Trường sở đầu tiên của Trường Đại học Y Dược khoa Sài Gòn
từ 1946 đến 1966, số 28 đường Testard (nay Võ Văn Tần). Bảng treo trên cửa đọc:
“ FACULTÉ MIXTE DE MÉDECINE ET DE PHARMACIE”.
Tap San Y Si Canada , số 219, 30/4/2020 có bài viết
: " Tuong niem Bac Si NGHIEM THI THUAN: mot nu giai phau gia
day tai nang va long nhan ai ." B.S DANG PHU AN .
BS Nghiêm Thị Thuần qua đời tại Montréal, Canada ngày
01/01/2020 hưởng thọ 96 tuổi. Bà sinh năm 1923, tốt nghiệp trung học tại trường
Bưởi năm 1944, bác sĩ Y khoa năm 1951?
Các năm đầu thập niên 1950, lúc tôi từ miền Trung ra Hà Nội
học y khoa, vừa vào năm thứ nhất đi thực tập tại bệnh viện Phủ Doãn ngày đầu
tiên thì đã gặp bà tại phòng mổ. ------
I) Giảng dạy sinh viên. Lối học y khoa của Pháp thời xưa
tại nước ta là như thế. Sinh viên học Y, buổi sáng ngày đầu tiên cũng như mọi
buổi sáng là đến bệnh viện, chia phòng, chia bệnh nhân để thực tập khám, làm hồ
sơ bệnh án, theo dõi bệnh tình, đêm thì chia phiên trực.Biết lo trước là tốt. Đầu
hè vừa thi đỗ chứng chỉ Lý Hóa Sinh (PCB) và hoàn tất ghi danh vào trường Y thì
ra hiệu sách mua ngay các cuốn Sémiologie (Triệu chứng học) tiếng Pháp, nội
khoa và ngoại khoa dạy cách khám bệnh: nhìn, hỏi, nghe, gõ, sờ nắn, thử phản xạ
v.v… thử trên bản thân, hoặc dỗ dành mấy đứa em, để làm bệnh án, bằng không thì
suốt hè chịu khó đến thư viện đại học mượn sách đọc. Chuyển ngữ dạy là hoàn
toàn tiếng Pháp. Tôi đỗ tú tài Pháp, tưởng mình đắc thế, song vào thời điểm đó
các bạn tú tài Việt rất giỏi Pháp văn.Buổi chiều đến trường học lý thuyết, 2
năm đầu khoa học căn bản, các năm sau học bệnh lý. Bác=rộng, biết nhiều. Học
ra bác sĩ Y khoa mất tối thiểu 7 năm đại học. Như vậy là rất nhiều. Năm đầu
lấy chứng chỉ Lý Hóa Sinh là năm tiền Y khoa, dự bị, sáu năm sau học Y. Cuối
năm thứ 6 thi bệnh lý và trình luận án để lấy bằng bác sĩ, gọi là Tiến sĩ Y
khoa Quốc gia. (1).Các tân bác sĩ chỉ cần ghi tên vào Y sĩ đoàn (Ordre des
Médecins), là Nghiệp đoàn bác sĩ, đóng niên liễm hội viên để hành nghề. Tương tự
cũng có Luật sư đoàn, Nha sĩ đoàn, Nữ hộ sinh đoàn.
Chế độ Ngoại và Nội trú cho sinh viên là đặc biệt
nhưng không bắt buộc. Sinh viên đi thực tập tại bệnh viện rất sớm, có đủ kiến
thức để dự thi tuyển ngoại trú bệnh viện từ cuối năm học thứ hai và thi nội trú
bệnh viện, dành cho các ngoại trú, từ cuối năm thứ tư. Mỗi năm thi một lần, nhà
trường tuyển ngoại trú, lấy khoảng 1/3 sĩ số sinh viên trong lớp nhưng nội trú
thực thụ thì khó, chỉ lấy đỗ một vài người. Các ngoại và nội trú đều có phụ cấp,
Trường phải xin chấp thuận ngân sách.
Có các sách dạy soạn thi nội trú các bệnh viện Paris, Pháp,
dày đắt cũng phải mua học.
Trong các năm 1967-1970 nhiều sinh viên chống đối chế độ thi
cử nội trú. Trường bãi bỏ thi ngoại trú, chỉ giữ lại thi tuyển sinh viên nội
trú nhưng lấy số lượng tăng nhiều và cũng lấy thêm các nội trú ủy nhiệm là các
thí sinh thi suýt soát điểm đậu.
Ở trường Y Huế, từ khi thành lập năm 1961, chịu ảnh hưởng y
khoa Tây Đức, Trường không mở các kỳ thi tuyển sinh viên ngoại và nội trú song
các sinh viên năm chót, thứ 6 được phân phối làm Nội trú tại Bệnh viện Huế và
Đà Nẵng trước khi thi ra trường.
Hiện tại trong nước, học Y 6 năm, sinh viên Y ưu tú vừa tốt
nghiệp bác sĩ được phép dự thi tuyển chọn Bác sĩ nội trú (5-10%) được giữ lại học
chương trình 3 năm, được trả lương.
Từ xưa, ở Pháp cũng như ở Việt Nam, miễn là đỗ chứng chỉ Lý
Hóa Sinh thì tự động ghi danh học trường Y. Năm 1954-55 số sinh viên dưới 100,
từ năm 1962 vì số lượng sinh viên quá đông nên trường Y Sài Gòn lập kỳ thi tuyển,
mỗi năm chỉ lấy 200 sinh viên vào năm thứ nhất. (1).
Trường Y Huế từ đầu cũng thi tuyển vào năm thứ nhất, mỗi năm
nhận từ 30 đến 60 sinh viên.
Các trường Y ở Pháp công nhận văn bằng Y khoa Việt Nam từ
năm 1962 trở về trước.
-------
II) Giáo sư người Việt. Năm đó, đầu thập niên 1950, tại trường
Y Hà Nội đã thấy hiện diện một vài khuôn mặt giáo sư người Việt. Từ năm 1902
thành lập cho đến năm 1945, các giáo sư đều là người Pháp, chỉ một số bác sĩ
người Việt được giữ lại Trường trợ giảng.
Các bác sĩ này, từ năm 1947, lúc Pháp trở lại Hà Nội, được gửi
sang Pháp soạn thi thạc sĩ, lúc về trường thì ký tên ở giấy tờ và đeo ở ngực
nhãn “Professeur Agrégé” (Associate Professor), lúc đó tôi chứng kiến, thật là
oai vệ, to đùng, một thời gian sau đổi là “Professeur” là giáo sư thực thụ.
Lề lối Pháp tuyển chọn đội ngũ giảng dạy, gọi là ban giảng
huấn, của trường Y như sau:
Các bác sĩ cựu sinh viên nội trú bệnh viện ưu tú được giữ lại
trường để phụ tá các giáo sư. Ở bệnh viện họ được gọi là Trưởng phòng bệnh lý
(Chef de clinique), tương đương với Clinical instructor trở lên, tùy thâm niên.
Nếu có kinh nghiệm, có công trình nghiên cứu hội đủ tiêu chuẩn thì đươc đề cử
thi thạc sĩ (Agrégation, Thạc= lớn). Thi thạc sĩ có phần thi vấn đáp trình bày
lý lịch cùng đề tài được vào thư viện soạn hôm trước, trả lời chất vấn của giám
khảo và phần thi thực hành. Bình thường đỗ thạc sĩ 19 năm sau tốt nghiệp trung
học. (2)
Ở Pháp, các giáo sư Thạc sĩ (Professeur Agrégé) bậc Trung học
dạy các trường trung học.
Giáo sư Thạc sĩ bậc Đại học là tại các ngành Y, Dược, Luật
(kể cả Chính trị, Kinh tế) mà học vị thạc sĩ trên học vị tiến sĩ. Đối với tất cả
các ngành khác như khoa học kỹ thuật, văn chương , sử địa… học vị tiến sĩ vẫn
cao nhất, trên thạc sĩ (được gọi là Master, Cao học).
Không kém tước vị giáo sư thạc sĩ bao nhiêu, các bác sĩ bệnh
viện công lập sau thi có tước vị “Thầy thuốc bệnh viện”, Médecins/Chirurgiens
des Hôpitaux, (Hospital Physicians/Surgeons) rất giá trị, và được phép dự thi
thêm thạc sĩ để giảng dạy ở đại học và triển vọng lên giáo sư thực thụ.
Tiến trình đào tạo các thế hệ giáo sư thạc sĩ tại trường Y
Hà Nội và sau đó tai trường Y Sài Gòn được tiến hành đúng quy trình cho đến nửa
đầu thập niên 1960, ảnh hưởng của Pháp giảm sút, các bác sĩ lớp trẻ được gửi học
ở Hoa Kỳ và các nước khác. Tiếng Pháp dần dần bị thay thế.
--------
III) Các thế hệ giáo sư.
- Theo
tuổi tác (năm sinh), năm cuối thập niên này có thể tính vào thập niên kế
tiếp.
*1) Thập niên 1900 có GS
Hồ Đắc Di (1900- 1984), GS Trần Quang Đệ (1905-1997).
*2) Thập niên 1910 có
các GS Tôn Thất Tùng (1912- 1982), Phạm Biểu Tâm (1913-1999), Đặng Văn Chung
(1913-1999), Vũ Công Hòe (1911-1994), Trịnh Văn Tuất (1910- 2007), Nguyễn Hữu
(?-2008), Ngô Gia Hy (1916-2004), Trần Đình Đệ (2017-2003), Trần Vỹ, Đặng Văn
Chiếu (1919-2004)… Lê Tấn Vĩnh (?-1991) và Lê Khắc Quyến (1916-1978) thuộc trường
Y Huế.
*3) Thập niên 1920 có
các GS Đào Đức Hoành, Trần Ngọc Ninh (1923-), Nguyễn Văn Út (1923-?) Phan Đình
Tuân, Nguyễn Đình Cát, Bùi Quốc Hương, Trần Anh, Nguyễn Huy Can, Lê Xuân Chất,
Đỗ Thị Nhuận (1928-2019)… và ở trường Y Sài Gòn, Nguyễn Ngọc Huy, Trần Lữ Y
(1926-2000), Nguyễn Phước Đại, Phạm Tấn Tước …
*4) Thập niên 1930 có
các giáo sư Lê Minh Trí, Thái Minh Bạch, Trịnh Thị Minh Hà (- 2009), Hoàng Tiến
Bảo (-2008), Nguyễn Thế Minh (1931-2010), Đào Hữu Anh, Bùi Duy Tâm (1934-), Vũ
Quý Đài, Nguyễn Khắc Minh, Nguyễn Ngọc Giệp, và một số bác sĩ về từ Pháp và Đức;
ở trường Y Huế thì có Vũ Công Thưởng, Hồ Đình Quế, Lê Bá Vận, Lê Văn Bách
(1930-2002), Nguyễn Văn Tự, Phùng Hữu Chí, Bùi Minh Đức… Lê Xuân Công, Tôn Thất
Chiểu.
*5) Thập niên 1940, các
bác sĩ tốt nghiệp được giữ lại ở trường Sài Gòn và Huế chưa được bao lâu
thì đến sự kiện ngày 30/4/1975, miền Nam sụp đổ.
- Theo
thời điểm trở thành giáo sư y khoa, lấy mốc ngày 20/7/1954, hiệp định
Genève.
+1) Thế hệ giáo sư trước
20/7/1954 là ngày chia cắt Bắc Nam: Hồ Đắc Di (Phẫu), Tôn Thất Tùng (Phẫu), 2 vị
này ở Việt Bắc. Các vị khác ở Hà Nội tại trường đều lần lượt qua Pháp thi Thạc
sĩ: PB Tâm (Phẫu), kế tiếp là N Hữu (Cơ thể học), kế đến ĐV Chung 1952 (Nội),
VC Hòe 1952 (Mô học), TV Tuất (RHM). Ở trường Sài Gòn thì TQ Đệ (Phẫu).
Sau 20/7/1954 trường Y Hà Nội di cư vào Nam, đem theo 3 giáo
sư thạc sĩ: PB Tâm, N Hữu, TV Tuất. Hai giáo sư thạc sĩ ĐV Chung, VC Hòe thì ở
lại Hà Nội. Ngày 21/01/1955 Nhà nước VNDCCH bổ nhiệm đợt giáo sư y khoa đầu
tiên gồm 9 vị về các bộ môn Ngoại, Cơ thể học, Mắt, TMH, Da liễu, Vi sinh học.
Hai giáo sư được biết tiếng nhiều là HĐ Di và TT Tùng.
Được cử qua Pháp soạn thi thạc sĩ là các vị xuất thân từ trường
Y Hà Nội, rất ít từ ĐH Y Sài Gòn, thành lập năm 1946 và tiếp nhận trường Hà nội
di cư vào Nam năm 1954. GS HĐ Di, TQ Đệ (Thạc sĩ), LT Vĩnh (Thạc sĩ) thì tốt
nghiệp bác sĩ tại Pháp, và cũng là các cựu nội trú bệnh viện.
Cũng vậy trường Y Huế lúc thành lập có nhiều bác sĩ con em
Huế du học Pháp trở về Trường: Thân trọng An, Nguyễn Khoa Mân, Lê Huy Chước,
Nguyễn Văn Mẫn, Bùi Luân…
+2) Thế hệ giáo sư thạc sĩ sau
ngày 20/7/1954: TN Ninh cuối 1954, (Chỉnh trực) rất trẻ, NĐ Cát (Mắt), PĐ Tuân
(Nhi), Trần Vỹ 1956 (Sinh lý) và TĐ Đệ 1956 (Sản phụ).
+3) Thế hệ giáo sư thạc sĩ đầu
thập niên 1960. Qua sự giúp đỡ của các GS Pháp (để duy tri ảnh hưởng Pháp?), một
loạt các bác sĩ ĐH Y Sài Gòn đã được Chính phủ Pháp chấp thuận qua Pháp thi lấy
bằng thạc sĩ, từ năm 1960-1963: NH Can (Cơ Thể Bệnh Lý), LX Chất (Huyết Học),
ĐĐ Hoành (Ung Thư), BQ Hương (Thần Kinh), NN Huy (Tim Mạch), NG Hy (Niệu Khoa)
lúc tuổi đã lớn, Trần Anh (Nhân Chủng Học), NV Út (Da Liễu).
+4) Thế hệ giáo sư cuối thập
niên 1960 và đầu thập niên 1970 bao gồm các bác sĩ có năm sinh trong thập niên
1930 gửi học từ nhiều nước, nhất là từ Hoa Kỳ. Nhiều vị giữ chức Khoa trưởng,
chấm dứt thế hệ độc tôn 20 vị giáo sư thạc sĩ sinh trong các thập niên 1900,
1910 và 1920.
---------
IV) Bác sĩ ngoài trường. Ngoài các giáo sư, bác sĩ tại các
trường đại học, số bác sĩ thời đó làm việc cho nhà nước hoặc làm tư là nhiều. Lấy
một vài thí dụ: trong Nam Bs Nguyễn Văn Thịnh (1988-1946) đỗ bác sĩ Y Khoa tại
Paris, Pháp, cựu nội trú bệnh viện, BS Louis Bùi Quang Chiêu, bào huynh của BS
Henriette Bùi Quang Chiêu, chuyên về lao phổi, BS Trần Hữu Nghiệp
(1911-2006).
Ở miền Trung nhiều tên quen thuộc: BS Lê Đình Thám
(1897-1969) các BS Hoàng Mộng Lương, Dương Đình Liễu, Nguyễn Duy Hà, Thân Trọng
Phước (1902- 1960), Tôn Thất Hạng…
Miền Bắc thì có BS Trần Văn Lai (1894-1975) cựu Đốc lý Hà Nội,
Trần Duy Hưng (1912-1988) cựu Thị trưởng Hà Nội, Vũ
Văn Cẩn (1915-1982) cựu bộ trưởng Y tế…
Bác sĩ nữ Việt Nam đầu tiên là Henriette Bùi Quang Chiêu
(1906–2012) đỗ bác sĩ tại Pháp năm 1934. Bà đã biếu biệt thự của bà, 28 Testard
(Trần Quý Cáp, nay Võ Văn Tần) làm trường sở cho trường ĐH Y Dược Sài Gòn.
Quanh nhà, tại vườn sau là khu đất trống được xây thêm nhiều giảng đường lớn,
nhỏ. Sau năm 1966 Trường dời về trụ sở mới, đường Hồng Bàng.
BS Dương Quỳnh Hoa (1930-2006), miền Nam, đỗ bác sĩ tại
Pháp.
BS Nghiêm Thị Thuần (1923--2020), miền Bắc, là bác sĩ nữ thứ
nhì đồng thời là bác sĩ nữ phẫu thuật Việt Nam đầu tiên.
Bà vóc người thấp, kém nhan sắc song tươi cười, gây thiện cảm,
lập gia đình lúc 25 tuổi.
Năm 1957 lúc tôi về Huế làm ở bệnh viện quân y Mang Cá thì
nghe nói bà làm bác sĩ trưởng khu giải phẫu ở Bệnh viện Huế. Chưa kịp đến chào
hỏi thì bà đã thuyên chuyển về Sài Gòn rồi đi học ngoại quốc. Trở về nước bà
làm bác sĩ phẫu thuật ở bệnh viện Nguyễn Văn Học, Gia Định, sau đó được bổ nhiệm
giám đốc trường Cán sự Y tế, Điều Dưỡng Quốc gia. Sau 1975 bà làm việc tại bệnh
viện Bình Dân. Năm1960 BS Nghiêm Thị Thuần khởi xướng Phong trào bảo vệ hạnh
phúc gia đình, sáng lập ra làng SOS dành cho các trẻ mồ côi. Thật là một phụ nữ
đáng cảm phục!
Đến nay thì tôi biết thêm bà là chị cả trong gia đình mà
ngươi em út là giáo sư Nghiêm Đạo Đại, một giáo sư phẫu thuật nổi tiếng về ghép
tạng phủ ở Hoa Kỳ.
GS Đại là cựu sinh viên nội trú xuất sắc tại bệnh viện Bình
Dân, ĐHYK Sài Gòn, thập niên 1960.
Lê Bá Vận (HNPD)
1-
Trường Y Khoa Đại Học Hà Nội, năm 1930, trên đường Lê Thánh Tôn.
2-
Trường Đai Học Y Khoa Huế, năm 1973, trên đường Ngô Quyền.
---------
Chú Thích.
(1) Chương trình học y khoa tại Pháp nay trải dài tối thiểu
9 năm đại học, gồm 3 cấp (cycle):
+ Cấp 1. Thời gian học 3 năm (tương ứng các năm
Dự bị Y, năm Y1, năm Y2 cũ).
Năm 1 học cùng sinh viên Nha, Dược, Nữ hộ sinh. Cuối năm thi
tuyển, tùy chỉ tiêu, khoảng 15% sinh viên đỗ lên năm 2, hỏng được học lại
1 lần. Học lý thuyết tại Trường, hoàn tất cấp 1.
+ Cấp 2. Ngoại trú bệnh viện, có phụ cấp. Thời
gian 3 năm (tương ứng các năm Y3, Y4, Y5 cũ).
+ Cấp 3. Nội trú bệnh viện (Internship), được trả
lương. Thời gian 3 năm, kéo dài thêm 1, 2, 3 năm tùy chuyên khoa. Ra trường
trình luận án riêng biệt cho ngành Y (ngắn gọn) để lấy bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc
gia (để hành nghề Y, không nhằm giảng dạy, nghiên cứu). (3).
Tiếp tục có thể học thêm các chuyên khoa
sâu.
Thi thạc sĩ thì nay không còn, sự tuyển chọn và phong các chức
danh giảng dạy (có khi là giáo sư thạc sĩ), tiêu chuẩn được xét dựa trên kinh
nghiệm, bằng cấp, tước vị, công trình khoa học.
(2) Thi thạc sĩ vào thư viện soạn bài trước và mọi người
đều dùng cuốn Encyclopédie Médico-Chirurgicale (EMC). Đó là lời GS Séror, Thạc
sĩ, kể chuyện với tôi, năm 1963 tại Huế.
GS Séror phàn nàn do gốc Do Thái ông bị kỳ thị và đến gần 50
tuổi mới được thi thạc sĩ.
(3) Ở Hoa Kỳ và Canada tốt nghiệp cử nhân (4 năm đại học)
trước, vào học trường Y sau.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen