Sonntag, 9. Februar 2020

Tôi đã viết Về Kinh Bắc trong tâm trạng nào?



Tôi đã viết Về Kinh Bắc trong tâm trạng nào?

Hoàng Cầm


 
Đó là vào năm 1959. Vụ Nhân văn - Giai phẩm đã qua đi như một trận gió mạnh. Sau, dĩ nhiên có một vài cây đổ, lá rụng đầy đường, có những túp nhà tốc mái, có những bức tường siêu vẹo. Xong, trời lại xanh và đường phố lại rộn rịp nếp sống thường ngày. Tôi, lẽ đương nhiên phải chịu kỷ luật, một thời gian ba năm sẽ không được phép xuất bản, ấn hành bất cứ một sản phẩm nào của ngòi bút. Và cũng chỉ có thế, còn đời sống vật chất không có gì thay đổi lắm. Vẫn có lương hàng tháng, còn tuỳ ý mình, thích thì tìm một nơi nào đấy, lao động chân tay có thêm tiền bồi dưỡng, cũng vui, và chính cái việc tôi sinh hoạt, sống ba cùng với nông dân, công nhân đã giúp tôi hiểu thêm về những số phận người.
Phải nói thật một điều, thường người ta khó tin, là hồi đó tôi không mang trong lòng – dầu chỉ một ly – nỗi oán hận, nỗi buồn phiền, hoặc trách móc hờn giận gì ai. Đôi lúc, chỉ nghĩ về chính số phận mình, có chút cay đắng, có sầu tư. Nhưng vì đã mang lấy nghiệp vào thân như Nguyễn Du nói cái nghiệp thơ đầy đau khổ, oan trái, nhưng cũng nhiều hào quang toả ra từ tâm linh đã đem đến cho mình không ít giờ phút say sưa, ngay trong cuộc sống bình nhật cũng không ít hạnh ngộ đẹp, tôi được gặp nhiều người nam, người nữ rất trong sáng, yêu thương mình hết lòng. Dân tộc là thế đấy, thưa các bạn.
Vậy thì vào mùa thu rồi sang mùa rét 1959 ấy, ít khi tôi ra khỏi nhà. Ngày hai bữa cơm nghèo, mấy tấm áo quần đã sờn rách, một lũ con nhỏ dại lau nhau đi học, chơi đùa, đau ốm, tất cả tôi trao cái gánh nặng cuộc đời ấy cho người vợ rất giỏi chịu đựng kham khổ, người vợ thật hiền, thảo, thật thương yêu chồng con (mà rồi đây, trong tập hồi ký một đời, tôi sẽ viết một chương riêng để đền đáp cái nghĩa lớn lao ấy cho người vợ đã giúp tôi đẩy chiếc xe thơ Về Kinh Bắc đi trọn đoạn đường thiên mệnh của nó).
Vâng, đúng là năm Kỷ Hợi 1959, từ khi chiếc lá bàng trước cửa nhà rụng xuống báo tin thu (lá bàng chứ không phải lá ngô đồng), hồn tôi cứ chìm dần, chìm sâu, chìm và lắng thật sâu vào vùng quê tôi ngày xưa, thời tôi còn nhỏ dại, với biết bao bóng dáng, đường nét, màu sắc, hương vị đã quá xa, đã không còn nữa. Ngày tháng qua, bao người đã qua, đã xa, đã “ đi đâu, về đâu ? ”, tôi không thể biết, nhưng cả một thời từ khi vào tuổi nhận biết được cõi đời này (lên năm) đến khi rời quê ra Hà Nội học tiếp rồi vào hẳn thế giới văn thơ (1938) nghĩa là cái khoảng thời gian 12 năm thơ trẻ ấy của tôi thì sống lại, và ngày đêm thầm thì nói chuyện với tôi về quê hương, về tình yêu, với những nỗi buồn, niềm cô đơn, nỗi xa cách, nỗi ly biệt cứ tầng tầng, lớp lớp úp xuống hồn tôi như một đại dương trập trùng sóng gió, miên man xanh một màu huyền-diệu-dĩ-vãng rồi xẻ ngang, vạch chéo, vút cao, xoáy sâu không biết bao nhiêu những nét rung động, có khi võ vàng, gày mảnh, có khi tươi tắn, ngỡ ngàng, lúc như ai oán, lúc như mơ mộng, nhưng vui ít, buồn nhiều, cái đau của những thuyền tình không đến bến, những nguyện ước không thành, những mộng đẹp tan vỡ, những men say nửa chừng, những con mắt mỹ nhân đã khép, những tiếng hát người yêu đã tắt những làn da mịn màng người gái quê Kinh Bắc đã nhăn nheo, những sợi tóc xưa óng ả nay đã úa bạc. Tất cả... tất cả... tôi bơi, chìm trong tất cả da thịt quê hương, hồn phách quê hương. Quê hương Kinh Bắc !
Và lời mở đầu cho tập thơ là một lời cầu khẩn từ đáy tâm linh thơ dại : Cúi lạy mẹ, con trở về Kinh Bắc.
Nói đến quê hương, phải bắt đầu bằng Người MẹMẹ là incarnation, là hiện thân trọn vẹn nhất, sinh động nhất của quê hương. Huống chi mẹ tôi xưa vốn là một cô gái quê Kinh Bắc có nhan sắc, óng ả, kiều diễm, có đôi mắt “ lúng liếng ” thật tình tứ, đôi mắt rất quan họ, có dáng đi thanh tao, đài các, uyển chuyển và khi mẹ tôi mặc chiếc váy lụa kiểu Đình Bảng. mép váy buông chùng cửa võng xuống đến mu bàn chân, ai trông thẩy phía trước mặt đều tưởng như người con gái này đang đi trên sóng rập rờn, nhất là khi người nữ biết cách mặc cho đúng mốt Đình Bảng, nghĩa là biết chếp nếp thế nào đó để ở phía dưới càng có nhiều pli càng đẹp. Cô nào giỏi chếp nếp thì từ mép váy lên, có đến 4 plis. Nói rằng cô gái đang đi trên sóng, là một cách nói chuẩn xác.
Hơn nữa, mẹ tôi lúc chưa đi lấy chồng, nghĩa là chưa làm vợ người đàn ông sau này là cha tôi, đã nổi tiếng khắp vùng Tiên Du, Thuận Thành (hai huyện ở tả ngạn và hữu ngạn Sông Đưống, thuộc tỉnh Bắc Ninh, bây giờ là Hà Bắc) nổi tiếng là cô thiếu nữ hát quan họ rất hay, năm nào cũng được các lão làng Bựu Xim (tên làng quê gốc của mẹ tôi) khen, thưởng cho cả phường hát ấy một tấm lụa điều và một bánh pháo đại quang toàn hồng. Lấy chồng rồi, mẹ tôi vẫn theo các chị em đi hát. Tháng tám âm lịch thì tập luyện, sáng tạo ra những làn điệu mới, lời hát mới để đến ngày 13 tháng giêng sang năm, thì dự giải hát thi ở cửa đình làng Bựu [ Làng này, thế kỷ 18, là nơi sinh ra người con gái tài sắc tuyệt vời Trần Thị Tần (1740-1778) để đến tuổi 18 thì đi làm vợ thứ ba, người vợ yêu bậc nhất của quan Đại tư đồ Bình nam Tả tướng quân (ngang với tể tướng) tên là Nguyễn Nghiễm, Xuân Quận công, và để sau sinh ra một đại thi hào cho đất nước : Nguyễn Du ]Mẹ tôi ( 1891-1961) là con gái làng Bựu, đương nhiên được hưởng, được kế thừa tinh hoa của nghệ thuật hát quan họ. Đó là nghệ thuật hát thơ. Các bạn xem kỹ những lời của quan họ xưa, sẽ thấy đó là những bài thơ, những câu thơ (cốt lõi là thể thơ lục bát) trữ tình, mang đầy sức quyến luyến, yêu thương, nhớ nhung, đằm thắm và da diết đến mức có thể làm say cả gỗ đá.
Lại cũng vì mẹ tôi cứ say mê với nghệ thuật hát mà thuở tôi chưa ra đời, giữa đôi vợ chồng trẻ (là bố mẹ tôi sau này) đã nảy sinh ra một bi kịch kéo dài đằng đẵng 12 năm. Năm 17 tuổi mẹ tôi về Thuận Thành, làng Hồ, làm vợ bố tôi, mà tại 1 sao tôi là con đầu lòng, mãi đến năm mẹ đã 31 tuổi, mới được xổ ra cõi đời này ? Thuở bé, tôi thường nghe các chú, các bác bên ngoại, bên nội kể chuyện một cách khái quát (không có 1 chi tiết) rằng “ bố mẹ thày chê nhau lâu lắm, đến hơn mười 1 năm đấy ”.
Tôi nghe thế thôi, biết hỏi ai ? Ai kể chi tiết gì đâu về cái chuyện đôi vợ chồng ấy chê nhau đến hơn mười năm ? Bố tôi nguyên là một nhà nho (1886-1959), ba lần thi trường Nam Định không đậu nổi ở cái cấp hạng bét là tam trường, sau rồi bất đắc chí, bỏ làng đi dạy học lang thang, rồi làm thầy lang cũng lại lang thang chữa bệnh khắp các huyện trong hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, rồi đâu như cũng là người yêu nước có khí tiết, đã tham gia các phong trào Đông kinh nghĩa thục, Đông du, rồi Việt Nam Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học. Tôi còn nhớ hồi mới lên 6 tuổi, tôi thường phải đun nước điếu đóm hầu trà để bố tôi tiếp bạn thân là ông Xứ Nhu (Nguyễn Khắc Nhu). Năm tôi lên bảy (1929), bố tôi đã bị viên tri huyện Việt Yên đem lính đến khám nhà rồi tống giam bố tôi ở thị xã Phủ Lạng Thương đến gần một năm mới được tha về (có lẽ là ông bị tình nghi, đế quốc Pháp đã dẹp tan Việt Nam Quốc dân đảng, bố tôi không có chứng cớ gì cụ thể để chúng buộc tội). Từ đó thì bố mẹ tôi sống yên phận, bố bốc thuốc nam thuốc bắc chữa bệnh, mẹ trĩu nặng hai hồ hàng xén đi các chợ làng chợ huyện, một cô hàng xén răng đen, cười như mùa thu toả nắng, chăm chút nuôi con ăn học bằng cách thắt lưng buộc bụng. Nhờ vậy tôi mới có điều kiện học được đến hết bậc trung học ở Hà Nội.
Vậy là trong người tôi hoà trộn hai dòng máu. Dòng máu của nghệ thuật quan họ, dân ca với dòng máu yêu nước, hào hùng và khí tiết, và cả hai dòng đều rất mực sắt son, thuỷ chung như nhất.

Thế nhưng, không hiểu sao, tôi sớm có cái buồn cô đơn ngay từ những năm lên sáu, lên bảy tuổi. Bẩm sinh chăng ? Hay chính là nỗi buồn của người con gái tài sắc lấy chồng từ năm mười bảy tuổi mà phải sống cô đơn đến hơn mười năm ? Tôi lớn lên, chính mình được nghe mẹ kể : lúc mẹ trở dạ sinh ra tôi, thì gian nhà tre, mái rơm vách đất tiều tuỵ ấy rất trống vắng. Bố mẹ đẻ thì ở xa. Mẹ chồng goá bụa, già nua cũng ở xa. Chồng, tuy mới làm lành với vợ được hơn một năm, rồi người vợ ba mươi tuổi kia lúc có thai cũng vẫn sống nhiều tháng ngày cô đơn, lạnh lẽo vì chồng cứ đi... đi đâu ? dạy học, hay làm thày thuốc rong, hay hội kín hội hở gì mà đi luôn thế, đến lúc vợ đẻ cũng không có mặt ở nhà ? Đến lúc đau quá, người thiếu phụ ấy kêu thét lên thì bên láng giềng mới có một bà chạy sang đỡ thằng bé ra đời, cắt rốn của nó bằng con dao bổ cau rồi tắm rửa, tã lót cho nó, cũng may mà nó lại sống, chỉ phải cái tội là sau thấy tiếng oa oa đầu tiên thì nó im bặt, không khóc nữa. Chào đời mà không khóc cho thật to, thật dài hơi vào à ? thằng cu này gan nhỉ, hay là ai bắt mất vía để nó nghẹn không khóc lên được nhiều ? Bà hàng xóm vừa bế tôi, vừa thắp hương lên cái bàn thờ phía đầu giường, khấn vái bốn phương. Lúc đó đã gần nửa đêm 12 tháng giêng Nhâm Tuất (1922), chỉ còn một lát nữa là sang ngày hội Lim, hội quan họ, ngày mà nhiều năm về trước mẹ tôi súng sính áo the đen tứ thân, khăn vuông mỏ quạ, vành khăn nhiễu tam giang, váy lụa Đình Bảng, đi dép da trâu mũi cong, thắt lưng hoa đào hoa lý, cùng với bốn năm chị em phường hát, đi ra đình từ sớm để rồi hát chúc, hát thi... Còn ngay lúc sắp nửa đêm ấy, vào cái giờ tôi bật từ bụng mẹ ra cõi nhân gian rất đẹp mà cũng rất rắc rối lắm chuyện này, thì ở đình làng, cách nửa chừng non cây số, như văng vẳng vẫn còn tiếng trống chầu của đêm hát chèo. Mẹ tôi kề vậy nên tôi nhớ cả cái vùng Kinh Bắc cách đây sáu bảy mươi năm, các thôn làng thường mở hội suốt tháng giêng, tháng hai. Hội to thì kéo dài năm ngày, hội nhỏ nhất cũng phải một ngày một đêm mới rã đám. Những lời mẹ kể tôi nghe từ năm lên sáu về cảnh nhà cảnh xóm, cảnh thôn xã, cảnh phố huyện phố phủ, cảnh chợ núi chợ sông, rồi đến chuyện người, ông bà, họ hàng nội ngoại, người xóm thượng, xóm hạ, người quê gốc, người ngụ cư, người cấy cày, người chợ búa, người làm quan, người đi lính, người “ làm thày, làm thợ với làm thuê ”, người dân giàu nghèo, sang hèn, quen thân hay sơ, nhiều lắm, mẹ tôi kể nhiều lắm mà hồn tôi từ thuở bốn năm tuổi cho đến khi biết đến cái cầu Long Biên, và phường phố đô thành, hồn tôi đúng là một trang giấy mỏng mảnh, trắng nõn, tinh khiết mẹ kể chuyện nào là cũng in đậm ngay vào hồn tôi chuyện ấy để rồi giá tôi được sống đến mười mươi chăng nữa sẽ chẳng có một cái gì có thể xoá đi được dẫu chỉ là một nét mong manh, một màu thoáng nhạt, một hương vị thoảng qua... Vậy nên, cả tập thơ Về Kinh Bắc tôi viết từ mùa thu 1959 đến cuối xuân 1960, là quê hương tôi, cảnh ngộ gia đình tôi, số phận mỗi người thân yêu, nhất là số phận những người gái quê Kinh Bắc đã hiện lên thành 47 bài thơ gắn bó hữu cơ với nhau trong một thể một khối n-phương thống nhất, chia làm 8 nhịp mở đầu là cúi lạy mẹ, con trở về Kinh Bắc và sau bảng mục lục là hai dòng tạm kết thúc một chuyến về thăm quê xưa, VỀ KINH BẮC
Bốn bảy bài thơ đi tám nhịp
Tuần du chưa vợi khối ân tình

Quả vườn ổi

 
Nằm trên bãi cát thư tâm
Sông nước sinh thuyền Em đẩy tới
Có gió có buồm có dòng có lái
Trách gì ai xô giạt đến bờ hoang

Em mười hai tuổi tìm theo Chị
Qua cầu bà 
Sấm bến cô Mưa
Đi...

          ngày tháng lụi
          tìm không thấy
Dải yếm lòng trai mải phất cờ

Cách nhau ba bước vào vườn ổi
Chị xoạc cành ngang
          Em gốc cây
– Xin Chị một quả chín!
          – Quả chín quá tầm tay!
– Xin Chị một quả ương!
          – Quả ương chim khoét thủng!

Lẽo đẽo Em đi vườn mai sau
Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng.
Vâng, một cuộc tuần du, đi từ người mẹ ngược về những sự tích huyền sử, dã sử, về những chuyện tình huyền thoại đến cả những chuyện thực đã diễn ra hôm qua và hôm nay. Gọi là chuyện, nhưng thơ lại là kết tinh. Trong viên ngọc kết tinh của muôn vàn nỗi niềm, cảnh sắc, hương vị, âm thanh, tiết tấu của cuộc sống vừa là xa xưa, vừa là đương đại, lúc huyền ảo, lúc hiện thực, như mê mà tỉnh, như ngủ mà thức, hư hư thực thực ấy, thì hình ảnh mẹ tôi bàng bạc bao phủ cả tập thơ, rồi đến một cậu bé con cầm chiếc lá Diêu bông trong tay đi xuyên thời gian xuyên suốt vùng quê đa tình, diễm ảo, và bên cạnh cậu bé con ấy là một người gái quê cũng đa tình, diễm ảo, như cánh mây trắng mỏng cứ vần vụ, như chạy như bay, lại như đậu tà tà trên lá cỏ, trên cánh hoa, lúc cao thì cao vút không ai níu được vạt áo, lúc thấp thì lại rành rành trước mặt như một cành cây, một chiếc lá bình thường. Hai nhân vật EM và CHỊ này choán hết cả một nhịp – nhịp năm – của bản đại hợp xướng Về Kinh Bắc trong khi cái giờ tôi ra đời thì tác giả đẩy xuống cuối nhịp bảy, sửa soạn cho nhịp cuối cùng của tập thơ. Đó là một khúc thơ có tên là Luân hồi (mà tôi trân trọng đề nghị tạp chí Diễn Đàn đăng theo bài viết này cùng với một số bài khác trích từ tập Về Kinh Bắc, để độc giả có thể tạm thời hình dung được một tác phẩm mà tôi coi là xương sống của tổng thể thơ ca của mình).
Nói chung, hầu hết những bài thơ được độc giả ưa thích trong nhiều năm của tôi, bao giờ cũng bắt đầu một cách vi diệu là từ ngoài tôi, vẳng lên đôi ba câu nghe rất rành rẽ, giọng phụ nữ lảnh lót mà rất xa, như hát mà như đọc. Như một tia nước trong vắt phun lên từ ruột đất khi chúng ta thăm dò mạch nước ngầm để đào giếng, khi đã có đôi ba câu vẳng lên bên tai, tôi ghi ngay, bắt lấy ngay và từ đó là tình cảm, suy tư cuồn cuộn trong người, tôi thường tiếp được mạch ban đầu ấy và nối luôn các đợt sóng tuôn trào cho đến khi thấy trong người yên ắng, nhẹ nhõm là bài thơ cũng hoàn tất. Ví dụ như bài thơ dài Bên kia sông Đuống (tôi đã viết rất tỉ mỉ, thuật lại những trạng thái của tâm tư mình trước lúc bật ra thơ, bài viết ấy đã đăng trên tuần báo Văn Nghệ, số kỷ niệm 35 năm thành lập Hội nhà văn Việt Nam, tháng 5.1992) tôi đang ở trong trại thái bồn chồn, thao thức, tâm tư rối bời sau khi nghe báo cáo về quê hương mình bị giặc xâm lược kéo lên tàn phá, giết chóc, tôi chưa định viết gì, lúc quá nửa đêm vắng lặng, bỗng văng vẳng bên tai ba câu:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về Sông Đuống
Ngày xưa... cát trắng phẳng lỳ
tôi bèn chộp lấy, ghi ngay và cứ thế cảm xúc trào ra một mạch dài, viết rất nhanh, sợ không theo kịp những thanh âm, làn điệu đang cuồn cuộn dâng lên trong lòng mình. Cho đến gần sáng thì xong bài thơ, một trong những bài được các bạn già, trẻ, nam, nữ yêu mến đã gần nửa thế kỷ. Những bài thơ như vậy, thường là không theo một ý nghĩ nào định trước, tác giả giống như một cậu học trò viết chính tả, lúc đầu là có tiếng đọc rành rọt bên tai, sau là viết theo tiếng đọc âm thầm từ trong tâm can mình, ở những trường hợp ấy, tôi không hề cấu tứ nghĩ ngợi gì về câu, chữ, không theo một luật lệ nào gọi là thi pháp hoặc tu từ, hoặc chịu sự ràng buộc nào của phép tắc về thanh điệu, ngữ điệu gì gì hết. Tôi chỉ tuân theo nhịp rung động của toàn thân, cả hồn và thể chất, khí chất.
Đặc biệt, riêng, riêng có bài Lá diêu bông duy nhất một bài này là những lời vẳng bên tai, từ đầu chí cuối, quá nửa đêm mùa rét 1959, trên giường ngủ, trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn ngủ 6 W, bên cạnh người vợ đang ngủ ngon và các con các giường bên cũng đang ngủ say. Tôi không gây một tiếng động khả dĩ làm mất giấc ngủ của những người thân. Đêm nào, khi lên giường nằm, tôi cũng đã để sẵn một tập giấy trắng và cái bút chì. Nếu ngủ được thì càng tốt, nhưng thường về đêm, tôi cứ hay bị thao thức, trằn trọc vô cớ. Chẳng có chuyện gì phải lo nghĩ, chẳng có ý định gì trong đầu mà sao về quá nửa đêm một mùa rét ấy, tôi vẫn không ngủ được. Bốn bề yên tĩnh. Nhà tôi ở vào một phố nhỏ, lại lùi tít vào phía trong, nên tiếng xe cộ thưa thớt cũng không bận tai. Im lặng. Chợt bên tai vẳng lên một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thời nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng...
Tôi xoay người trong chăn về phía bên trái và ghi ngay. Giọng nữ vẫn đọc, không vội vàng mà cũng không quá chậm, và tôi ghi lia lịa trong bóng tối mờ. Đến lúc giọng nữ im hẳn, lòng tôi nhẹ bỗng hẳn, một lát sau tôi ngủ thiếp đi. Sớm hôm sau nhìn lại thì có chỗ rõ, đọc được, nhiều chỗ dòng nọ đè lên dòng kia, chữ nọ như xoá mất chữ khác. Phải mất gần tiếng đồng hồ, tôi mới tách được ra theo thứ tự đúng như những lời người nữ kỳ diệu nào đó đã đọc cho tôi viết nửa đêm hôm qua. Bài Lá diêu bông ra đời như vậy, nói có người không tin, nhưng tôi nghĩ bây giờ khoa tâm thần học, vô thức luận, tâm linh học có thể lý giải được hiện tượng đó một cách rất khoa học.

Vậy nên, cái lá diêu bông là cái lá gì: ở đâu, nào tôi có biết. Thần linh đọc diêu bông, tôi chép diêu bông, thế thôi. Nhưng nó có nguồn gốc của nó chứ. Năm 12 tuổi, tôi say mê một người gái láng giềng hơn tôi những tám tuổi. Và cũng từ năm lên tám, tôi đi trọ học trên thị xã Phủ Lạng Thương, chiều thứ bảy, mươi phút xe lửa lại đưa tôi về nhà, ở cái phố ga xép Như Thiết, tên chữ nhà ga đề là Núi Tiết, thực tên là Thiết Sơn, một tổng thuộc huyện Việt Yên. Phố ga ấy cách Hà Nội 44 km. Còn 6 km nữa thì qua cầu Sông Thương (con sông Thương nước chảy đôi dòng), tới ga Phủ Lạng Thương. Đường số 1 chạy qua trước cửa nhà, sau lưng là đường hoả xa Hà Nội - Lạng Sơn. Nhà tôi có tủ thuốc bắc của ông bố, có đôi bồ hàng xén của bà mẹ. Một chiều thứ bảy, khoảng hơn 4 giờ, tôi về nhà thấy một cô gái đang mua gì của mẹ tôi. Khi cô ấy ngửng đầu lên, nhìn ra đường, thì cậu bé lên 8 choáng người, như sau này người ta thường gọi là bị coup de foudre. Người gái đẹp đến mê hồn. Rồi thứ bảy sau, về nhà, tôi trao bức thư tỏ tình đầu tiên viết bằng thơ lục bát, dài hơn một trang giấy kẻ học sinh trên có vẽ hoa vẽ bướm, một vài ngọn núi, một dòng sông với chữ viết đậm, mực tím, nắn nót : Em gửi chị Vinh của em. Ấy sở dĩ mới bé tí đã làm đuợc một trang thơ lục bát vì ở trên nhà trọ, chỗ thân tình với bố tôi, chủ nhà chính là ông xếp ga cái ga xép Núi Tiết ấy, gia đình ông trên tỉnh đông con, làm nghề xay hàng sáo, đêm nào cũng xay lúa giã gạo rồi dần sàng quạt xảy đến khuya. Tôi học bài, làm bài xong, tuy buồn ngủ, các anh các chị cứ bắt xuống nhà ngang, từ 9 giờ tối, đêm nào cũng phải dọc đủ các thứ chuyện dân gian, in khổ nhỏ, bán rẻ từ 2 xu đến 1 hào, đủ các loại truyện, thể thơ lục bát, từ Trê Cóc đến Truyện Kiều, từ Nhị Độ Mai đến Hoa Tiên, rồi Hoàng Trừu, Thạch Sanh, Phạm Công Cúc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa... Vì thực ra, ngay từ bé, tôi sớm có giọng hát hay, ngâm thơ cũng hấp dẫn người nghe lắm. Đọc hết lượt, phải đọc lại. Thể thơ lục bát thấm vào người từ nhỏ, mình lại bẩm sinh yêu thích thơ ca, nên tôi có viết bức thư tình gửi người gái Kinh Bắc, người Chị làm em say mê ngơ ngẩn suốt năm năm ấy, mà thư tình lại viết bằng thơ lục bát thì hẳn không phải là điều gì đáng ngạc nhiên phải không, thưa các bạn. Tôi mê say Chị, Chị đi đâu Em theo đấy chỉ biết gọi Chị ơi, chứ còn biết nói gì hơn. Người gái tuyệt sắc ấy, con một nhà nho chẳng may chết sớm, ba mẹ 1 con, mẹ goá con côi, đèo bòng nhau lên cái phố xép này mở ngôi hàng bán kẹo bánh, nước chè tươi nước vối, cả bánh đa bánh đúc, bánh mật bánh khoai. Chị Vinh võ vẽ chữ nho, đọc thông quốc ngữ, người quê gốc cũng Tiêu Du, nên hát quan họ thì làm mê người ta ngang với nhan sắc của Chị. Chị cũng thừa biết thằng bé con này (tên khai sinh là Bùi Tằng Việt, chỉ giản đơn là vì tôi ra đời ở thôn Phúc Tằng, huyện Việt Yên, Bắc Giang, nơi bố tôi ở nhờ để gõ đầu trẻ), biết thằng bé con này nó mê đắm mình, nên Chị cứ hay trêu đùa, lắm lúc tôi phát khóc, nhưng cũng nhiều giờ phút tôi có một hạnh phúc không gì so sánh kịp là được Chị Vinh cho ngồi sát bên chị, chầu rìa những cuộc chơi tam cúc ngày Tết, ngày xuân hay ngày hội. Chị thường hay nhờ những đêm trăng sáng vào mùa hè, mùa thu, tổ chức những đám thanh niên tụ tập ở cái bãi sau ga, hát ví, hát trống quân, hát ống, hát giao duyên vấn đáp, đặc biệt là về môn quan họ thì Chị là bà Chúa của dân ca ! Giọng ngọt, say như mật ong, đôi mắt đen thăm thẳm với hàng mi cong và dài, má luôn luôn ửng đỏ, môi luôn luôn đã hồng nay thường nay cắn chỉ quết trầu, răng đen dưng dức hạt na. Chị Vinh ơi, viết đến đây, em vẫn bồi hồi nhớ từng sợi tóc Chị dán trên vừng trán, từng con mắt Chị lúng liếng tình tứ, từng giọng hát, từng lời nói, từng miệng cười, em còn ngửi thấy hương tóc ấm của Chị thoảng mùi hương nhu mới gội buổi chiều mà nếu chị buông tóc dài quá đầu gối để hong khô thì cả suối tóc ấy làm thành thế giới mê say của riêng em từ độ ấy đến ngày nay, dẫu tóc em đã trắng tiết, em vẫn có thể vẽ đúng chân dung chị tuyệt vời nếu có người chỉ dẫn cho em đôi điều cơ bản về nghệ thuật hội hoạ. Ảnh Chị in màu trong hồn em, không một nhà khoa học nào có thể làm ra cho em những tấm ảnh như em đang có, vẫn còn đầy đủ và tươi tắn, nguyên vẹn từ sáu chục năm xưa đấy, Chị ơi !

Lá Diêu Bông



Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thơ thẩn đi tìm
Đồng chiều
cuống rạ


Chị bảo
– Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng


Hai ngày Em tìm thấy lá
Chị chau mày
– Đâu phải lá Diêu Bông!


Mùa đông sau Em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông


Ngày cưới Chị
Em tìm thấy lá
Xoè tay phủ mặt Chị không nhìn


Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời!
... ới Diêu Bông!...

Rét 1959
Tình của Em với người Chị ấy, sơ lược là thế. Tôi sẽ viết tỉ mỉ hơn nhiều trong tập hồi ký sau này, để những bạn như anh Phạm Duy hiểu kỹ về tôi hơn, tránh được những điều bình luận sai lạc. Trong tập Về Kinh Bắc, thì hai nhân vật Chị và Em ấy đã xuyên qua năm tháng và không gian, qua gió mưa và nắng đẹp, qua biết bao hình thức của tâm tư, của số phận, mà trội lên vẫn là cái sầu đơn phương, cứ vương vấn mãi cho tôi nhớ mãi đến hết một kiếp này, biết đâu còn xót xa yêu thương vào tận kiếp sau... kiếp sau nữa...
Vậy thì chỉ mới sau vụ Nhân văn - Giai phẩm có một thời gian ngắn, thơ của tôi đã lùi về quá khứ, chẳng biết có phải ẩn dụ ẩn diếc gì chăng, chỉ có điều là qua 47 bài, tôi không một phút nào nghĩ đến thời cuộc, chính trị và xã hội trước mắt. Tôi chìm vào một quê hương xa, có thực mà như ảo ảnh, là ảo ảnh mà tưởng như gần gũi đâu đây, cứ chập chờn năm tháng và bảng lảng không gian, xanh mơ mong manh màu kỷ niệm pha chút tím của tiếc hận, chút hồng của tuổi thơ, chút biêng biếc thắm của say mê, não nùng, của thương cảm không có bến buông neo, và nhìn chung chỉ thấy con mắt của thời gian không hề suy suyển đến một sợi mi cong... Như gần đây tôi đã phải thốt ra : “ Mắt thời gian càng miên man xanh ”.
Rồi CHỊ EM đi VỀ KlNH BẮC, lúc thì đố Lá diêu bông, lúc vào Vườn ổi, lúc Đánh tam cúc, lúc lên Ngọn sông Thương, lên tít Ngọn Kỳ Cùng, lúc Đếm saoĐếm nắng, Đếm giờ, Em cứ THEO ĐUỔI Chị qua hội hè rồi qua cả những tàn tạ của cảnh vật và lòng người, cho đến mùa rét năm 1934. Cái Lá diêu bông bắt nguồn từ buổi chiều năm ấy. Hình như vào dịp nghỉ lễ Thiên chúa Giáng sinh, những bốn năm ngày liền, tôi về nhà, nghĩa là cứ nghỉ học là tôi về ngay nhà với niềm say mê đơn phương, một chuyện tình có Chị có Em mà tôi vẫn chỉ là một khối cô đơn lẽo đẽo bụi hồng. Tôi đã 12 tuổi và Chị Vinh đã 20. Và chiều mùa đông ấy, nắng hanh vàng rộm. Trời xanh trong màn sương cực mỏng, không một gợn mây. Heo may se se lạnh. Chị mặc váy kiều Đình Bảng, áo cánh lụa mỡ gà đã cũ, có mảnh vá trên vai, ngoài bó chèn lưng ong bằng cái gi-lê tím, sờn rách, chiếc yếm màu cánh sen đã nhạt, dây thắt lưng hoa đào, chị thoăn thoắt đi ra ngoài cánh đồng, mùa ấy lúa đã gặt hết, cả cánh đồng rộng đầu cái phố ga xép ấy chỉ còn trơ những cuống rạ tít tắp đến chân dãy núi Neo. Cậu bé em 12 tuổi, vốn dĩ lúc nào cũng trông ngóng, ngó nhìn, chờ đợi Chị, thấy Chị đã bỏ cửa hàng chiều vắng khách, mặc cho đứa em trai lên sáu ngồi xua ruồi hoặc ăn vụng cái kẹo vừng, rồi thấy chị nhanh bước ra cánh đồng, đương nhiên là cậu em theo ngay, và bất kỳ đi theo chị ở đâu, đến đâu, cũng chỉ cách sau lưng Chị có ba bước. Chị đi trên bờ ruộng, cứ vạch từng búi cây búi cỏ đầu bờ hoặc từng đám cây hoang dại trên mấy cái gò nhỏ giữa đồng và cứ cúi tìm... tìm... em chả biết Chị tìm gì vậy. Em cứ theo sau, không hỏi, không nói, trống ngực cứ thì thùng từng phút giây theo đuổi, miệt mài lâng lâng say. Lâu lắm, bỗng chị đứng thẳng người, quay mặt nhìn em, rồi nói, như một lời trách, như lời quở mắng, lại như một lời mình nói với chính mình (gần 60 năm rồi, hôm nay tôi còn nhớ như in từng lời trong bộ não đã hơi say say, trong tấm lòng may thay vẫn là tấm lòng 12 tuổi) : “ Ơ hay ! sao mày cứ theo tao lẵng nhẵng mãi thế nhỉ ? ” . Máu em dồn lên nóng ran khắp người, hẳn là cậu em đang đỏ mặt, môi em run run, không nói lại với Chị được lời. Hình như em thoáng thấy chị mỉm cười, rồi Chị lại bước sang bờ ruộng khác, vẫn tìm... tìm mãi. Nắng đã sẫm dần. Mãi sau, em mới bạo dạn hỏi :
– Chị Vinh ơi ! Chị đi tìm cái gì thế ?
Chị Vinh quay phắt lại, hình như má Chị hồng hơn lúc nãy. Chị nhìn thẳng, nhìn xoáy vào mắt em và gần 60 năm rồi tôi vẫn nhớ như vẽ cái miệng tươi của Chị đậm nét một nụ cười trêu cợt rất kiêu xa. Chị nói, cũng một giọng bỡn cợt, như thách đố, như đùa vui trêu ghẹo :
– Chị (các bạn chú ý giùm tôi cách thay đổi chủ từ trong câu nói này của Chị) Chị đi tìm cái lá... ấy đấy, đứa nào tìm được cái lá... ấy (Chị càng cười càng rõ vẻ trêu cợt) ta gọi làm chồng !
Các bạn ơi, nghe vậy, tim tôi như lặng đi. ngừng lại vài giây, rồi đập rất mạnh, người tôi nóng ran lên trong buổi xế chiều càng lạnh. Lúc đó, Chị nói tên một cái lá có lẽ có thật, chỉ mấy năm sau thì tôi quên bẵng, thôi thì tôi cứ gọi cho nó có tên như Chị đã gọi tên, lá thanh thảo hay đài bi chẳng hạn, hoặc gọi là lá tai voi, lá mắt nai gì đó, xin thú thật với các bạn là ít lâu sau buổi chiều mùa rét ấy, tôi không nào nữa. Nhưng ngay lúc bấy giờ, sau cơn nóng bừng, toàn thân ấm áp vào tận đáy thẳm tâm hồn ấy, tuy mới 12 tuổi, tôi cũng đã nghĩ ngay ra rằng cái lá ấy rất hiếm, ở những vùng nào nhiều đồi núi, khe suối cơ, may ra mới tìm được, mà tìm lá ấy chắc là để chữa khỏi một cái bệnh gì hiểm nghèo nguy kịch hoặc có khi lại lấy lá vò nát ra, hay giã kỹ lấy nước xoa lên khắp mặt sẽ làm cho da dẻ tươi hồng, mịn màng lên. Nhưng hẳn là khó tìm lắm lắm, chả thế mà chị đi hết bờ này bãi nọ, gần cả một buổi chiều, có thấy được đâu ! Cái lá oái oăm thế, Chị mới trêu đùa thằng bé mà Chị biết là nó đang say mê mình, nó “ phải lòng ”  mình từ năm năm nay rồi, còn gì ! “ Đứa nào tìm được, ta gọi là chồng ! ”  Chị Vinh ơi, bây giờ Chị ở cõi nào, nếu còn sống, Chị cũng đã gần tám mươi đấy chứ, sao hôm nay, em đã ngoài 70, lúc em viết những trang nhớ lại này, em hoàn toàn vẫn là em 12 tuổi đang theo Chị và Chị vẫn đang tuổi hai mươi, ngoài cánh đồng chiều làng Như Thiết ấy, Chị vẫn trẻ đẹp diệu kỳ, Chị ơi !
Chiều ấy, trời sẩm tối rồi, Chị lại cho em được cầm tay Chị. Chị em thơ thẩn dan tay ra về... mà nào đâu chiếc lá ? Hết phép nghỉ, tôi lại lên thị xã ở trọ, ngày hai buổi đến trường, cặp sách trong tay, hình ảnh Chị trước mắt, lời nói trêu đùa của Chị không lúc nào không réo gọi trong tấm lòng cô đơn trống trải của cậu con trai sớm đã si tình.
Chiều thứ bảy sau, khi tôi xuống tàu, vào phố xép đi về nhà, nhìn sang nhà chị Vinh thấy cánh liếp đóng im ỉm. Tôi như lạc mất trí, chạy vội vào nhà, cũng không kịp chào mẹ tôi đang ngồi khâu vá trên cái chõng tre, mà hỏi ngay :
– Mẹ ơi, sao bên nhà chị Vinh lại đóng kín cửa thế hở mẹ ?
Mẹ tôi kéo tay tôi ngồi sát bên, nói rất nhỏ, mà hình như trong giọng nói của mẹ tôi, có cái gì như nước mắt nghẹn lại :
– Nó đi lấy chồng rồi, con ạ.
Tôi bỗng khóc oà lên, khóc như có một thế giới nào vừa nổ vỡ tung ra trong vũ trụ. Tôi gục đầu vào lòng mẹ, khóc mãi, lòng mẹ tôi đấy mà sao tôi lại khóc như đứa trẻ lên ba, mẹ đang bế đi chơi, đến một cánh đồng chiều vắng, bỗng dưng mẹ biến đi đâu mất, để đứa bé bơ vơ giữa mênh mông trời đất cô quạnh và xa lạ, lạnh lẽo thế ! Mà nó khóc !
Tôi chỉ kể với các bạn đến đây thôi, còn cuộc đời người Chị ấy về sau, tôi chỉ xin tóm gọn bằng bốn chữ đã quá cũ kỹ, nghe như sáo mòn, nhưng tôi không thể dùng được những từ nào khác ngoài bốn chữ ấy : Hồng nhan bạc mệnh...


Luân hồi



Con đấy ư
Con đã về Kinh Bắc
Những cỏ BồngThi
với dế đầu si
Những lá Diêu Bông
với đôi xe hồng
luân lưu thụ thai qua chín đời
đằng đẵng
đến khi con lọt lòng
Cây đu đủ sau nhà vừa bấm ngọn
đội mũ niêu đen
đi trong đêm mưa dầm


Mẹ đau trở dạ
Sinh con ra
Tiếng tù và xé canh ba
báo hiệu một cơn giông nín lặng
Trống liên hồi ra đi
ngăn trận bão mênh mông
trong giọt lệ cuối hàng mi


Con đấy ư
mười ngày không khóc
mười thày lang dờ dẫm
ven giường ẩm ướt


Mười đêm
Tiếng trống chèo vuốt ngực Châu Long
Bước sắp qua cầu nghẹn tiếng.
Trở lại mùa rét năm 1959, nghĩa là đúng một phần tư thế kỷ đã qua sau cái buổi chiều mùa đông có Chị có Em trên cánh đồng quê, Chị đi tìm lá rồi... Chị đố lá “ Đứa nào tìm được... ta gọi là chồng... ”. Và bài thơ Lá diêu bông đã ra đời trong đêm khuya, như tôi đã kể ở trên, bài thơ duy nhất trong đời làm thơ của tôi do thần linh giọng nữ cao đọc từ đầu đến cuối cho tôi chép như viết chính tả. Còn một số bài khác như Cây tam cúc, Quả vườn ổi, Cỏ bồng thi, Bên kia sông Đuống, Chùa Hương, Về với ta...., những bài cũng được nhiều bạn đọc ưa thích trong nhiều năm thì bao giờ cũng ra đời trong đêm và vài ba câu đầu bao giờ cũng không phải của tôi nghĩ ra, mà đúng thật là những lời văng vẳng bên tai như có một giọng nữ đang hát, hay đang đọc có nhịp điệu, có tiết tấu, mà tôi cứ xin gọi là lời của thần linh đọc cho mình chép lại được. Nếu chợt nghe mà lười biếng, hoặc chủ quan nghĩ rằng để đến sáng mai sẽ ghi lại ra giấy thì chỉ một phút sau, muốn nhớ lại, không tài nào nhớ nổi một chữ, đừng nói là cả ba bốn dòng... Trong đời làm thơ của tôi, thời còn trai trẻ, tôi đã mất khá nhiều những câu thơ "xuất thần"  bất chợt trong đêm khuya, lúc chưa ngủ được, nên từ hồi đầu kháng chiến chống Pháp, tôi đã rút kinh nghiệm, cứ đến giờ (thường là gần nửa đêm) lên giường ngủ, bao giờ tôi cũng để bên phía tay trái mình một tập giấy trắng và tay phải cầm cái bút chì học sinh (bây giờ đã có bút bi thay cái bút chì). Hễ không ngủ được, tâm tư lan man đâu đâu, gì gì đó, mà bỗng nghe vẳng một câu dẫu chỉ là một câu bâng quơ, tôi phải ghi ngay lập tức. Lười một tí thôi là mất đứt. Mà thường lại là những câu thơ rất có sức gợi cảm. Dẫu tiếng văng vẳng đã tắt, mà còn gợi cảm, thì cảm xúc bật trào ra ngay, tôi viết tiếp bằng cảm xúc của mình. Y như đã có tia nước phun lên thì phải tiếp tục đào đất chắc chắn là sẽ có được cái giếng đầy nước. Lúc đó thì cả ba loại thơ (như các nhà phê bình văn học Trung Quốc đã đúc kết thành lý luận về thơ) là ngôn thi, tâm thi và thân thi đều có thể xuất hiện trên trang viết. Và cũng lúc đó thì có ba cái thức đều phải vận động, phải làm việc cho thơ. Đó là ý thức, tiềm thức và vô thức. Cũng đủ cả một cặp : trí thức và tâm thức nữa. Ở tôi thì luôn luôn cái tâm thức làm việc nhiều hơn trí thức, nhất là với toàn tập Về Kinh Bắc, tôi đã huy động tất cả các lực của mình : cả thể lực, trí lực, tâm lực và đương nhiên, ở tôi, thần lực thường tự động làm bật ra rất nhiều những lời thơ, lắm khi tưởng như vô nghĩa, mà ngay chính bản thân tôi cũng không hiểu những từ ngữ mình viết ra mang ý nghĩa gì cụ thể. Ai hỏi tôi Lá diêu bôngcỏ bồng thi là lá gì, cỏ gì, ở đâu ? tôi chịu không giải thích được. Ngay cả nhiều sinh viên Khoa văn ở Hà Nội cũng đã hỏi tôi : "miếu Hai Cô"  là ở đâu ? Hai Cô nào ? Tại sao lại thờ ? hoặc Cầu bà Sấm là trên con sông nào, bến cô Mưa là ở khúc nào của con sông nào, tôi cũng chịu không có lời giải đáp. Vì thế sau, khi tôi đọc Hợp Lưu, thấy anh bạn Phạm Duy bình luận và giải thích mấy bài thơ của tôi mà bạn đem phổ nhạc, nếu tôi có vừa buồn cười, vừa buồn bực, mong anh Phạm Duy và các bạn đọc cũng thể tình cho. Và việc tôi phải viết bài (đăng Hợp Lưu số 7) cũng là chỉ vì cái pureté de l’Art, mong được các bạn dung thứ. Còn hiểu về tôi thế nào, xin tuỳ quyền các bạn.
Tôi nghĩ rằng, trong lĩnh vực thơ ca, những khúc hát hay, những bài thơ, những câu thơ hay thường rất khó giảng được hết cái hay của nó. Vì ngoài ý nghĩa cụ thể của từng câu, từng chữ, thơ lại còn nhạc điệu, mà theo tôi hiểu, nhạc điệu trong một bài thơ lại chính là chiếc xe chở cái hồn của bài thơ đi để nhập, để hoà với hồn người đọc. Và người xưa cũng đã nói từ lâu đến “ thi tại ngôn ngoại ”. Thơ đã có ý, là dễ hiểu. Nhưng thơ lại còn cái tứ. Cái tứ ở đâu ra ? Từ chữ, từ âm vận, rồi âm điệu. Cái tứ của thơ, phải đọc được ngoài lời. Có nhiều bài thơ loang một tứ rất lạ, rất khó giảng, khó bình, mà nhiều khi chỉ cảm thấy được thôi.
Tôi mong sẽ đến một ngày, lập thơ Về Kinh Bắc của tôi có duyên may đến được với các bạn ở xa tổ quốc. Còn hiện nay, dẫu sao, cũng đã có dăm ba bài khá tiêu biểu tạm thời đến làm quen với các bạn ở xa. Tôi thật tình không mong muốn được nhiều người xưng tụng, hoan hô đề làm "vinh danh" một thi nhân, lại càng không bao giờ muốn tranh cãi, lý luận ồn ào trên văn đàn. Tôi chỉ hy vọng, rất chân thành, được gặp những tâm hồn bầu bạn, có độ lượng để bao dung, có tấm lòng thân ái để thông cảm, có tri thức đủ để hiểu thấu đáo tác phẩm và tác giả, hiểu cả điểm mạnh và điểm yếu của một người suốt đời lấy THƠ làm cứu cánh, làm mục đích, làm lẽ sống, chứ thơ không phải là phương tiện để cho mình đạt tới những gì gì đó mà hồn mình không chấp nhận, ví dụ như danh và lợi, sự bon chen, sự cầu cạnh, sự thù hận v.v... là những cái rất xa lạ với tôi, có lẽ xa lạ với cả THƠ đích thực nữa. Phần nhiều những bài thơ tôi viết từ 1940 đến nay, không có cái mà bạn Phạm Duy gọi là ẩn dụ. Còn như, lúc cần, tôi đã viết những bài thơ với những ý nghĩ thẳng thắn, đấu tranh trực diện như hầu hết các kịch thơ viết trong thời kỳ Pháp Nhật thống trị nước ta, và như một ít bài viết trong thời kỳ Nhân văn - Giai phẩm, chẳng hạn như bài thơ Em bé lên sáu tuổi mà chính bạn Phạm Duy cũng đã biết và đã đọc, đã tỏ ý khen ngợi, hoặc như bài ký Con người Trần Dần viết về một giai đoạn đấu tranh rất phức tạp cho một nền Văn nghệ mới. Tôi đã viết thẳng thắn và trung thực. Vậy thôi. Sau đó, tôi rút lui, trở về với tâm tư riêng, thế giới riêng của mình như đã nói ở trên, về với quê hương xưa, vùng Kinh Bắc xa xưa mà vẫn gần gũi, về với những người đã khuất bóng ở nhân gian nhưng mãi mãi hiện diện trong tâm hồn tôi. Và tập thơ Về Kinh Bắc đã ra đời như thế, để làm cột xương sống cho toàn bộ thi phẩm của tôi, kể từ những năm 40 của thế kỷ này. Tôi viết sơ lược những nét chính yếu của đời thơ Hoàng Cầm, chắc hẳn chưa thoả mãn được yêu cầu của các bạn ở xa, mong các bạn lượng thứ và thể tình. Chỉ dám xin hẹn một mai toàn tập Về Kinh Bắc và cuốn hồi ký Nhớ lại một đời Thơ có cơ duyên tốt lành đến được với các bạn, thì chắc chắn tôi sẽ được trò chuyện với các bạn đầy đủ hơn, và tình sâu nghĩa nặng của tôi với quê hương Việt Nam, tổ quốc chúng ta, sẽ hiện lên rõ ràng hơn, sâu sắc hơn và đằm thắm hơn nhiều mấy trang rất sơ sài này. Xin cảm ơn tất cả bạn đọc.

Hà Nội những ngày cuối năm Nhâm Thân 1992

Hoàng Cầm - Gã phù du Kinh Bắc




1. Tự họa                  
Trong truyện thơ Men đá vàng, Hoàng Cầm có dựng một nhân vật là Phù Du. Anh chàng kết duyên với Phong Kiều, cô gái đẹp nết đẹp người nhất miền Bát Tràng xưa. Vậy mà không biết đường tận hưởng vinh phúc của mình, gã lại đâm đầu theo cô Thương Lệ, cái ả buôn vàng bán ngọc bên Kinh kì. Phong Kiều đau lòng quá đỗi, cứ lặn lội tìm chồng, ngày trông đêm đợi, rồi tuyệt vọng mà hoá đá. Còn Phù Du nào có được gì cho cam. Gã bị ả kia phụ bạc, ruồng rẫy. Lúc tỉnh trí, hồi tâm, thì quá muộn. Gã cứ ôm xác đá của vợ mà khóc ròng. Khóc như tự vấn, tự xé, tự đay đả, hành hạ. Mãi rồi, sau bao nhiêu vật vã của gã, cùng bao nhiêu thương xót, ấp iu của cả Bát Tràng nữa, thật bất ngờ, thật may phúc, Phong Kiều đã dần dần sống dậy. Lại còn tươi thắm hơn xưa. Kì diệu hơn : từ đấy, nàng sống vĩnh viễn trong men đá vàng.
Trong truyện, có lẽ, tác giả thích sắm vai Chàng trai trẻ - nhân vật đã lặn lội đến Bát Tràng để được tường tận câu chuyện tình lâm li ấy, rồi về sau thì hoá thành cây đàn tranh. Có thể cũng thích sắm vai Hồng Châu, người cha bất hạnh của nàng Phong Kiều, người mà tác giả cho rằng oan nghiệt của cụ đã vận vào mình. Có khi còn thích sắm vai này vai kia nữa cũng nên... Chả hay Hoàng Cầm có tí ti nào ngầm ví mình với cái gã Phù Du đó không? Cơn cớ gì đời thơ Hoàng Cầm cứ xui khiến tôi nghĩ rằng thi sĩ chính là cái anh chàng Phù Du nọ ? Thì số phận thơ Hoàng Cầm chả thế sao ! Chả phải thi sĩ cũng về lại Kinh Bắc sau khi bị cái ả Thương Lệ Thương Huyết bán ngọc buôn vàng bên Kinh kì nào kia phụ bạc đến tơi tả bầm dập sao ? Chả phải, về lại xứ sở, nỗi đau thi sĩ hoà với nước mắt quê hương đã làm sống dậy nàng Phong Kiều của thơ mình sao? Phải, sự sống lại của thơ Hoàng Cầm khi trở về Kinh Bắc chính là sự phục sinh của nàng Phong Kiều đó. Kiểu hồi sinh của loài "cỏ may giập nát gượng ngồi dần lên"[1]. Chúng ta đâu trách Hoàng Cầm. Bởi trong mỗi chúng ta đều có gã Phù Du. Cái gã ấy khiến ta rơi vào bao nhiêu là ngộ nhận. Đến lúc ngộ ra được lầm này lỡ khác, quay về với nàng Phong Kiều của mình, thì khốn nỗi, có mấy ai còn kịp nữa. Mà nghĩ cho cùng, loài người, kiếp người chẳng phải đều mang chung một bản mệnh Phù du sao ? 
Thực thì, thân kiếp phù du vận vào Hoàng Cầm chả vô cớ. Trong bài Về với ta, ông từng ví mình với lắm thứ, nào con bê vàng, con chào mào, rồi con chim cu... Song, cái chân dung tự họa chỉ thật sự xuất thần ở những nét cuối cùng, khi ngòi bút tìm tới con phù du :

                                      Ta con phù du ao trời chật chội
                                     đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao
                                     Uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ
                                     vừa rụng chiều nay
                                                                   dềnh mặt nước hương sen
                                      Ta soi
                                      chỉ còn ta đạp lùi tinh tú.
Ngỡ chỉ là một ví von mặc cảm. Nhưng không hẳn. Nhìn kĩ xem, trong ao trời chật chội kia, gã phù du ấy làm gì ? Đo gió. Tìm sao. Uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ. Đạp lùi tinh tú... Gã đang lẳng lặng làm cuộc tuần du đầy bi phẫn mà cũng đầy cao ngạo. Tôi ngờ rằng gã sinh ra bởi một lời nguyền. Lời nguyền bí ẩn đã biến gã thành con bê, thành con chào mào, con chim cu, cuối cùng thành con phù du. Một con phù du si tình. Cả đời giải lời nguyền nào có xong. Và trớ trêu sao, khi thành con phù du, gã mới trở về cái bản lai diện mục của mình. Gã bèn biến ao trời thành nẻo Thiên thai, biến cầu Lim thành xứ Liêu trai để làm một cõi đi về... Trở thành gã phù du Kinh Bắc như thế, chả phải là thiên mệnh của hồn thơ Hoàng Cầm ?
2. Tự liếm lành vết nội thương
Theo Hoàng Cầm về Kinh Bắc, tôi luôn bị ngợp giữa một thi giới lạ lùng: chưa hân hoan đã nghẹn ngào, đầy nhục cảm cũng đầy bi cảm, âm khí nặng nề, dương khí phiêu tán. Thi sĩ hiện hình trong đó vừa như một gã phù du vừa như một tay phù thủy. Những cảm giác ấy mê hoặc tôi, vây khốn tôi, dẫn dụ tôi đi suốt cõi thơKinh Bắc ấy.
Sao thế nhỉ ?
Vẫn còn đi trong thế giới kia, khó mà giải đáp nổi cho mình. Thì bao hình sắc thoắt âm thoắt dương, bán hư bán thực cứ chen lấn diễu diệu như bưng bít lấy tâm trí mình vậy. Chỉ khi bước ra khỏi cái cõi thi ca huyền hoặc đó rồi, ngẫm lại, tôi mới dần vỡ lẽ đôi điều.
Trước tiên là cái cách hồi hương của hồn thơ này. Chừng như đây là nguồn cơn của những nguồn cơn ?
Không Về Kinh Bắc, chả chắc Bùi Tằng Việt đã thành Hoàng Cầm. Nhưng, Hoàng Cầm về Kinh Bắc không giống Raxun Gamzatôp về lại Đaghextan. Nhà thơ miền núi Kapkaz lần về cội chỉ bằng dẫn dắt của niềm tự tôn. Niềm tự hào mà chàng phù du Kinh Bắc ôm trọn cũng chẳng hề kém cạnh. Song, về cố hương lần này, có lẽ Hoàng Cầm vịn nhiều hơn vào nỗi đau. Chính vết thương cần cứu chữa ấy đã mách bảo ông về rịt lại bằng nước nguồn quê mẹ. Rồi cũng có quyền liên tưởng chút ít đến cách Chế Lan Viên về với cõi Điêu tàn của nước Chàm xưa. Nhưng khác nhau nhiều lắm. Ở thi sĩ mượn họ Chế, là nỗi thương vay cho một nền văn hoá bị tiêu trầm trộn ít nhiều với nỗi đau vong quốc. Còn chàng thi sĩ lấy tên một vị thuốc cực đắng làm bút danh này lại là nỗi đau của con chim phải tên rày đã sợ làn cây cong, nỗi đau bị tước đoạt mất thực tại. Cũng ôm mối bất hoà với thực tại mà tìm về quá khứ, như rất nhiều cây bút cùng tip, nhưng Hoàng Cầm trầm trọng hơn. Hồn thơ này như bị trục xuất khỏi thì hiện tại mà lưu vong về thì quá khứ ảo sinh. Trầm mình vào văn hoá quê hương như một cách thoát hiểm khỏi những mũi tên săn đuổi, là cách hồn thơ về ở ẩn trong cái kén của mình. Là cách con thú bị thương về náu hang sâu dưỡng thương bằng bài thuốc duy nhất: tự liếm lành dần vết thương mình. Cũng tự liếm lành những vết nội thương, nhiều con thú cùng bị săn đuổi thời ấy đã chọn những nẻo về khác nhau. Kẻ thì chọn bờ Hồ Tây dựng chòi ngắm sóng, nhào nặn lại "Tuổi thơ dữ dội". Kẻ thì ẩn mình nơi "Cổng tỉnh", quyết thuỷ chung với những "Mùa sạch". Kẻ lại dạt về Lãn Ông nhưng quyết không làm ông lãn, ngày ngày bước quanh Hồ Gươm tìm phép dưỡng sinh cho "Bóng chữ", tìm ra những "Ngó lời"[2]... Thực ra, toàn là những cách tự cầm máu, tự cứu mình bằng chính nội lực của mình thôi. Với Hoàng Cầm, có lẽ giản đơn là con phù du bị thương lảo đảo tìm về chốn ao quê để tự chữa trị bằng thứ nước lành, trong đó hoà cả nước mắt con vành khuyên mất tổ và cả hương sen. Vì thế, tôi tin rằng, thơ ca của con người, lắm khi, rất có thể chỉ là cách tự liếm lành những vết nội thương. Hẳn đó cũng là một định nghĩa thơ, mà ít ra, đời thơ, phận thơ Hoàng Cầm là minh chứng, là đảm bảo chăng ?
Đời Hoàng Cầm có mấy cái mốc gắn liền với "con đề" số 8. 1938 bắt đầu dấn thân vào văn giới[3]1948 bài thơ nổi tiếng "Bên kia sông Đuống" chào đời, gieo được cái tên Hoàng Cầm vào nền thi ca hiện đại. 1958 vụ Nhân văn - Giai phẩm táo tác, "Bên kia sông Đuống" được rục rịch đưa sang bên kia chương trình giáo khoa. Ngày ông bị bắt là 18 tháng 8.  Rồi 1988, lại sửa soạn đưa "Bên kia sông Đuống" trở về, thơ Hoàng Cầm được cởi bỏ khỏi cái còng số 8 vô hình. Chả biết có còn con 8 tiền định tai quái nào với gã phù du này nữa không ? Nếu là Hoàng Cầm, chắc tôi đã đánh một con đề 8. Biết đâu... biết đâu đấy! Cũng như, ai biết được, bài "Bên kia sông Đuống" lại chứa một điềm báo ngược. Mười năm trước, khi viết những câu "Em ơi buồn làm chi / Anh đưa em về sông Đuống", Hoàng Cầm không thể nghĩ, dù tiên cảm có thánh đến đâu, rằng chỉ sau đấy mười năm, qua một con 8 giời đày, ông lại về sông Đuống. Dĩ nhiên, giờ thì ngược rồi. Cũng là "về", nhưng không phải với khúc khải hoàn ca hội hè lễ lạc. Mà thui thủi, mà tức tưởi một trường hận ca. Cái tôi ở đó như kẻ bị trấn lột mất căn cước tinh thần, đành trở về cội xưa tự làm căn cước cũ. Cũng bắt đầu từ cái "ngày khủng khiếp", với "ngọn lửa hung tàn", nhưng không phải do ngoại xâm phóng hoả mà do nội tình truy bức. Vì thế, cũng "bây giờ tan tác về đâu?", cũng "bây giờ đi đâu về đâu ?"[4], cũng những tan hoang rách xé, nhưng không phải sau cơn bão tố mà sau cơn đấu tố. Cơn đấu tố đã hoả thiêu cái thế giới Kinh Bắc của một tâm hồn phơi phới, biến nó thành Kinh Bắc của một tâm linh bị tổn thương. Khiến tất cả không còn là cái thế giới tranh Đông Hồ nguyên dạng, trái lại, đã bị thiêu hoá, bị hoá vàng thành một Đông Hồ trong cõi ảo sinh. Nếu Bên kia sông Đuống như là Kinh Bắc dương bản, thì Về Kinh Bắc là miền sông Đuống âm bản, một thế giới nghệ thuật mắc chứng trầm uất. 
Lướt qua những điều đó, tôi muốn nói thêm rằng: thế giới nghệ thuật độc đáo trong Về Kinh Bắccủa Hoàng Cầm đã có một khởi sự thật trái ngang.
Nhưng, oái oăm thay, trái ngang lại làm nảy sinh trái lạ.
Trong đời sống văn học những năm 1958 -1960, khi cả nền thơ chính thống miền Bắc đang lao vào chủ nghĩa hiện thực XHCN, thì Về Kinh Bắc chào đời quả là một thứ trái lạ. Quá lạ. Nó như là thơ ngoài luồng, nên vẫn chỉ được lưu hành lối "thơ lậu", "thơ chui". Có chứng sinh, nhưng không có khai sinh. Như đứa con ngoài giá thú của nền thơ đương thời. Nhưng đặt trong văn mạch dân tộc, nó là sự tiếp nối một huyết thống bị nhấn chìm, một dòng chảy bị gián đoạn suốt mười mấy năm trời trên miền Bắc: dòng thơ lãng mạn tiền chiến. Cụ thể là khuynh hướng tượng trưng, siêu thực, mà nhóm Xuân thu Nhã Tập, nhóm Dạ Đài, đặc biệt là trường thơ Loạn Bình Định chính là những đại diện độc đáo... Xem thế, Về Kinh Bắclại không hoàn toàn là trái lạ, chỉ là trái ngang thôi- trái ngang phè trước những con mắt kì thị.                                                                  *
3. Một Liêu trai trầm cảm
Nếu đem hồn thơ Hoàng Cầm đi xét nghiệm, chiếu chụp bằng ống kính Phrơt chắc chắn sẽ ra không phải một mà là hai vết thương tâm[5]. Một vết thương tình ái, một vết thương tình đời. Đây mới là nguyên uỷ của mọi nguyên uỷ chăng ?Thì nó mới chính là một thứ dạ con sinh nở ra cõi thơ Về Kinh Bắc. Sinh nở ra mọi hình sắc: từ thứ ánh sáng chợt tỏ chợt mờ, đến thời gian chưa ngày đã tối, từ một không gian phai nắng dầm mưa, với toàn những tạo vật cỏ cây cảnh trí hội hè nửa hư nửa thực, thoắt âm thoắt dương, đến một nhân gian toàn những hình nhân dở khóc dở cười, hàm oan trầm uất. Nghĩa là sinh nở ra một cõi ảo sinh của nghệ thuật Hoàng Cầm, nơi tồn sinh cả ba hệ thống hình tượng chính vốn ràng rịt và chuyển hoá lẫn nhau trong một chất liệu thi ca mang hồn vía Kinh Bắc : cái Tôi phù du - Người tìnhphù du tóc dài (Ngửa mặt phù du khép gió xanh) - Thế giới là chốn ao trời chật chội. Rồi cũng chính nó chứ ai đã làm biến dạng bộ ba hình tượng kia thành cáiTôi trúng thương - Người Tình hờ hững và Thế giới là một Kinh Bắc chấn thương.                                                 *
Hoàng Cầm bị trúng thương quá sớm. Trúng mũi tên đầu tiên lúc mới là cậu bé chưa đầy mười tuổi. Trong nguồn thơ về Kinh Bắc, thi sĩ vẫn vẹn nguyên là cậu bé của ngày xưa đó, cả bóng dáng lẫn tâm tình[6]. Thật oái oăm, đứa bé ấy là một tình nhân. Một tình nhân nhí. Trái tim non ôm những mối tình quá cỡ. Nên tình ái kia là trái lạ đến ba lần: thứ ân ái ngây ngô mà rộn rực nhục cảm đã là "lệch chuẩn" rồi, lại còn Em yêu Chị nữa thì quá lắm, mà chị đã lấy chồng rồi, thậm chí đã có tới ba con rồi, vẫn không chịu nguội tình, tắt lửa lòng, vẫn không thôi đeo đẳng - thế thì có "đùa dai" với các bậc phụ huynh không ? Nó như phải bùa yêu bùa ngải mất rồi. Thì thế Người Tình của nó mới là những phù du tóc dài: quyến rũ và kiêu sa, mải chạy theo những tịnh vàng, những quan đốc áo đen nẹp đỏ, hết chau mày lại lắc đầu lạnh nhạt với lá diêu bông. Đến lúc tỉnh đời, thấy hạnh phúc đích thực là ở cái lá diêu bông nằm trong tay người tình vị thành niên đó, thì tóc dài phù du đã hết thời: "Xoè tay phủ mặt chị không nhìn". Bao giấc mộng ái ân ấy chỉ tổ biến gã tình si khờ khạo thành kẻ bị tình yêu bỏ rơi. Vậy mà vẫn cứ lẵng nhẵng thế, chới với thế. Cứ lẽo đẽo với tình không. "Lẽo đẽo em đi vườn mai sau / Cúi nhặt chiều quê dăm quả rụng", "Từ buổi ấy em cầm chiếc lá /Đi đầu non cuối bể / Gió quê vi vút gọi / Diêu Bông hời... /... Ới Diêu bông", "Em đứng nhìn theo em gọi đôi"... Rút cuộc, mối tình non thành một mối tình nghẹn ! Như cây lúa nghẹn đòng, cây chuối nghẹn buồng.
Tình sự sao lại đến thế nhỉ ?
Tôi muốn tìm kẻ đổ lỗi để chối tội (tình) cho Hoàng Cầm. Và tôi đã tìm được. Kẻ ấy là... gen di truyền. Cái tôi mang gen nòi tình (Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà, Xuân Diệu đều tự nhận mình thuộc nòi ấy). Chỉ riêng gen này không thôi cũng đã "trầm trọng" rồi. Đằng này, gã lại còn thêm gen lúng liếng huê tình Kinh Bắc nữa. Thế thì vô phương rồi... bó tay hẳn rồi. Đã nòi tình, lại huê tình, mà luôn bại tình, thì sinh ra não tình là cái chắc. Hèn chi mà "Nòi tình thua suốt cả đời một không". Mối tình thơ non ra quá sớm, lại quá khoẻ, quá dai dẳng. Bao lần quyết trổ ra ngoài, đòi sống đời hoa đời trái mà cứ bị chẹn họng, đầy ứ trong lồng ngực như một khối u không thể ra nổi. Nhưng nó không muốn tan nhanh như vầng mây bạc của thứ cảm xúc đầu đời vẩn vơ. Nó cũng không muốn chết lưu trong lồng ngực ấy. Nó đòi ra ! Đến lúc xé được vỏ ra thì chỉ còn một khối tình nghẹn, một nỗi nghẹn ngào. Thơ Hoàng Cầm là thứ hoa trái vật vã mộng du, óng ả thanh cao mà phong trần lận đận của nỗi nghẹn ngào đó. Đã bảo trái lạ mà. Có ngẫu nhiên đâu, mà rải rác dọc đường về Kinh Bắc lại nhiều nấc nghẹn đến thế - "Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn tiếng", "Em nói như gió nghẹn / chiều nghiêng mây Thị Màu", "Trời sao nuốt nghẹn khối u mềm", thôi em xin tắt cơn cười nghẹn", "lụa sồng nén nghẹn búp thanh xuân", "Bước sắp qua cầu nghẹn tiếng", "chắp tay nhìn nghẽn mười phương"v.v... Thế đấy, vết thương tâm trong gã phù du ngây dại kia không chịu làm sẹo. Cứ rỉ máu suốt đời thi sĩ. Dòng máu thầm rỉ ra thành những Lá Diêu bông,Cây tam cúc,Quả vườn ổi,Cỏ Bồng thi,Nước sông Thương,Tắm đêm,Đếm nắng,Đếm giờ,Đếm sao... Rồi chính vết thương ấy đã biến xứ Thuận Thành, Cầu Lim thành một Đào nguyên sầu, một Thiên Thai héo.                                                          *
Vết thương thứ nhất chẳng thể làm sẹo, vết thương thứ hai lại phủ trùm lên, khoét sâu hơn, sau cú Nhân văn - Giai phẩm. Máu từ hai vết thương ấy trộn vào nhau, rỉ đến đâu bầm hoen đến đấy. Và lần này nó biến chàng tình nhân nhí thành kẻ bị trục xuất, lưu đày. Biến con phù du si tình thành gã phù thuỷ u uất. Gã bị thất lạc mất hiện tại, đành lủi thủi lần về quá khứ. Gã không phục chế, phục hiện quá khứ như các thi sĩ khác quen làm. Gã chiêu hồn quá khứ. Gọi hồn quá khứ về thăng đồng. Giao tiếp với cõi ảo sinh. Người đọc thấy gã cúi lạy, khấn khứa, rũ bụi gia phả, lo thắp đèn nhang, sửa soạn hình nhân, giỗ chạp, tìm đến nhữngnấm mồ tháng giêng ướt sũng đểđiếu viếng :"Tăm cắm chặt bình hương / Em xít xa tập khấn / Chắp tay nhìn nghẽn nghìn phương"... Khắp tập thơ, cứ nghe thấy lầm rầm đến là nhiều tiếng khấn khứa nguyện thầm. Có phải vì thế mà thi ảnh cứ tựa hồ những hình sắc bao đời về thăng đồng từ cõi ảo sinh ? Mỗi thi phẩm ở đây như một giá đồng ? Cũng vì thế, thơ Hoàng Cầm vừa giống vừa khác với Hàn Mặc Tử. Tử là thơ - cầu nguyện (khá gần với tín ngưỡng Kitô giáo), còn Hoàng Cầm là thơ - khấn nguyện (rất gần với tín ngưỡng dân gian và Phật giáo) chăng ? Cũng có nhẽ thế chăng, mà không phải ai cũng chịu nổi cái âm khí nặng nề e chừng ngột thở ở đấy ?
Đọc Về Kinh Bắc, người này thấy từ "về" xuất hiện nhiều, người khác lại thấy "đi" nhiều. Thực ra, mật độ chưa hẳn đã đáng nói. Cái đáng nói thuộc về vấn đề khác, quan trọng hơn: đi – về có quan hệ gì đến cấu trúc và diện mạo của thi phẩm. Dễ thấy, động thái/động hướng trùm lên toàn bộ thi phẩm này là "về"và"đi". Không hề ngẫu nhiên, khi tập Về Kinh Bắc kết thúc bằng nhịp cuối cùng: về với ta. Như vậy, rốt cuộc, về Kinh Bắc chẳng phải là về với ta sao ? Chen giữa hai chữ “về” thuộc thủ - vĩ đó, là hai nhịp “đi” lớn: "Rồi cùng đi tất cả", "Rồi lại đi" ! Đồng thời, rền rĩ khắp cả tập là cái âm hưởng chủ đạo: "đi xa", "đi mãi"... Đi là chìm khuất vào cõi khác. Đi là mất hút, là đuổi theo cái gì vô vọng : "Rồi cùng đi tất cả","Bé dại đi rồi", "Lẽo đẽo em đi vườn mai sau","Đi đầu non cuối bể","Sớm mai đi""Rồi lại đi""Đi mãi""Trai cầu vồng Yên Thế đã đi""Trai Thời Trần đã đi cả""Bờ mi em rớt ánh sao / Em đi chân đất khuất vào cõi anh"... Điều thú vị là, hai động thái/động hướng vốn trái ngược không phải không có lúc đồng nghĩa. "Về" là về quê, về cội rễ, về với bản thể mình. Song, "về" nguồn cội lại cũng là "đi" tuần du. Mà "đi" cũng có cả nghĩa là "về" khi nó chỉ việc rời bỏ cái thế giới phù sinh, cái thực tại trầm luân phản trắc này. Cái Tôi "về " là về Kinh Bắc, còn những hình sắc Kinh Bắc "về" là về trong giá đồng. Cái tôi "đi" là đi tuần du, những hình sắc kia "đi" là đi vào cõi hư sau khi đã thăng đồng. Cho nên "đi" gắn với "chìm". "Chìm" cũng là một động thái thể hiện sự mất hút vào bóng tối của cõi nào : "Có nét buồn khôi nguyên / chìm sâu vào đằng đẵng / có tiếng ca ưu phiền / chìm sâu vào lẳng lặng", "Chìm đâu chim cuối trời"... Đi về phía huyền sử, đi về phía không em, phía hư vô, đó là cái hành trình không cưỡng được của gã phù du này : "Anh đi về phía không em / Em đi về phía dài thêm bão bùng". "Về"/"đi" như thế, dường như, đã khép/mở tròn vẹn cái nhịp luân hồi của một thế giới Phù Du.
Trước, Chế Lan Viên muốn gọi hồn Chiêm quốc từ trong điêu tàn. Thì  nay, trong cơn điêu đứng, nhạy cảm với điêu linh, Hoàng Cầm đã gọi hồn Kinh Bắc trong tâm linh mình. Phải, cái thế giới chợt âm chợt dương đó là  Kinh Bắc trong miền tâm linh của đứa con thi sĩ. Kinh Bắc của những "ngũ-hành-đêm" : thổ - kim - mộc - thuỷ - hoả, Kinh Bắc của "ngũ- vị - thi" : Cây (tam cúc), Lá (Diêu bông), Quả (Vườn ổi), Cỏ (Bồng Thi), Nước (Sông Thương).Kinh Bắc của "tứ-tượng-thi": Nắng (phù sa), Gió (lông ngỗng), Sương (Cầu Lim), Khói (Yên Thế). Kinh Bắc trong cái bầu khí quyển của nghẹn khóc nín cười, thoảng nhớ thoảng quên : "Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc / Con nín cười / Con thoảng nhớ thoảng quên"... Vì thế, đọc kĩ, sẽ thấy có hai thế giới Kinh Bắc trộn vào nhau bởi những cơn đau: Kinh Bắc thực tại thì như sau cơn bão, bầm giập, rách tướp ; Kinh Bắc huyền sử với những lễ hội đình đám huy hoàng thì như đã thiêu hoá từ lâu, những âm hồn, âm binh đã đi cả rồi, đã vào cõi ảo sinh. Tất cả hiện ra như một Thiên thai bị đánh úp, một Kinh Bắc bị chấn thương. Một Kinh Bắc quằn quại qua nghìn độ lửa trong men đá vàng.
Cứ thế, cơn chấn thương đã biến thế giới tranh Đông Hồ tươi trong thành cõi Liêu trai trầm cảm.                                                   *
4. Thi pháp "thực" gợi thế giới "siêu"
Sẽ thật vô duyên khi bây giờ còn bảo rằng thi pháp Hoàng Cầm đặc sệt Kinh Bắc. Thì chất liệu toàn những địa danh, đất đai sơn thuỷ, cây cỏ chim muông, chùa chiền miếu mạo, hội hè đình đám, tích chuyện lời ca, tập tục sinh hoạt... từ cái miền đất Thuận Thành, Cầu Lim, Đình Bảng cả. Thì bảng màu và cách dùng màu toàn theo lề lối tranh Đông Hồ và trang phục Quan họ cả. Thì lối biểu cảm cũng rặt khuôn theo cái nết lúng liếng huê tình của các liền chị liền anh. Thì cấu trúc của bao nhiêu thi phẩm cũng cứ  thấp tha thấp thoáng những khúc thức làn điệu dân ca Kinh Bắc cả... Ai đọc chả thấy. Chẳng nhẽ lại bảo rằng cái đáng kể của thi pháp Hoàng Cầm là đã dùng tư duy tượng trưng siêu thực để tái chế thi liệu Kinh Bắc mà tạo ra cõi thơ của mình. Chẳng nhẽ lại hùa theo rằng lối liên tưởng là điều đáng nói nhất trong thi pháp của ông. Chẳng nhẽ lại bảo Hoàng Cầm đã tiếp tục xài yếu tố "kì" (kì dị/ kì ảo/kinh dị/nghịch dị...) trộn với yếu tố "thực"để tạo nên một nẻo Liêu trai đời mới, một chốn Dạ đài tân thời... Có cần phát hiện ra châu Mỹ lần nữa không ?
 Ngắm toàn cõi thơ Kinh Bắc này, người ta thấy đây không phải một Kinh Bắc quen gặp trong tranh hiện thực, cũng không hẳn Kinh Bắc trong những cơn mơ siêu thực lối thông thường, dù ông nhắm nháp thi pháp này sành điệu. Bên trên đã dùng chữ "ảo sinh", xem ra vẫn chưa thật phải. Dường như, đây là Kinh Bắc trong cõi huyền sinh, huyền sử. Nói theo ngôn ngữ nhà Phật, là cõi siêu sinh. Thoắt âm thoắt dương, bán hư bán thực, sắc sắc không không. Đúng vậy, dầu sao, siêu thực cũng trội về hệ thống thủ pháp "siêu" nhằm vờn vẽ một cõi "thực". Về Kinh Bắc, xem chừng hơi khác, mạnh về thủ pháp "thực" nhằm gọi dậy một cõi "siêu". Không giống thế giới siêu thực, Về Kinh Bắc là thế giới siêu sinh. Người ta chỉ giao tiếp được với cõi siêu ấy bằng một kênh duy nhất: tâm linh. Mà vương quốc của tâm linh thì bao giờ chẳng mơ hồ và kì bí.
Mỗi thi sĩ có những ngón riêng để tạo nên cái kì bí mơ hồ.
Đâu là chiêu thức của Hoàng Cầm ?
Không chỉ dùng những chất liệu mang về từ cõi khác vốn sẵn chứa ý vị kì bí mơ hồ. Hoàng Cầm còn mơ hồ hoá, kì bí hoá bằng chiêu thức rất giản đơn: rút phép thông công đối với quan hệ từ "như".
Phong cách học, tu từ học có thể nói đến một bước tiến về trình độ tư duy nghệ thuật trong việc tái tạo hiện thực khi nghệ sĩ đem "là"(quan hệ đồng nhất), để thay thế cho "như"(quan hệ so sánh). Trong tương quan so sánh, vật được soi chiếu bằng ảnh, nghĩa là vật và ảnh chỉ đồng dạng ; trong tương quan đồng nhất, vật và ảnh nhập làm một với nhau, nghĩa là vật và ảnh đồng thể hoàn toàn. Trong thực tế, để biểu hiện quan hệ đồng nhất, thường có hai dạng: 1) dùng quan hệ từ "là" giữa vật và ảnh ; 2) không dùng "là" mà chỉ đặt vật và ảnh kề nhau để tự chúng nảy sinh quan hệ. Dạng sau lại còn tạo cảm giác phi lí và mơ hồ kì bí hơn nữa. Khi Xuân Diệu viết : "Bốn bề ánh nhạc biển pha lê­" (Nguyệt Cầm), thì biển pha lê không còn là biển (nhưpha lê nữa, mà biển (bằng)pha lê, thi ảnh đã ở một tầm suy cảm khác. Tôi dành cái việc tiếp lời theo hướng đó cho các nhà ngôn ngữ học, để nói sang một đặc tính khác, đáng quan tâm hơn ở Hoàng Cầm. Đó là ấn tượng mà hai loại tương quan này đem lại cho hệ thống thi ảnh của ông. Khi so sánh ví von, vật và ảnh luôn đứng tách nhau, giữa chúng có khoảng cách rõ ràng, tỉ như "em là em anh vẫn cứ là anh"[7], không nhập nhèm. Cho nên, tính hữu lí đậm, thì tính mơ hồ trong thi ảnh sẽ nhạt. Còn trong đồng nhất, vật và ảnh nhập làm một với nhau, đồng thể hoàn toàn. Do vậy, tính phi lí trội, thì tính mơ hồ trong thi ảnh sẽ gia tăng rất nhiều.
Tôi đã làm cái việc lẩn mẩn và lẩn thẩn là thống kê tất tật 49 (48+1) bài của toàn bộ tập thơ Về Kinh Bắc và thấy tuyệt nhiên, vâng tuyệt nhiên, Hoàng Cầm không dùng so sánh có "như" làm quan hệ từ để tạo nên thế giới thi ảnh của mình. Có lẽ Hoàng Cầm đã lẩn mẩn lượm bỏ tuốt tuồn tuột những chữ "như" kia khỏi mọi thi phẩm. Hoặc ông chỉ đặt các sự vật kề nhau, hoặc ông truất hết quan hệ từ "như" giữa chúng, rồi chêm bằng các thực từ cho chúng phát sinh làn nghĩa mới ; các làn nghĩa, vầng nghĩa cứ đứt nối, chờn vờn, giao thoa nhau. Ngón nghề này lại còn được trợ sức bởi lối liên tưởng siêu thực vốn ưa tạo ra những gián cách, ưa xáo trộn các kênh hình, tạo những dòng thi ảnh chập chờn, bất chợt, hư ảo. Nhờ thế mà vẻ kì bí mơ hồ trong thế giới hình sắc cứ nhân mãi lên: "Cúi lạy mẹ con lại về Kinh Bắc / Chiều xưa giẻ quạt voi lồng / Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc / Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông"... "Tràng mày xếch vành cung bắn nát chiều mai ráng đỏ"... "Vại bỗng ngất ngư cười cải mả", "Cuộc tàn tản mát cát lòng sông"... "Nhớ mưa Thuận Thành / long lanh mắt ướt... Hạt mưa chèo bẻo / hạt nắng xiên khoai / hạt mưa hoa nhài...Mưa chuông chùa lặn / về bến trai tơ"...,"Ta con bê vàng lạc ráng chiều xanh đi mãi tìm sim chẳng chín, Ta con chào mào khát nước về vườn xưa hạt nhãn đã đâm mầm, Ta con chim cu về gù rặng tre đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng,  Ta con phù du ao trời chật chội".v.v... Người khác có thể chỉ tước bớt. Hoàng Cầm thì bạo tay hơn, đã vặt trụi hết tiệt những chữ "như" ấy. Thế mà lại hợp cách, hợp vía. Lại ra hẳn một nét thi pháp, một độc chiêu. Lạ.
Cơ mà, nói đi cũng cần nói lại. Chiêu độc nào thì cũng như biệt dược, dùng quá liều dễ sinh phản ứng phụ. Vừa tay, người ta thấy thi ảnh lung linh những vẻ mơ hồ kì bí. Quá tay, kì bí mơ hồ sẽ mất vẻ lung linh của chất thơ thật, chỉ còn nhóng nhánh chất kim sa, nghệ thuật dễ thành giả kim thuật. Chiêu này ở Về Kinh Bắc không phải không có lúc quá đà.                                                *
Tôi ngờ rằng, do sự ngặt nghèo của tình thế lúc hoài thai, mà Về Kinh Bắcđã tìm tới một chiêu pháp khác, đặc sắc không kém, tạm gọi : chiêu pháp "nghi trang - phục binh". Để biểu hiện một thế giới chấn thương trầm uất lúc bấy là điều không dễ gì. Nỗi đau vùi kín trong hồn khó lòng nén được cứ chực chồi lên, làm thế nào để nó vùi mình trong mạch chữ ? Cái khó ló cái khôn ! Chả biết Hoàng Cầm có nung nấu lắm về chuyện này không, nhưng cái cách ông đã viết trong bài "Tìm" thì chính là một thâu tóm về chiêu pháp ấy: "Đã ủ men xanh giấm lá chìm / Bỗng chồi gai sắc nhọn xuyên tim". Nghi trang-phục binh là thế chứ sao ? Mỗi thi phẩm dường như đều gói kín nhẹm cả hai luồng cảm xúc, hai kênh hình, kênh chữ. Một kênh diễn tả niềm hân hoan kiêu hãnh khi đứa con của miền quê văn hoá về lại cội nguồn. Một kênh chuyển tải những bi cảm của một tiếng lòng hàm oan. Cả hai  đồng hành, đồng hiện, giao thoa. Những hình sắc hoa mĩ cùng những mĩ từ tưng bừng lễ lạc thì như lớp ủ men xanh giấm lá chìm. Những chữ đau, chữ đắng, chữ xót cài cắm đó đây bỗng chồi gai sắc nhọn xuyên tim, thậm chí như cật nứa, như thuỷ tinh, như mũi tên bất chợt chồi lên muốn bắn nát chiều mai ráng đỏ vậy. Từng thi phẩm cứ như bên ngoài có lớp băng tinh tươm che quấn. Còn bên trong vẫn là một vết thương luôn rỉ máu. Chốc chốc lại tấy lên, giật nhói lên, thon thót trong chữ này lời nọ. Cái kênh hình/chữ truyền dẫn cơn chấn thương ấy trong mỗi bài thơ khác nào những cục máu, sợi máu của con cá bống bị giết oan cứ vẩn lên, gợn lên, đỏ bầm trong lòng giếng. Đó quả là một kênh hình/chữ rất ghê, rất sái, rất gở: "Cây ổi giơ xươngchống đỡ mùa đông xập vềđánh úp", "Gió mất chồi xuân đay nghiếnluỹ tre gầy", "Mồ tháng giêng mưa sũng", "Hình nhân má điệp tóc mực tàu/ mainhảy vào đám lửa giỗ đầu", "Chuối chín cây đổ gục đứtdây bìm", "Trăng lên chém đầungọn gió /cành si bưng chậu máuchát chao", "Giếng ngọc ễnh ương quátđêm tiền sử", "Ơi đêm Đông Hồ / nát nhầu thân Tố nữ", "Chim vàngphải tên dưới bụng/giận mình bay quá cao", "Cậy cháy sành vỡ toácchôn niêu", "Lưỡi gió liếm giovờn tóc rụng", "Đừng gặm hết ngày thơ trẻ", "Tre dậm lông mày /ao bèo chột mắt", "Xoè tay phủ mặtchị không nhìn", "Bình pha lê nghiêng rượu liệm đêm tàn"v.v. và v.v... Nghe cứ gai người, rợn người, kinh cả người, gợi ra một thế giới sự vật đầy thương tích với bao hình thể, thi thể điêu linh, gợi ra nỗi trái ngang, mất mát, thương tổn, oan khuất, oan khiên... Lời thơ như tiếng lòng của kẻ ngậm oan. Tiếng lòng của cái tôi bị chấn thương. Cố nén những cơn đau trong lồng ngực các câu thơ mà không được, cứ nấc thành tiếng nghẹn ngào, tức tưởi, sầu hận, bi phẫn... Tôi không nghĩ đây chỉ là một quái chiêu. Mà là một ngôn ngữ. Ngôn ngữ của vết thương.
4. Một kết tinh
Đời như một ván cờ, một canh bạc. Chúng ta nói thế thành quen, đến nước nó chỉ vang lên như một so sánh vô cảm. Với Hoàng Cầm, tôi tin rằng,  điều ấy luôn gây đau xót. Một thời những cây tam cúc nở xoè trên bàn tay chàng tình nhân nhí như những nan quạt hồng của niềm luyến ái thơ dại. Bỗng một ngày kia, những quân tam cúc từ bàn tay non lả tả rụng xuống như những chiếc lá bị lửa thiêu cháy rát. Về già, nhớ lại vẫn não nề, nghẹn uất. Nhà thơ đã trút mối tình nghẹn của mình vào từng chữ, từng câu :
                           
                                    Cây Tam Cúc
       
                        Cỗ bài Tam cúc mép cong cong
                        Rút trộm rơm nhà đi trải ổ
                        Chị gọi đôi cây !
                                                 Trầu cay má đỏ
                        Kết xe hồng đưa Chị đến quê Em

                        Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm
                        Em đừng lớn nữa Chị đừng đi
                        Tướng sỹ đỏ đen chui sấp ngửa
                        Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì

                        Đứa được
                                        chinh chuyền xủng xoẻng
                        Đứa thua
                                       đáo gỡ ngoài thềm
                        Em đi đêm tướng điều sỹ đỏ          
                        Đổi xe hồng đưa Chị đến quê Em

                        Năm sau giặc giã
                        Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ
                        Thả tịnh vàng cưới Chị
                                                             Võng mây trôi
                        Em đứng nhìn theo Em gọi đôi
Tôi cho rằng đây là một trong những bài "cao thủ" nhất của Hoàng Cầm, một tìm tòi thành công về thi pháp của ông. Có thể thấy Cây Tam Cúc có ba nội dung song hành và chuyển hoá sang nhau: 1) Canh bạc trẻ con, 2) Cuộc tình thơ trẻ, 3) Canh-bạc-đời. Chúng được tải trong hai mạch thơ: 1) Mạch việc nổi phía trên kể về diễn biến từ ván Tam cúc sang canh bạc đời ; 2) Mạch tình bộc lộ nội cảm là tình yêu của chú bé. Chúng được đan dệt nhuần nhị bởi một ngôn ngữngôn ngữ  Tam Cúc.
Những nội dung oái oăm đó khiến người viết khước từ một lối viết cũ vẫn hay dùng trong những trường hợp như thế này là: tạo ra nhiều lớp nghĩa bóng chồng lên nhau. Hoàng Cầm muốn chúng đồng hiện lên cùng một mặt bằng ngữ nghĩa, nên đã sáng tạo theo lối khác: lối "giao thoa", "phức điệu".
Cùng một thứ tiếng tam cúc nhưng khi vang lên lại thật đa thanh. Dội vào những đứa được thua chinh chuyền xủng xoẻng kia chỉ đơn thuần là ngôn từ tam cúc. Còn dội vào Em lại theo một "kênh" hoàn toàn khác. Nó lấp lửng. Nó bóng gió. Nó đa âm. Một tiếng gọi "đôi" dội vào Em thành "đôi lứa". "Kết bài" thành "kết duyên". "Xe hồng" thành "xe hoa đón rước". "Nghé cây bài" không để nhìn trộm bài mà để "tìm hơi tóc ấm". "Chị đừng đi" vừa là lời can ngăn đừng ra cây bài, vừa là cầu mong chị đừng có ra đi (lấy người khác) hãy ở mãi cùng em. "Đi đêm" không phải đổi lấy cây bài to hơn mà cốt đổi lấy xe hồng. Lấy xe hồng cũng không nhằm phá kết ăn to mà chính là sắm sửa xe hoa để rước chị v.v... Cứ thế mạch việc (chơi bài) vàmạch tình (em ngầm tỏ duyên) trộn lẫn vào nhau, cứ đồng âm dị nghĩa, đơn âm đa nghĩa dai dẳng cho đến tận chữ cuối cùng. Chị chỉ biết có việc mà tuồng như "đui điếc" trước tình em. Tình em suốt mạch bài cơ hồ chỉ một mình mình biết, một mình mình hay. Lối viết ấy tạo cảm giác mạch việc ken kín như một lớp vỏ dày khiếntình em không sao xé vỏ để tỏ ra ngoài được. Đến lúc bật ra được ở cuối bài thì chỉ còn là một khối nghẹn uất không thể tiêu tan. Tôi nghĩ rằng: hơn cả một ngón nghề cao tay của kẻ viết, nó là cái hình thức vật vã mà vô thức Hoàng Cầm đã tự chọn cho Cây Tam Cúc đó thôi !
Vào cuộc bài, Em chẳng cầu vui, chẳng cầu được (tiền). Điều Em cầu thật ngang trái: cầu duyên. "Hơi tóc ấm", "ổ rơm thơm" với Em là tất cả đời này. Nhưng có lẽ một linh cảm mơ hồ nào đó đã mách bảo cho Em về cái ngắn ngủi, mong manh và bất trắc của ván bài. Vì thế mà lời ước muốn bật lên từ tâm khảm, xem ra chẳng ăn nhập gì, đã chợt có một vẻ thăm thẳm khẩn cầu: "Em đừng lớn nữa Chị đừng đi!". Có cái gì đó thật phấp phỏng ! Và Em sẵn sàng cho lũ "tướng sỹ đỏ đen chui sấp ngửa" để chỉ đổi lấy cái hạnh phúc bé bỏng: "ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì" !
Nhưng bi kịch của Em cũng bắt đầu từ đó. Trong cuộc bài, Em khinh lũ tướng sỹ đỏ đen, thậm chí cả "tướng điều sỹ đỏ" - cấp thượng đỉnh của tam cúc, những quân bài cầm trịch cho số phận canh-bạc-trẻ-con. Trớ trêu thay, ổ rơm chưa phải cuộc đời ! Bất hạnh ập xuống ngay điểm giao thoa giữa "cuộc-đời-ổ-rơm" và "cuộc-đời-giặc-giã". Em đã vấp phải một quyền uy ngang chướng khôn lường :
                             Năm sau giặc giã
                             Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ
                             Thả tịnh vàng cưới Chị
                                                                 Võng mây trôi
Không thể khinh nó được ! Y phục thì tam cúc, nhưng chao ôi, nó không phải tam cúc ! Lừng lững, đường bệ và ngạo mạn. Nó tới. Và ở canh bạc (cũng ăn nhau về cuối) này, Em là kẻ trắng tay, phá sản. Đường bệ và cao ngạo, tịnh vàng xuất hiện lập tức biến xe hồng của Em thành vớ vẩn, vô nghĩa lí ! Đây là canh-bạc-đời ! Nó vĩnh viễn trả con "xe hồng" của Em về với cái nghĩa không thể hơn được, không thể cầu cứu được là, chỉ là: một-trò-tam-cúc !
Ngồi trong ổ rơm thơm, bằng tất cả những khao khát trong trẻo nhất của thời niên thiếu, Em muốn cuộc đời thật ngưng đọng trong cái ngọt ngào thơ trẻ của cuộc bài này. Đến khi canh-bạc-trẻ-con biến thành canh-bạc-đời thì phũ phàng quá. Em đâu ngờ lại có lúc con tượng vàng Em chưa một lần đếm xỉa lại giày cho tan tành cái ổ rơm kia !
Ấy thế mà ngớ ngẩn, nực cười và tội nghiệp làm sao, Em cứ muốn níu cuộc đời thực vào cuộc đời thơ. Em cứ đem cái luật tam cúc hòng cứu vãn xoay chuyển luật đời :
                         Em đứng nhìn theo Em gọi đôi
Rốt cuộc, tiếng gọi của Em chỉ là những tiếng chới với rơi hút vào hư không, tan loãng vào vô định. Chắc hẳn kề bên quan đốc, trên lưng tịnh vàng  dong về phía xa, chả có lần nào Chị ngoái lại phía sau, chả có lần nào Chị nghe thấy trong gió, dù mờ nhạt, mơ hồ, cái tiếng gọi đôi của đứa Em này !
Và, ma quỷ thay là chữ nghĩa Hoàng Cầm !
Ngôn từ tam cúc bao đời quen nhàm, trơ lì tuồng như đã mất vía là thế, dưới bàn tay ma thuật của Hoàng Cầm, bỗng dậy hồn, hiện thần !
Chúng ta đều biết, tam cúc khái quát cuộc đời bằng màu sắc vào tương quan chỉ có hai màu đen và đỏ. Còn "bảng màu" tam cúc, trên thực tế, giàu có hơn nhiều. Ở cấp tướng: đỏ là ôngđen là . Ở sỹ: đỏ là điều. Ở tịnh: đỏ lại là vàngđen là thâm, là xanh. Ở xe: đỏ là hồng, là hường. Ở tốt: đen còn là hủi, là hỉn.v.v... Dùng "bảng màu" tam cúc để vẽ cuộc đời, để thống nhất ba nội dung, hai mạch ý tứ nói trên đây, Hoàng Cầm đã bộc lộ một bản lĩnh nghệ thuật "quái kiệt". Một sáng tạo nhỏ: đem màu điều để gọi tướng ông nhằm qui tướng sỹ về cùng một đẳng cấp đỏ điều. Lạ hoá đấy, nhưng chỉ là mức tài tử. Bằng tư duy đồng dao, thi sĩ đã sáng tạo ra một thứ đôi, một thứ cặp siêu lôgic mở ra một liên tưởng phức điệu: "Chị gọi đôi cây trầu cay má đỏ", cũng chỉ trên mức tài tử một chút. Quái kiệt là ở việc dùng màu hồng và màu vàng.
Cùng một sắc đỏ, mà đôi xe trong trắng và dại khờ của Em trước sau vẫn chỉ một sắc hồng ("Kết xe hồng đưa Chị đến quê Em" và "Đổi xe hồng đưa Chị đến quê Em"). Một sắc hồng mơ mộng lãng mạn, không có hàm nghĩa vật chất. Sắc hồng của một tình yêu vô tư, một tình yêu không có vàng bảo đảm. Còn tịnh của quan đốc là tịnh vàng ! Cao sang quyền quí tột đỉnh ! Như bất ngờ bị tước đoạt, bị cướp phăng khỏi tay mà không thể cầu cứu bất cứ lực lượng nào, Em bàng hoàng chết sững. Uất ức đến cùng cực ! Nhưng còn biết làm gì với sản nghiệp hai bàn tay trắng với một mối tình suông ! Thật là quái đản ! Màu sắc đơn sơ có thế thôi, lại đối lập đến tàn ác, lại chứa đựng bi kịch đến vậy chỉ có thể được phát hiện, được kí thác bởi khối tình nghẹn ẩn ức của Hoàng Cầm.
Bản lĩnh già dặn của một thi sĩ là biết tiết chế tình cảm của mình. Là một tay bút dè sẻn đến tằn tiện, Hoàng Cầm đã nén chìm cảm xúc vào câu chữ, dìm nỗi nghẹn ngào khuất chìm trong lòng ngôn từ đặng kí thác trọn vẹn vết thương tủi cực của số phận mình. Tôi nghĩ, với những thành công đạt được, đến lượt nó, "Cây Tam cúc" xứng đáng là cái giá đã trả được cho khối tình nghẹn của gã phù du Kinh Bắc Hoàng Cầm.
Chao ôi là những vết thương ! Có kẻ nào lại muốn mình bị trúng thương, dù có là những gã phù du khờ khạo ? Chẳng qua do những mũi tên độc bay ra từ bóng tối ! Đã không thể tránh, thì cũng không thể chết ! Thi ca phải tự cứu mình, phải tự liếm lành vết thương mình chứ còn biết làm sao ! Bị tước đoạt thực tại, thơ ca tất phải tạo ra thực tại của mình để tồn sinh. Kẻ bắn lén không thể ngờ, từ vết thương sâu, lại nảy mầm sáng tạo, lại nở ra những đoá thi ca, lại tượng hình những thi pháp. Thi ca muôn đời vẫn thế, vẫn tiềm ẩn một nội lực vô song.
                                                                       
                                                                         Núi Bò, 1992 - Văn Chỉ, 2005
                                                                                  CHU VĂN SƠN