nguyenthituhuyThu
04/23/2015 - 12:09
Trước hết, xin quý độc giả lưu ý rằng tôi không đánh
giá về Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử. Đánh giá về các
nhân vật lịch, về đóng góp và sai lầm của họ, là công việc của các sử gia chân
chính.
Ở đây, tôi chỉ làm một việc duy nhất : khảo sát
các văn bản di chúc của Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó chỉ ra một số điều mà văn bản
cho phép nhìn thấy. Đúng hơn là các văn bản của Hồ Chí Minh cho phép đặt ra một
số nghi vấn mà tôi không có câu trả lời. Tôi cũng không có tham vọng trả lời,
tôi chỉ làm công việc đặt ra các câu hỏi.
Trong bài này, để tiến hành khảo sát các bản di chúc,
tôi sử dụng các bản gốc đánh máy năm 1965 và bản gốc viết tay các năm
1968-1969, của Hồ Chí Minh, được công bố trong cuốn « Toàn văn di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh », NXB Trẻ, 1999.
Bản di chúc đầu tiên được đánh máy và ký ngày
15/5/1965, với sự chứng kiến của Lê Duẩn, lúc bấy giờ là Bí thư thứ nhất Ban chấp
hành trung ương, có chữ ký của Lê Duẩn trong văn bản đánh máy.
Bản di chúc thứ hai, được viết tay, bằng mực xanh,
vào dịp sinh nhật thứ 78, tức là vào tháng 5 năm 1968, với rất nhiều sửa chữa,
gạch xóa bằng mực đỏ, không có chữ ký, không có người chứng kiến.
Bản thứ ba, đề ngày 10/5/1969, chỉ có một trang viết
tay, với nội dung là phần mở đầu của di chúc.
Như vậy, có thể thấy, Hồ Chí Minh viết hoặc sửa di
chúc vào mỗi dịp sinh nhật. Điều này cũng có thể hiểu được : chính là vào
dịp sinh nhật mà người ta nghĩ đến quỹ thời gian còn lại của mình, nhất là đối
với những người cao tuổi. Hồ Chí Minh đã chuẩn bị cho cái chết của mình một
cách đầy ý thức, từ nhiều năm trước khi chết.
Bản gốc di chúc thứ nhất và thứ hai đều có ghi quốc
hiệu : « Việt Nam dân chủ cộng hòa/ Độc lập, Tự do, Hạnh phúc ». Và đều
có ghi chú ở ngay dòng đầu tiên : « Tuyệt đối bí mật ». Đồng thời
việc viết và sửa chữa di chúc nhiều lần, việc sửa chữa, thêm bớt từng chữ một,
cho thấy rằng, đối với Hồ Chí Minh, di chúc là một văn bản hết sức quan trọng,
hết sức có ý nghĩa đối với ông.
Nguyễn Thị Từ Huy
Tôi xin xác định rõ : ở đây tôi không đi vào
phân tích toàn bộ các văn bản di chúc, không phân tích tư tưởng của Hồ Chí
Minh, không đánh giá đúng sai. Có thể tôi sẽ làm việc đó vào một lúc khác nhưng
không phải lúc này.
Nhận xét sơ bộ đầu tiên của tôi có thể tóm gọn trong
mấy câu hỏi sau đây :
1. Vì sao từ bản di chúc thứ hai ông chọn hình thức
viết tay, chứ không đánh máy nữa ? Liệu ta có thể nghĩ đến một trong những
câu trả lời khả dĩ : « để không ai có thể sửa đổi hay đánh tráo được » ?
Ta biết rằng đối với một văn bản đánh máy, trừ trang có chữ ký ra, bất kỳ trang
nào cũng có thể bị thay thế mà… không để lại dấu vết gì. Dù sao đấy cũng chỉ là
một phỏng đoán. Nhưng nếu quả thật Hồ Chí Minh đã có linh cảm và lo ngại rằng
di chúc của ông sẽ bị sửa chữa sau khi ông chết thì linh cảm và lo ngại ấy quả
là chính xác, vì đó chính là điều mà Bộ Chính trị đã làm.
2. Bản di chúc thứ hai, 1968, không có chữ ký, và
không có người chứng kiến. Văn bản được công bố với rất nhiều sửa chữa cho phép
phỏng đoán rằng đó có thể là một bản nháp. Câu hỏi là : từ sinh nhật 1968
đến sinh nhật 1969 ông Hồ Chí Minh hoàn toàn có thời gian để chép lại văn bản
ngắn ấy thành một văn bản hoàn chỉnh, có chữ ký của ông đàng hoàng, như ông đã
làm với văn bản thứ nhất, nhưng tại sao ông không làm điều đó ? Tại sao
ông mất 5 năm để viết một di chúc, thay đổi, sửa chữa rất nhiều, chứng tỏ
nó rất quan trọng đối với ông, mà rốt cuộc ông chỉ để lại một văn bản dang dở
và gạch xóa sửa chữa nhằng nhịt như vậy ? Liệu có phải ông Hồ đã viết lại
sạch sẽ và ký cẩn thận, nhưng văn bản chính thức có chữ ký đó không còn nữa ?
3. Văn bản năm 1969 chỉ có một trang viết tay, nội
dung cho thấy đó là lời mở đầu di chúc, lặp lại một số nội dung đã từng viết ở
phần mở đầu của những di chúc trước. Tuy nhiên trông nó như là bản nháp, vì đầu
trang không đề quốc hiệu, cũng không có dòng chữ «Tuyệt đối bí mật », như
hai bản trước. Chẳng lẽ Hồ Chí Minh chỉ viết phần mở đầu mà không viết
phần nội dung chính ? Điều này thật đáng ngạc nhiên. Bởi Hồ Chí Minh hiểu
rõ tầm quan trọng của di chúc, hiểu rõ rằng di chúc của ông chính là một văn bản
lịch sử. Câu hỏi đặt ra là : Liệu có phải văn bản năm 1969 chỉ có chừng đó
không ? Liệu có phải Hồ Chí Minh đã viết một bản di chúc thứ ba rất
hoàn chỉnh, vào sinh nhật năm 79 tuổi, nhưng chỉ còn lại một trang nháp, và phần
chính của nó đã bị thất lạc, hoặc bị hủy bỏ, hoặc không được công bố ?
Tại sao có những câu hỏi này ?
Lý do như sau : nếu so giữa bản di chúc thứ nhất
và bản thứ hai sẽ thấy có những thay đổi rất quan trọng về nội dung. Điều đó
cho phép giả định rằng Hồ Chí Minh có thể có những thay đổi còn căn bản và quan
trọng hơn nữa trong bản thứ ba. Đồng thời ta cũng biết rằng, bản di chúc được Bộ
Chính trị gọi là của Hồ Chí Minh và được Bộ Chính trị công bố sau khi ông chết
đã bị sửa đổi so với bản gốc, và bị khôi phục lại những gì mà chính Hồ Chí Minh
đã bỏ đi ở trong bản thứ hai. Ngoài ra ngày chết của ông cũng bị Bộ Chính trị tự
ý thay đổi, và di nguyện quan trọng của ông về việc chôn cất đã bị Bộ Chính trị
phản bội : di nguyện về việc hỏa táng và đem tro chia ra ba miền. Bản
« di chúc Hồ Chí Minh » do Bộ Chính trị công bố năm 1969 là một văn bản
bị cắt dán, ghép một số đoạn của cả ba văn bản di chúc gốc, đồng thời bị bỏ đi
những phần quan trọng nhất liên quan đến việc chôn cất, đến việc miễn thuế cho
dân, đến việc chỉnh đốn đảng và những việc cần làm đối với « con người ».
Trên thực tế Hồ Chí Minh đã bị phản bội ngay khi vừa nhắm mắt.
Vì vậy, câu hỏi đặt ra là :
Liệu có thể xảy ra trường hợp : trong bản di
chúc viết năm 1969 Hồ Chí Minh đã có những thay đổi khiến cho người ta không muốn
lưu giữ văn bản ấy ? Liệu có phải bản di chúc cuối cùng, bản di chúc chính
thức của Hồ Chí Minh (viết năm 1969, với chữ ký của ông, và là bản mà ông
muốn đưa ra trước toàn dân) đã bị biến mất, đã bị hủy bỏ, hoặc đã bị cất giấu,
không được công bố ?
4. Bản đánh máy đầu tiên với đầy đủ tất cả những nghi
thức cần thiết cho thấy rằng ông Hồ Chí Minh hiểu rõ thế nào là một bản di
chúc. Vậy tại sao những bản di chúc về sau (được nhà nước công bố) lại ở trong
tình trạng của bản nháp, gạch xóa, tẩy sửa, thiếu những nghi thức cần thiết
đó ?
Và câu hỏi là : bản di chúc nào là bản mà ông Hồ
muốn đưa ra trước toàn dân ?
Dĩ nhiên, đó không phải là bản viết năm 1965, bởi
nó đã bị thay thế bằng các văn bản khác. Từ những gì đã công bố, ít nhất ta biết
rằng ông Hồ đã viết lại hoàn toàn di chúc vào sinh nhật năm 1968. Và trong bản
gốc viết tay, ông nói rõ lý do, mặc dù sau khi cân nhắc ông gạch bỏ câu
này : « Tháng 5/1968, khi tôi xem lại thư này thì tình hình trong nước
cũng như tình hình thế giới có rất nhiều thay đổi ». Những thay đổi đó đã
khiến cho cách nhìn nhận của ông thay đổi, và ông cảm thấy cần phải viết lại
hoàn toàn. Cách đánh số trang của bản viết tay năm 1968 cho thấy rằng đó là một
bản hoàn chỉnh, có logic riêng, có cấu trúc riêng, độc lập với văn bản năm
1965. Đó là một văn bản mới hoàn toàn. Việc quốc hiệu được ông Hồ ghi đầu trang
cũng là một dấu hiệu xác nhận đó là một văn bản mới. Vậy có nghĩa là văn
bản năm 1965 đã bị thay thế bởi văn bản năm 1968. Và phải xem bản viết năm 1965
là không còn hiệu lực ?
Và điều quan trọng, xin nhắc lại : Hồ Chí Minh
muốn công bố trước toàn dân bản di chúc nào ?
Chúng ta thấy rõ rằng ông viết di chúc cho toàn thể
nhân dân. Bản viết năm 1968 cho thấy nhân dân là đối tượng chính mà ông nghĩ đến.
Và việc chôn cất ông, theo như ông dặn lại trong di chúc, là việc của đồng
bào ba miền, chứ không phải là việc của Bộ Chính trị.
Thật đáng ngạc nhiên nếu ông muốn công bố cho toàn
dân mấy văn bản gạch xóa, thêm bớt nhằng nhịt đó. Tiến hành viết di chúc trong
vòng 5 năm hẳn ông phải có một bản hoàn chỉnh, rõ ràng, sạch sẽ, với chữ ký và
người chứng kiến, một văn bản có giá trị pháp lý, như là văn bản đầu
tiên ? Tại sao không có một văn bản như vậy ? Lẽ nào trước khi mất
ông không dặn lại là phải công bố bản di chúc nào ? Phải chăng ông Hồ đã để
lại một bản hoàn chỉnh, đảm bảo các thủ tục pháp lý, nhưng bản đó đã không được
công bố ?
Những câu hỏi trên đây tôi không trả lời được. Tôi đã
đọc rất kỹ cuốn « Bác Hồ viết di chúc » do NXB Sự Thật in năm 1989,
được gọi là Hồi ký của Vũ Kỳ, do Thế Kỷ ghi, tuy nhiên tôi không tìm thấy câu
trả lời khả dĩ nào cho các nghi vấn trên đây.
Hy vọng giới sử học chân chính một ngày nào đó sẽ làm
sáng tỏ.
Trên thực tế chúng ta không biết bản nào là bản di
chúc chính thức, chúng ta không biết Hồ Chí Minh muốn công bố bản nào. Hiện tại
thì bản cuối cùng tương đối đầy đủ mà chúng ta có là bản thứ hai, bản được viết
năm 1968. Và tôi đành phải làm việc trên những gì còn lại và được công bố.
Xin quý độc giả, và nhất là các bạn thanh niên và
sinh viên đang bị nhồi nhét và bị tẩy não bởi phong trào « Học tập tư tưởng
Hồ Chí Minh », hãy đọc kỹ các văn bản gốc của Hồ Chí Minh ở phần phụ lục
dưới đây. Các bạn hãy đọc kỹ những gì đã bị ông ấy bỏ đi trong bản di chúc thứ
hai, và hãy tự phân tích xem vì sao ông ấy không muốn giữ chúng lại, vì sao ông
ấy xóa bỏ đi, và vì sao chúng lại được Bộ Chính trị khôi phục trong bản
« di chúc» mà họ công bố năm 1969 sau khi ông ấy chết.
Có thể các bạn sẽ cảm nhận được sự dối trá đang đè nặng
lên cuộc sống của các bạn như thế nào khi các bạn đối chiếu với những gì mà các
bạn đang được rao giảng, qua tài liệu của Ban Tuyên giáo soạn cho các bạn. Có
thế các bạn sẽ đặt câu hỏi về việc tại sao Đảng, Nhà nước lại chi tiêu tốn kém
như vậy cho cái màn kịch khổng lồ đem diễn trên toàn quốc (nhất là trong các
trường học) từ nhiều năm nay về việc « học tập » này.
Có thể các bạn sẽ xác định được vì sao những người cố
tình phản bội Hồ Chí Minh lại bắt các bạn phải « học tập » ông ấy.
Và có thể các bạn sẽ thấy rằng những thứ họ đang nhồi nhét các bạn lại chính là
những thứ mà bản thân Hồ Chí Minh đã từ bỏ, trước khi chết.
Paris, 23/4/2015
Nguyễn Thị Từ Huy
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Phụ lục I
VIỆT NAM ZÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập, Tự zo, Hạnh fúc
Tuyệt đối bí mật
Nhân
zịp mừng 75 tuổi
Người làm thơ rất nổi tiếng, ở Trung-quốc đời nhà Đường
là cụ Đỗ-Fủ có câu thơ rằng “nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Ngĩa là: Người thọ
70, xưa nay hiếm.
Nǎm nay, tôi đã 75 tuổi. Tinh thần vẫn sáng suốt,
thân thể vẫn mạnh khỏe. Tuy vậy, tôi cũng đã là lớp người “xưa nay hiếm”.
Ai đoán biết tôi sẽ sống và fục vụ Tổ quốc, fục vụ
cách mạng mấy năm mấy tháng nữa?
Vì vậy, tôi để lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài
việc thôi. Fòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn
anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột.
Trước hết nói về ĐẢNG - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một
lòng một zạ fục vụ zai cấp, fục vụ nhân zân, fục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày
thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân zân ta hǎng
hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của
Đảng và của zân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ fải zữ zìn sự
đoàn kết nhất trí của Đảng như zữ zìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành zân chủ rộng rãi, thường xuyên
và ngiêm chỉnh tự fê bình và fê bình là cách tốt nhất để củng cố và
fát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Fải có tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau.
Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
fải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư. Fải zữ zìn Đảng ta thật trong sạch, fải xứng đáng là người lãnh đạo,
là người đầy tớ thật trung thành của nhân zân.
Đoàn viên thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc
đều hằng hái xung fong, không ngại khó khǎn, có chí tiến thủ. Đảng cần fải chǎm
lo záo zục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa
kế xây zựng chủ ngĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Bồi zưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất
quan trọng và rất cần thiết.
Nhân zân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi,
đã bao đời chịu đựng zan khổ, bị chế độ phong kiến và thực zân áp bức bóc lột,
lại kinh qua nhiều nǎm chiến tranh.
Tuy vậy, nhân zân ta rất anh hùng, zũng cảm, hǎng
hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân zân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung
thành với Đảng.
Đảng cần fải có kế hoạch thật tốt để fát
triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân zân.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài mấy năm
nữa. Đồng bào ta có thể fải hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao, chúng ta fải
quyết tâm đánh zặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây zựng hơn mười ngày nay!
Zù khó khǎn zan khổ đến mấy, nhân zân ta nhất định sẽ
hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định fải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất
định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ
có vinh zự lớn là một nước nhỏ mà đã anh zũng đánh thắng 2 đế quốc to - là Fáp
và Mỹ; và đã góp fần xứng đáng vào fong trào zải fóng zân tộc.
Về fong trào cộng sản thế zới - là một người suốt
đời fục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của fong trào cộng sản và
công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện
nay zữa các đảng anh em!
Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp fần đắc
lực vào việc khôi fục lại khối đoàn kết zữa các đảng anh em trên nền tảng chủ
ngĩa Mác - Lênin và chủ ngĩa quốc tế vô sản, có lý có tình.
Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em
nhất định sẽ fải đoàn kết lại.
- - -
Về việc riêng Sau khi tôi đã qua đời, chớ
nên tổ chức đám đình, lãng fí ngày zờ và tiền bạc của nhân zân.
Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là
“hỏa táng”. Tôi mong rằng cách “hỏa táng” zần zần sẽ được fổ biến. Vì như thế đối
với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất. Bao zờ ta có nhiều điện,
thì “điện táng” càng tốt hơn.
Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn. Gần Tam Đảo
và Ba Vì như hình có nhiều đồi tốt. Trên mộ, nên xây 1 cái nhà zản đơn, rộng
rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ ngỉ ngơi.
Nên có kế hoạch trồng cây trên đồi. Ai đến
thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào fải tốt cây ấy. Lâu ngày, cây
nhiều thành rừng, sẽ tốt cho fong cảnh và lợi cho nông nghiệp.
Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất,
thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam.
Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn
zân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng.
Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu
bạn, và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế.
Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn
zân ta đoàn kết fấn đấu, xây zựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập,
zân chủ và zàu mạnh, và góp fần xứng đáng vào sự ngiệp cách mạng thế zới.
Hà nội, ngày 15 tháng 5 nǎm 1965
Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh
Chứng kiến
Bí thư thứ nhất
Ban chấp hành trung ương
Lê Duẩn
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Phụ lục II
VIỆT NAM ZÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập, Tự zo, Hạnh fúc
(Tuyệt đối bí mật)
Năm nay, tôi vừa 78 tuổi, vào lớp những người “trung
thọ”. Tinh thần vẫn sáng suốt tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây. Người
ta đến khi tuổi tác càng cao thì sức khỏe càng thấp. Đó là điều bình thường.
Nhưng không ai đoán biết được tôi sẽ sống và fục vụ Tổ
quốc, fục vụ cách mạng mấy tháng, mấy năm nữa?
Vì vậy tôi viết sẵn và để lại mấy lời này, fòng khi
tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng
bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột.
Về việc riêng
Suốt đời tôi hết lòng hết sức fục vụ Tổ quốc, fục vụ
cách mạng, fục vụ nhân dân. Nay zù phải từ biệt thế zới này, tôi không có điều
gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được fục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn
nữa.
Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu fúng
linh đình, để khỏi lãng fí thì giờ và tiền bạc của nhân zân.
Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là “hỏa
táng”. Tôi mong rằng cách “hỏa táng” sau này sẽ được fổ biến. Vì như thế đối với
người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện,
thì “điện táng” càng tốt hơn.
Tro thì chia làm 3 fần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một
hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam.
Đồng bào mỗi miền nên chọn l quả đồi mà chôn hộp tro
đó. Trên mả, không nên có bia đá tượng đồng, mà nên xây 1 ngôi nhà zản đơn, rộng
rãi, chắc chắn, mát mẻ, để những người đến thăm viếng có chỗ ngỉ ngơi.
Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai
đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng sẽ tốt
cho fong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Việc săn sóc nên zao fó cho các cụ fụ
lão.
Tháng 5-1968, khi xem lại thư này tôi thấy cần fải viết
thêm mấy điểm không đi sâu vào chi tiết.
Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân zân ta
đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn zân ta fải ra sức
làm là mau chóng hàn gắn vết thương ngiêm trọng zo đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc
chiến tranh xâm lược zã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, fức tạp và khó
khăn. Chúng ta fải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động,
thiếu sót và sai lầm. Theo ý tôi, việc cần fải làm trước tiên là chỉnh đốn
lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm
tròn nhiệm vụ Đảng zao fó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân zân. Làm được
như vậy, thì zù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng
lợi.
Đầu tiên là công việc đối với con người.
Đối với những người đã zũng cảm hy sinh một fần xương
máu của mình (cán bộ, binh sĩ, zân quân, du kích, thanh niên xung fong..,), Đảng,
Chính fủ và đồng bào fải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng
thời fải mở những lớp zạy ngề thích hợp với mỗi người để họ có thể zần zần “tự
lực cánh sinh”.
Đối với các liệt sĩ, mỗi địa fương (thành fố, làng
xã) cần xây zựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh zũng của các liệt
sĩ, để đời đời záo zục tinh thần yêu nước cho nhân zân ta.
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ)
mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa fương (nếu ở nông thôn
thì chính quyền xã cùng hợp tác nông ngiệp) fải zúp đỡ họ có công việc làm ăn
thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.
Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang
nhân zân và thanh niên xung fong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ
ra zũng cảm. Đảng và Chính fủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học
thêm các ngành, các ngề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật
zỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong
công cuộc xây zựng thắng lợi chủ ngĩa xã hội ở nước ta.
Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang
ta đã góp fần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính fủ cần
fải có kế hoạch thiết thực để bồi zưỡng, cất nhắc và zúp đỡ để ngày thêm nhiều
fụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân fụ nữ thì fải
cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho
fụ nữ.
Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm
cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v.. thì Nhà nước fải zùng vừa záo zục, vừa fải
zùng fáp luật để cải tạo họ, zúp họ trở nên những người lao động lương thiện.
Trong bao năm kháng chiến chống Fáp, tiếp đến chống đế
quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông zân đã luôn luôn hết sức trung
thành với Đảng và Chính fủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng mọi
khó khăn zan khổ. Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề ngị miễn thuế nông
ngiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông ngiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát zạ, mát
lòng, thêm niềm fấn khởi, đẩy mạnh sản xuất.
Ở đây nói về kế hoạch xây zựng lại thành fố và làng mạc
đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi fục và mở rộng các ngành kinh tế.
Fát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi chế độ záo zục cho hợp với hoàn cảnh
mới của nhân zân, như fát triển các trường nửa ngày học tập, nửa ngày lao động.
Củng cố quốc fòng. Chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc...
Công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và fức tạp,
mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ,
hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để zành lấy thắng lợi trong cuộc
chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn zân, tổ chức và záo zục toàn
zân, zựa vào lực lượng vĩ đại của toàn zân.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Phụ lục III :
10-5-1969
Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân zân ta zù phải kinh
qua zan khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.
Đó là một điều chắc chắn.
Tói có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền
Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ, và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ fụ
lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta.
Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân zân ta thăm và cảm
ơn các nước anh em trong fe xã hội chủ ngĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu
đã tận tình ủng hộ và zúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân zân ta.
Ông Đỗ Fủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở Trung Quốc,
đời nhà Đường, có câu rằng “nhân sinh thất thập cổ lai hy” ngĩa là “người thọ
70, xưa nay hiếm”.
Năm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là hạng người “xưa nay
hiếm” nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khỏe có kém so với vài
năm trước đây. Khi người ta đã ngoại 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khỏe
càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ.
Nhưng ai mà đoán biết tôi còn fục vụ cách mạng, fục vụ
Tổ quốc, fục vụ nhân zân được bao lâu nữa?
Vì vậy tôi để sẵn mấy lời này, fòng khi tôi sẽ đi gặp
cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng
chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen