Triết học Khai sáng Pháp là trào lưu tư tưởng nảy sinh và phát triển trong một bối cảnh lịch sử đặc thù – những biến động mạnh mẽ của xã hội Pháp trong thế kỷ XVIII – đã làm lung lay tận gốc rễ những thiết chế đang thống trị, tạo tiền đề cho cuộc Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 bùng nổ như một tất yếu lịch sử. Những thay đổi mang tính chất nền tảng diễn ra trong suốt thế kỷ XVIII khiến cho toàn bộ hệ giá trị tinh thần cũ – hệ giá trị của thời kỳ phong kiến, của các tầng lớp thống trị (quý tộc và tăng lữ) – trở thành đối tượng phê phán đồng thời, đặt ra nhu cầu xây dựng hệ giá trị mới – hệ giá trị của giai cấp tư sản đang lên. Triết học Khai sáng đã đáp ứng nhu cầu này. Một trong những giá trị mà nó luận chứng, có ý nghĩa cho đến tận thời kỳ hiện đại, là tư tưởng khoan dung.
Thuật ngữ “khoan dung” (tiếng Pháp: tolérance) xuất phát từ tiếng Latinh - tolerare - nghĩa là ủng hộ, tha thứ. F.Mentré viết: “từ ngữ khoan dung được sinh ra từ thế kỷ XVI trong những xung đột tôn giáo giữa người Công giáo và người Tin lành; người Công giáo đã kết thúc xung đột bằng cách khoan thứ cho người Tin lành và ngược lại. Sau đó, sự khoan dung dần dần trở thành đòi hỏi đối với tất cả các tôn giáo và các niềm tin khác nhau”(1). Như vậy, nghĩa nguyên thuỷ của “khoan dung” gắn liền với đời sống tôn giáo. Nói chính xác hơn, nó gắn với giai đoạn đạo Công giáo có những đảo lộn mang tính căn bản. Sau thời kỳ đó, “khoan dung” còn được sử dụng rộng rãi hơn trong quá trình thoát ly ảnh hưởng của tôn giáo và của nhà thờ đạo Công giáo.
“Khoan dung”, theo nghĩa rộng nhất, là “khuynh hướng của tinh thần, hay quy tắc hướng dẫn, cho phép ai đó quyền tự do thể hiện ý kiến của mình, kể cả khi người ta không chia sẻ với ý kiến đó. (…) Đó không phải là từ bỏ niềm tin của mình hoặc tránh biểu lộ, bảo vệ hay truyền bá nó, mà là cấm tất cả những biện pháp bạo hành, lăng nhục hay lừa dối, tóm lại là đề xuất tư tưởng của mình mà không tìm cách áp đặt nó”(2). Theo nghĩa này, “khoan dung” gắn liền với quyền tự do tư tưởng – một trong những quyền được các nhà Khai sáng Pháp bảo vệ mạnh mẽ nhất.
“Khoan dung” được coi như một phẩm chất đạo đức ở nhiều lĩnh vực khác nhau: trong tôn giáo (sự chấp nhận và không can thiệp đối với tín ngưỡng, niềm tin của người khác), trong xã hội (sự chấp nhận và không can thiệp đối với những chính kiến của một nhóm người và rộng hơn là của một quốc gia), trong văn hoá (sự chấp nhận và không can thiệp đối với những lối sống, những phong tục tập quán khác biệt so với chuẩn giá trị của mình), trong tư tưởng (sự chấp nhận và không can thiệp đối với những tư tưởng khác biệt). Vấn đề đặt ra là, như vậy, “khoan dung” có phải là sự thoả hiệp, hay nói cách khác, người ta có phải chấp nhận những khác biệt kể cả khi biết rằng những khác biệt đó là xấu hay không? Đây là câu hỏi mà cho đến nay vẫn còn gây tranh cãi. Chỉ biết rằng, trong thế giới “đầy tràn” những khác biệt và những quan niệm khác nhau về giá trị, “khoan dung” là một chuẩn mực mà nếu tuân theo nó, ta có thể có được hoà bình.
Trong lịch sử tư tưởng, J.Lốccơ được thừa nhận là người đầu tiên luận chứng cho khái niệm “khoan dung” từ góc độ triết học. Khái niệm “khoan dung” của Lốccơ có một nội dung phê phán tôn giáo. Nguyên nhân là do ông không đồng ý với những truy bức tôn giáo đang diễn ra ở nước Anh đương thời. Tư tưởng về “khoan dung” được Lốccơ trình bày trong Bức thư về khoan dung. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, quan điểm khoan dung của J.Lốccơ trong tác phẩm trên “không chứng minh cho sự khoan dung nói chung với tư cách một phẩm chất đạo đức, (…) mà nó có khuynh hướng làm nổi bật tính phi lý của những bức hại tôn giáo”(3). Các nhà Khai sáng Pháp đã tiếp nối J.Lốccơ sử dụng thuật ngữ “khoan dung” và đem lại cho nó những nội dung mới mẻ.
Việc tiếp tục dòng tư duy về khoan dung trước hết bắt nguồn từ sự phản đối của các nhà Khai sáng Pháp đối với nhà thờ – thế lực thần quyền lúc đó – về sự áp đặt niềm tin tôn giáo của nó lên cá nhân trong xã hội. Kết hợp với việc đề cao lý tính phê phán, các nhà tư tưởng nhận thấy rằng, việc áp đặt niềm tin tôn giáo đem lại một hậu quả tai hại: sự thiên kiến. Những quan niệm bất biến cứ lưu truyền từ đời này sang đời khác, hoặc do các chức sắc tôn giáo đưa vào ý thức của con chiên mà họ chăn dắt, hoặc do chính người dân truyền lại cho con cháu mình; những quan niệm ấy trở thành tiên nghiệm, tạo nên một bức tường thiên kiến cản trở ánh sáng của tiến bộ, của sự phát triển tư tưởng. P.Bayle là người đầu tiên trong số những nhà Khai sáng tấn công vào các thiên kiến đó bằng vũ khí hoài nghi của mình. Ông dựa trên “lý tính sáng suốt” để tiến hành phê phán: “Điều mà ông phê phán dữ dội nhất - đó chính là quan điểm theo đó thì mọi phương tiện bảo vệ niềm tin đều là tốt; là quan điểm lẫn lộn niềm tin với ảo tưởng, nhận thức đích thực với thiên kiến, lý tính với dục vọng (…). Cái ác cơ bản cần đấu tranh chống lại, đó không phải là chủ nghĩa vô thần, mà là sự sùng bái ngẫu tượng, không phải là sự vô thần mà là niềm tin giả danh”(4). Tiếp sau Bayle, hầu hết các nhà Khai sáng đều đưa ra những ý kiến của mình phản đối – không phải phản đối niềm tin tôn giáo nói chung, – mà là phản đối những thiên kiến, những niềm tin được tiếp nhận một cách không có ý thức, những tri thức về Chúa được tiếp nhận không có sự suy xét nghiêm túc của lý tính. Ở điểm này, các nhà Khai sáng gặp gỡ tư tưởng của J.Lốccơ trong Bức thư về khoan dung. Đối tượng phê phán của các nhà Khai sáng là toàn bộ những người tiếp nhận niềm tin thiên kiến lẫn những người truyền bá thiên kiến ấy – những giáo chức nhà thờ. Sự phê phán những thiên kiến tôn giáo, phê phán những người truyền bá và những người tiếp nhận không ý thức những thiên kiến ấy, nhưng lại không phải là phê phán trực tiếp niềm tin tôn giáo, đã dẫn đến quan điểm cho rằng, niềm tin tôn giáo phải là công việc riêng của những cá nhân có lý trí tỉnh táo; rằng, niềm tin tôn giáo có cơ sở là tự do ý thức của mỗi người. Đây chính là điểm cốt lõi trong quan niệm khoan dung tôn giáo của triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII.
Tư tưởng khoan dung tôn giáo trong triết học Khai sáng Pháp có nội dung hết sức phong phú. Trước hết, đó là sự chấp nhận đối với những người vô thần và đa thần. Nếu như trong những thế kỷ trước, vô thần là biểu hiện của sự vô đạo đức cực độ (do đạo đức mang tính thần khải, có nguồn gốc từ Chúa trời), và đa thần là biểu hiện của sự man rợ, thì ở thế kỷ XVIII, tình hình đã khác trước rất nhiều. Trong Utopia (1516), chúng ta thấy, T.More đưa ra quan điểm khoan dung tôn giáo, nhưng ở đó ông cũng nói rõ rằng, khoan dung chỉ có nghĩa là được phép có những tín ngưỡng khác nhau chứ không phải là vô thần: “Cho nên ông [Utopos, nhân vật không tưởng sáng lập ra đất nước không tưởng Utopia] để ngỏ vấn đề lựa chọn tín ngưỡng cho mỗi cá nhân tự quyết định theo ý riêng của mình. Nhưng bên cạnh đó, ông nghiêm cấm dân chúng không được tin vào bất kỳ cái gì xa lạ với nhân phẩm, ví dụ như cho rằng linh hồn sẽ mất đi cùng với thể xác hoặc vũ trụ là một bộ máy vô mục đích không có ai điều khiển”(5). Rõ ràng, cái “xa lạ với nhân phẩm” trong quan niệm của More chính là những tư tưởng vô thần. Cho đến đầu thế kỷ XVIII, quan điểm đó của ông đã không còn được công nhận ở Pháp. P.Bayle đã nhấn mạnh: “chủ nghĩa vô thần không nhất thiết dẫn đến sự phá huỷ phong tục”(6). Ông thừa nhận rằng, những người vô thần cũng có thể có một cuộc sống đạo đức, cũng như người Công giáo có thể gây ra những tội ác ghê gớm nhất. Tiếp nối Bayle, hàng loạt quan điểm vô thần đã ra đời. Các nhà tư tưởng Khai sáng không chỉ thừa nhận người vô thần, mà hơn thế, trong số họ cũng có những người vô thần thật sự (La Mettrie, Đ.Điđơrô, Hônbách, v.v.). Xét về phương diện đạo đức, quan điểm khoan dung tôn giáo – chấp nhận người vô thần cũng có thể có đạo đức – trên thực tế đã tách biệt đạo đức ra khỏi ảnh hưởng của tôn giáo: vô thần hay hữu thần đều có thể có đạo đức như nhau, điều đó có nghĩa là tôn giáo không có vai trò quyết định đối với đạo đức của con người. Như vậy, khoan dung là dấu hiệu của khuynh hướng thế tục hoá đạo đức trong triết học thế kỷ XVIII.
Sự thừa nhận những người vô thần cũng có thể có đạo đức là tinh thần khoan dung đặc biệt của trào lưu Khai sáng Pháp so với những thời kỳ tư tưởng trước nó. Tinh thần khoan dung này đã dẫn đến một hệ quả vô cùng quan trọng: nó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của những quan điểm duy vật về thế giới. Những người vô thần không còn bị đe doạ và đã có thể công khai đưa ra quan điểm của mình phủ nhận sự tồn tại của một nguyên nhân siêu nhiên sản sinh ra thế giới và con người; đối với họ, nguyên nhân tối cao của vật chất chỉ là vật chất. Điđơrô viết: “Không thể giả định rằng có một thực thể nào đó đứng bên ngoài vũ trụ vật chất. Không bao giờ được giả định như vậy, bởi vì từ trong những giả định ấy không thể rút ra được một kết luận nào cả”(7). Chủ nghĩa duy vật thời kỳ Khai sáng Pháp là một bước tiến lớn trong lịch sử tư tưởng duy vật chủ nghĩa. Có thể thấy, sự phát triển của những quan điểm duy vật chủ nghĩa trong thời kỳ này có sự đóng góp tuy gián tiếp, nhưng không thể không nhắc đến của những luận chứng cho tinh thần khoan dung.
Nội dung quan trọng thứ hai của tư tưởng khoan dung tôn giáo trong triết học Khai sáng Pháp là tư tưởng về tôn giáo tự nhiên. Thuật ngữ “tôn giáo tự nhiên” được coi là thuật ngữ đặc trưng của thế kỷ XVIII ở Pháp, dùng để chỉ “tập hợp những niềm tin vào sự tồn tại của cái thiện của Chúa, vào giá trị tinh thần của hoạt động đạo đức, được coi như là sự thần khải của tri thức và của “ánh sáng bên trong” soi sáng tất cả mọi người”(8). Tư tưởng về tôn giáo tự nhiên là kết quả của rất nhiều suy tư của các nhà Khai sáng Pháp: quan điểm về bản chất tự nhiên của con người, sự phản đối Nhà thờ áp đặt và truyền bá thứ niềm tin không phê phán, sự không phủ nhận đối với niềm tin tôn giáo nói chung. Quan điểm tôn giáo tự nhiên thể hiện rõ nhất trong tư tưởng của J.Rútxô qua tác phẩm Emile hay Bàn về giáo dục. Khi Emile đã đến tuổi có lý trí, tác giả để cho Emile lựa chọn một thứ tôn giáo tự nhiên. Tôn giáo tự nhiên này dựa trên nhận thức về Thượng đế – người sáng tạo: “Tôi gọi là Thượng đế, người có ý chí và khả năng muốn làm gì được nấy, tự mình hoạt động, chuyển động vũ trụ và xây dựng hệ thống vạn vật. Tôi cảm thấy một Thượng đế bên trong toàn bộ sự nghiệp người hoàn thành. Tôi cảm thấy Thượng đế trong bản thân tôi, chung quanh tôi”(9). Ngoài quan niệm về Thượng đế và niềm tin vào Thượng đế, tôn giáo tự nhiên của J.Rútxô không còn giữ lại một chút gì vốn cấu thành một tôn giáo thần khải (như Công giáo) – những thành phần như nhà thờ, giáo luật, lễ nghi, v.v.. J.Rútxô chủ trương, trong tôn giáo tự nhiên, con người tiếp xúc trực tiếp với Đấng Tối cao thông qua niềm tin. Qua đó, ông loại bỏ vai trò của Nhà thờ và các thế lực thần quyền áp chế con người trong đời sống thực. Tiếp theo xu hướng tách đạo đức ra khỏi tôn giáo của các nhà Khai sáng Pháp, với quan điểm tôn giáo tự nhiên của mình, J.Rútxô đã cá nhân hoá hoạt động tôn giáo. Tôn giáo lúc này chỉ còn là hoạt động mang tính riêng tư của cá nhân. Qua đây, ta thấy rõ sự luận chứng gián tiếp cho quyền tự trị cá nhân trong hoàn cảnh xã hội mới – một trong những quyền quan trọng nhất cả về mặt đạo đức lẫn pháp lý trong xã hội tư bản.
Ngoài sự phản kháng đối với việc áp đặt niềm tin từ nhà thờ, tư tưởng khoan dung Khai sáng còn có một lý do nữa để nảy nở mạnh mẽ: ý thức về tự do và cuộc đấu tranh sôi nổi đòi quyền tự do cá nhân. Một trong những quyền tự do cơ bản được các nhà Khai sáng bảo vệ là quyền tự do tư tưởng – tự do truyền bá tư tưởng. Xem xét định nghĩa về khoan dung được đề cập ở trên, ta nhận thấy quyền tự do truyền bá tư tưởng có một mối quan hệ rất chặt chẽ với sự khoan dung. Khi chấp nhận người khác có thể có những quan điểm khác biệt, thì điều đó bao gồm việc không được phép có những biện pháp bạo hành đối với việc người ta thể hiện những quan điểm ấy. Và ngược lại, ta cũng có quyền thể hiện quan điểm riêng của ta. Chấp nhận tự do tư tưởng là một khía cạnh nền tảng của khoan dung, điều này còn có ý nghĩa đến tận thời kỳ hiện đại.
Tư tưởng khoan dung trong triết học Khai sáng Pháp còn có một khía cạnh khác đáng chú ý: khoan dung về văn hoá. Quan điểm này phát triển từ một nguyên nhân thực tế: những phát kiến địa lý và văn hoá ngoài châu Âu. Thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa ở châu Âu là thời kỳ bùng nổ của những phát kiến này. Từ những năm đầu thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XVII, hàng loạt phát hiện về các vùng đất mới, các nền văn hoá mới đã làm đảo lộn quan niệm của người châu Âu về thế giới. Niềm say mê đối với lý tính không thiên kiến của các nhà tư tưởng luôn được bồi dưỡng và củng cố bằng những phát hiện ấy – với mỗi phát hiện mới, tri thức lại phải được bổ sung và thay đổi, có nghĩa là không thể chấp nhận một thứ thiên kiến cản trở quá trình phát triển tri thức của con người. Đến thế kỷ XVIII, tức là sau thời kỳ của những phát kiến địa lý lớn, người ta vẫn gặp các tác phẩm mang hơi hướng của những cuộc du lịch đến những miền đất xa xôi: Thư Ba Tư của S.Môngtecxkiơ, chuyến phiêu lưu kỳ lạ vòng quanh thế giới của Chàng Ngây thơ trong Candide của Ph.Vônte hay người lữ hành trong Bổ sung cho cuộc du lịch của Bougainville của Đ.Điđơrô. Xuất phát từ ảnh hưởng của những phát kiến mới, S.Môngtecxkiơ đã nêu ra quan niệm về tầm quan trọng quyết định của môi trường địa lý đối với các xã hội. Tuy quan điểm này của ông đã bị phê phán rất nhiều, song nó cũng gián tiếp, cùng với ấn tượng về những tri thức mới từ các miền đất lạ, tạo nên một quan điểm đặc sắc của các nhà Khai sáng Pháp về khoan dung văn hoá.
Các nhà Khai sáng Pháp cho rằng, có một tính tương đối trong các phong tục tập quán từ nơi này sang nơi khác. Sự khác biệt giữa những con người về các điều kiện sinh hoạt vật chất: thức ăn, đồ mặc, nơi ở, v.v. chỉ là những khác biệt bề ngoài, không phải là cái đáng chê trách hay cần loại bỏ. Thậm chí cả những quan niệm khác biệt về tư tưởng và niềm tin (những tư tưởng về tổ chức xã hội, về chính trị, về tôn giáo, v.v.) giữa họ cũng không phải là lý do cho bất cứ một sự xung đột nào. Luận cứ mà các nhà Khai sáng đưa ra để bảo vệ luận điểm ấy rất đơn giản: bởi vì con người có tính đồng nhất, toàn bộ loài người là anh em. Con người đều có nguồn gốc tự nhiên và có bản tính tự nhiên, sự khác biệt là do các điều kiện bên ngoài. Năm 1763, trong Luận về sự khoan dung, Ph.Vônte đã viết: “Chúa không hề cho chúng tôi một trái tim để ghét bỏ nhau và những cánh tay để chém giết nhau; những khác biệt nho nhỏ giữa cách ăn mặc, ngôn ngữ, phong tục, luật lệ, ý kiến của chúng tôi, tất cả chỉ là những sắc thái nhỏ bé phân biệt giữa những con người với nhau, Chúa không làm chúng trở thành những dấu hiệu để chúng tôi ghét bỏ nhau. (…) Ước gì tất cả mọi người nhớ ra rằng họ đều là anh em!”(10).
Tất nhiên, từ các sự kiện lịch sử mà xét, có thể thấy tư tưởng của các nhà Khai sáng về khoan dung tôn giáo đã không được áp dụng vào thực tế trong thế kỷ sau đó. Hơn nữa, quan điểm khai sáng, lý tưởng khai sáng của họ còn bị lợi dụng để bào chữa cho chủ nghĩa thực dân, cho sự xâm lược của những nước tư bản đối với những nước nghèo ngoài châu Âu. Khi đó, quyền được tồn tại dù có những khác biệt của các dân tộc ngoài châu Âu đã không hề được quan tâm. Mặc dù vậy, nếu chỉ xem xét trên lĩnh vực tư tưởng, thì có thể nhận định rằng, tư tưởng khoan dung về văn hoá của các nhà Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII là một đóng góp lớn đối với quan điểm khoan dung nói riêng và với lịch sử tư tưởng nói chung.
Tư tưởng khoan dung trong triết học Khai sáng Pháp đã bao chứa phần lớn những nội dung quan trọng của quan điểm khoan dung được áp dụng trong thời đại toàn cầu hoá, thời đại mà con người ngày càng nhận thấy – rõ rệt hơn nhiều so với thời kỳ Khai sáng ở thế kỷ XVIII – rằng, thế giới là một tổng hợp những sự khác biệt về văn hoá, về niềm tin, về tư tưởng, v.v.. Giữa những khác biệt ấy, vấn đề đặt ra là, con người, một mặt, phải giữ vững bản sắc, “cái khác biệt” của mình; mặt khác, phải biết tôn trọng “cái khác biệt” của người khác. Giải quyết vấn đề này bằng khoan dung, đó là cách mà thế giới ngày nay đã chọn lựa. Tuyên ngôn về các nguyên lý của khoan dung do UNESCO đưa ra năm 1995 đã viết: “Khoan dung là tôn trọng, chấp nhận và hiểu rõ sự khác biệt phong phú về văn hoá, về hình thức diễn đạt quan điểm và cách thức làm người trong thế giới chúng ta. Nó được thúc đẩy bởi sự hiểu biết, sự cởi mở, sự giao tiếp và quyền tự do tư tưởng, ý thức và niềm tin. Khoan dung là sự hài hoà trong khác biệt. Nó không chỉ là một nghĩa vụ đạo đức, nó còn là một đòi hỏi chính trị và pháp lý. Khoan dung, một đức tính khiến cho hoà bình có thể trở thành hiện thực, đã đóng góp vào sự thay thế nền văn hoá chiến tranh bằng nền văn hoá hoà bình”(11). Dễ dàng nhận thấy ảnh hưởng của các quan điểm Khai sáng Pháp trong những luận điểm trên của UNESCO. Như vậy, quan điểm Khai sáng về “khoan dung” không chỉ có ý nghĩa trong thời đại của nó, mà còn có một sức sống bền bỉ cho đến tận thời đại ngày nay.
(1) A.Lalande. Vocabulaire technique et critique de la philosophie. Ed. PUF, Paris, 1947, p. 1110.
(2) A.Lalande. Ibid., p.1110.
(3) M.Canto-Sperber. Dictionnaire d’éthique et de philosophie morale. Ed. PUF, Paris, 2005, p.1631.
(4) Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn Anh Tuấn. Đại cương lịch sử triết học phương Tây. Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 2006, tr.503.
(5) T.More. Utopia địa đàng trần gian. Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2006, tr. 176.
(6) P.Bayle. Pensées diverses. http://fr.wikiquote.org/wiki/Pierre_Bayle
(7) Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Triết học thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa - triết học Khai sáng từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962, tr.130.
(8) A.Lalande. Vocabulaire technique et critique de la philosophie. Ed. PUF, Paris, 1947, p. 896.
(9) Nguyễn Mạnh Tường. Lý luận giáo dục châu Âu: từ Erasme tới Rousseau. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, tr. 487.
(10) Voltaire. Traité sur la tolérance. http://www.voltaire-integral.com/Html/25/01-Tolerance.html.
(11) UNESCO. Declaration of Principles on Tolerance. http://www.unesco.org/cpp/uk/declarations/tolerance.pdf
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen