LỜI PHI LỘ:
Những dòng bút ký ngắn sau đây, tường thuật lại những biến
cố xảy ra tại trường Y Sàigòn từ năm 1967-1971 và sau đó... do sự can thiệp của
phái bộ Hội Đoàn Bác Sĩ Mỹ - American Medical Association tại Saigòn
(AMA-SAIGON) vào nội bộ trường Y Saigon.
Những sử liệu của bài viết này đều dựa trên lời tường
thuật của quyển sách thời danh SAIGON MEDICAL SCHOOL do 3 người viết: C. H.
William Ruhe MD, Norman Hoover MD và Ira Singer PhD, Cả ba vị này đều là nhũng
người lãnh đạo và cố vấn cho cuộc can thiệp của phái bộ AMA vào trường Y Saigon
từ năm 1967. Tập sách SAIGON MEDICAL SCHOOL do chính cơ quan AMA, xuất bản tại
Mỹ năm 1988.
Đào Như
* * *
Võ Thành Phụng! Bây giờ anh ở đâu? Còn khỏe không? Dù sao đi
nữa, khi anh đọc được những dòng hồi kí ngắn của tôi sau đây về nội trú bịnh viện
Bình Dân những năm 68-70, anh cũng không đến nổi giận tôi. Mà có giận, cũng chả
sao. Biết làm sao bây giờ. Viết về nội trú Bình Dân trong khoảng thời gian
trên, mà không có Võ Thành Phụng thì chán chết, mất đi hứng thú như buổi lễ tốt
nghiệp trường Y Sàigòn mà không có vũ sexy!
Võ Thành Phụng không phải là gương mặt gồ ghề nhất, nổi nhất,
trong hàng ngũ nội trú Bình Dân thời ấy, nhưng anh là gương mặt đặc biệt. Anh
vào nội trú vào năm 66-67 đúng vào lúc phái bộ AMA của Mỹ tại Sàigòn
(AMA-SAIGON) quan tâm đến cơ cấu tổ chức của trưởng Y Saigòn. Họ rất thành khẩn
muốn chấn chỉnh lại trường Y Saigon từ cơ cấu tổ chức đến chương trình giảng dạy
(curriculum) của trường. Nhưng họ cũng biết rằng không dể gì làm chuyện đó, khi
ảnh hưởng của Tây còn quá mạnh. Còn trường Y Saigon lúc đó còn chủ quan, không
chịu hiểu rằng khó mà cưỡng lại ý muốn của người Mỹ, nhất là những ý muốn của
AMA tại Sàigòn (AMA-SAIGON) trong trường hợp này xem chừng rất có lý.
Chúng ta phải hiểu người Mỹ chứ. Họ làm sao vui vẻ được khi
họ bỏ tiền ra xây cất một trường Y Saigon đẹp, thiết bị tối tân và tiến bộ, để
rồi các ông giáo sư người Pháp và giáo sư người Việt thân Pháp dạy sinh viên Y
Khoa Saigòn với ngôn ngữ Pháp và dạy theo chương trình và tư tưởng Pháp. Nhưng
ngặt một điều là, trường Y Saigòn và bịnh viện Bình Dân Saigòn liên hệ với nhau
như anh em sanh đôi. Ai cũng biết, tiền thân của bịnh viện Bình Dân Sàigòn là bịnh
viện Phù Doãn, Hà Nôi. Nhưng trước 75, mấy ai trong chúng ta được biết bịnh viện
Bình Dân Sàigòn là bịnh viện duy nhất trực thuộc bộ Quốc Gia Giáo Dục Sàigòn.
Bịnh viện Bình Dân Saigòn liên hệ mật thiết với trường Y
Saigon. Giáo sư Phạm Biểu Tâm, trưởng khối Phẫu Thuật của bịnh viện Bình Dân
còn được gọi là Khối Phẫu Thuật “B”, Ông cũng là khoa trưởng trường Y Sàigon.
Những bịnh viện khác: Chợ Rẫy, Nguyễn Văn Học, Nhi Đồng, Từ
Dũ, Hùng Vương, Hồng Bàng, Chơ Quán... đều trực thuộc bộ Y-tế. Giáo sư Trần
Quang Đệ, trưởng khối Phẫu Thuật của bịnh viện Chợ Rẫy, còn được gọi là Khối Phẩu
Thuật “A”, trực thuộc bộ Y tế. Giáo sư Trần Quang Đệ lại cũng là viện trưởng Viện
Đại Học Saigon. Viện Đại Học Sàigon trực thuộc bô Quốc Gia Giáo Dục, đứng trên
chóp bu trường Y Saigòn.
Hai Khối Phẫu Thuật “A” và “B” lớn nhất của Saigòn thời ấy
làm việc riêng rẽ, không hề liên hệ hay hợp tác với nhau trong một công trình
nghiên cứu nào cả. Mỗi người một giang sơn, việc ai nấy lo. Hai ông trưởng Khối
Phẫu thuật “A” và ”B” không nhìn nhau qua một đường thẳng, mà họ phải nhìn nhau
qua một đường chéo ngoằn ngoèo. Đó là cái lối sắp xếp tréo cẳng ngỗng như vậy của
mấy quan Tây thực dân trước khi họ rút.
Không hiểu bàng quan thiên hạ thì sao, riêng bản thân tôi
mãi đến năm 1989 mới biết được những điều kỳ bí ở trên, là nhờ tôi đọc quyển
sách "SAIGON MEDICAL SCHOOL" do ba người viết: C. H. William
Ruhe M.D, Norman William Hoover M.D. và Ira Singer PhD, thuộc Hội Đoàn
Bác Sĩ Mỹ AMA, xuất bản tại Mỹ năm 1988.
Chắc các bạn còn nhớ bác sĩ Norman W. Hoover? Có một thời
ông ta dược coi như là dean của trưòng Y Sàigòn. Chúng ta luôn luôn nhớ câu nói
để đời của giáo sư Nguyễn Hữu trước khi ông rời khỏi khu nội trú Bình Dân, đi
Pháp: “Có Nguyễn Hữu thì không có Hoover, có Hoover thì không có Nguyễn Hữu”! Có
người nào đó vô tình diễn dịch câu ấy thoát ý: “Có Tây thì không có Mỹ, có Mỹ
thì không có Tây”. Đó là hậu quả của sắc luật do ông chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp
Trung Ương, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ ban hành: bãi bỏ chức năng khoa trưởng
trường Y, thế vào đó bằng một ủy ban (faculty committee) gồm có 5 người
do ông ta chỉ định!
Nhận định về sắc luật này, nhóm tác giả SAIGON MEDICAL
SCHOOL viết: “Dean Phạm Bieu Tam, MD, a man who was revered for his academic
achievement, he had been the first and only Dean of the University Of Saigon
Faculty of Medecine, and he had held office for 13 years, was removed by
governmental fiat in violation of the charter of the University, on the pretext
that he favored the use of foreign language for instruction...” (1)
Cách chức một giáo sư khoa trưởng sau 13 năm tựu chức, có
nhiều uy tín và được nhiều người mến mộ và kinh phục, chỉ vì ông ta cho phép được
dùng tiếng ngoại quốc để giảng dạy. Ai cũng hiểu đó không phải là lý do chính
đáng. Chắc chắn phải có những thúc đẩy, những áp lực khác sau lưng tướng Kỳ.
Chín năm sau, chính tướng Kỳ thú nhận, nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL tiết
lộ: “Nine years later he was to write:‘It appeared lately that the background
of the Coup de Faculté was more complex and it would need some research for
anyone to have a clear picture!” (2)
Sắc luật của tướng Kỳ (3-1967) ra đời vô tình
trùng hợp với sư có mặt của Hobbart A. Reimann, MD, tại Saigon, tháng 2-1967...
Tháng 6-1967, Norman W.Hoover, bác sĩ phẫu thuật chấn thương và chỉnh trực của
trường y thời danh, Mayo Clinic, thuộc tiểu bang Minnesota Mỹ đến Saigon. Bác
sĩ Hoover liền được chỉ định thay thế bác sĩ Reimann làm giám đốc (Field
Director) của AMA-SAIGON.
Nhân đây tôi muốn giới thiệu một vài dòng về thân thế và tầm
cỡ của bác sĩ Norman W. Hoover. Muốn biết rõ thân thế và tầm cỡ của một người
nào, điều thìch hợp nhất là chúng ta chỉ cần biết qua thân thế và sự nghiệp của
người mà họ thay thế. Tôi muốn nói để biết rõ bác sĩ.Hoover chúng ta chỉ cần biết
thân thế và sự nghiệp của bác sĩ Reimann, giám đốc AMA-SAIGON lúc ấy mà bác sĩ
Hoover thay thế.
Nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL lược thuật thân thế của
bác sĩ Reimann như sau: “The First Field Director (AMA-SAIGON) was Hobbart A.
Reimann, MD, who had a long and distinguished carreer as professor of medicine
at the Minnesota, Jefferson, and Hahnemann medical colleges, anh experience
abroad with the China Medical Board at Peking Union Medical College, and in
Lebanon, Indonesia, Iran, Afghanistan, and Hundura... His arrival in Saigon
(February 1967) coincided with important changes in medical administration
ordered by Prime Minister Nguyen Cao Ky (3-1967). The Dean of the medical
school was dismissed and replaced by a faculty committee...” (3)
Hobbart A. Reimann, MD, bề thế kinh nghiệm, dạn dày như vậy
mà vẫn bị Norman W. Hoover, MD, thay thế. Như thế thì ta biết Hoover, MD, là
‘tay cự phách’ như thế nào! Tôi và các nội-trú bịnh viện Bình Dân của những năm
68-70 vinh dự được bác sĩ Norman W. Hoover và giáo sư bác sĩ Hoàng Tiến Bảo trường
Y Saigon, cầm tay chỉ dạy kỹ thuật điều trị bịnh lao cột sống (Pott’s
Disease) bằng phẫu thuật (Hogdson’s Operation). Tôi được giáo sư bác sĩ
Norman W. Hoover gửi tặng quyển sách SAIGON MEDICAL SCHOOL vào năm 1989 từ văn
phòng AMA ở đường Dearborn, Chicago.
Sau sắc luật của tướng Kỳ, là cú Mậu Thân. Saigòn hỗn loạn
và trường Y thật xô bồ, kẻ lên người xuống, chà đạp nhau. Kẻ theo Tây, người
theo Mỹ. Ai hơn, ai thua thì không biết, chỉ có sinh viên trường Y bị thiệt
thòi: Trường đóng cửa liên miên. Lợi dụng sinh viên, bên này bắt chẹt bên kia,
bãi khóa đình công dài dài. Bịnh viện Bình Dân được xây cất giữa quận Ba
Saigòn, trên đường Phan Thanh Giản, gần chợ Vườn Chuối và khu Bàn Cờ, một khu
đông dân nhất của Saigòn thuở ấy. Nằm giữa một “Sài-gòn tạp pín
lù” vào thời ấy, bịnh viện Bình Dân làm sao tránh khỏi ảnh hưởng của thời
cuộc. Dù vậy, khu nội trú của bịnh viện Bình dân lúc nào cũng hoạt động hăng
say, chặt chẽ, nghiêm chỉnh.
Vâng, Võ Thành Phụng là một gương mặt đặc biệt! Không đặc biệt
sao được? Anh là người Nam, dám làm nội trú của khoa Chấn Thương và Chỉnh Trực
tại bịnh viện Bình Dân. “Patron” của anh là giáo sư thạc sĩ Trần Ngọc Ninh, một
conservator người Bắc, ông cũng đương nhiệm bộ trưởng Văn Hóa. Tôi là bạn chí
thân với Võ Thành Phụng từ thời PCB. Tuy nhiên sau này tôi ở lại lớp nhiều lần
cho nên khi Võ Thành Phụng vào nội trú, tôi còn ở năm thứ Ba.
Võ thành Phụng là người sống tự lập. Những năm anh học y
khoa anh sống bằng nghề précepteur, kèm trẻ tại tư gia các gia đinh
người Pháp tại Saigon. Anh được trả lương rất là hậu hĩ. Những năm 61-63, tôi
biết, khi đó, tiền anh kiếm bằng nghề dạy học được lắm, gần bằng lương bộ-trưởng
cùng thời. Dĩ nhiên anh phải là rất xuất sắc về Toán. Anh rất đam mê về khoa học.
Những cô đầm học trò của anh thuôc thế hệ Yé Yé thời đó, thật xinh đẹp. Có cô
sau một năm học trở thành người yêu của thầy. Cũng YéYé, cũng ra riết lắm!
Tôi nhớ lại, đã được nhận làm nội trú ủy nhiệm vào khoảng đầu
năm học 69, sau khi bị tai nạn xe Jeep nhà binh Mỹ cán gẫy kín xuơng đũa và sai
khớp cổ chân trái, hồi cuối Mậu Thân. Lúc ấy tôi đang học năm thứ Tư. Tôi được
Thầy Hoàng Tiên Bảo điều trị. Nhớ ơn Thầy và cũng vì bản thân đã một lần chịu đựng
tai biến của chấn thương, nên đầu năm thứ năm tôi xin đầu quân làm nội trú ủy
nhiệm khu chấn thương và chỉnh trực tại
bịnh viện Bình Dân. Khi được nhận làm nội trú ủy nhiêm, tôi tìm hiểu
ngay những sinh viên nội trú đang ở trong khu nội trú (dorm) bịnh viện
Bình Dân.
Tôi rất ngạc nhiên bác sĩ Nghiêm Đạo Đại và ông lão làng nội
trú Võ Thành Phụng vẫn còn trong dorm nội trú Bình Dân. Khi gia nhập vào
khu nội trú, tôi luôn nhớ nhập tâm là tôi là người lớn tuổi nhất trong khu nội
trú, và cũng là người duy nhầt làm nội trú ủy nhiệm (interne fonctionnel)
giữa tất cả anh em nội trú thực thụ (interne titulaire). Biết phận
mình, tôi rất thủ thế. Tôi đã may mắn được bác sĩ nguyên nội trú Nghiêm Đạo Đại
cho vô ở cùng phòng.
Nội trú Võ Thành Phụng liên tiếp nhiều năm được bầu làm chủ
tịch, “xếp sòng” của khu nội trú. Anh cũng là ‘ông bầu” của những cuộc vui của
khu nội trú. Giáo sư Đào Đức Hoành là người trực tiếp chịu trách nhiệm tinh thần
và tổ chức của khu nội trú Bình Dân. Dĩ nhiên giáo sư Hoành nhiều khi phải đối
phó chật vật với nội trú Võ thành Phụng, một trưởng khu nội trú chịu chơi và
quá cởi mở!
Anh em nội trú cho tôi hay, trước đó giáo sư Đào Đức Hoành
đã nhiều lần khiển trách nội trú Võ Thành Phụng vì anh tổ chức những cuộc vui
cuối năm trong khu nội trú với vũ sexy, làm bại hoại và suy đồi đạo đức của
sinh viên nội trú. Nhưng nói là nói vậy, giáo sư Hoành lúc nào cũng quí Võ
Thành Phụng, một nội trú tài ba và tận tụy của bịnh viện Bình Dân trong mấy năm
qua. Võ Thành Phụng đã bảo anh em: “Thầy là cha mẹ, răn đe con cái là chuyện
thường. "Moi" muốn làm sao cho anh em mình vui là được rồi”. Đó là trật
tự sẵn có, được sắp xếp trong nhiều năm của khu nôi trú Bình Dân trước khi tôi
dọn vào hồi tháng 8/1969…
Tôi cũng xin nói thêm về anh lao công của khu nội trú Bình
Dân, anh Tư Được. Tư Được nom có vẻ gầy, chân đi hàng hai, răng hô. Anh đem một
vợ ba con nhét vào trong một phòng 6 mét vuông, dành cho y công, ăn ở trong bịnh
viện luôn! Tư Được chăm sóc vệ sinh của khu nội trú và đồng thời chăm sóc cà
phê buổi ăn sáng, trưa và tối của sinh viên nội trú. Cà phê anh làm cho chúng
tôi uống thật đặc biệt. Nếu nó đắng thì cũng may với những ai có chút tâm hồn
lãng mạn, nghe đến ‘ly cà phê đắng’ thấy thích. Đằng này không phải vậy. Nó
chua và chát, mầu đen sẫm, uống vào nghe nhờn nhợn. Tuy nhiên uống mãi rồi cũng
quen. Chúng tôi đặt cho nó một cái tên rất thời trang: "Cà phê Tư Được".
Cũng như toàn thể sinh viên nội trú thuộc bịnh viện Bình Dân
trong những năm 67, 68, 69, nội trú Võ Thành Phụng làm việc thật hăng say. Anh
chấp hành nghiêm chỉnh những phương sách điều trị của các giáo sư cho bịnh
nhân, chăm sóc và chịu trách nhiệm tại phòng Ngoại Chẩn của Chấn Thương và Chỉnh
Trực. Anh thăm phòng bịnh thuộc khu trực thuộc patron của anh. Trong những ‘ca’
mổ chọn lọc (elective surgery) dành cho giáo sư patron, nội trú Võ Thành
Phụng bao giờ cũng vô phòng mổ trước và sửa soạn bịnh nhân cẩn thận. Anh luôn
luôn là người ‘First Aid’ cho thầy trong những ‘ca’ mổ của ông tại bịnh viện
Bình dân, cũng như những bịnh viện tư ở ngoài như Saint Paul, Triều Châu, Sùng
Chính...
Những sinh viên nội trú của khu Ung Thư, Giải Phẫu Tổng
Quát, Tiết Niệu cũng làm tương xứng như vậy với patron của họ. Tôi thấy mọi người
tất bật túi bụi cả ngày, chạy từ phòng bệnh lên phòng Mổ, chăm nom phòng Ngoại
Chẩn, phụ các giáo sư dạy lâm sàng cho các sinh viên đi thực tập.
Anh Phụng cũng là chuyên viên thuyết trình những Cas
Presentation. Nếu có lúc nào rảnh hay buổi chiều sau giờ làm việc, thì anh
chạy lại nhà in Mỹ Hiệp xem họ in tờ báo TÌNH THƯƠNG (do sinh viên y khoa
Saigòn chủ trương) có đúng theo yêu cầu không? Đó là chưa nói những lúc
anh đi cầu cạnh hết người này đến người khác viết bài. Nhưng vất vả nhất vẫn là
chạy tìm mối quảng cáo để có tiền trả nhà in. Nhiều lúc tôi thấy anh tất tả chạy
đến Trang Hai, Phan Nhàn, Ténamid, Roche, Roussell, Specia, La thành Nghệ…
xin họ ủng hộ tờ báo bằng cách đăng quảng cáo trường kỳ.
Trong những dịp tổ chức hội hè: cuộc vui cuối năm, Giáng
Sinh, Tết nhất, hay những buổi lễ tốt nghiệp Y Khoa Saigòn mà không có Võ Thành
Phụng nhúng tay vào là chắc chắn mất vui. Anh là “ông bầu” của những tiết mục hấp
dẫn. Anh thường hay say li bì. Mỗi chiều, cứ đúng sáu giờ chiều và không phải
trực thì anh lên phòng nội trú, tắm rửa, diện vào, rồi lái chiếc Lambretta ra
ngòai ăn tối tại một nhà hàng nào đó. Sau đó ghé thăm em út. Năm đầu còn có người
phàn nàn chỉ trích anh, nhưng rồi anh em cũng quen. Vả lại càng về sau các nội
trú mới càng kính nể anh, với cái tánh say rượu dễ thương.
Chỉ có tôi là bạn lâu đời chưa hề thấy anh ấy say sưa lần nào.
Về chuyện này anh hoàn toàn giữ kín với tôi, trong khi chuyện bạn gái thì lại
chân thành công khai. Vào những buổi tối cuối tháng mười năm 70, không hiểu sao
Võ Thành Phụng say li bì. Một tối nọ về khuya say khước, dựng chiếc Lambretta
không nổi, anh bước lên lầu ba la ó om xòm, Rồi khoảng 5 phút sau, phòng anh im
bặt. Sợ có khi quá chén người say bị trụy tim mạch không chừng, tôi bèn xô cửa
bước vào thì thấy Võ Thành Phụng đang ngồi chong đèn, hai tay ôm đầu. Ngước mắt
nhìn tôi bất ngờ anh hỏi:
- "Toi" có quen anh Tùng không?
- Anh Tùng nào?
- Trần Minh Tùng, bộ trưởng…
- Không! Mà chuyện gì vậy?
- Tờ TÌNH THƯƠNG đang bị kiểm duyệt đục, có thể bị đình bản.
"Moi" đang tìm người cứu nó!
Tôi sửng sốt nhìn anh và bất giác nói:
- À ra thế!
Phụng nhìn tôi mỉm cười hơi chua chát. Trong ánh đèn lờ mờ
anh ngước bộ mặt thiểu não hỏi tôi :
- "Toi" có biết hồi trưa nay làm sao
không?
- Hồi trưa này là sao?
- Hồi trưa có một nhóm sinh viên Y và cả các thầy cùng kéo đến
văn phòng khoa trưởng Phan Tấn Tước, hình như họ muốn làm áp lực để ông ấy...
phải đi!
- "Moi" biết "toi" quý
giáo sư Tước lắm mà!
Võ Thành Phụng vụt đứng dậy, chạm phải cây đèn làm nó chao
chao ngã xướng chân giường. Anh la lớn:
- Trời ơi! thích hay không thích! quý hay không quý cái mẹ
gì?! Từ ngày bãi nhiệm giáo sư Phạm Biểu Tâm đến bây giờ, kẻ lên người xuống,
máu đổ thịt rơi. Hai giáo sư bị giết chỉ trong vòng hai tháng. Một sinh viên bị
ném từ trên lầu xuống chết ngắc! Bây giờ họ muốn gì? Họ muốn gì? Muốn giềt ai nữa
đây? Muốn giết các thầy còn lại nữa sao?
Anh quát tháo ầm ĩ đuổi tôi ra khỏi phòng và ngồi xuống bưng
mặt khóc ngất. Tôi đến dựng lại cây đèn, dìu anh lên giường nằm và kéo chăn đắp
cho ấm. Anh nghiêng người, tôi thấy quần anh ướt. Say quá rồi. Thương anh vô hạn.
Tôi đi nhẹ vế phòng cố ru giấc ngủ. Bấy giờ hơn hai giờ sáng. Thấy Nghiêm Đạo Đại
đang ngon giấc, thở thật đều trong giấc ngủ vô cùng bình yên.
Tôi nghĩ về Nghiêm Đạo Đại. Tôi nghĩ về Võ Thành Phụng… Cả
hai đều là những con người ưu tú của "xã hội-sinh viên-Y Khoa
Saigon" thời ấy, thông minh, kiệt xuất, thương người, và hy sinh cho sự
nghiệp Y học. Nhưng tại sao bề ngòai các anh khác nhau nhiều quá vây? Người thì
sống đời hài hòa an lạc, kẻ lại có cuộc sống đầy xôn xao giao động. Tôi đi vào
giấc ngủ với thoáng bâng khuâng. Sáng hôm sau, nhìn đồng hồ hơn 8 giờ, bác sĩ
Nghiêm Đạo Đại đã xuống thăm phòng bịnh từ sáng sớm. Tôi vội mặc áo chạy qua
phòng nội trú Võ Thành Phụng xem sao? Thấy anh chàng đã thơm phức trong blouse
trắng. Tôi bảo:
- "Moi" đến mời "toi" chầu
cà phê Tư Được đây.
Võ Thành Phụng đi theo tôi. Vừa cúi xuống rót cà phê anh vừa
nhìn xuống lầu nơi bãi đậu xe. Rồi la lớn:
- Không được! Tên nào nghịch quá trời, xô ngã lambretta của
"moi".
- "Toi" có chắc không? Hồi khuya ông ngất
ngưỡng trở về, dựng xe đâu có nổi!
- Đêm qua "moi" về sớm ngủ hết biết!
Và anh chạy vụt xuống lầu. Nhìn theo anh mà mừng, anh không
còn nhớ những gì đã xảy ra đêm qua.
Sau gần 40 năm, ngồi viết đến đây tôi vẫn còn ngậm ngùi nghĩ
về Võ Thành Phụng, người bạn thời tuổi trẻ. Tôi hồi tưởng lại những gì xảy tại
trường Y Sàigòn trong những năm tháng 67-70 và sau đó... Những thay đổi, xáo trộn
của nhà trường đã ảnh hưởng đau thương đến tâm hồn người sinh viên y khoa thuở
đó.
Giáo sư Phạm Biểu Tâm, một vị lương y mẩu mực, được mọi người
ngưỡng vọng, sau 13 năm giữ chức Khoa Trưởng Trường Y bị bãi nhiệm năm 67. Một ủy
ban gồm năm người do tướng Kỳ chỉ định đã thay thế ông. Ba tháng sau có một cuộc
bầu cử giữa năm người trong ủy ban đó: giáo sư Ngô Gia Hy, giáo sư Trần Anh,
giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, giáo sư Lê Minh Trí và bác sĩ Nguyễn Thế Minh. Kết quả
là giáo sư Ngô Gia Hy đắc cử làm khoa trưởng trường Y Saigòn vào tháng 5
năm1967.
Theo lời thuật của nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL
thì hai tháng sau, vào tháng 7/67 giáo sư Ngô Gia Hy tuyên bố sẽ ra tranh cử
thượng nghị sĩ Sàigòn. Ông liền bị tố cáo dùng chức quyền khoa trưởng trong mưu
đồ chính trị, và rồi bị truất quyền trong vòng ba tháng. Bác sĩ Vũ Thị Thoa,
đương nhiệm phó khoa trưởng đã lên làm khoa trưởng lâm thời. Sau khi thất cử
thương nghi sĩ ba tháng sau, tháng 10/67, giáo sư Ngô Gia Hy lại trở về làm
khoa trưởng trường Y Saigòn. Lần trở lại này uy tín của ông đã bị sụp đổ.
Chắc chúng ta ai cũng thắc mắc về “sắc luật” 1967 của Tướng
Kỳ, vi phạm nền tự trị Đại học, bãi chức Khoa Trưởng Trường Y và thế vào bằng một
ủy ban gồm có 5 người do ông ta chỉ định. Nhất định phải có kẻ hoạt đầu chính
trị đứng sau lưng tướng Kỳ. Hay cũng có thể có "bàn tay lông
lá" nào đó buộc tướng Kỳ phải chấp nhận "planning" như vậy.
Theo nhóm tác giả của SAIGON MEDICAL SCHOOL, chính bác sĩ Lê Minh Trí tự nhận
mình là kẻ đứng sau tướng Kỳ trong vụ này:
“The fact was an ambitious young man, Lê Minh Trí, MD,
claimed to be, and was, the instigator. He believed that medical education in
VietNam had to be changed, knew many of changes that needed to be made, and
believe that they could be made quickly only by removal of those who
self-interest seemed to be serve by the status quo”. (4)
Bác sĩ Lê Minh Trí mới vừa từ Mỹ về sau 6 năm tu nghiệp y
khoa. Cũng như các bác sĩ khác tu nghiệp lâu năm tại Mỹ, ông được cấp bằng PhD.
Bác sĩ Lê Minh Trí mới trở về trường Y Sàigòn, áo khoác chưa kịp ráo mồ hôi mà
ông đã có tên sẵn trong danh sách Ngũ Đầu Chế của Tướng Kỳ. Lạ thật! Liệu những
lập luận bên trên của nhóm bác sĩ Ruhe, Hoover, và Singer PhD về bác sĩ Lê Minh
Trí có đúng sự thật không? Hay đó chỉ là giả thiết, và tệ hơn nữa nếu đó là bịa
đặt?
Có lẽ cũng cùng ý nghĩ như thế mà chín năm sau, trong một
phút ăn năn, Tướng Kỳ hy vọng sau này sẽ có ai soi rọi lại cho sáng tỏ vấn đề
phức tạp này: “It appeared lately that the background of the ‘Coup de Faculté’
was more complex and it would need some research for anyone to have a clear
picture...”
- Ngày 29/1/68, biến cố Mậu thân, tòan thể đại học Saigòn
đóng cửa. Tất cả sinh viên đi tập Quân Sư Học Đường.
- Ngày 1/4/ 68, đại học Saigòn mở cửa lại.
- Ngày 2/5/68, Mậu Thân đợt 2, trường lại đóng cửa!
- Ngày 18/6/68, trưòng mở cửa lại. Niên khóa năm đó kết
thúc muộn vào ngày 15 /8/ 68.
- Tháng 9/68, theo lời tường thuật của nhóm tác giả SAIGON
MEDICAL SCHOOL, bác sĩ Lê Minh Trí được tướng Kỳ bổ nhiệm làm bộ trưởng bộ Quốc
Gia Giáo Dục. Cùng thời gian đó viện trưởng Viện Đại học Saigòn là giáo sư Trần
Quang Đệ đi nghỉ hè ở Pháp. Cũng như mọi năm trước, giáo sư Trần Quang Đệ vẫn
quen nấn ná ở lại Pháp khá lâu sau mỗi vụ nghỉ hè. Với tư cách bộ trưởng bộ Quốc
Gia Giáo Dục, bác sĩ Lê Minh Trí đã cách chức giáo sư Trần Quang Đệ, cho rằng
ông ta là kẻ đào nhiệm. Sau đó bác sĩ Lê Minh Trí chỉ định giáo sư Trần Anh làm
viện trưởng Viện Đại Học Sàigòn. Vào lúc đó giáo sư Trần Anh cũng đã thay thế
giáo sư Nguyễn Hữu làm giám đốc Cơ Thể Học Viện.
- Ngày 1/11/68, lại một cuộc vận động bầu bán ghế khoa trưởng
trường Y Saigon. Người đắc cử là bác sĩ Phan Tấn Tước, giáo sư phụ giảng
(professeur délégué). Theo nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL: “Ông ta ít được
nhiều người biết đến”. Ngày bác sĩ Phan Tấn Tước nhậm chức, nhóm tác giả
SAIGON MEDICAL SCHOOL đã viết: “He came into office as a dark horse!” (5) Tôi
thật sự không hiểu họ muốn nói gì về bác sĩ Phan Tấn Tước qua từ ngữ “dark
horse”. Dù sao thì sự "lên ngôi khoa trưởng’ của bác sĩ Phan Tấn Tước cũng
tạo được một tình thế ổn định hành chánh cho trường Y Saigòn, tuy chỉ là tạm bợ.
- Ngày 6/1/69 bác sĩ Lê Minh Trí, đương kim bộ trưởng bộ Quốc
Gia Giáo Dục Sàigòn bị ám sát. Nói về cái chết của bác sĩ Trí, nhóm tác giả
SAIGON MEDICAL SCHOOL viết: “Bác sĩ Lê Minh Trí là người trẻ, tham vọng, ăn nói
không biết kiềm chế, đi lại không cần bảo vệ”. Và lạ lùng thay, nhóm bác sĩ
Ruhe, Hoover và Ira Singer Ph.D viết thêm một điều mà chúng ta chưa hề nghe nói
đến bao giờ: “Bác sĩ Lê Minh Trí tự hào về quá khứ của ông: Ông đã được rèn luyện
thành một chiến sĩ du kích trong rừng sâu theo phong trào Việt Minh, trong thời
kỳ kháng chiến chống Pháp”!
Nhắc về sự kiện này, nhóm tác giả SAIGON MEDICAL
SCHOOL đã viết: “Dr Trí had been away from Vietnam for 6 years taking
graduate training in the US ..He was proud to have been a trained guerilla in
the jungle fighters with the Viet Minh during the war with the French. He was
fearless. He spoke without restraint and traveled without protection...” (6)
Sau đó hai tháng, bác sĩ Trần Anh, viện trưởng Viện Đại Học
Sàigòn, giám đốc Viện Cơ Thể Học Saigòn, bị ám sát chết cách nhà ông khoảng 100
mét, lúc đang đi bộ từ trường Y về nhà trong khu Đại Học Xá Minh Mạng.
Bầu không khí khủng hoảng và lo sợ đã phủ xuống Trường Y
Sàigòn. Ai ai cũng hiểu cái chết của giáo sư bộ trưởng Lê Minh Trí và giáo sư Trần
Anh đều liên quan đến sự can thiệp của phái bộ AMA-SAIGON của Mỹ vào nội tình
trường Y Saigon. Nhất là người ta còn nhớ lại cách đó không lâu cũng tại trường
Y Saigon, trong thời gian giáo sư Ngô Gia Hy còn làm khoa trưởng, một nam sinh
viên y khoa năm thứ tư đã bị ném xuống chết không kịp trối từ lầu cao
Bio-Chemistry! Nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL đã viết về suy nghĩ của ban
giảng huấn trường Y Sàigòn như sau: “Sau đó một thời gian dài, ban giảng
huấn người Việt của trường Y Saigon tỏ vẻ sợ sệt và lạnh nhạt với phái bộ Mỹ
AMA-SAIGON ”.
Nói về cái chết của bác sĩ bộ trưởng Lê Minh Trí và bác sĩ
viện trưởng Viện Đại Học Saigon Trần Anh cùng thái độ nghi kỵ sợ sệt của ban giảng
huấn người Việt tại trường Y Saigon đối với nhân viên của tổ chức AMA-SAIGON
lúc đó, nhóm tác giả SAIGON MEDICAL SCHOOL viết:
“The stability within the facility was uneasy at best and
fell entirely on January, 6, 1969, with the assassination of the Minister of
Education, Dr Tri. A grenade was thrown into his automobile. Just two months
later Dr Anh, the Rector of the University was killed by multiple gunshot
inflicted at closed range while he walk from his from the medical school
to his home one block away. The mystery that surrounded the two
assassinations produced an atmosphere of apprehension throughout the
medical school. It had particular significance to AMA because it was generally
concluded that the assassinations, by whatever by opposing force, were related
to the medical school changes to which the U.S. had contributed. The Faculty of
Medecine asked that the project continue but that it operate as unobstrusively
as possible, since no one knew what part association with Americans may have
played in the fate of DR Tri and Anh. For a long time afterward, the Vietnamese
Faculty show restraint in its association with Americans…” (7)
Liền sau đó đã có nhiều biến cố và khủng hoảng liên tiếp xảy
ra tại trường Y Saigon. Những ngày thi cuối năm phải dời đổi nhiều lần... Ngày
thi cuối năm của niên khóa 1970 được ấn định vào 10/8/70. Nhưng vào thời điểm
này sự liên hệ giữa giáo sư khoa trưởng Phan Tấn Tước và ban giảng huấn trường
Y Sàigòn trở nên suy đồi. Ban giảng huấn và một số sinh viên yêu cầu giáo sư
Khoa Trưởng phải từ nhiệm. Giáo sư Phan Tấn Tước từ chối. Lại bãi khóa đình công
không thi cử. Mãi đến tháng 11/70 thì cuộc thi cuối năm mới bắt đầu, sau khi biết
chắc giáo sư khoa trưởng Phan tấn Tước từ nhiệm.
- Tháng 12/70: Bác sĩ giáo sư Đào Hữu Anh, đương kim phó
khoa trưởng lên làm khoa trưởng lâm thời trường Y Saigòn. Đó cũng là lúc giáo
sư Phan Tấn Tước từ nhiệm. Bác sĩ Đào Hữu Anh là một nhân vật trầm mặc, kín
đáo. Ông là giáo sư trưởng khoa Cơ Thể Bệnh Lý-Anatomy Pathology, trưởng phòng
thí nghiệm Anapath của trường Y Saigon. Sau khi tu nghiệp ở Mỹ, ông trở lại trường
Y Saigòn vào những năm 60. Từ đó không hiểu do thế lực nào, hay là vì quá khứ đạo
đức y học mà giáo sư Đào Hữu Anh đã luôn nắm chặt chức phó khoa trưởng trường Y
Saigòn cho đến ngày 30/4/75.
- Tháng 12/71 bác sĩ giáo sư Đặng Văn Chiếu được bầu làm
khoa trưởng trường Y Sàigon. Để đánh dấu giai đoạn lịch sử này, nhóm tác giả
SAIGON MEDICAL SCHOOL hạ bút: “At the end of 1971 there was hope for internal
stability in the medical school with the election of ĐangVanChieu, MD, as Dean,
Dr Chieu, Professor and Chairman of Department of Neurological Surgery was
elected as favorise of both sides and not concession of either. With his entry
into office in January, 1972 there seemed to be real promise of prolonged
period of cooperation.” (8)
Những lời phát biểu ở trên của nhóm bác sĩ Ruhe, Hoover và
Ira Singer PhD có vẻ chủ quan phấn nào, khi họ bảo giáo sự Đặng Văn Chiếu được
bầu làm khoa trưởng trường Y là do sự ủng hộ của cả hai phía Việt và Mỹ, chứ
không phải do sự nhường nhịn của bên này hoặc bên kia. Thật sự giáo sư Đặng Văn
Chiếu là người Nam, vốn dĩ điềm đạm hòa nhã, đã được mọi người và sinh viên mến
chuộng. Ông đã được sự ủng hộ của cả hai phía Việt cũng như Mỹ, nhất là từ phía
phái bộ AMA-SAIGON.
Thật ra vào tháng 12/1971 khi giáo sư Đặng văn Chiếu lên làm
khoa trưởng, thì tất cả ban giảng huấn người Việt cũng như sinh viên trường Y
Saigòn hoàn toàn mệt mỏi, khiếp sợ, chán chường trước mọi thay đổi và chết
chóc. Trường Y Saigon đã phải trả giá quá đắt cho sự can thiệp đẫm máu của phái
bộ AMA-SAIGON, bằng cái chết của hai giáo sư Lê minh Trí, Trần Anh cũng như
sinh mạng của sinh viên y khoa "rớt" từ lầu cao xuống sân trường. Ho
chết không trối trăn được một lời.
Tinh thần trường Y Saigòn vào thời điểm này coi như đã thuần.
Mọi người đều hy vọng ngày giáo sư Đặng Văn Chiếu nhậm chức khoa trưởng, tháng
12/1971, sẽ mở đầu một thời kỳ hòa bình, ổn định, hợp tác về lâu về dài giữa
trường Y Saigon và phái bộ AMA-SAIGON. Sau ngày nhậm chức của giáo sư Đặng Văn
Chiếu cũng có xáo trộn, nhưng giáo sư Đặng Văn Chiếu đều vượt qua nhờ sự ủng hộ
tích cực của Mỹ và Việt. Giáo sư Đặng Văn Chiếu vẫn là Khoa trưởng trường Y
Sàigòn cho đến ngày Saigòn thất thủ 30/4/75. Giáo sư Chiếu và gia đình sau đó
được di chuyển sang Mỹ an toàn.
Bây giờ nhớ lại cái chết tức tưởi của thầy và bạn, chúng ta
vô cùng thương tiếc họ. Đồng thời chúng ta cũng thật sự kiêu hãnh về truyền thống
trường Y Saigòn và bịnh viện Bình Dân, luôn luôn gìn giữ nếp cao đẹp. Mặc dầu
dưới bất cứ áp lực thời thế tệ hại cách mấy đi nữa, thì sinh viên trường Y Sài
gòn vẫn tiếp tục đi học và thực tâp tại bịnh viện, trừ những khi phải tham dự
huấn luyện Quân Sự Học Đường.
Sinh viên nội trú, bác sĩ, giáo sư luôn có mặt trong bịnh viện,
bên cạnh bệnh nhân. Họ tiếp tục học hỏi, giảng dạy và theo đuổi những công
trình nghiên cứu. Tại bịnh viện Bình Dân, tập thể bác sĩ cùng nội trú và sinh
viên luôn quy tụ quanh thầy Phạm biểu Tâm (dù cho thầy đang tại chức khoa trưởng
hay bị bãi nhiệm). Các vị giáo sư Ngô Gia Hy, Trần Ngọc Ninh, Hòang Tiến Bảo,
Đào Đức Hoành… đã tích cực thực hiện phẫu thuật, giảng dạy, nghiên cứu, ngày
cũng như đêm.
1968, 69, 70 là những năm mà khu Phẩu Thuật “B” bịnh viện
Bình Dân phát triển cơ cấu kỹ thuật theo tiến bộ mới. Các sinh viên nội trú ngoại khoa
(surgical) phần nhiều tụ tâp về đây. Bác sĩ giải phẫu Norman William
Hoover, chuyên về Chấn Thưong Chỉnh Trực từ trường Y Mayo Clinic thời danh của
Mỹ tại Minnosota đã từng đến Viêt nam vào năm 1967 để thay thế bác sĩ Reimann
làm giám đốc (Field Director) AMA-SAIGON. Ông đến bịnh viện Bình Dân, hợp tác với
các giáo sư Hoàng Tiến Bảo, Trần Ngọc Ninh, nội trú Võ Thành Phụng trong công
trình nghiên cứu mới về giải phẫu điều trị chứng Lao Cột Sống: Hogdson’s
Operation (9).
Giáo sư Trần Ngọc Ninh và Hoàng Tiến Bảo cùng sự công tác của
nội trú Võ Thành Phụng đã kiện toàn phẫu thuật thay thế khóp háng (hip
release), khớp gối (knee release) và đóng đinh cổ xương đùi (Smith
Petterson Nailing) cũng như đóng đinh gẫy kín xương chầy. Giáo sư Hòang Tiến Bảo
cùng các cộng sự viên, nội trú Nguyễn Quang,,, từng theo đuổi công trình nghiên
cứu Bướu Các Phần Mềm (Tumeurs des Parties Molles) và thẩm định tánh
chất của Bướu Tế Bào Lớn (Giant Cell Tumors). Tôi cũng được vinh dự tham
gia các công trình kể trên tại khu Chấn thương và Chỉnh Trực mặc dầu với một
vai trò thứ yếu.
Cùng trong những năm này tại khu Ung Thư bịnh viện Bình Dân,
giáo sư Đào Đức Hòanh (với sư cộng tác của bác sĩ Dương, nội trú Nguyễn Chấn
Hùng, và nội trú Lâm Văn Năm sau đó) đã tận lực phát triển kỹ thuật giải phẫu
Wertheim, và Halsted (10) đến độ nhuần nhuyễn. Các khu Giải
Phẫu Tổng Quát của giáo sư Phạm Biểu Tâm (với sự cộng tác của bác sĩ Huấn, Tuyến,
Lân, Nghiêm Đạo Đại, và nội trú Văn Kỳ Chương), khu Tiết Niệu của giáo sư Ngô
Gia Hy (với nội trú Đặng Phú Ân, Nguyễn Hiệp) cũng như tất cả các khu
khác trong bịnh viện đều theo đuổi những công trình nghiên cứu và phát triển
chuyên biệt.
Nhận xét về những dữ kiện trên, phái bộ AMA Sàigòn đành phải
thú nhận sự thật như sau: “War and Politics obsviously interfered with the
process of medical education in VietNam. Nevertheless, medical students
continued to apply themselves and continue to learn medicine even during the
most serious disruptions… Perhaps this provides evidences that students
continue to seek knowledge at any opportinuity if available, eventhough adverse
conditions interfere with the regular teaching process” (11)
Có điều làm chúng ta ngạc nhiên là trong phần bạt hậu
(Epilogue) của SAIGON MEDICAL SCHOOL, các tác giả kiêu hãnh lập lại lời báo chí
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khen tặng họ vào ngày 1/5/1975: “The Americans are
not very good at fighting a war, but they do know how to build a very good
medical school.” (12) Vâng, người Mỹ biết làm thế nào để xây dựng một trường Y
tân kỳ, tiến bộ về kỹ thuật. Nhưng người Mỹ xây dựng trường Y Saigòn bằng sự
can thiệp đẫm máu vào nội bộ tổ chức của trường Y Saigòn một cách quá tệ hại.
Viết tới đây, mặc dầu đã là công dân Mỹ hơn 20 năm, tôi vẫn thấy mình chưa vượt
khỏi cái bóng của quá khứ, chưa vượt khỏi thân phận người dân của quốc gia nhược
tiểu, bị đô hộ và bị cai trị.
Thời gian nhanh như bóng câu qua cửa! Mới đó mà anh em nội
trú Bình Dân Saigon từ những năm 68-70 đã xa nhau gần 40 năm! Biết bao vật đổi
sao dời. Biết bao mất mát không gì đền bù nổi.
- Cách đây mấy năm, thầy Phạm Biểu Tâm qua đời tại
Cali.
- Thầy Đặng văn Chiếu qua đời vào ngày 27/6/2004 tại
Cerratos, Cali.
- Thầy Ngô Gia Hy qua đời vào ngày 26/10/04 tại
Saigon.
- Thầy Hoàng Tiến Bảo qua đời vào ngày 20/1/2008 tại
Alhambra, Cali.
- Giáo sư Nguyễn Hữu qua đời vào ngày 15 tháng 10 năm
2008 tại Brest, Pháp
- Bác sỉ Trần Minh Tùng, người anh đầu đàn khả kính và
thân thiết của chúng ta cũng vừa qua đời vào ngày 22 tháng 10 năm 2008 tại Cali
…
Còn ai nữa trong các Thầy, các bạn đã ra đi trong lãng quên
của chúng ta? Cuộc đời và chiến tranh làm chúng ta mất hút nhau trong màu khói
lửa. Võ Thành Phụng! Bây giờ anh ở đâu? Còn khoẻ không? Anh vẫn tiếp tục dạy học
tại trường Y Saigòn? Vẫn trao dồi giải phẫu hàng ngày? Anh có còn những đêm say
sướt mướt nữa không? Còn ai để anh chia sẻ trong cơn say? Tôi lúc nào cũng nghĩ
về anh. Tôi luôn luôn nuối tiếc những năm tháng nội trú tại binh viện Bình Dân
Sàigòn 68-70 như “Thời Vàng Son” trong cuộc sống của chúng ta, của bạn bè cùng
thế hệ.
Biết bao thay đổi ngoài đời, biết bao thay đổi trên ghế khoa
trưởng trường Y Saigòn trong những năm tháng đó?! Ấy thế mà mỗi khi các giáo
sư, bác sĩ, nội trú, sinh viên y khoa bước vào phía trong cánh cửa bịnh viện
Bình Dân thì tình nghĩa trước sau là một, với tâm hồn không bao giờ thay đổi.
Thầy trò anh em gắn bó, cùng dìu dắt nhau phục vụ bịnh nhân, nghiên cứu phát
triển ngành nghề qua những chặng đường khó khăn nhất của lịch sử đất nước. Võ
Thành Phụng, tôi mong anh còn khoẻ. Tôi mong anh đọc đuợc những dòng bút ký ngắn
này.
Mong các thầy, anh em chúng ta, những ai còn sống sót sẽ gặp
lại nhau trên quê hương Việt Nam...
ĐÀO NHƯ
(Bác sĩ Đào Trọng Thể)
Oak park, Illinois USA, 4/21/05 (Sửa chữa lần cuối ngày
3/3/2009)
NB: Bác sĩ Võ Thành Phụng, giáo sư đầu ngành Chấn
Thương và Chỉnh Trực trường Y Saigon đã qua đời tại Saigon vào năm
2011.
GHI CHÚ:
(1) Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 54
(2) Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 54
(3) SaigonMedical School, Edi. 1988, trang 39
(4) Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 54
(5) Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 56
(6) Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 54
(7) Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 56
(8) Saigon Medical School, Edi. 1988, trang 58
(9) Hogdson’s Operation: Kỹ thuật giải phẫu của bác sĩ
Hogdson trong điều trị lao cột sống thực hiện đầu tiên tại Hong Kong. Chính bác
sĩ Norman W. Hoover là người đầu tiên truyền bá và giảng dạy phương pháp này tại
Orthopedic Department, bịnh viện Bình Dân Saigon vào năm 1968 cho các nội-trú.
(10) - Wertheim: Phẫu thuật cắt bỏ tử cung, phần phụ và hạch,
trong điều trị ung thư tử cung
- Halsted: Phẫu thuật cắt bỏ nhủ
hoa, cơ bắp kế cận và hạch, trong điều trị ung thư vú.
(11) Saigon Medical School, Edit.1988 - trang 60
(12) Saigon Medical School, Edit, 1988 - trang 259
Ảnh: Bác sĩ Lê Minh Trí, Bộ Trưởng Giáo Dục VNCH đẫm máu vì bị thương nặng (và sau đó chết) đang nằm trên mặt đường và vệ sĩ của ông cũng bị thương đang ngồi trên lề đường trước sự canh gác của một quân cảnh Mỹ. Tài xế của ông chết trong chiếc xe đang bốc cháy sau khi khủng bố VC tung lựu đạn vào xe trên đường phố Sài Gòn ngày 6 tháng 1, 1969.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen