Freitag, 3. April 2015

Việt Tân, chiếc bóng dài 30 năm





Bài viết này được viết lại sau khi có những Facebook status trao đổi trong một nhóm kín về hoạt động công tác Nhân Quyền, liên quan đến tổ chức chính trị Việt Tân. Xét thấy cần cho sự tìm hiểu của nhiều anh chị em đang hoạt động cho nhân quyền trong và ngoài nước, tôi hiệu chỉnh lại từ các bình luận của tôi và chuyển lên trang fB công khai. Vừa là một sự chia sẻ thông tin, vừa là để tránh những ngộ nhận rằng tôi lôi kéo một số anh chị em vào group riêng để … đánh phá VT! VT là một tổ chức chính trị có tham vọng giải phóng /chuyển đổi đất nước. Trong vị trí ấy, đương nhiên phải chịu những sự nghị luận của công chúng. Gọi sự nghị luận ấy là hành vi đánh phá, ít nhiều, đã là việc tự hạ thấp đi nhân cách chính mình

Những chữ viết tắt trong bài:
- VNCH: Việt Nam Cộng Hòa
- MT/VT = Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam/đảng Việt Tân
- VC: cộng sản Việt Nam
- fB: Facebook

+ Để xem các ảnh rõ hơn, xin bạn đọc mở ảnh trong Tab mới (right click and open in new tab) rồi zoom lớn (nhấn tổ hợp phím Ctrl +)

================================

Đá bạc trắng dẫu có vùi trong mực
Lòng phau phau vô biến cõi cơ cầu
Đường trần tục tỉnh say thân phù phiếm
Miệng can qua mưa nắng đãi bôi thôi


Tổng quan


Việt Tân! Anh là ai?
Việt Tân là một tổ chức chính trị lớn tại hải ngoại, nhiều nhân sự và nhiều tài lực do truyền thừa vốn liếng của tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam (MTQGTNGPVN) giai đoạn 1982/1986.
Thành lập tại căn cứ UBON, một tỉnh biên giới giữa Thái Lan và Cam Bốt năm 1982.
Danh xưng đảng Việt Tân từ 12/1982 chỉ lưu hành trong các căn cứ phục quốc ở biên giới Thái, mãi 1984 mới ra hải ngoại (Pháp) qua một nhân lực tình nguyện xâm nhập nội địa để khai mở con đường kết nối hải ngoại - quốc nội.
Nhân lực đặc biệt ấy là một thuyền nhân đến Pháp từ trại tỵ nạn Palawan ở Phi Luật Tân mang bí danh Cao Văn, ông phải lộn trở lại Pháp vì bản thân là thương phế binh sĩ quan VNCH, chiếc chân gỗ của ông đã không được đón nhận tại rừng núi Ubon. Ông đã có mặt tại vùng núi rừng chiến khu ấy cùng với đoàn người đặc biệt được dẫn đầu bởi cụ Phạm Ngọc Lũy, chủ tịch Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến (Kháng Chiến: tổ chức vũ trang tấn công và lật đổ chế độ cộng sản miền Bắc vừa chiếm được miền Nam quốc gia 7 năm trước, tháng 4/1975). Trở lại Pháp, ông chịu trách nhiệm một Ủy Ban đặc biệt bí mật của tổ chức, Ủy Ban Ðông Tiến Âu Châu.
Danh xưng đảng Việt Tân đến 1992 mới tràn lan hải ngoại sau khi đồng hóa toàn bộ tất cả các đoàn viên Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam thành đảng viên Việt Tân không qua nghi thức tuyên thệ lại.
Năm 1984 tháng 10 xảy ra những xung đột trầm trọng ở thượng tầng lãnh đạo. Nguyên do xung đột đến từ nguyên nhân tài chánh là chủ yếu.


Đông đảo đồng bào hải ngoại giai đoạn 1982/1984 đóng góp rất dồi dào cho Qũy Yểm Trợ Kháng Chiến.


Các chiến dịch Yểm Trợ Kháng Chiến lan cực nhanh tại Tây âu và Mỹ Úc. Người chủ xướng Phong Trào Yểm Trợ Kháng Chiến là ông Phạm Ngọc Lũy, thuyền trưởng tàu Trường Xuân. Con Tàu ông điều khiển thoát khỏi Việt nam ở những giờ phút cực kỳ sóng gió tháng Tư 1975(*). Nhiều ngàn người chen chúc trên con tàu định mệnh ấy, sáu năm sau trở thành những nhân tố đầu tiên để xây dựng nên cơ cấu Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến loang khắp các quốc gia có người Việt sinh sống, do đích thân cụ Phạm Ngọc Lũy chống gậy đi vận động. Các Ủy ban Yểm Trợ Kháng Chiến mọc lên như nấm. Việc này nằm ngoài cả trù liệu của ông Hoàng Cơ Minh và ban tham mưu.

cụ Phạm Ngọc Lũy (complet trắng, giữa) và phu nhân (thứ 4 từ phải qua)

Người ta có thể nhận rõ được sự bất ngờ, choáng ngợp đến lúng túng (trước tâm huyết Phục Quốc dũng mãnh đang dâng cao nơi đồng bào Việt Nam hải ngoại) của lãnh đạo Việt Tân lúc bấy giờ qua buổi đón tiếp ông Minh về Hoa Kỳ từ Thái /Nhật tháng 4 năm 1983.

Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh cùng kháng chiến quân từ khu chiến về dự Đại Hội Chính Nghĩa trong 3 ngày 28-30/4/1983 tại Wa. DC - Ảnh nguồn và chú thích: Hồi Ký Kháng Chiến "Hành Trình Người Đi Cứu Nước" của Phạm Hoàng Tùng

Đại Hội Đồng Tâm ở San Jose, ngày 4/6/1983 với khoảng 3.000 người dự - Ảnh nguồn và chú thích: Hồi Ký Kháng Chiến "Hành Trình Người Đi Cứu Nước" của Phạm Hoàng Tùng

Sự tiếp đón diễn ra như một thứ Hội Nghị Diên Hồng hải ngoại với hội trường đặc nghẹt từ trong ra ngoài khoảng gần 10 ngàn người về từ khắp các quốc gia, với tiếng cười tiếng khóc, với hân hoan và khát vọng cùng tâm thức hiến dâng.

Đại Hội Chính Nghĩa 1983 - ảnh tư liệu của Phạm văn Thành

Ông Minh đã mất bình tĩnh trong không khí này và đã buột miệng trong một phát ngôn ở phần diễn văn (do ông Nguyễn xuân Nghĩa viết, nhưng ông Minh đã chỉ đọc chừng 60%, những phần trăm còn lại là phát ngôn tự do) rằng lực lượng xâm nhập của Mặt Trận /VT đã VÀO ÐƯỢC ÐẤT MẸ VÀ BẮT TAY THỐNG HỢP ÐƯỢC 36 TỔ CHỨC TRONG NƯỚC VỚI HƠN 10. 000 TAY SÚNG. Ðây là câu phát ngôn đã đánh sập sự vững chãi của MTQGTNGPVN hai năm sau đó.

Ðồng bào nô nức đóng góp tài lực qua các chiến dịch "Ký gạo cho Kháng Chiến Quân " ở Âu châu, do Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam phát ý qua sự điều hợp của các ông Nguyễn Ngọc Giáp, Nguyễn Ngọc Danh, Nguyễn Ngọc Vũ, Nguyễn Hoài Thanh, Bác Sĩ Vũ Ngọc Hoàng (cựu thiếu tướng VNCH), Nguyễn ngọc Bảo... trong vai trò Ủy Ban Ðiều Hợp Phong Trào Yểm Trợ Kháng Chiến Âu châu.

Việt Tân có tầm hoạt động lớn ở Âu châu lúc bấy giờ là do lực hỗ trợ ban đầu của Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris, dùng tờ Nhân Bản làm tờ báo hỗ trợ. Nhưng tới sau 1984 thì tổ chức Tổng Hội phân làm hai, phần đông là chống lại Việt Tân kịch liệt vì đã nhìn thấy những sự bất tường bất minh của Việt Tân, đặc biệt là sau khi vụ án ông Trần văn Bá tháng 12/1984 xảy ra tại Việt nam (anh Trần văn Bá, lãnh đạo Tổng Hội Sinh Viên Paris 1975/1980 cùng ông Hồ Thái Bạch và ông Lê quốc Quân bị chế độ cộng sản Hà Nội xử tử hình ngày 6 tháng 1/1985 tại pháp trường Thủ Ðức).

Ở Mỹ, các tổ chức yểm trợ hình thành khắp mọi nơi. Những tiệm phở Hòa ban đầu (dựng lên do tiền mượn học đại học của đông đảo đoàn viên là sinh viên) được chiếu cố tận tình. Người ta sẵn sàng đứng hàng giờ chờ ăn phở. Nhiều hàng Phở khách vào tận bếp mang phở ra bàn ăn rồi tự trả tiền, bao giờ cũng hơn số tiền bát phở đã ăn. Phong trào như hoa nở thơm ngan ngát! Lòng ai cũng hừng hực nghĩ về lực lượng quân kháng chiến phục quốc, lật đổ chế độ bạo tàn, phi nhân cộng sản Hà Nội.
Lon Kháng Chiến - chú thích ảnh: Admin

Các chiến dịch "Lon Kháng Chiến" được đặt hầu như khắp mọi nhà. Không khí truyền đẩy nhau hầu như ai ai cũng đặt "lon kháng chiến " tại gia đình và tại các cửa tiệm, vừa là để chứng minh tấm lòng với đất nước, vừa là để tránh lập dị.
Các chi bộ Mặt Trận và Phong Trào Yểm Trợ phát triển rộng khắp, áo nâu như một thứ mode của người Việt ở Mỹ. Những tờ báo nào chống lại Việt Tân đều dẫn đến bị đốt hoặc thảm tử (Ký giả độc lập Ðạm Phong hoặc như Ký giả Lê Triết của tờ Văn Nghệ Tiền Phong phải lom khom đi "mò giun" trong lúc tuổi còn đầy sung mãn và kiêu mạn...).
Ðoàn viên Mặt Trận lý luận và tổ chức yếu nhưng rất đông đảo, dẫn đến sự tan rã ngay tức khắc, khi xảy ra lủng củng ở thượng tầng giai đoạn cuối 1984.

Diễn biến chi tiết
1 bìa báo Kháng Chiến 1988


Đảng Việt Tân thành lập khoảng tháng 12 năm 1982 nhưng người đứng đầu hải ngoại của MTQGTNGPVN không nắm vững chi tiết hoạt động!
Các hoạt động kháng chiến được loan báo trên tờ báo Kháng Chiến (1)  ở hải ngoại hầu hết chỉ là thông báo cho Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoại là ông Phạm Văn Liễu/ Trần Trung Sơn biết khi đã đăng tin trên mặt báo.

Đại Hội Chính Nghĩa 1983, Phạm văn Liễu (tóc bạc, ảnh nhỏ bên phải) - ảnh tư liệu của Phạm văn Thành

Mọi chi tiết mật về chi thu tài chánh, xây dựng lực lượng khu chiến… đều nằm trong vòng quản lý bảo mật của ông Hoàng cơ Minh và ông Hoàng Cơ Định, em ruột ông Minh.

Người đứng đầu Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến là cụ Phạm Ngọc Lũy cũng không biết được những diễn tiến chi thu của Qũy, vì các Qũy ngay từ khi hình thành đã được khuyến khích làm việc trực tiếp với Vụ Tài Chánh của tổ chức Mặt Trận /Việt Tân do ông Phan vụ Quang (một bí danh của ông Hoàng Cơ Định) điều hành.
Yếu tố xây dựng cơ cấu nhân sự ban đầu dựa trên lòng tin đã dần bị nhìn nhận là đang có sự đánh tráo! Vực thẳm tan vỡ xuất hiện.

Cơ cấu ban đầu

Năm 1980/81, màu đỏ cộng sản loang mạnh mẽ ở Cam Bốt, đe doạ cả những đồng minh chiến lược của Mỹ. Ngân sách phòng chống làn sóng đỏ của khối các quốc gia Asian tăng vọt. Làn sóng người Việt vượt biên trốn thoát chế độ cộng sản (vừa làm chủ toàn cõi Việt Nam mới chỉ hơn 5 năm) đã gây khiếp hãi cho toàn bộ các quốc gia Đông Nam Á.
Mỹ quyết định phải tìm biện pháp ngăn chặn làn sóng đỏ bằng các biện pháp vũ lực.
Các đơn vị quân đội «gọi là tinh nhuệ» của Thái lan được bổ xung dọc biên giới Việt Miên Lào.

Những tổ chức kháng cộng của người Việt được âm thầm giúp đỡ qua trung gian Thái và Nhật.
Những toán đi tắt vào thẳng Thái đều bị tan vỡ hoặc dậm chân tại chỗ (lực lượng Ông Võ đại Tôn, lực lượng Ông Thái Quang Trung…) lý do vì hầu hết các tướng lãnh Thái hoặc những nhân lực trung gian nói tiếng Thái Việt … đều nhận ân sủng lớn của an ninh cộng sản VN.

Năm 1981 đảng cầm quyền Nhật nhúng tay vào cuộc. Giáo sư Tonoka, đảng Tự Do Nhật nhận nhiệm vụ thuyết phục và xây dựng một tổ chức chống cộng chuyên nghiệp người Việt tại biên giới Thái nhằm mục đích xâm nhập vũ trang vào Việt Nam.



Ông Trương bổn Tài (ngoài cùng, trái) tháng 6/2014 - ảnh Việt Báo

Lực lượng sinh viên Việt Nam ở Nhật được tiếp xúc qua những nhân lực có liên hệ với phong trào Đông Du / Cường Để còn sót lại từ 1930. Tập hợp đầu tiên do ông Đỗ Thông Minh lãnh đạo, phụ tá đắc lực là Hoàng Nhật /Ngô Chí Dũng với những tình nguyện viên quyết tử như Lâm Bích Sơn, Lâm Thao, Phùng tấn Hiệp, Nguyễn Hải Quốc Phục, Trương Bổn Tài, Huỳnh Lương Thiện, Đẩu, Hưng … Khoảng 20 người tình nguyện rời Nhật để tìm đất lập chiến khu trên đất Thái.

Thứ 2 từ trái qua: Ông Trần văn Sơn (Trần Bình Nam) tại Lễ Kỷ Niệm 30 năm tổ chức Phục Hưng VN, 2008

Truyền thống làm việc của tướng lĩnh quân đội Thái là chỉ nói chuyện với tướng (hoặc cựu tướng) quân đội, từ chối nói chuyện với người đại diện nhóm (2) lúc bấy giờ là cựu trung tá hải quân VNCH Trần văn Sơn/ Trần Bình Nam (bút danh được dùng cho tới hiện nay, cựu lãnh đạo tổ chức Phục Hưng, cựu dân biểu VNCH).

Việc tìm mướn đất nơi các tỉnh biên giới bế tắc. Giáo sư Tonoka cùng ông Đỗ Thông Minh (đại diện Tổ chức Người Việt Tự Do tại Nhật) cùng sang Mỹ và Âu châu để tìm nhân lực cấp tướng của VNCH về Thái lập căn cứ phục quốc.
Tại Âu châu, ông Lâm Bích Sơn và đại diện nhóm vận động (2) có gặp Tổng hội Sinh Viên Paris (thời anh Thanh, tác giả ca khúc Bên Kia Sông Đuống) làm chủ tịch.
Ở Mỹ, nhóm vận động nhắm vào tổ chức Lực Lượng Quân Dân Hải Ngoại Phục Quốc (với đồng phục áo nâu quần kaki vàng, là đồng phục truyền thống của MT/VT cho tới 2000, mất hẳn sau khi cuộc tình duyên lỡ làng giữa Tổng vụ Phó Tổng Vụ Hải Ngoại Trần Xuân Ninh với Vụ trưởng Vụ Tổ chức Hoàng Cơ Định xảy ra 2005/2006).

Lực lượng Quân Dân Hải Ngoại Phục Quốc sau cuộc vận động của giáo sư Tonoka đã chia ra làm hai.
Thủ lĩnh là tướng Nguyễn Chánh Thi không hợp tác.
Người được mời thứ hai là tướng Ngô quang Trưởng và người thứ ba là tướng …. Nguyễn Cao Kỳ. Cả ba đều không hưởng ứng.

Chuẩn tướng (phó Đề đốc) Hoàng cơ Minh đã tình nguyện, có sự đồng tình sát cánh của Trung Tá Lê Hồng (Nhảy Dù, chỉ huy tiểu đoàn 5) và sự hỗ trợ đắc lực của cựu đại tá Biệt Động Quân / Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia VNCH Phạm văn Liễu, cựu Đại tá Học viện Cảnh sát Quốc Gia Trần Minh Công cùng thuyền trưởng tàu Trường Xuân cụ Phạm Ngọc Lũy.
Hoàng cơ Minh trong "khu chiến"


Nhân sự ban đầu được công nhiên xác định:

A: Hoàng Cơ Minh đặc trách thành lập Chiến Khu tại Thái Lan, tức phòng tuyến tiền phương, mục đích xâm nhập móc nối với các nhóm kháng cự trong nội địa Việt Nam.

B: Phạm Văn Liễu đặc trách “hậu cứ” hải ngoại, trách vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoại. Nhiệm vụ xây dựng đoàn viên cán bộ khắp các quốc gia có ngươì Việt Nam sinh sống để hỗ trợ trực tiếp các công tác xâm nhập của bộ phận chiến khu, vận dụng mọi quan hệ nơi các nước sở tại để hình thành mặt trận quốc tế vận, cô lập cộng sản Việt Nam về mặt ngoại giao, đồng thời vận dụng sự đồng lòng của các chính đảng có khuynh hướng chống cộng trên thế giới vào mục tiêu lật đổ chế đổ chế độ cộng sản tại Việt Nam bằng TẤT CẢ MỌI HÌNH THỨC.

C: Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đặc trách Vận động Yểm Trợ Tiếp vận. (Các Ông Cao thế Dung, Trần Minh Công giữ vai trò Cố Vấn và Phát Ngôn).

Từ trái qua: Thiếu Tá Phan Tấn Ngưu, Trung Sĩ I Phan Văn Bàn, LS Nguyễn Quốc Lân, Đại Tá Trần Minh Công và Thiếu Tá Phạm Văn Cờ - tháng 12/2013

D: Ông Trần Minh Công: Phát Ngôn Nhân, Ông Cao Thế Dung: Cố Vấn chính trị

Cuối năm 1981 ông Hoàng Cơ Minh, ông Lê Hồng (Trung tá Nhảy Dù VNCH), ông Nguyễn Kim Hườn (Không quân Thiếu Tá VNCH), ông Nguyễn văn Lộc (3), ông Trần Thiện Khải (Trung úy Hải quân VNCH), ông Trương Ngọc Ny (Ðại úy Nhảy Dù VNCH), ông Huỳnh Trọng/Bùi Đức Trọng (Hải quân VNCH, Thụy sĩ)… đáp máy bay sang Tokyo khởi đầu chuyến di hành bất định về cố hương đầy lãng mạn và không ít sự …liêu trai.

[Với tôi, đây là những người hùng, không thua kém gì ông Võ đại Tôn. Những con người kiệt hiệt này nay không còn ai ngoài một Nguyễn văn Lộc/Trương Tấn Lạc ẩn cư đâu đó và nghe đâu ông Huỳnh Trọng đã nhắm mắt với rất nhiều buồn phiền ở Thụy Sĩ, sau chuyến trở ra hải ngoại 1983 và ở luôn lại Thụy Sĩ làm người mai danh ẩn tích!]

Liege, Bỉ, tháng 9/1985, “người sắp về khu chiến” được đưa đi trình diện báo giới và vài nghị sĩ Bỉ (ngồi). 2 người đứng là Võ Sĩ Hùng (bìa trái) và Trần đức Tường, người ngồi bìa phải là Nguyễn Quảng Văn - ảnh tư liệu của Phạm văn Thành


Tình hình ban đầu như vậy là quá đẹp. Khối tình ấy sẽ đẹp hơn nhiều nếu như không có sự xuất hiện đăc biệt của ông Hoàng cơ Định, một chuyên gia thương mại tốt nghiệp tại Pháp, mà qua nhân định của ông Trần đức Tường, Xứ bộ trưởng Pháp quyền lãnh đạo Âu châu, tháng 12/ 1984 từng nói trước mặt chúng tôi: « Là cái yết hầu ung thư trên cơ thể tổ chức »!

Chia lìa lần thứ nhất

Ông Trần Văn Sơn (Trần Bình Nam) đại diện tổ chức Phục Hưng đã lặng lẽ rời khỏi mô hình tập hợp ban đầu dưới tên Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam gồm:
1. Tổ chức Người Việt Tự Do (Nhật).
2. Tổ chức Phục Hưng (Hoa Kỳ).
3. Tổ chức Dân Quân Việt Nam Hải Ngoại (Hoa Kỳ, một phần)

Năm 1982, tại Thái Lan, sau khi Mặt Trận mướn được khu rừng UBON làm căn cứ, ông Trần văn Sơn có cảm giác bị loại ra khỏi nhóm đầu lãnh MTQGTNGPVN, mặc dù ông là người sát cánh với anh em Tổ chức Người Việt Tự Do tại Nhật ngay từ những nỗ lực đầu tiên. Sự nhẫn nhịn của ông đã vượt giới hạn và tổ chức do ông lãnh đạo chọn thái độ rời tập hơp, không lên tiếng thanh minh thanh nga bất kỳ một lời nào với công luận.
Với tôi, đây là thái độ đáng kính phục. Mãi đến khi sự lộn xộn của tổ chức Việt Tân đã gây hỗn loạn môi trường hải ngoại giai đoạn 1992, tổ chức Phục Hưng mới lên tiếng xác nhận đã rời mô hình Mặt Trận / Việt Tân từ 1982.

Tiền bạc ban đầu để chi phí cho chiến khu đến từ một nguồn Quỹ có tên là Quỹ MIA. Chính phủ Mỹ có yêu cầu phải tìm kiếm những người Mỹ mất tích (còn sống hay đã chết tại Ðông Nam Á) và Quỹ này chi cho Việt Tân những ngân khoản chủ yếu ban đầu.
Mặt khác, đảng Tự Do của Nhật cũng giúp nhiều phần. Phần còn lại là sự đóng góp của đồng bào và đoàn viên (lúc bấy giờ, trước 4/1982 nguồn kinh phí này chưa dồi dào).
Một số người Mỹ đã cố vấn để Việt Tân làm cuốn băng video “Đường Về Khu Chiến”. Cuốn phim của đài truyền hình CBS thực hiện có sự vỗ tay phụ họa kèm theo của loạt bài nhiều kỳ đăng trên Văn Nghệ Tiền Phong do ký giả Hoàng Xuyên (Hoàng xuân Yến) thực hiện.
Sau này (khoảng năm 2000) Ông Yến có một bài trả lời phòng vấn tố cáo MT/VT nặng nề. Với tôi, những tình tiết ông nêu ra trong bài phỏng vấn, sau khi đối chiếu kiểm chứng với những tiết lộ của những ngươì sống sót trong đoàn quân phục quốc lúc bấy giờ, tôi nhận thấy là bản thân ông Yến không biết được nhiều, nên những chi tiết nhận định nhiều phần là đã chỉ là do luận đoán. Thêm nữa, thời điểm cần ông lên tiếng đã trôi qua rất lâu … nên sự lên tiếng của ông Yến, chỉ còn có một nửa giá trị về những tình tiết lúc diễn ra hoạt cảnh làm cuộn phim. Giá trị nhân cách của nhân chứng gần như không còn hiện hữu.

Cuốn phim ấy có nhiều tình tiết không thực, lực lượng có mặt trong cuốn phim 1/3 đến gần phân nửa là ngươì Lào / H' Mông, mượn từ lực lượng kháng cự của tướng Vàng Pao, thủ lĩnh những đơn vị ngươì H' mông chống cộng sản tại Đông Nam Á. Phim làm tại rừng Ubon nhưng được thổi khống là nội địa Việt nam.
Ðây là đoạn phim ghi hình Lễ Công Bố Cương Lĩnh Chính Trị của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, thời gian ghi hình là tháng Ba năm 1982.

Cuốn phim với sự trình chiếu của CBS Hoa Kỳ đã được nhân bản rất nhiều và ghép với video Ðại Hội Ðồng Tâm 30/4 /1983 tại Nam Cali qui hội gần 10 ngàn người đón ộng Minh về từ “chiến khu” … làm thành tài liệu tuyên vận gây thành hiệu ứng náo nức mong muốn đóng góp tài lực yểm trợ cho “kháng chiến” của hầu hết đồng bào thuyền nhân tỵ nạn cộng sản đang ở những năm đầu lưu vong.

Hiện nay, VT hầu như không muốn nhắc về cuộn phim ấy nữa, nếu không muốn nói là phủ nhận để cố gắng chứng minh lòng chân thành của mình về chủ trương “Tuyệt đối tiến hành đấu tranh bất bạo động để … chuyển hóa đất nước”.

Tan tác 2

Suốt từ những tháng 7 đến tháng 11/ 1984 là sự sóng gió bão bùng cho tổ chức Mặt Trận /VT.

Ông Phạm Văn Liễu quyền Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hải Ngoại yêu cầu phải minh bạch về thu chi của Mặt Trận/Việt Tân, đây là yêu cầu hợp lý vì ông là người trực tiếp chịu trách nhiệm với đồng bào hải ngoại về những khoản tiền đóng góp to lớn mà đồng bào đã nhiệt thành yểm trợ, nhưng ông Hoàng Cơ Định, Vụ Tài Chánh đã không đáp ứng!

Ông Trần Minh Công (đại tá VNCH) Phát ngôn nhân MT/VT tuyên bố nếu không minh bạch, tổ chức có nguy cơ chia làm hai.

Ông Hoàng cơ Minh thành lập ra cơ cấu “Hội Đồng Kháng Chiến Toàn Quốc”. Một Hội Đồng gây bất ngờ hoàn toàn cho cánh ông Liễu. Hội Đồng ấy, ông Minh là Chủ Tịch và phong ông Lê Hồng thành Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Quốc Nội (thực chất là Quốc Nội … chưa hề có).

Như vậy, hợp đồng nhân sự ban đầu đã bị vỡ. Ông Phạm văn Liễu, ông Phạm Ngọc Lũy đương nhiên … “sụt hạng quyền bính”, xuống đứng ngang hàng với ông Lê Hồng, sẽ bắt buộc phải ngước lên để nhìn ông Minh những khi muốn nói chuyện!

Bác sĩ Vũ Chương là người duy nhất từ Hoa Kỳ được ra vào “chiến khu”, làm con thoi để hòa giải.

Yêu cầu của cánh ông Phạm văn Liễu là những yêu cầu xét ra rất hợp lý, vì dù không nắm chi tiết chuyện tiền bạc, nhưng các Uỷ Ban Yểm Trợ Kháng Chiến trên toàn thế giới báo cáo sơ lược cũng đủ thấy là sức yểm trợ tài chánh ấy to lớn khó tưởng tượng nổi.
Ảnh chụp một phần giao diện http://www.phohoa.com/locator.html (bạn đọc có thể vào địa chỉ ấy để xem full location, hoặc xem các ảnh tiếp theo ở cuối bài này). Photo by Admin



Nhưng những đồng tiền ấy thay vì nhắm trực tiếp lo mục tiêu xâm nhập thì lại phát triển thành rất nhiều chuỗi kinh doanh các tiệm ăn mang tên Phở HÒA, các Gara xe hơi và thậm chí cả kinh doanh bất động sản. (Những diễn biến, đối chất trước Tòa trong các vụ kiện tụng của Mặt Trận / VT với các ông Cao Thế Dung và Nguyễn xuân Nghĩa giai đoạn 1985 đã là những tư liệu vững chắc để xác định rằng, cánh ông Cao Thế Dung, Phạm văn Liễu, Phạm Ngọc Lũy lường định về lượng tiền Quỹ Yểm Trợ Kháng Chiến do đồng bào đóng góp… là hoàn toàn có cơ sở. Số tiền công khai công bố tại Tòa đã lên đến trên 20 triệu, trong khi tiền nhập qũy đến 70% là tiền qũy đen không qua qui trình khai báo sở thuế...(4)
Hoàng Cơ Định (phải) tháng 6/2010 -chú thích ảnh by Admin: 

Hoàng Cơ Định (trái) chụp chung với Nguyễn Khắc Bình, Thiếu Tướng Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia Việt-Nam Cộng-Hòa trong buổi tưởng niệm Hoàng Cơ Minh ngày 1 tháng 9 năm 2013 tại hội trường khách sạn Ramada Inn, 455 S. 2nd. St. San Jose -chú thích ảnh by Admin: 

Ông Minh nhất định giữ em mình ở vai trò điều phối tiền bạc và tán trợ cách giữ im lặng của ông Hoàng cơ Định bất hợp tác với Tổng Vụ Trưởng Phạm Văn Liễu.
 Tháng 12/1984 mọi sự hòa giải đều thất bại, ông Minh từ Nhật về Mỹ, công bố quyết định cách chức ông Phạm Văn Liễu, đưa ông cựu Thiếu Tá phi công VNCH Nguyễn Kim Hườn từ “khu chiến” Ubon về Mỹ nhận vai trò Tổng Vụ Trưởng dưới sự dìu dắt của ông Ðồng Sơn Nguyễn Xuân Nghĩa (chuyên gia kinh tế xuất thân từ Tổng Hội Sinh Viên Paris, từng bỏ Pháp về nước giúp cho Bộ Kinh Tế VNCH dưới quyền ông Nguyễn văn Hảo).

Tổ chức MT/VT tan rã lần hai, kéo theo 2/3 nhân lực lặn vào im lặng trường kỳ.

 Nhiều nước mắt của các đoàn viên đã ngỡ ngàng lăn trên các đôi gò má nhăn nheo, chưa phai màu nắng gió biển mặn.
Tôi là một trong những người ấy. Thay vì tan hàng, tôi cố gắng bám lực lượng chiến khu và tình nguyện xâm nhập VN mở đường liên lạc nội địa. Quan điểm của tôi lúc bấy giờ là anh em đang chiến đấu luôn là ưu tiên quan trọng nhất. Phải tập trung hết lực cho các anh ấy.

Tôi đã sai lầm, trở thành một nhân tố đắc lực tiếp diễn tấn tuồng lường gạt của tổ chức MTQGTNGPVN /VT.

Sang ngang 3

 Bắt đầu giai đoạn tháng 1 năm 1985, sự xuất hiện của ông Ðồng Sơn /Nguyễn xuân Nghĩa (Vụ Trưởng Vụ Tuyên vận, nay là bình luận gia về Kinh tế trên Người Viêt TV) trở thành thường xuyên trên khắp các cuộc vận động của Mặt Trận /Việt Tân ở hải ngoại.
 Ở Mỹ cơ sở MT/VT gần như tê liệt, tờ báo Kháng Chiến ông Huỳnh Lương Thiện không còn giữ nhiệm vụ chủ biên. Các anh chị em thuộc tổ chức Người Việt Tự Do rời bỏ Việt Tân hầu hết. Ông Ðỗ thông Minh giữ im lặng gần như hoàn toàn. Ông Huỳnh Lương Thiện đi lập trang báo độc lập khác.

Nhân vật tương đối đình đám của tổ chức Người Việt Tự Do tại Nhật còn sót lại là ông Bùi Minh Ðoàn(5)/Lý Thái Hùng, gắn bó mật thiết với ông Phan Vụ Quang/Hoàng Cơ Ðịnh (fB Dinh Hoang) trong mô hình bếp kiềng hai chân.
Ông Phạm văn Liễu và Trần Minh Công thành lập tổ chức mới.
Ông Cao Thế Dung bắt tay với các ông Nguyễn hữu Chánh, Nguyễn văn Chức ở Biên Thùy Đông Dương.

MT/VT với Ông Ðồng Sơn Nguyễn Xuân Nghĩa và ông Trần xuân Ninh tập trung ổn cố tối đa địa bàn Âu châu qua vị trí chiến lược là cơ sở Pháp.
Cơ sở Pháp là đầu tàu của Âu châu đã diễn ra một phiên bầu phiếu “bất tín nhiệm Hoàng Cơ Minh hay không!” vào đầu năm 1985. Số phiếu được bầu gồm các trưởng cơ sở cấp Xứ, (Hòa Lan, Ðan Mạch, Na Uy, Bỉ, Pháp, Ý). Nếu chỉ dựa trên số phiếu của các cấp trưởng của các Xứ, thì đương nhiên ông Minh bị loại vì Hòa Lan là cơ sở cực thân với cụ Phạm Ngọc Lũy, cơ sở Ý Đại Lợi luôn sát cánh với ông Phạm văn Liễu.
Trưởng Cơ sở Na Uy có quan hệ thân thiết với ông Phạm văn Liễu từ Phi Luật Tân lúc mới chân ướt chân ráo từ thuyền lên bờ làm người thuyền nhân bạt xứ.
MT/VT Cơ sở Pháp do ông Trần đức Tường nắm, là người rất khéo câu thời vận, gió chiều nào ngả chiều nấy.
Ông Nguyễn Kim (tức Nguyễn Kim Hườn) và ông Nguyễn Xuân Nghĩa đã đưa đẩy đến kết cục là thành viên ban chấp hành cấp Khu (tức trách nhiệm ban chấp hành MT/VT Âu châu) cũng có quyền bỏ phiếu!
Nguyễn Kim Hườn -chú thích ảnh by Admin: 

Thế tương quan thành nghiêng ngửa vì lớp trí thức đều có quan hệ từ thời sinh viên với ông Nguyễn Xuân Nghĩa như ông Lê Triệu Ðào, Nguyễn Ngọc Danh, Nguyễn Ngọc Bảo … vốn đang giữ một số trọng trách của Ban Chấp Hành Khu Bộ Âu châu sẽ đương nhiên đi theo tinh thần ông Nguyễn xuân Nghĩa, nghĩa là ủng hộ ông Hoàng cơ Minh, loại trừ ông Phạm văn Liễu.
Phiên bầu trở thành nảy lửa dẫn đến suýt ẩu đả nhau ngay trong phòng bầu. Trong phòng bầu phiếu, tiếng văng tục lan ra cả bên ngoài cơ sở bí mật của tổ chức trụ đóng ở Antony, ngoại ô nam Paris. Kết quả là chỉ chênh nhau một phiếu. Ông Hoàng cơ Minh không bị “bất tín nhiêm” như đại đa phần các khu, xứ bộ tại Hoa Kỳ!
Cơ sở Âu châu sau đó lập tức có sự tách rời của Xứ bộ Ý Đại Lợi. Xứ bộ Ý Đại Lợi đem hết quan hệ ngoại vận của mình xây dựng cho Lực Lượng Biên Thùy Ðông Dương qua trung gian ông Cao Thế Dung và sau này là Nguyễn hữu Chánh.
Xứ bộ Hà Lan đóng băng, duy nhất còn hai đoàn viên là Ðinh Hiền và Ðặng Thành.

Đinh Hiền (Đinh ngọc Hiền) tại “Hội thảo Nhân Quyền do Cộng Đồng Việt Nam” (Việt Tân) tại Hoà Lan tổ chức vào ngày 07-12-2014. Ngoại trừ nhóm văn hoá Cái Đình, tất cả các hội đoàn VN khác ở Hoà Lan đều không đến dự - ảnh tư liệu của Phạm văn Thành

Xứ bộ Ðức cũng chia hai.
Phong Trào Yểm Trợ Kháng Chiến toàn Âu châu khựng lại như cỗ xe lửa vỡ buồng than. Bắt đầu kéo theo sự lao dốc, phá sản niềm tin của cộng đồng người Việt hải ngoại. Không còn bất kỳ Tổ Tiếp Vận hay Ủy Ban Yểm Trợ Kháng Chiến nào còn hoạt động!
Từ đây, Mặt Trận / Việt Tân chỉ còn là chống chỏi để tự sinh tồn. Mục tiêu đấu tranh giải phóng Việt Nam thoát ách cộng sản được coi như vô phương hiện hữu, có chăng, chỉ là tự đánh lừa nhau, cố giữ cho nhau khỏi qụy ngã.
Trong hoàn cản rối bời ấy, mới thấy tài cán của Nguyễn Xuân Nghĩa. Ông có cái đầu cực giỏi và một ý chí rất lỳ đòn. Trước bao nhiêu thách thức, ông đã vực dậy các cơ sở từ Âu châu bật ngược lại Mỹ. Ròng rã suốt bốn năm, ông đã định hình lại tổ chức Việt Tân đứng vững lại sau cơn phong ba bão táp, dù rằng, số đoàn viên đã mất đến hai phần ba trên toàn thế giới. Nhưng đúng như ông Trần đức Tường đã nói: “Hoàng cơ Ðịnh là một cái yết hầu ung thư của cơ thể tổ chức”. Dù bản thân ông Trần đức Tường cũng đã quay mặt với "kẻ nâng đỡ" mình là ông Phạm Văn Liễu, đã nhận những “ân sủng” của ông Hoàng cơ Ðịnh để giữ được vai trò lãnh đạo Âu châu, Ủy viên Trung Ương đảng với đồng lương yên ấm, câu nói ở “buổi giao thời“ của ông vẫn còn nguyên giá trị.
Ông Hoàng cơ Ðịnh có thể mua bán được ông Trần đức Tường hay ông Nguyễn Kim Hườn …chứ không cách gì có thể mua bán được ông Nguyễn xuân Nghĩa hay ông Nguyễn Trường Lưu.
Cuối năm 1988 Tổng Vụ Hải Ngoại MT QGTNGPVN / Việt Tân xuất hiện một vụ mới, đó là Vụ Kế Hoạch. Người nắm Vụ Kế Hoạch là ông Nguyễn xuân Nghĩa và đương nhiên người bổ nhiệm là ông Nguyễn kim Hườn /Tổng vụ Trưởng. "Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt". Ông Nguyễn Kim Hườn không bao giờ đủ khả năng để điều hành Tổng Vụ nếu không có quân sư là Ðồng Sơn Nguyễn Xuân Nghĩa hao tâm tổn trí. Việc lập ra Vụ Kế Hoạch, anh em Việt Tân trung cấp Âu châu hình dung ngay đến một vụ đảo chánh nội bộ sắp diễn ra, hoặc ông Nguyễn xuân Nghĩa sụp hầm hoặc Ông Hoàng cơ Ðịnh ra chầu rìa! Cuối năm 1988. Hơn ai hết, ông Nghĩa phải biết là ông Minh đã … "sinh thì" ở Lào! Một người có trí năng cao như ông Nghĩa, sẽ không thể chịu bịt mắt bởi ông Hoàng cơ Ðịnh, rằng ông Hoàng cơ Minh “vẫn sống vẫn lãnh đạo”.
Ở vị trí Vụ Kế Hoạch, gần như ngang quyền Vụ Tổ Chức do ông Ðịnh nắm, cho phép ông Nguyễn xuân Nghĩa có quyền đòi vào căn cứ chiến khu để lường định sự việc, dù rằng điều này, ông Hoàng cơ Ðịnh không bao giờ muốn!
Giữa 1989 ông Nghĩa và Trường Lưu, Vụ Tuyên Vận, hai cái đầu giỏi nhất của VT giai đoạn 1985/1989 lặng lẽ rời tổ chức sau chuyến thị sát chiến khu Ubon. Trong chuyến đi có Trần đức Tường, một thiếu tá Quân Y Dù kẹt lại Việt Nam sau 1975 nhưng chỉ phải đi tù cải tạo có vài ba năm rồi ra mở phòng mạch ở vùng Bảy Hiền, một người rất khéo nói và giỏi ngậm hột thị khi cần, để ấm thân trong mọi hoàn cảnh.

Biệt ly 4

1990 /95, Bộ phận chiến khu Ubon đã hoàn toàn tan nát sau ba cuộc xâm nhập vũ trang vào Việt Nam hết sức ngớ ngẩn.
Ðông Tiến 1 năm 1986 thất bại, chết gần chục người và hầu hết là bị bắt tại Pleiku!
Ðông Tiến 2 tháng 8 năm 1987 gần hai trăm đảng viên xâm nhập cùng ông Minh theo kế hoạch của Lê Phú Sơn. Ông Minh tự sát tại đường 9 Nam Lào sau hơn tháng trời bị vây đuổi đòi bắt sống bởi lực lượng quân đội cộng sản Quân khu 9. Tử thương vài chục người, hơn trăm đảng viên sống sót bị bắt cầm tù từ 6 đến 18 năm!
Ðông Tiến 3 (1989) tung gần trăm quân vào biên giới Lào /Thanh hóa bị bắt sạch. Ðợt Ðông Tiến này phải đưọc hiểu là đợt thí quân. Quân đi mơ hồ mục tiêu!!! Phải chăng, đoàn quân này đưọc quyết định phải chết, thay vì để tồn tại trở ra hải ngoại, sợ sẽ làm lộ các bí mật đen tối dối trá của cái gọi là “chiến khu” Việt Tân?!
Tại hải ngoại, vai trò lý thuyết của Việt Tân chủ yếu đặt trên vai vị bác sĩ mổ xẻ nổi tiếng của Chicago: Phó Tổng vụ Trưởng Trần Xuân Ninh với những cái đầu đặc biệt nổi lên từ miệt thấp của quả đất. Nam Dao từ Úc châu và nhóm khôn lỏi ở Paris đứng đầu bởi Lý Quảng / Nguyễn Ngọc Ðức (phù thủy của tổ chức Liên Minh VN Tự Do, nhân lực dắt mũi của “Hội Chuyên Gia”).
Tiến đến 1996, 97, Nguyễn Ngọc Ðức từ một chi bộ Orsay/Paris đã phăng phăng trèo vào Trung Ương đảng VT. Một khuôn mặt mà hầu hết những thành phần trí thức sinh viên của Tổng Hội Sinh Viên Paris đều coi thường ra mặt.

Nguyễn Hoàng Thanh Tâm (cháu của Hoàng cơ Ðịnh)
Tổ chức Việt Tân với sự sát cánh của ông Trần Xuân Ninh, ông Nguyễn Ngọc Ðức và bà Nam Dao, ông Ðỗ Ðăng Liêu (cựu sinh viên Tổng Hội Paris) cố gắng phát triển cật lực trong giới trẻ ở Úc châu, xoay quanh trục nhân lực Nguyễn Hoàng Thanh Tâm (cháu của Hoàng cơ Ðịnh), mong dùng các cơ sở này để vận động ngược lại cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ. Khối u tình này duy trì được đến sau năm 2000 và xảy ra tan tác sau lần va động “chệch hướng hay chuẩn hướng “ 2005/2006. Ðây là giai đoạn đấu tranh nội bộ gay gắt giữa cánh ông Hoàng cơ Ðịnh, Nguyễn Ngọc Ðức với cánh ông Trần xuân Ninh về quan điểm rất mới của VT: “hợp tác, đối thoại để chuyển đổi hòa bình”! Bà Nam Dao cùng gần trăm đoàn viên rời tổ chức theo với bước chân rã rời “không chệch hướng” của ông Trần xuân Ninh.
Việt Tân còn trơ lại vài hàng binh tôm tướng cá với Lý Quảng Nguyễn Ngọc Ðức gần như làm chủ tế.  Ðể mở đường bế tắc, ông Nguyễn Ngọc Ðức và người tình là bà Nguyễn Thanh Vân tận dụng quan hệ với RSF (tức Reporters Without Borders -Tổ Chức Phóng Viên Không Biên Giới) vác đả cẩu bổng sang Thái Miên. Binh đội tại Thái Miên những năm 2006/2007 có lúc lên đến những 5 ông bà Uỷ Viên Trung Ương đảng, thậm chí có lúc cả bốn ông Trung Ương đảng đều xâm nhập vào nam VN cho một phi vụ “rải vài ngàn tờ truyền đơn”! Bốn bị bát ba! Cãi nhau, đổ tội … ì xèo trong toà nhà B34 của cộng sản ở Sài Gòn. Vài tháng sau được thả trắng sau những biên bản khó hiểu!

Tống biệt 5

Truyền thông thế giới với Internet mở ra như một cơn lốc quét, phủ lên bối cảnh sinh hoạt truyền thông ở VN một màu sắc lấp lánh nhiều tích cực.
Phong trào viết Blog tự phát bùng lên ở VN. VT đã nắm bắt rất nhanh tình hình và làm ngay những cuộc liên đới với các anh chị em này. Cả hai bên đều là những con cá đang khát nước.
Anh em nội địạ ráp lại với những ngươì hoạt động dân chủ ở Thái đã hoàn toàn tin tưởng những người cộng tác.
Công sức của RSF trong mục tiêu thiết lập những nhóm truyền thông độc lập đã được đánh tháo sang hết cho một tổ chức có tên là Việt Tân. Các khoá học về nhân quyền, dân sự … đã được an ninh cộng sản Việt Nam (VC) theo dõi và bắt gọn dưới danh nghĩa “hoạt động khủng bố với VT”. Cả Trần Huỳnh Duy Thức cũng sập bẫy. Cả Nguyễn Tiến Trung, cả Lê Công Ðịnh… những đứa con kiệt xuất của đất nước chưa đánh được đòn phép nào vào mặt chế độ cộng sản phi nhân đang đến hồi tàn diệt... đã bị sập hầm! Trong cái họa nẩy ra cái phước. Một nhóm nhỏ trong những thành phần lãnh đạo Việt Tân chung công tác ở Thái Miên đã sáng suốt nhận ra vấn đề bế tắc nằm ở đâu. Cuộc chia tay thứ 5 đã diễn ra và trang Dân Làm Báo đĩnh đạc trưởng thành trong cay đắng, từ những con người đã đặt cược cả cuộc đời mình vào với vận mệnh Việt Tân, sự bẽ bàng nhận ra chân tướng nhau đã làm nảy sinh ra một tập hợp mới, ly khai dứt khoát với cái tên đầy màu sắc tương lai nhưng lại chất chứa nhiều hầm chông bẫy độc (...Canh Tân Cách Mạng Đảng!!!).
Khối kỳ vọng của RSF vào VN cũng từ đây sinh thành hai dòng chảy.

Lià xa 6

từ trái: bác sĩ Nguyễn trọng Việt, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, và Trần Trung Dũng, bí thư Ðảng Bộ Việt Tân Nam California - ảnh cắt từ youtube clip (cuối năm 2011 khi Việt cộng trả tự do và trục xuất nhà văn Trần Khải Thanh Thủy sang Mỹ) by Admin

Vận dụng sự mở cửa của mạng truyền thông Internet. Những người đặc trách phát triển quốc nội của Việt Tân hải ngoại đã liên kết với những nhân lực có tiếng nói mang tinh thần phản kháng ở VN, đặc biệt là ở Hà Nội.
Một nhóm nhân lực được móc nối và hoạt động khá rộng ở Hà Nội nói riêng, miền Bắc Việt Nam nói chung. Bà Trần Khải Thanh Thủy (TKTT) là một nhân lực tiêu biểu. Tính khí ngang tàng của bà đưa bà đến cửa nhà tù và phải vào tận Trại 5, một trại Trung Ương khét tiếng từ thời còn mang tên quần thể nhà giam Ðầm Ðùn Lý Bá Sơ 1954. Giết bà không được, nhốt chẳng ích gì mà thả ra ở VN thì càng to chuyện! Tương kế tựu kế an ninh cộng sản tống xuất bà sang Mỹ (tháng 6/2011), gây thêm thanh thế cho Việt Tân, vốn là một tổ chức chính trị hải ngoại mà an ninh VC biết tỏng tòng tong là hữu danh vô thực. Ðiều bất ngờ là tính cách ương ngạnh dàng trời của bà TKTT đã tạo ra rất nhiều khó xử cho trung ương Việt Tân để hai năm sau đó (12/2013), ngựa Hồ tung vó lên hướng bắc, chim Việt soải cánh về đàng nam. Từ mặt nhau với những nỗi đau cay cào xé gan mật. Sự chia tay này cũng ảnh hưởng đến việc “dứt áo ra đi” của vị bác sĩ được coi là giỏi giang nhất, còn sót lại của trung ương Việt Tân: Nguyễn Trọng Việt.

* * *

Việt Tân sau 30 năm, người tài thi nhau ngã bổ ngửa.
Từ Phạm văn Liễu Trần Minh Công Phạm Ngọc Lũy đến Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Trường Lưu!
Từ Nam Dao/Phan văn Hưng đến Trần Xuân Ninh và rồi đến Ðặng Thanh Chi, Huỳnh ngọc Phước, Nguyễn Trọng Việt … Giờ điểm lại, lôm côm những Nguyễn ngọc Bảo, Nguyễn Ngọc Ðức, Trần đức Tường, Nguyễn Thanh Vân, Nguyễn quốc Quân…với con em gia đình dòng họ Hoàng Cơ, cắm cúi điều hành tổ chức gần giống như một công ty hàng quán thương mại!

* * *

Thế trận Nhân quyền

Cuối năm 1998, khi vừa bị trục xuất về Pháp, trong những lần điện đàm với ông Nguyễn Kim Hườn, tôi có đề cập đến một sự cần thiết về việc hình thành một thế trận nhân quyền ở hải ngoại. Lúc ấy, tổ chức VT, nếu tập trung thực lòng cho công tác nhân quyền, sẽ mang lại nhiều lợi ích cho quê hương đất nước. Tiếc rằng, Ông Kim đã tỏ ý rất coi thường, ông nói “… giờ này, chúng ta sắp thành công, tập trung vào công tác nhân quyền làm gì!”. Giờ đây, 15 năm đã trôi qua, chữ “sắp thành công” của ông không biết phải định nghĩa thế nào, nhưng hành động lấn sân của VT từ sinh hoạt chính trị tràn sang lãnh vực nhân quyền lại phơi bày quá sống sượng trong những tháng vừa qua. Bản chất sức lực của hoạt động đấu tranh nhân quyền là độc lập phi đảng phái. Càng dính líu đến các tổ chức chính trị, đảng phái … hoạt động đấu tranh nhân quyền càng giảm ý nghĩa trước dư luận thế giới tự do.
Ðáng ra, việc các nhân sĩ từ Việt Nam sang điều trần về Nhân quyền ở các quốc hội hay ở trụ sở Liên Hiệp Quốc, dù có là đảng VT giúp sức, cũng nên phải dấu đi cái gốc gác là đảng chính trị Việt Tân chi phối. Ðàng này các ông các bà kéo đến ba bốn ông Trung Ương đảng để chụp hình chung ở Genève!
Cũng vậy, làm điều trần cho các Blogger từ VN sang, nhưng các ông đặt ghế chủ tịch đảng Việt Tân ngồi ngang với một nghị sĩ Mỹ, cả hai đều cùng vắt vẻo kiểu chân số 5 quyền lực, đối diện là tội nghiệp bốn năm ông bà Blogger đến từ Việt Nam, xúm xít ngồi ở một băng ghế chung!
Hơn hai mươi năm lăn lóc trong sinh hoạt đấu tranh từ thượng vàng đến hạ cám, từ lên voi xuống lưng bò, tôi chưa từng bao giờ nhìn thấy cảnh điểu trần như vậy!!! Ðiều trần ấy là điều trần cho ai? Ðiều trần với ai? Ðiều trần vì quyền lợi gì? Quyền lợi “credit” của VT hay quyền lợi của anh chị em truyền thông tự do ở Việt Nam? An ninh VC có ý gì khi để các anh chị em ấy thong dong sang Mỹ với mỗi người vừa tròn một phút đề …làm điều trần! Ðiều trần 1 phút thì điều trần việc gì? Ðó là lời mời của quốc hội Mỹ to đùng hay chỉ là trò chơi chính trị bơm thổi credit cho một bà dân biểu Mễ cùng tổ chức Viêt Tân? Anh em trong nước chấp nhận thật nhiều thử thách để chỉ được nói 1 phút trước rừng ngôn từ của hàng mấy trăm quân bài do hàng trăm nghị sĩ tranh giật lợi quyền? Ai sẽ trả cái giá khắc nghiệt cho họ sau cuộc phiêu lưu vì tấm “paneaux vĩ đại quốc hội Mỹ”? Tại sao an ninh VC ưu ái cho những người Việt Tân tổ chức mời đi, trong khi lại nghiêm khắc truất quyền xuất cảnh của facebooker Anh Chí chỉ vài tuần sau đó, bất chấp lời mời của Bộ Ngoại Giao một quốc gia cực kỳ thân thiện với Việt Nam cộng sản là Thụy Ðiển dành cho Anh Chí?

Liệu có cần phải viện dẫn những cuộc xâm nhập 1986/1987/1989 từ Thái Lào và sau 1991 từ Ðông Âu để dẫn chứng “khả năng siêu việt” của đảng Việt Tân … cùng sự ma mãnh thổi phồng “kẻ thù ảo” là đối phương cộng sản hay không? Với đồng tiền dồi dào của tổ chức ban đầu để lại, việc các ông bà VT chia sẻ cho anh em hoạt động đấu tranh nội địa là việc hết sức tự nhiên, nếu không muốn nói là việc bắt buộc. Chỉ mong rằng các ông bà hãy đặt quyền lợi của tổ chức thành thứ yếu, sau quyền lợi của cuộc đấu tranh chung. Ðược vậy, chẳng ai trách giận các ông bà làm gì. Cuộc đời này, ai là người nắm chặt tay được cả cuộc sống mình? Mở lòng ra sẽ thấy tình người cao rộng và thật sự có ý nghĩa.

Lịch sử! Mục tiêu và trách nhiệm

Một quá trình ba mươi năm. Tháng 12 năm 1983 lễ tuyên thệ đảng Việt Tân cho ông Dương văn Tư cùng mấy chục đảng viên khác đã xác định trách nhiệm của một tổ chức chính trị đối với lịch sử nói chung, đối với những thành viên tuyên thệ nói riêng.
Tổ chức ấy ngày nay vẫn y xì tên gọi và nguyên bản lá cờ hoa mai.
Ðồng tiền đồng bào đóng góp đại đa phần đã thành các quán ăn sầm uất suốt gần 30 năm qua. Sự liên tục ấy không cách gì có thể phủ nhận. Chỉ có những con người vô văn hóa mới cố chối bỏ lịch sử ấy, trong khi vẫn dùng đồng lương có từ lịch sử ấy mà ung dung vung vẩy giữa đời. Vật đổi sao dời, có thể các ông thay đổi phương lược chiến đấu, nhưng việc phủ nhận công lao máu xương của lớp khai phá là hành vi bất nghĩa. Việc không hề đoái hoài đến những kẻ đã vì Việt Tân ban đầu mà phải chết thảm trên đường xâm nhập, phải tù tội từ hàng 6 năm đến 18 năm …là hành vi gì nếu không là hành vi bất nhân bất nghĩa?
Khi chưa đủ can đảm để rạch ròi trách nhiệm, ân nghĩa với anh em mình và với đồng bào hải ngoại, thì việc ồn ã đấu tranh của các ông bà chỉ mang được một nửa phần ý nghĩa mà thôi. Khả năng phán đoán, tư duy chiến lược…không là những món hàng cợt đùa vô trách nhiệm. Trong môi trường đấu tranh nhân quyền, các ông bà đã có những lúc cực lực sỉ vả những người đấu tranh, gọi họ là cộng sản, bủa vây tất cả các bước đi của họ.

Anh em tù chính trị ở nhà tù A20 Phú Yên làm cuộc nổi dậy (cuối tháng 10/1994), tin tức đến tận tay các ông bà nhưng các ông bà lặng thinh. Hàng trăm ngươì tù thét gào ấy, chỉ duy có tổ chức Quê Mẹ của ông Võ Văn Ái lăn xả trên truyền thông quốc tế để bảo vệ họ. Còn các ông bà thì đứng cười, ra chỉ thị tất cả các mạng báo chí của VT (vốn bao trùm hải ngoại lúc ấy 1994/1995) hoàn toàn im lặng!

Thông Cáo báo Chí của Ủy ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam, Geneve 21/8/1994 - tư liệu của Phạm văn Thành
TiVi Tuần San Úc Châu số 444 ngày 28/9/1994 - tư liệu của Phạm văn Thành
Thư của ông Võ Văn Ái gởi cho Thanh Tú (vợ của tù nhân Phạm văn Thành) 28/9/1994 - tư liệu của Phạm văn Thành

Tôi là nhân chứng trực tiếp của sự vụ ấy, nay xin hỏi giữa công luận rằng các ông bà là ai, và liệu sẽ có một cuộc nổi dậy đấu tranh nhân quyền ở VN sẽ bị các ông bà tận lực bưng bít nữa không?

Ðó là lý do vì sao chúng tôi chủ trương thành lập và hỗ trợ các mô hình đấu tranh nhân quyền phi đảng phái, và đặc biệt, phi Việt Tân.

Phạm văn Thành
8 quai de la Marne
77450 Conde St Libiaire
France


- Admin: đây là bản đã chữa lỗi typing (thêm hình ảnh dẫn chứng và các chú thích cần thiết) từ bài cùng Title đã post lên Facebook Phạm Thành June 9, 2014 (ở đây: https://www.facebook.com/notes/768908166474321/)
- Sách PDF (downloadable file) ==> VIỆT TÂN Chiếc Bóng Dài 30 Năm




*: Xin xem chi tiết ở đây

**: Xin xem toàn thể các số báo cũ hải ngoại liên quan vụ nổi dậy A20 Phú Yên cuối tháng 10/1994 ở phần "Hình Ảnh by Phạm văn Thành"


Admin chú thích: trang báo này đã viết sai địa danh Tiên Phước thành ra Thiên Phước. Tiên Phước là một quận thuộc tỉnh Quảng Tín chứ không phải Quảng Đà (danh xưng hành chánh do kết hợp tỉnh Quảng Nam và thị xã Đà Nẵng từ sau 1972, do Đại Tá Lê trí Tín làm thị trưởng cho đến 1975). Sau 1975, Việt cộng đổi danh xưng lại là Quảng Nam, nơi đây có Trại tù cải tạo do VC mới lập sau tháng 4/ 1975 mang tên Trại tù Tiên Lãnh thuộc xã Phước Lãnh là một xã thuộc quận Tiên Phước, tỉnh Quảng Tín thời VNCH. Trại tù Tiên Lãnh do tên Ngô Câu (trung tá Công an Việt cộng) làm trại trưởng, trại nằm cạnh ngã ba sông Tranh, cách Tam Kỳ chừng 50km. Nếu trại tù Kỳ Sơn (thuộc quận Tam Kỳ, tỉnh Quảng Tín, cách mỏ vàng Bông Miêu chừng 3km) chỉ giam cầm sĩ quan quân đội chế độ cũ, thì trại Tiên Lãnh dùng để giam cầm giới Civil: viên chức dân sự VNCH, hành chánh, cảnh sát, đảng phái, văn nghệ sĩ, tu sĩ chống cộng…mãi sau 1980 mới có thêm ít tù hình sự Cộng sản (cán bộ Việt cộng ăn cắp, ăn hối lộ hoặc phạm pháp khác...sau 1975)… Cách xây nhà tù khắc nghiệt tàn độc với cửa sắt, có gạch bao bọc bên ngoài với nhiều lớp rào kẽm gai kiên cố. Cai tù trại Tiên Lãnh đều là cán binh cộng sản từng hoạt động tại vùng này (danh xưng do VC gọi vùng này là Quân khu 5 trước tháng 4/1975). Ðây là cơ hội để bọn cán cộng địa phương trả thù cá nhân các người tù Civil quốc gia.
(1): báo Kháng Chiến có xuất xứ từ tờ bán nguyệt san "Người Việt Tự Do" tại San Jose (thuộc Tổ Chức Người Việt Tự Do ở Nhật. Từ 1 tháng 4-1982, tờ nguyệt san này được cải tổ thành cơ sở ngôn luận chính thức của Mặt Trận với tên mới: "Kháng Chiến". Ông Đỗ Thông Minh làm Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút báo Kháng Chiến đầu tiên, phát hành 10 ngàn số mỗi kỳ, vào thời 1982, con số phát hành ấy là con số kỷ lục. Đến năm 1983, khi rạn nứt nặng ló dạng ở thượng tầng, ông Đỗ Thông Minh về lại Nhật, tờ Kháng Chiến được đảm trách bởi Ký Giả Lê Thiệp một năm rồi giao lại ông Huỳnh Lương Thiện cho đến khi xảy ra cuộc "Tan Tác 2" (tháng 12/1984).

  (2) nhóm vận động: xin đọc thêm chi tiết ở NIÊN BIỂU MẶT TRẬN QUỐC GIA THỐNG NHẤT GIẢI PHÓNG VIỆT NAM - VIỆT NAM CANH TÂN CÁCH MẠNG ĐẢNG by Đỗ Thông Minh, từ đoạn: "Sau 30/4/1975, người Việt ở trong và ngoài nước đã có hàng trăm tổ chức và nhiều người đã tính đến chuyện phục quốc................." cho đến "...lễ Công Bố Cương Lĩnh Chính Trị. Ký giả truyền hình đài TV Mỹ là CBS là Nguyễn Ngọc Ấn cũng bay qua."

  (3): tức Trương Tấn Lạc, người dùng qui chế riêng của Hồng Thập Tự Quốc Tế để ra vào, trực tiếp tuyển mộ nhân lực từ các trại Panatnikhom, Dong Rec và Sikiew để đưa vào khu chiến...)

  (4): xin xem chi tiết ở: ->"Phóng Ảnh báo VNTP (Văn Nghệ Tiền Phong) số 461 (năm 1995) về cái chết của Hoàng Cơ Minh-by Thiên Hà" và ->Mặt Trận kiện Báo Chí: Vụ Xử Án Lớn Nhất Hải Ngoại (5 tháng 12 năm 1994)

  (5): Theo ông Đỗ Thông Minh xác định thì tên Bùi Bằng Đoàn là tên chính xác của ông Lý Thái Hùng, vậy, xin được hiểu Bùi Minh Đoàn trong bài viết này là Bùi Bằng Đoàn, một nhân lực được kết nạp vào Hội Người Việt Tự Do Tại Nhật ở thời kỳ cuối thập niên 1970

Các ảnh chụp tiếp theo đầy đủ "hệ thống Phở HÒA": 

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen