Sonntag, 25. Dezember 2016

Góc NHẦY cuả SỬ- Bánh vẽ gặm vạn lần

Nhìn lại sử liệu viết về Nguyễn Huệ Quang Trung và Gia Long Nguyễn Ánh

Lịch sử bao giờ cũng ở số nhiều. Vì thế có thứ lịch sử của kẻ cai trị, kẻ cầm quyền và nhất là thứ sử của kẻ cầm bút mà đôi khi họ chỉ là thứ cung văn. Trong các chế độ tài đảng trị bây gìờ thì nhà sử học bị liệt vào hạng văn nô. Trong khi đó, lịch sử lại chỉ có thể xảy ra duy nhất một lần. Phần còn lại của lịch sử được viết đi, viết lại nhiều lần tùy theo mỗi người và tuy theo mỗi thời kỳ.
 Trong lịch sử Việt Nam có hai nhân vật lịch sử cách đây hơn 200 năm, người này người kia đã làm nên vận mệnh lịch sử Đại Việt là Tây Sơn Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh Gia Long. Vóc dáng và sự nghiệp của họ đã được huyền thoại hóa, được vinh danh hoặc đã bị bôi nhọ và bị người đời nguyền rủa tùy theo ngòi bút của các người viết sử.


 Vấn đề ở đây là có một thứ lịch sử của những nhân vật lịch sử hay là thứ lịch sử của những người viết sử? Muốn nhìn lại chân diện những nhận vật lịch sử này quả thực không dễ. Một phần phải xóa đi những lớp bụi thời gian đã đóng rêu, đóng mốc đến mọc rễ trên họ. Một phần phải bỏ đi những định kiến đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi người như một thứ chân lý, sự thật hiển nhiên. Đó là hai công việc đồng thời phải làm. Chẳng những phải xóa bỏ thần tượng trong sách vở, xóa bỏ những đám mây mù tài liệu và hơn tất cả, xóa bỏ thần tượng trong đầu mỗi người mà công việc ấy gần như thể là một công việc tẩy não. Và nhiệm vụ của sử học không thể câu nệ chỉ căn cứ vào sự đồng tình ít hay nhiều của người đời rồi cứ thế trôi theo. Bài viết này mong trả lại được công đạo cho sự thật và một cách gián tiếp giải trừ một số huyền thoại về Tây Sơn Nguyễn Huệ và trả lại công đạo cho Nguyễn Ánh dựa trên một số công trình của các nhà nghiên cứu chuyên ngành về sử. Người viết cùng lắm chỉ làm công việc thông tin qua những kiến thức sử của các vị chuyên ngành viết sử.
 1. Có sự chênh lệnh quá đáng về số lượng tài liệu viết về Tây Sơn
 Người viết nhận thấy có một sự thuận lợi rõ ràng về số lượng tài liệu viết về Tây Sơn và sự bất lợi vì quá ít tài liệu viết về phía Nguyễn Ánh. Số lượng chênh lệch về tài liệu có một ý nghĩa gì? Phải chăng những người viết sử chạy theo số đông như về hùa? Hay viết với nhiều cảm tính? Động cơ nào đã thúc đẩy họ viết như thế? Hiểu được những động cơ thúc đẩy họ viết là hiểu được một phần sự thật. Chẳng hạn cộng sản
 Hà Nội trước đây đã hết lời ca tụng Tây Sơn nhằm lợi dụng Tây Sơn. Nhưng phía các nhà viết sử Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 thì do động cơ nào?
 Phía tài liệu sử nhà Nguyễn, ngoại trừ một số sách sử của triều Nguyễn viết một cách chính thức như Đại Nam chính biên liệt truyện, Đại Nam Thực lục tiền biên và chính biên viết theo lối biên niên. Đây là số lượng tài liệu đồ sộ, nhưng lại không dễ được tiếp cận và nay dù đã dịch từ Hán ra Việt cũng không mấy người có để đọc. Người viết đọc các tập tài liệu này, măc dầu có những khuyết điểm không tránh được như sự rườm rà, quá chi ly từng sự việc, nhưng rõ nét tính chính thống. Không thể phủ nhận tinh thần công tâm, nhân cách các nhà viết sử biên niên triều Nguyễn. Nhiều sự kiện lịch sử nay vẫn có giá trị sử học vô giá.
 Ngoài thứ chính sử đó ra thì hầu như không có mấy ai “ở ngoài luồng” sau này để công sức viết đến nơi đến chốn về 100 năm nhà Nguyễn Gia Long. 25 năm Nguyễn Ánh nằm gai nếm mật lao đao. Ông vào sinh ra tử. Và gần 100 năm dòng họ ngồi ở ngôi báu. Biết bao điều để phải nói, phải viết. Không lẽ chúng ta lại phải ngồi đợi một nhà sử học ngoại quốc nào đó lò mò để cả đời ra viết hộ chúng ta?
 Triều đại Tây Sơn ngắn ngủi mà đều là những năm bận rộn với chinh chiến. Liệu Tây Sơn đã thực sự làm được gì? Vậy mà người ta có thể ngồi “vẽ ra” nào là về chính tri, ngoại giao, chính sách về tôn giáo, tiền tệ, v.v… và v.v…và ngay cả văn học thời Tây Sơn nữa. Trong khi nhà Nguyễn phải mất 88 năm mới biên soạn xong bộ Đại Nam Thực Lục mà số người đọc được đếm trên đầu ngón tay! Vì những sách này lại rất khó đến tay người đọc vì phần đông dân chúng không biết chữ Hán. Cho nên đối với phần đông dân chúng vì không được đọc chính sử nhà Nguyễn nên chỉ nghe nói về sử hơn là đọc sử. Biết về Nguyễn Ánh phần đông chỉ là nghe lời đồn hơn là đọc sử. Đây là điều bất lợi không nhỏ cho Nguyễn Ánh Gia Long bị bao vây bởi một thứ sử dân gian, truyền miệng. Làm thế nào bịt miệng dân gian?
  Tư liệu viết về Quang Trung đã nhiều lại viết một cách thiên lệch
 Hiện tượng tài liệu sử viết về Quang Trung lấn lướt tài liệu viết về Nguyễn Ánh là điều có thực. Có thể nó bắt đầu kể từ khi Trần Trọng Kim, một sử gia Việt Nam dưới thời chính phủ Bảo Đại viết bộ sử Việt Nam Sử lược với một cái nhìn mới về vua Quang Trung. Nó đã mở đầu cho một trào lưu viết sử về Quang Trung với nhiều hào quang, với nhiều danh xưng tán tụng như “anh hùng áo vải, anh hùng dân tộc dựng cờ đào, v.v… Nói không quá đáng là có sự hình thành một dòng Văn sử học viết về Tây Sơn. Đồng ý phải nhìn nhận ở một mặt nào đó, đôi khi một dân tộc cũng cần được nuôi dưỡng bằng một số hào quang lịch sử như thế chấp cho sự tầm thường và kém cỏi của đời sống. Sức quyến rũ về hình ảnh một Quang Trung anh hùng làm nức lòng mọi người, khơi dậy tình tự dân tộc phải chăng cũng là một điều cần và đủ. Nhưng liệu nó có thể thay thế cho sự trung thực của sử học? Duyên Anh đã có lần viết mơ được làm Người Quang Trung. Tài liệu sử viết về Quang Trung nhiều đã đành. Cạnh đó, thơ văn, kịch nghê, sân khấu, tiểu thuyết, sách giáo khoa, tên các địa danh, ngay cả các lễ hội đã dành một chỗ cao cho “người anh hùng áo vải”. Phải chăng có một thứ sử học, văn học và văn hóa Quang Trung thấm đẫm tình tự dân tộc, đất nước, con người theo cái tinh thần chúng ta sống với thời đại của những người anh hùng?
 Và cứ thế tiếp nối sau đó có cả hơn một ngàn tài liệu sách vở viết về Quang Trung. Cuốn sách viết về Tây Sơn được một số nhà viết sử tham khảo rộng rãi là cuốn của Hoa Bằng: Quang Trung, Nguyễn Huệ, anh hùng dân tộc 1788-1792, Sàigòn,1958. Tựa đề sách coi Tây Sơn là anh hùng như một khẳng định vị thế của Quang Trung trong lịch sử và nhất là trong lòng người. Nguyễn Phương với cuốn Việt Nam thời bành trướng: Tây Sơn, Sài Gòn, Khai Trí, 1967. Người ta có thể đồng ý với nhau là tài liệu viết về Quang Trung thì nhiều. Nhưng phải chăng viết giống nhau cũng nhiều. Trong đó có nên nhìn nhận tính chất viết nhái và thời thượng có phần trổi bật không? Người trước viết thế nào thì người sau viết lại như thế. Nó chẳng khác gì khi có phong trào “thời thượng triết hiện sinh” sau này. Phải chăng có một phong trào, một sùng bái Tây Sơn?
 Ở miền Nam, tập san Sử Địa là “ấn tượng và biểu tượng” nhất của phong trào này cũng đã trôi theo một dòng chảy “thời thượng” Tây Sơn. Trong đó Tập san Sử Địa đã dành ba số chủ đề bàn về Tây Sơn. Ý hướng thiện chí thì có. Nhưng nay đọc lại thấy một số bài tham khảo viết dựa trên những kiến thức “định sẵn”, phần biện luận một chiều được chú trọng nhiều hơn phần tài liệu sử. Đây là tính chất đặc biệt của các cây viết sử Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 và có thể cả sau 1975 viết trong tình trạng thiếu tài liệu. Càng thiếu tài liệu thì càng biện giải thay vì trưng dẫn tài liệu. Đã thế, cách viết, cách chọn tài liệu, nhất là phong cách, ngôn ngữ xử dụng cho người đọc bây giờ có cảm tưởng một số vị ấy tránh những tài liệu xem ra bất lợi về Tây Sơn. Đó là lối viết sử viết một chiều. Đó cũng là tính chất đặc biệt của một số người viết sử mà đôi vị dù viết rất cảm tình, rất thiên lệch, phong cách viết, ngôn ngữ xử dụng đọc thấy “tự cao” ngoài khuôn khổ mà vẫn tự khoác cho mình vai trò sử gia viết trung thực.
 Tôi muốn đặc biệt dành những nhận xét ở trên để nói đến trường hợp Vũ Ngự Chiêu, Nguyên Vũ. Đây là cái bệnh “ngụy tín” mà J.P. Sartre đã vạch trần trong những luận cứ triết học của ông. Vì thế nói chung trong các bài tham khảo ấy, hầu như không có mấy bài chú trọng đến tài liệu sử Trung Hoa đời Càn Long. Cũng ít chú trọng đến các tài liệu do phía người Pháp qua những phúc trình và thư từ của các giáo sĩ thừa sai gửi về cho gia đình hoặc tu hội của họ. Những tài liệu này ngoài tính chất quý báu là cái nhìn tại chỗ và không bị chi phối nhiều về phe phái chính trị hẳn là có ưu điểm nói lên một phần sự việc đã xảy ra. Bà Đăng Phương Nghi người đầu tiên dịch các tài liệu sang tiếng Việt như hai tài liệu: “Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ, Sử Địa số 9-10, 1968, tr94-243 và “Triều đại vua Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây Phương”, Sử địa số 13, Sàigòn 1969, tr.143-180. Tài liệu đã hiếm hoi. Nhưng có một số tài liệu “đầu tay” cùng thời với sự kiện lịch sử như thế này thì lại úy kỵ không dùng. Riêng người viết bài này thì ngược lại không khỏi ngạc nhiên và thích thú khi đọc sấp tài liệu này. Vậy mà phần đông người viết sử miền Nam hình như tránh né, ít xử dụng các loại sử liệu của các thừa sai Pháp. Phải chăng vì nó trình bày những “bất lợi”cho Tây Sơn. Xem ra nhiều nhà viết sử dị ứng với kho tài liệu này? Phải chăng vì nội dung của chúng đi ngược với những kiến thức sử quen thuộc, hay nội dung đụng chạm đến thần tượng Quang Trung mà họ đã trót tô vẽ? Có người như Vũ Ngư Chiêu không ngần ngại xếp chúng vào loại tài liệu “lời đồn” hay “nghe kể”. Hoặc cho rằng các nhà truyền giáo này không có ý định viết sử. Hoặc họ có lập trường chính thống ngả theo ủng hộ Nguyễn Ánh thay vì “tiếm vương” Quang Trung. Nhưng, theo người viết, chính vì họ không có ý định viết sử, mà điều họ viết chỉ kể lại nên về mặt sử liệu không thể coi nhẹ được. Vì thế, đấy vẫn là thứ tài liệu đầu nguồn, trực tiếp bằng sự có mặt của họ như một nhân chứng sử. Sự kiện họ là nhân chứng là điều quan trọng nhất. Cùng lắm, ta dùng chúng với sự thận trọng như bất cứ tài liệu sử nào.
 Xin nêu ra ở đây như một bằng chứng là những vấn đề như chiến dịch Tây Sơn đánh ra Bắc cũng như lịch sử nhà Tây Sơn trong hơn 40 số Tập San Sử Địa với rất nhiều giới hạn tài liệu.
 • Chủ đề thứ nhất: Đặc Khảo về Quang Trung. Trong đó có đến 4 bài viết của Tạ Chí Đại Trường như: Vai trò của Nguyễn Huệ trong chế độ quân chính của Tây Sơn – Góp thêm về phổ hệ Tây Sơn v.v… Hoàng Xuân Hãn đóng góp với bài: Việt Thanh chiến sử theo Ngụy Nguyên, một sử gia Trung Quốc đời Thanh. Tạ Quang Phát với bài: Vua Quang Trung qua chính sử triều Nguyễn. Nhưng một tài liệu không thể bỏ qua được của bà Đặng Phương Nghi trích và dịch ra từ Văn khố Âu Châu bao gồm các thư: Lettres Édifiantes et Curieuse của Gia Tô Hội.
 • Chủ đề thứ hai được thực hiện ngay năm sau, tháng1-3, năm 1969 để kỷ niệm: Kỷ niệm chiến thắng Xuân Kỷ Dậu, Đống Đa. Tạ Chí Đại Trường như thường lệ có bài: Đống Đa, mâu thuẫn văn hóa vượt biên giới. Hoàng Xuân Hãn với Bắc Hành Tùng Kí. Nguyễn Nhã với: Tài dùng binh của Nguyễn Huệ. Đăng Phương Nghi dịch: Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây Phương.
 • Chủ đề thứ ba số tháng 1-3, 1971: 200 năm Phong Trào Tây Sơn với các bài của
 Hoàng Xuân Hãn: Phe chống đảng Tây Sơn ở Bắc với tập “Cử Trung Ngân”. Việc mất đất 6 châu Hưng Hóa của Nguyễn Toại. Những ngày tàn của Tây Sơn dưới mắt giáo sĩ Phương Tây, bản dịch của Nguyễn Ngọc Cư (tài liệu Nha Văn Khố Pháp do bà Đặng Phương Nghi để lại trước khi bà sang Pháp dạy học ở Đại học Sorbonne).
 Trong cả ba số chủ đề trên, sự đóng góp của Tạ Chí Đại Trường là nhiều và trổi bật. Nhưng sự đóng góp của ông Hoàng Xuân Hãn và bà Đặng Phương Nghi trong cách nhìn mới, tìm tòi nhiều tư liệu là đáng kể hơn cả.Ít ra hai người đã mở ra một hướng nghiên cứu sử học như mở một cái lối đi trong khu rừng rậm.

 Phía các người viết sử miền Bắc
 Phần các nhà viết sử miền Bắc xem ra “đi trước” các nhà viết sử trong Nam. Họ gán cho Tây Sơn những vai trò “cách mạng” đi trước cả Mác-Lênin. Và phải chăng Tây Sơn là ông tổ của cuộc cách mạng XHCN? Người ta đọc được các bài viết sau đây về Tây Sơn, Nguyễn Huệ:
- Xã hội Việt Nam trong thế kỷ XVIII và những phong trào nông dân khởi nghĩa.
- Đánh giá cuộc cách mạng Tây Sơn và vai trò lịch sử của Nguyễn Huệ.
- Nguyên nhân thành bại của cuộc cách mạng Tây Sơn.
 - Cuộc khởi nghĩa của nông dân Tây Sơn qua một ít bức thư của người ngoại quốc đã ở Việt Nam đương thời.
 - Giới thiệu văn học Việt Nam thời Tây Sơn
 - Một số tài liệu về vấn đề ruộng đất thời Quang Trung
 Người ta cũng thừa hiểu rằng tất cả những người viết sử miền Bắc, dựa trên Sử quan duy vật biện chứng đã biến sử học trở thành công cụ cho chế độ ấy. Mặc dầu miền Bắc có một số trí thức đáng nể. Nhưng những vị này cũng tự khuôn mình vào lối viết theo “lề phải” như Nguyễn Đổng Chi, Trần Văn Giáp, Đào Duy Anh, Trần Thanh Mại, Trần Văn Giàu, Vũ Ngọc Phan, Trần Đức Thảo. Có thể gọi chung đó là thứ sử phi sử. Đó cũng là là thứ sử nay phải viết lại hết, viết lại từ đầu vì những điều gì họ viết về nhà Tây Sơn thì đều chỉ có mục đích tuyên truyền.
 Họ càng “tụng” Tây Sơn, Tây Sơn càng không phải Tây Sơn. Sự ca tụng Tây Sơn có khác gì bây giờ họ đang “đánh bóng” Lý Công Uẩn? Với những dụng ý như thế, Tây Sơn Nguyễn Huệ đã được bôi vẽ bằng rất nhiều hình ảnh không thật.
 Sau 1975, Quách Tấn-Quách Giao có cho in Nhà Tây Sơn, xnb Trẻ, TP. HCM, 2000. Đặc biệt có cuốn sách của Trần Quỳnh Cư-Trần Viết Quỳnh nhan đề: Mười ba đời nhà Nguyễn đã không thiếu những lời khiếm nhã đối với các vua nhà Nguyễn. Nhưng đặc biệt ở trang 172 có ghi: Hành động cách mạng “số một” của vua Bảo Đại, trích hồi ký Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc của Phạm Khắc Hòe cho thấy sự kính trọng của Bảo Đại đối với “ thánh” Nguyễn Ái Quốc!
  Những tài liệu ít ỏi viết về Nguyễn Ánh và khảo hướng viết sử diện mở rộng
 Nhưng viết về Nguyễn Ánh, khó khăn và hiếm hoi lắm mới gom được vài bài như: “Một vài ý kiến về sự nghiệp Gia Long”, Phạm Việt Tuyền, Đại Học Huế, số 8 tháng 3/1958. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thế Anh: La Monarchie des Nguyên de la mort de Tu Đuc à 1925. Bài viết gần đây như: Đánh giá lại một số tài liệu về thời kỳ Tây Sơn, số 3, tháng 4-6, 2007, Dòng Sử Việt.
 Mới đây nhất, có bài viết khá lý thú của Võ Hương An: Bàn về Tây Sơn, Nguyễn Ánh. Chuyện đời vay trả giải lý một phần nào những nỗi oan đổ trên đầu Nguyễn Ánh.
 Có thể còn có một số bài viết khác mà người viết không thu tập được. Nhưng nói chung nó quá ít ỏi so với số lượng tài liệu viết về Tây Sơn.
 Nhưng người viết tin rằng sẽ có những loạt bài khảo cứu nghiêm túc nhìn lại Tây Sơn trong tương lai. Riêng các nhà viết sử có tiếng tăm ở miền Nam trước 1975, chắc hẳn phải điều chỉnh lại tầm nhìn lịch sử về các chiến thắng cũng như con người Tây Sơn cho thích hợp.
 Như nhận xét ở trên, ông Hoàng Xuân Hãn là một trong những người sớm nhận ra tính cách “một chiều” trong các bài khảo luận về Quang Trung. Vì thế, ông đã dịch Việt Thanh Chiến, theo Ngụy Nguyên, một sử gia Trung Quốc đời Thanh trong Càn Long chính vũ An-Nam ký, năm Đạo Quang thứ 22-1842 nhằm cân bằng kiến thức lệnh lạc một chiều của một số người viết. Bài viết này về mặt sử liệu nên được coi là một đóng góp quan trọng trong việc tìm hiểu chiến dịch đánh ra Bắc của Tây Sơn Nguyễn Huệ.
 Ông Hãn còn viết thêm bài: Phe chống Đảng Tây Sơn ở Bắc với tập “Cử Trung Ngân” Ông cũng đã chú trọng và giới thiệu đến các bộ sách sử khổng lồ Đại Thanh Thật Lục được xuất bản bên Nhật để độc giả có thêm một cái nhìn “theo lề trái” về Quang Trung.
 Cái ưu điểm của ông Hoàng Xuân Hãn mà một số sử gia thời đệ nhất và đệ nhị không có được là ông rành chữ Hán, tiếp xúc trực tiếp với tài liệu của Trung Hoa cũng giống như các ông Phan Khoang, Chen Ching Ho (Trần Kình Hòa). Viết sử Việt Nam trong mối quan hệ với Trung Hoa mà không rành Hán Văn, lại không chú trọng đến các tài liệu phía Trung Quốc phải chăng là một thiếu sót mang danh nghĩa một nhà sử học? Cái ưu điểm của học giả Hoàng Xuân Hãn là cái nhìn cao và vượt trên tài liệu chỉ từ một phía. Và theo ông, cần tham khảo sử liệu từ nhiều phía. Vì thế, viết sử ta mà không đọc được sử Tầu thì mất đi ít nhất một nửa sự thật.
 Sau này, các người biên khảo sử như Nguyễn Duy Chính cũng đi theo hướng khảo cứu đó khi tìm hiểu - điều mà ông gọi là Đi tìm một mảnh khuyết sử- thông qua cuốn Khâm Đinh An Nam Kỷ lược. Cuốn sách của triều đình nhà Thanh tổng hợp tất cả những thư từ, chiếu biểu của vua Càn Long liên lạc trao đổi với nước ta. Cũng theo ông Nguyễn Duy Chính, đó là một văn bản hiếm quý để trong thư viện của vua Gia Khánh (1798-1820), đóng dấu Ngự Thư Phòng Bảo, được in lại do Cố Cung Bác Vật Viện biên tuyển, ấn hành lần thứ nhất vào tháng 6 năm 2000. Vì thế khẳng định rằng viết về sử Việt mà thiếu sự tham khảo tài liệu sử Tàu thì dễ có nguy cơ rơi vào khiếm khuyết sử. Sử một lần nữa phải viết lại và nhiều bài viết sử thập niên 1960 chỉ có giá trị thư tịch, tồn trữ đối chiếu mà không hé mở cánh cửa vào sự thật. Cho nên phần đông các tham luận về sử, đặc biệt viết về Quang Trung Nguyễn Huệ đăng trong hơn 40 Tập San sử địa thì hiện nay chỉ có chút ít giá trị tham chiếu. Nếu không nói là phải viết lại toàn bộ.
  Những ngộ nhận và đánh giá sai lầm về Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ
 Từ những thiếu sót về tài liệu cộng với “trào lưu văn sử học Tây Sơn” đã đưa tới tình trạng nhiều tác giả viết sử đã có định kiến về Nguyễn Ánh. Người ta có cảm tưởng giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh có một cái trục về điều xấu và một trục về điều tốt. Sự phân biệt chính tà hầu như rõ rệt và phân minh lắm, Cái gì về phía Nguyễn Ánh là phản phúc, tàn độc, là dã man, là phong kiến. Cái gì về phía Quang Trung là anh hùng, hào kiệt, là cách mạng nông dân, là chiến thắng thần thánh, là “hết lời, hết ý”.
 Tinh thần phân biệt thị phi giữa thiện ác, giữa xấu tốt là một “bước lầm” dẫm chân giữa các lãnh vực. Không phân biệt rõ ràng ranh giới và trách nhiệm giữa lãnh vực sử học, lãnh vực chính trị và lãnh vực đạo lý.
 Nhiều nhà sử học thay vì trình bày khách quan sự việc đã nhảy chổm sang lãnh vực đạo lý, đưa ra những lời phê phán đáng nhẽ thuộc thẩm quyền đạo lý.
 Việc phê phán sự “tàn ác” của Nguyễn Ánh mà bỏ quên bối cảnh lịch sử của thời đại ấy với khung pháp lý, chính trị của thời đại ông ta phải chăng là một thiếu sót? Chẳng hạn, việc phê phán hình phạt cho voi giầy thật đáng phê phán ở thời đại này, nhưng lại là việc “thông thường” trong khuôn khổ chính trị, pháp lý thời trước.
 “Phong trào thần tượng Tây Sơn” còn lan tỏa ra chung quanh hào quang của ông ấy. Chẳng những Tây Sơn được coi như anh hùng hào kiệt đã đành mà đến tất cả các bộ tướng, các cận thần đến vợ con, đến những quan hệ “hôn nhân chính trị” chung quanh ông cũng tắm gội trong cái hào quang ấy. Hầu như có một thế giới Tây Sơn, một thời đại Tây Sơn -một thời đại vàng son- không ai có thể nói khác đi được. Các cận thần như La Sơn Phu Tử, Nguyễn Thiếp là những bậc trí giả, đạo đức cao vời. Họ vừa khôn ngoan, vừa đạo hạnh, vừa chính nhân quân tử, vừa nho phong đạo cốt, vừa ứng xử tuyệt vời ban ra những lời nói vàng ngọc đáng ghi khắc. Cái hay của Huệ là chỗ biết nghe, biết dùng người tài. Về các tướng tá chung quanh ông như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân là những mãnh tướng can trường có đảm lược ngoài trận địa. Chẳng những thế còn có khí tiết cho đến lúc bị voi giầy. Ai ai không xúc động khi được nghe những lời đối đáp can trường giữa mẹ và con gái bà Bùi Thị Xuân. Chỉ không ai ngạc nhiên hỏi xem ai là người đã được chứng kiến cái cảnh đau lòng đó và có đủ thẩm quyền ghi lại từng câu, từng chữ một cách trung thực? Để đến nỗi ngày có người đã viết lại cảnh đó trong dịp ngày lễ Vu Lan?
  Tuyệt vời cái scénario này.
 Ngọc Hân công Chúa với Ai Tư Vãn đi vào huyền thoại dân gian và sau này thể hiện qua Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác nhhư một bản Tình Ca bất hủ. Nay thì từ lịch sử đã chuyển sang một công đoạn khác, Văn Học. Từ lịch sử chuyển sang văn học dĩ nhiên có một đứt đoạn được bù khuyết bằng cái gọi là “hư cấu”. Nếu người viết sử ít nhiều còn dè dặt trách nhiệm, băn khoăn về sự đúng sai của sử liệu thì nhà văn tự vịn vai hai chữ “sáng tác” để viết gì thì viết. Nhưng câu hỏi đặt ra là nhà văn có quyền viết tên thật các nhân vật lịch sử đồng thời ”hư cấu” tùy tiện? Đó là câu hỏi quan trọng được đặt ra, nhưng không thuộc lãnh vực của bài này. Đó là chỗ khúc mắc chưa được giải đáp nên mới có câu chuyện nhà văn Trần Vũ nhân đọc Sông Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác thấy các nhân vật Nguyễn Huệ-Ngọc Hân, cô An, ông thày giáo “tròn quá, toàn bích quá”. Trần Vũ thấy “ngứa ngáy, khó chịu” mới viết truyện Mùa mưa gai sắc như một “viết ngược” lại tác giả Sông Côn mùa lũ?
 Trong Mùa mưa gai sắc của Trần Vũ”, ông đã “biến tướng” Ngọc Hân công chúa “lá ngọc cành vàng” thành một thiếu phụ “sẵn sàng tự cởi xiêm y cho mục đích nhằm” -một kẻ đối đầu với kẻ thù đã ám hại dòng họ nhà Lê - bằng một bút pháp sắc bén như dao, lạnh lùng và tàn bạo. Dưới ngọn bút của Trần Vũ, Huệ không hơn không kém chỉ là một kẻ bạo dâm. Trần Vũ cũng có cái lý của nhà văn. Lẽ thường tình cho thấy có lý nào Ngọc Hân lại dễ dàng “dâng hiến” cái tiết trinh tuổi 16 và quên nỗi nhục cho kẻ đã chiếm đoạt và hạ nhục cả dòng họ Lê? Có thể nào có một mối tình “đẹp như tiểu thuyết” giữa hai kẻ đáng nhẽ phải coi nhau như kẻ thù? Ngọc Hân chẳng lẽ không nhớ cái cảnh gia đình tan nát vì “tiếm quân” Tây Sơn sau đây: “Chẳng những thế Tây Sơn còn cho giết bào đệ vua Chiêu Thống khi đánh nhau với Tây Sơn. và Hơn thế nữa, khi mẹ vợ của ông bị điệu về triều đình, ông đà trách mắng bà thậm tệ vì mối cảm tình của bà đối với Đốc Chiêm. Số vàng do bà cấp cho Đốc Chiêm phải vào tay ông. Cuối cùng ông ra lệnh xử trảm vị tướng này ngày 1 tháng 6”.
 Trích Những tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ, Đặng Phương Nghi, TSSĐ số 9-10, trang 209. Chẳng lẽ những truyện “tàn độc” của Nguyễn Huệ đối với vua Lê, Ngọc Hân công chúa đều không biết? Chỗ nào là sự thật lịch sử và chỗ nào là cái lý lẽ thế nhân thường tình?
 Hãy đọc một trích đoạn lối viết ngược của Trần Vũ cho biết: “Đêm ở phủ Chúa, Huệ bước chân lên lầu Tử Các, lòng âm ỉ cơn say. Sống với Huệ hơn một tháng, Ngọc Hân đã biết những thói quen chung chạ của Huệ. Thói quen của chứng bệnh thường thấy đi kèm với bệnh cuồng sát. Lẳng lặng, tự nguyện, không đợi Huệ bắt, nàng cởi xiêm áo đến quỳ trước chân giường. Cái liếc mắt của Ngọc Hân ném về phía Huệ sắc đến nổi gai. Huệ lấy roi, không phải dây đai của đêm hợp cẩn, mà là thứ roi gai của quản tượng dùng quất voi khi lâm trận. Ngọc Hân uốn lưng đợi, tóc xõa chảy xuống nền đá, không trang sức, không cả chiếc vòng kiềng cổ truyền của con gái Bắc Hà, chỉ dấu thẹo đỏ do sắt nung ở vai. Vết thẹo đã lên da non nhưng đoán được dấu tỉ ấn của Huệ. Hai ba tấm màn gấm dụ buông quanh chỗ Ngọc Hân quỳ, Huệ tiến tới một bước, hai bước, rồi vung tay quất. Đâu roi vút tiếng rít như rạch tấm màn gấm. Ngọc Hân oằn người bấu cứng lấy trụ giường. Huệ đã say máu, những chấm máu li ti tím bầm nổi trên lưng Ngọc Hân trông như những vết ong đốt, hay những giọt mực son rỏ trên lên vũng sữa. Huệ vung tay tới tấp”.
 Đây là truyện ngắn mà người viết bài này đọc đến ngỡ ngàng, thích thú và trân trọng. Phải chăng cũng một cung cách ấy mà Nam Dao trong tập truyện dài lịch sử lấy bối cảnh triều Tây Sơn trong cuốn Gió Lửa? “Đêm hôm đó, để mặc Huệ dày vò, đánh đá trong một cuộc truy hoan trước khi viễn chinh. Hân vừa rên rỉ vừa thì thào “nữa đi, nữa đi” như thách thức, dầu chỉ tưởng đến cái cơ nghiệp nhà Lê để quên nỗi đau của thể xác.” Khiếp quá! Giữa cái “hư cấu “ của Nguyễn Mộng Giác và cái hư cấu của Nam Dao thì đọc Nam Dao sướng hơn nhiều.
 Đây cũng là một tập truyện dài với “tuyệt hư cấu” và thay đổi cả “trục thời gian lịch sử” viết thật hay. Rất tiếc, phải cần một trình độ thưởng thức văn học nào đó nên cuốn truyện đã không được người đọc lưu tâm đủ. Và cuối cùng trong Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn cầm bút ở ngoài Bắc với xác chết người đẹp Ngô Thị Vinh Hoa, người tình của Nguyễn Huệ. Câu chuyện trong Phẩm tiết xoay quanh một cái chết mà chỉ nhà văn với giầu óc tưởng tượng mói viết ra được. Một số nhà phê bình miền Bắc gọi Nguyễn Huy Thiệp “xuyên tạc lịch sử” hay là một thứ “ lịch sử giả”? Nguyễn Huy Thiệp đã trả lời một cách đích đáng, “Không ai đánh nhau với cái xác chết, người ta chỉ khai thác các xác chết sao có lợi mà thôi.” Phải chăng cái xác chết mà nhà văn muốn nói ở đây là sự thật lịch sử về Nguyễn Huệ?
 Giữa Ngọc Hân - Nguyễn Huệ của Nguyễn Mộng Giác và Ngọc Hân-Nguyễn Huệ của Trần Vũ, của Nam Dao có một chặng đường sa mạc không bao giờ tưởng có thể đi tới. Đó là một sự đánh tráo con người và số phận Ngọc Hân-Nguyễn Huệ mà chỉ có tiểu thuyết mới có quyền năng làm như vậy. Như thế, phải chăng sẽ không có điểm hẹn lịch sử nào giữa một nhà viết sử và một nhà văn? Thế giới của nhà viết sử và của nhà văn thì không phải là một? Cho nên rõ ràng nó không có chỗ cho một sự đối đầu cần thiết giữa các quan điểm lịch sử với quan điểm văn học mà chúng ta mong đợi.
 Và vì thế chuyện viết sử và chuyện viết của nhà văn có những đối tượng và mục đích khác nhau. Cùng lắm nhà viết sử đi tìm sự thật còn nhà văn trên cả sự thật đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật.
 Trở về lại với khung cảnh sử học Việt Nam, đặc biệt phía những người Quốc Gia người ta nhận thấy từ Trần Trọng Kim tiếp nối Hoa Bằng, Phạm Văn Sơn, Tạ Chí Đại Trường, Vũ Ngự Chiêu và đến người viết mới đây nhất về Tây Sơn, tác giả Trần Gia Phụng thì ít nhiều đều đi theo một một đường thẳng của hình học phẳng mà không bắt gặp bất cứ con đường nào khác.
  Riêng Tạ Chí Đại Trường - ông có thế giá sử học - ông có những cố gắng khám phá, những biện luận thông minh sắc bén và trí thức, nhưng đôi khi cũng lùi bước trước những “gánh nặng lịch sử”. Có thể ông đã không viết khác được. Tạ Chí Đại Trường càng tỏ ra cái tài tuấn biện luận sử học thì một mặt khác cho thấy sự biện luận ấy là do thiếu tài liệu sử, thiếu thông tin sử học. Giả dụ rằng, ông có trong tay đầy đủ chứng liệu sử học từ nhiều nguồn thì chỉ việc khệ nệ bê ra và khỏi cần đến biện luận?
 Ngày nay đọc lại bài khảo cứu của ông về cuộc hành quân ra Bắc trong chiến dịch Việt -Thanh cho thấy sự khan hiếm tài liệu thật rõ rệt. Các biện luận của ông về chiến dịch này không còn đứng vững nữa vì thiếu cơ sở.
 Lấy một tỉ dụ, người ta đọc thấy những câu chuyện hư cấu, những huyền thoại về Tây Sơn được viết lại trong “ngoại thư” Hoàng Lê Nhất Thống Chí (HLNTC) - một tập sách mà thật ra chỉ là sự pha trộn khéo léo giữa một số sự kiện có thể “giả định là thực” cộng với hư cấu! Linh Mục Nguyễn Phương, giáo sư sử học đại học Huế có viết một bài: Giá trị Hoàng Lê Nhất Thống Chí đăng trên báo Bách Khoa, ngày 14-5-1963, trang 15-22 Trong đó linh mục Nguyễn Phương đánh giá thấp giá trị lịch sử của tập sách và cuối cùng ông xếp vào loại sách truyện, thứ ngoại thư. Tạ Chí Đại Trường trong tác phẩm Lịch sử nội chiến Việt Nam 1771-1802 cũng thừa nhận HLNTC là không dùng được vì tính cách truyện của nội dung tập tài liệu.
 Vậy mà cũng chính Tạ Chí Đại Trường trong phần viết về: Chiến tranh tiêu diệt họ Trịnh, vì không có tài liệu nào khác về phía nhà Nguyễn cũng như về phía sử Trung Hoa. Ông đã đành lòng ghi nhận: Phần viết này thì đều lấy lại ở HLNTC! Sự trung thực đáng quý. Nhưng nó lại thật là mâu thuẫn với tư cách một người viết sử. Những “kiến thức có sẵn” ấy do sự lập đi lập lại bởi nhiều người, bởi nhiều “sách vở viết theo” do những nguyên do khác nhau đã dần trở thành những “gánh nặng lịch sử” khó phá vỡ được?
 Đã đến lúc phải can đảm trút đi cái “Gánh nặng lịch sử này”. Cũng vậy, đọc một vài cuốn sách sử như: Nhà Tây Sơn của Trần Gia Phụng mới đây, năm 2005, mà tính cách bảo hoàng trong tầm nhìn cũng như tài liệu sử toát ra ngay trong phần thư mục liệt kê sách đọc. Thiếu vắng các tài liệu về phía người Pháp hoặc xử dụng không đúng mức, thiếu vắng các tài liệu về phía người Anh và quan trọng hơn cả thiếu vắng các sử liệuTàu được trích dẫn như một phản biện. Và nhất là thiếu vắng một cái nhìn lịch sử, một chọn lựa “đúng” trong chiều kích nhìn một sự kiện lịch sử. Đây là một trong cái thiếu sót lớn nhất của tác giả Trần Gia Phụng. Cho nên có lẽ có thể kết luận khi đọc sách của Trần Gia Phụng là đọc cái gì, đọc tài liệu như thế nào thì viết như thế nấy.
 Xin đưa ra một bằng chứng để làm bằng cớ về số quân nhà Thanh trong cuộc chiến Việt Thanh. Số quân nhà Thanh sang đánh nước ta được sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí phóng lên đến 500.000, chỗ tài liệu khác xuống 300.000 quân. Riêng sử gia Tạ Chí Đại Trường thì đành “khiên cưỡng” chấp nhận con số 200.000 quân được coi là chấp nhận được bằng vào các sử liệu của Việt Nam.
 Nhưng ngay từ thập niên 1960 thì một ông sử gia Trung Quốc, ông Tưởng Quân Chương, dựa theo Thanh sử, châu bản cũng như Tấu chương của Tôn Sĩ Nghĩ đã đưa ra một con số “sửng sốt”. Tưởng Quân Chương cho rằng Tôn Sĩ Nghị chỉ mang “8000” quân sang Việt Nam, trong khi đó Nguyễn Văn Nhạc đã tụ tập 10 vạn binh mã để đánh quân Thanh. Vì vậy quân Thanh đại bại.
 Để đáp lễ tức khắc Tưởng Quân Chương, các tác giả Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Hữu Ngư viết bài trên Bách Khoa, số 77, ngày 15-3-1960, trang 23: “Bàn về đính chính sử liệu Việt Nam nhân một bài viết của học giả Trung Quốc Tưởng Quân Chương”
 Trích lại trong Sự thực sử học: một con đường ngắn nhấn dẫn tới đoàn kết dân tộc, tác giả Vũ Ngự Chiêu, Phần tài liệu đọc thêm II: Việc nghiên cứu nhà Tây Sơn. Đăng trên Báo Đi Tới số 84, Bộ mới, Tôn giáo và Dân tộc, trang 159.
 Vấn đề ở đây là để phản bác học giả Trung Quốc, ông Nguyễn Hiến Lê đã dựa trên tài liệu chính sử nào? Tài liệu của các thừa sai Pháp, tài liệu Thanh sử hay tài liệu của các học giả viết bằng tiếng Anh?
Ai là nhà sử học trên có thẩm quyền tinh thần để đưa ra một con số “gần đúng” với sự thật lịch sử?Tác giả Nguyễn Duy Chính, trong tập biên khảo Việt Thanh chiến dịch. Quân Thanh tiến vào Thăng Long đã đưa ra một con số khá tương cận với con số của học giả Trung Quốc khi ông viết: “Việc dựng lại các trận đụng độ giữa quân Thanh và quân Nam trong vòng một tháng tiến binh của họ cần phải được cân nhắc để không quá sơ sài như sử nước ta mà cũng không huyênh hoang như sử Trung Hoa.
 Vấn đề quân số nhà Thanh đem sang nước ta là bao nhiêu cũng cần được đánh giá lại . Việc khẳng định 20, 30, 50 vạn như nhiều sách vở khó có thể coi là chính xác, phần lớn do nhận định chủ quan và dựa trên ước đoán tổng quát.
 Riêng sách vở của Trung Hoa thì họ luôn luôn nhắc lại con số trong Đại Thanh thực lục là một vạn quân mặt đông và tám ngàn quân mặt tây đưa đến con số 18.000 quân cho cả hai mặt.
 Và tác giả Nguyễn Duy Chính giải thích thêm là “vua Càn Long chỉ sử dụng quân của bốn tỉnh phía Nam và tây nam như một cuộc chiến ủy nhiệm khác hẳn các chiến dịch khác thường điều động nhiều cánh quân từ nhiều vùng, nhất là Bát kỳ Binh ở miền Bắc.” [Xin đọc thêm bài viết của cùng tác giả về “Từ Quân Doanh kỷ lược đến Khâm Định An-Nam kỷ lược”, đăng trên Gio-o.com (http://www.gio-o.com/nguyenduychinh.html)]
 © DCVOnline
Nguyễn Văn Lục
“Sự tùy tiện” phá phách, đầy thách đố trong cách ứng xử với đề tài lịch sử ở các sáng tác của Trần Vũ

Nhiều truyện ngắn của Trần Vũ được dựng trên các sự kiện, và tên tuổi của nhiều nhân vật lịch sử. Nhưng chưa khi nào nhà văn phải nỗ lực dựng hình ảnh của các sự thật lịch sử và các nhân vật lịch sử như một kiểu chân dung truyền thần theo đúng những gì mà sử quan đã vẽ trong các bộ sử của nước Việt. Bởi “tôi không viết truyện lịch sử”. [1] Chính vì thế Trần Vũ không chịu bất cứ gánh nặng, hay ràng buộc nào với các “bản gốc” được lưu trong chính sử, và đồng thời nhà văn không ngần ngại tháo tung cương cho trí tưởng tượng của mình, cho phép nó được quyền hư cấu thẳng tay, được quyền lựa chọn góc độ tiếp cận lịch sử theo cách nhìn nhận của mình. Những gì được thể hiện trong tác phẩm của Trần Vũ là sự hiện thực hóa cho chính quan điểm nhà văn chủ trương — “lịch sử trong tiểu thuyết, một tùy tiện ý thức” (tên một tiểu luận của tác giả). Chỉ có điều trong tác phẩm của nhà văn, sự tùy tiện trong cách ứng xử với đề tài này là một tùy tiện táo bạo, “xấc xược” đến mức phá phách. Thậm chí, nó trở thành một khiêu khích, một thách đố với những cách ứng xử quen thuộc trong truyền thống văn học Việt Nam.
Trần Vũ quan niệm cách viết về những nhân vật lịch sử: “Trong hình học không gian, đường cong khi cắt ra làm trăm triệu đoạn nhỏ, mỗi đoạn sẽ là một đường thẳng, và trên đường thẳng đó các giá trị không ứng nghiệm trên các mặt phẳng khác, sẽ có nghiệm số ở mặt phẳng tí teo này. Định lý toán học trên cũng có thể hỗ trợ cho các nhà văn đem nhân vật lịch sử ra cắt làm trăm triệu khúc và khảo sát phần nhỏ nhất”. [2] Dấn thêm một bước, trong tác phẩm của mình, Trần Vũ khi “khảo sát phần nhỏ nhất” ấy, đã cho mình quyền “hư cấu tùy tiện” và thậm chí “phóng đại” nó tới mức “tiểu thuyết”.[3] Do đó, như một tất nhiên, các nhân vật lịch sử ở đây “bắt buộc phải biến dạng”.[4] Có điều phần nhỏ nhất ở mỗi nhân vật lịch sử mà Trần Vũ tiếp cận, khảo sát và “phóng đại” sẽ là phần u tối, ác độc, thậm chí “thú tính” trong con người họ. Dựng chân dung nhân vật lịch sử trên “bóng đêm” của nhân cách con người, Trần Vũ đã đập phá đến mảnh vỡ cuối cùng diện mạo anh hùng, tài đức, hiền hậu, nết na của những nhân vật vẫn được coi là đẹp nhất, “toàn diện” nhất trong tập thể chân dung anh hùng liệt nữ của lịch sử Việt Nam. Do đó các nhân vật lịch sử trong tác phẩm Trần Vũ “biến dạng” tới mức không mong chờ, thậm chí “không thể tưởng tượng nổi” trong quan niệm của nhiều người tiếp nhận. Hai tác phẩm Mùa mưa gai sắc  Gia phả [*] là nơi người ta có thể kiểm chứng rõ nhất cho cách ứng xử hết sức tùy tiện với lịch sử của nhà văn.
Nhân vật chính của Mùa mưa gai sắc là đôi uyên ương mà sử sách đã không hết lời ca ngợi công lao, tinh thần “xả thân” phục vụ tổ quốc, và nhất là tình yêu “cao đẹp và thắm thiết” của họ, hoàng đế Quang Trung và công chúa Lê Ngọc Hân. Vây quanh hai tên tuổi ấy không chỉ là không khí oai hùng mà còn là làn mây trắng của mộng mơ. Cuộc hôn nhân dàn xếp của họ được coi là sự kết hợp tuyệt đẹp giữa chính trị, quyền lực và tình yêu. Mối tình ấy đẹp đến mức, chẳng ai lỡ hoài nghi. Nếu chúng ta “tỉnh” hơn một chút, nếu chúng ta không để cho những lãng mạn, mộng mơ đánh lạc hướng. Chúng ta sẽ không khó nhận ra thế “rất chênh vênh” của mối tình huyền thoại này. Bởi thật khó để tình yêu — thứ tình cảm bản năng, hồn nhiên, dị ứng với tất cả những gian dối, lừa lọc và không quy hàng, khiếp phục bất cứ sức mạnh nào, có thể díu đôi cùng với quyền lực và chính trị — hai thứ muôn đời được xây bằng máu me, bạo tàn, tội ác và phản trắc.
Trần Vũ không biết có “tỉnh” hơn chúng ta? Nhưng ngay từ đầu nhà văn đã không tin, hay đúng hơn không muốn tin giữa hai nhân vật ở hai bên chiến tuyến này có thể nảy sinh một thứ tình yêu “tinh chất”, nguyên khôi, không có điều kiện “... tôi không tin Lê Ngọc Hân có thể yêu Nguyễn Huệ ngay phút đầu tiên, dễ dàng và say đắm. Khác biệt giai cấp, văn hóa, tâm lý quá lớn. Chưa nói đến thù cha, thù nhà, nợ nước, khiến Ngọc Hân khó mà... vô tư[5] (chữ in đậm do nhà văn nhấn mạnh). Vứt bỏ lòng tin đó, Trần Vũ xua tan hết thảy những huyền thoại, mộng mơ, oai hùng quanh họ và cuộc hôn nhân của họ, thay vào đó là một không khí đùng đục, ám khói và lúc nào cũng vẩn lên những dự cảm giết chóc mơ hồ. Trong Mùa mưa gai sắc, chưa khi nào quanh Nguyễn Huệ, người ta thấy những hào quang thường toát lên từ các vĩ nhân hoặc chí ít chỉ là thứ ánh sáng rực rỡ, chói chang của một ngày nắng đẹp. Ngược lại, nơi ấy lúc nào cũng là một bầu trời đầy mây xám, lúc nào cũng nghèn nghẹn trong không khí u uất, chẳng thể thấy thấp thoáng dấu vết của nắng dù chỉ là một giọt nắng nhạt. Lần đầu tiên Huệ xuất hiện trong truyện là lần Huệ tới đầm Thị Nại. Chuyến đi ấy của Huệ vào một ngày xấu trời: “hôm ấy ám trời, cả đầm gợn sắc mây, mưa lướt thướt mỏng như những cánh chuồn rù rì vẩn vơ trên mặt nước”. Cảnh vật xung quanh cũng không hề khá hơn, không thứ gì có thể nhấc mình khỏi không gian rêu mốc, tù đọng: “những cánh bèo nổi lặng lờ như không muốn trôi (...). Những đám lau lác đác, già nua, xanh điệp (...) Đầm Thị Nại không biết tự thuở nào mang tâm trạng u uất ui ui trên mặt nước, ngay dưới mưa cũng phẳng lì không gợn sóng (...) Nước ở đầm này bao nhiêu đời không thay, vừa đục, vừa tanh”. Lần tiếp sau là lần ra Phú Xuân của Huệ. Phú Xuân đón Huệ vẫn bằng những lộng lẫy kinh thành, thứ lộng lẫy chỉ có thể “tìm thấy trên yếm gấm viền thêu mà những người con gái ấp Tây Sơn, huyện Phù Lý không có để mặc trên mình”. Nhưng sắc đẹp kinh thành xa lạ, đài các ấy dù có phủ lên mình gấm thêu lộng lẫy, hay “những váng mưa ngà ngọc, buông như buông trướng, kiêu sa đổ đều lên mái tường thành cung điện của Nguyễn Vương”, thậm chí có phơi ra “vẻ lẳng lơ lộ liễu, da thịt mời gọi”, cũng không giấu nổi vẻ “ủ ê, bệ rạc” của một nhan sắc “cực kỳ sắc sảo, nhưng đã chung chạ quá nhiều”. Như thế Phú Xuân đô hội là nơi cho Huệ lần đầu được tận mắt nhìn thấy những “ngọc ngà kinh kì”. Tiếc rằng những ngọc ngà đó thực chất chỉ là thứ ngọc ngà đã được dồi phấn tô son trên da thịt già nua của một người đàn bà đã phung phí hết son sắc của mình. Gột sạch tất cả son phấn, không còn gì có thể che đậy những mòn mỏi, bệ rạc và khô đét sức sống của đất kinh kì. Chính vì thế, Phú Xuân chẳng hơn Thị Nại. Vẫn thứ không khí ám khói, tù đọng, rêu phong. Những u ám của hai buổi đi chơi “xa Tây Sơn” duy nhất “suốt quãng đời thiếu niên” của Huệ đã ám vào cả cuộc đời nhân vật này. Không khí quanh Huệ chưa bao giờ có thể bật lên những hình sắc tươi vui, những sức sống rạng ngời. Càng về sau thứ không khí đó càng lợm mùi máu của bạo lực và sát sinh. Nên, với kinh thành Thăng Long, ngày Huệ kéo quân ra cũng có nghĩa là ngày tận thế, “Tháng sáu năm Bính ngọ 1786, Thăng Long như bầy heo nái nằm đợi người tới giết”. Trong khi đáng ra nó phải là ngày cả kinh thàn thấy như vừa hồi sinh, và triều Lê sẽ thấy như vừa trút được cái ách chúa Trịnh. Nhưng “tâm trạng của vua Lê Hiển Tông trong cung Vạn Thọ là tâm trạng của con heo nái xề (...) bất an, hoang mang, cực kỳ lo lắng”. Ngọc Hân, người sau này mãi mãi sẽ gắn chặt với tên của Huệ, cũng đang bồn chồn đợi Huệ, nhưng không phải chờ đợi trong hạnh phúc được sánh vai cùng bậc anh hùng, không phải chờ đợi để trao cho Huệ tấm thân trinh trắng của sắc đẹp “mang tất cả nhan sắc của Bắc Hà” mà đợi Huệ để nhìn thấy tận mắt kẻ, mình quyết phải giết, để thực hiện khát vọng diệt Tây Sơn, phục Lê, khát vọng mà cả triều Lê đang hấp hối đặt lên vai nàng.
Bước đi trong một bầu không khí cực thực đến tàn nhẫn ấy, Nguyễn Huệ của Mùa mưa gai sắc hiện lên trong chân dung uy dũng, hung hãn, tàn bạo của một mãnh chúa. Nhân vật này có chất hào hùng, bạo liệt của một Thành Cát Tư Hãn “vó ngựa trường trinh, bách chiến bách thắng” [6] vừa mang chất hung bạo, man rợ của một tên thổ phỉ. Những man rợ, bạo liệt đó hiện lên ngay ở vẻ ngoài của Huệ từ thân hình: “vai to bè hơn vai tê giác, mặt vuông ván gỗ”, đến giọng nói “ồ ề vỡ ra như tiếng thác đổ giữa khuya”, và thói quen cùng cách hành xử võ biền, “trong phủ Chúa, chốn sang trọng lộng lẫy nhất Thăng Long từng mảng da beo lớn trải làm thảm lót chân. Huệ đi lại trên đó và khạc nhổ cũng trên đó (...) Huệ dùng đoản đao bổ đôi quả cau, quẹt vôi rồi ăn sống”, “Huệ (...) ngồi uống với bọn Chỉnh, Nhậm. Uống theo kiểu Tây Sơn, từng cối, từng thau, khi uống vục mặt vào chậu cho ướt hết tóc tai”. Đặc biệt, chúng “kết tinh” đậm đặc và rõ nét nơi con mắt của người “anh hùng áo vải”. Không cần phải trong cơn nguy biến, chỉ ngày thường người ta đã có thể đọc từ đôi mắt Huệ sự kiên định sắt đá của một tinh thần mạnh mẽ và thẳng băng như thép: “Tôi ngắm những bắp cơ trên cánh tay của Huệ thong thả nhịp nhàng dầm mái, rồi vạc nước về phía sau, nhấc lên rồi lại hạ xuống, cử động thuần nhất đến độ trông như Huệ không hề chú tâm đến việc bơi xuồng. Nhưng có nhìn vào đôi mắt Huệ thì mới biết Huệ tập trung lắm. Hướng xuồng đi không chệch, không lệch về trái, không thả sang phải, thẳng tắp theo một hướng đi mà Huệ tự chọn lấy”. Còn những lúc bất thường khác, nó là nơi chứa tất cả những dữ dội trong con người Huệ. Khi giận, bao tức tối đều dồn cả lên mắt Huệ, “hai tròng đỏ trong mắt Huệ lập lòe lửa, tất cả thần khí dữ dội hiện lên trong đồng tử”, như thể bao nhiêu lửa giận ngùn ngụt tận gan ruột Huệ bốc lên đôi mắt ấy và có thể táp thẳng vào mặt kẻ đối diện, sẵn sàng thiêu kẻ đó thành tro bằng tất cả sức thiêu nóng dữ dội của nó. Nên Nhạc bị Huệ bỉ vào mộng đế vương của mình, “sống chỉ ao ước như Nguyễn Vương là một kiếp sống ngu xuẩn”, cũng không dám phát điên vì bị xúc phạm, khi chạm phải “ngọn lửa nóng bỏng ở đôi mắt Huệ”. Bằng lửa từ đôi mắt, Huệ uy hiếp kẻ đối diện. Cũng từ đôi mắt ấy những tham vọng lớn và chưa bao giờ có điểm dừng cũng lần lượt cháy, cháy lan từ Phú Xuân đến hết Bắc Hà, Nam Hà thậm chí cháy đến tận Lưỡng Quảng. Lửa lan đến đâu nghĩa là Huệ sẽ kiên quyết giành bằng được làm sở hữu dù phải đổ và đổi bằng rất nhiều máu và xác chết của kẻ khác. Trong đôi mắt chứa lửa đó, còn ánh lên thứ sát khí của pháp trường và đoạn đầu đài, nó có đủ sức giết người đến mức, Nguyễn Hữu Chỉnh chỉ thoáng thấy trong mắt Lê Ngọc Hân một phiên bản khác đôi mắt hiếu sát của Huệ đã sững sờ, chùn tay không dám tiến tới, đụng chạm hơn nữa đến tấm thân ngọc ngà mà chưa bao giờ hắn thôi thèm khát.
Huệ của Mùa mưa gai sắc, có thể được phác họa bằng hai nét đặc điểm chính: tham vọng  cô độc. Hai điều đó có thể là đặc điểm chung của bất cứ vĩ nhân, bất cứ người anh hùng nào. Chúng như điều kiện để thành công, cũng lại là cái giá của thành công. Nhưng ở Huệ, cả hai (tham vọng và cô độc) cực đoan đến tuyệt đối. Ngay từ rất sớm Huệ hiểu, thực hiện giấc mộng đế vương là cách để “khỏi sống kiếp người ngu xuẩn” và cũng rất sớm Huệ đã kiên quyết kẻ “dẹp Nguyễn, diệt Trịnh xưng Đế phải là mình”. Giấc mộng Huệ mang là một giấc mộng lớn, giấc mộng mà chỉ có những bậc hào kiệt mới dám nuôi dưỡng và trọn đời theo đuổi. Các vương triều gần như đều khởi nghiệp từ những giấc mộng lớn như thế. Huệ ôm giấc mộng đó vào đời, chưa bao giờ có ý niệm sẽ chùn tay trước những ngáng trở, cũng chưa bao giờ ngần ngại gạt phăng những rào cản, chưa bao giờ sợ hãi vì bàn tay mình đã vấy quá nhiều máu. Tất cả với Huệ không khi nào thực sự là ghê gớm bởi “Huệ chỉ nghĩ tới việc giết người để lấy phần của người chết”. Hiếu sát thành mục đích và là vũ khí “bất khả chiến bại” trên bất cứ chiến trường nào. Qua năm tháng nó thành thói quen, thậm chí “đặc điểm tính cách” của Huệ. Do đó khi Huệ nóng nảy, mất kiểm soát, nó sẽ tự động thay Huệ xử lý mọi việc và tất nhiên hành xử theo cách làm “đầu rơi máu chảy” — “Lễ Thành Phục Huệ đưa Ngọc Hân về lãnh tang trước linh sàng Hiển Tông, Huệ nóng nảy sai Nhậm chém một viên Tả Phiên triều Lê chỉ bởi hắn dám cười cách đọc điếu văn của Huệ (...) Thủ cấp Huệ sai bỏ trên mâm bạc đặt lên áo quan vua làm kinh động khắp kinh thành. Thân nhân người có tội biết, chạy đến cửa cung kêu khóc. Huệ cũng sai chém. Tính ra lúc động quan chém cả thảy mười bảy người”. Lá phướn dài luôn được cất giữ trong rương lớn Huệ ngồi là chứng tích của cuộc đời kẻ lấy chém giết là mục đích, là vũ khí — “lá phướn dài dằng dặc chép đen nghịt tên tuổi những người Huệ đã đích thân sai chém. Có đến cả trăm, nghìn tên, đó là chưa kể những người do quan lính Tây Sơn tự ý giết”. Nhưng lúc “lập” “lá phướn” này, Huệ hơn ai hết biết “sổ tử” này sẽ vẫn tiếp tục được kéo dài, khi ngọn lửa “tham vọng đã vượt xa ngày đầu tiên lên Phú Xuân”. Bắc Hà, Nam Hà không còn là cái đích duy nhất, “bây giờ ngọn lửa trong đôi mắt Huệ cháy lan đến những vùng khác”. Giờ với Huệ, “nơi nào có đất, có người coi như của Huệ”. Có nghĩa, tên người sẽ tiếp tục chen chân đen đặc nơi tờ phướn của Huệ. Hiểu mình hơn bất cứ ai, “Huệ đã nối sẵn, dài gấp năm sáu lần lá phướn đã chép”. Tận cùng tờ phướn là nơi tham vọng của Huệ đang mài sẵn dao để chuẩn bị gạt bỏ nốt những ngáng trở cuối cùng trên con đường thực hiện mộng vương đế — “và cái tên cuối cùng được ghi sẵn là hai chữ rắn rỏi: Nguyễn Nhạc” — thực hiện nốt nhiệm vụ lấy dao đâm thẳng vào tim ngưỊi ruột thịt của mình, tham vọng của Huệ chứng tỏ không gì là nó không dám làm, miễn đạt được mục đích “giết người để lấy phần của người chết”. “Ở khía cạnh đó thì Huệ mãi mãi là Huệ”.
Huệ còn là kẻ cô đơn tuyệt đối trong cả cuộc đời mình. Trong truyện chỉ có hai lần Huệ thổ lộ tâm sự của mình. Lần đầu ở đầm Thị Nại và lần cuối ở phủ Chúa, nơi Huệ soi ngắm lá phướn cất kĩ trong gương. Cả hai lần Huệ nói rất ít. Nhưng thế cũng là quá nhiều với kẻ luôn chôn chặt tâm tư trong những rương hòm khóa kín. Huệ chống trả với cô đơn tuyệt đối, không thể trốn chạy của bản thân, bằng bạo dâm. Nên, đêm động phòng của Huệ - Hân vừa như một cuộc cưỡng hiếp man rợ vừa như một trận hành xác tàn bạo, “Huệ chụp lấy ngực áo cưới của Hân xé toạc (...) Huệ xô ngã sấp Ngọc Hân ra giường, tháo dây đai quất xối xả lên tấm lưng mảnh dẻ (...) Huệ quất như thúc roi, thúc ngựa (...) Đến lúc Huệ bắt Ngọc Hân co hai đầu gối, thì nàng quá đau đớn không dằn được, bật tiếng kêu nấc trong đêm tối. Huệ nghe tiếng nấc, khoái cảm càng tăng lên như những lúc chứng kiến hành quyết”. Từ đó, “Huệ bị ràng buộc vào người đàn bà mà mãi mãi từ đây, hằng đêm Huệ phải tìm đến”, không phải vì tình yêu, mà vì nhu cầu được hành xác kẻ khác của “kẻ suốt đời hành nghề tra tấn, không được đánh người thì không biết phải làm gì”. Chỉ với nó Huệ mới tìm được những phút giây tạm quên và tìm được một góc để trốn tránh nỗi cô đơn ngút ngàn trong mình.
Trong các nhân vật lịch sử có mặt trong sáng tác của Trần Vũ, Nguyễn Huệ gây được những quan tâm đặc biệt. Phần nhiều là bởi chất “kì hình dị tướng” quá đỗi đến “không thể chấp nhận được”. Tuy vậy, trong văn học Việt Nam, Trần Vũ không phải người lần đầu tiên “liều lĩnh hư cấu quá tay” trên tên tuổi của nhân vật này. Theo Trần Hữu Thục sau 1975, có 4 tác phẩm chọn Nguyễn Huệ làm nhân vật: Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp, Mùa mưa gai sắc của Trần Vũ, Gió lửa của Nam Dao. Ngoài Quang Trung hoàng đế “hiền hòa”, “trong sáng”, “vô cùng lành với chư tướng, do dự và nhút nhát trước phái yếu”, “có mỗi bàn tay nhỏ nhắn xinh xắn của An mà cũng không dám nắm” [7] của Sông Côn mùa lũ, cả ba Nguyễn Huệ của các tác phẩm còn lại đều hoặc là hình mẫu phản-Nguyễn Huệ (trong Phẩm tiết  Mùa mưa gai sắc), hoặc là tổng hợp của cả hai chân dung Nguyễn Huệ lịch sử và phản-Nguyễn Huệ (trong Gió lửa) (xem “Nhân vật Nguyễn Huệ trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác”, nguồn: damau.org). Nhưng ngay giữa ba chân dung Nguyễn Huệ ấy, Nguyễn Huệ của Trần Vũ cũng tự tách mình ra ngoài như một khác biệt. Bởi chỉ Trần Vũ mới liều lĩnh đẩy những nét dữ dằn, hung bạo trong nhân vật của mình đến cực đại, cũng chỉ Trần Vũ mới liều lĩnh phóng đại những dữ dội, bạo liệt đến mức cuồng điên, “thú tính”. Chân dung Nguyễn Huệ của Mùa mưa gai sắc, vì thế đã chẳng còn mấy liên quan đến hình ảnh truyền thống của môn lịch sử học đường, có chăng chỉ ở tên người và những chiến công. Nó cũng hoàn toàn xa lạ với những hình dung người ta đã vẽ sẵn hình ảnh nhân vật này trong tưởng tượng của cộng đồng. Do đó, sự hiện diện của Nguyễn Huệ trong Mùa mưa gai sắc thực sự là một khiêu khích, thách đố đến mức phá phách, và liều lĩnh.
Trong Mùa mưa gai sắc, Lê Ngọc Hân là một hình ảnh độc đáo khác. Một chân dung cũng được dựng bằng những phóng đại cực đoan, tàn nhẫn. Ngọc Hân trước hết là một nhan sắc. Thứ nữa, cũng như Huệ, Hân là kẻ hiếu sát. Chứng cuồng sát ở con người này không kém Huệ về sự tàn bạo và dữ dội. Nguyễn Hữu Chỉnh là người “may mắn” được chiêm ngưỡng và “chịu trận” trước những tia lửa sát nhân từ đôi mắt của nhan sắc lộng lẫy nhất Bắc Hà. “Tia mắt Hân dữ dội đến độ, đương suồng sã, Chỉnh lặng đi, choáng người, phải rút vội tay. Ngọn lửa đằng đằng sát khí trong mắt Ngọc Hân, Chỉnh đã trông thấy nhiều lần trong đôi mắt Huệ. Đôi mắt của kẻ hiếu sát, đã quả quyết làm gì là làm cho đến cùng. Châu thân Chỉnh lạnh toát, mồ hôi bất ngờ vả ra ở sống lưng. Ánh nhìn đương cháy lập lòe của Ngọc Hân rõ ràng là ánh mắt của Huệ, cái nhìn của Huệ trước cảnh hành quyết”. Dù Hân “không được” như Huệ, có thể tận tay tàn sát, giết chóc để trả thù, để thỏa căm hờn những kẻ làm nhục nhà Lê, làm nhục đức vua, và xúc phạm đến bản thân mình. Nhưng Hân có cách riêng để ít nhiều làm vợi ngọn lửa căm thù đang thiêu đốt tâm can mình, cách chiêm ngưỡng, “phẫu thuật” các xác chết bằng mắt. Bởi vậy khi không còn cơ hội tự tay giết chết Trịnh Khải, và cũng không có cách gì ngay lập tức đâm thẳng dao vào tim Nguyễn Hữu Chỉnh, Hân đã “mượn” đến xác Trịnh Khải đang bêu ở cửa Tuyên Vũ. “Tất cả những uất ức của Ngọc Hân như được trút ra khi trông thấy thủ cấp nhà Chúa. Đầu mắc một nơi, xác phanh một góc (...) Ngọc Hân nhìn ngắm chăm chăm từng nét mặt của Trịnh Khải, từ cặp mắt trợn ngược, nốt ruồi dư mà lúc sinh tiền Khải thường hay vân vê, đến lỗ dao sâu hoắm ở cổ họng và những sợi gân còn vướng mắc đong đưa lòng thòng bên dưới”. Xác chết ấy không những giúp khuây những căm phẫn, mà với Hân nó còn mang đến những khoái cảm cực độ, “Ngọc Hân cảm thấy hả dạ, cúi xuống lần lần khăn san cầm ở tay ra vẻ xúc động, nhưng kỳ thực là để che dấu nụ cười nụ cười thỏa mãn, cực sung sướng”. Đó cũng là “lần đầu tiên nàng khám phá ra hiệu quả của những xác chết có thể giải bày mọi uất ức trong người mình”. Sau “lần đầu tiên” đó, hơn một lần Hân bắt gặp mình mơ thấy thủ cấp của Huệ, của Chỉnh bêu ở Tuyên Vũ. Bởi Hân thấu hơn ai “thói đời phong kiến, nợ máu phải trả bằng máu (...) máu của họ Lê phải trả bằng máu của Tây Sơn”. Để thực hiện tham vọng “lấy máu Tây Sơn”, Hân dựa vào hai thứ vũ khí mình có. Thứ nhất, nhan sắc, Hân biết nó là vũ khí sắc bén nhất của người đàn bà. Với vũ khí ấy Hân tô chuốt nó đến bén ngọt, sắc cạnh đủ khiến kẻ nào lỡ tay “chạm hờ” đến cũng phải “đổ máu”. Nhìn Hân “dồi phấn lên mặt, chăm chỉ chuốt lông mày (...) tỉ mỉ kẻ viền mắt, đánh thật sắc khóe mắt vốn đã sắc lịm bén như nước lam nhìn ai thường hớp hồn kẻ đó”, người ta ngỡ Hân chuẩn bị đi giết người. Bởi nó “không phải hìn ảnh điểm trang thông thường, mà là cái cảnh của một người con gái sắp thành đàn bà ngồi đánh mắt như đang mài dao, mải miết cho đến lúc bản thép nhọn, bén ngời”. Vũ khí thứ hai là những ràng buộc mà Huệ không thể dứt bỏ trong quan hệ chăn gối với Hân, thứ quan hệ chăn gối mà hành xác kẻ khác là phương thức và cũng là mục đích. Có lẽ trong thiên hạ chỉ có Hân đủ sức chịu đựng thứ tình dục điên cuồng, hung bạo ấy. Hân chịu đựng trong kiêu hãnh và đắc thắng, vì Hân biết kẻ này càng ràng buộc với mình, cơ hội để diệt Tây Sơn, báo thù cho nhà Lê càng lớn. Nhưng chịu đựng gánh nặng tinh thần quá lớn, Hân “sống như người mang bệnh trí”. Bệnh tật hiện lên trên da thịt nàng “những đường gân xanh đã lờ mờ nổi lên trên bàn tay mảnh khảnh, những đường gân của nặng nhọc tinh thần”. Nó khiến cuộc sống của nàng luôn gắn với những cơn mơ hoang tưởng. Khi đang tâm sự cùng người hầu cận, đột nhiên Hân thay đổi ánh nhìn “như thể đang nói chuyện với Huệ”, rỗi bỗng “giọng trong trẻo tỉnh táo quá độ và ánh mắt khô ráo”, ngay sau đó “Hân lồng lên. Nhưng rồi lại đổ rũ người ra khóc nức nở”. Như vậy rồi Hân cũng như Huệ, hay đúng hơn Hân là một phiên bản khác của Huệ, những kẻ trọn đời phải chung thân tù đầy trong những tham vọng ghê gớm, và cùng những cô đơn tột cùng của bản thân.
Trần Thủ Độ là một nhân vật tiếp theo được Trần Vũ cho vào “phòng thí nghiệm” của mình và tiếp tục “khảo sát từng phần nhỏ nhất” trong con người này. Thủ Độ của Gia phả “chưa phải” là chân dung anh hùng uy dũng, bạo liệt kiểu Thành Cát Tư Hãn như Huệ. Nhưng về trí lực và sự hung bạo, Độ chẳng kém ai. Độ là kẻ “vô thần”, “vô đạo”. Chẳng có thứ chữ nghĩa, đạo đức nào có thể khuất phục, lôi kéo nổi Độ. Với Độ, “chữ Thánh Hiền lúc đó chỉ còn là một mớ hình dáng tạp nham làm bẩn óc Độ”. Độ chỉ hành xử theo cách của mình — lối hành xử chỉ nghe theo dục vọng bản thân. Bởi thế, Độ sẵn sàng làm bất kể điều gì thỏa mãn ham muốn, không sợ trái đạo, không sợ trừng phạt “Độ sớm phát triển cơ thể. Bắp tay nở nang, bả vai đồ sộ (...) Sức phát triển của cơ thể chỉ đưa đến gia tăng tính dục. Độ mạnh về đường sinh lí, những chiều đi tập võ về, Độ thường cởi trần trùng trục, đứng trần truồng khoe thân trước đám thôn nữ. Ai không muốn xem, Độ cho tiền bắt xem. Ai bỏ chạy, Độ rượt theo đánh”. Đồng thời, Độ chỉ tin vào cơ trí và sức mạnh của mình, Độ tin vào chân lý của riêng mình “ở đời không mưu, không đạt việc lớn”. Với những điều đó, ở Độ toát lên một thứ lửa dữ dằn, bạo liệt. Nó đủ sức làm ấm lại giọt nắng hấp hối cuối triều Lê, nhưng không bằng hơi ấm của sự sống mà bằng sức nóng hung hãn, thô bạo như thể nó được đúc từ hàng trăm nghìn ngọn lửa mặt trời dữ dội. Nó uy hiếp và khuất phục không trừ một kẻ nào của tộc Trần. Từ Trần Lý, kẻ biết mình “bản chất yếu đuối, trí não không hơn một kẻ đánh cá, (...) không sao trấn áp, tranh được với trí xảo của Độ” đến cả vong linh những kẻ đứng đầu của cả gia tộc nhà Trần cũng khiếp hãi trước con người ấy “cả một gian nhà thờ vụt kinh hãi cung kính phủ phục đợi Độ. Đôi mắt Trần Kính sợ sệt trốn tránh. Cặp mắt Trần Hấp nhợt nhạt nhìn lảng vu vơ. Cả một dãy chân dung cúi gầm mặt không dám ngẩng lên. Anh ruột Trần Thị là Trần Tự Khánh trông thấy Độ cũng vội vã bỏ trốn”. Sợ hãi không phải chỉ bởi “tất cả kẻ sống và kẻ chết trong gia tộc Trần đều biết” “Độ không chỉ mưu mà còn có cả sức lực”, mà còn bởi họ được chứng kiến cảnh chém ngựa, tắm máu man rợ, cuồng điên của Độ vào buổi chiều “bầu trời bẩn lắm”, “có nắng, nhưng cũng nhiều mây, thứ mây đen tối bao phủ trên nền trời đất nước”. Họ biết rõ Độ sẽ là người làm nên nghiệp lớn của họ Trần, và họ cũng biết không ai trong gia tộc này đủ sức thách thức và chống đối trước sức mạnh, và những ham muốn của Độ. Tất cả chỉ dám nhìn Độ bằng đôi mắt “mở căng khiếp đảm” của Trần Thị hay đáng thương hơn, bằng đôi mắt của “Lý Huệ Tông sau này ở chùa Chân Giáo”. Như thế, Trần Thủ Độ hoàn toàn không phải là bản sao của chân dung Nguyễn Huệ trong Mùa mưa gai sắc, dù cũng hung tàn, bạo ngược, cơ mưu nhưng Độ là một diện mạo khác, với những tham vọng, mưu đồ, số phận lịch sử của riêng mình.
Như vậy, cả ba chân dung Nguyễn Huệ, Ngọc Hân, Trần Thủ Độ đều được xây dựng bằng những nét sắc, đậm, ác và tàn bạo. Tất cả như kết quả của “sự tùy tiện” phá phách của Trần Vũ trong thái độ, trong các tiếp cận và trong cách “xử lí” đề tài lịch sử. Bản thân sự tùy tiện ấy là một phản ứng. Phản ứng trước thói quen và cách ứng xử “lành vô cùng” với đề tài lịch sử của các nhà văn Việt. Phản ứng trước niềm tin và sự ngưỡng vọng vẫn tồn tại như một tín ngưỡng trong tâm thức cả cộng đồng. Và thứ nữa chúng là sự hiện thực hóa cho một ước muốn, “ước muốn tân tạo hình ảnh” những nhân vật lịch sử “trong đầu mình, như mình muốn, trong tự do tuyệt đối”. [8]Tất cả những “phản ứng nổi loạn” trong ứng xử với đề tài “thiêng liêng”, cùng khát vọng quyết liệt được viết “trong tự do tuyệt đối” là điều không thể tìm thấy trong cách ứng xử, trong thái độ của hầu hết các nhà văn “thuần” hiện thực. Nó đáng được xem và cần được nhìn nhận như dấu hiệu đậm nét và tiêu biểu của thái độ “phản động” đầy ý thức và vô cùng kiên quyết của nhà văn với truyền thống văn học hiện thực Việt Nam.
Trong văn học Việt Nam, có lẽ Nguyễn Huy Thiệp và Trần Vũ là hai nhà văn ứng xử với đề tài lịch sử táo bạo và “liều lĩnh” nhất. Nhiều người thường cho rằng, cách ứng xử táo bạo ấy là Trần Vũ “học đòi” Nguyễn Huy Thiệp. Điều này, thực ra rất khó khẳng định dứt khoát. Ngay cả chính người cầm bút cũng không thể trả lời câu hỏi này một cách chính xác. Có trường hợp nhà văn khăng khăng khẳng định mình không chịu chút ảnh hưởng nào của nhà văn nào đó, nhưng người ta lại có thể chỉ ra những dấu ấn rõ nét của những ảnh hưởng trong tác phẩm của anh ta. Do đó, trong những trường hợp như thế này cần phải tính đến sự can thiệp của vô thức. Có thể ở một thời điểm nào đó, những ấn tượng vô tình để lại dấu ấn ở vô thức của nhà văn, mà chính anh ta cũng không nhận biết. Do đó chúng tôi đồng ý với nhận định, có vẻ rất “nước đôi” của nhà phê bình Thụy Khuê, khi nói về sự ảnh hưởng này: “người cho rằng Trần Vũ bắt chước Nguyễn Huy Thiệp. Rất có thể. Mà lại không chắc đúng”. [9]
Tuy nhiên, nếu nhìn trực diện vào trong tác phẩm có thể thấy, dù cả hai đều dùng “lịch sử làm tay sai cho những điều muốn nói”, nhưng họ không cùng chung mục đích. Nói như tác giả tiểu luận Sóng từ trường, nếu “Nguyễn Huy Thiệp đánh đổ thần tượng quá khứ” như một cách “dùng chổi quá khứ để quét hiện tại và dọn tương lai”. [10] Như thế, Nguyễn Huy Thiệp “dùng lịch sử với chủ đích nhân bản, cải tiến xã hội. Nguyễn Huy Thiệp tin vào con người”. [11] Nhưng Trần Vũ thì khác. Với những phân tích trên đây của chúng tôi, có thể thấy rằng, phần nhiều những bịa tạc, thậm chí “xuyên tạc” sự thật lịch sử ở nhà văn này không nhằm vào chủ định “kiến thiết”, hay tạo dựng. Chủ định lớn nhất ở cây bút này là “đập phá” và “tiêu diệt”, mà cái nhà văn muốn đập phá ở đây là “những ảo tưởng tốt đẹp” về “nhân vật lịch sử”, ảo tưởng về “một thứ phụ nữ nết na, hiền hậu, đẹp và sang, phục vụ tổ quốc như Ngọc Hân công chúa”. [12] Người đọc ngỡ, qua những dòng chữ của mình trong trang văn của mình, Trần Vũ như đang kiên quyết khẳng định với họ rằng: “Làm gì có thế? Đằng sau bộ mặt đẹp hẳn phải có một “thú tính” nào đó — hoặc đanh ác, chua ngoa, hoặc lừa lọc, dâm đãng — nếu không xuất đầu lộ diện trong cách xử sự, thì cũng sống ngầm trong tiềm thức, trong vô thức”. [13] Viết như thế, trước hết nhà văn muốn đập phá những ảo tưởng, những giả dối con người tự phủ lên mình để che giấu cái tàn độc, cái phần ác ngầm của mình. Đồng thời, nó giúp nhà văn trình bày “một hiện thực không giả” — “sự tàn bạo trong chiến tranh, trong các nhân vật lịch sử, trong thiên nhiên, vạn vật và con người”. [14] Với việc đả phá cái cao đẹp từ những chân dung của nhân vật lịch sử, Trần Vũ giúp người ta hiểu: “diện mạo anh hùng của các nhân vật lịch sử mà người ta thần tượng hóa, tiếc rằng chỉ mới có một nửa: Phơi ra áo gấm trạng nguyên rực rỡ huy hoàng và cất đi bộ mặt sát nhân tàn ác”. [15] Dường như Trần Vũ không cô đơn trong khát vọng và chủ đích này của mình. Trước đó, Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn Mùa trái cóc ở miền Nam — viết về những người lính ngay sau chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975, ra đời năm 1987, từng cho nhân vật của mình lên tiếng trước sự “sạch sẽ” đầy giả dối của lịch sử chính thống, thứ lịch sử đã được “gọt rũa”, được biên tập — “Nhờ nghe hóng tôi biết được ối chuyện, tôi biết cả trong và sau trận đánh lịch sử cuối cùng ấy đã chứa đựng biết bao chuyện thật và chuyện giả dối đến mức đau lòng. Cái nghiệt ngã sẽ lắng đọng mãi mãi trong trí nhớ những thằng lính đang ngồi với tôi đây nhưng nay mai mỗi đứa một ngả, còn lịch sử viết thành văn bao giờ cũng trang trọng và sạch sẽ”. [16] Khi từ chối viết về lịch sử như những gì được chép trong chính sử, và như những gì cộng đồng vẫn hiểu và tin, Trần Vũ và những nhà văn “cùng chí hướng với mình”, không những đã công khai từ chối làm tên “tuyên truyền viên” cho niềm tin và tín ngưỡng của cộng đồng, (dù cách ứng xử ấy ở nhà văn này nhiều khi quá cực đoan và dữ dội, thậm chí dữ dằn) mà còn cho thấy, họ — những người viết nên “bộ mặt tàn bạo của lịch sử” — đã “đi xa hơn lịch sử, để xâm nhập vào lãnh vực con người”. [17]

Hà Nội, 13/01/2012


Trở lại trường hợp Nguyễn Huệ

Những điều tôi vừa viết về Nguyễn Huệ chắc đã làm một số độc giả nổi nóng. Một số vị có thể hỏi tại sao tôi lại gây “tranh cãi vô ích” về những vấn đề văn hóa và lịch sử giữa lúc cần dồn hết nghị lực cho cuộc vận động dân chủ. Lý do là vì tôi thấy những cuộc tranh cãi này không những không vô ích mà còn rất cần thiết.
Cuộc tranh đấu cho tự do và dân chủ đã đi vào một giai đoạn mới. Sau nhiều tranh luận, những người dân chủ Việt nam đã đạt tới đồng thuận về một lập trường tranh đấu. Đây là một khai thông quan trọng và rất đáng mừng. Nhưng tại sao có đồng thuận rồi mà cuộc vận động dân chủ vẫn chưa khởi sắc, đồng bào trong và ngoài nước vẫn chưa hưởng ứng ở mức độ chờ đợi? Theo tôi, đó là vì chúng ta đụng phải một bức tường tâm lý kiên cố do lịch sử và văn hóa để lại. Không chọc thủng được bức tường này chúng ta sẽ dẫm chân tại chỗ, không giành được dân chủ, và ngay cả nếu có giành được dân chủ cũng không thể vươn lên bắt kịp các quốc gia tiên tiến. Mà muốn chọc thủng bức tường tâm lý này thì bắt buộc phải đặt lại một số vấn đề văn hóa và lịch sử.
Tôi không vô ý thức đến độ không biết rằng đụng tới lịch sử và văn hóa là đụng tới phần thầm kín, thiêng liêng và cấm kỵ của một dân tộc, do đó tất nhiên phải chờ đợi những phản ứng giận dữ.
Chúng ta thua kém thế giới một cách bi đát và sự tồn vong của đất nước đang bị đe dọa. Khi mộng ước của rất nhiều người hiện nay chỉ giản dị là được rời Việt nam đi làm công dân một nước khác, khi có những bà mẹ đặt đứa con ba tuổi lên chiếc thuyền mỏng manh vượt biên với hy vọng duy nhất là nó tìm được một cuộc sống bình thường thôi tại một phương trời xa lạ nào đó, là chúng ta đang sống một thảm kịch quốc gia.
Nhưng giải thích thảm kịch đó bằng những lý do cụ thể như bối cảnh thế giới, sự mù quáng của vua quan nhà Nguyễn, chính sách đen tối của thực dân Pháp, sự thô bạo của đảng cộng sản, sự tồi dở của các chính quyền quốc gia, những âm mưu của người Mỹ, v.v. là những lập luận mà chúng ta dễ chấp nhận. Ngược lại nói rằng số phận hẩm hiu của chúng ta là hậu quả của chính cái mà chúng ta trân trọng nhất: hồn tính, giáo dục, di sản tinh thần của ông cha để lại thì chúng ta cảm thấy bị xúc phạm.
Di sản tinh thần của một dân tộc thể hiện rõ nhất qua các anh hùng. Các anh hùng dân tộc là thuốc thử màu bộc lộ tâm lý của một dân tộc. Qua cách chọn lựa và tôn vinh các anh hùng, các dân tộc tiết lộ những giá trị mà mình ôm ấp. Nếu chúng ta thay đổi cách nhận định anh hùng dân tộc thì đồng thời chúng ta cũng thay đổi các giá trị nền tảng của xã hội ta, chúng ta sẽ thay đổi cách suy nghĩ và hành động và do đó thay đổi số phận của chúng ta.
Đối với đại đa số người Việt, Nguyễn Huệ không phải chỉ là một anh hùng mà còn là một thần tượng. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương, mà tôi rất ái mộ, đã ca tụng Nguyễn Huệ và chiến thắng Đống Đa bằng những vần thơ nồng nàn trong một bài thơ rất dài mà tôi xin trích hầu độc giả hai câu:
Muôn chiến công một chiến công dồn lại
Một tấm lòng muôn vạn tấm lòng mang.
Chúng ta đã được huấn luyện ngay từ buổi đầu đời, từ ghế trường tiểu học để sùng bái Nguyễn Huệ. Như vậy Nguyễn Huệ vừa là thần tượng vừa là mối tình đầu của trí tuệ Việt nam, đụng tới ông là đụng tới cả một tín ngưỡng và một đam mê.
Ở đây xin mở một dấu ngoặc đơn ngắn. Có một cái gì rất không ổn trong cách mà thanh thiếu niên Việt nam được giáo dục để đánh giá các anh hùng dân lộc. Nước ta có nhiều anh hùng nhưng có ba vị có công lớn nhất: Lý Công Uẩn mở ra đất nước có kỷ cương, văn hiến; Trần Hưng Đạo đánh đuổi quân Nguyên giúp chúng ta giữ được bờ cõi tránh được sự dầy đạp của quân Mông Cổ hung bạo; Nguyễn Hoàng mở ra miền Nam trù phú. Cả ba đều là nhưng con người đức độ, đem phồn vinh cho dân chúng. Thế mà chỉ có Trần Hưng Đạo được nhắc tới thường xuyên, nhưng cũng rất xa sau Nguyễn Huệ; Lý Công Uẩn thì họa hiếm; còn Nguyễn Hoàng thì không bao giờ.
Cần phải trở lại trường hợp Nguyễn Huệ bởi vì đó là một sai lầm đã kéo dài quá lâu và đã gây quá nhiều tác hại. Tôi không phải là sử gia, cũng không phải là một nhà nghiên cứu mà là một người hoạt động chính trị. Người hoạt động chính trị nói những điều cần nói, có bổn phận phải nói trung thực, dựa vào những sự kiện nghiêm túc và lý luận một cách lương thiện. Nhưng người hoạt động chính trị nếu không có thì giờ như trường hợp của tôi, không có bổn phận phải ghi chú dữ kiện lấy từ sách nào, chương nào, trang nào, v.v… Đó là công việc của nhà nghiên cứu. Những dữ kiện mà tôi dựa vào để bàn về Nguyễn Huệ là có thực, các sử gia đều có.
Trước hết là một vài nhận định về chiến thắng Đống Đa.
Nguyễn Huệ được tôn sùng nhờ trận Đống Đa mùa Xuân Kỷ Dậu 1789. Những công đức và thành tích khác của ông chỉ là phụ họa, đôi khi thêm thắt và thêu dệt. Theo ký ức tập thể của chúng ta trong trận này Nguyễn Huệ đã chỉ trong một đêm phá tan hai mươi vạn (hai trăm ngàn) quân Thanh, tránh cho chúng ta ách Bắc thuộc.
Thực ra các tài liệu của nhà Thanh cho thấy một cách rất rõ rệt là vua Càn Long không có ý định đánh chiếm nước ta. Không những thế vua Càn Long còn cấm Tôn Sĩ Nghị giao chiến. Nhà Thanh can thiệp vì có sự cầu cứu của mẹ vua Lê Chiêu Thống và đám quần thần nhà Lê, nhưng ý đồ của họ chỉ là dọa để Nguyễn Huệ thần phục Lê Chiêu Thống, và ngay cả nếu Nguyễn Huệ cứng đầu không chịu cũng chỉ giúp Lê Chiêu Thống có thanh thế mà chiêu tập lực lượng để chia đất với Nguyễn Huệ mà thôi. Dĩ nhiên nếu Việt nam tự nguyện sát nhập vào Trung Quốc thì nhà Thanh sẽ rất hài lòng nhưng họ không chấp nhận trả một giá nào cả.
Con số hai chục vạn quân Thanh cũng rất sai sự thực. Tôn Sĩ Nghị sang bằng đường bộ, mà đường bộ thì bị vách núi dầy đặc ngăn cách không thể di chuyển một số quân khổng lồ như vậy. Trong những lần xâm chiếm qui mô Việt nam, quân Trung Quốc đều chủ yếu xâm lăng bằng đường thủy qua cửa Bạch Đằng hay Nghệ An.
Thành phố Hà Nội hồi đó có bao nhiêu dân cư? Mười ngàn, mười lăm ngàn, hay hai chục ngàn là cùng. Không cần hai trăm ngàn, chỉ cần năm chục ngàn thôi thì cũng đã là cả một sự tràn ngập không còn chỗ đứng, chưa nói tới việc quân Thanh kéo nhau đi chợ mua bán như sử chép. Các tài liệu còn giữ lại chỉ nói quân Thanh đóng đồn ở vài làng nhỏ cạnh Hà Nội.
Niềm tự hào dân tộc của tôi bị thương tổn lần đầu tiên vào khoảng năm 1958. Tôi đọc báo về cuộc thuyết trình của giáo sư Tưởng Quân Chương, một chuyên gia người Đài Loan về Việt nam, tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Sự hiểu biết rất non nớt của tôi lúc đó cũng đủ để tôi ý thức rằng ông hơn hẳn nhiều trí thức Việt nam ngay về chính lịch sử và văn hóa Việt nam. Ông lập luận chắc chắn, dẫn chứng tài liệu đầy đủ về văn học Việt nam, từng tác phẩm, từng tác giả. Đề cập đến trận Đống Đa, Tưởng Quân Chương dẫn tài liệu của Thanh triều, nói rằng Tôn Sĩ Nghị tổng đốc Lưỡng Quảng đã đem sáu ngàn kỵ binh sang Việt nam để phô trương thanh thế và làm lễ thụ phong cho Lê Chiêu Thống nhưng đã bị Nguyễn Huệ đánh bất ngờ, thua chạy về và bị cách chức. Con số này theo tôi là hợp lý. Tôn Sĩ Nghị từ Trung Quốc sang Việt nam trong một hai tuần lễ thì chắc chắn là sang bằng kỵ binh rồi, mà kỵ binh thì sáu ngàn đã là nhiều lắm đối với hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, muốn hơn cũng không có. Nên nhớ là nhà Thanh lúc đó yên bình đã mấy trăm năm nên không còn giữ quân đội hùng hậu nữa. Tôi chưa thấy sử gia Việt nam nào bác bỏ sự kiện của ông Tưởng Quân Chương.
Một tài liệu do người Việt nam viết về trận Đống Đa là cuốn Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia Văn Phái, một cuốn sách khá thuận cho Tây Sơn. Theo cuốn sách này thì khi quân Thanh đến, Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm bàn với nhau rằng đánh quân Thanh không được vì dân chúng Bắc Hà ủng hộ quân Thanh và ghét quân Tây Sơn, họ sẽ chỉ chỗ, dẫn đường, tiếp sức quân Thanh (Đây cũng là một sự kiện rất quan trọng chứng tỏ dân chúng không ngưỡng mộ Nguyễn Huệ như một số tác giả viết). Ngô Văn Sở quyết định bỏ Thăng Long lui về giữ đèo Tam Điệp, nhưng đô đốc Phan Văn Lân không chịu, đòi Ngô Văn Sở cấp cho một ngàn quân (xin nhắc lại là một ngàn quân) ra giáp chiến. Phan Văn Lân đến bờ sông Như Nguyệt thì gặp quân Thanh đóng ở bên kia sông. Lúc đó tiết trời lạnh giá nhưng Phan Văn Lân nhất định bắt quân lội qua sông đánh quân Thanh. Quân Tây Sơn chết đuối khá nhiều, số còn lại qua bên kia sông lạnh cóng nên bị quân Thanh tiêu diệt, Phan Văn Lân một mình một ngựa chạy về. Thử hỏi nếu quân Thanh đông tới mười ngàn người thôi liệu Phan Văn Lân có dám liều lĩnh như vậy không?
Còn một nguồn tài liệu khác về trận Đống Đa. Đó là những lá thư mà các giáo sĩ có mặt tại đó gởi về cho bạn bè tại Pháp. Những lá thư này được tập trung trong một tài liệu có tên là “Những lá thư kỳ lạ và xúc tích của Sứ Bộ Truyền Giáo Viễn Đông” (Lettres curieuses ét édifiantes de la Mission apostolique en Extrême Orient) còn lưu giữ tại Pháp. Đây là những lá thư riêng, không phổ biến, do đó chúng không có mục đích tuyên truyền. Các giáo sĩ nói thẳng là họ bênh vực nhà Tây Sơn vì lý do cả chúa Trịnh lẫn chúa Nguyền đều cấm đạo trong khi Tây Sơn không để ý đến tôn giáo.
Một giáo sĩ mô tả trận Ngọc Hồi (Đống Đa), trận đánh gay go nhất và có thể nói là duy nhất trong đêm hôm đó. Theo ông, quân Tây Sơn tiến vào bị quân Thanh đánh bật ra, hàng ngũ rối loạn. Lúc đó đích thân Nguyễn Huệ từ dưới xông lên, múa gươm chém chết mấy chục quân Thanh, làm chúng hoảng sợ bỏ chạy. Theo cách mô tả đó thì trận Đống Đa không thể là lớn được. Hoàng Lê Nhất Thống Chí cũng nói quân Tây Sơn tiến sau hai mươi tấm mộc, đằng sau mỗi tấm là ba mươi người. Như vậy tổng số quân Tây Sơn tham chiến ở Ngọc Hồi là sáu trăm người. Hoàng Lê Nhất Thống Chí còn nói thêm là khi nghe tin Ngọc Hồi có biến, Tôn Sĩ Nghị sai một bộ tướng đem hai chục kỵ binh đi giải cứu cùng với một đám nghĩa quân của vua Lê. Những dữ kiện này chứng tỏ trận Đống Đa chỉ là một trận nhỏ.
Mặt khác, cũng không nên quên là quân Thanh bị bất ngờ hoàn toàn nên rối loạn, lo chạy hơn là đánh lại. Vả lại cũng chỉ có một nửa quân Thanh sang sông vào Thăng Long, nửa kia vẫn ở bên tả ngạn và bỏ chạy khi đám quân sang sông bị đánh tan. Cần minh định một điều để tránh tranh cãi. Số quân Thanh chết (chủ yếu là chết đuối khi xô lấn nhau sang sông làm sập cầu nổi) có thể nhiều hơn hẳn số quân từ Trung Quốc sang vì rất nhiều người Hoa sinh sống tại Việt nam lúc đó cũng ỷ thế quân Thanh lộng hành tự coi như lính của nhà Thanh, rồi hoảng sợ bỏ chạy khi kỵ binh của Tôn Sĩ Nghị bị đánh tan. Ký ức dân gian và các tài liệu đều nói đến việc người ngựa chen nhau trên cầu. Cảnh này phù hợp với những gì vừa nói: quân cưỡi ngựa là quân Tôn Sĩ Nghị, đám chạy bộ là bọn a dua.
Chúng ta đều biết trước khi ra Thăng Long đánh quân Thanh, Nguyễn Huệ dừng lại ở Tam Điệp để mộ quân. Các giáo sĩ thuật cách mộ quân của Nguyễn Huệ: các tướng của Quang Trung, tất cả đều mang chức đô đốc, tới gần các làng, cưỡi ngựa lên một gò cao nhìn vào làng theo số nóc nhà mà ước lượng số quân mỗi làng phải nộp ra, lệ hễ thiếu một người là họ tàn sát cả làng. Dân chúng hãi hùng đến nỗi làng nào không đủ con trai phải bắt con gái giả làm trai đem nộp cho Nguyễn Huệ. Những nông dân tuyển chọn như vậy thực ra là những tù binh chỉ có vai trò khuân vác, làm mộc đỡ tên và lấy số đông áp đảo tinh thần quân Thanh mà thôi, chủ lực của Quang Trung chỉ là số quân Tây Sơn mà ông đem từ Phú Xuân ra. Đánh xong trận Đống Đa, ông bỏ mặc số quân tân tuyển này, họ phải xin ăn dọc đường tìm về quê quán.
Nguyễn Huệ là con người như thế nào?
Theo sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Nguyễn Huệ là con ông Hồ Phi Phúc, người gốc Nghệ An, nhưng từ ba đời trước bị chúa Nguyễn bắt vào lập nghiệp tại làng Tây Sơn, thuộc tỉnh Bình Định. Đến đời các con thì đổi ra họ Nguyễn để dễ tiến thân. Họ Hồ dần dần trở nên khá giả, đến đời Hồ Phi Phúc thì lại mở sòng bạc nên càng giàu có. Nguyễn Huệ như vậy không phải xuất thân là một nông dân áo vải như Việt nam Sử lược viết. Về anh em Tây Sơn, cũng như về trận Đống Đa, Trần Trọng Kim dựa vào Hoàng Lê Nhất Thống Chí, nhưng lại thêm bớt theo chiều hướng có lợi cho Nguyễn Huệ. Tại sao? Chúng ta sẽ trả lời sau.
Ba anh em Nhạc, Lữ và Huệ lớn lên đi ăn cướp. Khởi đầu Nguyễn Nhạc kết nạp được một đám thủ hạ đi cướp bóc trong vùng, sau khi thế lực đã mạnh mới về lập đồn ở ngay làng mình công khai chống chúa Nguyễn. Có lẽ vì họ hoành hành khá lâu tại vùng Tây Sơn nên sau này, khi họ làm vua, người ta vẫn gọi họ là nhà Tây Sơn. Ba anh em liên kết với hai đám cướp biển người Trung Hoa là Tập Đình và Lý Tài và cũng chiêu mộ nhiều người Thượng. Trong các thư từ gởi cho nhau, các giáo sĩ thắc mắc không hiểu tại sao các tướng của Tây Sơn, dù là tướng đánh bộ đi nữa, đều xưng là đô đốc: đô đốc Sở, đô đốc Long, đô đốc Tuyết, đô đốc Lộc, đô đốc Lân, v.v. Đó là vì quân Tây Sơn do đám cướp biển huấn luyện, và đối với bọn cướp biển chức đô đốc là một ước mơ.
Một sự kiện nổi bật mà các sử gia cố tình làm ngơ là quân Tây Sơn chỉ thuần túy là giặc cướp. Từ lúc dấy lên cho đến lúc tiêu diệt cả họ Trịnh và họ Nguyễn trong hai mươi năm trời, họ không đưa ra bất cứ một chủ trương dựng nước nào; không hề có một tờ hịch nào để hiệu triệu quốc dân, hay ngay cả một tờ kể tội họ Trịnh và họ Nguyễn. Họ chỉ đánh phá và cướp bóc mà thôi, không nhân danh một chính nghĩa nào (Ở miền Bắc, Nguyễn Hữu Cầu khi nỗi loạn chống nhà Trịnh ít nhất còn xưng là “Bảo Dân Đại Tướng Quân”).
Từ năm 1771, anh em Tây Sơn lập đồn trại, bành trướng thêm lực lượng, đánh chiếm Qui Nhơn rồi tiến lên mạn Bắc đánh chúa Nguyễn. Lúc đó, dù mới mười tám tuổi, Nguyễn Huệ đã bắt đồng đảng và dân chúng gọi mình là “Đức ông Tám”. Cái lối tự xưng xấc xược này cũng là một đặc tính của đám thảo khấu. Cơ nghiệp chúa Nguyễn đã tan tác vì Trương Phúc Loan chuyên quyền nên quân Tây Sơn đánh đâu được đấy, hầu như không có kháng cự. Họ Trịnh ở ngoài Bắc lại nhân cơ hội vào chiếm Thuận Hóa. Quân Nguyễn phía Nam bị Tây Sơn đánh lên, phía Bắc bị quân Trịnh đánh xuống nên tan rã nhanh chóng. Chúa Định Vương nhà Nguyễn phải bỏ chạy vào Gia Định để Đông Cung Thế Tử ở lại. Nguyễn Nhạc bắt được Đông Cung, gả con gái cho, giả hòa với chúa Nguyễn ở Gia Định, nhưng lại ngấm ngầm liên kết với họ Trịnh xin làm tiên phong đánh chúa Nguyễn. Năm 1778 anh em Tây Sơn chiếm nốt Gia Đình, tiêu diệt chúa Nguyễn. Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Đình Vương ở Gia Định và Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương giữ mặt Bắc. Nguyễn Huệ là một tướng giỏi, nhiều công trận lại giữ mặt Bắc phòng họ Trịnh nên nắm phần lớn quân Tây Sơn trong tay.
Năm 1786, nhân lúc nhà Trịnh tan tác vì lính Tam Phủ làm loạn, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ ra đánh chiếm Thuận Hóa, trước đây của chúa Nguyễn nhưng mới bị họ Trịnh chiếm. Nguyễn Huệ chiến thắng dễ dàng rồi theo lời khuyên của Nguyễn Hữu Chỉnh, một tướng của họ Trịnh vì bất mãn mà bỏ vào theo Tây Sơn, tiến ra Thăng Long diệt họ Trịnh, dù không có lệnh của Nguyễn Nhạc. Lúc đó họ Trịnh đã suy sụp toàn bộ nên Nguyễn Huệ chiếm Tháng Long như vào chỗ không người. Nguyễn Huệ được vua Lê Hiển Tông gả con gái là công chúa Ngọc Hân và ở lại Thăng Long gần hai tháng cho đến lúc Nguyễn Nhạc từ trong Nam ra gọi về. Khi vua Lê Hiển Tông chết, Nguyễn Huệ định không cho Lê Chiêu Thống lên kế vị, thân thích nhà Lê phải nhờ Ngọc Hân xin Nguyễn Huệ mới cho. Sau đó hai anh em Nhạc và Huệ đột ngột về Nam giữa đêm, bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại với dụng ý để dân Bắc Hà giết Chỉnh vì tội đã đem quân Tây Sơn ra Bắc. Nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh chạy thoát vào Nghệ An ra mắt Nguyễn Huệ. Tuy thất vọng vì Nguyễn Hữu Chỉnh không chết nhưng Nguyễn Huệ vẫn cấp cho Chỉnh một số vàng và vũ khí lấy được ở Thăng Long để Chỉnh lập nghiệp lại Nghệ An. Nguyễn Hữu Chỉnh tự tuyển quân chiếm giữ Nghệ An.
Vua Lê Chiêu Thống lúc đó chỉ có vài quan văn và khoảng mười lính hầu. Phe đảng họ Trịnh lại trở về Thăng Long tái lập nghiệp chúa. Lê Chiêu Thống không chịu cho họ Trịnh áp bức nữa nên vời Nguyễn Hữu Chỉnh ra. Nguyễn Hữu Chỉnh dẹp được dư đảng họ Trịnh và được Lê Chiêu Thống phong tước Bằng Trung Công nắm giữ binh quyền. Trong khi Nguyền Hữu Chỉnh ra Bắc đánh dư đảng họ Trịnh thì Nguyễn Huệ lại đem quân vào Nam đánh Nguyễn Nhạc. Nhạc phải khóc lóc năn nỉ Huệ mới tha. Sau khi về Phú Xuân, Nguyễn Huệ ra lệnh cho Vũ Văn Nhậm là phó tướng của mình và cũng là rể của Nguyễn Nhạc, đem quân ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Vũ Văn Nhậm bắt được Chỉnh đem giết đi. Vua Lê Chiêu Thống bỏ chạy lưu lạc khắp nơi, chiêu tập lực lượng chống Tây Sơn. Nguyễn Huệ ra Thăng Long bất ngờ, Vũ Văn Nhậm đang ngủ trưa bị lôi ra chém. Nguyễn Huệ đặt Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Ngô Thời Nhiệm ở lại trấn giữ rồi rút quân về Nam. Quần thần và tôn thất nhà Lê sang Trung Hoa cầu cứu. Tôn Sĩ Nghị sang, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, tiến ra Thăng Long đánh bại Tôn Sĩ Nghị. Nguyễn Huệ chỉ mới làm vua được bốn năm, đang chuẩn bị đánh Trung Hoa chiếm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây thì mất năm 1792. Mười năm sau nhà Tây Sơn bị Nguyễn Ánh tiêu diệt.
Nguyễn Huệ là một con người hung bạo đánh tất cả mọi người, đó là một sự thực. Nguyễn Huệ liên kết với hai tướng cướp Tập Đình và Lý Tài đánh chúa Nguyễn rồi lại đánh Tập Đình và Lý Tài, liên kết với chúa Trịnh rồi đánh chúa Trịnh, dùng Nguyễn Hữu Chỉnh rồi bỏ Chỉnh cho dân Bắc Hà giết. Nguyền Hữu Chỉnh không chết mà lại phất lên được thì sai Vũ Văn Nhậm đem quân đánh giết Nguyễn Hữu Chỉnh, tiện thể lấy luôn Bắc Hà. Rồi lại giết Vũ Văn Nhậm. Đến cả Nguyễn Nhạc đối với Huệ vừa có nghĩa vua tôi vừa có nghĩa anh em, Huệ cũng đánh. Sau này hòa với nhà Thanh, rồi lại kết nạp bọn cướp biển đi đánh phá nhà Thanh và còn định đem quân đánh nhà Thanh. Nguyễn Huệ dùng bạo lực và sự tráo trở trong mọi trường hợp đối với bất cứ ai có khả năng trở thành một đối thủ. Việc Huệ đánh Nhạc chỉ vì hai anh em xích mích với nhau chuyện phân chia kho tàng lấy được ở Thăng Long là một hành động phản trắc và vô đạo. Nguyễn Huệ cũng rất tàn ác, các giáo sĩ thời đó dù bênh Tây Sơn cũng ghê sợ về sự tàn ác của Nguyễn Huệ và gọi ông là một thứ “Attila mới” trong những thư họ viết cho nhau. Họ kể lại khá chi tiết những việc làm dữ tợn của Nguyễn Huệ, mà khuôn khổ cuốn sách không cho phép tôi nhắc lại hết. Sau khi diệt nhà Trịnh và nói là “một tấc đất của nhà Lê cũng không lấy”, Huệ vẫn chiếm Nghệ An, vua Lê Chiêu Thống sai danh sĩ Trần Công Sán, mà Nguyễn Huệ biết tiếng và phục tài, cùng với hoàng thân Lê Án, vừa là chú vừa là thày của công chúa Ngọc Hân, mang quốc thư vào xin lại Nghệ An và cam kết hàng năm nộp toàn bộ thuế của tỉnh cho Nguyễn Huệ, nhưng Nguyễn Huệ đã không cho còn hạ ngục và gông cổ cả phái đoàn rồi đem ra biển nhận thuyền cho chết.
Nhiều người trách Nguyễn Ánh nhỏ mọn quật mồ Nguyễn Huệ sau khi đã giết con cháu, mà quên rằng hành động thô bạo này chỉ là để báo thù một hành động thô bạo trước đó: Nguyễn Huệ đã tàn sát cả họ Nguyễn và đã đào mả tổ tiên Nguyễn Ánh đem vất đi.
Một lần trong một chuyến đánh phá Gia Định, một tướng Tây Sơn bị phục binh giết chết. Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ nổi giận ra lệnh tàn sát tất cả dân chúng trong vùng, bất luận già trẻ, lớn bé, trai gái. Cuộc tàn sát đã kinh hoàng đến độ dân chúng các vùng phụ cận sau đó không dám ăn tôm cá vì sợ tôm cá ăn thịt những xác chết trôi đầy sông.
Một thí dụ khác là trận Đống Đa. Sau khi đã đánh tan quân Thanh và sợ quân Thanh quay lại phản ứng, Nguyễn Huệ ra lệnh cho dân chúng Thăng Long phải đắp xong trong vòng ba ngày một chiến lũy chung quanh để phòng thủ. Các giáo sĩ có mặt tại đó không thể nào tưởng tượng dân chúng Thăng Long có thể làm được điều đó. Nhưng họ đã làm được, họ đã làm tới kiệt sức, vì sợ bị Nguyền Huệ tàn sát, họ biết Nguyền Huệ không hề do dự trước sự chém giết. Tường xây lên xong các giáo sĩ kinh hoàng, họ đặt tên cho Nguyễn Huệ là “Attila mới” từ đó.
Các tài liệu của các giáo sĩ, và nhiều nhân chứng phương Tây có mặt tại Việt nam lúc đó, về anh em Tây Sơn hiện vẫn còn lưu giữ trong nhiều thư viện tại Pháp. Một sử gia Việt nam, ông Tạ Chí Đại Trường, đã sưu tập một số đáng kể trong cuốn sách “Lịch Sử Nội Chiến 1771-1802″ của ông. Đây là một cuốn sách nên đọc cho những ai muốn tìm hiểu về nhà Tây Sơn.
Khả năng nhìn xa trông rộng của Nguyễn Huệ cũng rất giới hạn. Nguyễn Huệ đem binh đánh làm suy yếu Nguyễn Nhạc, rồi làm ngơ để Nguyễn Ánh tiêu diệt dần lực lượng của Nhạc và Lữ ở trong Nam. Cứ bỏ qua sự tàn nhẫn với hai người anh đi thì đây cũng là một tính toán chiến lược rất chủ quan và phiêu lưu.
Nguyễn Ánh còn đang bành trướng thế lực ở trong Nam thì Nguyễn Huệ đã nghĩ đến việc đánh Trung Hoa. Thật là một ý đồ điên đại, chứng tỏ Nguyễn Huệ không có một hiểu biết chiến lược nào cả. Nếu Nguyễn Huệ còn sống để mà gây chiến với nước Tàu thì quả là đại họa cho nước ta. Cứ giả thử vua Càn Long cho không Nguyễn Huệ hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây thì ngày nay nước ta cũng đã bị xóa bỏ rồi.
Cũng nên tương đối hóa tài dùng binh của Nguyễn Huệ. Nhà Nguyễn và nhà Trịnh đánh nhau cả thảy bảy lần trong gần nửa thế kỷ, từ 1627 đến 1674, làm cho đất nước, nhất là miền Bắc suy kiệt và dân chúng chán ghét chiến tranh. Đây cũng là giai đoạn mà đạo Công Giáo và tư tưởng Thiên Chúa Giáo, sau một thế kỷ du nhập, đã phát triển mạnh, làm lung lay tư tưởng Khổng Giáo, nền tảng chính đáng của chế độ. Quần chúng Việt nam không còn nhìn các vua chúa như những đại diện của Trời mà họ phải phục tùng vô điều kiện nữa. Cả hai họ Trịnh Nguyễn đều suy thoái, việc binh bị bị bỏ rơi, người dân vừa không phục, vừa bớt sợ.
Chúa Nguyễn còn lo đánh dẹp, mở mang bờ cõi nên người dân bỏ vào miền đất hoang phía Nam lập nghiệp tránh bị bắt lính rất nhiều. Lực lượng của chúa Nguyễn vừa suy yếu vừa bị trải rộng, dần dần mất thực chất. Các băng đảng cướp lộng hành khắp nơi. Đã thế, từ thời Võ Vương (1765) trở đi, Trương Phúc Loan lại chuyên quyền làm cho triều đình tan nát. Anh em Tây Sơn, nhờ tập hợp được một sổ băng đảng, nổi lên tiêu diệt chúa Nguyễn mà không cần đánh một trận đáng kể nào.
Quân Tây Sơn đã thắng dễ dàng vì thế lực của chúa Nguyễn đã hoàn toàn tan rã chứ không phải vì lực lượng của họ mạnh. Năm 1778, lúc Tây Sơn đã diệt chúa Nguyễn và chiếm Gia Định, thế lực lên đến cao điểm làm kinh động cả nước, toàn quyền Anh tại Ấn Độ cử một chuyên viên là Chapman sang quan sát tình hình Việt nam. Chapman làm quen được với anh em Tây Sơn và được đi thăm viếng quan sát tỉ mỉ khắp nơi. Chapman báo cáo rằng thế lực của quân Tây Sơn chẳng có gì đáng kể, chỉ cần một đạo quân một trăm người mà có kỷ luật cũng đủ để đánh tan toàn bộ quân Tây Sơn một cách nhanh chóng. Xin nhấn mạnh con số một trăm và cũng xin nhấn mạnh rằng Chapman chỉ nói tới kỷ luật chứ không hề nói tới nhu cầu vũ khí tối tân.
Ở ngoài Bắc, hồi đó gọi là đàng ngoài, tình thế còn bi đát hơn. Đời sống cơ cực và cương thường đảo lộn (họ Trịnh phế lập và giết vua Lê một cách rất tùy tiện) nên cả uy quyền chính trị lẫn uy quyền đạo đức đều tan. Giặc giã nổi lên khắp nơi. Trịnh Sâm vừa tạm dẹp xong giặc thì lại say mê tửu sắc, bỏ trưởng lập thứ gây loạn ngay tại triều đình. Điều cần đặc biệt lưu ý là họ Trịnh lúc đó không còn quân đội. Chỉ một đám lính Tam Phủ, vài ngàn tên không người chỉ huy, mà muốn phá nhà ai, giết quan nào cũng được. Khi chúng nổi loạn, Quận Huy Hoàng Tế Lý trên nguyên tắc cầm mọi binh quyền, phải một mình cưỡi voi ra đánh nhau với chúng rồi bị giết. Các tướng mỗi người trấn giữ một phương, mỗi người chỉ có vai chục gia nhân, rồi dựa vào đám gia nhân này mà đi bắt lính. Có khi họ bắt được cả ngàn quân nhưng những “quân đội” ấy chỉ là những nông dân tội nghiệp không biết chiến đấu và cũng không muốn chiến đấu, hễ gặp quân địch là rã hàng bỏ chạy, có khi còn đâm chết tướng để dễ chạy. Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí mô tả khá rõ xã hội miền Bắc lúc đó. Các sứ quân đã không có thực lực mà còn hiềm khích với nhau và chẳng tuân lệnh ai. Dân gian thì hễ ai khỏe mạnh ăn cướp được là đi ăn cướp, rất ghét quân Tây Sơn nhưng gặp quan nhà Lê là bắt nộp cho Tây Sơn để lãnh thưởng. (Sau này cũng chính dân chúng bắt vua Cảnh Thịnh và các tướng Tây Sơn nộp cho Nguyễn Ánh). Nguyễn Hữu Chỉnh bị anh em Tây Sơn bỏ rơi lên thuyền chạy về Nghệ An với mấy chục gia nhân, đến nơi không dám lên bộ. Vậy mà rồi cũng đi bắt lính và thành lập được một đạo quân. Với cái “quân đội” ô hợp đó mà Nguyễn Hữu Chỉnh vào được Thăng Long như chỗ không người vì các “quân đội” khác còn ô hợp hơn nữa. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh hoành hành ở miền Bắc, Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra đánh, quân Nguyễn Hữu Chỉnh chưa đánh đã tan. Trong một bối cảnh như vậy, Nguyễn Huệ trấn áp được thiên hạ nhờ có được một đạo quân tinh nhuệ là điều dễ hiểu. Lý do thành công của Nguyễn Huệ là ông có một đạo quân thực sự trong khi các đối thủ của ông không có. Những chiến thắng như vậy không đòi hỏi một tài dùng binh nào.
Ở trong Nam có trận thủy chiến tại Cần Giờ là đáng kề. Nguyễn Huệ chỉ huy gần một trăm chiến thuyền, như vậy cũng là vài ngàn thủy quân, còn quân Nguyễn Ánh không biết bao nhiêu. Nguyễn Huệ cũng phá được quân Xiêm. Trần Trọng Kim trong Việt nam Sử lược nói rằng quân Xiêm đông tới hai vạn người. Nếu đúng như vậy thì quả là một đạo quân rất lớn vào thời đó, nhưng quân Xiêm vừa tới nước ta thì đã rã hàng, đi cướp bóc khắp nơi chàng còn đội ngũ gì cả. Nếu có một đạo quân đàng hoàng thì đánh tan chúng không khó.
Cả ba trận Cần Giờ, Mân Thít và Đống Đa đều ở rất dưới tầm cỡ của những trận đánh thời Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên, Lê Lợi đánh đuổi quân Minh. Tài dùng binh của Nguyễn Huệ là có thực nhưng chưa được chứng minh ở tầm cỡ của các danh tướng thời Trần Hưng Đạo hay Lê Lợi.
Cần nhấn mạnh để đánh tan một hiểu lầm đã kéo dài quá lâu và đã là nguyên nhân cho nhiều giải thích lịch sử gượng ép: đó là quân Tây Sơn không mạnh mà cũng không tổ chức giỏi; họ đã thắng được các chính quyền Trịnh và Nguyễn bởi vì các chính quyền này đã đi tới cuối tiến trình phân rã. Nguyên nhân sâu xa của tiến trình phân rã này là cả hai chế độ Trịnh Nguyễn đã không ý thức được rằng nền tảng của xã hội Việt nam đã thay đổi sau hơn hai thế kỷ tiếp xúc với người phương Tây, và cứ cố tiếp tục duy trì lối cai trị cũ trên một xã hội đã đổi mới.
Nguyễn Huệ chỉ mới làm vua được gần bốn năm thì mất nên tài trị nước của ông không thể bàn đến. Một việc triều đình của ông làm thường được ca tụng là hay dùng chữ Nôm. Nhưng chữ Nôm thời đó đá phát triển lắm rồi. Chinh Phụ Ngâm  Cung Oán đã ra đời trước đó và đã có Nguyễn Du. Chính Nguyễn Ánh cũng đã dùng chữ Nôm trong một số văn thư. Cũng có người nhắc đến dụ Khuyến Nông của Nguyễn Huệ, nhưng đó chỉ là một dụ bình thường lặp lại những gì các vị vua trước đó đã nói. Một biện pháp làm khổ dân chúng rất nhiều là dùng Tín Bài, một thứ thẻ căn cước, để kiểm soát dân chúng, trong mục đích bắt lính chuẩn bị đánh Trung Hoa. Biện pháp này làm dân chúng bị tham quan ô lại sách nhiễu đến nỗi nhiều người phải trốn vào rừng sinh sống để “tị nạn Tây Sơn”. Vả lại làm vua một nước đã kiệt quệ vì chiến tranh, vừa mới được một hai năm yên bình đã lo chuyện đánh nhau với một nước lớn gấp bội mình là điều mà một vị vua sáng suốt không thể làm.
Nhà Tây Sơn tuy chỉ kéo dài một thời gian ngắn nhưng đã ảnh hưởng rất lớn lên lịch sử nước ta và địa lý chính trị trong vùng.
Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chặn đứng hẳn sự bành trướng của lãnh thổ Việt nam vào đất Cam-bốt. Năm 1771, khi anh em Tây Sơn bắt đầu tấn công chúa Nguyễn cũng là năm cuối cùng mà một phần đất Cam-bốt được sát nhập vào Việt nam. Lúc đó đất Cam-bốt gần như vô chủ, các chúa Nguyễn dồn dập mở rộng lãnh thổ, nhưng cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã làm họ sụp đổ và cuộc Tây tiến của Việt nam chấm dứt. Nếu không có anh em Tây Sơn chắc chắn nước Cam-bốt không còn.
Việc thôi bành trướng về phía Tây Nam, tùy cách nhìn, không nhất thiết là một sự thiệt thòi cho chúng ta. Nhưng anh em Tây Sơn đã làm một việc khác rất lớn, rất tai hại cho chúng ta và đã khiến chúng ta là chúng ta ngày nay: đó là phá tan và chấm dứt hơn hai thế kỷ tiếp xúc và giao thương đầy hứa hẹn với thế giới bên ngoài, nhất là phương Tây.
Chúng ta bắt đầu tiếp xúc với phương Tây từ đầu thế kỷ 16, các giao thương tăng dần với thời gian. Đầu thế kỷ 18 đã có những trung tâm thương mại lớn. Ngoài Bắc có Hà Nội và Phố Hiến (thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến). Trong Nam có Hội An. Hội An có địa vị đặc biệt quan trọng, đó là trái tim của mọi hoạt động kinh tế của Đàng Trong. Quân Tây Sơn đi đến đâu cướp phá và đem chết chóc đến đó. Tệ hại nhất là việc cướp phá Hội An. Các thương nhân bỏ chạy trong kinh hoàng và mọi hoạt động kinh tế sụp đổ. Miền Trung rơi vào nạn đói chưa từng thấy, người chết vô kể, có nơi mẹ ăn xác con. Khi quân Tây Sơn ra ngoài Bắc thì Kinh Kỳ và Phố Hiến cũng tiêu tan. Cũng như tại Hội An, doanh nhân nước ngoài bỏ chạy trong kinh hoàng và không bao giờ trở lại Việt nam nữa. Cánh cửa của chúng ta khép lại với thế giới bên ngoài. Xã hội ta trở lại với bóng tối của sự lạc hậu. Kinh nghiệm Việt nam đã đen tối đến độ các thương nhân không trở lại nữa ngay cả sau khi nhà Tây Sơn đã đổ. Phần đông những người phương Tây đến sau này chỉ là các giáo sĩ.
Trần Trọng Kim là một học giả có công soạn ra bộ sử công phu đầu tiên cho nước ta. Đây là một đóng góp rất lớn cần được ghi nhận một cách xứng đáng. Trước ông lịch sử nước ta chỉ được chép một cách sơ sài và không trung thực. Điều khó tưởng tượng đối với thế hệ trẻ ngày nay là cho tới thế chiến II người Việt nam không học sử nước mình. Người học trường Pháp thì học sử Pháp, người học trường Nam thì không học sử nào cả. Tập Việt nam Sử lược ra đời đầu thập niên 1930, thường được sử dụng như một cuốn sách để học quốc văn, đã có tác dụng rất lớn. Nó đã giúp người Việt nam hiểu quá khứ của mình và tạo ra một ý thức quốc gia dân tộc. Việt nam Sử lược sau này được lấy làm cơ bản cho các sách giáo khoa sử ở cấp trung và tiểu học. Ý thức về lịch sử của người Việt nam nói chung vẫn chưa vượt quá Việt nam Sử lược.
Tuy nhiên, vì không viết sách với mục đích giảng dạy, ông Trần Trọng Kim đã không cảm thấy có bổn phận phải tuyệt đối khách quan và, đặc biệt là đối với nhân vật Nguyễn Huệ, ông đã để nhiều tâm tình và thiên kiến vào đó. Ông dựng đứng ra chuyện Nguyễn Huệ ra Bắc “phù Lê diệt Trịnh” để ca tụng Nguyễn Huệ “dứt họ Trịnh, tôn vua Lê, đem lại cương thường cho rõ ràng. Ấy là có sức mạnh mà biết làm việc nghĩa vậy” (sic). Thật là đổi trắng thay đen! Trong khi khởi chiến thì người ta thường hay mượn một danh nghĩa, điều nay chẳng có gì là lạ. Điều lạ là Nguyễn Huệ đã ngang ngược không thèm mượn một danh nghĩa nào cả. Nguyễn Huệ vâng lệnh Nguyễn Nhạc tiến ra Bắc với mục đích chiếm Thuận Hóa, rồi thấy dễ tiến luôn ra chiếm Thăng Long, không nhân danh gì cả. Nguyễn Huệ vào Thăng Long cướp kho tàng rồi rút về chỉ vì chưa nắm vững tình hình, mặc dầu cũng chiếm đất Nghệ An. Việc phù Lê chỉ là câu nói ngoài miệng sau khi diệt xong họ Trịnh và thấy tình thế chưa chín muồi để chiếm miền Bắc mà thôi. Nếu thực sự phù Lê thì Nguyễn Huệ đã không hống hách đòi quyết định việc kể lập vua Lê và đã không cướp kho, lấy đất như vậy.
Ông Trần Trọng Kim cũng dựng đứng ra con số hai chục vạn quân Thanh, không có trong một sử liệu nào, để thổi phồng tầm vóc của trận Đống Đa và ca tụng Nguyễn Huệ “đại phá quân Thanh”. (Trong hịch của Tôn Sĩ Nghị có nói lới năm chục vạn, nhưng đó, theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí, chỉ là tờ truyền đơn mà mục đích là hù dọa làm mất tinh thần quân Tây Sơn. Chính Nguyễn Huệ cũng biết đây chỉ là chuyện hù dọa). Ở một điểm Trần Trọng Kim giấu cả sự kiện. Toàn bộ việc thuật lại trận Đống Đa của ông dựa theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Nhưng trong khi Hoàng Lê Nhất Thống Chí chép rằng quân Nguyễn Huệ đi sau các bức mộc bia, cứ ba mươi người đàng sau một bức, “tất cả là hai mươi bức”, thì Trần Trọng Kim bỏ đi câu tất cả là hai mươi bức, vì như thế chứng tỏ quân Tây Sơn chỉ có sáu trăm người, mâu thuẫn với tầm vóc “hai chục vạn quân Thanh” mà ông gán cho trận Đống Đa.
Ông Trần Trọng Kim cũng kể công Nguyễn Huệ cứu nước khỏi tay quân Thanh. Thực ra chính Nguyễn Huệ đã là nguyên nhân đưa tới việc quân Thanh can thiệp. Vả lại ở đoạn trên chúng ta đã thấy vào giai đoạn đó nhà Thanh hoàn toàn không có ý định đánh chiếm nước ta, chính vì thế mà sau trận Đống Đa họ đã bỏ nhà Lê mà hòa với Nguyễn Huệ. Ngược lại nếu Nguyễn Huệ còn sống để mà gây chiến với nhà Thanh thì rất có thể nước ta đã tan hoang và mất về tay quân Tàu.
Nhờ Việt nam Sử lược mà Nguyễn Huệ được ca tụng như một đại anh hùng làm vẻ vang cho dân tộc, nhưng thực ra Nguyễn Huệ chẳng quan tâm gì đến thể diện quốc gia. Đó là một ý niệm phức tạp của giới văn học mà một người sinh ra và lớn lên trong một môi trường đặc biệt như Nguyễn Huệ không quan tâm. Ông chấp nhận sang chầu vua Thanh, lạy phục xuống đất và hôn chân vua Càn Long. Sợ nhà Thanh phản trắc hãm hại, ông cho một người giả làm mình đi thay. Nhưng dù Nguyễn Huệ thật hay Nguyễn Huệ giả thì trên danh nghĩa vẫn là vua Việt nam lạy và hôn chân vua Trung Hoa. Nguyễn Huệ cũng thường làm những “tờ bẩm” gởi cho Phúc An Khang (người thay Tôn Sĩ Nghị làm tổng đốc Lưỡng Quảng) trong đó ông tự xưng là “tiểu phiên”. Trừ trường hợp Mạc Đăng Dung, chưa có vua Việt nam nào hạ mình đến thế.
Thái độ bênh Nguyễn Huệ của ông Trần Trọng Kim có nguyên nhân sâu xa. Gần hai thế kỷ phân tranh đã tạo ra theo tị hiềm giữa miền Nam và miền Bắc. Người miền Bắc vốn không ưa chúa Nguyễn, vua Gia Long sau khi đắc thắng lại trả thù báo oán, giết hại công thần khiến sĩ phu Bắc Hà càng ghét hơn. Các vua nhà Nguyễn không nể nang mà cũng chẳng đoái hoài gì đến miền Bắc, họ chỉ dùng bạo lực để thống trị mà thôi. Việc thi cử làm sĩ phu Bắc Hà rất phẫn nộ. Bắc Hà tự hào là đất văn học nhưng nhà Nguyễn chỉ cho Bắc Hà một số cử nhân, tiến sĩ thấp hơn miền Trung. Kể từ khi Pháp chiếm Việt nam thì không cứ gì sĩ phu Bắc Hà mà sĩ phu cả nước trách nhà Nguyễn bất lực làm mất nước, nhưng sĩ phu Bắc Hà thì mạt sát nhà Nguyễn ra mặt. Ông Trần Trọng Kim là một sĩ phu Bắc Hà và sách của ông chủ yếu viết cho sĩ phu Bắc Hà, trong đó tâm lý thù ghét nhà Nguyễn rất mạnh. Nguyễn Huệ là kẻ thù của nhà Nguyễn, vừa là hung thủ vừa là nạn nhân của nhà Nguyễn. Kẻ thù của kẻ thù là bạn. Ca tụng Nguyễn Huệ chỉ là một cách để chống nhà Nguyễn.
Sự thù ghét nhà Nguyễn của ông Trần Trọng Kim rất rõ rệt. Trong Việt nam Sử lược, ông mở đầu chương nói về Tây Sơn bằng một cuộc tranh luận công khai với nhà Nguyễn về nhà Tây Sơn, ông thẳng thắn nói lý của nhà Nguyễn không phải là lý của dân tộc. Ông Hoàng Xuân Hãn còn kể rằng khi ông vâng mệnh vua Bảo Đại mời ông Trần Trọng Kim vào gặp vua Bảo Đại để lập chính phủ, ông Kim mới đầu gạt phắt đi: “Cái thằng Bảo Đại gặp nó làm gì”. Lúc đó vua Bảo Đại chưa thoái vị. Trần Trọng Kim là một nhà nho, thường thường đối xử rất khiêm cung, phải thù ghét lắm ông mới gọi vua bằng thằng.
Từ 1945 trở đi khi cuộc tương tranh quốc-cộng nổ ra, Nguyễn Huệ lại được thêm một đồng minh mới, mạnh hơn nhiều lần ông Trần Trọng Kim: Đảng cộng Sản Việt nam. Đảng cộng sản ca tụng Nguyễn Huệ đủ điều (một cuốn sách do chính quyền cộng sản xuất bản để ca tụng Nguyễn Huệ có tựa đề là “Đường Gươm Nhân Ái”) và đã dồn nỗ lực đưa hình ảnh Nguyễn Huệ anh hùng áo vải vào quần chúng vì mục đích tuyên truyền. Tôn vinh Nguyễn Huệ là phủ nhận nhà Nguyễn, mà vua Bảo Đại của nhà Nguyễn lại đứng đầu phe quốc gia cho nên tôn vinh Nguyễn Huệ cũng là hạ nhục phe quốc gia. Hình ảnh “áo vải cờ đào” (cờ đào thì có nhưng áo vải thì không) cũng rất thuận lợi cho cuộc “cách mạng vô sản”. Nguyễn Huệ cũng tiêu biểu cho những giá trị nền tảng của đảng cộng sản: bạo lực và chiến tranh. Cả Nguyễn Huệ lẫn đảng cộng sản đều đã làm khổ dân chúng và làm đất nước suy kiệt, sự chính đáng của cả hai chỉ dựa trên những chiến thắng quân sự. Các đô đốc của Nguyễn Huệ cũng thuộc “thành phần cơ bản”, nghĩa là cũng không thuộc giới văn học như các cán bộ nòng cốt của đảng cộng sản. Nguyễn Huệ cũng hành động như đảng cộng sản. Cũng dựa vào một thiểu số có đội ngũ để khống chế cả nước, cũng thẳng tay tiêu diệt mọi phần tử có thể trở thành đối thủ, cũng bất chấp mọi đau khổ của dân chúng và những đổ vỡ cho đất nước, cũng tráo trở và lật lọng với cả đồng minh và đối thủ. Chừng nào Nguyễn Huệ còn là thần tượng của người Việt nam chừng đó đảng cộng sản vẫn không thể bị phủ nhận dứt khoát, dù có bị thù ghét đến đâu đi nữa. Hình ảnh Nguyễn Huệ đã đóng góp rất nhiều cho thắng lợi của đảng cộng sản và vẫn còn giúp đảng cộng sản duy trì một chỗ đứng nào đó trong lòng người Việt nam. Sau 1975, các lãnh tụ lớn của đảng cộng sản đều đến làng Tây Sơn trồng một cây để tỏ lòng tôn kính với Nguyễn Huệ mà họ coi gần như một thánh tổ của đảng.
Tôn thất và triều thần nhà Nguyễn đã không thể tranh cãi về Nguyễn Huệ vì nếu tranh cãi về Nguyễn Huệ thì cũng phải bàn đến vua Gia Long và những hành động không đẹp của ông. Sau Bảo Đại ông Ngô Đình Diệm cũng tránh đề cập đến các vấn đề lịch sử vì thân thế của chính ông. Ông là bày tôi nhà Nguyễn và thuộc dòng dõi bày tôi nhà Nguyễn, và hơn nữa ông làm quan dưới chế độ Pháp thuộc chứ không tham gia đấu tranh giành độc lập. Ông không có thế đứng mạnh để tranh cãi về lịch sử và có lẽ cũng chẳng hiểu biết gì về lịch sử. Các tướng tá cầm quyền sau ông Diệm đều là những người không có “chỗ đứng lịch sử” vẻ vang vì trong đại bộ phận họ đã từng ở trong quân đội Pháp. Vả lại họ hoàn toàn không quan tâm đến văn hóa và lịch sử. Nói chung phe quốc gia không nhìn thấy cả một chiến dịch tâm lý chiến của phe cộng sản đằng sau việc thổi phồng và tôn sùng Nguyễn Huệ.
Còn các sử gia? Phải tiếc rằng họ đã có đủ tài liệu, mà đôi khi họ cũng đưa ra một cách lẻ tẻ, nhưng họ đã không có can đảm đính chính một sai lầm lịch sử, mặc dầu sai lầm này đã có tác dụng rất độc hại trên số phận của dân tộc.
Người Việt chúng ta có một đặc tính là bất cứ điều gì dù sai đến đâu mà được chấp nhận trong một thời gian cũng trở thành một chân lý khó lay chuyển. Không những chấp nhận mà chúng ta còn khó chịu khi có người đặt lại vấn đề. Chúng ta cũng có tâm lý “dĩ hòa vi quí”, hễ điều gì bất luận đúng hay sai mà mọi người đã cho là đúng thì đừng nên cãi nữa, chỉ gây bất hòa vô ích. Đôi khi sự gắn bó với thành kiến còn đi đôi với thái độ bất dung, hằn học đối với những người đề nghị xét lại một thành kiến. Và như thế sự sai lầm cứ tồn tại.
Tôi không phải là sử gia cũng không phải là nhà nghiên cứu. Tôi là một người hoạt động chính trị, và là một người hoạt động chính trị rất thiếu thì giờ, do đó tôi chỉ đề cập đến những vấn đề có liên hệ đến cuộc vận động dân chủ hiện nay. Tôi đặt lại vấn đề Nguyễn Huệ bởi vì sự tôn sùng ông đã có ảnh hưởng lớn trên số phận dân tộc và vẫn còn đang ngăn cản một chuyển biến tư tưởng cần thiết. Nguyễn Huệ tiêu biểu cho những giá trị mà chúng ta cần đánh đổ: võ biền, độc đoán, hung bạo, lật lọng và trái ngược với những giá trị mà ta cần phát huy: hòa bình, bao dung, hòa giải, lương thiện. Tôn sùng Nguyễn Huệ là một tâm lý rất tai hại mà ta cần chấm dứt. Hơn thế nữa, nhân vật Nguyễn Huệ thực sự lại không phải như vậy.
Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh, Lê Chiêu Thống, v.v… đều là tổ tiên chúng ta cả. Chúng ta phải chấp nhận họ như là quá khứ và cội nguồn của chính chúng ta. Không ai lựa chọn tổ tiên, phủ nhận tổ tiên là phủ nhận chính mình, nhưng bóp méo lịch sử là một chuyện khác. Lịch sử vừa là tấm gương soi chân dung của một dân tộc vừa là một kho kinh nghiệm để học hỏi và quyết định những chọn lựa cho tương lai. Bóp méo lịch sử chúng ta sẽ không còn biết mình là ai và sẽ phải làm việc với những tài liệu sai. Không, tôi không có ý định làm ngược lại điều mà ông Trần Trọng Kim và đảng cộng sản đã làm, nghĩa là đả phá Nguyễn Huệ vì một dị ứng hay một mục đích chính trị. Nguyễn Huệ như thế nào chúng ta cứ chấp nhận ông như thế. Chúng ta có một nhân vật Nguyễn Huệ đã nổi loạn, gây nhiều máu lửa và tang tóc, đã chiến thắng các đối thủ, đã lên làm vua, rồi chết sớm và con cháu bị tiêu diệt. Đó là sự kiện. Nhưng thần tượng Nguyễn Huệ thiên tài quân sự, anh minh sáng suốt và nhân nghĩa chỉ là một sự xuyên tạc lịch sử có dụng ý.
Không nên nghĩ rằng các vấn đề văn hóa và lịch sử không gắn bó mật thiết với vận mệnh của một dân tộc. Qua Nguyễn Huệ chúng ta đã dung túng một số giá trị độc hại góp phần quan trọng tạo ra số phận bi đát hiện nay của đất nước.
Cách đây năm nghìn năm, sắc dân Phénicien đã là những người tiến bộ nhất. Họ đã là người đầu tiên chinh phục biển cả, chế ngự cả vùng Địa Trung Hải và lập ra cả một nền văn minh thương nghiệp. Nhưng họ thờ thần Ham mon, thần chiến tranh và bạo lực. Sự hung bạo đã khiến họ tự hủy diệt và bị tiêu diệt sau đó. Tôi đã thăm di tích Carthage. Chỉ còn lại những bức tường đổ nát và những dấu vết của những tập quán ghê rợn. Thay đổi biểu tượng là thay đổi các giá trị nền tảng của xã hội, là thay đổi cách ứng xử, và cuối cùng thay đổi số phận của một dân tộc. Đối với những quốc gia đang bế tắc vì đã là nạn nhân của những giá trị độc hại đó cũng là một bắt buộc.

Mùa mưa gai sắc 

Tôi biết Huệ đã lâu. Từ lúc Huệ còn niên thiếu, những trận mưa rào còn bất chợt đổ về qua qua ấp Tây Sơn, thứ mưa nóng và ẩm của vùng Qui Nhơn sỏi đá. Suốt quãng đời niên thiếu, hình như Huệ chỉ đi chơi xa có hai lần. Một lần lên Phú Xuân và một lần bơi xuồng băng ngang đầm Thị Nại. Cả hai lần, lần nào cũng có hai anh lớn của Huệ: Nhạc và Lữ. 
Hôm ấy ám trời, cả một mặt đầm gợn sắc mây, mưa lướt thướt mỏng như những cánh chuồn rù rì vẩn vơ trên mặt nước. Nhạc bản tính tục tằn không ngớt lầm bầm trong miệng, quở trách trời đất. Nhạc quở những hạt mưa nhỏ mọn đương vãi xuống khoang thuyền làm hỏng cuộc vui. Lữ không nói gì, chỉ im lặng nhìn những cánh bèo nổi lặng lờ như không muốn trôi, trong ba anh em Lữ là người ít cá tánh nhất. Ánh mắt Lữ, lúc nào cũng phảng phất nghĩ ngợi, một chút buồn, một chút thiền vị vu vơ, chứa mà không chứa đạo Phật. Đợi Lữ leo lên ngồi rồi Huệ mới lấy sức, dẫm chân xuống nước, đẩy xuồng cho xa bờ. Những đám lau lác đác, già nua, xanh điệp tách dần ra cho đến lúc không còn trông thấy nữa. Nhạc làu bàu hối Huệ bơi ra giữa đầm. Nhạc ngồi ở mũi xuồng, đúng chỗ, đúng vai vị của người con cả. Đầm Thị Nại không biết tự thưở nào mang tâm trạng u uất ui ui trên mặt nước, ngay dưới mưa cũng phẳng lì không gợn sóng. Tiếng động duy nhất phát ra từ mái chèo khoắng nước trong tay Huệ. Huệ cũng ít nói, nhưng không câm lặng như Lữ, chỉ nói những khi cần, cùng những gì đáng nói. Tôi ngắm những bắp cơ trên cánh tay Huệ thong thả nhịp nhàng dầm mái, rồi vạc nước về sau, nhấc lên rồi lại thả xuống, cử động thuần nhất đến độ trông như Huệ không hề chú tâm đến việc bơi xuồng. Nhưng có nhìn vào đôi mắt Huệ thì mới biết Huệ tập trung lắm. Hướng xuồng đi không chệch, không lệch về trái, không thả sang phải, thẳng tắp theo một hướng đi mà Huệ tự chọn lấy. 
Mặt nước u tịch, im lìm, chốc chốc lại vang tiếng khạc nhổ của Nhạc. Nhạc mắng Lữ và Huệ chọn đi đâu không đi, ra chỗ buồn tênh. Thái độ gắt gỏng cộc tính của Nhạc, hơn một thói quen, thành thứ nền nếp trong nhà đến độ Lữ và Huệ không buồn chú ý. Suốt buổi đi chơi, ba anh em không ai vãn chuyện. Gần về, Huệ chỉ nói một câu duy nhất: 
- Nước ở đầm này bao nhiêu đời không thay, vừa đục, vừa tanh, mai mốt có quyền chức, tôi sẽ cho thay nước. 
Nhạc đang ngồi xếp bằng ở mui, nghe Huệ nói, liền khạc thêm đờm xuống đầm, cho là chuyện không đâu. Còn Lữ nói một câu vô thưởng vô phạt: 
- Đầm này không sạch bằng cửa sông đổ ra An Nhơn. 
Huệ cũng không bằng lòng, gắt: 
- An Nhơn cũng không sạch. 
Những khi giận, hai tròng đỏ trong mắt Huệ lập lòe lửa, tất cả thần khí dữ dội hiện lên ở đồng tử, nên nhìn rất sợ. Nhạc và Lữ biết rõ tánh Huệ nên im lặng không nói thêm điều gì. Đoạn đường từ đầm về bờ, chỉ còn tiếng mái chèo Huệ sục sạo cắm xuống mặt nước. Sông xẻ hai bên mạn xuồng, trong ba anh em bao giờ Huệ cũng là người cầm mái, tạo ra sóng. 
* 
Lần ra Phú Xuân thứ nhất, trong đời Huệ, có lẽ cũng là lần quan trọng nhất. Phú Xuân ở vào thời điểm đó mang sắc đẹp của một người đàn bà cực kỳ sắc sảo, nhưng đã chung chạ quá nhiều, sau bao nhiêu đời chồng đâm ủ ê, bệ rạc. Song trong đôi mắt của Huệ, xuyên qua cặp mắt của Lữ, trước cái nhìn ham muốn của Nhạc, Phú Xuân giữ nguyên vẹn nét lộng lẫy, thứ lộng lẫy tìm thấy trên yếm gấm viền thêu mà những người con gái ở ấp Tây Sơn, huyện Phù Ly không có để mặc trên mình. Hôm ba anh em Huệ tới Phú Xuân, trời cũng vần mưa, nhưng không phải thứ mưa dông cẩu thả, ít nước nhiều hơi không đủ làm mọc những ruộng lúa phì nhiêu quanh thành Qui Nhơn. Mưa ở Phú Xuân là những váng mưa ngà ngọc, buông như buông trướng, kiêu sa đổ đều lên mái tường thành cung điện của Nguyễn Vương. Nhạc đã trưởng thành, nhưng không bao giờ chững, không đủ sức kềm chế trước vẻ lẳng lơ lộ liểu, da thịt mời gọi của Phú Xuân. Vẫn bản chất tham lam của người đã chọn cho mình nghề biện lại, Nhạc vỗ đùi rồi để bàn tay ở lại tự mân mê như đang sờ nắn chỗ kín của một người đàn bà chốn kinh kỳ: 
- Trên đời được làm Nguyễn Vương thì mới đáng sống! 
- Anh làm Nguyễn Vương cho tôi một chỗ trong cung, tôi thích dãy lầu nóc giá chiêng phía hữu. 
Lữ cảm hứng từ tham vọng của Nhạc, góp ý. 
Mưa vẫn ướt mặt ba người. Những hột mưa đài các lạnh lẽo tiếp tục rưới xuống dinh thự nhà Chúa. Song mưa không làm tắt nỗi ánh lửa cháy rập rờn trong đôi mắt Huệ. Tia lửa ngời lên như muốn táp vào mặt Nhạc. 
- Sống chỉ ao ước như Nguyễn Vương là một kiếp sống ngu xuẩn. Mà được như Nguyễn Vương cũng chưa phải là tất ! 
Nhạc quay phắt lại, giận gữ vì bị xúc phạm, nhưng chất cộc cằn thô tục ngồn ngộn trong con người Nhạc chưa kịp phát ra đã chạm phải ngọn lửa nóng bỏng ở đôi mắt Huệ đành nén giọng, chỉ rít qua kẽ răng: 
- Thế nào mới không ngu xuẩn, mới gọi là tất ? 
- Giết Nguyễn thì được Nguyễn, giết Trịnh thì được thêm Trịnh, Nam lẫn Bắc Hà thế mới gọi là Đế ! 
Buổi trưa ở Phú Xuân, Huệ khơi dậy lần đầu tiên ý niệm vương đế. Cái ý niệm phải thực hiện để khỏi sống kiếp người ngu xuẩn. Năm đó Huệ chỉ mới mười sáu tuổi, lứa tuổi thật thà và hay ước vọng. Huệ mơ ước, nhưng không đủ thật thà để nói với Nhạc cái người dẹp Nguyễn, diệt Trịnh xưng Đế phải là mình. Sau này khi đã toại ước, Huệ cũng không còn là Huệ ở đầm Thị Nại, ao ước có quyền chức để thay nước đầm đã quá cũ kỹ, nổi rêu xanh. Huệ chỉ nghĩ tới việc giết người để lấy phần người chết. Ở khía cạnh đó thì Huệ vẫn mãi mãi là Huệ. Nhưng có điều Huệ không ngờ ở đất Bắc Hà, có một người cũng nghĩ như Huệ. Song đó lại là chuyện khác. 
* 
Tháng sáu năm Bính Ngọ 1786, Thăng Long như bầy heo nái nằm đợi người tới giết. Tâm trạng của vua Lê Hiển Tông trong cung Vạn Thọ là tâm trạng của con heo nái xề suốt bốn mươi bảy năm ở ngôi, chỉ làm nổi một việc là cho thê thiếp lâm bồn hai mươi mốt vị công chúa. Cảnh Trịnh Khải bị thọc tiết ở làng Hạ Lôi, tỉnh Phúc Yên sau khi bại trận thê thảm trước quân Tây Sơn ngay cửa Tây Long, càng làm long thể vua Lê thêm bất an, hoang mang, cực kỳ lo lắng. Trong khuê phòng, Ngọc Hân như lửa cháy. Suốt mấy đêm liền, canh này qua canh khác, Ngọc Hân bồn chồn trong tiếng trống giục điểm canh. Đã đành cái tin Trịnh Khải mất mạng ở làng Hạ Lôi làm nàng thỏa mãn. Ngọc Hân không ngớt bắt kẻ hầu kể đi kể lại chi tiết cảnh Trịnh Khải rút dao tự đâm cổ chết. Máu Trịnh Khải đỏ gấc? đỏ bầm? hay đỏ tươi như thảm điều lót chân cho Khải mỗi lần hắn ghé qua cung Vạn Thọ? Trịnh Khải trong mỗi bữa ăn ở phủ Chúa, khi yến tiệc tàn thường vung tay quát tả hữu: 
- Đem mấy cân thịt thừa qua cung Vạn Thọ kẻo lão già chết đói! 
Ngọc Hân nhớ đời những câu mỉa mai ấy. Hai bàn tay nàng bấu chặt lấy tấm màn nhung vì phẫn. Ngọc Hân đã thề độc sẽ rửa mối nhục cho vua cha, nhưng bay giờ Trịnh Khải thác rồi, mà không bởi tay nàng, khiến Ngọc Hân tuy thỏa mãn nhưng chưa hả dạ. Nụ cười trên môi Trịnh Khải, nụ cười mang nốt ruồi dư giật giật mỗi khi chiếc cằm bạnh ra phán lệnh còn sống trong trí não Ngọc Hân. Nàng nghiêng người nắm ghì lấy tay nhũ mẫu, giọng kích động : 
- Rồi sao nữa? Máu hắn chảy nhiều không? Hấp hối trong bao lâu? Có rống gào không? 
- Bẩm nghe bảo Chúa đau đớn lắm, lúc chết gào tên "Huệ". 
Thoắt cái, Ngọc Hân buông tay nhũ mẫu. Tấm trướng bao phủ đất không che được những nghĩ ngợi rối rắm trong đầu Ngọc Hân chỉ trực trào ra ngoài. Nhũ mẫu nàng vẫn nhắc đến tên con người đã làm kinh thiên động địa đất Bắc Hà. Nguyễn còn, Trịnh còn, thì Lê không phất. Nguyễn vong, Trịnh diệt, nhưng còn Tây Sơn thì Lê cũng mạt. Tất cả bỗng trở nên giản dị trong đầu Ngọc Hân. Nàng với tay lấy tráp phấn son rồi gọi nhũ mẫu đi lấy xiêm áo cho mình. 
Năm Bính Ngọ, Ngọc Hân chỉ mới mười sáu tuổi, nhưng mang tất cả nhan sắc của Bắc Hà. Ngọc Hân biết mình đẹp, và biết sắc đẹp là vũ khí duy nhất của người đàn bà. Nàng dồi phấn lên mặt, chăm chỉ chuốt lông mày. Những ngón tay tỉ mỉ kẻ viền mắt, đánh thật sắc khóe mắt vốn đã sắc lịm bén như nước lam nhìn ai thường hớp hồn kẻ đó. Ngọc Hân không vội, chậm rãi dồn hết công phu vào việc trang điểm. Lúc bà nhũ mẫu mang xiêm y tới sau lưng, người bà chợt rợn lên vì hình ảnh lúc ấy trước mặt, không phải hình ảnh điểm trang thông thường, mà là cái cảnh của một người con gái sắp thành đàn bà ngồi đánh mắt như đang mài dao, mải miết cho đến lúc bản thép nhọn, bén ngời. 
Ngọc Hân thay áo, thứ hàng lụa mỏng mát rượi chảy mềm trên thân thể nàng. Dăm cánh hoa cúc vàng điểm lăn tăn ở chéo áo như hé mình bung cánh nở đẹp lạ thường ở mỗi bước chân uyển chuyển của Ngọc Hân. Hôm nay Huệ và Chỉnh vào gặp vua Lê. Ngọc Hân quát nhũ mẫu lấy giấy bút cho mình làm vội bài phú để lấy lòng Huệ. Ngọc Hân chấm bút vào mực, nóng nảy viết thoăn thoắt một lúc 164 câu. Trong lúc sơ ý, nàng để ống tay áo nhúng vào liễn mực thấm loang một góc. Đến khi đọc lại đến đoạn mà nay áo vải cờ đào... mới chợt nhận thấy tay áo mình bị ố. Chỗ lụa lấm đen làm nàng khó chịu, toan đi thay, nhưng rồi chợt nghĩ biết đâu chỗ mực lem ấy sẽ làm Huệ cảm động. Ngọc Hân đọc lại bài phú, lời lẽ nhún nhường mà sắc, các thanh chập vào nhau như tiếng dây chuông rung ở cửa lầu phủ Chúa. Huệ là kẻ biền võ, nhưng đọc thì ắt phải xúc động. Đã có tiếng trống hiệu đón người ngựa của Tây Sơn vào cung Vạn Thọ, Ngọc Hân búi lại tóc, tra thêm chiếc trâm cài có nạm ngọc, dấu hiệu của trinh tiết không thể thiếu trong buổi ra mắt đầu tiên. Âm trống chưa dứt và tiếng đập mạnh của trái tim trong lồng ngực làm nàng nghe như tiếng chân Huệ dõng dạc bước lên điện. Cái con người đang nắm vận mệnh Bắc Hà, Ngọc Hân quyết chiếm cho bằng được, trả bất cứ giá nào kể cả bán thân xác. Nhũ mẫu gọi hai tỳ nữ đi theo nàng, lúc ra khỏi khuê phòng, Ngọc Hân không quên đem theo bài phú xếp trong áo. 
* 
Hữu đô đốc Tây Sơn Nguyễn Hữu Chỉnh dõng dạc đi lại, điệu bộ của con lang đi theo chấm mút bữa ăn còn sót của hổ. Khuôn mặt Chỉnh dài, cái cằm nhọn, cánh mũi mỏng quá độ dễ làm liên tưởng đến mỏ quạ. Chỉnh nói chuyện nhưng không nhìn Hiển Tông xem như không có. Ngọc Hân vừa giận, vừa thất vọng. Huệ không đến, Chỉnh đi lại một mình bàn chuyện tấn phong Nguyên Súy cho Huệ ở điện Kính Thiên. Vua Lê – con heo già – chỉ biết giương đôi mắt lờ đờ thở ì ạch, tán đồng, thứ công việc mà người ta đãi công bằng chiếc ngai sơn son thếp vàng lâu ngày tróc lở như lên hủi. Xong chuyện, Chỉnh cho vua Lê lui gót rồng, còn lại một mình hắn cười khẩy săm soi sàm sỡ nhìn Ngọc Hân. Khóe miệng Chỉnh khinh khỉnh, khẽ nhếch lên đuổi hết tả hữu ra ngoài, đai áo óp vào rồi phình ra theo nhịp thở có mùi trầu cay bám đỏ ở những kẽ răng Chỉnh mỗi lúc gần sát mặt Ngọc Hân. Chỉnh đưa đẩy mấy câu vu vơ bàn chuyện hôn nhân sắp tới, tia mắt chỉ chực dịp là thả vào ngấn cổ Ngọc Hân để đo lường sắc trắng của da thịt với vải lụa bạch. Ngọc Hân nhìn trừng Chỉnh, nhưng cái thế của nàng chưa cho phép đối đầu với Chỉnh. Chỉnh nắm Ngọc Hân như nắm chuôi dao, muốn chém vào đâu thì chém. Chỉnh xòe một bàn tay trước mặt Ngọc Hân, bàn tay có đeo chiếc nhẫn khảm phượng, phần thưởng thi Hương Cống của vua Lê ban cho Chỉnh lúc xưa. 
- Thiên hạ vạn kẻ, nhưng nhân tài ở đất Bắc Hà chỉ một mình ta. Ta về với Tây Sơn, Bắc Hà chỉ là cái đất không! 
Chỉnh hầm hè. 
Chưa rõ Chỉnh muốn gì, Ngọc Hân nửa muốn bước lùi một bước để tránh hơi thở ám mùi trầu lẫn mùi giềng của gã, nhưng lại sợ Chỉnh khi mình chịu kém, nàng dùng dằng chưa biết tính sao. Chỉnh lại cất giọng: 
- Cuộc hôn nhân này, phú quý vinh hoa chỗ nằm bên cạnh Thượng Công thì chớ quên ta. 
Chỉnh vừa nói, bất ngờ chụp lấy vai Ngọc Hân, rồi lợi dụng Ngọc Hân đương bối rối, Chỉnh luồn ngay tay vào trong yếm ghì chặt lấy ngực nàng. 
- Buông ra! 
Ngọc Hân vùng vẫy, đẩy Chỉnh, cố lùi ra sau nhưng lưng đã chạm bức chắn bình phong. Vừa hổ ngươi, vừa nhục, Ngọc Hân vung tay tát trái Chỉnh. Song Chỉnh phản ứng bằng tất cả nhanh nhẹn tốc chiến của thủy quân Tây Sơn, bẻ quặt lấy tay nàng. 
- Tri hô cầu cứu đi! Để cho Thăng Long rõ cái nhục của cung Vạn Thọ! 
Chỉnh chồm người, gầm gừ, đầy đắc thắng, bàn tay vẫn luồn trong yếm đào, vừa mân mê, vừa đe dọa. Thư phòng vắng người, như tất cả đang đồng lõa với Chỉnh. Một bức hoành phi sau lưng Chỉnh chạm lộng đôi Giao Long đang cấu xé nhau như hoạt cảnh diễn ra. Ngọc Hân giận tím mặt. Bàn tay Chỉnh đọng mồ hôi ẩm ướt trên da thịt khiến nàng lợm giọng. Ở người con gái khác sẽ là mối nhục ngàn đời đưa đến tự vẫn, nhưng với Ngọc Hân đó là lối xử ngu xuẩn. Máu nóng dồn lên làm đôi mắt nàng vốn sắc sảo càng thêm sắc. Tia mắt Ngọc Hân dữ dội đến độ, đương suồng sả, Chỉnh lặng đi, choáng người, phải rút vội tay. Ngọn lửa đằng đằng sát khí trong mắt Ngọc Hân, Chỉnh đã trông thấy nhiều lần trong đôi mắt Huệ. Đôi mắt của kẻ hiếu sát, đã quả quyết làm gì là làm cho đến cùng. Châu thân Chỉnh lạnh toát, mồ hôi bất ngờ vả ra ở sống lưng. Ánh mắt đương cháy lập lòe của Ngọc Hân rõ ràng là ánh mắt của Huệ, cái nhìn trừng phạt của Huệ trước cảnh hành quyết. Lần vào Gia Định tàn sát tập thể các chú khách, Huệ đã nhìn những xác người Minh Hương bằng cặp mắt của Ngọc Hân đang nhìn Chỉnh lúc này. Chỉnh cảm thấy khó chịu, khô ở đầu lưỡi, gượng gạo sửa lại đai áo. Ngọc Hân tiếp tục nhìn trừng trừng cho tới lúc Chỉnh phải quày quả bỏ ra. Ngọn gió luồn từ cánh cửa Chỉnh không khép thổi lùa thốc qua gian phòng. Những lá thế kỳ, cườm hoa mừng chiến thắng Tây Sơn diệt Trịnh treo khắp nhà như cung Vạn Thọ đang có lễ tang. Khuôn mặt Ngọc Hân vẫn tím xanh vì giận dữ. Nếp vải xổ ở ngực áo như còn bày năm dấu tay Chỉnh in trên mình nàng. Ý nghĩ căm ghét quan lính Tây Sơn càng tăng trong đầu Ngọc Hân. Đến lúc nắng xếch qua riềm cửa, rọi lòe khóm trúc trồng ở chậu đồng, Ngọc Hân mới bỏ vào trong, nhưng bàn tay Chỉnh cũng đã theo nàng vào khuê phòng. 
Suốt trưa đó, Ngọc Hân bứt rứt, khó chịu, ý nghĩ có mối thù chưa trả làm nàng như đứng trên giàn hỏa. Đến chiều, bức bối không sao chịu nổi, Ngọc Hân sai thị tỳ cùng nô tài khiêng kiệu đưa nàng ra cửa Tuyên Vũ xem bêu xác Trịnh Khải. Tất cả những uất ức của Ngọc Hân như được trút ra khi trông thấy thủ cấp nhà Chúa. Đầu mắc một nơi, xác phanh một góc. Cả xác của Nguyễn Noãn gia thần Trịnh Khải và Đỗ Thế Long bị quy phản dìm chết ở sông Phú Lương cũng được vớt về căng lên cho mọi người làm gương. Ngọc Hân nhìn ngắm chăm chăm từng nét mặt của Trịnh Khải, từ cặp mắt trợn ngược, nốt ruồi dư mà lúc sinh tiền Khải thường hay vân vê, đến lỗ dao sâu hoắm ở cổ họng và những sợi gân còn vướng mắc đong đưa lòng thòng bên dưới. Ngọc Hân cảm thấy hả dạ, cúi xuống lần lần khăn san cầm ở tay ra vẻ xúc động, nhưng kỳ thực là để che dấu nụ cười thỏa mãn, cực sung sướng. Lần đầu tiên nàng khám phá ra hiệu quả của những xác chết có thể giải bày mọi uất ức trong người mình. Ngọc Hân lấy móng tay vẽ mơ màng lên khăn tay. Hai gã nô tài đợi lâu, dợm chân định đưa kiệu về, Ngọc Hân đã ngửng phắt lên bắt ngừng, để nàng được dịp ngắm Trịnh Khải cho thỏa thích. Nhưng lần này ở chỗ móc xác Trịnh Khải, Ngọc Hân mường tượng ra thủ cấp của Chỉnh. 
* 
Đám cưới của Huệ sau chiến thắng vang dội được xem là một ngày trọng thể. Trong phủ Chúa, binh lính Tây Sơn tạm đóng đại bản doanh, người con rể của Thăng Long đi lại với tất cả dáng vẻ của một con hổ sau bữa tiệc hoẵng. Huệ ở thời kỳ này đã khác xa Huệ của Thị Nại, hay Huệ của Phú Xuân. Trong phủ Chúa, chốn sang trọng lộng lẫy nhất Thăng Long từng mảng da beo lớn trải làm thảm lót chân, Huệ đi lại trên đó và khạc nhổ cũng trên đó. Những tấm khiên lớn bằng đồng bóng loáng soi khuôn mặt Huệ đỏ sần lên vì rượu. Tả đô đốc Vũ Văn Nhậm nhắc: 
- Sắp tới giờ, Thượng Công nên đi rước dâu. 
Huệ đang dùng đoản đao bổ đôi quả cau, quẹt vôi rồi ăn sống, buông đao, ngửng lên nhìn Nhậm. Huệ thấy Nhậm y như lời Chỉnh thường rỉ tai: Vũ Văn Nhậm hữu dõng vô mưu, đầu óc trống trải, tựa như một cánh đồng khô, không hoa, không lúa. Huệ gắt: 
- Ta dẫn mấy vạn quân ra đây, đánh một trận dẹp yên thiên hạ, lão già họ Lê, dòng họ, ngai vàng lão thuộc về ta như trâu bò, đất đai, người ngợm của Bắc Hà. Việc gì phải đi đón! Đem con nộp thì ta lấy! 
Chỉnh từ nãy ngồi ở ghế trường kỷ, không ngớt rót rượu cho Huệ, nghe Nhậm bị mắng, khẽ nhếch môi nhưng không cười. Chỉnh vươn tay bẻ một nụ vạn thọ cắm vàng hoe trong lọ độc bình. 
- Ý của Tả đô đốc là muốn Thượng Công giữ tiếng. Bề ngoài mình vẫn mang danh nghĩa phù Lê. Sá gì cái chức Nguyên Súy, Dực Chính Phù Vận Uy Quốc Công. Ngai vàng của Hiển Tông, Thượng Công muốn ngồi lúc nào bọn tôi cũng kéo sẵn! 
Mấy lời của Chỉnh làm đẹp lòng Huệ. Đang bẳn gắt, Huệ trở ra vui. Lại dùng đoản đao chém cổ bầu rượu. Hiểu lòng Huệ như Chỉnh, thiên hạ không có mấy người, kể cả Ngô Thì Nhậm sau này khi Huệ ra Bắc lần thứ nhì thu phục được. Vui vẻ nên Huệ trở nên hào phóng, trở lại trướng ngồi. Sau lưng Huệ là một tấm cờ đào to bản vẽ chính giữa một chữ "Tâm" thật lớn. Huệ vẫn hãnh diện về cách đãi người của mình, không "Dũng", không "Mưu", nhưng chính cái "Tâm" mà Huệ tự nhận là thiên tài lớn. Quân Tây Sơn đi đến đâu, Huệ cấm không được tơ hào, nhưng dân các vùng phải nuôi ăn và cúng góp. Huệ sai Nhậm: 
- Thằng Chỉnh nói hợp ý ta ta. Ngươi xuất kho hai trăm lạng vàng, hai nghìn lạng bạc, hai chục tấm đoạn mang sang cung Vạn Thọ, nói là của ta thí cho! 
- Lễ vật cầu hôn của Thượng Công dâng lên Hiến Tông. 
Chỉnh chữa lại. 
Nhậm từ nãy nóng bừng mặt vì mấy lời bàn của Chỉnh, nhưng vốn chậm chạp, còn lúng túng chưa kiếm được cách "phóng trả lao", thì Huệ đã giục: 
- Thằng chết bầm! Còn đứng đó! 
Nhậm vội vã cúi chào lãnh mệnh đi. Nhậm đi khuất, chất hào phóng trong người Huệ cũng tan đi. Huệ đâm tiếc của, nhưng ngại nói ra mất mặt trước bề tôi, đành hỏi vờ: 
- Ta xuất kho nhiều như thế, liệu đủ chăng? 
- Thấm vào đâu! 
Chỉnh vẫn vân vê nụ vạn thọ, trả lời. Những cánh vàng mềm mềm áp trong tay khiến Chỉnh vụt nhớ tới Ngọc Hân, nhớ sắc đẹp mê hồn mà sắc sảo, Chỉnh lỡ đụng vào đứt tay, vết thương không khép miệng. Tự nhiên Chỉnh ghen tức với Huệ, vò nát nụ vạn thọ, mỉa: 
- Dân Bắc Hà chăm cúng góp. Thượng Công muốn bao nhiêu trong kho cũng có! 
Nhưng Huệ không hiểu thâm ý, mãn nguyện ngả người lên bệ Chúa. Cuối tháng sáu, tiết trời Thăng Long đã chực bước sang tháng bảy nên hầm bức. Huệ cởi hẳn chiến bào nằm duỗi người dang vai như dáng nằm của loài hổ chùi mình trên cỏ trước cơn rượn đực. Chỉnh biết ý Huệ không còn muốn tiếp chuyện, lẳng lặng bỏ về. Những cánh vạn thọ còn dính ở kẽ tay khiến lòng Chỉnh bâng khuâng, vừa tiếc Ngọc Hân, nửa giận Huệ. Mưu phản ngấm ngầm từ lúc đó. 
* 
Đêm hợp cẩn của Ngọc Hân, mưa xé qua rèm trướng phủ Chúa. Tất cả hầm bức của ban ngày nổ tung xuống nóc lầu Tửu Các. Trước đây là chỗ riêng của Trịnh Cẩn. Tiếng sấm dậy vạch chớp những đường dài lòe rực nơi ô cửa. Tâm thần Ngọc Hân dao động theo dông bão trộn lẫn những bối rối lo lắng tìm cách khuất phục Huệ. Nằm một mình trên chiếc giường của Trịnh Cẩn, Ngọc Hân không ngớt nghĩ ngợi tới những người con gái đã vào nằm trong lòng giường này. Từ thời Trịnh Tùng Bình An Vương đến Tôn Đô Vương là Trịnh Cán, tính ra tất cả chín đời Chúa, hai trăm mười ba năm ròng rã. Bao nhiêu người con gái tan xương nát thịt dưới mình Chúa? Bây giờ tới phiên Ngọc Hân. Nếu không là Huệ, thì trước sau nàng cũng phải thất thân với Trịnh Khải. Trước sau Ngọc Hân cũng phải trao thân cho kẻ nắm quyền ở Bắc Hà, như cánh cửa ải phải đi qua. Việc quan trọng là sau khi qua ải, phải làm thế nào để khôi phục vương triều Lê. Ngọc Hân cắn môi, day trở một lúc rồi không nằm được nữa, những kèo cột chống rường và thượng lương chống đỡ nóc lầu như cứ muốn ngã vật đè lên đầu nàng. Ngọc Hân bực bỏ ngồi dậy, xoay mặt vào vách đợi Huệ. 
Đêm khuya lắm. Tiếng trống kéo dài thõng thượt chạy xoáy qua khắp hành lang. Huệ vẫn còn ngồi uống với bọn Chỉnh, Nhậm. Uống theo kiểu Tây Sơn, từng cối, từng thau, khi uống vục mặt vào chậu cho ướt hết tóc tai. Rượu là thứ rượu đế của làng Vân ngoại thành Thăng Long cay xè lưỡi, nhưng xuống đến cổ thì ngọt lừ hương vị của men rượu hạ thổ như đưa hết âm khí của đất Bắc Hà vào mình, khiến bao nhiêu nước trong người Huệ theo mồ hôi xuất hạn đầm đìa, như muốn dành chỗ để chứa rượu. Uống đến thau chót, Nhậm đã say lắm, nhưng còn sực nhớ điều gì, khuyên Huệ: 
- Lầu Tử Các ngày xưa là chỗ ở của Trịnh Cán, làm Chúa chưa đầy hai tháng thì bị truất, Thượng Công hợp cẩn ở đó không nên! 
- Thượng Công oai vũ uy dũng, cho sống thì sống, bắt chết phải chết, cớ sao phải sợ? 
Chỉnh ngà say, nhưng cũng cất giọng, theo thói tật hễ Nhậm bàn điều gì thì Chỉnh phải bác đi. Huệ lừ lừ dốc hết thau rượu, rồi đứng lên, hai ngọn lửa trong mắt vẫn không suy suyển, rượu chỉ làm sức cháy phừng lên mãnh liệt hơn. 
- Đạo làm tướng không biết sợ! Chỉ có mệnh trời mới hại được ta! 
Huệ tiện tay lật bàn. Chỉnh và Nhậm ngã chúi xuống nền nhà. Nhậm nhằm cơn, ói mửa tung tóe. Chỉnh vừa lấy tay lau mặt, vừa gạt chén đĩa thau chậu quanh mình, nhìn Huệ hậm hực cố gượng dậy. Song Huệ đã lừng lững bỏ đi. Ánh đèn lồng treo ở xà thượng, về khuya, vắt lên lưng Huệ những vằn vện của cột mái trông như tấm lưng hổ đi kiếm mồi. 
* 
Lúc Huệ dẫm chân lên thang lầu Tử Các, mùi xạ hương tẩm trong chăn gối bỗng tan mất nhường cho hơi rượu nồng nặc. Chưa trông thấy, nhưng Ngọc Hân biết ngay Huệ đến. Nàng xoay mặt đợi, hơi nép vào tấm màn thêu quanh giường. Đã chuẩn bị sẵn, nhưng lúc Huệ đẩy cánh cửa gỗ nặng nề chạm long ly qui phượng, rồi giật mạnh tấm màn gấm che ngoài, Ngọc Hân cũng thót người sợ hãi. Tia lửa lập lòe từ mắt Huệ cháy rờn rợn như muốn đốt nàng. Huệ quả như lời đồn đãi, vai to bè hơn vai tê giác, mặt vuông ván gỗ. Huệ cất tiếng nói. Giọng ồ ề vỡ ra như tiếng thác đổ vào giữa khuya. Huệ nói gì, Ngọc Hân không hiểu, hơi rượu ngập ngụa kèm theo chữ mất chữ còn phát ra từ thân hình quá đẫy đà chỉ chực đổ xuống. Giọng vỡ của Huệ làm Ngọc Hân nhớ tới lời đồn, trước đây giọng Huệ thanh, từ khi kéo quân ra Rạch Gầm đánh quân Xiêm tự nhiên mất giọng, tiếng bể như tiếng rạch nước đổ xuống trũng sâu. Dân dã bảo là điềm trời không thuận cho Huệ diệt Nguyễn Ánh. Ngọc Hân níu lấy vải mền, bao nhiêu quả quyết như tan vụn trước mặt Huệ. Nhưng Ngọc Hân không muốn bị khuất phục, không muốn Huệ cưỡng chiếm mình như cưỡng chiếm dinh thự, trâu bò của Bắc Hà. Nàng nhìn trừng trừng Huệ. Cái nhìn của con thú sắp bị cắt tiết. Cái nhìn của Ngọc Hân có thể làm chùn tay Chỉnh, nhưng với Huệ – uy-vũ-dũng – cái nhìn chỉ làm cho Huệ đang say bỗng sôi gan. Huệ chụp lấy ngực áo cưới của Ngọc Hân xé toạc. Bằng hành động của con mãnh thú, Huệ xô ngã sấp Ngọc Hân ra giường, tháo dây đai quật xối xả lên tấm lưng mảnh dễ tưởng như giải lụa bạch đang oằn mình chịu đòn. Huệ quất như thúc voi, thúc ngựa, tiếng roi đánh chát chúa tóe lửa vun vút cuồng nộ. Rồi không kềm chế được, như Nguyễn Nhạc ngày xưa mất tự chủ trước da thịt mời gọi của Phú Xuân, Huệ đè ngửa lên biểu tượng trinh trắng của Thăng Long. Những bắp cơ Huệ còn nhớp nháp mồ hôi quấn lấy mình Ngọc Hân đang nghiến chặt răng chịu đựng. Huệ vục xuống gáy Ngọc Hân cắn như xé thịt. Dáng đè của Huệ, hai đùi chống xuống giường, mình trần phủ lên người Ngọc Hân y như dáng hổ đang ngoạm hoãng. Đến lúc Huệ bắt Ngọc Hân co hai đầu gối, thì nàng quá đau đớn không dằn được, bật tiếng kêu nấc trong đêm tối. Huệ nghe tiếng nấc, khoái cảm càng tăng lên như những lúc chứng kiến hành quyết. Đao phủ Tây Sơn xử trảm bằng cách chém ngửa nghịch nhân, mã tấu phập xuống tiếng thét của tội đồ bị đứt ngang ở cuống họng chỉ phát ra được tiếng nấc khô. Tiếng nấc khô của Ngọc Hân lúc nãy. 
Mùi mỡ trong đèn chai cháy èo uột ngọn lửa lúc tối lúc sáng, căn phòng của Trịnh Cán đóng xong vai trò lịch sử rơi chìm vào giấc ngủ đẫm mùi rượu đế của Huệ. Cơn dông chùng xuống sau gần suốt đêm quất qua lầu Tử Các. Những hột mưa gai sắc như muốn trổ mái bắn xuống mình Ngọc Hân ẩm ướt, tủi hổ. Lúc cơn mưa tạnh hẳn, bóng trăng bắt đầu lấp ló, chạy ngang trên trục xà hạ, thì Ngọc Hân không còn thấy đau đớn, chỉ trông rõ xác Huệ bị bêu ở Tuyên Vũ. Thói đời phong kiến, nợ máu phải trả bằng máu. Ngọc Hân chấm tay vào giọt máu còn rỉ ra ở bụng mình, đưa lên môi, máu của họ Lê phải trả bằng máu của Tây Sơn. 
* 
Lúc tôi ra Thăng Long, tiết trời tháng bảy nặng nề lắm. Những cánh lá bàng to như xác trâu mộng, rụng ì ạch xuống kinh thành đã cũ mục, dậy mùi cũ kỹ, từ triều đại đến máu huyết. Huệ đợi tôi ở phủ Chúa, Huệ hơi ngượng, tia mắt dữ dội của Huệ nhìn lên tấm vải cờ đào vẽ chữ "Tâm". Nhưng rồi như nhận ra chữ "Tâm" không đúng với lối hành xử của mình, Huệ lại nhìn xuống ngón chân bị dập từ thưở thiếu thời, máu bầm làm đen móng. Trong thiên hạ, có lẽ chỉ mình tôi là Huệ không dám hành xử chữ "Tâm", dùng ngọn lửa của đôi mắt để đốt… Huệ sai Nhậm lấy rượu ra uống. Tôi cùng uống thố rượu mời của Huệ. Giống như thời ở Qui Nhơn, hết thố này qua thố khác, hết chậu này sang chậu khác, bao giờ Huệ cũng say trước tôi. Tôi được trời phú cho khả năng ngậm rượu. Rượu tôi uống vào, bao nhiêu cũng chảy sang mình Huệ. Làm như thân thể cả hai nối với nhau bằng một sợi giây vô hình. Uống một lát, rồi Huệ quát đuổi Nhậm và Chỉnh ra. Phủ Chúa lộng lẫy mà lạnh lẽo sự lẻ loi cô độc của Huệ. Tôi nhắc chuyện Nhạc ở Qui Nhơn không bằng lòng việc Huệ ra Bắc. Thái Đức sắp kéo binh ra. Nhưng Huệ thờ ơ lắm, không để tâm, hay không xem Nhạc ra gì. Nhìn mấy bông vạn thọ cắm vụng về trong lọ, tôi hỏi Huệ: 
- Phủ Nguyên Súy sao chưng thứ bông quê mùa này? Đất Bắc Hà không thiếu hoa đẹp, hồng gai, phong lan, thủy tiên, hoa loa đỏ... 
- Ta không biết thưởng hoa! 
Huệ lắc đầu, chán chường đáp. Rồi không dằn được, trong vật vã của cơn say, Huệ kể hằng đêm phải lôi Ngọc Hân ra đánh mới thỏa mãn. Khuôn mặt Huệ lúc đó đau khổ lắm. Huệ lại kể hôm giữa tháng bảy, "con heo già" mất, Hoàng Tôn Lê Duy Kỳ lên ở ngôi. Ý Huệ không thuận, bởi Huệ muốn ngồi trên ngôi báu đó, nhưng lòng dân chưa ngã ngũ. Lễ Thành Phục Huệ đưa Ngọc Hân về lãnh tang, trước linh sàng Hiển Tông, Huệ nóng nảy sai Nhậm chém một viên Tả Phiên triều Lê, chỉ bởi hắn dám cười cách đọc điếu văn của Huệ. Lúc chém: Nhậm cằm dao chém ngửa, máu bắn cả vào ỷ Hiển Tông đặt trên linh sàng nơi cửa Đông. Thủ cấp Huệ sai bỏ trên mâm bạc đặt lên áo quan vua làm kinh động khắp thành. Thân nhân người có tội hay biết, chạy đến cửa cung kêu khóc. Huệ cũng sai chém. Tính ra lúc động quan, chém cả thảy mười bảy người. Càng kể, hai mắt Huệ càng ngầu đỏ vẩn đục. Huệ ngồi trên một chiếc rương to, hai người ôm không hết. Như muốn cởi hết tâm sự lòng, Huệ đứng dậy, chậm rãi mở rương, bên trong chồng chất từng xấp phướng. Từ trong chiếc rương hòm như bốc lên cả một khối chì chiết. Lá phướng dài dằng dặc chép đen nghịt tên tuổi những người Huệ đã đích thân sai chém. Có đến cả trăm, nghìn tên, đó là chưa kể những người do quan lính Tây Sơn tự ý giết. Huệ lần giở, lá phướng di chuyển rơi thõng xuống rương, rơi đến đâu tên tuổi người chết bật ra đến đó. Đến phần phướng trắng, Huệ dừng lại. Cả mình mẩy tôi đều rợn lên vì ở phần phướng còn trống, Huệ đã nối sẵn, dài gấp năm sáu lần lá phướng đã chép. Và cái tên cuối cùng được ghi sẵn là hai chữ rắn rỏi: Nguyễn Nhạc! 
Không khí trong phủ Chúa lúc đó nặng nề, u uẩn không sao thở được. Người tôi khô đi vì sợ. Tấm bản đồ Huệ cho vẽ treo cạnh đầu hổ, phía Tây vẽ hết biên giới Tiêm La, phía Bắc lên hết vùng Lưỡng Quảng, còn phía Nam qua khỏi Vĩnh Trấn chấm biển. Gió đẩy tấm bản đồ lắc lơ, như nhắc nhủ những tham vọng của Huệ. Những tham vọng đã vượt xa ngày đầu tiên lên Phú Xuân. Lúc đó Huệ chỉ nghĩ tới Nam, Bắc Hà, bây giờ ngọn lửa trong đôi mắt Huệ cháy lan đến những vùng khác. Nơi nào có đất, có người, thì coi như của Huệ. Huệ đã thay đổi, chỉ có Nguyễn Nhạc còn bằng lòng mãi với chiếc ngai của Nguyễn Vương. Lần ở phủ Chúa, là lần duy nhất Huệ thố lộ tâm sự với tôi nhiều như vậy. Ở đầm Thị Nại, Huệ chỉ mở miệng một hai câu, phơi cả lòng mình cất trong rương là quá nhiều. Nên Huệ trở ngay lại với tính bẳn gắt. Khạc nhổ, lầm bầm chửi rủa, đóng mạnh rương, rồi trở ra bàn gục mặt vào thau rượu. Huệ uống tới lúc ngủ quên trong thau. Tôi đỡ Huệ dậy, dìu đặt nằm ở bệ Chúa. Từng cánh vạn thọ vàng rụng rây rắc xuống lồng ngực Huệ, thở đều đặn nhịp sống của đất nước. Buổi trưa xác xao đến độ buồn tẻ, tiếng ngựa hí, tiếng trống dồn binh không có, vắng lặng tẻ nhạt, chỉ lâu lâu mới có tiếng quân cờ Chỉnh và Nhậm đang đánh, đập lẻ tẻ ngoài mặt phản. 
Tôi đứng một mình một lúc không biết làm gì, lần ra Bắc này gặp Huệ sao tôi không được vui, lòng cứ phân vân vì những biến chuyển nội tại đang xảy ra. Tên Nhạc chép trên lá phướng như một vết dao cắt ruột. Lương tri tôi khổ sở nghĩ ngợi, bỏ mắt Huệ hành xử chữ "Tâm" với Nhạc sẽ là vết nhơ muôn đời. Nghĩ tới lui không được kế gì, tôi đành bỏ ra xem Chỉnh và Nhậm đánh cờ. 
Thế cờ của Chỉnh sáng lắm, linh hoạt, xảo quyệt, quyền biến. Đôi mã giao chân xấn xổ tạt bên hữu, nhảy bên tả, áp đảo Nhậm trông thấy. Ở ngoài nhìn thì Nhậm có vẻ lúng túng, xoay trở chậm chạp. Công không ồ ạt, chỉ lo thủ, xây đắp tường thành, bẫy Tượng, gểnh Sĩ. Chẳng mấy chốc Chỉnh đã xua hết quân sang sông. Cống Chỉnh đánh cờ bằng phong thái tự tin của mình ngày xưa đi thi Hương Cống, tin ở tài biện luận xuất chúng, trước sau thì Chỉnh cũng đỗ. Nhưng đánh càng lâu, thế cờ càng đổi khác. Nhậm nếu chậm chạp, nhưng một khi đã làm xong hết những công việc chậm chạp của mình thì trở thành một pháo đài kiên cố. Quân Nhậm còn đủ Sĩ Tượng, năm Chốt giàn đồng, hai Pháo Thần Công, trong lúc Chỉnh chỉ còn độc mỗi một mình một ngựa. Chỉnh lùi mã về Bắc, hy vọng cố thủ, nhưng cung vua đã mất hết Sĩ Tượng, thế trận của Chỉnh trống trải, toang hoác, Nhậm muốn vào ra lúc nào tùy ý. Kết cuộc ván cờ không có gì lạ, Nhậm kiêu hãnh trong lúc Chỉnh bực bội. 
Tôi đứng im theo dõi, ván cờ định mệnh, muốn bàn với Chỉnh, Nhậm khuyên Huệ đừng giết Nhạc, tránh cảnh nồi da sáo thịt. Song nhìn khuôn mặt họ, cằm nhọn lưỡi cày của Chỉnh, vai u thịt bắp nồn nận ở Nhậm, tôi hiểu họ không có giá trị gì với Huệ. Cái người khuyên Huệ đãi chữ "Tâm" đích thực với Nhạc, chỉ có thể là tôi, vào lúc thời cơ thuận tiện nhất. 
Chỉnh và Nhậm còn đang tranh cãi, Chỉnh đòi bày lại cờ, Nhậm dứt khoát tuyên bố mình đã thắng Chỉnh, cờ soái về tay, cả hai không ngờ Huệ đã thức giấc từ lúc nào. Huệ đưa tay chụp bắt quân Tướng của Nhậm, cả bọn mới đực ra rồi vội vã cúi chào. Vẻ mặt Huệ lúc đó, không còn biểu hiện thành thật nào nữa, Huệ đã ra khỏi trạng thái tâm sự với tôi lúc nãy, trở lại nguyên vẹn vai trò Chúa Tây Sơn. 
- Đất Đại Việt chỉ có một chủ! 
Huệ quát bằng giọng Rạch Gầm, bốn ngón cái và trỏ bẻ đôi quân tướng của Nhậm. 
* 
Đêm ở phủ Chúa, Huệ bước chân lên lầu Tử Các, lòng âm ỉ cơn say. Sống với Huệ hơn ba tháng, Ngọc Hân đã biết những thói quen chung chạ của Huệ. Thứ thói quen của chứng bệnh thường thấy đi kèm với bệnh cuồng sát. Lẳng lặng, tự nguyện, không đợi Huệ bắt, nàng cởi xiêm áo đến quỳ trước chân giường. Cái liếc mắt của Ngọc Hân ném về phía Huệ sắc đến nổi gai. Huệ lấy roi, không phải dây đai của đêm hợp cẩn, mà là thứ roi gai của quản tượng dùng quất voi khi lâm trận. Ngọc Hân uốn lưng đợi, tóc xoã chảy xuống nền đá, không trang sức, không cả chiếc vòng cổ truyền của con gái Bắc Hà, chỉ một dấu thẹo đỏ do sắt nung ở vai. Vết thẹo đã lên da non nhưng đoán được dấu tỉ ấn của Huệ. Hai ba tấm màn gấm dụ buông quanh chỗ Ngọc Hân quỳ, Huệ tiến tới một bước, hai bước, rồi vung tay quất. Đầu roi vút tiếng rít như rạch rách tấm màn gấm. Ngọc Hân oằn người bấu cứng lấy trụ giường. Huệ đã say máu, những chấm máu li ti tím bầm nổi trên lưng Ngọc Hân trông như vệt ong đốt, hay những giọt mực son rỏ lên vũng sữa, Huệ vung tay tới tấp. 
Khác với đêm hợp cẩn, Ngọc Hân rên rỉ, oằn oại kêu rất lớn. Nhưng nếu Ngọc Hân đau đớn, thì nỗi đau đớn đầy đắc thắng. Huệ quất roi như một kẻ suốt đời hành nghề tra tấn, không được đánh người thì không biết phải làm gì. Huệ bị ràng buộc vào người đàn bà mà mãi mãi từ đây, hằng đêm Huệ phải tìm đến. Khuôn mặt Huệ toát ra vẻ mãn nguyện, thỏa mãn. Huệ chỉ buông roi khi Ngọc Hân đã ngã khụy dưới chân giường. Cảnh giao hoan của Huệ với Ngọc Hân, cũng không còn là cảnh cưỡng bức ban đầu, nếu dáng ngồi đè của Huệ vẫn in dáng hổ nhai mồi, thì hai cườm tay Ngọc Hân đã quấn chặt lấy cổ Huệ, và trên lưng Huệ đầy những vết cào của một con sư tử cái. 
* 
Tôi chơi với Hân từ thưở bé. Từ thưở Hân còn ưa chơi ô quan trong sân cung Vạn Thọ. Bao giờ tôi cũng về phe Hân. Vua Lê có hai mươi mốt vị công chúa, họ thường nhiếc tôi là cái đuôi của Hân. Tôi với Hân như đôi bạn, chẳng vậy mà ngày xuất giá, Hân chỉ mang theo mình tôi để hầu cận, người nhũ mẫu nuôi Hân từ thưở lọt lòng, Hân cũng không thiết. Hân mặc bộ áo lụa có thêu bông cúc, thân áo mềm như cuống hoa hải đường chỉ nở một lần rồi chết. Tôi lấy thau nước cho Hân rửa mặt. Nhìn khuôn mặt đẹp, mà nét mày não nùng, tôi không khỏi xúc động. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao người xưa nói: hôn nhân, điền thổ, vạn cố chi thù! Đất đai ở Bắc Hà này là của họ Lê, Hân tin như mấy đời nhà Lê tin vào mệnh trời, thế nước có hưng thì cũng có suy, nhưng bản mệnh họ Lê là trị vì trăm họ. Hân lấy gương lược chải lại tóc, lúc cong tay búi tó, Hân chợt chú ý chỗ ống tay áo mình lấm mực. Hân thõng tay nghĩ ngợi, rồi quay phắt lại hỏi tôi: 
- Bài phú hôm nọ còn giữ không? 
- Bẩm còn. 
- Đưa đây! 
Hân hơi gắt, mỗi lần mưu tính chuyện gì, Hân thường trở nên nóng nảy. Tôi hấp tấp chạy tìm lục trong số rương hòm vật dụng của Hân mang theo sang phủ Chúa. Mấy chiếc hài cườm, dăm cây quạt bông, một tập Chinh Phụ Ngâm ép ở giữa là bài phú. Hân sai tôi lấy bút, mài mực ra liễn. Hân đọc suốt lại 164 câu, rồi chữa, bỏ những đoạn mừng Tây Sơn vào Thăng Long, vẫn giữ nguyên những đoạn kể chiến công, chỉ thêm thắt chữa lại cho bài phú trở thành bài văn tế Huệ. Hân bảo tôi đè giấy, để mình ghi tựa. Ba chữ "Ai Tư Văn" sắc như dao khắc trên mặt gỗ. Nhẩm đi nhẩm lại, Hân nói với tôi vẫn câu "Mà nay áo vải cờ đào" là hay hơn cả. Không nói ra, nhưng nhìn đôi môi khinh bỉ, tôi hiểu Hân muốn ám chỉ ba anh em Huệ xuất thân dân dã, đầu đường xó chợ nhờ vận may mà có quyền bính, chứ không thuộc dòng dõi quý tộc vương đế chính thống lâu đời như Hân. Âm hưởng của bài tế não lòng làm tôi rợn. 
- Phu nhân viết chi những lời ai oán. Thượng Công đã mệnh một đâu? 
- Rồi sẽ mệnh một! Viết sẵn sau này sẽ có dịp dùng! 
Hân đập mạnh tay xuống mặt bàn, rồi như sực nhớ ra điều gì, cầm lại bút, nhúng mực nắn nót đề ở cuối bài tế ba chữ: Lê Ngọc Hân. Hình như Hân do dự một giây rồi mới hạ bút quả quyết thêm vào hai chữ: Công Chúa. Không phải Nguyên Súy phu nhân, nhưng mãi mãi là Công Chúa Lê Ngọc Hân, không bao giờ là người của Tây Sơn. Làm xong bài tế, Hân có vẻ vui thích lắm. Ánh mắt long lanh như buổi trưa cùng tôi đứng ở Nghênh Phong Lầu nhìn xuống sân phủ, đám vệ sĩ của Huệ loay hoay trui nướng cóc. Mùi cóc nướng, mùi thịt ướp sả, khói than, mồ hôi, da thịt trai tráng nồng nặc cả bao lơn. Trong bọn có gã vệ sĩ riêng của Huệ, người đen như cột đình, to lớn, kềnh càng chẳng khác một con khổng tượng. Gã vệ sĩ "cột đình" nắm hai chân sau cóc xé toạc nhai nhồm nhoàm, vừa ăn vừa lấy đoản côn đánh thùng thùng vào tấm khiên lớn đeo ở vai. Tấm thớt lưng săn chắc hung đỏ như thứ đồng dùng đúc lư, tưởng đứng đâu là chôn vững vàng xuống mặt đất vậy mà bất ngờ đổ kềnh, ngã nhào chúi sấp người đập mặt vào bếp lửa. Cái "cột đình" dẫy lên, hai tay co giật, hai chân đạp đạp như đôi chân của loài ếch. Gã trợn ngược mắt, xủi bọt ở mép rồi đứng tròng. Cả đám lính xô vội vỉ cóc đang nướng chảy mỡ, rùng rùng kéo chạy. Quang cảnh diễn ra thật gấp. Hân bấm mạnh tay tôi như khám phá ra điều gì. Miếng mật cóc đắng gã "cột đình" ăn phải, không ngờ ám ảnh Hân. Khi rỗi ngồi một mình, Hân thường ấp tay lên tay tôi, nhắc lại chuyện mật cóc ấy. Con khổng tượng, con thú lớn nhất của loài thú cũng có thể bị giết bởi thứ mật của con vật bé nhỏ nhất. 
Tôi kéo tay Hân, rủ ra ngoài bao lơn. Lầu Tử Các vắng lặng, trống trải, từng lớp bụi bay mờ trong nắng. Lá trúc rắc đầy bực tam cấp. Hân ngồi xuống bên cạnh tôi, lúc nãy sắc sảo linh hoạt bao nhiêu, bây giờ thẫn thờ như mất hồn. Hân sống như người bệnh trí từ hôm về với Huệ. Đêm đêm chứng kiến cảnh Hân chịu đòn, tâm thần tôi tan nát. Tôi thân thiết với Hân như hai chị em song sinh, cùng cha, cùng mẹ, cùng một nỗi lòng con gái mới lớn, kê vai lãnh trọng trách trung hưng nhà Lê chẳng khác đội đá vá trời. Ngày mai Thái Đức đưa quân vào thành, rồi Huệ chuyển quân về Nam. Từ nhỏ tôi với Hân chưa bao giờ rời Thăng Long một bước, giờ phải xa kinh thành, qua xứ Nghệ hiểm trở để ra Phú Xuân. Đường vô xứ Nghệ quanh co... Tôi chắc lưỡi. Gió thổi phất những lọn tóc mai của Hân bay sẽ như sợi chỉ loảng. Màu hoa loa đỏ treo ở chậu bình bao lơn, cũng thẫn thờ đỏ như màu gấc ở đĩa xôi cúng vua Lê đặt ngoài hiên đã nguội khói. Mắt Hân nhìn về phía cung Vạn Thọ xa vắng. Hân bất chợt hỏi: 
- Nguyễn vong, Trịnh mạt, Tây Sơn diệt thì thiên hạ chỉ còn cách phù Lê phải không? 
Hân lấy chân du di tới lui trên mặt tam cấp, hỏi lại: Có phải không? Tôi siết tay Hân. Những đường gân xanh đã lờ mờ nổi lên trên bàn tay mảnh khảnh, những đường gân của nặng nhọc tinh thần. 
- Huệ này! Thằng Nhậm có ý đồ riêng, thằng Chỉnh không ngay thẳng, hắn lại trêu tôi, tìm cớ mà giết đi để trừ họa! 
Hân nhìn tôi đăm đăm, như đang nói chuyện với Huệ. Giọng trong trẻo tỉnh táo quá độ và ánh mắt khô ráo làm tôi hoảng: 
- Phu nhân! Tôi đây mà! 
- Láo! Vua băng sao không quỳ xuống! 
Hân lồng lên. Nhưng rồi lại đổ rũ người ra khóc nức nở. Nhục cha chưa trả, đã nhục con. Tang lễ vua Hiển Tông, tôi cùng nằm với Hân trên đất, cho đô tùy khiêng linh cửu dẫm lên như một nghĩa cử trả ơn cuối cùng. Huệ thì đứng dõng dạc, ngạo mạn, người ngựa lồng lộng cờ đào như diễn tập. Họ Lê đã mạt thật rồi! 
Chính sử của mỗi triều chép mỗi khác. Sau này tôi vẫn tự hỏi: những âm mưu của Ngọc Hân là đáng thương hay đáng tội? Chép trong chính sử Tây Sơn thì đáng tội. Xét theo sử triều Lê thì đáng phục. Nhưng sống trong một đất nước chỉ biết lấy chữ ‘‘Sát’’ làm chuẩn thì mới thật đáng thương. 
Mấy lá trúc vàng, rây rắc gió cuốn rụng xuống Thăng Long xao xác hơn bao giờ. 
TRẦN VŨ 
20/ 01/ 1992 
Nguồn: Ăn Mày Văn Chương



Trịnh Nguyễn phân tranh

 

Tình hình Việt Nam bắt đầu xấu đi nhiều kể từ sau cái chết của vua Lê Thánh Tông vĩ đại. Nhà Lê đã xuống dốc không phanh, nhất là khi Lê Uy Mục lên ngôi. Trước đây anh Lê Long Đĩnh (aka Lê ngọa triều, con Lê Đại Hành) bị dìm hàng nhưng đã được minh oan. Còn Lê Uy Mục thì người ta phải dùng từ Bạo đế. Lão này thì kinh số một rồi, đến thái hậu còn dám giết thì còn ai mà Uy Mục không dám?
-Tụi mày phải bảo vệ tao 24/24, cấm lơ là.
Uy Mục ra lệnh cho đội quân cấm vệ của mình như thế. Hắn ý thức được sự độc ác của mình gieo rắc thù oán khắp nơi nên luôn cẩn thận tối đa trong công tác an ninh. Trong đội security hoàng tộc sáu múi to khỏe đó, Mạc Đăng Dung là người đứng đầu. Nhưng ông trời có mắt, cuối cùng Lê Uy Mục cũng chết về tay Lê Tương Dực.
-Bạo chúa đã chết, ta là hoàng đế mới của Đại Việt.
Lê Tương Dực ban đầu thì cai trị ngon lành cành đào lắm, nhưng về sau thay đổi chóng mặt, tiếp tục trở thành một tên bạo chúa thứ hai. Nhân dân đã chán ghét nhà Lê vô cùng. Các đại thần đổ xô vào cung tìm giết vua và Việt Nam chính thức đại loạn từ lúc này.
Thằng bé Lê Y được tôn lên làm vua Lê Chiêu Tông kế vị. Nhưng cháu nó còn quá nhỏ, biết gì để làm vua. Thế là các phe tranh nhau giành giật vị hoàng đế bé con này như bùa hộ mệnh. Trần Cảo lúc này đang làm loạn kinh thành. Nguyễn Hoằng Dụ và Trịnh Duy Sản khi ấy dẫn đầu hai gia tộc Trịnh Nguyễn, cùng nhau đưa tiểu hoàng đế ra khỏi Thăng Long lánh nạn.
Nội chiến càng lúc càng gay go. Mặc dù đã giành lại kinh thành từ tay Trần Cảo, nhưng bây giờ trùm cuối Mạc Đăng Dung mới xuất đầu lộ diện. Hai bên đánh nhau kịch liệt tại Thanh Hóa, cuối cùng Lê Chiêu Tông, lẫn lãnh đạo hai phe Trịnh Nguyễn đều chết. Đăng Dung lập Lê Cung Hoàng lên làm vua, nhưng ít lâu sau cũng giết đi. Giờ đây ông ta đã thật sự trở thành người đàn ông quyền lực nhất cõi Việt, Mạc hoàng đế.
Tuy nhiên với tư tưởng Nho giáo bấy giờ thì chuyện giết vua cướp ngôi là rất dở. Tướng Nguyễn Kim vẫn còn trung thành với vua Lê, nên dù Nguyễn Hoằng Dụ của Nguyễn tộc đã chết, đó chỉ mới là sự khởi đầu. Nguyễn Kim tìm khắp thiên hạ được Lê Duy Ninh để kế thừa ngôi vị còn đang bỏ trống. Giai đoạn này sử gọi là Nam Bắc triều, vì Việt Nam tồn tại cùng một lúc hai triều đại là Mạc ở Hà Nội và Lê ở Thanh Hóa.
Dĩ nhiên một nước không thể có hai vua, nên một thằng sẽ là “chính thống”, còn thằng kia là “ngụy triều”. Mà vấn đề chính thống hay không ngày đó do Tàu quyết định. Thằng nào mà Tàu cho rằng không chính đáng sẽ bị anh đại kéo quân sang dạy cho một bài học. Lê Duy Ninh biết rõ, nên cho người sang méc Đại Minh xử Mạc Đăng Dung. Triều Mạc 100% là banh xác nếu cả Minh và Lê đánh cùng lúc. Mạc Đăng Dung đành chấp nhận ra biên giới cúi lạy cầu xin để Tàu đừng đánh. Hành động này của Mạc Đăng Dung khiến ông bị sỉ nhục, nhưng ông đã gián tiếp cứu cả nhà Lê. Vì nếu quả thật quân Minh diệt xong nhà Mạc, chắc chắn nhà Lê cũng vỡ mồm với Tàu khựa. Đây là cách xử lý thông minh và hợp lý nhất ở thời điểm đó của vua Mạc.
Nhà Lê cay cú lắm vì Tàu công nhận Mạc Đăng Dung. Quyết tâm phải đòi lại đất tổ Thăng Long, Lê liên tục gây sự với Mạc. Nhà Mạc sau khi Mạc Đăng Dung qua đời thì toàn mầm non nhi đồng với cả thiếu niên tiền phong lên làm vua. Nếu không có hai siêu nhân Mạc Kính Điển và Mạc Ngọc Liễn gồng gánh giang sơn thì chắc chết tươi với họ Trịnh lâu rồi. Nhà Lê tuy là kẻ thù nhưng cũng phải khen lấy khen để Mạc Kính Điển trong Đại Việt sử ký toàn thư. Còn Mạc Ngọc Liễn trung thành với 5 đời vua Mạc thì để lại lời dặn giá trị muôn đời khi mọi thứ sắp kết thúc:
-Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Dân ta là người vô tội mà khiến để phải mắc nạn binh đao, ai nỡ lòng nào? Chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng.
Lúc này phe nhà Lê đã có thêm Trịnh Kiểm (ông này mình từng có một bài viết riêng rồi). Nguyễn Kim bị nhà Mạc sai sát thủ ám toán chết tức tưởi. Trước khi tắt thở, Nguyễn Kim giao tất tần tật tuốt tuồn tuột mọi công tác “phò Lê diệt Mạc” cho ông con rể Trịnh Kiểm quý hóa.
Nguyễn Hoàng (con trai Nguyễn Kim) vì quá lo sợ sự hắc ám của anh rể Trịnh Kiểm, đặc biệt là sau cái chết đáng ngờ của anh ruột Nguyễn Uông nên tìm mọi cách để xin vào miền nam. Trịnh Kiểm đồng ý và đây chính là điểm rạn nứt đầu tiên dẫn đến Trịnh Nguyễn phân tranh về sau. Hoàng cập bến Quảng Trị rồi liền bắt đầu âm thầm xây dựng, cấp tốc mở rộng về phương nam, lấn sang cả đất của Chăm Pa ngày xưa. Ông muốn tạo nên một vương quốc của riêng mình, đề phòng nhỡ sau này Kiểm trở mặt thì gia tộc họ Nguyễn vẫn an toàn thoát khỏi nanh vuốt của nhà Trịnh.
-Hoàng, giúp anh đánh Mạc.
Trịnh Kiểm gửi thư vào nam ra lệnh. Nguyễn Hoàng phải vâng mệnh vì xứ sở Đàng Trong non trẻ đang phát triển dở dang, giờ nhỡ Trịnh Kiểm phát giác ý đồ của ông có khi bộ phim đến đây là hết. Nhà Mạc dù thua te tua nhưng quyết chơi quân tử không cầu viện giặc Minh nhờ di ngôn của Mạc Ngọc Liễn. Trịnh Kiểm sau đó bệnh chết, nhưng Trịnh Tùng con trai ông ta lại càng đáng sợ hơn cha mình gấp bội. Dã tâm và tài năng của Trịnh Tùng vô cùng ghê gớm. Sếp Tùng hai lần chiếm lại được Thăng Long, chém đầu được Mạc Mậu Hợp, trung hưng nhà Lê và tự xưng là chúa Trịnh.
Chưa hết, Trịnh Tùng còn lừa Nguyễn Hoàng ra Hà Nội và giam lỏng ở đây. Hoàng bị giam đến tận 7 năm mới trốn thoát được về nam, từ đấy vĩnh viễn chẳng quay lại đất bắc. Nguyễn Hoàng sau pha hết hồn đó liền điên cuồng xây dựng dữ dội hơn trước. Hoàng biết rằng ngày mà họ Trịnh muốn tận diệt họ Nguyễn để thống trị Đại Việt không còn xa, và nếu chính ông không hành động ngay bây giờ thì dòng dõi ông sẽ phải trả giá rất đắt.
-Nếu đánh thắng họ Trịnh thì đó là công nghiệp muôn đời. Còn nếu không thì hãy cố giữ đất đai mà chờ cơ hội. Đừng bỏ qua lời dặn của cha…
Nguyễn Hoàng trăn trối trên giường bệnh. Nguyễn Phúc Nguyên hoàn toàn kế thừa di nguyện của cha mình. Ông từ chối mọi yêu sách đòi cống nạp của sếp Tùng. Trịnh Tùng tức lắm nhưng vẫn còn nhiều thứ phải lo nên chưa muốn động binh trừng phạt. Đến khi con trai Trịnh Tráng lên thay, cho gửi thư vào yêu cầu Nguyễn Phúc Nguyên nhận sắc phong của triều đình. Đào Duy Từ đáp lại Trịnh Tráng bằng một cái mâm đồng phủ lụa, có kèm một bài thơ mà ghép lại thì thành ra 4 từ rất hỗn láo:
“Ta không nhận sắc”
Trịnh Tráng nổi cơn thịnh nộ xé toạc bức thư và khởi 20 vạn đại binh tiến đánh Đàng Trong. Chiến tranh chính thức bùng nổ. Đàng Ngoài tấn công dữ dội trong 4 tháng nhưng không khuất phục được Đàng Trong. Trịnh Tráng tức tối phải thu quân về. Ngay sau chiến thắng, Đào Duy Từ hiến kế cho chúa Nguyễn:
-Thầy sẽ giúp con xây dựng hệ thống phòng thủ kiên cố và tối tân nhất ngay Quảng Bình.
Nguyễn Phúc Nguyên thắc mắc:
-Thầy định làm gì?
Duy Từ cứng rắn:
-Rạch đôi sơn hà!
Và thế là một công trình vĩ đại được tiến hành thi công bên bờ nam sông Gianh. Ngày xưa Tần Thủy Hoàng xây dựng Vạn Lý Trường Thành để ngăn hung nô từ phương bắc, thì ngày nay Nguyễn Phúc Nguyên cũng xây dựng Lũy Thầy để ngăn họ Trịnh từ phương bắc! Đại khái lũy này gồm nhiều lớp tường thành, ngăn cách Đàng Trong với Đàng Ngoài. Trong chiến tranh Việt Nam thì chỉ có sông Bến Hải là chia đôi đất nước, nhưng thời Trịnh Nguyễn phân tranh thực sự đã có một bức chiến lũy cắt ngang quốc gia của chúng ta. Để đẩy mạnh kinh tế, chúa sãi Phúc Nguyên mở cửa Hội An chào đón thương lái toàn cầu, học cách sản xuất súng của Bồ Đào Nha. Súng pháo đem đến Lũy Thầy chĩa qua bờ bên kia. Thằng Trịnh nào láo dám mò qua đây tao bắn bể sọ.
Mặc dù Đàng Ngoài của họ Trịnh nhiều dân hơn, nhưng Đàng Trong vẫn có lợi thế nhất định. Bởi vì họ có địa lợi: nơi đây hẹp nhất Việt Nam, núi dôi ra gần biển che chở cho Đàng Trong, lại thêm đồng bằng phẳng phiu để đóng quân. Cuối cùng là các chuyên gia quân sự châu Âu cũng như những vũ khí hiện đại nhất thế giới ngày đó đóng đầy ở Lũy Thầy.
Trịnh nhiều lần cố gắng hết sức để chọc thủng Lũy Thầy nhưng đều bị chặn đứng. Họ thử đủ thứ cách. Từ đi đường biển để vòng qua tường thành, cho tới đua đòi bắt chước Nguyễn copy phong cách châu Âu. Các khẩu thần công Hà Lan của nhà Trịnh bắn thủng được lớp tường thành đầu tiên nhưng bó tay với lớp thứ hai. Ba tàu chiến Hà Lan tới được cửa biển Thuận An thì còn được một cái chạy về. Đánh mãi mà không xuyên phá được hệ thống phòng thủ cứng cáp của Nguyễn nên Trịnh bắt đầu thấy ức chế và mệt mỏi. Cùng lúc đó vua Lê lăn đùng ra chết ngoài bắc, và đây là cơ hội cho nhà Nguyễn phản công.
-Tao nhịn mày đủ rồi nha!
Quân Nguyễn khởi hùng binh bắc phạt. Họ tiến cực nhanh, chiếm Quảng Bình, rồi kế đó là Hà Tĩnh. Ngay lúc đó Trịnh Tráng chết nên quân Nguyễn thừa dịp đánh lên Nghệ An luôn. Coi như chỉ còn Thanh Hóa, Ninh Bình và Hà Nam nữa là tới Hà Nội rồi! Tình hình vô cùng nguy cấp nhưng chúa Trịnh Tạc đã đảo ngược thế cờ khi dẫn quân đội hoàng gia cày nát quân Nguyễn, đánh bật họ trở lại những bức tường. Đang đà thắng thế, Trịnh Tạc hăng máu công phá cả Lũy Thầy nhưng vẫn như Trịnh Tráng, chịu thua, không đánh sập nổi. Trịnh Căn là người cuối cùng thử độ dày của “Vạn Lý Trường Thành made in Đàng Trong”, kết quả ra sao thì để độc giả tự hiểu. Hai bên đánh nhau mấy lần không ăn được nên cũng chán, đành ký hiệp định hòa bình, có chủ xị là vua Khang Hy làm chứng.
Hòa bình kéo dài cỡ 100 năm, tới khi khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ. Ba anh em Nhạc Huệ Lữ quẩy tưng bừng Đàng Trong. Trịnh Sâm nhận thấy thời cơ đã chín, bèn ra lệnh cho chiến thần Hoàng Ngũ Phúc vượt Lũy Thầy một lần nữa. Và lần đầu tiên thưa các bạn, lần đầu tiên Lũy Thầy đã bị xuyên thủng, quân Trịnh ồ ạt băng qua sông Gianh để tiến vào lãnh địa chúa Nguyễn. Nguyễn Phúc Thuần hoảng sợ bỏ chạy vào Gia Định, kinh thành Phú Xuân thất thủ. Quân Tây Sơn đuổi theo truy sát tới người cuối cùng, còn cậu bé Nguyễn Phúc Ánh sống sót. Vài năm sau quân Tây Sơn tiếp tục ra bắc múc luôn nhà Trịnh.
Trịnh Nguyễn phân tranh 200 năm cuối cùng hoàn toàn chấm dứt bởi Bắc Bình Vương. Mở đầu cho cuộc chiến mới của couple Ánh Huệ.
Năm xưa vắng non trơ đầu lũy,
Dấu cũ phai chiều lạnh trăng vàng.
Phân ly một giấc mơ màng,
Người sau cảm khái đề hàng thơ suông

Chiến tranh Nam – Bắc triều



Thời thê thảm nhất của dân tộc ta không phải là thời bị ngoại xâm, vì giặc nào cũng chỉ một giai đoạn ngắn ngủi là bị nhân dân Đại Việt cho ăn hành no nê, phải cút thẳng về nước. Mình thấy người Việt rất lạ! Bình thường giành ăn, ghen ghét nhau nhưng lúc tổ quốc lâm nguy thì đoàn kết lạ lùng.
Cho nên mới nói thê thảm nhất phải là lúc người trong nước đánh nhau liên miên không dứt. Nhưng không phải thời Trịnh – Nguyễn. Thời này thì nhờ ông Đào Duy Từ dựng thành lũy chia đôi đất nước nên có đánh nhau thì chỉ quanh quẩn ở gần sông Gianh, không tràn lan toàn quốc.
Thê thảm nhất chính lại là thời Lê Mạc phân tranh kéo dài đến 60 năm, hay còn gọi là Nam Bắc triều. Nói chung triều đại nào cũng vậy, càng về sau càng yếu dần. Triều đại của Lê Lợi sáng lập cũng không ngoài quy luật đó. Tới lúc dặt dẹo quá thì bị một võ tướng tên là Mạc Đăng Dung lật đổ, chiếm lấy Thăng Long – Hà Nội. Mạc Đăng Dung ép mẹ con nhà vua phải tự tử. Thái hậu khấn trời rằng: “Đăng Dung là kẻ bề tôi, manh tâm cướp ngôi, lại giết mẹ con ta, ngày sau con cháu nó cũng lại bị như thế.”
Lúc bấy giờ tướng Nguyễn Kim (ông tổ của hoàng đế Gia Long Nguyễn Ánh) không phục hành động của Mạc Đăng Dung, ông mới tìm một người thuộc hoàng tộc để đưa lên ngôi vua. Vị vua mới này lên ngôi tại đất Lào, sau trở về Việt Nam để phục hưng cho gia tộc, và thế là chiến tranh Lê – Mạc bắt đầu.
Nhà Mạc nắm giữ toàn bộ miền bắc nên gọi là Bắc triều. Nhà Lê nắm giữ từ Thanh Hóa trở vào nam nên gọi là Nam triều. Lực lượng của Bắc triều có 12 vạn người và tổ chức khá chặt chẽ. Nam triều tuy sở hữu đất đai hẹp hơn nhưng quân đội thường trực cũng thường xuyên có 6 vạn người.
Việt Nam bấy giờ tồn tại hai thủ đô. Thăng Long nghìn năm văn hiến đã quá nổi tiếng, nơi hoàng tộc triều Mạc ngự trị. Cái kia là Vạn Lại, một kiểu thủ đô tạm bợ dã chiến của triều Lê trong thời gian bị tống cổ khỏi Thăng Long. Nói là tạm bợ nhưng Vạn Lại cũng có khá đầy đủ những gì cần có của một vương triều. Hào kiệt, danh sĩ tứ phương tìm về Vạn Lại. Ai ai cũng đồng lòng góp sức. Một triều đình có đầy đủ văn quan, võ tướng uy nghi được thiết lập. Từ đây, nhiều sắc phong, lệnh chỉ được ban ra khắp nơi. Các sĩ tử cũng tìm về hành điện Vạn Lại để kiếm đường tiến thân. Các kỳ thi Hội, thi Đình được mở ra tuyển chọn nhân tài cho đất nước. Chính nơi đây đã trở thành một trong ba địa điểm thi tuyển tiến sĩ cho cả nước: Thăng Long, Vạn Lại và Phú Xuân.
Cả Nam triều lẫn Bắc triều đều có vấn đề khó nói của họ:
Bắc triều sau vua Mạc Đăng Dung và Mạc Đăng Doanh thì những vua sau toàn con nít. Các đại thần vì chuyện phế lập mà đánh nhau ra trò. Thậm chí có nhiều VIP vì sợ bị hại hoặc vì chán nản đã bỏ về theo Nam triều. May mắn là khi ấy có Khiêm Vương Mạc Kính Điển gánh hết nên nhà Mạc mới đứng vững nổi. Ngay cả Đại Việt sử ký toàn thư vốn có thù với nhà Mạc mà cũng phải dùng tất cả những mỹ từ cao đẹp nhất để nói về Mạc Kính Điển.
Nam triều ban đầu cơ cấu như thế này, vua Lê được hai dòng họ quý tộc Trịnh và Nguyễn phò tá để giành lại ngai vàng với nhà Mạc. Lúc này Trịnh và Nguyễn chưa phân tranh, vẫn cùng một team. Chỉ sau khi thích khách nhà Mạc ám sát lãnh tụ Nguyễn Kim thì mới to chuyện. Nguyễn Kim trao lại quyền lực cho con rể Trịnh Kiểm trước khi chết, nhưng Kiểm muốn giết hai thằng con ông Kim để độc bá võ lâm. Một người may mắn chạy về được phương nam và tạo nền móng cho xứ Đàng Trong, nguyên nhân của Trịnh Nguyễn phân tranh về sau.
Sau khi Trịnh Kiểm qua đời thì hai đứa con của ông ta là Trịnh Cối và Trịnh Tùng giành giật nhau xem ai là lãnh đạo của Nam triều. Cối là anh cả nhưng hay nhậu nhẹt say xỉn, tới hồi Mạc Kính Điển kéo quân đến phang cho tơi bời thì vội đầu hàng. Số phận Nam triều giờ đây đặt hết lên vai cậu con thứ. Trịnh Tùng quê ở làng Sáo Sơn, lại đóng quân gần Lam Sơn, vua Lê cho làm tiên phong đánh Mạc. Cho nên sử gọi là Sơn Tùng Mạc Tiên Phong. Toàn quân nhà Lê được lấy từ ba phủ của Thanh Hoá và Nghệ An được đặt trực tiếp dưới quyền của sếp. Họ là lính của thiên tử nên được xem là thiên binh (The Sky Army). Sơn Tùng M-tp lãnh đạo đội quân Sky phò tá vua Lê, tạo hoá cũng thật khéo sắp đặt.
-Tùng núi, cha cậu giờ đã chết, anh cậu cũng theo Mạc triều. Sao cậu còn cố chấp làm gì?
-Khiêm vương Mạc Kính Điển, ta là thần tử nhà Lê, không bao giờ theo nguỵ triều. Dù ông có là kỳ phùng địch thủ của cha ta, nhưng hổ phụ sinh hổ tử, ta không đầu hàng!
Mạc Kính Điển vuốt râu cười. Tiểu tử này khẩu khí ghê gớm, quả thật không phải dạng vừa đâu. Rồi ông hô:
-Ai bắt sống được Trịnh Tùng ta trọng thưởng.
-CÓ MẠT TƯỚNG!
Rồi từ trong trung quân nhà Mạc một bóng đen cao lớn vọt ra giữa trận tiền. Vị tướng quân này râu ria xồm xoàm, nhãn thần như điện, tay cầm đại kích, uy vũ như sấm sét, sát khí toả ra ngùn ngụt khiến bất cứ ai nhìn thấy cũng muốn thoái lui ngay tại đương trường. Bên nhà Lê nhiều binh sĩ nhận ra, xôn xao cả một vùng, trên mặt ai cũng không giấu được nỗi lo lắng.
-Nguyễn Quyện đấy.
-Chiến thần Nguyễn Quyện!
Ngay cả Trịnh Tùng cũng rất ngạc nhiên khi chính sếp cũng không ngờ Nguyễn Quyện vô địch lại có mặt tại đây. Danh tướng số một Bắc triều không nói không rằng thúc ngựa lao thẳng về phía Trịnh Tùng.
-To gan!
Hoàng Đình Ái của Nam triều phi ra hộ vệ chủ tướng. Nguyễn Quyện cười khẩy rồi đâm mạnh kích vào mặt Đình Ái, Ái đưa đại đao ra gạt. Hai tướng đánh với nhau 50 hiệp không phân hơn thua, hai ngựa chiến quần thảo lồng lộn, bụi bay mù trời xứ Thanh. Trịnh Tùng ngẩn ngơ đứng xem màn ác đấu, quên cả nguy hiểm. Bất ngờ Mạc Kính Điển cầm cờ lệnh phất nhẹ một cái, quân Bắc triều tràn lên tấn công. Trịnh Tùng bừng tỉnh:
-Cung thủ giữ vị trí, bộ binh dàn chữ nhất!
Bỗng có tiếng huyên náo, thì ra một đạo quân của Mạc Ngọc Liễn đã lén đi vòng ra sau tập kích. Quân Nam triều trước mặt và sau lưng đều bị tấn công, không còn theo hàng ngũ gì cả, đạp lên nhau mà chạy. Trịnh Tùng thua đau, quay ngựa đào tẩu. Mạc Kính Điển nói:
-Nguyễn Quyện, Ngọc Liễn, bắt sống chứ đừng giết!
Nguyễn Quyện gật đầu, lên gân bạt mạnh một đường kích đẩy Hoàng Đình Ái dạt ra, rồi xông lên quyết tóm cổ Trịnh Tùng. Tùng cưỡi ngựa trắng nên rất dễ thấy dù chiến trường đang vô cùng hỗn loạn. Quyện rướn người, cố dùng ngạnh kích móc áo Tùng để vật xuống nhưng quá tầm, chỉ trúng chiếc mũ. Mái tóc dài của Tùng xổ tung ra bay phấp phới. Quyện thúc ngựa chạy song song, vươn tay cố chụp lấy. May thay Nguyễn Hữu Liêu đúng lúc đó cầm đoản đao chặt xuống, nếu Quyện không kịp thu tay lại đã thành Dương Quá rồi.
-Chúa công chạy hướng này.
Nguyễn Hữu Liêu hộ tống Trịnh Tùng, lại thêm Hoàng Đình Ái đuổi theo. Hai đánh một không chột cũng què, Nguyễn Quyện đành rẽ sang đường khác về lại quân Mạc. Sau trận ấy Trịnh Tùng cố thủ, sai Lê Cập Đệ dùng bùn và tre để xây thành giả. Mạc Kính Điển thấy chỉ có một đêm mà thành đã xây xong thì vô cùng kinh ngạc, vội ra lệnh đánh gấp. Tuy nhiên sếp Tùng tử thủ quá lì lợm. Đánh mãi không thắng được nên Bắc triều rút quân trước khi mùa đông lạnh lẽo tràn về.
-Nhà vua muốn giết ta?
Trịnh Tùng phát giác âm mưu trừ khử mình nên ra tay giết vua Lê Anh Tông, rồi lập đứa con lên thay. Quân Mạc nhiều lần kéo đến đánh nhưng nhờ cái đầu lạnh nên dù chịu rất nhiều áp lực, sếp Tùng vẫn cân được hết. Một mình Trịnh Tùng phải đối phó với quá nhiều thế lực:
-Quân Mạc ở phía bắc.
-Tiên chúa Nguyễn Hoàng ngầm chống đối ở phía nam.
-Nội bộ nhà Lê.
Sống giữa một môi trường như vậy, nếu không tàn nhẫn, đôi khi độc ác thì anh không thể tồn tại được. Thậm chí cái ngày nhà bị cháy, mẹ chết, mà Tùng vẫn chỉ lén gạt lệ không cho quân sĩ biết, và ra trận như bình thường. Một người đàn ông lạnh lùng và sắt đá hiếm có, ngay cả Nguyễn Huệ khi vợ chết mà còn gào khóc vật vã mấy hôm liền.
Rồi cũng đến ngày Mạc Kính Điển già yếu qua đời. Thiếu ông nhà Mạc như mất đi cột trụ vĩ đại nhất. Trịnh Tùng thấy thời cơ giành lại Thăng Long đã tới, bèn chia quân làm 5 đạo, đó là mùa đông năm 1592. Tiết trời giá lạnh của miền bắc Việt Nam cũng không giảm nhiệt tinh thần của các Sky.
-Đoàn quân nhà Lê đi, chung lòng cứu quốc, bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa!
Đến địa phận xã Phấn Thượng, Trịnh Tùng và vua Mạc Mậu Hợp đối đầu với nhau. Hai bên bay vào xáp lá cà. Nhưng Mạc Mậu Hợp thì kinh nghiệm chiến trường sao bá đạo được như sếp Tùng. Quân Mạc vỡ vụn, bị chém chết rất nhiều, khí giới và chiến mã rơi vào tay quân Lê vô số kể. Trịnh Tùng đi đến đâu san bằng tất cả thành bình địa đến đó. Nguyễn Hữu Liêu phóng hoả, một góc kinh đô Thăng Long bốc cháy ngùn ngụt. Mạc Mậu Hợp cắm đầu bỏ chạy.
-Thưa chúa công, đã bắt được Nguyễn Quyện.
-Dẫn ra đây gặp ta.
Trịnh Tùng ngồi ghế, cao ngạo nhìn xuống vị chiến thần thất thế với khuôn mặt đáng thương. Tùng cười:
-Ông còn nhớ ngày xưa chứ?
Rồi Tùng đứng dậy đến tự tay cởi trói cho vị danh tướng, đồng thời ban lời chiêu dụ. Nguyễn Quyện thở dài:
-Nếu trời đã bỏ nhà Mạc thì người anh hùng cũng khó ra sức.
Tuy vậy Nguyễn Quyện vẫn đau đáu về Mạc triều, ông bày cho Trịnh Tùng:
-Phá sạch tường thành và chiến luỹ trong Thăng Long là điều cần làm lúc này.
Trịnh Tùng không mảy may nghi ngờ, liền sai quân làm theo. Thực ra Nguyễn Quyện muốn trong lúc các Sky đang bận rộn đập phá sẽ mua được chút thời gian cho nhà Mạc tổ chức quân đội lại phản công. Trịnh Tùng tuy thắng trận nhưng vẫn lo chưa đủ mạnh để giữ Thăng Long nên rút quân trở về Thanh Hoá.
-Chúng nó đi hết rồi, hên quá.
Mạc Mậu Hợp quay lại kinh thành, nhưng thay vì tận dụng chút thời gian quý báu Nguyễn Quyện mua cho để tập hợp quân đội, mà chủ quan khinh suất. Và chuyện gì đến cũng sẽ đến, sếp Tùng quay lại.
-Tiến về Hà Nội, ta quét sạch giặc thù
Hướng về đồng bằng, ta tiến về thành đô
Nước nhà còn chờ trận cuối là trận này
Tiếng về đồng bằng, giải phóng thành đô!
Các Sky hát vang trời dậy đất và ào ạt xông lên. Nhờ vào sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt, cùng đường lối chính trị vững vàng của sếp Tùng, Mạc Ngọc Liễn dù có ba đầu sáu tay cũng không thể đỡ được. Kinh thành thất thủ hoàn toàn, Mạc Mậu Hợp bỏ trốn. Trịnh Tùng bèn cho Sky lùng bắt và biết được địa điểm. Lúc đó Mạc Mậu Hợp đang nghiễm nhiên ngồi thiền trong chùa. Sky hỏi thăm thì Hợp lúng túng:
-Bần tăng tu hành từ hồi còn trẻ tuổi ở am mây này. Chén muối, đĩa rau hàng ngày trai dưỡng. Thắp hương thờ phật, công đức chuyên làm.
Quân Sky thấy nhà sư nói hoạt bát khiêm tốn, biết là Mậu Hợp, bèn bắt giữ. Ông tự liệu không thể thoát được, bèn thú thực và nói rằng:
-Mấy ngày trước tôi chạy trốn ẩn núp trong rừng rậm đã quá đói khát, dám xin cho một bình rượu uống cho đã.
Sky bèn cho bình rượu. Sau khi Mậu Hợp uống thỏa thích, ngậm ngùi than rằng:
-Nghiệp chướng quá sâu! Nay cầu làm một người dân thường cũng không thể được. Tội lỗi chỉ vì tổ tiên đã giết vua cướp ngôi, đến nỗi con cháu ngày nay phải mắc tội nặng như vầy. Mong tướng sĩ dẫn tôi đến trước Lê hoàng đế để bày tỏ thực tình. Đó là điều lòng tôi rất mong muốn.
Sky bèn sai dùng voi chở Mậu Hợp giải về Thăng Long. Khi ông tới trước hành doanh, Trịnh Tùng sai dàn binh mã cực kỳ uy nghiêm, rồi mới cho dẫn Mậu Hợp vào yết kiến. Mậu Hợp dập đầu phủ phục ở ngoài sân. Trịnh Tùng truyền hỏi tới 3 lần, Mậu Hợp vì quá sợ, cứ ấm ớ không thể đáp được, Sếp bèn sai dẫn ra ngoài cửa quân, giam tù tại đây.
Tất cả các quan văn võ của Nam triều đều bàn:
-Chiếu theo luật pháp thì cướp ngôi phải xử lăng trì và dâng đầu để tế tiên vương.
Trịnh Tùng thấy Mạc Mậu Hợp về hàng, không nỡ sử dụng cực hình, bèn nói:
-Treo hắn lên 3 ngày rồi đem ra bãi cát Bồ Đề chém đầu.
Mậu Hợp chết, thủ cấp dâng lên vua Lê tại hành cung Vạn Lại, đem đóng đinh vào 2 con mắt, rồi bêu ra ngoài chợ. Sử ký toàn thư viết thế, nhưng có lẽ Mậu Hợp đã trốn thoát.
Thế là chiến tranh Lê – Mạc kết thúc. Cuộc chiến này cực kỳ tàn khốc, đặc biệt là giai đoạn 1545-1580, hai bên lúc thắng lúc thua, tranh nhau từ Ninh Bình đến Nghệ An. Dài hơn cả chiến tranh Việt Nam và đô hộ của nhà Minh cộng lại. Đất đai bị giằng qua giật lại, dân bị cả hai bên cướp giết hiếp khổ không tả xiết. Hoàn toàn không có chính nghĩa hay niềm tin gì ở đây cả.
Trong 60 năm chiến tranh giữa Lê và Mạc đã diễn ra 38 trận lớn nhỏ, cả hai bên đều huy động gần hết các lực lượng lao động chính trong xã hội vào cuộc chiến cùng những nhân tài, vật lực trong tay. Cuộc chiến đã tác động tiêu cực đến đời sống nhân dân toàn quốc. Sức mạnh Đại Việt trên bản đồ thế giới bị suy yếu nghiêm trọng vì dân trong nước làm ra bao nhiêu của cải đều đổ hết vào việc chém giết lẫn nhau. Chỉ có thằng Tàu khựa là ngồi rung đùi quan sát và… sướng.
“Hậu vương xem đó giữ non sông,
Chớ để ngai vàng phải lở long.
Gan óc sinh linh đầy đất loạn,
Lửa thiêu tàn núi, máu loang đồng.”
Vua Lê trở về cố đô trong tiếng nhã nhạc thanh bình. Nhà Mạc theo lời cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm lánh lên Cao Bằng xây dựng một vương quốc nhỏ ở đó thêm 80 năm nữa. Mạc Ngọc Liễn trước khi mất đã có câu nói bất hủ:
-Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Dân ta là người vô tội mà khiến để phải mắc nạn binh đao, ai nỡ lòng nào! Chúng ta nên lánh ra ở nước khác, nuôi dưỡng uy lực, chịu khuất đợi thời, chờ khi nào mệnh trời trở lại mới làm được, chứ không thể lấy lực chọi với lực. Khi hai con hổ tranh nhau, tất phải có một con bị thương, không có ích gì cho công việc. Nếu thấy quân họ đến đây thì chúng ta nên tránh đi, chớ có đánh nhau với họ, cốt phòng thủ cẩn thận là chính; lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng.
Một triều đại cao thượng và quân tử. Đời sống ấm no, trộm cướp vắng bóng, vốn đã có thể biến Việt Nam hoá rồng sớm hơn Nhật 200 năm, nay bị tiêu diệt chẳng còn gì. Âu cũng là điều đáng tiếc.
Trịnh Tùng công lao cực lớn nên vua phong Bình An vương, được phép cho xây phủ chúa, khởi đầu ở phố Khâm Thiên, gần Ô Chợ Dừa và con đường đắt nhất thế giới Xã Đàn bây giờ. Sau đó quy mô ngày càng mở rộng, lấn qua cả Vincom Bà Triệu, phở Thìn, kem Thuỷ Tạ… Phủ chúa được toàn quyền đặt quan, thu thuế, bắt lính. Cả trời Nam sang nhất là đây. Mình đã viết chi tiết trong một bài khác.
Tiếng tăm của Trịnh Tùng còn vang đến đất Trung Quốc, khiến hoàng đế nhà Minh phải khen là Chân anh hùng. Thế nhưng quyền át cả vua là điều không nên, và Lê Kính Tông tìm cách ám sát sếp.
Bình thường Trịnh Tùng cưỡi voi. Hôm ấy, sếp thấy trong lòng không yên, cho voi ngựa và thị vệ đi trước, còn tự mình ngồi kiệu đi sau. Đến chỗ ngã ba có tiếng súng nổ, bắn gãy cây lọng tía. Sếp giật mình sai truy bắt thích khách đem về phủ tra hỏi. Hắn khai là nhà vua và con trai sếp Trịnh Xuân sai làm.
-À, thằng vua mất dạy và thằng con bất hiếu dám âm mưu hãm hại ta.
Rồi sếp nói:
-Thời kỳ họ Mạc nhà vua đã không còn thiên hạ. Cha tôi thân khởi nghĩa binh, đón tiên đế từ trong hang núi trở về sáng lập triều đình. Tôi tôn phò 3 triều, thân trải trăm trận đánh, thu phục giang sơn, tổn phí bao tâm lực, tuổi đã 70. Nay nhà vua nghe đứa con phản nghịch, nhẫn tâm làm việc này.
Cả triều đình nhao nhao lên cho rằng vua là hôn quân, và Lê Kính Tông bị xử tử bằng cách thắt cổ. Kỷ lục Việt Nam đến lúc này chính thức xác nhận rằng sếp là người giết nhiều vua nhất lịch sử, triple kill 3 ông. Good job sếp Tùng.
Nhưng sếp cũng là người, không thoát khỏi sinh lão bệnh tử. Vấn đề đau lòng nhất của sếp là các con trai đánh nhau dữ dội để tranh quyền làm chúa. Trong lúc chạy loạn, sếp Tùng bị thuộc hạ bỏ lại trên kiệu giữa đường. Thân mang bệnh nặng, sếp không thể làm gì khác, hơi thở nặng nề, cảnh vật mờ dần trước mắt. Tào Tháo của Việt Nam, gian hùng vĩ đại nhất đã qua đời cô đơn như vậy đó.
Nhưng 400 năm sau sếp lại trỗi dậy một lần nữa, và đó là một câu chuyện khác.

-Ta thấy hai cháu là người có tài, tại sao phải chịu làm bề tôi cho người khác mãi thế?
Tiên chúa Nguyễn Hoàng ôn tồn nói với hai chiến tướng Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê. Xin nói thêm là Tiên chúa từ miền nam ra bắc được hơn 7 năm. Ban đầu được Trịnh Tùng yêu cầu phụ đánh Mạc, sau khi tái chiếm được kinh đô thì vua Lê phong cho hẳn làm Thừa tướng và giữ lại Thăng Long.
-Cậu nói rất phải.
-Nếu các cháu cho là phải, hãy giúp cậu lần này.
Nguyễn Hoàng ban đầu được Trịnh Tùng lấy tình ruột thịt đối xử rất tốt, nhưng qua thời gian, sếp Tùng thấy ông cậu Hoàng của mình là người hùng tài nên dần e ngại, càng lúc càng lạnh nhạt, xuất hiện ý nghĩ trừ khử. Đôi lần nhìn sắc mặt băng giá của Tùng, chúa Hoàng đã thấy không ổn, bắt đầu tính kế thoát thân.
-Cậu làm trấn thủ cả vùng Quảng Nam và Thuận Hoá to lớn, mấy đứa bay lo gì mà không có cơ hội làm nên đại nghiệp?
Nguyễn Hoàng liên tục dụ dỗ Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê. Hai ông tướng nghe thấy hấp dẫn quá nên máu cũng dồn lên não. Hoàng lén đưa tay làm ám hiệu, người hầu hiểu ý liền lui ra. Một lúc sau thì có tiếng huyên náo, Hoàng bảo Ngạn và Khuê nấp đi, rồi ra đón tiếp người vừa đến.
-Chẳng hay sứ giả của chúa Trịnh đến có chuyện gì?
-Chúa thấy bọn Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê kiêu căng tự phụ, lại sẵn binh lính đông đảo, muốn nhờ ngài diệt trừ giùm.
-Tôi biết rồi.
Nguyễn Hoàng cung kính, rồi tiễn sứ giả ra về. Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê nghe thấy thì vô cùng tức giận, quyết ý làm phản chúa Trịnh, nhưng đâu ngờ vị sứ giả vừa đến là tay chân của chúa Nguyễn đóng giả.
-Ông ta là anh hùng, thì bọn cháu cũng là hào kiệt. Đều là nam nhi hết, ngán gì?
-Các cháu đừng nóng, cẩn thận tai vách mạch rừng.
Ngạn và Khuê cảm tạ rồi ra về. Nguyễn Hoàng mừng lắm, lập tức sáng hôm sau đi bộ sang phủ chúa trình bày. Sếp Tùng nghe xong nói:
-Việc bắt hai thằng phản tặc ấy nhờ cậu định đoạt nhé.
Kế này quá cao tay, con đường phía trước đã dần sáng sủa, Nguyễn Hoàng cười thầm rồi quay lại phủ dọn dẹp hành trang để chuẩn bị kế hoạch đào thoát vĩ đại của mình khỏi miền bắc. Chúng ta không thuộc về nhau.
“Chớ bảo giếng làng nhện chăng lưới,
Hãy xem ngựa chiến vượt khe rào.
Rồng thần há phải loài ao cạn,
Nằm đợi trời cao gió thét gào?”
-Nhậu đi, tới bến mấy ông eiii!!!
Sếp Tùng nâng ly và cạn chén liên tục. Hôm ấy là tết đoan ngọ, cả triều đình quắc cần câu. Nguyễn Hoàng ra bến nước chỉnh đốn thuỷ quân. Ông bước lên sàn tàu, nhìn cố hương lần nữa rồi nói:
-Từ độ mang gươm đi mở cõi. Trời nam thương nhớ đất Thăng Long…
Nguyễn Hoàng hô to “khởi hành”. Con thuyền chở Tiên chúa giương buồm lên đón đợt gió đầu tiên. Đồng loạt các thuyền khác cũng căng buồm trực chỉ phương nam. Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê hay tin Nguyễn Hoàng lên đường thành công thì nhìn nhau gật đầu:
-Thời điểm đã chín!
Nói rồi hai tướng nai nịt, vũ trang tận răng, kéo về kinh thành với khí thế nuốt phong vân. Ngạn và Khuê dùng hoả công đốt doanh trại, phố phường. Dân chúng thủ đô khiếp vía vì có biến. Một góc Thăng Long khói lửa cuộn ầm ầm, khét lẹt cả vùng. Người đời sau có thơ khen rằng:
“Khai cơ sáng nghiệp mở dư đồ,
Thao lược mưu mô giỏi tính lo.
Nam trấn rồng bay về đất chúa,
Bắc triều gió nổi rối kinh đô.
Chớ rằng Trịnh Tùng tài cao nhất,
Hãy nói Nguyễn Hoàng trí chẳng nhì.
Chúa sáng vươn mình ngời cõi nội,
Muôn năm xây lớn vững quy mô.”
-Phản tặc!
Trịnh Tùng bị bất ngờ, vội điều động anh em ra giao chiến, nhưng đều bị Ngạn và Khuê trổ tài đánh bại hết. Sếp buộc phải đem theo vua Lê đến Thanh Hoá lánh nạn, bỏ trống kinh đô. Lúc bấy giờ một lực lượng thứ ba bất ngờ xuất hiện: nhà Mạc.
-Phong toả Thăng Long.
Mạc Kính Cung tế ngựa đi thẳng vào thành, sau lưng ông là đại đội hùng binh Mạc triều. Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê bước tới chắp tay:
-Càn Thống hoàng đế!
-Các khanh bình thân.
Cần nói rõ trong thời Nam Bắc triều thì chuyện “sáng Lê, chiều Mạc, tối lại Lê” là chuyện rất thường. Trong sự kiện thất thủ Thăng Long mấy năm trước, khi đó Kính Cung đang cầm quân tận Hải Dương. Khi kinh thành rơi vào tay Trịnh Tùng thì ông không về cứu kịp, khiến vua Mạc Mậu Hợp bỏ chạy và sau đó bị bắt chém đầu.
-Anh trai Mạc Kính Chỉ của ta cũng bị Tùng giết.
Kính Cung thở dài. Sau đó ông chia quân ra đóng giữ những nơi hiểm yếu trong thủ đô, đồng thời chiêu an dân chúng. Lúc này Thăng Long đã khá đổ nát do nhiều biến cố dồn dập liên tiếp xảy ra. Kính Cung nói:
-Thế nào Trịnh Tùng cũng sẽ trở lại, nếu có chuyện bất trắc, hãy đi lên Cao Bằng.
Quả nhiên 3 tháng sau, khi đã hồi sức hoàn toàn, quân Lê Trịnh bắt đầu rục rịch khởi động. Mạc Kính Cung dắt gươm sau lưng, phi ngựa đến Gián Khẩu sắp đặt đội hình. Quân Lê Trịnh ào ạt như thác lũ cuốn về Thăng Long. Lính Mạc gồng mình, tay nắm chặt vũ khí sẵn sàng đẩy lùi đối phương.
-Bắn!
Loạt đạn đì đùng từ phía quân Lê đốn ngã đội tiên phong nhà Mạc, sau đó hết lớp này đến lớp khác tràn lên. Hai bên hỗn chiến kịch liệt, máu văng tung toé. Bất ngờ Nguyễn Khải xuôi dòng sông Hát đánh xuống, quân Mạc chống không nổi bỏ chạy tứ tán. Mạc Kính Cung vẫn bình tĩnh chạy về Kim Thành đóng doanh trại. Trịnh Tùng biết được:
-Hoàng Đình Ái, truy sát hắn, bắt sống hay giết chết tuỳ ý ngươi.
-Tuân lệnh chúa thượng.
Đình Ái là danh tướng nhà Lê, sức địch muôn người. Ái hông dắt đoản đao, tay cầm trường thương, dẫn một cánh quân đột phá Kim Thành. Mạc Kính Cung buộc phải bỏ trại chạy lên tận Lạng Sơn.
-Cao Bằng tuy nhỏ, khả diên sổ thế.
Lời trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm căn dặn gia tộc nhà Mạc, ông vẫn còn nhớ. Kính Cung không bỏ cuộc, ông lặn lội lên xứ sở mới, nơi về sau sẽ trở thành kinh đô của vương quốc do ông cai trị. Cao Bằng hiểu đơn giản là vùng đất bằng phẳng trên cao. Hoang vu và giá lạnh, sương giăng tứ phía, khung cảnh cô tịch u buồn, nhưng ít ra là nơi khả dĩ nhất để xây dựng triều đại nhà Mạc trung hưng lúc này.
Sau khi ổn định thì Mạc Kính Cung bây giờ mới chính thức lên ngôi hoàng đế, bắt đầu cho xây cất và sửa sang mọi thứ. Không những khuyến khích phát triển kinh tế, Mạc Kính Cung còn quan tâm đào tạo cả người thiểu số và người Kinh.
-Vị tiến sĩ này sao xinh xắn thanh tú không giống nam nhi?
Trong buổi tiệc chiêu đãi tân khoa, Mạc Kính Cung quan sát và hỏi lớn. Hoá ra nàng Nguyễn Thị Duệ cải trang đi thi. Mọi người nhao nhao phản đối, đòi bắt tội, thì vua cười và xua tay:
-Nhân tài là của báu, tại sao phải phạt?
Nàng Duệ là nữ trạng nguyên duy nhất thời phong kiến Việt Nam. Vua Mạc Kính Cung yêu mến nên mời vào cung dạy các phi tần, sau đó lấy bà luôn, gọi là Tinh Phi – Bà chúa Sao. Thỉnh thoảng hai vợ chồng cũng rời cung ngoạn cảnh. Vương quốc này cảnh thú thanh lịch, có chùa Viên Minh, đền thần và cung điện lầu cao gác đẹp, có chuông chùa hàng ngày đánh lên vang động không trung.
“Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.”
Thế nhưng yên bình chẳng được bao lâu, Trịnh Tùng nhiều lần điều quân lên Cao Bằng quyết nhổ cỏ nhà Mạc. Mạc Kính Cung nhớ lời Ngọc Liễn, khi hai con hổ đánh nhau, tất có một con bị thương, không ích lợi gì, vả lại cũng đừng mời quân Minh. Thế nên Kính Cung vừa đánh vừa rút, khi nào quân Trịnh đi hết mới trở về, hết sức vất vả.
-Niềm tin đã mất, giọt nước mắt cuốn ký ức anh chìm sâu…
Mạc Kính Cung đăm chiêu bóp trán. Mắt lim dim thả hồn theo điệu nhạc. Vua trị bệnh trầm uất bằng âm nhạc, đặc biệt là điệu then của dân Tày Nùng. Giữa Ly Cung rộng lớn, tiếng đàn sáo vang lên như nói hộ nỗi lòng nhà vua.
Rồi một ngày kia Trịnh Tùng qua đời, con trai Trịnh Tráng lên thay, quyết ý một phen này tóm được nguỵ vương Mạc Kính Cung. Quân nhà Lê băng đèo, vượt suối, vin rễ cây, bám hốc đá, gươm giáo sáng loáng tiến về kinh đô nhà Mạc. Trịnh Tráng phất tay ra hiệu, những mũi tên lửa bay như sao sa rợp một góc trời Cao Bằng. Quân lính dắt đồ dẫn lửa đánh hoả công khắp nơi.
-Hoàng thượng chạy đi!
Các quan Mạc gào lên trước khi gục xuống trong đám loạn quân. Mạc Kính Cung rẽ vào đường nhỏ chạy, nhắm theo sao Bắc Đẩu bỏ trốn. Chạy được nửa canh giờ, trăng đã lên cao, khung cảnh rừng núi âm u tịch mịch. Tạm yên tâm, vua ngồi tựa vào gốc cây nghỉ mệt, ngẫm lại những chuyện đã qua trong đời.
Bỗng lưới từ đâu chụp xuống, trói nghiến Mạc hoàng đế. Thì ra phục binh nhà Trịnh đã cắm ở đây từ lâu. Vua biết mệnh trời đã dứt, không chống cự nữa, theo họ về Thăng Long.
-Tiếm nguỵ ngai vàng, tội đáng muôn chết.
Đao phủ đưa đao lên, chuẩn bị hành hình. Mạc Kính Cung nói lời cuối:
-Chờ xem ngày sau sẽ ra sao.
Và ung dung mỉm cười khi lưỡi đao sắc lạnh hạ xuống, chấm dứt chục năm trị vì Cao Bằng.

Nguyễn Hoàng và cuộc chiến tranh Nam – Bắc triều


-Mai, chúng ta thu xếp rồi lên đường ngay.
-Đi đâu vậy anh?
-Thuận Hóa.
Nguyễn Hoàng đáp nhanh trong khi bận rộn cất những đồ quý giá vào rương. Bà Nguyễn Thị Mai há hốc miệng, không tin những gì chồng vừa trả lời. Thuận Hóa? Tại sao lại là xứ Ô châu ác địa đó? Nguyễn Hoàng nói:
-Anh sẽ giải thích sau. Nhanh, chúng ta không phải đi du lịch đâu. Em muốn đem theo những gì thì đóng thùng hết trong hôm nay. Lát anh sẽ chuyển tất cả lên tàu vào nam.
Ông sai gia nhân khệ nệ vác rương ra ngoài. Nguyễn Hoàng quẹt mồ hôi, xắn tay áo lên thu dọn tiếp. Bà Mai cũng tất tả phụ chồng. Thì ra ông đang chuẩn bị chạy nạn. Hoàng vốn là con trai thứ của danh tướng Nguyễn Kim. Năm 1527, xảy ra sự biến Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê, lúc ấy Nguyễn Hoàng mới lên 2 tuổi. Cha ông đã phải tránh sang Lào, xây dựng lực lượng để tìm cách khôi phục nhà Lê. Nguyễn Hoàng được chú ruột Nguyễn Ư Dĩ nuôi dưỡng trong khi cha đi “công tác xa”.
-Nhà mình không đi ngay bây giờ thì chết không có chỗ chôn đâu Mai. Trịnh Kiểm…
Nguyễn Hoàng ngừng lại để quan sát xem có ai nghe lén không, rồi nói khẽ:
-…đang có âm mưu giết anh.
Như mình đã viết ở bài trước, Trịnh Kiểm giúp Nguyễn Kim đánh Mạc, cứu sống ông nên được Kim gả con gái cưng cho. Về sau Nguyễn Kim bị Dương Chấp Nhất đầu độc. Việc Dương Chấp Nhất xin hàng chỉ là kế “trá hàng” vì ông ta vốn là một tay mưu sĩ nhà Mạc. Khi thấy chủ của mình là Mạc Đăng Doanh luôn đau đầu với nhà Lê, Dương Chấp Nhất đã tìm cách xâm nhập vào nội bộ đối phương để phá hoại và đích thân mình thực hiện nhiệm vụ khó khăn này. Nhưng điều ấy vô nghĩa vì mọi quyền lực của Nguyễn Kim sau đó lại được trao cho ông con rể quý hóa cũng hùng tài không kém. Tội Dương Chấp Nhất vãi, lao tâm khổ tứ mà chẳng được gì. =))
Trịnh Kiểm suy nghĩ:
-Hoàng là một thằng giỏi mà dũng cảm, thật là hổ phụ sinh hổ tử. Tự nó chém được tướng Trịnh Chí của quân Mạc. Lúc này thì chưa sao, nhưng nếu không sớm trừ khử thì cơ đồ của họ Trịnh mà ta ấp ủ về sau có nguy cơ mất trắng. Một rừng không thể có nhiều hổ, có ta thì không có mấy thằng con ông Kim.
Một hôm, Nguyễn Uông dù không đau ốm gì tự nhiên lăn đùng ra đột tử. Cái chết oan nghiệt và mờ ám này đã làm cho cậu em Nguyễn Hoàng vô cùng lo ngại, ông cảm thấy rằng bản thân mình sẽ là đối tượng của một âm mưu ám sát. Nguyễn Hoàng vốn là người thông minh nên cũng đoán ra ai là thủ phạm, nhưng vì lúc này thật sự quyền lực nhà Lê nằm hết trong tay Trịnh Kiểm rồi, có muốn bật lại cũng không đủ lực. Một người khác còn lo lắng hơn đó là Ngọc Bảo, bà rất sợ cho tính mạng của đứa em út của mình. Hai chị em bàn tính với nhau:
-Chị nói giùm anh Kiểm cho em vào miền nam trấn thủ.
-Trong đó khắc nghiệt lắm Hoàng, nghĩ kỹ chưa em?
-Khổ mấy cũng được!
Bà Ngọc Bảo gật đầu nhận lời em. Đêm về khi Trịnh Kiểm tháo giày chuẩn bị lên giường thì bà nhẹ nhàng ôm chồng thủ thỉ:
-Thằng em trai em muốn xin vào trấn nhậm mặt phía nam, anh thấy được không?
Là vợ chồng nên Ngọc Bảo hiểu rõ ông xã của mình đang rất khó xử về việc không biết phải giải quyết làm sao với cậu em út của vợ. Để Nguyễn Hoàng ở trong triều thì nhiều lời bàn tán, nhất là sau cái chết đầy bí ẩn của Nguyễn Uông. Trịnh Kiểm đưa mắt nhìn vợ rồi nói:
-Ờ vậy à, để anh tính…
Khi đã buông màn, Trịnh Kiểm vắt tay lên trán nghĩ:
-Đất Thuận Hóa ở phía bên đèo Ngang ấy chỉ có thằng điên mới muốn đến, vừa khô cháy, vừa cằn cỗi. Chưa kể bọn hải tặc hung dữ xuất hiện rất nhiều. Lực lượng của chúng lại vô cùng hùng hậu, có nhiều chiến thuyền cỡ lớn, binh sĩ lại giỏi nghề biển, súng ống tối tân, quân đội của ta đã nhiều phen ra sức tiễu trừ nhưng vẫn không tiêu diệt được. Giờ ta giết thằng Hoàng thì cũng mang tiếng, nó tự nguyện dẫn xác vào Ô châu ác địa thì còn gì bằng. Vùng đó cũng nghèo nàn, nó cũng chẳng cách nào để xây dựng lực lượng đánh lại ta được.
Thế là ông đồng ý và hôm sau ra lệnh cho Hoàng phải đi ngay lên đường. Nguyễn Hoàng đưa gia quyến theo đường biển dong buồm vào nam. Đây là dựa vào kế của trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khi Nguyễn Hoàng tới hỏi. Cụ Khiêm chỉ vào một hòn non bộ và phán:
-Một dải Hoành Sơn có thể dung thân được.
Đoàn thuyền của Hoàng vượt qua dãy Hoành Sơn, tiến vào địa phận Thuận Hóa (nay thuộc Quảng Bình – Quảng Trị – Huế). Hoàng mỉm cười:
-Đến rồi!
Thuyền cập bến Cửa Việt, cả một vùng mênh mông cát trắng xóa. Trong khi gia nô và thuộc tướng đang bốc dỡ hành lý thì Nguyễn Hoàng kéo khăn trùm đầu của áo khoác lữ hành lên rồi đi quan sát thực địa. Ông nheo mắt khi một luồng gió khô khốc thổi tới:
-Nóng như thế này thì làm sao phải mặc?
Mùa hè mảnh đất Quảng Trị gió Lào thổi ù ù làm cát bụi dọc đường thiên lý bay mịt mờ như ai ném cát lên không trung. Còn về mùa mưa, nhất là mưa mấy tháng đông kéo dài thì buồn lắm. Tuy không đến nỗi Hà Nội mùa này phố cũng như sông, cái rét đầu đông em tôi bơi từng chiều trên phố, nhưng quả thật đây là vùng đất khắc nghiệt chưa từng thấy. Nguyễn Hoàng khát cháy cả cổ, mồ hôi đầm đìa, ông lấy túi da ra đưa lên miệng hớp một ngụm nước lớn. Chú ruột Nguyễn Ư Dĩ than:
-Ông cụ Khiêm bày dại ghê, chỗ này sao mà ở được? Có khác quái gì hỏa diệm sơn trong tây du ký đâu?
-Trước mắt thoát được Trịnh Kiểm là tốt rồi, từ từ cháu sẽ lo liệu mọi thứ chu đáo. Yên tâm đi.
Nguyễn Hoàng động viên chú mình. Ông cho đóng trại ở Ái Tử để ổn định cuộc sống. Đây là một địa danh có cái tên hết sức dễ thương, vì Ái Tử nghĩa là Yêu Con:
“Mẹ thương con ra cầu Ái tử,
Vợ trông chồng lên núi Vọng phu.”
Quan trấn thủ Thuận Hóa nghe Nguyễn Hoàng đến liền phi ngay tới chỗ ông để dâng bản đồ, sổ sách trong xứ. Hoàng hỏi:
-Ở đây sống sướng không?
Quan thiệt thà:
-Sướng con mắt ông chứ sướng. Cực thấy mẹ luôn. Thôi tui bàn giao hết rồi đó, gánh giùm nha. =))
Người dân địa phương hết sức vui mừng khi biết triều đình đã cử một vị quan cực lớn vào trấn nhậm xứ sở của mình. Họ đã đón tiếp vô cùng trọng thể, linh đình chẳng kém tiếp đón nguyên thủ quốc gia xuống sân bay Nội Bài, đồng thời gọi Nguyễn Hoàng là Chúa. Những bô lão trong xứ đã mang đến dâng lên Chúa Hoàng 7 vò nước tinh khiết. Ông Nguyễn Ư Dĩ bèn cười:
-Cháu mới đến trấn nhậm đất này mà được người dân tặng nước cho, ấy là điềm sẽ có được nước vậy.
Hoàng phấn khởi, cho rằng đó là điều cực kỳ may mắn. Ông đọc lại câu sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
-Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân!
Mình xét về địa lý thì nước ta về phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào, phía đông giáp Biển Đông, nam giáp Chăm. Trong các hướng đó, đâu là nơi có thể mở mang bờ cõi?
Lên phía bắc thì không thể vì thằng Tàu nó đánh cho ba má không nhận ra. Với cả tư tưởng của nước Việt thời phong kiến luôn xem Tàu là thiên triều, mỗi triều đại của ta sau khi thành lập đều phải được sự thừa nhận của thiên triều mới là chính thống, còn lại là ngụy triều hết. Do vậy trừ Lý Thường Kiệt  Nguyễn Huệ thì hầu như chưa có ai nghĩ đến việc gây sự với Tàu.
Dãy Trường Sơn hùng vĩ như vạn lý trường thành. Bên kia biên giới là lãnh địa của các bộ tộc Lào, cũng là đàn em của thiên triều. Nếu mở rộng qua phía tây thì mình phải đục nhau với hai thằng Miến Điện và Thái Lan nữa, rất phiền. Thôi bỏ đi.
Biển Đông thì hẳn nhiên là của mình rồi, Hoàng Sa và Trường Sa do nước mình tìm thấy, thành thử hàng năm các chúa Nguyễn đều “đông tiến” để khai thác sản vật và liên tục xác lập chủ quyền trên hai quần đảo này. Tuy nhiên nó là biển nên cũng không thể xây dựng gì được. Vậy chỉ còn phía nam.
Phía nam là đất Thuận Quảng (Thuận Hóa và Quảng Nam), giáp giữa Việt Nam và Chăm Pa. Chỗ này thảm hại quá nên luôn được coi như đất biên viễn xa xôi, chuyên dùng để đày phạm nhân và tù binh. Kinh tế siêu bèo nhèo nhưng bù lại được cái đất đai rộng rãi, tiềm năng khai thác bao la. Với cả biên giới chỗ này thay đổi liên tục, lúc thì của Việt, lúc thì của Chăm. Nhưng sau khi Chăm ăn no hành của vua Lê Thánh Tông thì việc cai trị vùng đất này cũng lỏng lẻo hơn. Thế nên, cỗ đã dọn ra mà Nguyễn Hoàng không ăn thì có lỗi với tổ quốc. Từ đây thì sau này các đời chúa kéo dài mãi tuốt luốt xuống dưới Hà Tiên, tạo nên chữ S cho Việt Nam có cái tự hào. :))
Quay lại, để đối phó lâu dài với họ Trịnh, Nguyễn Hoàng cần phải có chỗ dựa vững chắc nên những người thân thuộc, trung thành là sự lựa chọn đầu tiên của ông trong bước đường “nam tiến”. Nguyễn Hoàng tự xây dựng cơ ngơi cho mình. Ông nói với vợ:
-Người dân nơi đây thích anh lắm, nên anh sẽ bằng mọi giá để biến vùng đất nghèo nàn khắc khổ này thành một vùng giàu có. Một xứ sở thần tiên cho người Việt. Làm nơi dung thân cho gia đình mình và con cháu về sau.
Ông trăn trở:
-Tuy nhiên bước đầu anh gặp nhiều khó khăn quá. Thuận Hóa phong thủy không tốt, nhiều chướng khí. Chưa kể bọn nhà Mạc, Chăm, Chân Lạp liên tục đánh phá. Cộng thêm lũ thổ phỉ, hải tặc hoành hành. Bất cứ tàu nước nào xuôi ngược vùng này cũng phải đóng tiền mãi lộ cho chúng mới được yên thân. Đoàn hải hành nào dù có đông đảo đến đâu, khi nghe đến tên cướp Lâm Phượng cũng đều kinh hồn bạt vía…
Có thể nói rằng, đất Thuận Hóa thời Nguyễn Hoàng mới đến là một mảnh đất dữ dội, nguy hiểm, lại rộng lớn bao la, hầu như chưa có bàn tay của con người đến khai phá, tha hồ để ông trổ tài như chơi SimCity (dĩ nhiên là ở chế độ SIÊU KHÓ). Mọi người thấy cuộc sống ở đây khổ quá nên chẳng thèm khai hoang, chỉ lập làng xóm ở chỗ nào mát mẻ gần sông suối để trồng lương thực ăn qua ngày. Nguyễn Hoàng ra sắc lệnh:
-Bà con cứ tự do khai hoang thả cửa đi nha. Ai khai hoang được bao nhiêu thì cho làm chủ đất đó luôn.
Chính vì thế mà lãnh thổ ngày một phình to ra. Mà chỗ nào càng trù phú thì dân kéo về càng đông, mà dân đông thì sẽ có chợ búa buôn bán. Chưa hết, họ còn hăng hái đào kênh mương để tưới tiêu. Chẳng mấy chốc, vùng đất vốn được xem là “khỉ ho cò gáy” nay đã là một miền đất hứa cho dân chúng khắp nơi vào định cư. Bên cạnh việc lo cho dân có một đời sống sung túc, ông còn cùng với những cận thần của mình tổ chức nên một lực lượng quân đội hùng mạnh để đương đầu với các thế lực thù địch tại vùng đất dữ này.
Nguyễn Hoàng tuy một mặt vẫn ngầm xây dựng triều đại của riêng mình, nhưng mặt khác ông vẫn giả vờ thuần phục Trịnh Kiểm. Phải vậy thôi, giờ mà ổng làm phản lộ quá là Trịnh Kiểm xách quân nam tiến hốt xác luôn chứ đùa. Nguyễn Hoàng đi thuyền ra bắc gặp anh rể nói:
-Em khai hoang được ít lúa gạo, dâng cho anh để đánh nhà Mạc.
Trịnh Kiểm thấy thằng em biết điều thì hài lòng lắm, cho trấn thủ thêm đất Quảng Nam nữa. Thời chúa Nguyễn Hoàng nhân gian hết sức thái bình. Chợ không nói thách, đêm dân ngủ yên giấc, nhà không đóng cửa, nạn trộm cắp chưa bao giờ xảy ra, sản vật dồi dào. Trước hết là chúa khoan hòa, sử dụng người tài, thực bụng chiêu hiền đãi sĩ… Ông thậm chí còn gửi thư kết giao với mạc phủ Tokugawa Ieyashu lừng danh của Nhật Bản. Dân mến công đức gọi ông là Chúa Tiên. Anh hùng giữ nước thì có nhiều, nhưng anh hùng dựng nước có mấy ai được như Nguyễn Hoàng?
Rồi một ngày Trịnh Kiểm cũng qua đời. Ông ta có hai người con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng. Binh quyền được giao hết cho Trịnh Cối, nhưng ông này là một đệ tử lưu linh chính hiệu, say xỉn tối ngày và mê gái. Thành ra mọi người xúi em ông là Trịnh Tùng lên thay.
Mạc Kính Điển nghe tin thì cười:
-Anh em nó ghét nhau, thật là có lợi cho nhà Mạc ta.
Rồi nhà Mạc kéo 100 nghìn quân quyết làm gỏi nhà Lê. Trịnh Cối đánh không nổi liền sợ hãi, dắt vợ con ra đầu hàng quân Mạc. Trịnh Tùng chửi:
-Thằng anh ăn hại chó má!
Toàn bộ binh quyền nhà Lê lúc bấy giờ chuyển thẳng qua Trịnh Tùng. Ông phò tá vua Lê Anh Tông nhưng do quân yếu hơn nên buộc phải lui để thủ. Mạc Kính Điển đánh mãi không ăn được Trịnh Tùng thì mới nhìn về phía nam của Nguyễn Hoàng, nói:
-Thằng trẻ trâu Tùng này nó lì quá, còn ông Hoàng già rồi, quất đi!
Liền sai tướng Lập Bạo đem 60 chiến thuyền đánh vào Thuận Hóa. Đươc tin, chúa Nguyễn Hoàng nghĩ ra Mỹ nhân kế để giết Lập Bạo. Chúa nhờ một cô gái xinh đẹp tên Ngô Thị Ngọc Lâm mở một quán nước để Lập Bạo vào uống nước tán tỉnh. Chúa dặn người con gái ấy rằng:
-Cô gái, ban đêm nếu Lập Bạo lẻn vào nhà thì hãy để hắn ngủ thật say, sau đó cột tóc hắn vào góc giường rồi dùng dao chém. Thành công ta sẽ ban thưởng.
Nhưng Lập Bạo là kẻ thông minh nên đã đề cao cảnh giác. Khi cô gái vừa đưa dao lên chém. Hắn vụt vùng dậy giật lấy cây dao, cắt phăng lọn tóc rồi chạy thẳng ra khỏi nhà, nhảy xuống sông và lặn sâu dưới nước.
Như vậy kế hoạch ám sát Lập Bạo đổ bể. Sáng hôm sau có một con chim bay tới, bay lui trên mặt sông và kêu Trảo Trảo. Nguyễn Hoàng sinh nghi:
-Coi chừng Lập Bạo nó trốn dưới đó.
Nên sai quân lính đem thuyền bè và lưới ra giăng bắt, quả thật Lập Bạo bơi tới đâu thì chim bay tới đó, và kết cục thế nào thì các bạn tự hiểu. Để tỏ lòng nhớ ơn thần điêu đại hiệp, chúa Nguyễn Hoàng cho lập một miếu thờ có tên Trảo Trảo bên bờ sông.
Lại nói về Trịnh Tùng, quả thật ông Kiểm giỏi thì ông con cũng giỏi không kém. Tùng rất mưu trí, dần dần đã khẳng định được rằng ai mới làm chủ đất bắc. Quân Mạc bị thua trận, tổn hại rất nhiều. Năm 1592, Trịnh Tùng quyết định đánh những trận cuối cùng với với quy mô lớn:
-Mọi người cứ thoải mái ăn Tết. Ta sẽ làm lễ tế cáo trời đất và tiên đế nhà Lê, sau đó tất cả chúng ta cùng kéo về kinh thành Thăng Long!
Quân đi đến đâu, nhân dân tranh nhau đem rượu và trâu bò đến đón. Vua Mạc Mậu Hợp thất thủ, bỏ Thăng Long mà chạy. Họ Trịnh và họ Mạc sau đó đại chiến với nhau dữ dội thêm mấy lần nữa. Dân chúng chạy trốn lưu li, ngoài đường vang đầy tiếng khóc. Cuối cùng Trịnh Tùng bắt được Mạc Mậu Hợp, đem bêu ba ngày rồi chém đầu, đóng đinh vào hai mắt, bày ra ở chợ. Sau đó Tùng truy sát những người còn lại của nhà Mạc rồi đem chém hết. Nhà Mạc kể từ Thái Tổ Mạc Đăng Dung đến đây thì tan rã sau 67 năm.
-Đừng có nhờn với sếp Tùng. Anh mà đã đánh là nhà Mạc chỉ có thành nhà Mạt.
Tùng đắc thắng phủi tay, rồi cưỡi ngựa vào Thăng Long, ông đã trung hưng thành công vương triều Lê. Nhà Lê kể từ khi mất ngôi đến bây giờ được trở về chốn xưa nhưng vị thế đã không còn được như trước nữa. Quyền uy ngày một cao, Tùng muốn được phong tước Vương bèn sai người vào xin với vua Lê. Vua bất đắc dĩ phải đồng ý. Tùng được mở phủ chúa và lập bộ máy quan lại riêng. Từ đấy chính sự trong nước do sếp Trịnh Tùng MTP quyết định. Tùng liên tục phát hành các bản hit “Lê của ngày hôm qua”, “Ngôi báu xa dần”, “Âm thầm bên vua”…
Nói chung hết thảy công việc quốc gia đại sự đều do phủ chúa định đoạt. Nhà vua chỉ còn mặc áo long bào, cầm hốt ngọc để nhận lễ triều yết. Nói chung là vua Lê chả phải làm gì, chỉ có đuổi hoa bắt bướm cho qua ngày tháng, mọi chuyện trong nước lớn nhỏ đã có chúa Trịnh lo tất tần tật =)).
Uy danh của Trịnh Tùng càng trở nên lừng lẫy. Thậm chí Tùng còn trừ khử Lê Anh Tông, lập Lê Thế Tông. Vua Thế Tông trẻ tuổi và lắm bệnh tật nên bị coi thường. Thỉnh thoảng Trịnh Tùng chỉ hỏi qua loa đôi việc cho có lệ mà thôi. Nhưng dẫu sao thì địa vị của vua Lê cũng không đến nỗi quả kém cỏi. Các vua nối tiếp nhau tuy bị chúa Trịnh ra sức lấn át, thậm chí là bị giết nhưng tiếng nói của hoàng đế vẫn còn có người nghe và về hình thức chính quyền vẫn là một mối, đứng đầu là vua Lê.
Cầm quyền trong thời loạn, Trịnh Tùng luôn phải đối phó với nhiều lực lượng: tranh chấp quyền hành giữa anh em, vua Lê đòi lấy lại thực quyền, chiến tranh với nhà Mạc ở phía bắc, chúa Nguyễn Hoàng chống đối ngầm ở phía nam. Vị trí “dưới một người trên vạn người” của Trịnh Tùng khiến ông trở thành tiêu điểm cho sự tấn công của các lực lượng này. Trong hoàn cảnh đó, muốn giữ vững ngôi vị thì ngoài tài năng cầm quân và cai trị, Trịnh Tùng buộc phải trở thành người cứng rắn, quyết đoán và đôi khi trở nên tàn nhẫn. Có sử gia nhận xét:
-Trịnh Kiểm tuy chuyên quyền nhưng tội ác chưa có gì tỏ rõ cho lắm, đến Trịnh Tùng mới thật là gian thần như Vương Mãng và Tào Tháo. Dựa vào công lao trước của cha, Trịnh Tùng có công rất to, mà mang tội cũng nặng lắm. Không làm như vậy thì không đủ để diệt nhà Mạc mà phù Lê được. Mạc tuy bị diệt rồi, nhưng Trịnh lại lù lù ở đó thì cũng lại là một Mạc thứ hai mà thôi!
Tùng tuy gian tà nhưng vẫn không dám cướp ngôi, là vì e rằng nếu thoán đoạt thì giang hồ sẽ nổi lên lấy cớ phù Lê diệt Trịnh, rồi mình lại mất công đi đánh, mệt lắm. Thôi thì làm chúa cũng vui mà, hihi. Từ đó sự nghiệp của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài chính thức bắt đầu.
Nhưng mối lo ngại lớn nhất của Trịnh Tùng vẫn là người cậu Nguyễn Hoàng. Tùng gửi thư vào Thuận Hóa:
-Cậu, hỗ trợ cháu đánh dẹp tàn dư họ Mạc với. Bọn nó vẫn đang trốn ở Cao Bằng đấy.
Nguyễn Hoàng đưa quân ra bắc giúp Trịnh Tùng trong 8 năm trời. Tùng sau đó tiếp tục giữ Hoàng ở lại để giám sát, không cho về Thuận Hóa. Hoàng khổ tâm:
-Làm sao về nhà được đây? Thằng cháu nó giam lỏng ta rồi.
Bỗng dịp trời cho đến, có kẻ làm phản Trịnh Tùng. Hoàng chộp lấy cơ hội xin đi đánh dẹp, rồi lén trở lại miền nam. Tùng bất ngờ lắm, bèn viết thư dọa:
-Ủa sao cậu bảo giúp cháu dẹp loạn nay lại bỏ về? Do bọn chúng xúi giục hay là do cậu tự ý? Cậu coi thường cháu vậy à? Suy nghĩ kỹ lại hành động của mình đi, đừng để sau này hối hận không kịp!
Để làm dịu tình hình, Nguyễn Hoàng đã viết thư:
-Cậu xin lỗi, dưới Thuận Quảng đang có việc gấp cần cậu, không về không được. Để cậu tạ tội nhé Tùng.
Rồi Hoàng lấy thóc lúa vàng bạc cống nộp cho Trịnh Tùng, đồng thời gả con gái cho Trịnh Tráng để kết nghĩa thông gia. Từ đó, Nguyễn Hoàng không ra Thăng Long nữa, quyết ‘rạch đôi sơn hà’, lo cấp tốc xây dựng xứ Đàng Trong cho thật mạnh vì Hoàng biết rằng một ngày nào đó gia tộc họ Trịnh ở Đàng Ngoài sẽ trở thành kẻ thù của mình.
Và đúng là như thế, hai vị chúa Trịnh Tráng (con Trịnh Tùng) và Nguyễn Phúc Nguyên (con Nguyễn Hoàng) về sau trở thành địch thủ truyền kiếp. Đến nỗi “Khổng Minh” Đào Duy Từ phải cho đắp Lũy Thầy chia cắt nam bắc để ngăn hai bên phang nhau sống mái. Nhưng như vậy vẫn là không đủ để ngăn cuộc chiến 200 năm Trịnh – Nguyễn phân tranh trở thành hiện thực.

Sông Gianh – biên giới 2 miền trong chiến tranh Nam – Bắc triều

 

 

Khi bạn đi qua bên này sông thì đó là lãnh địa Đàng Ngoài, còn đi qua bên kia sông thì đó là cương thổ Đàng Trong. Vâng, đây chính là sông Gianh (hay Linh Giang) huyền thoại, thuộc châu Bố Chính (tỉnh Quảng Bình), biên giới tự nhiên giữa hai vương quốc tồn tại dưới chính thể Đại Việt.

“Sông Lam lấp lánh bóng Gươm
Sông Gianh sóng nhạc xuôi buồm tướng quân.”

Linh Giang – nơi chiến sự ngút ngàn, ngày đêm khói lửa binh đao, xương chất thành gò thành lũy, máu chảy thành sông. Nếu ngồi cỗ máy thời gian về 300 năm về trước bạn sẽ thấy hai phe Trịnh Nguyễn đóng quân dọc bờ sông hữu tình. Đào Duy Từ vào nam giúp Nguyễn, hay Nguyễn Huệ ra bắc diệt Trịnh, cho tới lúc Nguyễn Ánh thống nhất quốc gia, đều từng vượt con sông này.
Đặc biệt có ông vua đẹp trai khi hành quân chinh phạt Chăm Pa đi ngang qua đây, thấy cảnh trời đất mênh mông đẹp đẽ, bèn ngơ ngẩn đứng làm một bài thơ (mà mình thấy ông này đi tới đâu cũng làm thơ cả, đúng nghệ sĩ).
“Núi bọc chung quanh biển mịt mờ
Bố Chính ngày trước vẫn hoang sơ
Ven sông làng xóm nhà tranh cỏ
Khuất bến tre pheo dựng cột cờ .
Gái thắt lưng ong khoe yểu điệu
Dân hoà giọng quých nói líu lo
Trời Nam đã rưới ơn mưa móc
Chẳng phải xa xôi bỏ cõi bờ.”
(Linh Giang hải tần – Lê Thánh Tông – 1471

Ngũ đại tộc trong thời kỳ chiến tranh Nam – Bắc triều



ngu-dai-toc-trong-thoi-ky-chien-tranh-nam-bac-trieu

Sự kết nối cây gia phả của Ngũ Đại Gia Tộc trong Dai Viet Game of Thrones. Thật ra còn rất nhiều và rối tinh vì họ lấy lẫn nhau, nội chiến 300 năm mà. Mình rút gọn và chỉ đưa ra một số mối quan hệ nổi bật để cho thấy sự liên quan của 5 thế lực chủ chốt. Tư liệu cho các bác vẽ và viết truyện.
P/s: Các đường nối là trung tính chứ không phân vai trò cụ thể. Còn quan hệ giữa họ là gì, hãy đọc các bài mình viết =)).
Tình hình hỗn loạn 300 năm ở Việt Nam trung cổ có thể chia làm 12 phe:
-Mạc: mạnh và được lòng dân. Từng chém đầu được thủ lĩnh của phe Trịnh Nguyễn. Về sau bị Trịnh Tùng hấp diêm. Lên Cao Bằng tồn tại được 80 năm nữa thì bị Trịnh Tạc hấp diêm lần 2.
-Lê: khá khổ sở, là con bài để các phe bắt qua bắt lại hoặc lấy chính nghĩa. Cũng cố gắng để trở lại vương vị nhưng toàn bị đè đầu.
-Trịnh: các chúa Trịnh tài giỏi, đất nước hùng mạnh, có mua đại bác từ Hà Lan. Nhưng khi chúa Trịnh Sâm và danh tướng Hoàng Ngũ Phúc chết là phế. Thêm anh Nguyễn Hữu Chỉnh bóp team dẫn Nguyễn Huệ vào nhà, Trịnh nghỉ game từ đó.
-Nguyễn: team nam bộ, các chúa rất giỏi, được người Minh hương ủng hộ. Trong đội quân có lính đánh thuê Pháp, Khmer, Chăm… Có mua súng từ Bồ Đào Nha. Từng suýt diệt vong nhưng may mắn đến cuối game lật kèo ngoạn mục nhờ Nguyễn Ánh.
-Tây Sơn: mới đầu giao chiến thua Trịnh nhưng lại bá đạo nhất vào giữa game. Vô địch thiên hạ nhờ Nguyễn Huệ cân cả bản đồ. Quân đội thì tùm lum tà la, từ người thượng trên Tây Nguyên, nông dân, đến hải tặc Tàu Ô. Khởi đầu hoành tráng nhưng kết thúc lãng xẹt.
-Vũ: ba phải, phe nào rủ thì theo phe đó, cát cứ vùng Tuyên Quang.
-Xiêm: cường quốc khu vực, cùng với Nguyễn là hai thằng bắt nạt Cam.
-Chăm: tắt điện từ thời vua Lê Thánh Tông trở đi. Thêm vào đây cho đông vui thôi.
-Cam: đệ của Tây Sơn, rất hay bị ăn hiếp và sai vặt.
-Lào: cũng một thằng đệ khác của Tây Sơn, bị đánh vì không nộp tiền bảo kê.
-Tây: Anh, Pháp, Bồ, Hà Lan… bọn này tới Việt Nam với nhiều mục đích. Đứa thì buôn bán, đứa đến truyền đạo, nhưng cũng có đứa ưa gây sự.
-Thanh: thiên triều thân yêu của chúng ta, mạnh nhưng ảo tưởng. Quê hương của Ngũ A Ca và Tiểu Yến Tử.

Chuyện chàng Năm – Đào Duy Từ

-Anh Năm ơi, nhậu khônggggg?
-Nhậuuuuu.
Thái uý Lê Thì Hiến vẫy tay khi thấy bạn mình đáp. Chàng Năm mặt buồn rười rượi, bước thất thểu ra khỏi căn nhà rách nát. Lê Thì Hiến an ủi:
-Thôi, đi uống một bữa cho quên.
-Sao mà quên được, cái xứ Bắc Hà này đối xử với tôi bạc ác quá.
Số là Năm mồ côi cha từ bé, sống với mẹ. Quy định của nhà Lê bấy giờ là cấm con kép hát đi thi vì xướng ca vô loài. Ngày xưa đi ca hát để nuôi thân là một nghề mạt hạng chứ không hoành tráng như showbiz bây giờ đâu, dù ca sĩ tài năng cỡ Mỹ Tâm hay Bằng Kiều mà dính luật của nhà Lê là con cháu tạch đường công danh hết.
Chàng Năm cười buồn khi nhớ lại mẹ mình. Muốn đi thi thì cậu phải đổi họ cha sang họ mẹ. Mà muốn làm được như vậy thì cán bộ xã ra yêu cầu là bà phải cưới hắn. Mẹ chàng Năm bảo:
-Khi nào nó đậu, tôi sẽ làm theo ý ông.
Chàng Năm quả nhiên đậu mà còn đậu rất cao vì chàng vốn thông minh. Lúc ấy cán bộ xã hí hửng:
-Bữa bà hứa gì đừng quên nha.
-Nó vừa mới thi xong mà tôi đi lấy chồng cũng hơi kỳ. Hay là ông gả con gái cho thằng Năm nhà tôi đi.
-Bà nói chơi hay nói giỡn thế?
Viên cán bộ tức giận khi thấy mẹ chàng Năm quá nhây nhưa. Ông ta lập tức đi tố cáo:
-Thằng Năm nó đổi họ đi thi đó.
Tin truyền về kinh thành và đưa cho bộ Lễ xử lý. Lúc đó quan thái phó Nguyễn Hữu Liêu đang chấm bài cho Năm thì cũng hơi nhíu mày:
-Bài thi hơi “phản động”, đưa cho chúa Trịnh Tùng xem mấy cải cách này chắc ổng lột da thằng nhỏ quá.
Nguyễn Hữu Liêu bóp trán chưa biết nên cho nhiêu điểm thì có tin của bộ Lễ truyền đến ra lệnh xoá tên chàng Năm ra khỏi khoa thi và lột hết áo mũ. Bà mẹ biết tin khóc ngất:
-Trời ơi tôi hại con tôi rồi!!!
Bà quá đau khổ nên đâm vào cổ tự tử. Chàng Năm vừa thi trượt, vừa mất mẹ nên bị chấn thương tâm lý, lâm bệnh nằm ở phòng trọ. Thái phó Nguyễn Hữu Liêu thấy tội nghiệp, nhân chúa Nguyễn Hoàng đi ngang qua có kể lại trường hợp của chàng Năm:
-Thằng đó nhà nghèo mà hiếu học, số nó lận đận quá, uổng phí một nhân tài.
Nói đoạn ông Liêu cho ông Hoàng mượn bài thi của Năm. Tiên chúa xem tới đâu tim đập chân run đến đấy, nhất định đây là người ta cần để gia tộc làm chủ được phương nam. Thế rồi Nguyễn Hoàng âm thầm đến gặp chủ nhà trọ:
-Đây là tiền của ta, ông cứ làm hết sức chạy chữa tẩm bổ cho cậu ấy khoẻ hẳn.
Chàng Năm được quý nhân phù trợ nên bệnh tình thuyên giảm. Vào một sáng mùa đông lạnh lẽo, cậu mở mắt tỉnh giấc thì thấy một ông già mặt mũi hồng hào, râu tóc bạc phơ, phục sức quyền quý đang ngồi cuối giường. Gượng bệnh ngồi dậy, chàng hỏi:
-Thứ lỗi, ngài là ai ạ?
-Anh cứ gọi ta là Nguyễn Hoàng. Trời rét nên ta vừa kéo chăn cho anh, cứ nằm nghỉ ngơi đi.
Tiên chúa đảo mắt quanh căn phòng trọ thì thấy bức tranh Lưu Bị đi Long Trung cầu Gia Cát Lượng về làm quân sư. Ông bèn ngâm:
“Vó ngựa sườn non đá chập chùng
Cầu hiền lặn lội biết bao công”
Chàng Năm đáp ngay:
“Đem câu phò Hán ra dò ý
Lấy nghĩa tôn Lưu để ướm lòng?”
Nguyễn Hoàng cười:
“Lãnh thổ đoán chia ba xứ sở
Biên thùy vạch sẵn một dòng sông”
Chàng Năm chốt lại:
“Ví chăng không có lời Nguyên Trực
Thì biết đâu mà đón Ngọa Long?”
Nguyễn Hoàng không còn mảy may nghi ngờ gì nữa, ông mừng thầm:
-Đúng là Ngoạ Long của ta rồi.
Nhưng Nguyễn Hoàng không dám đón chàng Năm ngay vì sợ lộ cơ mưu xây dựng vương quốc riêng ở phương nam, và chúa Trịnh sẽ kéo quân tiến đánh, nên ông dặn:
-Lão phu về trước, xin đắp sẵn đàn bái tướng chờ đợi tiên sinh. Năm nay lão phu hơn 70 tuổi, nếu không may ra đi, cũng xin di ngôn cho con cháu phải đón tiên sinh về dạy bảo.
-Bây giờ tôi không thể theo ngài à?
-Hiện chưa được đâu tiên sinh.
Chàng Năm nước mắt chảy đầy má:
-Cho tôi về Nam Hà với, tôi không muốn sống ở Bắc Hà nữa!
Nguyễn Hoàng nhìn chàng hồi lâu, rồi ngậm ngùi quay đi:
-Tiên sinh bảo trọng. Ngày sau có duyên gặp lại.
“Ly biệt cao hiền hết cậy trông,
Tôi tuôn suối lệ, chúa đau lòng.
Non nước phương nam trời sẵn để,
Cập bến Linh Giang, thức giấc rồng.”
Nguyễn Hoàng trở về Thuận Quảng, không bao giờ ra bắc nữa. Chàng Năm sau khi khỏi ốm cũng lủi thủi quay lại quê nhà. Gia đình không còn ai, sự nghiệp cũng không có, nghèo lại hoàn nghèo, may mà cũng kết bạn được với quan thái uý Lê Thì Hiến.
-Chuyện là như vậy đấy.
Chàng Năm kể xong, đưa một chén rượu lên miệng nốc cạn rồi nhìn xa xăm. Lê Thì Hiến hỏi:
-Mấy năm nay loanh quanh ở quê rồi, giờ anh nên nghĩ đến tương lai đi.
Chàng Năm đáp:
-Tôi nghe đất Thuận Quảng hiểm trở mà dân giàu. Vị chúa phương nam lại rất biết đãi ngộ nhân tài, xứng đáng là bậc bá vương. Nếu ta đến đó làm quân sư thì còn gì bằng. Anh nghĩ sao?
Lê Thì Hiến thủng thỉnh nói:
-Tôi không vào nam đâu, chí tôi khác anh, nhưng tôi cũng chẳng ngăn cản anh. Nếu đất bắc không còn giữ được anh nữa thì hãy ra đi và bay cao trên đôi cánh của mình.
-Vậy sáng mai tôi đi.
-Nói là làm liền à?
Chàng Năm quả quyết:
-Tôi đã đắn đo lâu rồi, hôm nay chốt luôn. Sáng hôm sau anh em mình sẽ chia tay ở trạm Hoàng Mai.
Đêm đó chàng Năm về sửa soạn. Sáng sớm anh đứng sẵn ở Hoàng Mai, hành lý trơ trỏng chỉ có mấy cân gạo. Lê Thì Hiến đưa đồ vàng ra tặng:
-Lộ phí đây, anh cầm lấy mà dùng.
Chàng Năm cảm động lắm:
-Bạn tốt.
-Mãi là bạn tốt.
Chàng Năm cầm tay Lê Thì Hiến nói mấy câu từ biệt:
-Chuyến này tôi đi xa mà không chết thì là nhờ ơn của anh, muôn đời khắc cốt ghi tâm. Sau này gặp nhau ở biên cương tôi sẽ đền đáp.
Sau hơn một tuần, chàng Năm vượt qua bờ cõi Nghệ An để tiến vào sông Linh Giang. Đêm ấy trăng tròn vằng vặc, soi rõ quân lính hai bên sông. Chàng hồi hộp:
-Xứ Đàng Trong kia rồi. Cuối cùng ta cũng đến. Thật sự là xa tận chân trời mà gần ngay trước mắt. Qua được con sông này là ta đặt chân vào đất Nam Hà.
Chàng nhẹ nhàng rón rén đẩy thuyền xuống nước. Quân Trịnh kêu lên:
-Ê ê thằng kia nó muốn vượt biên, bắt ngay!
Mười mấy thanh niên gươm giáo sáng loáng đổ xô tới. Chàng cắn răng đẩy thật nhanh ra giữa dòng rồi nhảy lên. Quân lính lội xuống nước cố nắm neo thuyền kéo lại. Chàng cầm gậy tre chống cự dữ dội, quất túi bụi vào chúng.
-Để tao đi, đừng cản tao!
-Có cái nồi bọn tao để cho mày đi ý, tin người vkl.
-CÚT!!!
Chàng đạp một cú vào ngực tên lính lì lợm bám lên mạn thuyền. Đại Linh Giang bỗng nổi sóng cuồn cuộn, kéo con thuyền nhỏ như chiếc lá đong đưa trên dòng nước lũ. Chàng toát mồ hôi đè dòng, loay hoay cả mấy canh giờ mệt lử mới qua được bờ bên kia.
-Ta đi kiếm chúa Nguyễn thôi.
Nhưng tiếc thay chúa Nguyễn đi kinh lý xa xôi chưa biết khi nào mới về. Chàng Năm đành tặc lưỡi:
-Thôi mình cũng đi phượt vậy.
Rồi chàng cầm lộ phí của Lê Thì Hiến, đặt những bước đầu tiên lên lên xứ Đàng Trong xa lạ. Chàng đi, đi rất nhiều, nghiên cứu thời vận và thế núi sông của Nam Hà để suy nghĩ mưu lược về sau. Sau khi hết tiền thì đi chăn trâu cho một nhà giàu ở Quy Nhơn, không xa nhà của anh em Tây Sơn về sau lắm. Chàng Năm một hôm nằm trên lưng trâu thong thả sáng tác “Ngoạ Long Cương”, có đoạn:
“Hưng vong bỉ thái có thì
Chớ đem thành bại mà suy anh hùng
Chốn này thiên hạ đời dùng
Ắt là cũng có Ngoạ Long ra đời.”
Phú ông thấy anh chăn trâu tự ví mình với Gia Cát Khổng Minh thì ngạc nhiên lắm, bèn đi nói chuyện với ông quan Trần Đức Hoà. Ông quan đọc xong bài thơ liền sửng sốt kéo ngay chàng Năm về dạy học cho con gái mình, đồng thời gả con gái luôn. Ít lâu sau ông Trần Đức Hoà được gặp chúa Nguyễn có khoe:
-Do thầy đồ nhà tôi làm đấy.
Chúa xem qua liền bảo:
-Mời ông ấy vào đây cho ta gặp.
Vị chúa này sử gọi là chúa Sãi, con trai chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Khi mẹ ông mang bầu thì nằm mơ có vị thần cho tờ giấy ghi chữ Phúc. Mọi người chúc mừng và bảo nên đặt tên cho cháu bé như thế. Nhưng bà nói:
-Nguyễn Hồng Phúc? Nguyễn Xuân Phúc? Nếu có mình bé tên Phúc thì chỉ một mình nó hưởng, chi bằng lấy làm chữ lót để con cháu cùng được hưởng. Con trai ta sẽ có tên Nguyễn Phúc Nguyên.
Và đó là sự tích ra đời của dòng họ Nguyễn Phúc, chân chủ phương nam. Nguyễn Phúc Nguyên là nhân vật có vai trò then chốt trong cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn. Một cuộc nội chiến ác liệt kéo dài và không phân thắng bại. Nó tiêu huỷ sức người, sức của, triệt phá đồng ruộng xóm làng và dẫn đến chia cắt sự thống nhất của quốc gia Đại Việt. Nhưng chế độ Đàng Trong của chúa Nguyễn đã thực thi những chính sách cai trị cách tân, khác với Đàng Ngoài lúc đó đang theo xu hướng Nho giáo thời Lê sơ, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Về mặt khách quan cuộc nội chiến có lợi cho xu thế phát triển của lịch sử dân tộc.
Nguyễn Phúc Nguyên có ý thức độc lập rất cao:
“Nghênh ngang một cõi biên thuỳ,
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà!”
Tài năng, dũng cảm, ông từng đánh bại tên hải tặc Nhật Bản Shirahama Kenki, và mở cửa Hội An để buôn bán với thế giới. Xứng đáng kế ngôi Tiên chúa Nguyễn Hoàng. Con đường mang tên ông ngày nay dẫn vào ga Sài Gòn, gần siêu thị Maximark 3 tháng 2.
Lại nói khi chàng Năm vào ra mắt chúa Sãi, thấy chúa ăn mặc tuềnh toàng, có mỗi cái áo lụa trắng thì dừng lại:
-Ông ta khinh mình à?
Chúa hiểu ý, vội vàng vào thay đồ, áo mũ chỉnh tề cho thật đẹp trai rồi ra đón. Chúa hỏi:
-Chẳng hay tiên sinh tên gì?
-Tôi họ Đào, tên Duy Từ.
Hai người đều thông minh nên trò chuyện vô cùng tâm đầu ý hợp. Từ đấy đại sự quốc gia chúa đều tin tưởng giao phó cho Đào Duy Từ. Chúa còn rất hay khoe với mọi người:
-Thầy Đào Duy Từ thật sự là Trương Tử Phòng và Gia Cát Khổng Minh tái thế.
Chàng Năm khốn khổ bị Đàng Ngoài hắt hủi ngày ấy, nay trở thành người thét ra lửa mửa ra khói ở Đàng Trong, dưới một người trên vạn người. Bấy giờ chúa Trịnh Tráng có gửi sắc thư vào nam:
-Đóng thuế ông ei. 7 năm rồi chưa đóng thuế cho triều đình, đừng có nhây. 30 con voi và 30 chiến thuyền nhé.
Nguyễn Phúc Nguyên hỏi ý Đào Duy Từ, thì Ngoạ Long tiên sinh mới bày kế. Ông gửi cho chúa Trịnh cái mâm vàng có mấy chữ ẩn dụ “ta không nhận sắc”. Thế là Trịnh Tráng điên máu và bắt đầu khởi binh hỏi tội. Sau khi đẩy lui được đợt tấn công đầu tiên của Trịnh Tráng, Đào Duy Từ lúc này mới trổ tài năng. Ông đắp luỹ ở Đông Hảo dài hơn trăm dặm, cong như hình cầu vồng chắn ngang nam bắc. Dựng vòm khói, khoét cửa súng, hễ có việc khẩn cấp thì vừa bắn súng vừa đốt lửa, thông đến tận quốc đô. Chẳng mấy chốc một “Vạn Lý Trường Thành made in Việt Nam” được xây nên, chính thức chia đôi thiên hạ từ đây.
’’Luỹ Thầy ai đắp mà cao
Sông Gianh ai bới ai đào mà sâu’’
Các cửa bể Minh Linh, Nhật Lệ đều đóng cọc và buộc khoá sắt để ngăn cản tàu thuyền. Đào Duy Từ thiết kế cho thật bền vững và liền mạch. Không bao giờ anh có thể tiến vào xâm lược Đàng Trong nếu chưa vượt được những cạm bẫy này. Xong xuôi, ông đem quân vượt sông Gianh đổ bộ bờ bắc, hạ thành giết tướng không biết bao nhiêu mà kể. Triều đình nhà Lê quên ăn mất ngủ, lo tính mọi cách để chống giữ, tuy có bớt lan tràn chiến sự nhưng đất cũ vẫn chưa lấy lại được hết. Lúc bấy giờ một tướng xin ra trận.
Đào Duy Từ đắc thắng chuẩn bị tiến quân, bỗng khựng lại. Ông lắp bắp:
-Lê Thì Hiến.
-Xin chào bạn tôi, anh Năm.
Lê Thì Hiến mỉm cười, hai ngựa đối đầu. Ông nói tiếp:
-Chúng ta vốn tình tri kỷ, nhưng ông phò chúa Nguyễn, tôi phò nhà Lê, vậy trên chiến trường không cần nương tay.
Đào Duy Từ thở dài:
-Lời hứa gặp nhau ở biên cương ngày xưa. Có lẽ đã đến lúc tôi báo đáp.
Bèn thu binh lui về bờ nam sông Gianh và đưa thư xin trả lại đất đã lấn. Nam bắc tạm thời nghỉ binh. Về sau khi Đào Duy Từ chết đã lâu, Luỹ Thầy vẫn sừng sững tại đó bảo vệ cho cơ nghiệp 200 năm của dòng họ Nguyễn Phúc. Lộc tôi trộm nghĩ nếu không có bức tường thành này, Đàng Trong đã bị tiêu diệt từ lâu bởi binh lực lớn hơn gấp 4 lần của Đàng Ngoài. Suốt Trịnh – Nguyễn phân tranh, Luỹ Thầy chưa-bao-giờ bị thất thủ. Thậm chí năm 1672 là năm ác liệt nhất, quân Trịnh 6 lần liên tục tấn công vào mặt luỹ nhưng vẫn không nổi. Cuối cùng họ phải ôm hận rút lui mà chẳng cách nào hạ được.
“Khôn ngoan qua được Thanh Hà,
Dẫu rằng mọc cánh khó qua Luỹ Thầy!”
Hiện nay tuy không còn nguyên vẹn như dáng vẻ ngày xưa, thậm chí có nhiều đoạn đã bị mất hoàn toàn do thời gian bào mòn và chiến tranh tàn phá, nhưng vẫn có một số đoạn còn lưu giữ được dấu tích. Rõ nét nhất là đoạn luỹ sát cửa sông Nhật Lệ hiện còn vết tích là một gò cao, cây cối mọc xanh tươi, hay đoạn luỹ Trường Dục đã được trồng cây chắn gió hạn chế thiên tai. Bạn nào đến Quảng Bình đi chơi Phong Nha hay Sơn Đòong các kiểu thì đừng quên ghé qua công trình tuyến phòng thủ có quy mô lớn nhất trong lịch sử thời phong kiến nước ta để selfie.
Chàng Năm Đào Duy Từ về sau được vua Gia Long xếp hàng số một trong tất cả các anh hùng có công với chín chúa và mười ba đời vua Nguyễn. Ông bảo vệ xứ Đàng Trong, mở đất về phương nam, xây dựng một triều đình tuyệt vời, là thầy của nhiều hiền tài và cũng là một danh nhân văn hoá với những đóng góp cho nhã nhạc cung đình Huế đến tận bây giờ.
“Nam Dương có kẻ ẩn nho
Khổng Minh là chữ, trượng phu khác loài
Một mình vẹn đủ ba tài
Phúc ta gẫm ắt ý trời hậu vay.”

Tống Thị – Mỹ nữ khuynh quốc khuynh thành thời chiến tranh Nam- Bắc triều

Có thể các bạn đã quá quen với Bà Trưng, Bà Triệu, Dương Vân Nga, Ỷ Lan, Huyền Trân, Ngọc Hân… Nhưng chắc chưa bao giờ nghe đến Tống Thị, Đắc Kỷ của Việt Nam
Tống Thị là một đại mỹ nhân, da trắng như tuyết, môi đỏ như son, tóc đen như gỗ mun. Nói chung ngon từ thịt, ngọt từ xương, chay mặn đều dùng được. Ngày đó bao đấng quân vương nhìn nàng mà lau nước dãi không kịp.
Tống Thị sinh vào thế kỷ 17, thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Nàng là chị dâu chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan) ở Đàng Trong. Nhưng sau khi góa chồng thì nàng bắt đầu… tán chúa. Sở hữu nhan sắc kiều diễm, phục sức trang nhã, phong cách yểu điệu thục nữ. Trông thấy Tống Thị, nhiều người còn nói như thấy giáng tiên vừa đội trăng sao, vừa rẽ khói vén mây xuống hạ giới. Không chỉ đẹp, Tống Thị còn có tài đưa tình quyến rũ, duyên dáng hơn người và ăn nói như rót mật vào tai. Đặc biệt, nàng còn có một xâu chuỗi trăm hoa rất thơm, cua trai hết sảy. Chiếc vòng tỏa ra một mùi hương ma mị, chúa Thượng ngửi xong cảm thấy trong người vô cùng rạo rực và bức xúc. Việc cưa vị chúa Nguyễn đối với nàng dễ như lấy đồ trong túi.
Từ ngày đó chúa Thượng từ một người hiền lành nhân ái, luôn lo cho dân cho nước, trở thành một tên hôn quân bạo chúa, vô cùng độc ác, hoang dâm vô độ. Để chiều người yêu, chúa dự định cho xây một tòa lâu đài nguy nga để hưởng lạc cùng nàng. Chúa bắt trăm họ lấy đá quý, gỗ hiếm, tập trung nhân công và thợ giỏi để thực hiện việc xây dựng. Thuế má từ đó thêm nặng nề. Chưa kể hạn hạn với nạn đói càn quét mọi nơi, khổ không chịu được. Tiếng kêu than vang khắp Đàng Trong. Không một ai can nổi, ai can là bay đầu ngay lập tức. Trong vương phủ, những ai còn chút lương tâm đều oán ghét Tống Thị và run sợ cho nghiệp chúa…
Số người chết oan ức vì Tống Thị ngày càng nhiều, nhưng mọi lời ca thán đều bị bưng bít. Rồi một ngày, một viên quan bất chấp tính mạng đến gặp trực tiếp chúa Thượng:
-Chúa công xem đi, chỉ vì một mụ đàn bà mà chúa công đẩy con dân của mình vào đường cùng như vậy sao? Chúa Thượng khoan dung của ngày hôm qua đâu rồi?
Người ấy phân tích mọi thứ cho chúa nghe, rồi đưa gươm lên cổ sẵn sàng tự tử. Chúa Thượng bừng tỉnh:
-Ta… ta sai rồi, cám ơn khanh đã nhắc. Ta có lỗi với thần dân của mình.
Chúa lập tức đi ngay ra công trường dẹp bỏ việc xây cất. Sau hôm đó cũng tránh mặt Tống Thị hẳn. Đang được sủng ái tự nhiên bị bồ “đá”, Tống Thị cay cú lắm, nàng quyết định trả thù. Nàng sẽ làm sao cho cả xứ Đàng Trong lẫn cơ nghiệp họ Nguyễn phải bị hủy diệt mới hả dạ! Và nàng làm điều ấy thế nào? Họ Trịnh.
Tống Thị đã viết một mật thư kèm theo xâu chuỗi trăm hoa, nhờ người dâng lên tận tay chúa Trịnh Tráng:
-Thiếp là Tống Thị. Nay có thư này muốn báo với đức chúa rằng Đàng Trong đang có biến, chúa hãy dẫn quân vào đánh ngay đi. Bây giờ là lúc thích hợp nhất. Thiếp sẵn sàng bỏ tiền túi ra tài trợ cho chương trình này luôn. Chơi láng đi. Khi thành công thiếp sẽ ra Đàng Ngoài hầu hạ người.
Chúa Trịnh đọc xong thư, cầm vòng hoa lên ngửi. Lập tức mắt chúa mơ màng như vừa hút cần:
-Phê quá…
Càng nhìn nét chữ càng mơ tưởng đến mỹ nhân nơi phương trời xa xôi đó. Lòng chúa Trịnh tràn ngập yêu thương và nhớ nhung như một chàng trai tuổi teen lần đầu biết yêu. Tới khi nhớ quá nhịn hết nổi, chúa Trịnh gấp rút tổ chức cuộc chinh phạt Đàng Trong để lấy điểm với Tống Thị.
Trịnh Tráng khởi binh, nhưng Nguyễn Phúc Lan đâu phải dạng vừa. Sau khi hết phê thuốc, chúa Nguyễn lập tức đẹp trai như xưa. Chúa sai Nguyễn Phúc Tần dẫn đoàn voi hùng dũng 100 con ra đối đầu. Quân chúa Trịnh bị đánh cho một trận nhớ mẹ, phải rút về lại bắc. Trịnh Tráng vỡ mộng gặp người đẹp.
Tống Thị chửi thề:
-@#-%*-%-, lần thứ hai rồi đó nha!
Quyết tâm quá tam ba bận mới đầu hàng. Nàng chuyển con mồi sang em ruột chúa Thượng là chúa Trung. Vì nàng nghĩ ông này mới đủ sức để thực hiện điều đó. Bởi vì lúc này chúa Thượng đã chết, cậu trai Nguyễn Phúc Tần trẻ tuổi ở trên nối ngôi.
Chúa Trung là người hung dữ, ban đầu thấy vì Tống Thị mà anh mình thành ra như thế nên cực kỳ căm ghét nàng, chỉ muốn xé xác phanh thây. Thế nhưng ngay khi vừa ngửi chiếc vòng hoa thì ông này cũng đờ đẫn, thứ bùa yêu này quả thật lợi hại. Sau đó là cảnh nóng xảy ra.
Bà có một kỹ thuật 18+ siêu đẳng gọi là “tía rụng hồng rơi”. Nhờ thế mà từ khinh bỉ, chúa Trung trở nên cực kỳ ghiền Tống Thị. Bấy giờ Tống Thị mới xúi Trung tiếp tục liên hệ với chúa Trịnh để đánh Đàng Trong lần nữa. Sự việc bại lộ, kết cuộc của Tống Thị là bị xử trảm và bêu đầu ngoài chợ vì tội phản quốc.
“Gái đẹp quả có mãnh lực vô biên, làm lung lạc cả đấng quân vương”, nhiều sử gia bình luận. Ngày xưa Dương Quý Phi mê ăn vải, Đường Minh Hoàng thậm chí phải cho người chạy sang tận Việt Nam lấy vải gấp về cho nàng ăn. Ăn nhiều quá nên bị nhiệt miệng, Dương Quý Phi khóc rưng rức vì đau. Đó cũng là lý do vải còn có tên khác là quả Lệ Chi. Đường Minh Hoàng thấy cute quá lại càng mê mệt, càng ngày ông càng lầy, và nhà Đường càng lúc càng nát.
Trở lại, dâm dâm cô nương Tống Thị bất chấp luân thường đạo lý làm bao nhiêu việc ác nên kết cục vậy cũng đáng. Người đàn bà từng chọc trời khuấy nước khuynh đảo cả lịch sử hai Đàng đó có một khối tài sản khổng lồ. Nhờ ăn hối lộ và bóc lột nhân dân mà Tống Thị tiền bạc như nước, vàng bạc châu báu chất đầy rương hòm, ruộng đất cò bay thẳng cánh. Chúa đã max giàu, mà bà giàu chỉ có thua có mỗi chúa thôi. Cuộc đời bà này viết fic cũng hay lắm. Đấy, thời Trịnh Nguyễn hấp dẫn quá trời, chỉ là không được dạy kỹ thôi.

Đặng Thị Huệ – Tuyên phi đảo thế khuynh thành của chúa Trịnh Sâm

Nếu đã nói về Tống Thị rồi mà không nhắc đến Đặng Thị Huệ thì thật thiếu sót. Một nàng quậy banh Đàng Trong, một nàng phá nát Đàng Ngoài. Sở trường chung là biến mấy anh từ minh quân thành hôn quân vô đạo trong vài nốt nhạc. Đúng chuẩn cụm từ “nghiêng nước nghiêng thành” như mấy nàng Đắc Kỷ, Muội Hỷ, Bao Tự bên Tàu.
Đặng Thị Huệ sinh ra tại Gia Lâm (Hà Nội), cô bé nhà rất nghèo, hàng ngày phải hái chè để mưu sinh. Đó là lý do sau này người ta gọi là Bà Chúa Chè. Nàng xinh đẹp nên nhanh chóng được đưa vào phủ chúa. Ban đầu chỉ là nô tỳ vớ vẩn thôi.
Một hôm Đặng Thị Huệ phải bưng khay hoa vào cho chúa Trịnh Sâm. Nàng nô tỳ mặt hoa mơn mởn, trang điểm nhẹ nhàng, mình liễu uyển chuyển, Trịnh Sâm trông thấy đã vội hỏi:
-Nàng tên gì?
-Dạ thưa, Đặng Thị Huệ.
Nói rồi, đôi mắt long lanh ướt át nhìn phớt vào cặp mắt chàng. Bốn mắt đưa lên, rồi bốn hàng mi lại rũ xuống, rồi lại bắt gặp nhau lần nữa, khiến cho chúa Trịnh ngẩn ngơ như chìm vào cõi mộng, y hệt bị thu hồn đoạt phách. Ôi cặp mắt ấy, đâu khác gì sóng nước hồ thu đưa thuyền tình. Trịnh Sâm đờ đẫn nắm lấy tay Đặng Thị Huệ kéo nàng vào lòng.
18+ 18+ 18+ (Đặng Thị Huệ với Tống Thị giống nhau ở chỗ rất pro 18+)
Trịnh Sâm trước đây vốn là một minh quân. Trong số 12 chúa Trịnh thì Trịnh Sâm nằm trong số những chúa “xịn”. Vừa hào hoa phong nhã, xuất khẩu thành thơ, từng đối đáp với đại văn hào Ngô Thì Sĩ. Và là vị chúa Trịnh đầu tiên dám dẫn quân vào tận xứ Đàng Trong đánh thẳng vào kinh thành Phú Xuân, khiến cả nhà chúa Nguyễn và cậu bé Nguyễn Ánh phải tháo chạy vào Sài Gòn. Nếu mà đừng chết yểu như Nguyễn Huệ thì Trịnh Sâm rất có thể sẽ là người thống nhất Việt Nam.
Nhưng mà đời đâu như mơ và tình đâu như thơ, Trịnh Sâm mê Đặng Thị Huệ đến quên hết mọi thứ. Một vị chúa tàn nhẫn, gian hùng như Trịnh Sâm mà hoàn toàn bị Đặng Thị Huệ dắt mũi. Đến mức khi vào Đàng Trong đánh quân Nguyễn, Trịnh Sâm có bắt được một viên ngọc dạ quang đẹp tuyệt vời. Chúa quý viên ngọc lắm nên thường cài nó trên khăn. Một lần Thị Huệ đưa tay cầm viên ngọc mân mê. Chúa mới sốt sắng:
-Nàng nhẹ tay thôi, đừng làm trầy ngọc của ta.
Thị Huệ nghe vậy cầm viên ngọc ném ngay xuống đất rồi khóc lóc bảo:
-Chàng quý hòn ngọc ấy hơn thiếp hả? Bất quá thiếp vào Quảng Nam tìm hòn ngọc khác cho chàng. Cái đồ trọng của khinh người!
Nói rồi Thị bỏ về phòng và mấy ngày liền tránh mặt chúa. Chúa Trịnh xót của thì xót thật, não hết cả ruột gan luôn chứ không đùa. Nhưng vẫn phải mất bao công sức dỗ dành năn nỉ mới làm nàng vui lòng và chịu bỏ qua cho mình.
Thậm chí chúa không ngừng dùng tiền quốc gia, vắt óc nghĩ ra những thứ hay ho để chiều lòng Tuyên phi. Cứ đến dịp trung thu là chúa cho lấy gấm lụa trong kho ra làm đèn lồng. Gấm thượng hạng nha, không phải vải nhà quê đâu, mỗi cái có giá đến vài chục lạng vàng. Và dựng đến hàng trăm cây phù dung ven hồ Long Trì để treo đèn chỉ nhằm mục đích ghi điểm với Thị Huệ.
Một lần có một người Tây đem đến phủ chúa một lọ nước hoa rao bán với giá 10 xe ngọc. Cái giá rất cắt cổ, chúa Trịnh Sâm còn phải toát mồ hôi. Thị Huệ thích lắm nhưng chúa còn tiếc tiền, 10 xe ngọc chứ có phải 10 xe đá đâu??? Nàng dỗi, bèn phụng phịu bỏ ăn ba bữa làm Trịnh Sâm phải đồng ý mua mặc dù đắng hết cả lòng mề. Tội anh Sâm vãi, vớ phải con mẹ bánh bèo này đúng là quá đen, mà cũng tại ảnh dại gái quá.
Do chị được chúa yêu như thế nên em trai nàng là thằng đại dâm tặc Đặng Mậu Lân làm đủ chuyện khốn nạn mà vẫn không sao. Mậu Lân không ngán ai cả. Cái phủ của hắn ở Thăng Long to không kém phủ chúa, ăn uống thì cực kỳ kenny sang hoàng tộc. Trong nhà chứa cả trăm osin, cho đeo gươm. Mỗi khi hắn đi chơi là kéo nguyên băng đi cùng, uống rượu đánh nhau tưng bừng hoa lá mà lính gác đành bó tay. Đặc biệt Mậu Lân còn nuôi rất nhiều kiki, và hễ ra phố là bọn nó cũng được đi theo. Các kiki đều được mặc áo thêu, đeo chuông vàng, chạy lung tung ị đái khắp phố phường. Dân Hà Nội ngày đó cực ghét thằng trẻ trâu Mậu Lân.
Đặng Mậu Lân nổi tiếng khắp thành Thăng Long là một thằng mất dạy chuyên sàm sỡ con gái nhà lành, nhưng vì chị hắn là Tuyên phi nên mọi người bó tay. Có lần hắn dê một cô gái không được, liền cắt luôn vú cô ta, đồng thời tống cổ chồng cô vào tù luôn. Thậm chí con gái cưng của chúa Trịnh Sâm mà hắn cũng không tha.
-Cưng à, cho anh hun miếng.
Hắn đè cô bé xuống. Quan Sử nội giám lao vào can thì Mậu Lân nổi điên chém chết. Sau đó cắm thanh gươm trước cửa thách thức:
-Thằng nào vào tao đồ sát!
Nghe tin dữ, chúa phải sai người đem quân vây bắt Lân giải về phủ, giao cho triều đình xử tội. Các quan đều nói tội Lân đáng bêu đầu. Tuyên phi nghe tin khóc lóc xin chết thay em. Chúa bất đắc dĩ phải tha cho Lân tội chết và giảm xuống thành tội đi đày ở châu xa. Lân xếp dọn nhà cửa, mặc áo tù thủng thỉnh bước ra khỏi kinh, có sẵn thuyền để chở đi. Lân đem theo rất nhiều gái, tiếng đàn sáo véo von không dứt. Ra đến nơi chịu đày quan địa phương phải làm nhà cửa cho gã ở. Kinh chưa?
Tuyên phi Đặng Thị Huệ chiều em như thế thì đối với con trai còn thế nào nữa? Theo lẽ thì chúa Trịnh Sâm phải nhường ngôi cho con trưởng Trịnh Tông của Thái phi. Nhưng quá yêu Tuyên phi Đặng Thị Huệ mà chúa cãi lời mẹ mình để truyền ngôi cho Trịnh Cán (chúa Trịnh Sâm nổi tiếng có hiếu nhé).
Trịnh Sâm là một người cực kỳ khang kiện mà từ khi cặp với Đặng Thị Huệ thì càng lúc càng đuối, phang phập, rượu chè, mới 44 tuổi mà đã sức tàn lực kiệt rồi qua đời. Trịnh Sâm có nhiều cung tần vào loại nhất trong các chúa Trịnh, tầm 400 bà. Như thế thì đến trâu bò cũng chết chứ đừng nói người. Trịnh Cán lên thay, nhưng mà thằng cu này rất ốm yếu. Trước học sách giáo khoa có trích tác phẩm Thượng kinh ký sự của Hải Thượng Lãn Ông, nói về việc vào phủ chúa Trịnh, chính là để chữa bệnh cho thằng nhóc Trịnh Cán này đây.
Trịnh Cán làm chúa được có 1 tháng thì đã bị phe ủng hộ Trịnh Tông đạp xuống. Tuyên phi Đặng Thị Huệ giờ mới khổ, chúa Trịnh Sâm chết rồi thì ai bảo vệ bà? Mẹ của Trịnh Tông là Thái phi vốn cay Tuyên phi từ vụ cướp ngôi con bà, giờ mới thỏa sức trả thù.
-Thị Huệ, lạy ta nào!
Thái phi buộc Tuyên phi lạy tạ. Tuyên phi không chịu lạy, Thái phi sai hai a hoàn đứng hai bên nắm tóc Tuyên phi dập đầu xuống đất, nhưng bà vẫn kiên quyết không lạy là không lạy, cắn răng chẳng nói nửa lời. Thái phi điên máu quát:
-Đánh chết nó cho ta!
Đám a hoàn xúm lại đánh đập Tuyên phi túi bụi, phun nước miếng đầy mặt mũi bà. Tuyên phi bầm tím khắp người, vừa đau đớn vừa nhục nhã. Sau đó nàng bị bắt giam vào nhà Hộ Tăng ở vườn sau. Tại đây Đặng Thị Huệ bị làm tình làm tội cực kỳ khổ sở, y như cảnh hoàng hậu với Dung ma ma hành hạ Tiểu Yến Tử trong Hoàn Châu Cách Cách. Một bữa chịu không nổi, bà bỏ trốn, nhưng sắp lên được đò thì bị quân lính bắt lại.
Sau một thời gian bị biệt giam, Thị Huệ được cho làm cung tần nội thị, vào Thanh Hóa hầu hạ lăng tẩm chúa Trịnh Sâm. Bà ngày đêm gào khóc:
-Chàng ơi cho thiếp theo với, sống thế này khổ không bằng chết!
Đến ngày giỗ của chúa, Tuyên phi ngẩng mặt lên trời, bưng chén thuốc độc uống một hơi. Chiếc chén rơi xuống đất vỡ tan, bà ngã ra sau, máu tuôn xối xả từ miệng, hơi thở lịm dần rồi tắt hẳn. Tuyên phi Đặng Thị Huệ, người đàn bà khuynh đảo Đàng Ngoài một thời, người khiến chính quyền chúa Trịnh 200 năm lung lay nghiêm trọng, chỉ còn chờ vua Quang Trung đến đánh gục, đã qua đời trong hoàn cảnh cô đơn lạnh lẽo tột cùng. Bà được an táng cách mộ chồng một dặm.


Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen