,31
|
|
22
|
Quảng Ninh
|
400
|
0,28
|
|
23
|
Hòa Bình
|
304
|
0,21
|
|
24
|
Yên Bái
|
248
|
0,17
|
|
Indéterminé
|
4.060
|
2,85
|
||
Total
|
142.191
|
Bảng thống kê do Nguyễn Văn Đệ cung
cấp trong Nguyễn Văn Đệ , Lịch
sử truyền thống của lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước (tập trung), Hà Nội , Nxb Giao Thông Vận
Tải, 2004, tái bản lần thứ nhất, tr. 207-219.
[1] “Sơ đồ hệ thống tổ chức lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước (tập trung)”,
trong Nguyễn Văn Đệ, Lịch sử truyền thống của lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước, xem sơ
đồ giữa các tr. 240 và 241.
[2] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt
Nam, Lịch sử Quân đội Nhân
dân Việt Nam (1944-1975),Hanoi, Nxb QĐND, 2005, tr. 524. Nhiều TNXP giữ những
điểm binh trạm rải trên khắp đường mòn.
[3] Một tổng đội gồm từ 500 đến 1.500 người,
một đại đội gồm 150 đến 200, một tiểu đội gồm 10 đến 15 người (Văn Tùng &
Nguyễn Hồng Thanh (chủ biên), Lịch
sử TNXP Việt Nam, tr.
249). Từ 1965 và 1975, ba Tổng đội được thành lập để hợp nhất 3 đại đội miền.
[4] Các con số được sử dụng theo một hợp
lý riêng. Đối với TNXP chống Mỹ cứu nước, số đầu tiên là 21 được gán cho Đại đội
Thanh Hóa là ngày thành lập chính thức (21/6/1965) trong giai đoạn 1965-1975.
Nói chung Đội TNXP gồm chữ cái N theo sau hai con số, Đại đội TNXP, chữ cái
C theo sau là 3 số, hai số đầu là dành cho Đại đội (Nguyễn Hồng Thanh (chủ
biên), TNXP những trang oanh
liệt, tr. 37-38; Nguyễn Văn Đệ, Lịch
sử truyền thống của lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước, tr. 221).
[5] Nguyễn Văn Đệ, Lịch sử truyền thống của lực lượng
TNXP chống Mỹ cứu nước, tr.
220.
[6] Đội TNXP: 25, 39, 45, 53, 55, 57, 73,
75, 91, 99 (Nguyễn Hồng Thanh (chủ biên), TNXP
những trang oanh liệt, tr. 38).
[7] Xem phân tích và thống kê của Nguyễn
Văn Đệ: Nguyễn Văn Đệ, Lịch sử
truyền thống của lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước, tr. 220-239. Trong việc nhận dạng và
tái lập, Nguyễn Văn Đệ lưu ý rõ các khó khăn (tr. 237-239).
[8] Mai Xuân Minh, “Sáng mãi truyền thống
TNXP Thanh Hóa”, 50 năm chiến
thắng Điện Biên Phủ, tr. 187.
[9] Nguyễn Văn Đệ, Lịch sử truyền thống của lực lượng
TNXP chống Mỹ cứu nước, tr.
198-204 (bảng).
[10] Lê Phong Thái, Tổ chức và hoạt động của đội TNXP
chống Mỹ, cứu nước cơ sở, Hà Nội, Nxb Thanh Niên, 1967, tr. 7-8.
[11] Trần Hữu Đính, “Phong trào thi đua
của giai cấp công nhân miền Bắc”, tr. 9; Văn Tùng & Nguyễn Hồng Thanh (chủ
biên), Lịch sử TNXP Việt
Nam, tr. 279.
[12] Đặng Hoàng Thám, “Thanh niên xung
phong Tây Nam Bộ – Một thời hào hùng”, Báo
Cần Thơ (19-3-2007);
Minh Tâm, “Đi tìm ‘những bông hoa trên tuyến lửa’ ”, Tuổi Trẻ (24-8-2005).
[13] Đại hội thi đua các Đội TNXP chống
Mỹ cứu nước tập trung toàn miền Bắc lần thứ nhất (lưu hành nội bộ), Hà
Nội, Nxb Thanh Niên, 1967, tr. 15. Cấp II và III tương ứng với lứa tuổi từ 11
đến 18.
[14] Nguyễn Văn Đệ, Một thời oanh liệt của nữ TNXP, tr. 58.
[15] Nguyễn Văn Đệ, Một thời oanh liệt của nữ TNXP, tr. 57-58.
[16] Văn Tùng & Nguyễn Hồng Thanh (chủ
biên), Lịch sử TNXP Việt Nam,
tr. 278-279.
[17] Nguyễn Văn Đệ, Lịch sử truyền thống của lực lượng
TNXP chống Mỹ cứu nước, tr.
45. (Chỉ thị số 552, 11/8/1965, Bộ Nội thương).
[18] Văn Tùng & Nguyễn Hồng Thanh (chủ
biên), Lịch sử TNXP Việt Nam, tr. 320.
[19] Những đánh giá ban đầu của Nguyễn Văn
Đệ cho một tỉ lệ là 51%. Trong 138.000 thành viên TNXP có 70.000 nữ (Nguyễn Văn
Đệ, Một thời oanh liệt của nữ
TNXP, tr. 70).
[20] Ví dụ trong hơn 400 tân binh của Đại đội
51 TNXP Hà Nội có 72% nữ (Nguyễn Văn Đệ, Một
thời oanh liệt của nữ TNXP, tr.
66).
[21] “Đại đội 551, Đội TNXP 55 (Thuộc ty
Giao thông Hà Tĩnh)”, Anh
hùng quê hương (1945-1973), Ty Thông tin Hà Tĩnh xuất bản, 1975.
[22] Nguyễn Hồng Thanh (chủ biên), TNXP những trang oanh liệt,
tr. 97.
[23] Nguyễn Văn Đệ, Một thời oanh liệt của nữ TNXP, tr. 66, 68 và 70.
[24] Về những tập thể nữ anh hùng, xem:
Nguyễn Văn Đệ, Một thời oanh
liệt của nữ TNXP, tr.
105-148.
[25] Nghiêm Văn Tân, 10 cô gái ngã ba Đồng Lộc, truyện
ký, Hà Nội, Nxb Phụ Nữ, 2006; Võ An Khánh, “Ngã ba Đồng Lộc – Mảnh đất
thiêng”, Báo điện tử Cần Thơ (23-7-2006).
[26] “Mười cô gái ngã ba Đồng Lộc (thuộc Ty
Giao thông Hà Tĩnh)”, Anh
hùng quê huong, 1975.
[27] Thể hiện trong hai tiểu thuyết lớn về
chiến tranh thời “Đổi mới”: Dương Thu Hương, Roman
sans titre[Tiểu thuyết vô đề], Paris, Editions des Femmes,
1992, xem tr. 7 (“vực Cô hồn”) và tr. 181 (“thung lũng Bảy oan hồn”); Bảo
Ninh, Le chagrin de la guerre [Nỗi buồn chiến tranh], Arles, Editions Philippe
Picquier, 1994, tr. 15, 50, 54 (“truông Gọi Hồn”) và tr. 55 (“Đồi xáo thịt”).
Xem Lê Cao Đài, C’était au
Tây Nguyên. Journal de guerre d’un chirurgien nord-vietnamien [Tây Nguyên ngày ấy], Hanoi, Editions Thế Giới, 2006 , tr. 36 (“cửa tử”), tr. 37 (“Ngã ba
thịt chó”); Trần Đình Thùy, Vượt
Trường Sơn mở đường Quyết thắng, Hà Nội, Nxb Giao Thông Vận Tải, 1998,
tr. 29 (“Đèo lửa”); Nguyễn Văn Đệ, Một
thời oanh liệt của nữ TNXP, tr.
87 (“Ngã ba âm phủ”).
[28] Nguyễn Văn Đệ, Một thời oanh liệt của nữ TNXP, tr. 83-84.
[29] Nguyễn Văn Đệ, Một thời oanh liệt của nữ TNXP, tr. 108.
III. Một lực lượng giữa lòng chiến
tranh: việc đem thân xác ra thử thách
“Những bông hoa trên tuyến lửa” chắc chắn
là cụm từ có ý nghĩa nhất và thường xuyên được sử dụng để tóm tắt số phận bi thảm
của những cô gái TNXP ngoài mặt trận[1].
Do lực lượng TNXP được hình thành từ hơn 50% là nữ và do người ta vẫn chưa làm
được gì nhiều để biết được số phận của họ ra sao, chúng ta hãy thử xem hiện nay
chiến tranh còn dai dẳng như thế nào trong thịt da của những đóa “Hoa lan trong
rừng cháy” này, như nhà văn Minh Lợi đã nhắc đến điều đó trong truyện ngắn của
mình[2].
Từ vài năm nay, những cựu Nữ TNXP thuật lại sự thật họ đã trải qua và nó khác hẳn
với chủ nghĩa anh hùng mà Nhà nước vẫn tuyên truyền. Những câu hỏi liên quan đến
thân xác của phụ nữ trong hoàn cảnh chiến tranh bắt đầu lộ rõ qua lời kể của những
người còn sống sót. Thông qua những câu chuyện kể của họ, họ đòi hỏi phải có một
cách nhìn nhận nhất định về chiến tranh gắn liền với nhận định của Svetlana
Alexievitch: “Những câu chuyện kể của phụ nữ có một bản chất khác và bàn về
một chủ đề khác. Chiến tranh, dưới mắt phụ nữ, có những màu sắc riêng, những
mùi vị riêng, cách giải thích riêng và không gian tình cảm riêng của họ. Cuối
cùng là những từ ngữ riêng. Người ta thấy trong những câu chuyện đó không có
anh hùng cũng chẳng có những chiến công phi thường nào, mà đơn giản chỉ là những
cá nhân bị cuốn vào một công việc phi nhân tính của con người ”[3].
Nói chung, những lời chứng của phụ nữ
thường nhuốm vẻ rụt rè, rụt rè vì bản tính phụ nữ, rụt rè vì tập thể mà mình
đang sống cùng. Về việc rụt rè cho tập thể, nhà nghiên cứu Zineb Ali Ben-ali có
nói về vấn đề “chối từ ký ức” và “dấu vết” văn chương bằng cách liên hệ đến trường
hợp chiến tranh ở Algeri. Nhà nghiên cứu đã đưa ra nhận định nền tảng: “cũng
như việc lãng quên (một số) lực lượng tham gia vào cuộc chiến, chúng ta lãng
quên sự khổ đau mà họ đã phải hứng chịu. Thực tế, người ta hay bỏ qua khía cạnh
này của cuộc chiến […..]. Bỏ qua những lực lượng bị đau khổ cũng dẫn đến việc
lãng quên sự tham gia của lực lượng nữ giới.”[4]Lời
chứng của một trong các nữ TNXP miền Nam từng bị vây hãm bởi kẻ thù, đã tóm gọn
những khổ đau bằng những lời sau: “sốt rét, tóc rụng, ăn rau rừng lót
dạ, nhiều bạn đã lả đi. Chúng tôi phải mở đường máu để vào vùng có dân,
bòn từng lon gạo nấu cháo cho anh em”.[5]
Tất cả những cựu đội viên TNXP đều xác
nhận như thế. Điều kiện sinh hoạt dọc đường mòn HCM vô cùng cam khổ. Trong hồi
ký của mình, tướng Đồng Sỹ Nguyên, chính ủy Đoàn 559, phụ trách điều hành quân
sự trên tuyến đường này, nhiều lần nhắc đến những cam go cận kề cái chết dành
cho các lực lượng chiến đấu cũng như TNXP.[6] Để đề cập đến vấn đề gian khổ của chiến
tranh, rặng Trường Sơn là minh chứng hùng hồn. Trong vùng “rừng thiêng nước độc”
này không thiếu chỗ cho những đe dọa đến tính mạng: bệnh sốt rét, cái đói và
cái chết; hậu quả của thời tiết khắc nghiệt, bùn lầy, đỉa, tai nạn hàng ngày,
bom đạn, chất độc hóa học… Cảm giác bao trùm là sự đau đớn, sợ hãi và nỗi kinh
hoàng. Chúng ta hãy cùng xem xét một số tác nhân chính làm suy yếu lực lượng.
Sốt, đói và khát. Tác nhân đầu tiên, đó là sốt. Bệnh ảnh
hưởng đến toàn lực lượng. Theo Hoàng Công Ánh, phụ nữ đặc biệt là nạn nhân của
bệnh này.[7] Dọc
đường mòn HCM, bệnh tấn công cả lực lượng chiến đấu lẫn TNXP. Sốt không chỉ gây
ra do khí hậu. Bác sĩ phẫu thuật Lê Cao Đài báo cáo về việc các loại bò cạp, nhện
rừng cũng gây ra những vết cắn đau nhức, sưng tấy[8].
Thêm vào đó là các con đỉa, vắt, là nỗi lo sợ của các cô gái.[9] Các loại bọ “đen và to”[10],
các loại côn trùng đủ loại, tham lam hút máu người gây ngứa ngáy, sưng tấy trên
da thịt. Thân thể mỏi mệt và ẩm ướt là nơi lý tưởng thu hút bầy muỗi và ruồi
vàng nhiều vô kể.[11] Tất
cả đã khiến cho cơ thể nhiễm cơn sốt tàn tạ.
Tiếp theo là cái đói. Cái đói gặm mòn
các cô gái TNXP. Các con số có được về khẩu phần ăn khiến người ta kinh ngạc.
Theo qui định, mỗi đội viên được hưởng 24 kg gạo mỗi tháng. Nhưng do vì gạo thường
thiếu hoặc không đến được bởi các trận đánh bom, khẩu phần ăn giảm sút nghiêm
trọng, có thể chỉ còn 4 kg mỗi tháng cho một người.[12] Đôi khi chỉ có cháo để ăn. Muối thường
thiếu và rau tươi thì hầu như không có. Để bù đắp, các cô hái rau rừng; đôi khi
các cô may mắn hái được rau rừng, nhưng cũng nguy hiểm vì rau có thể nhiễm chất
độc hóa học. Vì thế đa số các cô gái có biệt tài hái rau rừng và được gán cho
biệt danh “các bà chúa rau rừng”.[13] Đặc biệt vào mùa mưa, măng rừng mọc rất
nhiều trở thành nguồn rau tươi chủ yếu.[14]Nhiều
khi các cô săn được khỉ và đó là các dịp có thịt tươi để cải thiện bữa ăn, dù
việc giết thịt như thế trông có vẻ dã man.
Để cải thiện, các cô gái TNXP nghĩ ra một
số cách. Các cô tìm cách tiếp cận trạm hậu cần số 16, liên hệ xin thực phẩm của
các đơn vị chiến đấu; đổi lại là các màn biểu diễn nghệ thuật hoặc ca nhạc.[15] Sự thiếu thốn trầm trọng thực phẩm đã
khiến mọi người nghĩ nhiều đến cái ăn, đến sự ghen tị và phương thức để làm sao
có thêm cái ăn. Việc phân phối khẩu phần dựa vào vị trí chức vụ.[16] Và trong thực tế, họ thường góp thực
phẩm để ăn chung với nhau.
Cùng với nỗi khổ của cái đói là cái khát
vào mùa khô. Nguyễn Thị Lan, một cựu đội viên kể lại câu chuyện sau đã xảy ra
trên đường HCM: “Một lần hành quân giữa rừng, phát hiện một hố bom đầy nước,
chúng tôi xúm vô vốc đầy bi đông và uống cho đã khát, đến lúc ai đó khẽ
nhá đèn pin mới phát hiện toàn xác người”.[17]
Phải sống trong hoàn cảnh cực kỳ cam khổ,
lực lượng đóng trên đường mòn HCM, đặc biệt các lực lượng có vị thế thứ yếu
trong tổ chức quân đội nhân dân, phải buộc lòng tìm mọi cách để duy trì sự tồn
tại, từ việc hái rau dại, củ rừng đến săn thú rừng hay bắt ăn các loại côn
trùng có chứa chất protein. Thông thường chất hóa học do địch rải xuống làm giảm
nguồn cung cấp dinh dưỡng này từ núi rừng.[18]
Sự suy tàn thể chất. Tiếp xúc với chiến tranh, ở mặt trận
hoặc trong chiến khu, đã khiến cho sức khỏe của các cô gái suy kiệt. Huỳnh Thị
Tiếp, một đội viên TNXP của lực lượng Giải phóng Miền Nam nhớ lại mình không muốn
nhìn vào gương để khỏi thấy sắc diện đang dần xuống của mình.[19] Khí hậu khắc nghiệt của Trường Sơn đã
khiến da nổi ghẻ, tóc trên đầu nhiều chấy rận, các bộ phận kín trong người ngứa
ngáy đến phát điên. Tóc đầy gầu, bạc màu và dần rụng.[20] Bọ bám trên người khiến cho các cô
không ăn, ngủ được.[21] Dương
Thu Hương chua chát nhận xét về mối gắn bó chặt chẽ giữa loại bọ với chiến
tranh: “Tôi nằm xuống ván, gối đầu lên tay, đăm đăm nhìn kèo hầm.
Dọc theo kẽ nứt của cây kèo, một đàn rệp béo mọng xếp hằng nằm
nghỉ. Lũ rệp thời chiến là những ông hoàng bà chúa. Chúng đước tự do
và luôn luôn no đủ. Người ta hiến máu cho chúng một cách vui vẻ vì, so với
lệ phí của bom đạn thì đó chỉ là những khoản thuế còm…”[22]
Sự ẩm ướt thường trực và việc không thể
hong tóc cho khô đã tác động tinh thần các cô gái.[23] Ghẻ lở và nấm mốc hoành hành, theo
cách nói của Nguyễn Văn Đệ. Chúng tấn công mọi ngóc ngách trên cơ thể: kẽ bàn
tay, bàn chân, háng, nách và cuối cùng phát triển cả ở bầu vú. Các vùng ẩm ướt
đều dần dần bị ảnh hưởng. Không thuốc men, không điều kiện tắm rửa kỹ lưỡng,
tình trạng quá khắc khổ này tác động ngay đến tinh thần, công việc, sức khoẻ và
còn để lại những hậu quả nặng nề sau chiến tranh.[24] Thảm họa này ảnh hưởng trực tiếp đến
những đơn vị TNXP toàn nữ, làm cho giới lãnh đạo lực lượng lo lắng và cảnh báo
Bộ Y tế, nhưng dường như cơ quan này cũng bị bất ngờ. Biết các cô gái bị những
vết loét trên ngực, nhưng những người lãnh đạo quân đội ở Hà Nội chỉ có thuốc
đỏ để gửi cho họ.[25]
Vấn đề vệ sinh vùng kín của phụ nữ ít được
đề cập tới, bởi đó là chuyện rất riêng của nữ giới. Về nguyên tắc, một đơn vị nữ
TNXP hơn 500 người thì được tiếp nhận thêm một nữ bác sĩ đặc trách “bệnh phụ
nữ”.[26] Một
cựu Phụ trách Đội Nữ TNXP, cảm thông cho tình cảnh của chị em trong đơn vị
mình, đã viết bản tường trình về “bệnh phụ nữ”, liên quan đến tình trạng
vệ sinh kinh nguyệt, cho biết về việc thiếu thuốc men, băng vệ sinh, đồng phục
để thay và ít có điều kiện tắm rửa.[27] Một tài liệu về “Thể dục vệ sinh với
TNXP”, xuất bản năm 1973, trong chiến tranh, trở lại vấn đề kinh nguyệt và
những nguyên tắc vệ sinh cần phải tuân thủ. Cuối tập tài liệu là nhắc nhở tầm
quan trọng của việc giữ gìn vệ sinh hàng ngày, và những lời khuyên không thể
nào thực hiện được tại chỗ trong tình hình lúc bấy giờ.[28] Về công việc làm thì được khuyên là
trong những ngày hành kinh thì “làm việc ít hơn ngày thường”. Lẽ ra,
do tình trạng yếu sức đương nhiên của thời kỳ kinh nguyệt, các cô không phải
đương đầu với thời tiết khắc nghiệt, mưa to gió lớn. Và rồi trọng điểm của bệnh
tật là từ những rối loạn kinh nguyệt, nguyên nhân dẫn đến, và thái độ phải
đương đầu với thực trạng, làm sao để tránh bớt ảnh hưởng.[29] Về phương diện vệ sinh, với những lời
khuyên trong tài liệu, nếu nó xứng đáng được in ra, thì người ta chỉ biết tự hỏi
làm sao các cô gái có thể áp dụng được trong điều kiện giữa rừng sâu và dưới đạn
bom? Rất nhiều những dẫn chứng chỉ ra rằng các tiêu chuẩn thi đua yêu nước chỉ
là sự áp đặt. Dù gió giông, dù mưa bão, dù đêm khuya, trời quá nóng hay quá lạnh,
các cô gái TNXP đều phải chấp nhận điều kiện làm việc khắc nghiệt bất kể đặc điểm
riêng của nữ giới. Hầu hết các cô đều bị các vấn đề rối loạn về kinh nguyệt,
như tắt kinh, bất thường hoặc đau đớn, và điều này, trong bối cảnh thiếu
thốn thuốc men và băng vệ sinh nên chỉ có miếng vải mà thôi.[30]
Nguyễn Văn Đệ trở lại vấn đề tắm rửa của
TNXP sau một ngày làm việc mệt nhoài, theo ông, đó là “một vấn đề nan giải”: “Con
trai còn qua loa chịu được, nhưng chị em thật là cực hết sức, nhất là
những chị em bị bệnh ngoài da, đêm nằm ngứa không sao chịu nổi”.[31] Nhu cầu tắm rửa càng được nhân lên
trong điều kiện thiếu thốn quần áo, hết sức bất tiện: “Khó khăn nhất là các
đội viên nữ. Những ngày
đến tháng vẫn phải mặc quần áo ướt suốt ngày để đi làm. Đến một vuông
vải xô để thay cũng thiếu”.[32] Những dẫn chứng cho thấy tình trạng
thiếu thốn là phổ biến, đặc biệt ở vùng ác liệt của chiến trường.
Thân thể bị tàn phế. Những vết thương tàn phá cơ thể, tay
chân đã đành, ngực và đầu cũng không tránh khỏi. Cựu chiến sĩ TNXP, Nguyễn Thị
Vân đã kể lại trong phim tài liệu Những
cô gái bị bỏ quên của đường Trường Sơn rằng
cô bị thương ở phổi, sườn và ngực. Nhà văn Cao Tiến Lê kể trong truyện ngắn
“Tiếng đêm” một hình ảnh cảm động giữa một chiến sĩ lái xe với một cô TNXP,
giao liên trên đường Trường Sơn. Trêu sự vụng về của cô gái trong khi đang ngắm
nhìn cô, anh chưa phát hiện ngay cô là thương binh. Sau khi mời cô uống nước,
anh mới bắt đầu quan sát cô qua ánh lửa pháo sáng: “Việt sững sờ khi nhìn vào hai tay đang
bưng nước. Trời ơi! Hai bàn tay không có. Từ cổ tay trở ra đã bị cắt cụt. Cô kẹp ca nước giữa hai
cùi tay. Thấy
Việt nhìn sững sờ, như tủi thân, cô đặt ca nước lên thùng, ngồi xuống
thu cùi tay giữa hai đầu, rồi quay mặt sang chỗ khác”.[33]
Ra mặt trận từ năm 20 tuổi, nhà văn
Dương Thu Hương là một nhân chứng hùng hồn về cuộc chiến thảm khốc này. Bà hãy
còn giữ những hình ảnh chấn động về cuộc chiến, để mô tả lại một cách chân
phương, không hoa mỹ, trong tiểu thuyết của mình. Ngay từ những trang đầu trong
tác phẩm Tiểu thuyết vô đề,
bà đã mô tả cái chết bi thảm của sáu cô gái trong rừng, mà mùi hôi thối dậy
lên nồng nặc, đã dẫn đường cho những người sống đến tìm: “Chúng tôi hướng vào góc
rừng đã tỏa ra mùi thối khủng khiếp mà đi. Tới vực Cô hồn, gặp sáu
cái xác truồng. Xác đàn bà. Vú và cửa mình bị xẻo, ném vung vãi khắp
đám cỏ xung quanh. Nhờ những tấm khăn dù, nhờ những chiếc cổ áo sơ
mi kiểu lá sen tròn và hai ve nhọn mà chúng tôi nhận ra đấy là những
người con gái Miền Bắc. Có lẽ họ thuộc một binh trạm hoặc một đơn vị
TNXP cơ động nào đó bị lạc. Cũng có thể họ đi kiếm măng hoặc rau rừng
như chúng tôi rồi vấp bọn thám báo”.[34] Một đại tiệc cho côn trùng, “say sưa
chè chén”. Dĩ
nhiên, lối viết có vẻ ly kỳ, bi thảm đã cho ta thấy rõ sự kinh khủng của chiến
tranh, theo cách của hai tiểu thuyết gia: Malaparte (Ý) hay Remarque (Đức) nổi
tiếng về việc miêu tả những thảm cảnh của hai cuộc chiến tranh tại Âu
Châu. Tuy nhiên, văn của Dương Thu Hương dao động giữa hư ảo và thực tế khốc liệt
của chiến tranh. Xuyên qua tác phẩm, chị dám nói lên những điều cấm kỵ của những
năm 90 về sự lừa phỉnh của chiến tranh và tính chất của nó. Sự kinh tởm tuyệt đối
được trình bày ở đây một cách rất thực, không che giấu, mà chẳng thể mong gì
hơn ở những bản tường trình mới đây của Lê Cao Đài hay những cán bộ lãnh đạo
TNXP như Nguyễn Văn Đệ. Vả lại, trong tập này, Dương Thu Hương đề cập nhiều hơn
về khía cạnh xâm hại tình dục và tàn phế do chiến tranh, hai bi kịch còn ít được
nhắc đến bởi thực chất tàn bạo của nó.
Chấn thương tâm thần và thể xác. Trong những điều kiện sống cực kỳ gian
khổ, TNXP phải thích nghi cả thể xác lẫn tâm hồn. Sống trong chiến tranh, người
ta dễ bị chấn thương tinh thần và việc phát lên điên loạn cũng cần được nêu
lên. Trong Tiểu thuyết vô đề,
Dương Thu Hương viết tiếp: “Mấy cậusốt rét ác tính điên rồ, cởi hết áo quần ra mà nhảymúa, la hét”.[35] Cuộc sống xa gia đình kéo theo nỗi nhớ
nhà và những lo ngại triền miên. Với việc chuyển đổi khắc nghiệt từ hòa bình
sang chiến tranh, từ cuộc sống đời thường sang quân ngũ, từ tình cảm đến nỗi sợ
hãi, một dạng “Hội chứng” đã xuất hiện, nhất là trong giới nữ. Nó đã đánh lạc
hướng các nhà lãnh đạo nam giới ở các đơn vị nữ TNXP. Hiện tượng này được gọi
là “điên tập thể”. Nguyễn Văn Đệ nhắc lại tình huống đã dẫn đến hội chứng này:
“Có khi chị
em đang xúm lại đọc một bức thư của gia đình gửi đến, bỗng một người
xúc động khóc nấc lên thế là cả tiểu đội, đại đội như có sự phản ứng,
kích động dây chuyền tất cả đềi la hét, khóc toáng lên và cứ thế
lan ra từ đại đội này sang đại đội khác. Họ khóc, họ kêu, họ chạy, nhảy,
thậm chí trèo cả lên cây nói cười lảm nhảm hàng tiếng đồng hồ”.[36]
Đó là một thực tế, một bộ phận cựu chiến
sĩ nữ TNXP bị chìm trong bệnh cuồng bởi chiến tranh. Đương đầu với hiện tượng
này, các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị cũng lúng túng, lo ngại, bởi không
ai biết phải giải quyết thế nào. Đặc biệt liên quan đến những chiến sĩ mới, hiện
tượng này cũng mờ dần theo thời gian và thói quen thời chiến. Nguyễn Văn Đệ kể
lại rằng mãi lâu sau chiến tranh mà những hiện tượng điên cuồng tương tự cũng
xuất hiện trong đội ngũ lính trẻ quân đội nhân dân và ngay trong đơn vị TNXP của
ông.[37] Một bằng chứng cũng đã được tướng Đồng
Sĩ Nguyên xác nhận trong cuộc trò chuyện với Hiền, một thủ lĩnh TNXP đương nhiệm,
mới hơn một năm trên đường mòn HCM. Cô cho rằng “bệnh hay cười” đang
dần trở lại và lan toả trong lực lượng TNXP.[38] Trong bối cảnh đặc biệt ở môi trường
không thân thiện, như bị lãnh đạo áp chế, cuộc sống bị đảo lộn bất thần và thô
bạo, thì sự điên cuồng tập thể xuất hiện như một phản kháng cuối cùng. Đó
như là một phản ứng tự vệ, chứ không vì mục đích chính trị hay nổi loạn cá
nhân. Trước hết phải thử dùng sức mạnh tập thể để phản kháng, cả tâm hồn và thể
xác, với sự khủng bố tinh thần, sự thô bạo chết người. Ở một nơi mà người ta
không thể chịu đựng nổi những cuộc tranh luận chính trị, một nơi mà việc đào
ngũ khó thực hiện được, thì những cuộc khủng hoảng tập thể coi như là phương
cách tốt nhất để giải toả sự dồn nén cả tinh thần lẫn vật chất đè nặng lên đôi
vai của những người trẻ tuổi này, trong điều kiện sống quá khắc nghiệt. Nó cho
phép gắn kết tinh thần và thể xác của một đại đội, cùng chung nỗi tuyệt vọng vì
một sự tồn tại như một cái án treo.
Cơ thể suy tàn. Cuối cùng, cái chết đến với những cơ thể
suy yếu nhất. Lê Cao Đài cho biết rằng trên Mặt trận Tây Nguyên, “Anh em
đã tổng kết có 32 kiểu chết ở Tây Nguyên: chết do ốm, chết do bom đạn,
chết đuối, chết do rắn cắn, chết do cây đổ, chết do ăn phải nấm độc,
chết do voi giày, chết do bắn nhầm nhau”.[39] Người ta cũng có thể chết vì đói, Nguyễn
Văn Đệ nhớ lại.[40] Số
khác, vì quá khát, chết vì uống phải nước uống bị ngộ độc. Số khác có thể là nạn
nhân của những tai nạn thương tâm. 10 thanh niên bị 1 ôtô goòng chở đầy hàng
hoá, cán chết giữa đêm khuya.[41] Số
khác thì không sống nổi bởi những vết thương và những cuộc mổ xẻ liên tục. Những
người hấp hối được giấu ở những nơi chật hẹp, như là tiền đồn của họ trước lúc
ra đi vĩnh viễn.[42] Cuối
cùng là một con số không kể xiết những người tự nguyện chấm dứt cuộc đời.[43] Không thể đánh giá hết sự bỏ ngũ. Tự tử,
đào ngũ, mất tích, coi như 3 bản án tử hình. Dẫu sao, sau cuộc đào ngũ, vấn đề
sống còn được đặt ra. Đối với đơn vị mất người, cuộc đào ngũ đồng nghĩa với việc
mất tích. Cuối cùng, nhiều vụ mất tích đươc nêu ra. Nhiều thanh niên bị kiệt sức
và đơn độc, đã mất xác trong rừng sâu. Cũng có khi họ may mắn gặp lại đơn vị,
tiểu đội hay đại đội, là may mắn sống còn. Trong nhiều trường hợp khác, người
ta đã phát hiện xác của họ, và lại còn những trường hợp tồi tệ hơn, họ biệt
tích vĩnh viễn mà không để lại vết tích gì (khoảng 300.000 người mất tích trong
chiến tranh).[44]
Việc cáng thương (vận chuyển thương
binh) do nữ TNXP đảm nhiệm, cũng xảy ra nhiều chuyện đau lòng. Nhiều khi họ phải
vác trên lưng những thương binh nặng đi hàng bao nhiêu cây số, mà các thương
binh, vì bị đau đớn quá, đã cắn xé hay đánh đập các cô gái tội nghiệp này.[45] Rất nhiều khi vì thiếu phương tiện,
thiếu thuốc men, xa thành phố, xa bệnh viện, tự thấy tình hình quá bi đát, họ
đã dũng cảm chờ chết. Thân thể các thương binh và bệnh binh sốt rét tạo nên 1
hình ảnh hùng tráng mà bác sĩ Lê Cao Đài đã can đảm mô tả trong cuốn nhật ký
chiến trường của mình.[46] Bệnh
kiết lỵ, sốt rét, bệnh nặng ngoài da, đã nhanh chóng biến các thân thể lụi tàn
thành những bộ xương, nằm chờ chết như một niềm an ủi cuối cùng.
Thân thể huyễn hoặc và gợi cảm. Tuy nhiên, một hình ảnh yên bình khác
cũng đi song song với cảnh đáng sợ trên. Đó là lúc các cô gái cùng chia sẻ niềm
vui, sự tương trợ cùng nhau trong bữa cơm chung. Một huyền thoại về cô gái TNXP
đã được cánh lái xe lan truyền “Chúng tôi đi qua, được chào hỏi bằng những
trận cười giòn tan. Qua ánh sáng của những vì sao, tôi thoáng thấy Nguyễn Thị
Thanh, một cô gái với hàm răng sáng bóng, chiếc thắt lưng gọn gàng ôm lấy thân
cô trong bộ đồ veste oai nghi”.[47]
Trong các trường hợp khác, một cô giao
liên có thể là tâm điểm chú ý của các chàng lái xe trên dãy Trường Sơn. Cô là
hiện thân hoàn hảo của một cô gái TNXP: “Cô đột nhiên xuất hiện trước mắt
chúng tôi như một bông hoa lạ giữa rừng, khiến cả cánh lái xe chúng tôi sững sờ
nhìn theo. Trong chiếc áo lính gọn gàng, quần lụa màu đen, đầu đội chiếc mũ
kaki mềm bao trùm khuôn mặt xinh xắn, với nước da hồng hào. Lại còn đôi mắt hình
hạt dẻ và tỏa sáng trí thông minh, đôi lông mày mỏng dính vẽ nên một đường cong
tuyệt đẹp”.[48]
Trên đường mòn HCM, các đội nữ TNXP thường
quan hệ với các đơn vị bộ đội, mang lại niềm vui cho họ. Nhà văn Đỗ Chu viết rằng
“một quan hệ láng giềng làm họ vui sướng”[49] khi nói về việc bố trí một đại đội bộ
đội gần khu lán của các cô gái trẻ. Tiếng cười của họ làm dịu đi không khí bức
bối của rừng rú: “Ai cười phía trước đây nhỉ? Lại mấy cô bạn TNXP” Việt
nói, anh là lái xe tải trên đường mòn.[50]
Những cuộc tình bị cấm đoán làm thành một
phần của trận tuyến. Đắm đuối hay bi kịch, nó tồn tại như một ý chí muốn làm giảm
đi sự thô cứng và đau đớn của chiến tranh. Tình yêu đôi khi cũng là bó buộc. Sự
tập trung trong rừng, sự chung chạ trong lán trại, tạo điều kiện cho thân xác gần
gũi. Bác sĩ Lê Cao Đài lưu ý một câu chuyện về những quan hệ tôn ti trật tự,
hiểu ngầm là “quyền của cấp trên”, hẳn khá phổ biến. Đêm nọ, một cô gái làm ngạc
nhiên mọi người khi bị phát hiện cùng một sĩ quan của bộ phận y tế; cả hai đều
xấu hổ. Nhưng cô gái là người chịu búa rìu. Một đồng đội hỏi cô là không sợ
mang thai hay sao? Cô gái vừa khóc vừa trả lời rằng sếp nói với cô anh ấy làm
điều phải làm. Lê Cao Đài than thở là chính những người hay dạy đạo đức cho người
khác lại phạm luật. Ông ghi nhận với sự dè bỉu: “Thủ trưởng đã có cách!…”,
sau này trở thành câu nói đùa trong Viện mỗi khi chúng tôi ở trong
tình thế khó xử. Và cũng xuất hiện một câu vè: ‘Thủ trưởng nhìn
em, thủ trưởng cười. Đau lòng em lắm thủ trưởng ơi!’ ”[51]
Nhưng thường thì tình yêu là bất khả, trễ
tràng hay bi kịch. Tình yêu kết hôn với sự chai sạn của thực tế, được tưởng tượng
như là cánh cửa mở vào tương lai tốt đẹp, như trong các trang nhật ký của những
người trẻ tuổi điên cuồng trong chiến tranh.[52] Đặng Thị Vân, một cựu TNXP tâm sự: “Đó
là chiến tranh mà,
ngày mai chẳng biết ra sao nên chẳng ai dám yêu đương, hứa hẹn. Có chăng
là tình cảm đồng đội sống chết có nhau”.[53]
Không ít phần sự thật về những chủ đề tế
nhị và khó đề cập như hãm hiếp, bạo hành thân thể phụ nữ, bước đi từ phụ nữ trong chiến tranh đến phụ nữ của chiến tranh, xứng đáng được nghiên cứu
kỹ hơn. Khi họ đi tìm lương thực để khỏi đói, các nữ TNXP có thể gặp nhiều bất
trắc. Nguyễn Văn Đệ gợi lại với sự bối rối trong thứ ngôn ngữ nín lặng, việc đi
tìm lương thực nơi trại lính đó: “Thật không sao kể hết những gian khổ,
khó khăn mà chị em nữ TNXP đã phải gánh chịu và khắc phục”.[54] Về phía người Mỹ đối địch, nếu ta tin
vào các bằng chứng ghê sợ của GI trong chiến tranh, người đàn bà Việt Nam trở
thành con mồi tình dục.[55] Ta
không dám tưởng tượng số phần của nữ TNXP, đôi khi đơn độc trong rừng, đối đầu
với một chiến binh Việt hay Mỹ, kẻ thù thực sự hay cùng phe.
Thân thể sống sót, tinh thần bồng bềnh. Sống còn là một mệnh lệnh hằng ngày.
Ai đã đến đó thì những khoảnh khắc vui tươi là quan trọng. Các cô gái mang tính
khôi hài đặc biệt trên tiền tuyến. Cuốn theo những người lính, họ cười, khóc và
ca hát dưới bom đạn.[56] Những
bài ca của họ được sử dụng cho nhu cầu tuyên truyền và lên tinh thần cho các
đơn vị. Do vậy mà các đội ca múa nhằm tuyên truyền “Tiếng hát át tiếng bom” được
thành lập. Bộ phận tuyên truyền đã tổ chức các chiến dịch nâng cao tinh thần với
khẩu hiệu “Biết đi là biết múa,
biết nói là biết hát,
mỗi cán bộ, đội viên TNXP là một diễn viên”, khẩu hiệu đã trở thành mệnh
lệnh cho vở kịch bi hùng này.[57] Có
ít ví dụ liên quan đến hệ lụy của chiến tranh và tác động của bom hay chất hóa
học lên thân thể các TNXP được kể ra. Tức là người ta biết điều ấy, biết rằng
tiếng nổ điếc tai của bom, mảnh pháo để lại những vết hằn không thể phai. Trong
địa ngục của chiến tranh, dù có những niềm vui hiếm hoi, cuộc sống thường nhật
của TNXP đắm chìm trong thất vọng mênh mông, một nỗi đau khó tả; ở đó sự sống
và cái chết dính chằng vào nhau, ở đó có sự táo bạo và can đảm, đôi khi máy
móc, làm thành một bản năng tuyệt vời cho sống còn.
Thích ứng hay quen thuộc cho phép giữ hy
vọng sống còn. Sự quen thuộc là từ chủ của nhiệm vụ này, cái chết và sự sống
tranh nhau số phận của các thanh niên dấn thân vào trận chiến. “Ban đầu đi thìtôi cảm thấy vất vả, thì dần dần bạn bè khuyên bảo rồi
thấy quen dần, về phần con gái thấy cũng bình thường”,
Đinh Thị Hợi nói thế với một chủ nghĩa định mệnh rõ rệt.[58] Về khả năng thích ứng này, nhà thơ Phạm
Tiến Duật nhắc lại kỷ niệm đặc biệt của ông:
“Đơn vị tôi đi qua Đồng Lộc rất nhiều lần
và chứng kiến những hy sinh của các chiến sĩ pháo cao xạ và các cô gái
TNXP. Một lần dừng lại, tôi quá ngạc nhiên vì một bên là mùi đạn khói
vẫn còn khét lẹt, chết chóc rình rập, một bên vẫn ngửi thấy hương
lá sả trên tóc các cô gái TNXP, tiếng đùa cợt rất thời bình của họ.
Dường như cái chết với họ, bom đạn với họ chẳng là gì.”[59]
Sự chứng thực như vậy làm nổi lên tính định
mệnh của sự việc, như Lê Minh Khuê mô tả những nữ anh hùng không tên, “những
con quỉ mắt đen”, trở nên vô cảm, trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa
xôi” viết năm 1971.[60] Huỳnh
Thị Tiếp nhớ lại các cô TNXP của lực lượng miền nam: “Tôi không bao giờ
quên được những đêm mưa sương lạnh cóng, những ngày khát nước đói cơm, những
trận giáp lá cà thư hùng với giặc, cái chết và cái sống chỉ cách nhau
trong đường tơ kẽ tóc, nhưng nhớ cũng chỉ để mà nhớ thôi, bởi tôi cũng
không biết cách nào để diễn tả lại những hình ảnh đó được”.[61]
Làm sao mô tả, làm sao kể lại ảnh hưởng
của những trận bom rải thảm vẫn ám ảnh tâm trí trong bốn mươi năm qua? Những ví
dụ bi kịch này không phủ nhận lời của nhà văn Phạm Tiến Duật sau 11 năm trên
dãy Trường Sơn: “Có nhiều chuyện trên đường mòn HCM mà người ta không nói tới:
khó khăn, cực nhọc, hy sinh và cả thất bại. Tất cả những tác phẩm nói rằng con
đường mòn là một thắng lợi vĩ đại đều rất khoa trương”.[62] Bao nhiêu đôi mắt mù lòa, bao nhiêu vầng
trán vỡ tan, bao nhiêu mảnh bom khảm sâu vào da thịt?
[1] Tên của phóng sự 3 kỳ trên báo Tuổi Trẻ: “Những bông hoa trên tuyến lửa”, (22/24-12-2006).
[2] Minh Lợi, “Orchidées des forêts
brûlées” [Phong lan của rừng cháy]”, Sur
la piste Ho Chi Minh [Trên
đường mòn Hồ Chí Minh], Hanoi,
Editions en Langues Etrangères, 1982, tr. 176-192.
[3] Svetlana Alexievitch, La guerre n’a pas un visage de
femme [Chiến tranh không
có gương mặt đàn bà],Paris, Presses de la Renaissance, 2004, tr.
9.
[4] Zineb Ali Ben Ali, “Les femmes et leur
corps dans la guerre : refus de mémoire et ‘traces’ littéraires” [Phụ
nữ và thân xác họ trong chiến tranh: chối từ ký ức và ‘dấu vết’ văn học], Hội thảo Lịch sử phản biện và công
dân, trường hợp lịch sử Pháp – Algérie, ENS-LSH,
Lyon, 20-22 tháng 6 năm 2006.
[6] Đồng Sỹ Nguyên, Đường xuyên Trường Sơn, hồi ức, Hà Nội, Nxb Quân Đội Nhân Dân, 2001
(xuất bản lần hai), tr. 47. Suốt hồi ký, Đồng Sỹ Nguyên kể lại các viếng
thăm bộ đội, dân công, thành viên TNXP trên đường mòn Hồ Chí Minh, xem: tr.
262, 272, 273, 328, 343.
[7] Chứng cứ của Hoàng Công Ánh trong
Laurence Jourdan, Les
oubliées de la piste Ho Chi Minh [Những
cô gái bị lãng
quên của đường
mòn Hồ Chí Minh], Sunset Press, 2003, 53 mn (phim
tài liệu). Hoàng Công Ánh hiện điều hành ủy ban liên lạc cựu TNXP tỉnh Thái
Bình.
[8] Lê Cao Đài, C’était au Tây Nguyên [Tây Nguyên ngày ấy], tr. 104. Xem thêm nguyên bản bằng
tiếng Việt Lê Cao Đài, Tây
Nguyên ngày ấy (Hồi ký Tây Nguyên), in
lần thứ ba, Hà Nội, Nxb Công An Nhân Dân, 2005.
[9] Xem, ví dụ: Xuân Vũ, Xương trắng Trường Sơn, Los
Alamitos, CA, Nxb Xuân Thu, 1989, tr. 82, 88, 94…
[10] Trần Chinh Vũ, “Des bourricots sur la
cordillère” [Những con lừa trên núi], Trên
đường mòn Hồ Chí Minh,tr.
152.
[12] Nguyễn Văn Đệ, Một thời oanh liệt của nữ TNXP, tr. 86. Khẩu phần này tương đương 66
gram gạo mỗi bữa ăn tức là nửa chén cơm. Xem ví dụ tương tự: Văn Tùng &
Nguyễn Hồng Thanh (chủ biên), Lịch
sử TNXP Việt Nam, tr. 320.
[13] Nguyễn Văn Đệ, Một thời oanh liệt của nữ TNXP, tr. 89. Nguyễn Văn Đệ kể chuyện Nguyễn
Thị Hồng Nương hái 22 loại rau rừng.
[18] Ngay cả nếu việc ăn thịt người không được
đưa ra trong các nguồn tài liệu của tôi, một câu hỏi cấm kỵ như vậy có thể
đáng đặt ra với sự thận trọng liên quan đến những vấn đề khó đề cập.
[19] Huỳnh Thị Tiếp, “Tôi chỉ lo lắng một điều…”, Con đường huyền thoại, tập
II, Nxb Phương đông, 2005, tr. 199.
[20] Nguyễn Văn Đệ, Một thời oanh liệt của nữ TNXP, tr. 82. Xem thêm lời kể của các nhân
chứng: Dân Hồng, Đường Trường
Sơn theo lời kể của một nữ chiến sĩ TNXP, tr. 36; Đồng Sỹ Nguyên, Đường xuyên Trường Sơn, tr.
261.
[22] Dương Thu Hương, Tiểu thuyết vô đề, tr. 64. Xem thêm nguyên bản bằng
tiếng Việt: Dương Thu Hương, Tiểu
thuyết vô đề, Stanton, CA,
Văn Nghệ, tr. 68.
[27] Xem tường trình của Hoàng Công Ánh về điều
kiện sống của nữ TNXP trong Những
cô gái bị lãng
quên của đường
mòn Hồ Chí Minh của Jourdan, DVD, phút thứ 22.
[28] Lê Thi và những người khác, Thể dục vệ sinh với TNXP, Tổng
cục Thể dục Thể thao xuất bản, 1973, tr. 151-154, đặc biệt là đoạn nói về “Kinh
nguyệt và vệ sinh kinh nguyệt”.
[33] Cao Tiến Lê, “Bruits nocturnes” [Tiếng
đêm], in Trên đường mòn Hồ
Chí Minh, Hanoi, Editions en
Langues Etrangères, 1982, tr. 115. Xem nguyên bản bằng tiếng Việt trong:
Bùi Việt Thắng (tuyển chọn, giới thiệu) Truyện ngắn hay về chiến
tranh, [tập II], Hà Nội,
Nxb Văn Học, 2006, tr. 182-194.
[36] Về hiện tượng này, xem thêm truyện
ngắn của nhà văn Võ Thị Hảo “Người sót lại của rừng cười”, trong
tập truyện ngắn cùng tên, Hà Nội, Nxb Phụ Nữ, 2005, tr. 87-107. Cũng
xêm thêm sự phân tích sâu sắc của truyện ngắn này do Đoàn Cầm Thi
viết trong bài “Femme, fantasme et guerre” [Phụ nữ, ảo ảnh và chiến
tranh], La Revue des ressources, tạp chí nghiên cứu văn học trên
mạng (http://www.larevuedesressources.org/spip.php?article770), truy cập
ngày 2 tháng 4 năm 2007.
[38] Đồng Sỹ Nguyên, Đường xuyên Trường Sơn, tr.
260-261. Xem thêm Thiếu tướng Phan Khắc Hy, phó tư lệnh đoàn 559: Thái
Bình, “Hoa thiếu nữ giữa rừng Trường Sơn”, Tuổi
Trẻ (23-12-2003).
[39] Lê Cao Đài, Tây Nguyên ngày ấy, tr. 143. Xem thêm: Văn Tùng &
Nguyễn Hồng Thanh (chủ biên), Lịch
sử TNXP Việt Nam, tr. 320.
[43] Trường hợp người thanh niên mà Lê Cao Đài
kể ngày 12/5/1966; Xem: Lê Cao Đài, Tây
Nguyên ngày ấy, tr. 79-80.
[45] Nguyễn Văn Đệ, Một thời oanh liệt của nữ
TNXP, tr. 55.
[46] Lê Cao Đài, Tây Nguyên ngày ấy, tr. 103.
[47] Nguyễn Gia Nùng, “Les routes restent
ouvertes” [Đường vẫn mở], in Face
aux bombes, reportages[Trong đạn bom. Phóng sự], Hanoi, Editions en Langues Etrangères,
1969, tr. 40.
[48] Minh Lợi, “Phong lan của rừng cháy”, tr.
176-177. Trong Tiểu thuyết vô
đề, Dương Thu Hương nêu một
cảnh tương tự, trong đó những người lính phấn kích kéo nhau đến xem cô gái xinh
đẹp sẽ làm hướng dẫn cho họ (tr. 220-221).
[49] Đỗ Chu, “Les échos de la forêt” [Tiếng vọng
của rừng], Trên đường mòn Hồ
Chí Minh, tr. 83, 86.
[52] Cả một nền văn học lãng mạn về chiến tranh
được làm sống lại từ khi ấn hành quyển nhật ký của Đặng Thùy Trâm. Liên quan đến
hiện tượng này xem: Nguyễn Mạnh Trinh “Khi người chết sống lại…”,www.phusa.net (truy cập ngày 29-9-2006); Trần Trung Đạo,
“Những người đi tìm tổ quốc”, www.talawas.org(truy cập
ngày 24-3-2006).
[55] Mark Lane, Conversations with Americans, New York, Simon & Schuster,
1970. Tiếng Pháp, Xem: Mark Lane, Les
soldats américains accusent [Những
người lính Mỹ tố giác], Paris,
François Maspéro, Cahiers libres 238-239, 1972, tr. 43, 49, 81, 92, 138-139,
163-164, 195-196 (dẫn chứng hãm hiếp và tra tấn phụ nữ).
[57] Nguyễn Văn Đệ, Một thời oanh liệt của nữ
TNXP, tr. 259. Văn sĩ nổi tiếng
Dương Thu Hương thuộc một nhóm văn công lưu động trong thời kỳ chiến tranh.
[59] Hoàng Nguyên
(thực hiện), “Nhà thơ Phạm Tiến Duật: Gửi người thanh niên hôm nay”, Quân Đội Nhân Dân (6-7-2006).
[60] Lần tái bản gần
đây, xem: Lê Minh Khuê, “Những ngôi sao xa xôi”, trong Truyện ngắn hay về chiến tranh [tập II], tr. 111-132.
[62] Phạm Tiến Duật,
trích dẫn trong John Prados, The
Blood Road. The Ho Chi Minh Trail and the Vietnam War, New York, John Wiley & Sons, Inc.,
1998, tr. 194.
IV.
Những đớn đau sau chiến tranh: Khó khăn hồi phục cơ thể
Sự kết thúc của
chiến tranh chấm dứt cái chết không báo trước và tàn bạo. Một niềm hy vọng vô bờ
lan tỏa minh chứng rằng tất cả việc ấy không phải là vô ích. Nhưng các cựu
TNXP, giải ngũ và thường là giải luôn cái tinh thần trong trẻo, phải chịu đựng
những thử thách thể xác và tâm lý thường nhắc họ nhớ lại những đớn đau đã qua. Trong
một ý nghĩa nào đó, sự sống còn trong chiến tranh được tiếp nối bằng cuộc đấu
tranh không cân sức sau chiến tranh. Nhà nghiên cứu Lê Thi (Dương Thị Thoa) có
một công trình quan trọng về vị trí của những phụ nữ độc thân, trong bối cảnh
xã hội Việt Nam, truyền thống và trọng nam khinh nữ.[1]Trong
một cuộc điều tra 160 cựu nữ TNXP, học giả này thấy rằng sau khi mãn hạn phục vụ,
nói chung các cô gái TNXP quay về làng. Nghiên cứu cung cấp một vài số liệu
chính xác về công việc của TNXP sau chiến tranh. Đa số làm nông nghiệp (76,3%) ở
các nông trường quốc doanh hay hợp tác xã nông nghiệp, số ít làm trong lĩnh vực
hành chánh, những người khác làm công nhân (4,3%) hay làm thuê kiểu công nhật
(6,7%) và số còn lại hoàn toàn mất khả năng lao động (12,5%).[2] Đối với những cựu TNXP tuổi đời chỉ
khoảng 20, việc quay về đời sống dân sự ở quê nhà là rất phức tạp. Sự hy sinh,
khắc kỷ, dũng cảm trong những năm tháng chiến tranh tương ứng với thương tật, đớn
đau và rối loạn tinh thần trong thời gian hòa bình.
Sự hao mòn thể xác trong những năm chiến
tranh là khó khăn đặt biệt để vượt qua. Những người xung quanh nhìn nhân dạng của
họ nặng nề một cách khủng khiếp: “Khi
nó trở về, bệnh tật và xấu xí ốm đau khổ lắm đến nỗi không ai muốn nhìn nó nữa”,
bà mẹ của Đinh Thị Hợi, một cựu TNXP đã nói như thế. Khi trở về, các cô gái
TNXP trong độ tuổi 24-25, đều mong muốn có con. Những đứa con ra đời thường
ngoài hôn nhân, làm tăng lời đàm tiếu của dân làng và sự chối bỏ của cộng đồng.
Đối mặt với hiện tượng này, năm 1982, tờ Nhân
dân ghi nhận: “Ta có thể
thấy dư luận xã hội còn quá khắt khe và ngay cả một số cán bộ đảng viên cũng có
thái độ kiểu phong kiến hà khắc”.[3]
Do vậy, khi trở
về từ chiến tranh, các cựu nữ TNXP giáp mặt với sự tìm kiếm bình yên một cách bất
khả, đi tìm lại nữ tính của mình, bởi vì bi kịch thường kéo dài và tái lộ. Đa số
họ có con bị tàn tật, do ảnh hưởng kinh hoàng của chất hóa học trong rừng sâu.
Những bi kịch này không thường được nhắc tới, chỉ thi thoảng xuất hiện vài dòng
trên báo chí hay trong văn học, vạch lại số phận đớn đau của họ. Giữa lời nói
và nụ cuời, những dòng lệ rơi…
Làm gì đây cho hàng ngàn cô gái bệnh tật,
thương tật, rối loạn trong xã hội sau chiến tranh? Họ trở thành gánh nặng,
không tương thích chút nào với hình ảnh lý tưởng của chiến sĩ cách mạng
trẻ tuổi mạnh mẽ đầy ý chí, với hình ảnh người lao động trẻ đầy sức khỏe, được
tuyên truyền chính thức ở các nước xã hội chủ nghĩa. Dựa trên điều tra cá nhân
phụ nữ độc thân, trong đó có nhiều cựu TNXP, Lê Thi trình bày một phân tích thẳng
thắn về tương lai khó khăn sau chiến tranh của họ. Ngoài ra, sự khinh bỉ của xã
hội, hóa thân của truyền thống đa thê, và sự lạm dụng tình dục cũng được nêu
ra. Một số đàn ông dù đã có gia đình, đã lợi dụng nhu cầu muốn có con và kết bạn
của những người phụ nữ này để có quan hệ tình dục với họ. Sau đó họ bỏ rơi những
người phụ nữ đó, không hề giúp đỡ tài chính.[4]
Đặc biệt, Lê Thi quan tâm đến tình trạng
các cựu nữ TNXP bị ảnh hưởng chất da cam trên mặt trận Trường sơn. Bà ghi nhận
trường hợp của 5.000 cựu TNXP tỉnh Ninh Bình, chiếm 70% số lượng các cô gái
trong giai đoạn chiến tranh. Năm 1999, một cuộc thăm dò tiến hành với 160 phụ nữ
từng phục vụ trên đường mòn HCM và nam Lào, thì thấy 127 người vẫn độc thân sau
khi về lại làng quê vì quá lứa hay vì bệnh tật. 33 người trong số họ bị bệnh vì
chất da cam và vài người có con bị dị tật hay đần độn. Họ có các vấn đề thần
kinh, đau đầu thường xuyên, mất ngủ, đau khớp, suy nhược, rối loạn thị lực.[5]
Những trường hợp bi kịch được nêu ra là
Đoàn Thị Dậu và Trần Thị Thơm, với số phận hoàn toàn đổ nát vì vết thương chiến
tranh. Mảnh bom ấn sâu vào đầu họ và không thể lấy ra được, nó tác động nặng nề
lên hệ thống thần kinh. Họ sống giữa những cơn điên lọan và lang thang câm nín.
Nhiều người khác trốn tránh và sống chật vật trong chùa, bị cầm tù bởi những
thương tổn của chiến tranh và những đau đớn.[6] Hơn ba mươi năm sau chiến tranh, báo
chí tiếp tục nêu ra những “thung lũng không chồng” nơi nương náu của hàng trăm
phụ nữ đơn côi.[7] Các
bài báo nhắc đến những thân phận phụ nữ sống trong cùng khổ, đôi khi nuôi con
không cha (như nhà không nóc) sau khi đã cống hiến sắc đẹp, tuổi xuân,
lý tưởng, lòng can đảm cho tổ quốc.[8] Một phóng viên báo Công an Nhân dân nêu lên trường hợp của 40 cựu nữ TNXP
của tỉnh Thái Bình hiện sống trong các ngôi chùa.[9]
Đôi khi người ta quên. Nếu thân thể bị hằn
sâu như vậy, ngoài sốt rét, tai họa, còn là những đớn đau tâm lý: ác mộng ám ảnh,
các cơn co giật, la hét, đau đầu… Chán chường, nghèo đói, câm lặng, bi kịch dai
dẳng với gánh nặng đứa con tật nguyền, cái giá của sự dấn thân quá nặng nề. Mỗi
số phận minh chứng rằng người phụ nữ không chỉ bị tàn phai da thịt, mất đi nữ
tính trong chiến tranh mà còn là sau chiến tranh, khi họ cố hồi phục thể xác và
tâm lý. Những người này trở thành 5 không, sau khi cha mẹ mất đi: “không chồng,
không con, không nhà, không chế độ, và độc thân”.[10] Một cách nói về sự cùng cực xã hội của
họ. Nỗi buồn chiến tranh,
như Bảo Ninh đã tỉ mỉ mô tả, không chỉ dành cho những người đàn ông.
Vấn đề dẫn dắt cuộc chiến là không thể
khác. Cũng như việc sử dụng phụ nữ trong chiến tranh. Nó không là đặc biệt
trong một xứ sở như đã mô tả bởi các công trình của Claude Quétel.[11] Nhưng việc sử dụng và quản lý nhân lực
cho chiến tranh ở Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam cộng sản là một chiến lược
chính trị, nhằm đáp ứng đòi hỏi của “chiến tranh nhân dân”. Đặc biệt đối với Việt
Nam, cuộc chiến 1965-1975 liên quan đến phụ nữ hơn hết, những người “đi trước,
về sau” đó, nếu họ còn sống sót sau mỗi trận đánh.
Các câu hỏi liên
quan đến cách dẫn dắt cuộc chiến cần được nêu lên. Khi chúng ta biết rằng 80%
trận bom Mỹ là nhắm vào các tuyến liên lạc; có đúng đắn không khi tập trung ở
đó những người được tuyển mộ trẻ tuổi không có sự chuẩn bị quân sự để chịu đựng
những may rủi chết người? Không bắt bẻ được rằng 4000 cái chết của TNXP là đau
đớn nhẹ nhàng để bảo đảm cuộc sống bình thường ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cho
phép một chiến thắng dẫn đến thống nhất. Chắc chắn. Khi ấy thì những quan hệ
chính trị và quân sự dường như đáng trách ở chỗ là một phần lớn TNXP bị lịch sử
xử tệ dù đã dâng hiến sự hy sinh khổng lồ. Vấn đề chi phí xã hội và nhân bản vẫn
còn được đặt ra, trong và sau chiến tranh. Phải chăng cả một thế hệ đã bị hy
sinh cho bàn thờ của lòng kiêu hãnh, sự ngây thơ và của sự bất tài?
Đối với nhà văn Xuân Vũ, có điều gì đó
không đo lường được trong cách những nhà lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
áp đặt cho sự hy sinh: “Họ bắt con người phải hy sinh qua nhiều. Sự hy
sinh trở thành vô bờ bến, không có thời hạn, không có điều kiện. Vì thế
sự hy sinh đã trở thành những cực hình, chứ nó không mang tính chất tự
nguyện của cách mạng”.[12] Không
phải đảng viên, không phải dân quân, không phải quân đội, TNXP tồn tại giữa sự
hy sinh và trừng phạt, giữa chủ nghĩa ái quốc và cạm bẫy chính trị. Phải đợi đến
cuối năm 2004, Hội cựu TNXP mới được phép thành lập trong một hội nghị, tập hợp
nhiều thế hệ TNXP, ở Hà Nội ; cuối cùng thì vai trò của họ đã được công nhận.[13]
Kết luận
Qua vài nét lớn,
vấn đề TNXP với vai trò, thành phần và số phận của họ, đã rõ ràng hơn. Còn một
việc nữa, như thường nói ở Pháp, là “bổn phận kế thừa” có lẽ cần thiết để lập bảng
tổng kết lịch sử cho công cuộc này của chiến tranh. Cái mà chúng ta biết hiện
nay chỉ là phần nổi của tảng băng vì vẫn còn nhiều câu hỏi chưa có câu trả lời.
Việc thống nhất lãnh thổ và xã hội là một cái được, là niềm tự hào của nhiều
người Việt Nam, nhưng cái giá phải trả để thoả mãn tham vọng chính trị ấy vẫn
chưa được đong đếm. Đối với một số người, với hiện trang Việt Nam và vai trò phụ
nữ trong xã hội Việt Nam hiện nay, thì cái giá đó quá đắt.
Vấn đề TNXP vừa
thú vị và vừa phức tạp; nó liên quan mật thiết đến sự tiến triển của xã hội và
chính trị Việt Nam từ 1950. Trong cả hai cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ,
thanh niên đóng vai trò trung tâm, ngay cả khi họ bị kẹt giữa chủ nghĩa ái quốc
đầy đòi hỏi và việc sử dụng chính trị lạnh lùng. Sự hy sinh của họ là thực sự,
nhưng cái chủ nghĩa ái quốc đòi hỏi ở họ giống một phương tiện thu hút nhân lực
trong những điều kiện hết sức nghiệt ngã, khiến ta gặp khó khăn trong việc xác
định hành động của họ bao nhiêu phần xuất phát từ chủ nghĩa anh hùng, và bao
nhiêu phần chỉ đơn giản nhằm mục đích tồn tại. Chủ nghĩa anh hùng và bi kịch là
hai mặt tự thân của cuộc chiến cốt nhục tương tàn, việc giải phóng người này đồng
thời là sự khuất phục và biến mất của người kia. Đằng sau những trang sách anh
hùng và tuyên truyền chính thức, đằng sau những diễn văn biện giải, che giấu một
sự thật sống sượng hơn, đau khổ hơn, và bi kịch hơn ; nó liên quan đến số
phận bi thảm của hàng vạn thanh niên vừa đầy nhiệt huyết, vừa bị cưỡng bách, những
người bị chiến tranh bẻ gãy cả thể xác lẫn tâm lý. Sự thực ấy, ban đầu được tô
vẽ bằng những màu sắc câm lặng, dần dần lộ rõ hình hài, chuyển hoá hình ảnh
tinh luyện của các cô gái trẻ với nụ cười sáng ngời thành những khuôn mặt mệt mỏi,
chằng chịt những vết bị chiến tranh cắt nát, hằn sâu đau khổ và điên loạn.
Giống như các đồng nghiệp ở Liên Xô, phụ
nữ Việt Nam không những không bị cấm ra mặt trận, mà còn ở ngay chính giữa mặt
trận.[14] Các cô gái TNXP trực tiếp tham gia chiến
đấu, đặc biệt là trên đường mòn HCM, nơi có sự hoà nhập nhất với quân chủ lực,
và với những người trong đội TNXP Giải phóng miền Nam thì chiến đấu là nhiệm vụ
chính thức. Như chúng ta thấy, trong phần lớn thời gian, ranh giới giữa bộ đội
nơi tiền tuyến và các lực lượng hậu cần không hề tồn tại. Việc lực lượng hậu cần
cũng hứng chịu lửa đạn là chuyện bình thường của mọi cuộc chiến,[15] nhưng trường hợp Việt Nam trở nên đặc
biệt do một số lý do: độ tuổi tuyển mộ quá trẻ, họ gần như hoàn toàn không được
chuẩn bị chút nào, và cách thức quản lý thuần chính trị và quân sự được áp dụng
với họ. Sĩ quan trong Quân đội Nhân dân Việt Nam và cựu cán bộ TNXP bị ảnh hưởng
nặng nề bởi những đau đớn khủng khiếp thường nhật của các cô gái làm việc cùng
họ, hoặc dưới quyền họ, phải chịu đựng. Nhưng tất cả bị tấm màn im lặng phủ kiến,
bởi người ta muốn đây phải là cuộc chiến tranh nhân dân.
Trong logic chiến
tranh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tổng động viên quần chúng và việc cưỡng
bách thanh niên tòng quân (qua phong trào Ba sẵn sàng) biến mỗi công dân thành
một chiến sĩ không phân biệt giới tính. Giới lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
nắm chắc mục tiêu ‘dân tộc-cộng sản’, thẳng tiến vào Nam đến chiến thắng tại
Sài Gòn, không dừng bước trước bất kỳ trở ngại nào và không ngần ngại trước bất
kỳ hy sinh nào. Chủ nghĩa anh hùng và bi kịch liên hệ mật thiết với nhau, vì vậy
chính sử sẽ không thể phân biệt chúng rạch ròi. Tuy vậy, vào giữa thập niên
1990, cựu TNXP bắt đầu giành lại lịch sử của mình; điều này có thể sẽ cho phép
họ góp phần giúp ta hiểu rõ hơn vai trò then chốt mà họ đã đóng trong cuộc chiến
tranh thống nhất đã đòi hỏi nơi họ những hy sinh khủng khiếp nhường ấy. Vì lý
do này, họ hẳn có thể nắm giữ một phần của việc viết sử trong tương lai.
Trong quá trình nghiên cứu của tôi, một
câu hỏi thứ hai thường xuyên được đặt ra: vấn đề phụ nữ trong chiến tranh, đặc
biệt là ý thức về sự tàn tạ về bản chất sinh lý của phụ nữ và của người mẹ. Ni
cô Phương nhấn mạnh điểm này một cách rõ ràng, nhưng khiêm tốn, khi bà kể ra bí
mật của mình, một bí mật phụ nữ đã ảnh hưởng những TNXP sống sót trở về: “Chúng
tôi đã mất điều làm cho chúng tôi là phụ nữ”.[16] Trong bài thuyết trình khiêm tốn
nhưng đầy ý nghĩa, nhà văn Lê Minh Khuê nêu lên vấn đề thân xác phụ nữ
trong và sau thời kỳ chiến tranh: “Có
một điều không ai biết, không được nhắc tới dù nhắc xa xôi, vì ở Việt Nam người
ta cấm kỵ xem như ô nhục xấu xa, đó là đời sống thân xác của người đàn bà”.[17].
Nguyễn Văn Đệ cũng viết về sự cạnh tranh giữa đàn ông và phụ nữ, và việc phái yếu
đã đứng lên trong thử thách như thế nào.[18] Các cô gái chẳng thua kém gì cánh con
trai, và thậm chí còn táo bạo và can đảm hơn trên chiến trường. Tướng Đồng Sĩ
Nguyên chứng kiến công việc của TNXP trên Đường mòn HCM đã ca ngợi: “Đặc biệt, ở Trường Sơn, các nữ
TNXP không phải là phái yếu như nhiều người thường nghĩ. Trái lại họ là ‘phái
mạnh’”.[19] Bất
chấp những hình ảnh tuyên truyền lừa bịp, cách thức quản lý chiến tranh cách mạng
thuộc giống đực. Một cuộc chiến vì đàn ông, chống lại đàn ông, do đàn ông dẫn dắt.
Ngay cả khi các đơn vị TNXP gồm toàn phụ nữ thì chỉ huy cũng vẫn là đàn ông. Cơ
bản mà nói, người ta đã tiến hành cuộc chiến mà không mảy may quan tâm đến những
đặc thù sinh lý và văn hóa của phụ nữ trong chiến tranh; trên thực tế, những điều
này đã bị bỏ qua, coi nhẹ hoặc rơi vào quên lãng. Nói cách khác, thu hoạch của
chiến thắng 1975 hoàn toàn chỉ thuộc về đàn ông. Cũng như bao cuộc chiến khác,
khi “cánh đàn ông từ chiến trường trở về”, dù theo nghĩa đen hay nghĩa bóng,
tái tạo một Việt Nam xã hội chủ nghĩa chiến thắng và đầy đực tính, đã không đếm
xỉa đến sự dấn thân của phụ nữ trong chiến tranh nhân dân. Đây là một dạng “trừng
phạt dục tính”, thấm đẫm trong cuộc trở về của quyền lực Khổng giáo và đực
tính, được minh hoạ bằng màu kaki hiện diện khắp phía bắc vĩ tuyến 17 mãi cho đến
thời kỳ mở cửa vào năm 1986, được biết đến với tên gọi Đổi mới.
Thực tế, mặc dù các cô gái đóng một vai
trò quan trọng trong chiến tranh, lời nói của họ bị chìm nghỉm trong cả một đại
dương tuyên truyền. “Còn có một cuộc chiến mà chúng ta không biết”,
Svetlana Alexievitch khẳng định.[20] Việc
buộc chính sử, với điện thờ các anh hùng của nó, thừa nhận cách nhìn khác về một
cuộcchiến với đầy thông số chi tiết đậm nét về tâm sinh lý, là điều hết sức
khó. Ta có thể thấy điều này qua cuộc đối thoại giữa Svetlana Alexievitch và một
nhân viên kiểm duyệt về trường hợp Liên Xô, một ví dụ hoàn toàn có thể áp dụng
được vào trường hợp Việt Nam: “Có gì hay ở những chi tiết sinh lý này? Rốt
cuộc quý vị chỉ hạ thấp phụ nữ bằng cách tập trung vào cơ thể của họ. Tước vòng nguyệt quế của
các nữ anh hùng và khiến họ trở thành những phụ nữ bình thường. Thành giống
cái. Nhưng với chúng tôi họ là những nữ Thánh!”[21]
Đây là vấn đề thực sự. Ngoài những cống
hiến hiển nhiên vào cuộc chiến đực tính này, các cô gái TNXP còn được bộ máy
tuyên truyền sử dụng như những hình ảnh thần thánh. Để dẫn dắt cuộc chiến và tổ
chức tuyển binh, người ta cần những gương mặt nữ đầy khích lệ, những nụ cười rạng
rỡ như một lợi thế giới tính hóa. Hình ảnh Nguyễn Thị Kim Huế, thần tượng của
TNXP, được chụp cạnh “Bác Hồ” năm 1967, vẫn tiếp tục được sử dụng cho đến tận
ngày hôm nay. Không phải ngẫu nhiên mà tấm ảnh biểu trưng này được dùng làm bìa
cho cuốn Chủ tịch Hồ Chí Minh
với sự nghiệp giải phóng phụ nữ mới
xuất bản gần đây.[22] Chân dung trẻ trung của mười cô gái hy
sinh vì bom Mỹ trên tượng đài Đồng Lộc cũng góp phần vào hiện tượng này. Người
ta thăm viếng các cô gái trẻ chết ngoài chiến trường gần như với nghi lễ tôn
giáo, như thể để tự thuyết phục mình là họ đã có niềm tin tốt đẹp và cách hành
xử đúng đắn trong một cuộc chiến tranh tế mạng, được tiến hành nhân danh chủ
nghĩa cộng sản dân tộc đầy đực tính. Không biết việc dựng tượng đài kỷ niệm và
trao huy chương liệu có đủ để siêu việt hóa thực tế hàng vạn thân thể phụ nữ bị
hủy hoại, tàn phai, tật nguyền, và chao đảo mãi mãi?
François Guillemot là chuyên viên nghiên
cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (CNRS), phụ trách kho tài liệu
Việt Nam tại Viện Nghiên cứu Đông Á (IAO, Lyon, Pháp). Ông lấy bằng tiến
sĩ về lịch sử tại Ecole pratique des hautes études (EPHE, Paris) năm 2003. Hiện
ông nghiên cứu về những vấn đề văn hoá trong chiến tranh của người Việt, và về chủ
nghĩa dân tộc phi cộng sản của người Việt, chẳng hạn như về Đảng Đại Việt. Tiểu
luận này được thuyết trình lần đầu tại hội thảo quốc tế, “Bản sắc cơ thể ở Việt
Nam: Chuyển hoá và Đa dạng”, tại Ecole normale superieure lettres et sciences
humaines, Lyon. Tác giả cảm ơn Christopher E. Goscha, Agathe Larcher, Claire và
William J. Duiker, Vatthana Pholsena, Tuong Vu, Edward Miller và Trang Cao đã
giúp ông dịch (từ tiếng Pháp sang tiếng Anh) và hiệu đính tiểu luận này để đăng
trên Journal of Vietnamese
Studies vào mùa thu 2009.
[1] Lê Thi, Single Women in Viet Nam [Cuộc sống phụ nữ đơn thân Việt Nam], Hà Nội, Nxb Thế Giới, 2006 (ấn bản lần 2).
[3] “Un probl̃ème social” [Một vấn đề xã hội], Nhân Dân (1-12-1982), trong Françoise Corrèze, La barque et le gouvernail. Au fil
des générations vietnamiennes [Con
thuyền và bánh lái. Theo giòng các thế hệ Việt Nam], Paris, Editions L’Harmattan, 1984, tr.
163-164.
[7] Lê Thi, Le
mariage et la famille dans le Vietnam d’aujourd’hui (Questions & Réponses
[Hỏi đáp về hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay], Hà Nội, Nxb Thế Giới,
2006, tr. 126-127. Ví dụ về phóng sự: “Đường đến ‘rừng không chồng’”, Báo Thanh
Hóa điện tử (31-8-2005); “Phận gái không chồng» Người Lao Động (23-06-2005);
Duong Quang – Hoang Dung, “Làng… không chồng!”, Người Lao Động (11-3-2004).
[8] Xem: Lan Ngọc,
“Nước mắt ngày trở về”, Lao Động, số 232 (23-8-2006); Dương Kỳ Anh,
“Chúng ta vẫn còn những giọt nước mắt”, Báo
điện tử Tiền Phong (26-3-2005).
Xem thêm Lê Thi, Single Women
in Viet Nam, tr. 39,
trường hợp chị Dương Thị C.
[10] Lời chứng của
Hoàng Công Ánh trong “Những cô
gái bị lãng quên
của đường mòn Hồ Chí Minh”, 2003.
[11] Claude Quétel, Les femmes dans la guerre
1939-1945 [Phụ nữ trong
cuộc chiến tranh 1939-1945],Paris, Larousse / Mémorial de Caen,
coll. L’œil des archives, 2006.
[13] “Đại hội thành lập Hội cựu TNXP Việt Nam”, Tuổi Trẻ (20-12-2004); Hội Cựu TNXP Việt Nam, Văn kiện Đại hội thành lập Hội cựu
TNXP Việt Nam, 2005.
[15] Về vấn đề này, xin xem: Claude Quétel, Phụ nữ trong chiến tranh, tr. 172-173 (Các lực lượng phụ trợ
trong lằn đạn).
[17] Xem bài của Lê Minh Khuê, “Thân xác đàn bà”, trong
Hội thảo về “Bản
sắc cơ thể của người Việt từ xưa đến nay” do Viện Nghiên cứu Đông Á
tổ chức tại Lyon, 14/15-5-2007.
[22] Trần Dương (sưu tầm và biên soạn), Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp
giải phóng phụ nữ, Hà Nội,
Nxb Thông Tấn, 2005.
“Chuyện 5 người” của
Trần Tiến: Có khu rừng thanh
niên xung phong, thiếu đàn ông, toàn con gái chưa chồng. Họ cứ cười như điên
như điên, chiến tranh thì liên miên liên miên…
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies,
Volume 4, Number 3, Fall 2009. Bài viết được dịch từ nguyên bản tiếng Pháp, có
sự hiệu đính của tác giả.
Bản tiếng Việt © 2010 François Guillemot và Phương Hoà
Bản tiếng Việt ©
2010 talawas
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen