Phần 1. SINH HỌC CON ONG
Ong mật (Honeybees, Apis mellifera) và nhiều loài ong hữu ích khác đang trên đà báo động, số lượng ong giảm sút rõ rệt do môi trường khí hậu biến đổi, ký sinh, bệnh tật truyền nhiễm, và thuốc trừ sâu bệnh, v.v.
Để đối phó với hiện tượng trên, tạp chí Nature số 521 phát hành ngày 21/5/2015 có một loạt bài cập nhật kiến thức khoa học về loài ong, ong mật cũng như ong hoang dại, với sự hổ trợ tài chánh của công ty Bayer CropScience.
LOÀI ONG. Trên thế giới có khoảng 25.000 loài ong, sinh sống ở mọi vùng khí hậu (ngoại trừ 2 cực) từ đồng bằng đến núi cao 3.200 m, phân loại trong 9 họ tộc (family) chính:
– Apidae: 5.811 loài, sống tập đoàn, gồm ong mật (honeybees), bumblebees (ong vò vẽ), stingless bees (meliponines, ong không có ngòi đốt), orchid bees (ong hút mật ở hoa phong lan), carpenter bees (Xylocopa, làm ổ trong gỗ, gỗ mục, bọng tre), và cuckoo bees (ong tu hú, đẻ trứng trong ổ ong loài khác).
– Halictidae: 4.401 loài, sống tập đoàn, gồm các loài “ong mồ hôi” (sweat bees), vì chúng thường lôi cuốn bay đến thân đổ mồ hôi của thú hay người.
– Megachilidae: 4.111 loài, sống đơn độc, gồm ong leaf-cutter và mason bees (trong kẻ tường).
– Andrenidae: 2.952 loài, ong đào hang trong đất.
– Colletidae: 2.595 loài, ong đào hang, làm ổ trong bọng tường.
– Melittidae: 201 loài, gồm gia đình nhỏ, đào hang trong đất làm ổ, sống bằng nhụy phấn của vài loại hoa đặc biệt.
– Stenotrinidae: 21 loài, đào hang trong đất làm ổ, bản địa Úc châu.
Nên nhớ là tò-vò (Sceliphron sp.) không thuộc loài ong hay loài kiến.
Giống ong mật. Ngoại trừ 3 loài ong Trigona không có ngòi đốt ở Nam Mỹ sống ký sinh trên động vật khác, tất cả loài ong đều hút mật ăn phấn hoa nhưng đa số chỉ mang về ổ dự trữ vừa đủ để nuôi ong con, nên con người ngày nay thuần chủng nuôi đại trà khoảng 10 loại ong mật (Hình 1). Có khoảng 7 loại ong mật (Apis) và nhiều phụ-loại (sub-species) được con người nuôi, chiếm 0, 05% toàn loài ong trên thế giới.
– Apis mellifera – thường gọi là “ong mật Âu châu”, có nguồn gốc khá rộng gồm Âu châu (với 5 phụ loại trong số đó Apis mellifera ligustica (ong Ý) du nhập vào Việt Nam), Phi châu (9 phụ-loại), và Trung Đông (5 phụ loại). Ong mật (Apis mellifera) được nghiên cứu nhiều nhất.
– Apis cerana (hay A. sinensis) – “ong mật Á châu”, gồm các phụ-loại Apis cerena cerana (ong Tàu),Apis cerena Japonica (ong Nhật Bản), Apis cerena hymalaya (Ong Hy-Mã-Lạp-Sơn). Ong bản địa ở Việt Nam thuộc phụ-loại ong Tàu.
– Apis dorsata (ong khoái) trong rừng ở Đông Nam Á và Nam Á châu.
– Apis florea (ong ruồi) gốc Đông Nam Á và Nam Á Châu. Thân nhỏ và ổ ong cũng nhỏ.
– Apis laboriosa hay Apis dorsata laboriosa (Himalayan honey bee), Việt Nam gọi là “ong đá”. Thân to nhất trong loài ong mật, ổ ong trong vách đá trên núi cao tới 3.000 m, ổ rất lớn.
– Apis koschevnikovi (ong Borneo), nguồn gốc Mã Lai và Borneo.
– Apis andreniformis (black dwarf honey bee) nguồn gốc vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới Á Châu.
– Melipona sp. (Ong Mỹ châu), phân phối từ Mexico tới Argentina, có khoảng 40 loài. Thân nhỏ, không có ngòi đốt (stingless), nuôi cho mật, thụ phấn hoa lan vanilla, nuôi trong nhà kính để thụ phấn cà chua, ớt ngọt.
– Trigona spinipes ong không có vòi chích, nguồn gốc Brazil.
Vùng đa dạng sinh học ong
Không có loài ong ở Nam Cực. Ở Bắc Cực tuy có hoa trong mùa hè nhưng ong rất hiếm. Tại vùng xích đạo và nhiệt đới, chỉ có vài loài ong bởi vì khí hậu nóng ẩm nên ít có loài cây có hoa thích hợp cho ong sinh sống. Hơn nữa, ong thích hợp vùng khí hậu ôn hòa, mát như khí hậu vùng Địa Trung Hải.
Trên thế giới, 6 vùng địa lý, nơi có khí hậu tương tự vùng Địa Trung Hải, là những nơi ong hút mật được phân phối, rất đa dạng về giống và loài.
– Vùng bờ biển tây Hoa Kỳ: California có nhiều loại khí hậu và đa dạng thực vật hiển hoa, nên có khoảng 2.000 loài ong trong nhiều tộc họ khác nhau.
– Chile có 183 loài ong trong vùng khí hậu Địa Trung Hải và 176 loài ong trong vùng sa mạc.
– Địa Trung Hải là vùng rất phong phú và đa dạng ong. Âu châu có khoảng 2.000 loài ong, riêng Spain có trên 1000 loài.
– Trung Á gồm Kazakhstan, Usbekistan, Kyrgyzstan, Turkmenistan và Tajikistan có ít nhất 1.924 loài ong.
– Vùng Hão Vọng Nam Phi có ít nhất 645 loài ong.
– Nam Úc có 1.647 loài ong, chưa kể 300-400 loài ong chưa định danh.
Hình 2. Vùng phân bố đa dạng sinh học loài ong (màu vàng).
Sinh trưởng
Số trứng mỗi con ong đẻ biến đổi tùy loài, từ 8 trứng cho loài ong đơn độc đến hàng triệu trứng cho ong chúa. Trứng đẻ vào mùa xuân. Trứng nở thành ấu trùng sau 3 ngày, ấu trùng sống nhờ sữa ong chúa (royal jelly, chất dinh dưỡng sản xuất từ một tuyến trong đầu ong thợ), ong chúa tương lai tiếp tục ăn sữa-ong-chúa, còn ong thợ (worker bees) và ong đực (drone) thì ăn hợp chất gồm mật, phấn hoa và nước, kém bổ dưỡng hơn. Khoảng 4 ngày sau (8 ngày sau đẻ trứng), ấu trùng biến dạng thành ong, rồi sau 2-3 tuần ong con chui ra. Ong thợ (workers) là ong cái bất thụ (sterile females), ong đực (drones) là ông đực hữu thụ (fertile males), còn ong chúa (queens) là ong cái hữu thụ (fertile females).
Hình 3. Chu kỳ từ trứng đến ong mất từ 2 đến 3 tuần
Thức ăn chánh của ong là hạt phấn và mật của hoa. Ong tiêu hóa hạt phấn để cho proteins và mật cho năng lượng. Vài loài ong như ong Macropis hút tinh dầu của hoa để làm thức ăn cho ấu trùng, còn ong trưởng thành không ăn tinh dầu. Ong thuộc loại “ăn chay” (vegetarian), tuy nhiên, có 3 loài ong Trigona không có ngòi đốt ở Nam Mỹ (Trigona crassipes, Trigona necrophaga,và Trigona hypogea) sống nhờ proteins trên thịt hư thối nên được gọi là “ong kênh kênh” (vulture bees).
Hàng ngày từ tinh sương đến mờ tối ong bay ra khỏi ổ đi tìm hoa, có khi xa vài km, hút mật lấy phấn hoa rồi mang về ổ, bay nhiều chuyến trong ngày. Chính màu sắc rực rỡ của cánh hoa giúp ong nhận thấy từ rất xa. Con ong tìm được nguồn hoa mới, sau khi mang thực phẩm về ổ, bèn nhảy một vũ điệu gọi đàn “waggle dance”, truyền tin đến ong khác biết vị trí để cùng đến thâu hoạch hạt phấn và mật. Ong bay hút mật từ hoa này đến hoa khác, và từ cây này đến cây khác, trong cùng loài hay khác loài, mang theo phấn hoa nên giúp sự thụ phấn và lai tạo cùng giống hay khác giống. Vì có nhiều loại hoa có kiến trúc khác nhau, cổ hoa hẹp và sâu chẳng hạng, thì chỉ có loài ong có vòi nhỏ và dài mới có thể hút được mật. Vì vậy, mỗi loại cây có một loại ong thích ứng.
Ong làm ổ treo trên cành cây hay mái nhà. Tuy nhiên có loài ong làm ổ trong bọng cây, trong hang đá, kẽ hở trong vách tường, hay đào hầm trong đất (mining bees). Hầm có rất nhiều ngóc ngách, cuối mỗi hầm là một phòng, ong đẻ 1 trứng; có loài đẻ tới 60 trứng trong mỗi phòng. Một loài ong khác mang tên “ong tu hú” (Cuckoo bees) chuyên đẻ trộm trứng của mình vào ổ ong của loài khác. Đó là loại ong ký sinh, Ở Anh có 6 loài “ong vò vẽ tu hú” chuyên đẻ trộm trứng vào ổ ong vò vẽ.
Tuổi thọ của ong thợ khoảng 3 đến 6 tuần lể, còn ong chúa khoảng 5 năm.
Hành vi ứng xử trong xã hội ong
Trong một ổ ong mật, tổ chức xã hội rất phân minh, mỗi cá nhân trong mỗi tầng lớp xã hội ong làm đúng phận sự của mình mà không có cấp trên điều khiển. Mặc dầu gọi là ong chúa, nhiệm vụ ong chúa chỉ biết đẻ trứng mà thôi, trứng nở thành công chúa (để thành ong chúa sau này cho một ổ ong khác khi tách bầy), ong đực (drones) hay ong thợ (workers) tùy theo khẩu phần dinh dưỡng dành cho mỗi tầng lớp xã hội loài ong, được xấp xếp sẳng trong một số phòng, theo một tỉ lệ hợp lý của xã hội loài ong. Trứng nào đẻ trong ít phòng có dinh dưỡng cao sẽ thành ong chúa, trứng nào đẻ ở phòng có khẩu phần kém dinh dưỡng thì thành ong thợ. Không có tầng lớp quan lại để thừa lệnh sai khiến ong thợ.
Các nhà khoa học, từ khoa di truyền đến khoa xã hội học, nghiên cứu tại sao xã hội ong gồm hàng vạn con ong mà sống hòa hợp, hợp tác và truyền thông được với nhau. Gene di truyền nào chi phối những đặc tính đó?
Sự phân công việc làm của ong thợ rất rõ ràng, mỗi con ong có một nhiệm vụ riêng. Sau khi phát triển thành ong con, ong thợ con phải ở trong ổ 1-2 tuần, làm nhiệm vụ chăm sóc ấu trùng, dọn dẹp sạch sẽ trong ổ ong, lôi xác chết và chất bẩn ta khỏi ổ. Từ từ, ong bắt đầu làm nhiệm vụ, bay theo đàn ong lớn tuổi và có kinh nghiệm để thâu hoạch phấn và mật. Thời kỳ nhận nhiệm vụ thâu hoạch không tùy thuộc vào tuổi mà tùy theo nhu cầu của ổ ong. Ổ ong lúc nào cũng duy trì một sự cân bằng hợp lý giữa các tầng lớp thợ, công tác chăm sóc bên trong ổ và công tác thâu hoạch phấn và mật ở ngoài ổ. Khi trong ổ thiếu thợ làm việc trong nhà thì tự động có một số thợ bên ngài được điều động về làm chuyện trong ổ, ngược lại khi không có nhiều chuyện trong ổ thì ong bay ra ngoài tìm hoa. Như vậy khi có hiện diện ong lớn tuổi trong ổ thì ong con không “được phép” bay ra ngoài thâu hoạch mặc dầu đã tới tuổi lao động. Ong non thường làm việc không hiệu quả, thăm viếng ít hoa hơn, thâu hoạch ít mật và phấn hoa, thời gian bay bên ngoài cũng ít. Ngoài ra, ong càng “vị thành niên” thì càng bị dễ chết ở ngoài trời, có khi chỉ 30 phút sau khi ra ổ. Vì một lý do gì đó, như bị chết hàng loạt bởi thuốc diệt sâu bọ hay bệnh tật, số ong thợ trưởng thành bay đi thâu hoạch phấn mật hoa bị sút giảm năng nề, thì ong non được “biệt phái” ra ngoài ổ tìm thức ăn, nhưng không hiệu quả, cả ổ ong bị thiếu thúc ăn là mật và phấn hoa, ổ ong trên đà kiệt quệ và cuối cùng phá sản, tan bầy. Ổ ong là kho tồn trữ nhiều loại thức ăn, mật và phấn hoa nhiều nguồn gốc khác nhau, hễ thiếu thứ nào thì mỗi con ong tự biết đi tìm thứ đó để bổ xung. Khi một con ong tìm được một nguồn hoa phong phú về thức ăn mong muốn, nó bay về ổ và thông báo tập thể bằng vũ điệu “waggle dance” (điệu múa thân lắc lư) để biết về hướng, khoảng cách và loại thực phẩm. Đó là kết quả nghiên cứu ở Đại học Macquarie University (Sydney, Australia). Đại học University of California ở San Diego (Hoa Kỳ) còn khám phá thêm một vũ điệu khác của ong thông báo với tập thể là nguồn thức ăn đó đã hết rồi, đừng bay đến nơi đó nữa. Vũ điệu này gồm động tác ngưỡng đầu lên, vỗ cánh theo một chu kỳ riêng biệt. Làm sao vũ điệu ảnh hưởng đến tập thể ong chung quanh nó biết nó muốn nói điều gì? Đó là một bí mật mà các nhà khoa học tìm cách giải mả.
Hình 4. Một con ong khiêu vũ “Waggle dance” truyền tin cho nhóm ong chung quanh
Nghiên cứu cách bay của ong là mục tiêu của các nhà thiết kế máy bay. Con ong có thể bay thẳng với tốc độ rất nhanh, khi thấy một bụi cây có hoa, nó bay chậm, bay lần quần bay qua bay lại quanh cây, bay đứng yên một chỗ, rồi thình lình đáp xuống rất nhanh, nhưng khi đậu trên cánh hoa thì lại nhẹ nhàng, không làm cánh hoa mảnh khãnh rung động. Ong có thể bay lên thẳng đứng một cách nhanh chóng với sức nâng mảnh liệt. Làm sao cánh ong làm được mọi cách bay đó? Cánh ong đập 240 lần trong một giây, tạo một âm thanh vo vo và một luồng gió quanh thân thể, tùy theo góc cạnh và xoay trục của cánh mà có thể có nhiều cách bay khác nhau. Cánh máy bay chỉ cho phép một góc nghiêng 5° để máy bay nâng cao hay hạ thấp từ từ, nếu góc cánh vượt quá góc này, máy bay sẽ bị rớt. Ngược lại, ong điều chỉnh góc cánh nghiêng tới 50° hay hơn, tạo một lực đẩy lên rất mạnh, đồng thời ngay sau đó cánh xoay ngược lại một góc 50° khác tạo một sức đẩy lên mảnh liệt khác.
Một nghiên cứu khác do một nhà khoa học thực hiện ở Hy Mã Lạp Sơn về khả năng bay cao. Ở độ cao 3.250 m trên lưng chừng Hy Mã Lạp Sơn, ở độ cao thấy có ổ ong, cho ong vào một bình thủy tinh kín, dùng bơm hút bớt không khí và tạo áp xuất không khí tương đương với cao độ 7.400 m, thì thấy cánh ong vươn dài ra và ong bay bình thường, tiếp tục rút bớt không khí và giảm áp xuất không khí tương đương với độ cao hơn nữa, kết quả cho thấy ong có thể bay ở cao độ 9.125 m, trong lúc đỉnh cao Everst là 8.848m. Ngược lại, nén bình và tạo áp xuất cao thì con ong đó có thể bay ở áp xuất cao tương đương với áp xuất nước ở độ sâu 1.000 m dưới mặt biển. Làm sao, con ong có khả năng điều chỉnh thích ứng với áp xuất cách biệt kinh khủng đó?
Nghiên cứu về cách bay, khí động học lúc ong bay sẽ giúp kiến tạo máy bay linh động hơn, nhất là các loại máy bay tí hon drone xử dụng trong tình báo, chiến tranh, v.v.
Hình 5. Một thiết kế tí hon bắt chước cách bay của loài ong
Các nhà khoa học cũng nghiên cứu hệ thống vi trùng sống trong bộ tiêu hoa loài ong cũng mang nhiều kết quả thích thú. Một khám phá cho thấy tất cả ong trong một ổ có cùng số loại vi trùng như nhau, ấu trùng sau khi nở thì thấy không có vi trùng nào trong ruột, nhưng chỉ 3 ngày sau thì có đủ loại vi trùng như ong trưởng thành. Một nghiên cứu ở Thụy Sỉ năm 2011 cho biết nhóm vi trùng chính trong ruột ong có nhiệm vụ bảo vệ chống ký sinh trypanosome gây bệnh ở vò vẽ và ong mật. Nhóm nghiên cứu của Đại học Yale khám phá vài dòng vi khuẩnGilliamella trong bụng ong mật có nhiệm vụ làm tan chất pectin là một loại đường chứa trong màng bao hạt phấn, còn nghiên cứu ở Newton of Indiana University cho biết nhiều loại vi khuẩn có nhiệm vụ biến chất bột carbohydrate là thành phần cấu tạo của hạt phấn và mật của hoa. Nhóm nghiên cứu ở cơ quan Agricultural Research Service tại Beltsville, Maryland, năm 2014 tường trình rằng sự có mặt của vi khuẩn Snodgrassella alvi trong bộ tiêu hóa của ong mật làm giảm phân nửa số virus gây bênh cho ong vì vi khuẩn này làm tăng hệ miễn nhiễm, ví vậy gia tăng lượng vi khuẫn này sẽ làm ổ ong không bị bệnh.
Trong bộ tiêu hóa của ong, có khoảng từ 6 đến 8 nhóm vi khuẩn chính, mỗi nhóm có một nhiệm vụ riêng biệt.
Một điều thích thú và kinh ngạc là hệ vi khuẩn của ong chúa thì hoàn toàn khác với ong thợ. Khám phá vai trò vi khuẩn trong ong chúa đang là đề tài nóng bỏng đang nghiên cứu.
Các nghiên cứu trên tập trung vào hệ vi khuẩn trong bộ tiêu hóa. Ngược lại, nhóm nghiên cứu ở Carl Hayden Bee Research Center tại Tucson, Arizona nghiên cứu về vi khuẩn ở bên trong ổ ong. Mật ong cũng như các chất khác bên trong ổ ong tạo môi trường chống vi khuẩn mảnh liệt nhất.
Nghiên cứu về vi khuẩn bên trong bộ tiêu hóa của ong cũng như bên trong ổ ong sẽ giúp cải thiện việc chống bệnh tật ở loài người.
Hình 2. Hình vẻ cách đây 4.500 năm ở Ai Cập
Người Tàu biết nuôi ong mật cách đây 3.000 năm với giống ong mật Á châu (Apis cerana), còn ở Trung Mỹ người Mayans nuôi giống ong Melipona là loài ong không có liên hệ gần với loài Apis, nhưng cũng cho mật và không có ngòi đốt. Người Mayans dùng khúc gỗ rỗng ruột đặt trong rừng, trong vườn hay mái nhà để ong đến làm ổ (Hình 3).
Phần 2. SỰ QUAN TRỌNG CỦA ONG
SỰ LIÊN HỆ GIỮA LOÀI ONG VÀ LOÀI NGƯỜI. Các loài linh trưởng (primates) như khỉ, vượn, gorilla và chimpanzee biết tìm ổ ong để ăn mật, vì vậy con người tiền sử Homo đầu tiên, do tiến hóa từ linh trưởng, biết ăn mật. Mật vừa ngọt vừa bổ dưỡng nên có thể là thức ăn quan trọng vào thời đó. Con người tiền sử tổ chức thành toán đi tìm bắt ổ ong. Chẳng hạn hiện nay bộ lạc Hadza ở Tanzania mà mật ong chiếm 15% khẩu phần hàng ngày cũng có tổ chức đi săn tìm mật ong trong rừng như vậy. Cách đây 2,6 triệu năm người Homo sapiens có ưu thế trong việc thâu hoạch mật hơn loài linh trưởng vì biết phát minh dụng cụ bằng đá để đập chặt chẻ thân cây nơi có bọng chứa ổ ong. Dựa vào khẩu phần quan trọng hàng ngày là thức ăn giàu chất bổ dưỡng của mật ong, một thuyết tiến hóa cho rằng chính nhờ mật ong mà bộ óc người Homo phát triển càng về sau càng lớn và càng thông minh hơn.
Bức tranh vẻ cách đây 8.000 năm trên vách hang động ở Tây Ban Nha (Hình 1) cho thấy con người có kỷ thuật lấy ổ ong từ thời rất xa xưa.
Con người biết nuôi ong mật cũng rất xa xưa. Trong Hình 2, bức tranh vẻ cách đây 4.500 năm cho thấy kỷ thuật nuôi ong ở Ai Cập, theo đó ổ ong là một ống làm bằng sét dài 1 m, một đầu bít kín, một đầu để trống để ong bay vô ra làm ổ.
Bức tranh vẻ cách đây 8.000 năm trên vách hang động ở Tây Ban Nha (Hình 1) cho thấy con người có kỷ thuật lấy ổ ong từ thời rất xa xưa.
Con người biết nuôi ong mật cũng rất xa xưa. Trong Hình 2, bức tranh vẻ cách đây 4.500 năm cho thấy kỷ thuật nuôi ong ở Ai Cập, theo đó ổ ong là một ống làm bằng sét dài 1 m, một đầu bít kín, một đầu để trống để ong bay vô ra làm ổ.
Hình 1. Tranh vẻ trong hang động ở Tây Ban Nha cách đây 8 ngàn năm mô tả cách lấy mật ong
Hình 2. Hình vẻ cách đây 4.500 năm ở Ai Cập
Người Tàu biết nuôi ong mật cách đây 3.000 năm với giống ong mật Á châu (Apis cerana), còn ở Trung Mỹ người Mayans nuôi giống ong Melipona là loài ong không có liên hệ gần với loài Apis, nhưng cũng cho mật và không có ngòi đốt. Người Mayans dùng khúc gỗ rỗng ruột đặt trong rừng, trong vườn hay mái nhà để ong đến làm ổ (Hình 3).
Hình 3. Ong Melipona ở Trung Mỹ làm ổ trong bọng cây
Năm 1622, di dân Âu Châu du nhập vào vùng nay là Virginia (Hoa Kỳ) giống ong mật Âu châu Apis mellifera cùng nhiều loại ngũ cốc, trái cây và gia súc.
Năm 1852, linh mục Lorenzo Lorraine Langstroth ở Philadelphia sáng chế ổ ong trong hộp gồm nhiều khung dễ tháo gỡ để lấy mật, thông dụng tới ngày nay.
Năm 1852, linh mục Lorenzo Lorraine Langstroth ở Philadelphia sáng chế ổ ong trong hộp gồm nhiều khung dễ tháo gỡ để lấy mật, thông dụng tới ngày nay.
SỰ QUAN TRỌNG CỦA LOÀI ONG
Ong mật cho 2 sản phẩm quan trọng là mật và sáp. Một vai trò rất quan trọng ít người biết là ong giúp sự thụ phấn ở loài cây có hoa.
Mật ong là thức ăn đầy bổ dưỡng và hữu ích cho sức khỏe. Cấu tạo của mật ong gồm đường fructose (38,2%), glucose (31,3%), maltose (7,1%), sucrose (1,3%), nước (17,2%), chất tro (ash, 0,2%), các loại đường polysaccharides (1,5%), và các chất khác (3,2%) gồm khoáng chất như sắt, calcium, phosphate, muối, potassium, magnesium. Mật hơi acid (pH 3,2 – 4,5) nên vi khuẩn không phát triển sinh sôi nẩy nở, có tính chống oxit-hóa (antioxidant).
Từ thời xa xưa, mật ong được dùng như thần dược (trị lở bao tử, lở môi, mau liền da vì đặc tính kháng trùng, nhuận trường, tăng cường sức khỏe, giảm ho, giúp ngủ ngon giấc, trị gàu trên tóc, v.v.), xử dụng làm thức uống bổ dưỡng, bánh mức, kỹ nghệ trang điểm, v.v.
Hiện nay, ong mật được nuôi khắp thế giới. Tàu và Âu Châu sản xuất nhiều mật nhất vào năm 2009 (Hình 4).
Hình 4. Quốc gia sản xuất mật quan trọng năm 2009
Ong mật cho 2 sản phẩm quan trọng là mật và sáp. Một vai trò rất quan trọng ít người biết là ong giúp sự thụ phấn ở loài cây có hoa.
Mật ong là thức ăn đầy bổ dưỡng và hữu ích cho sức khỏe. Cấu tạo của mật ong gồm đường fructose (38,2%), glucose (31,3%), maltose (7,1%), sucrose (1,3%), nước (17,2%), chất tro (ash, 0,2%), các loại đường polysaccharides (1,5%), và các chất khác (3,2%) gồm khoáng chất như sắt, calcium, phosphate, muối, potassium, magnesium. Mật hơi acid (pH 3,2 – 4,5) nên vi khuẩn không phát triển sinh sôi nẩy nở, có tính chống oxit-hóa (antioxidant).
Từ thời xa xưa, mật ong được dùng như thần dược (trị lở bao tử, lở môi, mau liền da vì đặc tính kháng trùng, nhuận trường, tăng cường sức khỏe, giảm ho, giúp ngủ ngon giấc, trị gàu trên tóc, v.v.), xử dụng làm thức uống bổ dưỡng, bánh mức, kỹ nghệ trang điểm, v.v.
Hiện nay, ong mật được nuôi khắp thế giới. Tàu và Âu Châu sản xuất nhiều mật nhất vào năm 2009 (Hình 4).
Hình 4. Quốc gia sản xuất mật quan trọng năm 2009
10 quốc gia xuất cảng (xuất khẩu) mật nhiều nhất thế giới là Tàu (11,8% thị trường toàn cầu), Đức (8,9%), Mexico (6,9%), Brazil (5,6%), New Zealand (4,9%), Spain (4,9%), Hungary (4,8%), India (3,7%), Canada (3,4%), Việt Nam (3,1%).
Mặc dầu Hoa Kỳ đứng hàng thứ 6 sản xuất mật ong trên thế giới (Hình 4, 9,9%, 29 triệu US$).4), Hoa Kỳ phải nhập cảng thêm mới đủ cung ứng thị trường tiêu thụ. Năm 2010, Hoa Kỳ nhập cảng mật nhiều nhất từ Argentina (19% tổng lượng mật nhập cảng, trị giá 54 triệu US$), kế tiếp là Việt Nam (16%, 47 triệu US$), Ấn Độ (15,8%, 46,4 triệu US$), Canada (13,6%, 40 triệu US$), Brazil (9,9%, 29 triệu US$).
Tại Việt Nam, năm 2008, Việt Nam có khoảng 1 triệu ổ ong nuôi theo lề lối kỹ nghệ (công nghiệp), trong số này khoảng 650 ngàn ổ ong giống Ý, và 350 ngàn giống địa phương, sản xuất khoảng 20 ngàn tấn, xuất cảng 16 ngàn tấn. Vào năm 2013, Việt Nam sản xuất 48 ngàn tấn, và xuất cảng 37 ngàn tấn. Vùng sản xuất mật ong nhiều nhất ở Việt Nam là các tỉnh Tây nguyên, nhất là Dalak, nhờ 1,7 triệu ha rừng tự nhiên, cây kỹ nghệ và cây ăn trái là nguồn hoa cho ong mật.
Mặc dầu Hoa Kỳ đứng hàng thứ 6 sản xuất mật ong trên thế giới (Hình 4, 9,9%, 29 triệu US$).4), Hoa Kỳ phải nhập cảng thêm mới đủ cung ứng thị trường tiêu thụ. Năm 2010, Hoa Kỳ nhập cảng mật nhiều nhất từ Argentina (19% tổng lượng mật nhập cảng, trị giá 54 triệu US$), kế tiếp là Việt Nam (16%, 47 triệu US$), Ấn Độ (15,8%, 46,4 triệu US$), Canada (13,6%, 40 triệu US$), Brazil (9,9%, 29 triệu US$).
Tại Việt Nam, năm 2008, Việt Nam có khoảng 1 triệu ổ ong nuôi theo lề lối kỹ nghệ (công nghiệp), trong số này khoảng 650 ngàn ổ ong giống Ý, và 350 ngàn giống địa phương, sản xuất khoảng 20 ngàn tấn, xuất cảng 16 ngàn tấn. Vào năm 2013, Việt Nam sản xuất 48 ngàn tấn, và xuất cảng 37 ngàn tấn. Vùng sản xuất mật ong nhiều nhất ở Việt Nam là các tỉnh Tây nguyên, nhất là Dalak, nhờ 1,7 triệu ha rừng tự nhiên, cây kỹ nghệ và cây ăn trái là nguồn hoa cho ong mật.
Công dụng của sáp. Sáp được xử dụng làm đèn sáp từ thời xa xưa, cho ánh sáng mạnh, không khói và có mùi thơm. Sáp được xử dụng trong công nghiệp làm đánh bóng (vật dụng bằng da, xe hơi, nền nhà, đồ gỗ, v.v.), chống rỉ sét ở kim loại, phấn son, v.v.
ONG VÀ THỤ PHẤN HOA.
Vai trò quan trọng nhất của loài ong mà ít người để ý tới là nhờ có ong mới có sản phẩm nông nghiệp cho loài người sinh sống.
Vai trò quan trọng nhất của loài ong mà ít người để ý tới là nhờ có ong mới có sản phẩm nông nghiệp cho loài người sinh sống.
Trong thế giới loài cây có hoa (hiển hoa), việc truyền giống là nhờ sự thụ phấn, tức sự phối hợp giữa nhị đực (phấn hoa) và nhị cái (bầu noãn) để tạo ra hột, hột nẩy mầm thành cây con. Bộ phận đực (cho phấn hoa), và bộ phận cái (chứa một hay nhiều tiểu noãn tức hạt) ở hai vị trí khác nhau, có thể ở cùng trong một hoa (hoa lưỡng tính), hay riêng biệt (hoa đơn tính) gồm hoa đực và hoa cái. Hoa đực và hoa cái có thể ở trên cùng một cây (cây đơn tính, monoecious, như cây bắp, dưa leo), hay trên hai cây (cây lưỡng tính, dioeciuos) gồm cây đực và cây cái (như chà là, đu đủ). Như vậy, tất cả loài cây có hoa đơn tính cần có thụ-phấn-chéo. (outcrossing, cross pollination), tức phấn hoa của hoa đực phải được mang đến bầu noãn của hoa cái để thụ tinh. Và ngay trong hoa lưỡng tính, tự-thụ-phấn cũng ít xảy ra, vì có thể bộ phận đực ở dưới bộ phận cái, hai bộ phận đực và cái không trưởng thành cùng lúc, hay về mặt di truyền do tự-bất-thụ (self-incompatibility).Việc thụ-phấn-chéo coi như bắt buộc ở loại cây này. Vì vậy, khoảng 55% loài cây hiển hoa cần thụ-phấn-chéo để tạo hạt duy trì nòi giống.
Việc thụ phấn cần phải có tác nhân đưa hạt phấn đến bầu noãn, đó là nhờ gió (như ở thông), nước chảy (ở vài loại thủy thảo), nhưng quan trọng nhất, khoảng 90% là nhờ động vật như chim (chim hút mật), dơi, ruồi, bướm, nhất là loài ong. Không có những tác nhân này, hoa không thụ phấn được, cây sẽ không cho hạt. Chính loài ong là tác nhân gián tiếp quan trọng nhất trong việc cung cấp lương thực cho loài người. Khoảng 30% lương thực của loài người là do sự trợ giúp miễn phí của loài ong, đóng góp khoảng 16 tỷ đô la/năm cho kinh tế Hoa Kỳ, khoảng 1 tỷ GB pounds/năm cho nền kinh tế nước Anh..
Hãy tưởng tượng, nếu không có loài ong, để có 10 trái dưa tốt cho mỗi cây dưa leo, ta phải lấy cây viết lông thật nhỏ và thật mịn, nhẹ nhàng chấm vào nhị đực của hoa đực để lấy hạt phấn rồi lại chấm vào đầu nhị cái ở hoa cái cho thụ tinh, công tác sẽ mất rất nhiều thì giờ. Nếu phải tính việc trả tiền lương cho nhân công làm công tác sản xuất trái dưa leo như vậy, thì giá sản xuất của một trái dưa sẽ cao thế nào và người tiêu thụ sẽ mua với giá bao nhiêu. Nhưng loài ong làm giúp ta điều đó mà không phải trả tiền công. Một ổ ong với 50.000 ong thợ trong một ngày sẽ thụ phấn giúp ta khoảng 5 triệu cây dưa, hay nửa triệu cây ăn trái lớn như cây táo.
Không có loài ong, chúng ta không có trái cây để ăn, không có nhiều sửa để uống (vì bò sửa ăn cỏ alfalfa cần có ong tiếp tay), không có nhiều dầu để ăn (dầu hướng dương, dầu mè, dầu cải đều nhờ có ong), mọi thứ sẽ rất đắc đỏ.
Trong ngành trồng rau hoa và cây ăn trái, nhà nông quản lý số lượng ong đủ để bảo đảm năng xuất hoa màu cao cho nông trại của mình. Chẳng hạn, cho vùng nông trại sản xuất hạt almond ở California cứ vào đầu mùa Xuân hàng triệu ổ ong mật được chuyên chở tới để giúp thụ phấn, còn vùng New York trồng táo (apple) cần khoảng 30 ngàn ổ ong, nông trại trồng blueberry ở Maine cần 50 ngàn ổ ong. Ong cũng được chuyên chở tới những nông trại canh tác dưa leo, bí, dưa melon, dưa hấu, dâu tây, v.v. Ngoài ong mật, các loài ong khác cũng được làm tác nhân thụ phấn như ong alfalfa leaf-cutter cho các đồn điền sản xuất hạt giống cỏ alfalfa ở Canada và Miền Tây Hoa Kỳ, và ong vò vẽ cho cà chua và các loại cà khác trồng trong nhà kiến.
Sau đây là một số cây hoa màu cần phải có ong mật và các loài ong khác giúp thụ phấn mới có năng xuất cao.
Cây hoa màu và cây kỹ nghệ: cải dầu (oil seed rape), bông vải, hướng dương, alfalfa, mè,
Rau cà: các loại Brassica; mustard, rapeseed, cải bắp, broccoli, Chinese leaf, turnip, cà chua, cà tím, đậu bắp (okra), các loại dưa leo, dưa hấu, bầu, bí v.v.
Đậu: Tất cả các loại đậu ăn trái và ăn hạt, kể cả đậu phộng và đậu nành, các đậu làm thức ăn gia súc và làm phân xanh.
Cây ăn trái/hạt: Kiwi, cây điều (cashew), dâu tây, khế, Brazil nut, đu đủ, chestnut, cam quít, cà phê, dừa, nhản, hồng, chôm chôm, trái vải, macadamia, táo, xoài, thanh long, avocado, plum, cherry, pear, almond, ổi, lựu, me, nho. cây cóc, v.v.
Ong mật lấy phấn và mật từ hầu hết các loại cây có hoa nên là nguồn ong thụ phấn quan trọng. Ngoài ra, ong vò vẽ tuy không cho nhiều mật như ong mật nên không ai nuôi, nhưng là tác nhân thụ phấn quan trọng cho cà chua và các loại cà và ớt trong nhà kính, và dâu tây cũng như blueberry ở ngoài đồng. Ong vò vẽ thụ phấn hữu hiệu hơn ong mật, nhờ cánh bay kêu vo vo làm phấn hoa rơi nhiều vào nhị cái, ngoài ra ong vò vẽ có vòi dài nên lấy được phấn hoa ở vài loại hoa có phấn hoa nằm ở sâu trong lòng hoa mà ong mật có vòi ngắn không thể lấy được. Các loài ong không có ngòi đốt (stingless bees), và ong gỗ (carpenter bees), ong cắt lá (leaf-cutter bees), ong tường (mason bees) cũng là những loài ong giúp thụ phấn hoa quan trọng. Mỗi loài cây đều có một số loài ong thích hợp riêng để thụ phấn hữu hiệu. Chẳng hạn để cải mù tạt (mustard) có năng xuất hạt cao, ngoài ong mật, phải có 2 loại ong sống đơn độc là Osmia cornifrons và Osmia lignaria. Chẳng hạn muốn du nhập cây Brazil nut vào trồng ở Việt Nam thì phải du nhập luôn giống ong hoa lan orchid bees (Euglossini) và các giống hoa lan orchid của Nam Mỹ bởi vì chỉ có loài ong Euglossini mới có đủ sức mạnh và vòi dài để mở cánh hoa Brazil nut để ăn mật, và loài ong Euglossini này cũng cần phấn hoa lan để sinh sống. Vì vậy, nếu không có các loài hoa lan thì không có loài ong Euglossini, và Brazil nut có hoa nhưng không có hạt, ba loại này sống cộng sinh với nhau. Đó là lý do thất bại du nhập Brazil nut vào nơi khác, mà ngay cả ở Brazil cũng thất bại khi trồng thành đồn điền.
Việc thụ phấn cần phải có tác nhân đưa hạt phấn đến bầu noãn, đó là nhờ gió (như ở thông), nước chảy (ở vài loại thủy thảo), nhưng quan trọng nhất, khoảng 90% là nhờ động vật như chim (chim hút mật), dơi, ruồi, bướm, nhất là loài ong. Không có những tác nhân này, hoa không thụ phấn được, cây sẽ không cho hạt. Chính loài ong là tác nhân gián tiếp quan trọng nhất trong việc cung cấp lương thực cho loài người. Khoảng 30% lương thực của loài người là do sự trợ giúp miễn phí của loài ong, đóng góp khoảng 16 tỷ đô la/năm cho kinh tế Hoa Kỳ, khoảng 1 tỷ GB pounds/năm cho nền kinh tế nước Anh..
Hãy tưởng tượng, nếu không có loài ong, để có 10 trái dưa tốt cho mỗi cây dưa leo, ta phải lấy cây viết lông thật nhỏ và thật mịn, nhẹ nhàng chấm vào nhị đực của hoa đực để lấy hạt phấn rồi lại chấm vào đầu nhị cái ở hoa cái cho thụ tinh, công tác sẽ mất rất nhiều thì giờ. Nếu phải tính việc trả tiền lương cho nhân công làm công tác sản xuất trái dưa leo như vậy, thì giá sản xuất của một trái dưa sẽ cao thế nào và người tiêu thụ sẽ mua với giá bao nhiêu. Nhưng loài ong làm giúp ta điều đó mà không phải trả tiền công. Một ổ ong với 50.000 ong thợ trong một ngày sẽ thụ phấn giúp ta khoảng 5 triệu cây dưa, hay nửa triệu cây ăn trái lớn như cây táo.
Không có loài ong, chúng ta không có trái cây để ăn, không có nhiều sửa để uống (vì bò sửa ăn cỏ alfalfa cần có ong tiếp tay), không có nhiều dầu để ăn (dầu hướng dương, dầu mè, dầu cải đều nhờ có ong), mọi thứ sẽ rất đắc đỏ.
Trong ngành trồng rau hoa và cây ăn trái, nhà nông quản lý số lượng ong đủ để bảo đảm năng xuất hoa màu cao cho nông trại của mình. Chẳng hạn, cho vùng nông trại sản xuất hạt almond ở California cứ vào đầu mùa Xuân hàng triệu ổ ong mật được chuyên chở tới để giúp thụ phấn, còn vùng New York trồng táo (apple) cần khoảng 30 ngàn ổ ong, nông trại trồng blueberry ở Maine cần 50 ngàn ổ ong. Ong cũng được chuyên chở tới những nông trại canh tác dưa leo, bí, dưa melon, dưa hấu, dâu tây, v.v. Ngoài ong mật, các loài ong khác cũng được làm tác nhân thụ phấn như ong alfalfa leaf-cutter cho các đồn điền sản xuất hạt giống cỏ alfalfa ở Canada và Miền Tây Hoa Kỳ, và ong vò vẽ cho cà chua và các loại cà khác trồng trong nhà kiến.
Sau đây là một số cây hoa màu cần phải có ong mật và các loài ong khác giúp thụ phấn mới có năng xuất cao.
Cây hoa màu và cây kỹ nghệ: cải dầu (oil seed rape), bông vải, hướng dương, alfalfa, mè,
Rau cà: các loại Brassica; mustard, rapeseed, cải bắp, broccoli, Chinese leaf, turnip, cà chua, cà tím, đậu bắp (okra), các loại dưa leo, dưa hấu, bầu, bí v.v.
Đậu: Tất cả các loại đậu ăn trái và ăn hạt, kể cả đậu phộng và đậu nành, các đậu làm thức ăn gia súc và làm phân xanh.
Cây ăn trái/hạt: Kiwi, cây điều (cashew), dâu tây, khế, Brazil nut, đu đủ, chestnut, cam quít, cà phê, dừa, nhản, hồng, chôm chôm, trái vải, macadamia, táo, xoài, thanh long, avocado, plum, cherry, pear, almond, ổi, lựu, me, nho. cây cóc, v.v.
Ong mật lấy phấn và mật từ hầu hết các loại cây có hoa nên là nguồn ong thụ phấn quan trọng. Ngoài ra, ong vò vẽ tuy không cho nhiều mật như ong mật nên không ai nuôi, nhưng là tác nhân thụ phấn quan trọng cho cà chua và các loại cà và ớt trong nhà kính, và dâu tây cũng như blueberry ở ngoài đồng. Ong vò vẽ thụ phấn hữu hiệu hơn ong mật, nhờ cánh bay kêu vo vo làm phấn hoa rơi nhiều vào nhị cái, ngoài ra ong vò vẽ có vòi dài nên lấy được phấn hoa ở vài loại hoa có phấn hoa nằm ở sâu trong lòng hoa mà ong mật có vòi ngắn không thể lấy được. Các loài ong không có ngòi đốt (stingless bees), và ong gỗ (carpenter bees), ong cắt lá (leaf-cutter bees), ong tường (mason bees) cũng là những loài ong giúp thụ phấn hoa quan trọng. Mỗi loài cây đều có một số loài ong thích hợp riêng để thụ phấn hữu hiệu. Chẳng hạn để cải mù tạt (mustard) có năng xuất hạt cao, ngoài ong mật, phải có 2 loại ong sống đơn độc là Osmia cornifrons và Osmia lignaria. Chẳng hạn muốn du nhập cây Brazil nut vào trồng ở Việt Nam thì phải du nhập luôn giống ong hoa lan orchid bees (Euglossini) và các giống hoa lan orchid của Nam Mỹ bởi vì chỉ có loài ong Euglossini mới có đủ sức mạnh và vòi dài để mở cánh hoa Brazil nut để ăn mật, và loài ong Euglossini này cũng cần phấn hoa lan để sinh sống. Vì vậy, nếu không có các loài hoa lan thì không có loài ong Euglossini, và Brazil nut có hoa nhưng không có hạt, ba loại này sống cộng sinh với nhau. Đó là lý do thất bại du nhập Brazil nut vào nơi khác, mà ngay cả ở Brazil cũng thất bại khi trồng thành đồn điền.
Ong Euglossini hút mật ở hoa lan và hoa Brazil nut
Cũng chính nhờ loài ong mang phấn hoa từ cây này đến cây khác, cây cùng loài hay khác loài, mà nẩy sinh ra cây lai cùng loài hay cây lai giữa các loài, tạo ra phong phú các loài các giống và đa dạng thực vật trên thế giới.
Phần 3. NGUY CƠ THẢM HỌA Ở LOÀI ONG
Kể từ sau 2006, các nhà nuôi ong ở Pennsylvania Hoa Kỳ nhận thấy hàng loạt ong thợ bỗng nhiên bị biến mất, các ổ ong trở nên vắng lặng, thiếu vắng ong bay ra bay vào chỉ trong vài ngày, mà cũng không thấy xác ong chết gần đó. Hiện tượng tan đàn bỏ ổ bất thường này được đặt tên CCD (Colony Collapse Disorder). Kể từ đó, hàng năm các nhà nuôi ong mật mất khoảng một nửa số ổ ong, có nơi mất tới 90%. Các nhà khoa học đang đi tìm lý do hiện tượng CCD ở loài ong. Sau đây là những nguyên nhân chánh.
Sự biến đổi đột ngột khí hậu có thể là một lý do, nhưng không là một yếu tố quyết định. Mặc dầu loài ong thích khí hậu ôn hòa tương tự như vùng Địa Trung Hải, nhưng ong có khả năng thích ứng rộng rải từ nhiệt độ lạnh của ôn đới đến nóng của sa mạc, từ đồng bằng đến núi cao 3200 m. Tại nước Anh, ong được nuôi ở miền nam ấm áp, tuy nhiên năm nào có mùa đông quá lạnh, ong có thể chết nhiều.
Thiếu nguồn phấn hoa. Việc phá rừng quy mô hiện nay gây nên sự nghèo nàn đa dạng sinh học, mà loài ong sống trên phấn hoa và mật nhụy của một số cây thích hợp. Việc biến đất rừng thành độc canh trồng ngủ cốc (như lúa, v.v.) hay cỏ hòa bảng là những loại thực vật mà loài ong không đến thăm viếng. Tàn khốc hơn, việc phá rừng ngập mặn, rừng tràm đễ lập ao nuôi tôm cá làm mất hoàn toàn nguồn thảo mộc có nhụy phấn và mật cho loài ong.
Chí ký sinh Varroa (Varroa destructor mite). Là một loài chí sống ký sinh trên thân ong mật Apis cerana và Apis mellifera. Bệnh do loài chí này gây ra mang tênvarroosis. Loài chí Varroa destructor chỉ sinh sản trong tập đoàn ong, bám trên lưng ong và hút máu, rồi truyền các loại bịnh virus (như virus DWV làm biến dạng cánh –Deformed Wing Virus; virus IADV, v.v.) làm hư hại hệ thống miễn nhiễm và gây dịch chết hàng loạt đàn ong, là một yếu tố góp phần vào hội chứng tan đàn ong CCD ở Ontario (Canada) và Hawaii (Mỹ).
Năm 1987 chí Varroa truyền qua Hoa Kỳ, đến Anh quốc năm 1992, và New Zealand năm 2000. Tới hiện nay, chỉ còn Australia là chưa bị chí Varroa phá hại.
Hình 1. Chí Varroa destructor
Chí ký sinh đường thở (tracheal mite). Chí Acarapis woodi sống ký sinh bên trong đường hô hấp làm nghẹt thở, ong thiếu oxy, làm mất khả năng bay, chỉ bò loanh quanh ổ ong. Vì vậy, ổ ong thiếu ong thợ bay đi hút mật, làm giảm số lượng mật sản xuất. Chí ký sinh đường hô hấp thấy ở Texas, Louisiana, Florida, Dakota, New York năm 1984. Riêng Australia, New Zealand, Scandinavia, và Canada chưa bị nhiễm loại ký sinh này.
Hình 2. Chí Acarapis woodi sống bên trong ống hô hấp
Bọ ổ ong (Small hive beetle, Aethina tumida)
Hình 3 . Bọ Aethina tumida
Bọ Aethina tumida nguồn gốc vùng bán sa mạc Sahara Phi Châu, lan nhiễm đến Hoa Kỳ năm 1996, đến Australia năm 2002, Canada năm 2002, và Phi Luật Tân.
Bọ sống bên trong ổ ong. Bọ cái đẻ vô số trứng, nở ra ấu trùng. Ấu trùng ăn hạt phấn và mật, tranh dành thức ăn của ấu trùng ong, phá kiến trúc của ổ ong. Nếu ổ ong bị nhiễm bọ nặng, đàn ong bỏ ổ và tan đàn CCD.
Bịnh virus ở ong. Có khoảng 22 loại virus gây bịnh cho loài ong mật. Quan trọng nhất gây triệu chứng tan đàn ong CCD là:
– Israel acute paralysis virus (IAPV) có thể là một yếu tố gây ổ ong tan đàn CCD.
– Kashmir bee virus (KBV) gây bịnh cho nhiều loài ong, nhất là ong mật Âu châu Apis mellifera, trên ong trưởng thành cũng như ấu trùng. Ong trưởng thành chết trong vòng vài ngày sau khi nhiễm bịnh. KBV kết hợp với chí ký sinh Varroa destructor là nguyên nhân của việc tan đàn ong CCD.
– Virus gây cánh biến dạng (Deformed wing virus, DWV). Virus này sống tiềm ẩn trong loài chí ký sinh Varroa destructor, ấu trùng nhiễm bịnh phát triển không có cánh hay cánh biến dạng.
Hình 4. Ong có cánh biến dạng do virus DWV
European foulbrood (EFB) là bịnh do vi trùng Melissococcus plutonius gây bệnh trên ấu trùng ong, vi trùng ăn chất bổ dưỡng bên trong thân ấu trùng, làm ấu trùng ốm yếu và chết. Bệnh EFB thường xảy ra khi nguồn mật nhụy của hoa trở nên hiếm hoi và rời rạc, hay trong ổ có ít số ong chăm sóc mang mật nuôi ấu trùng.
Bịnh kiết lỵ (Disentery). Bình thường ong bài tiết trong lúc bay đi tìm nguồn phấn hoa và mật. Vì một lý do gì đó, chẳng hạn như ăn phải thực phẩm chứa nhiều chất khó tiêu, hay thời tiết lạnh dưới 10 °C trong 2-3 tuần cả đàn ong không bay ra ngoài để bài tiết được, chúng bài tiết ngay trong ổ ong, làm cả ổ ong bị ô nhiễm, mất vệ sinh, sinh bệnh, ong chết và tan đàn.
Thuốc diệt sâu bọ bảo vệ mùa màng (Pesticides) là nguyên do quan trọng nhất trong việc hủy hoại đàn ong. Hầu hết các loại thuốc hóa học giết côn trùng tác hại mùa màng cũng giết luôn các loài côn trùng hữu ích, ong mật cũng như loài ong khác, chim và động vật có vú. Ong có thể bay xa 5 km, đến vùng vừa mới phun thuốc diệt côn trùng, hay mang về ổ phấn và mật đã nhiễm thuốc độc, và vì vậy cả đàn ong bị đầu độc.
Một loại thuốc diệt sâu bọ mới, mang tên neonics – viết tắt chữ neonicotinoids, ra đời trong cuối thập niên 1980s bởi Shell và đầu 1990s bởi hảng Bayer. Đây là một loại thuốc mới, có công thức hóa học tương tự chất nicotine trích từ thuốc lá. Thuốc tấn công vào hệ thần kinh, làm côn trùng bất động rồi chết. Nhóm neonics gồm rất nhiều loại thuốc, quan trọng là imidacloprid, acetamiprid, clothianidin, dinotefuran, nithiazine, thiacloprid và thiamethoxam. Imidacloprid là loại thuốc diệt sâu bảo vệ mùa màng được xử dụng nhiều nhất thế giới. So với các loại thuốc organophosphate (như parathion, malathion, diazinon, v.v.) và carbamate thì neonicotinoids ít độc cho chim và động vật có vú. Là loại thuốc lưu dẫn, độc tố tồn trữ lâu dài trong mạch nhựa nên rất hữu hiệu giết côn trùng chích hút nhựa cây (như rầy, bọ xít), sống trong thân cây (như sâu đục ống stem borer), côn trùng trong đất. Imidacloprid có thể pha với nước để tưới vào gốc cây, hay phun lên lá.
Thông thường các loại hóa chất diệt côn trùng thường được phun thẳng lên cây để bảo vệ mùa màng, giết côn trùng tác hại đồng thời cũng tiêu diệt các côn trùng hữu ích khác. Để tránh tác hại này, thuốc neonics bao bọc chung quanh hạt trước khi gieo, thuốc lưu dẫn trong mạch nhựa sau khi cây mọc, và giết côn trùng nào sống trong cây (sâu đục thân, đục trái) và côn trùng ăn lá (các loại sâu) hay chích vào lá (rầy), nên ít độc hại cho các côn trùng hữu ích khác. Tuy nhiên, phấn hoa và mật nhụy, nguồn thức ăn của ong, cũng chứa chất độc của thuốc.
Vào năm 2013, Hoa kỳ xử dụng neonics khoảng 95% cho bắp, cải dầu canola, bông vải, sorghum, cải đường và khoảng 50% đậu nành. Cũng xử dụng rộng rải trên rau cải và cây ăn trái.
Chỉ một năm sau khi xử dụng neonics, các nhà nuôi ong ở Pháp nhận thấy số lượng ong bị giảm, các cuộc nghiên cứu khoa học bắt tay điều tra, và báo chí khơi động hâm nóng sự liên hệ giữa triệu chứng tan đàn bỏ ổ CCD ở ong với thuốc neonics.
Từ năm 2008, xử dụng thuốc neonics được kiểm soát chặt chẽ ở Đức vì nhiều nghiên cứu cho biết có sự liên hệ giữa neonics và hiện tượng tan đàn CCD, cũng như giảm số chim vì thiếu côn trùng làm thực phẩm. Năm 2013, cộng đồng Âu châu cấm xử dụng một số thuốc neonics như imidacloprid, thiamethoxam và clothianidin trên các hoa màu là nguồn phấn hoa của ong kể cả cải dầu và bắp.
Tranh luận chung quanh vấn đề neonics và hiện tượng tan đàn CCD.
Nhóm chống đối thuốc neonics đa số là các nhà bảo vệ môi sinh và báo chí cho rằng xử dụng thuốc diệt sâu bọ neonics vẫn là nguyên nhân của sụt giảm các loài ong và tan đàn của các ổ ong mật trên khắp thế giới. Ngược lại, các nhà khoa học làm nghiên cứu cho rằng neonics tác hại rất ít lên môi sinh và sinh vật so với các loại thuốc như DDT hay organophosphate hay carbamate, nếu biết cách xử dụng cùng với các biện pháp ngăn ngừa.
Hình 5. Biểu tình chống xử dụng thuốc diệt sâu neonics trước nhà Quốc Hội Anh tháng 4/2013
Các nghiên cứu ở Đại học Sussex ở Brighton (UK) của TS Francis Ratnieks, một chuyên gia về ong, cho thấy không có bằng chứng rõ ràng giữa sự liên hệ xử dụng neonics và suy giảm số lượng ong. Chẳng hạng, theo Hình 6 thuốc neonicotinoids xử dụng gia tăng đáng kể trong thời gian 2006 – 2011, nhưng sự giảm sút số lượng ong hàng năm không đáng kể. Cũng trong hình này, yếu tố khí hậu quan trọng hơn, vì ong chết trong mùa đông giá lạnh xảy ra rất nhiều, nhưng sau đó gia tăng trở lại vào mùa hè. Ngoài ra chưa kể đến các yếu tố khác như bịnh và ký sinh cũng ảnh hưởng tới.
Hình 6. Chưa có bằng chứng rõ rệt giữa neonics và số đàn ong bị sút giảm. Lượng neonics gia tăng xử dụng trên cây hoa màu (hình trái), trong lúc sự sút giảm đàn ong không đáng kể (hình phải), mà yếu tố mùa đông làm ong chết mới đáng quan tâm.
Tuy nhiên, có 2 nghiên cứu khoa học chứng tỏ sự tác hại của neonics vào sinh lý con ong.
Trước lập luận của phe ủng hộ neonics cho rằng dầu neonics có thể giết ong khi tiếp xúc với thuốc, nhưng với biện pháp bao bọc thuốc quanh hạt giống, chỉ có côn trùng nào chích vào thân lá cây trong vòng 1-2 tuần sau khi cây mọc mới chết. Ngược lại, ong đến lấy phấn hoa lúc cây có hoa rộ, tức khoảng 40 ngày sau khi gieo hạt, lúc nồng độ thuốc trong nhựa lá đã bị phân hủy cả rồi nên không còn độc cho ong hay côn trùng chích khác. Tuy nhiên, phân tích hạt phấn và mật nhụy cho thấy độc tố vẫn còn tích tụ trong các bộ phận này với nồng độ rất thấp, không đủ liều lượng để giết con ong, nhưng có thể còn ảnh hưởng đến sức khỏe con ong, nhất là hệ thần kinh.
Năm 2012, TS Mickaël Henry, chuyên gia về Ong ở Học Viện Quốc Gia Nghiên Cứu Nông Nghiệp tại Avignon (Pháp), và cộng sự làm một thí nghiệm với 653 con ong. Nhóm ông mang các con ong này đến 1 vị trí cách xa ổ ong 1 km. Các con ong đều được gắn bộ phận điện tử cực nhỏ để theo dõi đường bay về ổ. Chia ong làm 2 nhóm, một nhóm cho ăn phấn hoa và nước đường bình thường làm nhóm dẫn chứng, nhóm ong kia cho ăn phần hoa và nước đường có nhiễm thuốc thiamethoxam với nồng độ thấp dưới nồng độ làm ong chết. Kết quả cho thấy nhóm ong dẫn chứng bay về ổ bình thường, còn nhóm cho ăn nước đường với thiamethoxam thì không biết hướng bay về ổ, và cuối cùng chết ở nơi khác ví lạc đường. Nhóm ông kết luận là thuốc neonics, dầu rất loảng, ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh định vị việc bay, và giết con ong một cách gián tiếp.
Một thứ nghiệm thứ hai do TS Dave Goulson thuộc University of Sterling (UK) thực hiện trên ong bầu Bombus terrestris vào năm 2012. Khác với ong chúa của ong mật sống được nhiều năm (từ vài năm đến 8 năm), ong chúa của ổ ong bầu chỉ sống trong một năm, vì vậy ong chúa phải thay thế hàng năm. Ông dùng 75 ổ ong bầu để nghiên cứu. Trong 2 tuần, ông cho một nhóm ong bầu ăn phấn hoa và nước đường bình thường, một nhóm cho ăn y như vậy nhưng có pha thuốc imidacloprid. Sáu tuần sau, ong nhận thấy nhóm ổ ong dẫn chứng phát triển bình thường, còn nhóm ổ ong ăn thuốc thì số ong chúa sinh ra giảm 85% và ong kém khả năng đi lấy phấn và mật. Lý do là ong ăn phải imidacloprid làm giảm mất khả năng thâu hoạch phấn và mật mang về ổ nên ong chúa thiếu thực phẩm để sinh đẻ bình thường.
Nhóm nghiên cứu thuộc University of Lund ở Thụy Điển cũng cho thấy tác hại của thuốc neonics. Nghiên cứu cho thấy ong bầu lấy phấn hoa từ đám cải dầu (oil seed rape) mọc từ hạt bọc thuốc clothianidin thì sự tăng trưởng của ong thợ và ong chúa bị ngưng trệ, còn loài ong cô đơn Osmia bicornis mất khả năng làm ổ.
Tuy nhiên các nhà khoa học khác như TS Francis Ratnieks và TS Norman Carreck thuộc Đại học Sussex (UK) nghi ngờ nghiên cứu của TS Mickaël Henry (Pháp) và TS Goulson (UK) nói trên, vì cho rằng nồng độ thuốc xử dụng trong nghiên cứu không phù hợp với thực tế ngoài đồng, và phản biện rằng con ong thợ hàng ngày bay đi bay về nhiều lần để thâu hoạch một ít phấn hoa, và trong lúc bay đường xa đó con ong có khả năng làm phân hủy chất độc thành vô hại, tương tự như chuyện “bạn uống một lần cả nguyên chai whiskey, hay mỗi ngày bạn chỉ uống một hai cốc nhỏ cho tới khi hết chai rượu”.
Vì vậy, các nghiên cứu tác động của thuốc neonics thực hiện ở ngoài đồng trong các điều kiện canh tác thông thường mới cho kết quả chính xác đáng tin cậy hơn.
Trong chiều hướng đó, TS Peter Campbell, Chánh Chuyên Gia Môi Trường của công ty Syngenta của Thụy Sỉ có trụ sở tại Bracknell (UK) làm một loạt nghiên cứu ngoài đồng và chứng minh rằng thuốc neonicotinoid thiamethoxam không có ảnh hưởng tác hại tới ong bầu.
Một bài khoa học xuất bản năm 2013 do nhóm chuyên gia thuộc Syngenta tại Basel làm một nghiên cứu ngoài đồng tại Pháp kéo dài 4 năm dùng các chỉ số đo sức khỏe của ong mật, so sánh giữa nhóm ong lấy phấn hoa trên cánh đồng dẫn chứng (không có thuốc) và nhóm ong lấy phấn hoa ở cánh đồng canh tác từ hạt giống xử lý với thuốc thì thấy không có khác biệt.
Một nghiên cứu thứ hai thực hiện ngoài đồng tại Canada cũng dùng chỉ số sức khỏe để theo dõi đàn ong của 40 ổ ong, công bố kết quả năm 2014 cũng cho kết quả tương tự là không có sự khác biệt nào về sức khỏe giữa nhóm ong lấy phấn trên cánh đồng dẫn chứng và trên cánh đồng có xử lý hạt giống với clothianidin.
Tuy nhiên hai nghiên cứu này cũng bị chỉ trích vì nguồn tài trợ là từ hai công ty sản xuất thuốc Syngenta và Bayer, chứ không phải từ chánh phủ hay một cơ quan độc lập. Ngoài ra, hai nghiên cứu này cũng bị chỉ trích vì xử dụng lô nghiên cứu quá nhỏ (2 ha), vì con ong có thể bay xa tới 5 km tức ở ngoài tầm lô nghiên cứu có thuốc, để lấy phấn ở cánh đồng không có thuốc.
Một nghiên cứu lớn hơn với diện tích lô là 9 ha và tài trợ bởi chính phủ Thụy Điển và bởi vài nguồn tài trợ độc lập được thực hiện bởi Đại Học Lund (Thụy Điển) với chỉ số sức khỏe đo trên mọi loại ong bầu, ong sống đơn độc và ong mật. Kết quả cho thấy là quả thật có tác hại trên ong bầu và ong đơn độc, nhưng không có tác hại trên ong mật.
Đã 20 năm trôi qua, kể từ các cuộc tranh cải khởi xướng đầu tiên cho tới nay, vẫn chưa có một kết quả rõ ràng, và hiện vẫn tiếp tục nghiên cứu, thí nghiệm và tranh cải. Tuy nhiên, các nhà làm chánh trị, vì sức ép của dư luận và báo chí, đưa ra các biện pháp cấm xử dụng vài ba loại thuốc neonics.
Thế giới có khoảng 25 ngàn loài ong, riêng Âu châu có khoảng 2 ngàn loài, và được nghiên cứu nhiều. Hàng năm, các nhà khoa học Âu Chấu khám phá và mô tả thêm khoảng 120 loài ong mới, trong lúc hàng năm khoảng 100 đến 200 loài ong bị biến mất. Ong mật tiếp tục tan đàn và ong hoang dại cũng dần biến mất trên khắp thế giới mà vẫn chưa biết nguyên do chánh từ đâu. Thuốc diệt sâu bọ, dĩ nhiên giữ vai trò quan trọng trong sự sống còn không những loài ong mà còn vô số động vật khác như chim, động vật nhỏ sống trong đồng ruộng, v.v. Việc tìm biện pháp cung cấp thực phẩm cho 9 tỷ dân thế giới vào năm 2050, đồng thời công tác bảo tồn sinh động thực vật toàn thế giới là hai nhiệm vụ rất đối nghịch nhau, nên đầy khó khăn và thách đố cho các nhà khoa học.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen